Cây nhà lá vườn 1
CÂY NHÀ LÁ VƯỜN
CÂY THUỐC VÀ VỊ THUỐC
1995-2014
Lời nhà xuất bản
Võ Quang Yến, tiến sĩ Khoa học
ngành Hóa hữu cơ Đại học Sorbonne, tham gia giảng dạy tại trường Quốc gia
Cao đẳng Hóa học Paris ENSCP và là giám đốc nghiên cứu tại Trung tâm
Quốc gia Khảo cứu Khoa học Pháp CNRS.
Là một nhà khoa học sinh ra và lớn lên tại Thừa Thiên Huế, ông gắn
mình vào nơi chôn nhau cắt rốn không chỉ qua những tâm tư sâu lắng:
Đêm qua đốt đỉnh hương trầm
Khói lên nghi ngút âm thầm lòng ai
Mà còn minh chứng bằng những việc làm cụ thể: Hội trưởng Hội Người
yêu Huế (1984 - 1990), cùng nhiều sáng tác da diết hồn quê: Tượng đài sông
Hương, Gửi thương về Huế, Sông Hương ngoài biên giới và đặc biệt là công
trình nghiên cứu "Cây nhà lá vườn" của ông.
Chỉ riêng tựa đề tập sách "Cây nhà lá
vườn", một tác phẩm chuyển tải nội dung khoa học thuộc dạng
"Cây thuốc Việt Nam" này đã thấy một Võ Quang Yến thiết tha,
nặng nợ với quê nhà đến dường nào!
Với hơn 50 loại cây lá mộc mạc, quê kiểng có thể tìm thấy quanh
vườn nhà, giúp bạn phát hiện ra vô vàn những vị thuốc trị bệnh quý giá. Tác giả
kết hợp một cách nhuần nhuyễn kiến thức giữa Đông và Tây y, giữa Cổ
truyền và Hiện đại nên công trình càng có tính thuyết phục, uyên bác.
Trong tiểu mục "Rau thập toàn", tác giả đã chứng
minh công dụng trị bệnh của mười loại rau xanh: cải cúc, dâu tằm, rau lang, lá
lốt, lá sưng, mồng tơi, rau má, rau ngót, rau sam, vông nem, và chúng ta
lại được thưởng thức một bát canh rau đậm đà ý nghĩa "nhân
văn":
Thà rằng ăn bát canh rau
Còn hơn thịt cá nói nhau nặng lời
(Ca dao)
Càng đọc, càng đi sâu tìm hiểu từng loại cây lá trong
tập sách này ta càng phát hiện thêm nhiều điều bổ ích, nhiều hương
vị độc đáo...
Tập sách còn như một lời tâm tình, nhắn gửi của người con xa quê
Võ Quang Yến!.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
NHÀ XUẤT BẢN ĐÀ NẴNG
Vài lời giải thích
Năm 1986, về thăm quê hương
lần thứ nhất sau 37 năm xa cách, nhận thấy nền khoa học đất nước cần phải phát
triển và phát triển mạnh mới mong rút kịp các nước láng giềng đang hùng hổ trở
thành những rồng con, tôi cảm thấy mình lâu năm đi học ở nước ngoài, không thể
dửng dưng đứng nhìn như người ngoài cuộc. Hôm chia tay, bà Nguyễn Đình Chi, một
nhân vật ở Huế, nắm chặt tay tôi, dặn đi dặn lại: Huế tội nghiệp lắm, phải làm
một cái chi cho Huế nhé! Làm sao quên được mấy lời tâm huyết đó. Nhưng suốt
đời đi làm khảo cứu khoa học thuần túy, trừ chuyện dạy học, tôi có biết làm gì
ngoài phòng thí nghiệm! Hồi ấy ở Huế cũng như ở Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng,
Nha Trang, đi đâu cũng nghe nói đến rong câu chỉ vàng, chiết xuất agar. Không
phải là một kỹ nghệ hoàn toàn hóa học là nghề làm ăn của tôi, có lẽ đây là một
lối ra có khả năng giúp Huế. Về lại Pháp, tôi chạy vạy kiếm và tìm ra được một
phòng thí nghiệm chuyên về rong rau. Hơn nữa, nhà khảo cứu đã học hỏi về rong
câu chỉ vàng lại đang mở ra một công ty chiết xuất agar. Nghĩ là dịp hiếm có,
gặp đúng lúc, một cơ hội cần phải nắm lấy, tôi điều đình để anh giam dôc đồng ý
về Việt Nam với tôi xem xét tại chỗ. Sau nhiều lần tiếp xúc với Huế, Hà Nội,
Hải Phòng, Thanh Hóa, công ty của anh ta ở Pháp và các viện đại học, các xí
nghiệp nuôi trồng rong câu, chế biến agar ở trong nước thấy có khả năng đi đến
một cuộc hợp tác có lợi cho đôi bên. Sau chuyến qua Pháp thực tập của những
giáo viên Huế, tôi mừng thầm thấy đồ án có hy vọng thành công. Nhưng đáng buồn
thay, chuyện không thành, có lẽ thời cơ chưa đến, mục tiêu không rõ, hay nơi
làm không chọn đúng.
Năm năm sau, viện Biển ở Nha Trang đưa ra đề tài lấy máu sam làm
thuốc thử nội độc tố. Cũng chẳng phải là một đề tài hóa học, tôi lại chạy kiếm
và may mắn như lần trước tìm ra được một công ty ở Pháp chịu đưa hai anh tổng
giám đốc và giám đốc kỹ thuật về Nha Trang với tôi xem xét điều kiện khả thi.
Về nhân lực, phòng thí nghiệm ở viện Biển thấy có đủ khả năng thi hành công
tác. Bây giờ công ty Pháp chỉ còn đem về máy móc và kỹ thuật là có thể dựng lên
đơn vị chiết rút máu sam. Điều kiện còn lại cần thiết là một phòng thí nghiệm
vô trùng, xây dựng có phần tốn kém. Chúng tôi liền ra Hà Nội tiếp xúc viện Khoa
học, được viện ưng thuận ủng hộ xây phòng và luôn tiện đỡ đầu dự án. Mọi việc
trong bước đầu rất khả quan và khi lên máy bay trở về lại Pháp, hai nhà kỹ nghệ
lạc quan hứa hẹn tiếp tục. Thế nhưng sau nhiều tháng thư từ qua lại, có những
trở ngại gì đây, họ cho tôi biết khó lòng làm việc ở Việt Nam. Vẫn biết thuốc
thử nội độc tố là một chất thuốc chiến lược, hiện nay còn nằm trọn vẹn trong
tay Hoa Kỳ, nước ta hồi ấy lại đang còn bị cấm vận, khó khăn có thể từ đấy mà
ra. Đằng khác, như với dự án rong câu chỉ vàng, một công ty cỡ nhỏ hay vừa
không có quyền thất bại, nghĩa là họ chỉ dám bắt tay vào khi chắc chắn thành
công. Tôi rất tiếc ta không nắm ngay cơ hội, nhất là tôi chỉ tìm ra được một
công ty độc nhất ấy chịu nhận ý nghĩ chuyện làm thuốc ở Việt Nam. Đứng làm
trung gian trong một chuyện xây dựng kỹ nghệ ở nước ta thấy ra không dễ!
Tôi đã từng đắn đo: mình không phải là nhà kinh doanh, nếu từ
Pháp đưa được kỹ nghệ gia về Việt Nam xây dựng công ty, nhà máy trên những
nguyên liệu có sẵn trong nước là việc làm đúng với tình hình đất nước và nằm
trong vòng khả năng của mình. Về dạy học cũng là việc có thể làm trong khuôn
khổ đóng góp chất xám, nhưng trong nước đâu có thiếu giáo sư: người ta thường
bảo Việt Nam là một trong những nước đang phát triển có nhiều bằng cấp đại học
nhất. Mặc dầu hai thí nghiệm kỹ nghệ không đưa đến kết quả hoàn toàn mong muốn,
tôi không nản lòng nhưng cũng không dám tiến thêm một bước, nhất là không tìm
ra được đề tài trong lãnh vực của mình. Về nước thấy Đông y đang chuyển mình
nhưng trong dân gian còn đang dùng nhiều cây lá đem sắc uống như ông cha ta đã
từng làm từ xưa. Khi sắc thuốc tức là chiết xuất mọi hoạt chất trong cây lá,
chất thuốc có mà chất độc cũng nhiều. Trong Tây dược trái lại, mỗi một cây
thuốc được đem phân tích tìm cho ra hoạt chất có tính chất dược liệu, khảo cứu
về mặt sinh học trước khi đem thử trên sinh vật, con người, sau đó mới tính
chuyện cho ra thành thuốc. Nhiều nhà khảo cứu bên nhà đã ý thức vấn đề nầy và
tôi nhận lời đi tìm tài liệu cây thuốc cho họ. Âu cũng là một cách đóng góp
chất xám nằm trong tầm tay của mình.
Công việc tôi muốn giúp tương đối không khó cho một người đã
từng làm khảo cứu ở Pháp. Tôi biết ở thư viện nào có sách báo hóa học, có thì
giờ ngồi tìm đọc, có khả năng hiểu những bài báo, có chí tiêu hóa những tài
liệu lượm lặt được để đúc kết thành những bài mà tôi gọi là tổng luận,
loại review hay mise au point quốc tế, miễn
là có thiện chí muốn làm. Lúc đầu, tôi chỉ sao chụp những bài báo và gởi cho
những nhà khảo cứu nhưng nhiều lần về nước thấy những bài báo được sắp trong
các ngăn kéo, không mấy ai đọc được, nên y nghĩ đến với tôi là chịu khó viết và
cho đăng những bài tổng luận ấy lên báo cho mọi người được hưởng. Tuy phải chịu
khó và bỏ công vào, vượt qua những chướng ngại danh từ, thuật ngữ, đặc biệt cho
một kẻ sống tha hương hơn một nửa thế kỷ, vận dụng hàng ngày toàn ngoại ngữ,
viết bài khoa học bằng tiếng Việt đối với tôi không phải là một chuyện khó. Tôi
nhớ lại từ những năm 60 đã từng viết những bài khoa học phổ thông đăng trong
các báo Bách Khoa, Phổ Thông bên nhà: các bạn tôi khen tôi đã có công thầm kín
kích thích tinh thần khoa học trong số các bạn đọc trẻ, một bước đầu có khả
năng ảnh hưởng lên nền giáo dục nếu được áp dụng đại trà. Bây giờ đây, hướng về
những khảo cứu viên, bài tổng luận cần phải được bàn bạc sâu rộng hơn với đầy
đủ tài liệu, nghĩa là với một tinh thần khác các bài phổ thông.
Cái khó sau khi viết bài là tìm cho ra tờ báo chịu đăng. Bên nhà
hiện có nhiều báo phổ thông khoa học, giá trị không đồng đều, nhưng đều không
đáp ứng nhu cầu của tôi. May về Huế, tôi gặp anh Lê Phước Thúy, nay đã mất, hồi
ấy làm Tổng biên tập tờ Thông tin Khoa học và Công nghệ của sở
Khoa học Công nghệ Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế. Anh Thúy khuyến khích tôi
viết và hứa đăng toàn vẹn, không sửa đổi, không cắt xén, dù bản tài liệu tham
khảo dài dòng vì, theo anh, cái quý là số tài liệu. Trong tinh thần ấy, tôi đã
dẫn không những tên tác giả, tên báo, số báo, trang báo mà còn cả tựa đề bài
báo để độc giả có ngay một ý niệm. Tôi đã dựa nhiều lên tập Chemicals
Abstracts qua các bản báo cáo hóa học, sinh vật học, các văn bằng sáng
chế để kiếm những tài liệu ấy. Thắc mắc của tôi là nếu đi thẳng vào khoa học,
kê khai thành phần cấu tạo cây lá rồi bước qua tính chất dược liệu, ứng dụng
thuốc men sợ được xem như là một danh mục, một loại catalogue, thì
ai mà chịu mó tới. Tìm kiếm mãi đoạn vào đầu, tôi đạt đến những chuyện cổ tích,
lịch sử mà tôi tin là hấp dẫn, sử dụng như ly nước giúp nuốt viên thuốc cứng,
đồng thời góp phần vào ngành dân tộc thảo mộc học. Nếu có những bạn đọc không
quen khoa học, chỉ muốn có một ý niệm sơ sài về cây thuốc và vị thuốc, tôi mời
đọc đoạn đầu, đoạn cuối và lướt qua đoạn giữa mới xem thấy như khô khan. Nhưng
tưởng các bạn cũng nên cần thêm vào một chút cố gắng như khi bạn có trước mắt
một bài viết về triết lý, thiên văn hay ngôn ngữ, kinh tế với những danh từ ít
thấy trong đời sống hằng ngày, có vẻ rắc rối, hoang dã không kém gì những tên
hóa chất.
Lúc ban đầu tôi hy vọng viết và cho đăng được mươi bài, dần dần
con số vượt quá sức mong đợi: 20, rồi 30, nay lên quá 40! Có những bạn, nhất
là ở nước ngoài, than phiền tờ Thông tin Khoa học và Công nghệ, nay
đổi thành Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, không phổ biến rộng rãi
nên ngoài những bản sao tôi gởi tặng, họ không biết tìm đọc ở đâu. Vì vậy ý
nghĩ gom góp các bài cho in thành sách gieo mầm trong trí óc tôi và nay có
cuốn Cây nhà lá vườn nầy. Hè vừa qua, nhân gặp ban Biên tập
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, tôi được biết phần tài liệu được
cho là dài. Vì vậy trong cuốn sách nầy, tôi đã rút ngắn số tài liệu lại, thường
chỉ giới hạn trong phần ứng dụng, đồng thời bổ túc thêm tài liệu mới. Những
sách tham khảo quen thuộc, tôi cũng rút ra khỏi phần tài liệu mỗi bài mà xếp
lại trong một mục. Tuy nước ta sử dụng tiếng Việt khoa học từ lâu, thấy như
danh từ và danh pháp chưa được hoàn toàn thống nhất, nhất là với những bài viết
gởi từ nước ngoài về. Thêm nữa, một số danh từ đã được thông dụng nhưng tưởng
như cần phải được xét lại. Trong lúc chờ đợi kết quả của một Viện Hàn Lâm gồm
có các nhà văn học, ngôn ngữ học cũng như khoa học đủ các ngành, tôi tạm dựa
lên danh từ và danh pháp quốc tế. Tên cây thuốc lắm lúc cũng cần được xác định.
Tôi tin tưởng ở công tác của viện Khoa học nước ta.
Trong cuốn tái bản này, mục lục được sắp đặt lại thành 5 tập vị
thuốc đại khái tùy theo xuất phát từ cây hoa, cây trái, cây lá, cây gỗ hay
trong bài có dính dáng đến động vật.
Vài
sách tham khảo đại cương:
- ACCT: Agence de Coopération Culturelle et Technique, Les
plantes médicinales au Vietnam, Paris 1991-1993
- BKT: Bùi Kim Tùng, Món ăn bài thuốc, Sở Khoa học và Môi
trường tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 1995-1997
- ĐTL: Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam,
nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội 1986
- HTKC: Hoàng Thị Kim Cúc, Nghệ thuật nấu ăn món ăn Huế, nxb Đà
Nẵng tái bản 1996
- LTĐ: Lê Trần Đức, Cây thuốc Việt Nam, nxb Nông Nghiệp, Hà Nội
1997
- LQL, TNĐ: Lê Quý Lưu, Trần Như Đức, Thuốc trị bệnh từ cây cỏ
hoang dại, nxb Thuận Hóa 1995
- PHH: Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ Việt Nam, Mekong Printing, Santa
Ana, 1991
- TH: Trần Hợp, Cây cảnh, hoa Việt Nam, nxb Nông Nghiệp, Hà
Nội, Tp Hồ Chí Minh 1993
- VDL, Viện dược liệu: Cây thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội 1990
- VVC: Võ Văn Chi, Những cây thuốc thông thường, nxb Đồng Tháp
1998.

Tập 1: Cây hoa
1- Chè nhãn lòng bọc hột sen
Thương chồng nấu cháo le le,
Nấu
canh bông ly nấu chè hột sen.
Ca dao
Trong sách sử Phật giáo, đức Phật từ cõi trần
Đâu suất Tusitachọn lựa thời buổi để giáng sinh một lần chót, hoàn toàn tự giác
khi đầu thai vào lòng mẹ Ma ha Ma da Mahamaya, rồi ra đời dưới vòm cây vô ưu
trong vườn Lâm tỳ ni Lubini, được bốn thiên thần thận
trọng nâng đón trong lúc chín con rồng trên trời rưới nước mát xuống tắm cả mẹ
lẫn con. Xong, tự một mình, Ngài đứng thẳng dậy, bước đi bảy bước về hướng bắc,
lần lượt nhìn bốn phương trời rồi dõng dạc lên tiếng: "Ta là đỉnh cao
toàn cầu, đàn anh của thế giới, người tốt nhất nhân loại. Ta hạ trần lần cuối,
sẽ không trở lại một lần khác nữa .... Ở trên trời và dưới đất, ta là vị đại đức
độc nhất, ta muốn cứu những sinh mạng ra khỏi vòng sinh, già, bệnh, tử ..... " (1) Có
sách viết là Ngài không phải nhìn bốn phương trời mà bước bảy bước ở mỗi hướng,
dưới chân mỗi bước hiện ra một đóa hoa sen (2). Hoa
sen đã gặp trong tiền thân đức Phật, sau nầy còn trở lại nhiều lần.
Liên hoa trong trắng
Theo truyền thuyết Tây Tạng, trong thời tiền thân, đức Phật là
con một con hươu cái nhân uống nước suối có tinh dịch của Ca Diếp Kasyapa mà
thụ thai. Khôi ngô, tuấn tú, vì có một cái sừng nhỏ, Ngài được gọi là Kỳ Lân.
Vào thời ấy, vua Kashya trị vì ở thành phố Kashi, chỉ có một mụn con gái tên là
Nalini hay Liên Viên (vườn sen), bèn gả cho Kỳ Lân, sau nầy lên nối ngôi. Liên
Viên là tiền thân của Da du đà la Yasodhara, trong một kiếp sau là vợ của hoàng
tử Tất đạt đa Siddhartha (3a). Một chuyện tương tự đã xảy ra
với vua Brahmadatta trị vì ở thành phố Kapila. Lần nầy tiền thân của Yasodhara
là con gái cũng một con hươu cái thụ thai vì uống nước có tinh dịch của
Kasyapa. Khi nàng sinh ra, đi mỗi bước là một đóa hoa sen nở ra ở dấu chân. Làm
thứ phi, nàng bị mấy bà hoàng kia ghen tuông và kiếm cách đuổi đi nhưng sau
cũng được nhà vua tìm đem về Kapila. Trong thời gian xa vua vì thiếu hạnh phúc,
hoa sen cũng hết nở trên dấu chân nàng. Khi đức Phật kể chuyện nẩy, Ngài giải
thích nàng đã phải đền tội quá khứ của mình (3b).
Hoa sen có mặt nhiều nơi trong đời sống đức Phật nên cũng dễ
hiểu trong số các bộ kinh của Đại thừa, kinh Diệu pháp liên hoa tức Liên kinh
Saddharmapundarika là một trong những bộ quan trọng nhất. Những tu sĩ Việt Nam
cho Liên kinh có một liên quan chặt chẽ với tông thiền, cho nên những thiền sư
thường dùng hoa sen trong ý nghĩa từ ngữ ẩn dụ "hoa ở trong lò nhưng luôn
vẫn tươi", tương xứng với câu "sen mọc trong bùn nhưng không tanh mùi
bùn". Liên kinh chia làm hai phần văn xuôi và văn thơ, gồm có bảy bộ, sắp
thành hai mươi tám chương. Trong số những chương tiêu biểu nhất, gần gũi, quen
thuộc nhất có lẽ là chương 25 (Quán thế âm bồ tát phổ môn) được xem như là một
bộ kinh độc lập, được tụng hằng ngày không những ở nước ta mà khắp Viễn Đông,
phổ biến lòng từ bi rộng lớn, thông cảm với nổi khổ của chúng sinh, đồng thời
lại có quyền năng vô hạn, thần lực vô biên để cứu chúng sinh ra khỏi mọi khổ
nạn (4a). Vì "tâm thần con người tốt nhất không có vết,...
sen mọc từ bùn mà không dính vào bùn" (Lalitavistara), "trái
tim con người là như búp sen: khi những đức hạnh của đức Phật khai triển trong
lòng thì hoa mở ra, vì vậy Ngài thường tọa lạc trên một đóa hoa sen nở
rộng" (Tajima Ryojun).
Sách sử Phật giáo thường nói đến những màu sắc của hoa sen. Hoa
màu trắng (pundarika) tượng trưng cho thiên nhiên, hòa bình, chính
giác, thường có 8 cánh tiêu biểu cho Bát chánh đạo: nó là hoa sen của đức
Phật. Hoa màu đỏ (kamala) tượng trưng cho nhiệt huyết, hành động, tình
yêu và bản chất cùng những đức tính của trái tim : nó là hoa sen của đức Quan
Âm. Hoa màu xanh (utpala, nilotpala) được hình dung dưới dạng búp trong
tay đức Văn Thù, tượng trưng cho khôn ngoan, thông minh, tri thức, là một trong
những tiêu biểu của Bát nhã Ba la mật đa (Prajnaparamita). Hoa màu hồng
(padma) là đóa hoa tuyệt đỉnh, thường được dành cho những thần thánh tối
cao, có khi lẫn lộn với hoa màu trắng: nó là hoa của đức Phật hiện thân. Hoa
màu đỏ tía, có tính chất thần bí, chỉ thấy trong một vài phái bí truyền. Hoa có
thể có một cuống đơn hay ba (tượng trưng ba nhánh của Thai tạng giới Gharbhadhatu)
hay năm (tượng trưng cho năm nhận thức của Kim cương giới Vajradhatu) (5).
Theo các kinh sách của pháp môn Tịnh độ, đức Phật vãng sinh ở
cõi Cực lạc phương Tây của Phật A Di Đà, được sinh ra không phải từ bụng mẹ, mà
là từ trong hoa sen. Hoa sen có ba tầng: thượng, trung, hạ. Mỗi tầng như vậy
lại chia làm ba cấp, tổng cộng có chín tầng sen. Tùy theo công phu tu hành mà
người vãng sinh sẽ sinh ra một trong chín tầng sen (4b). Trên
sáu cánh cửa torana công trình Sanci (thế kỷ I) ở Madhya
Pradesh, cây hoa sen pundarika được trình bày với bảy cây
tượng trưng khác tương ứng với bảy vị Phật và đức Di Lặc ở các hình chạm nổi
thấp (6).
Nhị sen cầm máu
Còn được gọi liên, quỳ, sen có tên khoa học thông dụng là Nelumbo
nucifera Gaertn., thuộc họ Sen Nelumbonaceae hay Numphacaceae,
có khi viết Nelumbium nuciferum hay đổi ra N.
nelumbo (L.) Druce thêm vào N. specium Wild, N.
nucifer Gaertn. Cánh hoa sen màu hồng, nhưng cũng có sen cánh màu
trắng (sen trắng N. alba Hort), màu vàng (sen vàng N.
lutea Pers). Có loại sen gốc Mỹ mang tên Nelumbo pentapetala. Nhật
có những tên ohga hasu, genshi hasu, shimnyoren. Ngoài ra, còn có
loại sen thấp (sen sẻ Nelumbium nelumbo Druce var. nanum Horst),
sen lá to (sen hoàng hậu Victoria regia Lindl. var. amazonia (Poep)
Klotzoch, sen cạn (địa liên Tropaelum majus Linn.). Hoa sen
thơm nhờ những chất dễ bốc hơi, 75% là hydrocarbon, đặc biệt dimethoxybenzen.
Lá sen cũng thơm nhờ nhiều hóa chất mà nhiều nhất là hexenol (40%). Một số hóa
chất quan trọng trong sen tuy số lượng không nhiều là những alcaloid, đặc biệt
nuciferin, neferin, tìm ra được trong lá, hột, mầm, phôi, và những flavonoid
như norciferin, lirimidin tìm ra được trong lá. Ngoài ra, lá sen chứa đựng
nhiều acid như ascorbic acid (vitamin C), những acid béo, những chất đường.
Cùng những sterol, đường cũng đã được phát hiện trong hột như khi đem thủy phân
ologosaccharid trong rễ sen.
Đông y từ lâu đã dùng sen làm thuốc. Ngó sen (liên ngẫu, phần rễ
ở dưới nước), gương sen (liên phòng), lá sen (liên diệp hay hà diệp), hoa sen
(liên hoa), cuống sen, vỏ hột, nhị sen (liên tu) là những vị thuốc cầm máu (đi
ngoài, tiểu tiện, nôn ra máu) nhờ tính chất cầm máu của những flavonoid. Thật
vậy, chất isoquercitrin (hay isoquercitrin glycosid) chiết xuất từ sen làm đông
máu như vitamin K khi đem thử lên thú vật (10). Hoa sen, nhị
sen, hột sen, tâm sen (liên tâm), củ sen (phần rễ cắm sâu dưới bùn) là những vị
thuốc bổ dưỡng, an thần. Ngoài ra, lá sen có tính mát, chữa tiêu chảy; hột sen
có tính bổ tâm tỳ, ích khí, thanh nhiệt, giải độc; nhị sen có tác dụng thanh
tâm, thông thận, chữa di mộng tinh; tâm sen, củ sen trị tim đập mạnh, khó
ngủ, nằm mơ, thường người ta đem sắc chiết, trừ gương sen thì đốt cháy, tán
bột, cho vào nước uống (ĐTL). Báo chí đã đăng một số các tác dụng dược lý của
các chất chiết xuất từ sen. Những alcaloid nuciferin, roemerin, nornuciferin
chiết xuất từ lá có tính chất chống co giật (7), neferin từ mầm
hột chống cao huyết áp (12), nhừa loạn nhịp tim (14),
oxoushinsusin từ đế hoa ức chế hoạt động khối u, chống ung thư biểu bì mủi hầu
và nước sắc có khả năng chống tác dụng của nấm độc (9). Nhờ có
chỉ số glycemic và C-peptid thấp, hột sen được xem là một trong những thức ăn
ưu tiên cho các bệnh nhân tiểu đường (16). Hột sen có tính chất
kháng oxi hóa (17) từ đấy có khả năng bảo vệ gan chống CCl4 hay
aflatoxin B1(18). Trong số các alcaloid, đem thử trên thú
vật, asimilobin và lirinidin chiết xuất từ lá ức chế sự co ngắn của động mạch
chủ thỏ (13), norarmepavin từ lá và cành giảm đau, hạ nhịp tim,
giản con ngươi chuột (8), những phần chiết chứa đựng alcaloid
ức chế hoạt động ATP (adenosin tri phosphatase) (11). Lipid
chiết xuất từ sen có tác dụng sát trùng chống vài vi khuẩn Gram âm, Gram dương
và nấm men, đặc biệt chống sâu Spodoptera littoralis phá hoại
cây bông (15).
Ở Huế có một món chè rất ngon mà người Huế nào cũng thèm là chè
nhãn lồng bọc hột sen. Vẫn biết nhãn ăn một mình đã ngon, hột sen nấu chè một
mình cũng vô cùng hấp dẫn, nhưng khi hột sen được bọc trong trái nhãn thì hương
vị chè lại càng đậm đà gấp bội. Thường chè nầy chỉ nấu trong gia đình, ở quán
ăn ít thấy, vì vậy người lạ chưa được mời ăn ở nhà thì khó có dịp nếm chè nhãn
lồng bọc hột sen. Thuộc họ Bồ hòn Sapindaceae, nhãn thường mang tên
khoa học Euphoria longana Lam., có khi E. longan Lamarck
hay (Lour.) Steud, hay E. longean. Cũng thấy vài ba tên khác: Nephelium
longanum hay N. longana, Dimocarpus longan Lour., D.
longan ssp malesianus Leenth cho trái kucing bên Mã
Lai. Đông y thường gọi long nhãn hay á lệ chi (BKT). Còn có tên lệ chi nô, mạy
ngận hay mác nhan (Tày), lạy nghịn điẳng (Dao) (VDL, ACCT). Phần lớn những công
tác khảo cứu được thực hiện lên các nhãn mọc ở châu Á, từ Nhật Bản qua Trung
Quốc. Những hóa chất được chú trọng đến trước nhất là tannnin ở vỏ trái, vỏ
thân cây, catechol tannin ở hoa. Đem thủy phân tannin thì nhận được
acetonylgeranilin bên cạnh corilagin, các gallic và chebulagic acid. Từ vỏ thân
còn tươi, đã chiết xuất được epicatechin, procyanidin B2 và C1.
Long nhãn an thần
Trái nhãn khi chín hái và đem trữ thì ascorbic acid, có nhiều
nhất lúc trái chín, dần dần bị hủy. Các acid khác như succinic, malic, citric
acid cũng có theo tỷ lệ 10/5/1. Các phenol đã tìm ra được trong lá với những
phân tử khá dài từ C50 đến C75. 13 chất được xác
định trong hoa, 2 phenolcarboxylic acid (brevifolincarboxylic, coumaric acid),
5 flavonoid (luteolin, kaempferol, chrysoeriol, quercetin, hyperin), 6 tanin
(brevifolincarboxyl gluco pyranose, corilagin, repandusinic acid,
phyllanthusin, furosin, geraniin). Trong lá, ngoài quercetin và quercitrin, còn
có sitosrerol, epifriedelinol, hentriacontanol. Stigmasterol thì tìm ra được
trong hoa bên cạnh fucosterol, saponin trong hột. Về mặt protein, cũng như
xoài, khế, trái còn tươi chứa 0,4-2,7 g/100g mà thành phần lớn nhất là những
aspartic, glutamic acid, alanin, glycin, serin, hydroprolin, prolin. Áo hột
cũng như cùi hột, ngoài protein, còn chứa những chất đường glucose, saccharose
và các vitamin A, B. Trong hột có nhiều loại acetylenic amino acid như amino
methyl hexynoic, amino hydroxy heptynoic acid có tánh chất chống trùng Salmonella
typhimurium (19).Trong số những chất dễ bốc hơi đem lại
hương vị trái nhãn, các hóa sư Đài Loan xác định được 59 chất mà nhiều nhất là
linalool, linalool oxid, epoxy linalool, nonanal, terpineol, viridiflorol
torreyol, carophyllen. Các nhà khảo cứu Mã Lai xác định được trong trái ester
và terpinoid mà chiếm phần lớn là ethyl acetat và ocimen.
Ở nước ta, nhãn được dùng làm thuốc bồi bổ sức khỏe, an thần,
chữa chứng hay quên, trí nhớ sụt kém, mất ngủ, thần kinh suy nhược (VDL, ACCT).
Người ta dùng cùi nhãn khô (nhãn nhục) nấu chín nhừ với hột sen thành chè (BKT)
hay sắc uống 9-10g mỗi ngày (ACCT). Hột nhãn (á lệ chi hạch) thì được đem tán
bột để trị đau nhức ở bụng và bụng dưới (BKT), chữa nhọt chốc lở (ACCT). Đông y
có quy tỳ thang (tế sinh phương) gồm có nhãn nhục, đương quy Angelica
sinensis, nhân sâm Panax ginseng, bạch phục linh Poria
cocos, hoàng kỳ Astragalus membranaceus, bạch truật Atractylodis
macrocephala, toan táo nhân Zizyphus jujuba, cam thảo Glycyrrhiza
uralensis, mộc hương Sausurea lappa, viễn chí Polygala
glomerata, để trị ưu tư thương tỳ, huyết hư, phát nhiệt, ăn ít, thân thể
mệt mỏi, hồi hộp, ít ngủ, ra mồ hôi, tay chân đau nhức, đại tiện không đều,
kinh nguyệt phụ nữ không đúng kỳ (BKT). Về mặt khảo cứu dược liệu, trái nhãn
được dùng trong thuốc giảm mệt (27), những polysaccharid trong
các liều thuốc bổ dưỡng (25), corilagin chống cao huyết
áp (23), furan chiết xuất từ áo hột có tính chất chống co
giật (28), adenosin có tác dụng giảm đau (24),
uridin ức chế sự kết tụ những tiểu cầu (16). Hai văn bằng sáng
chế Nhật Bản đã dùng vỏ hột trộn với đậu nành cùng nhiều vật liệu kết dính khác
để làm dầu thuốc (20) và trong một công thức dầu bồi dưỡng
tóc (22). Cũng nên biết là có thể giữ trái chín tươi trên dưới
hai tháng nếu cho vào túi chất dẻo và sử dụng hóa chất benomyl (500 ppm) với
khí sulfur dioxyd ở 52° trong vòng hai phút, trước khi bảo quản ở 5° trong môi
trường độ ẩm 90-95% (21).
Hồi tôi còn nhỏ, bên làng Mỹ Xuyên kế cạnh có ông Cửu Triêm rất
giàu có. Tôi hay thỏ thẻ với chị tôi: sau nầy em ao ước có ngày được giàu như
ông ấy... để mặc sức ăn chè! Vài năm gần đây, nhân đi chơi vùng đồng bằng
sông Cửu Long, viếng thăm ông Đạo Dừa, cô cháu con chị tôi tinh nghịch tặng tôi
biệt hiệt ông Đạo Chè. Thật ra, người Huế nào không bị cấm đồ ngọt lại không
thích chè. Hai món chè độc đáo nhất quê tôi là chè bột lọc bọc thịt quay, ít
người vùng khác ưa thích, và chè nhãn lồng bọc hột sen, ai cũng mê mệt. Sau
này, tôi lại thích thú đọc thấy chè hột sen cùng nhiều loại chè khác lại là
những món ăn có chất thuốc. Người Pháp có câu khuyên: "kết hợp bổ ích với
thích thú" thật là đúng vậy.
Thông tin Khoa học và Công nghệ 2 1997,
khoahoc.net 08.2007
Tham khảo:
1- Véronique Crombé, Le Bouddha, nxb Desclée
de Brouwer, Paris (2000) 44-5
2- Léon Wieger S.J., Les vies chinoises du Buddha,
nxb Dharma, Collection Fenêtres (1913, tái bản 2002), 23
3- Kshemendra, La liane magique, dịch từ tiếng Tây
Tạng, nxb Padmakara, Périgueux (2001) a)395-8 ; b)411-5
4- Thích Minh Châu, Minh Chi, Tự điển Phật học Việt Nam,
nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội (1991) a)556-7 ; b) 597
5- Louis Frédéric, Les dieux bouddhiques, nxb Flammarion Paris
(1992) 59-60
6- J. Marshall, A. Fouscher, N.G. Majumdar, The
Monuments of Sanci, Calcuta-Dehli, 1940, 199-200 ; A.K. Coomaraswamy, La
sculpture de Bharhut, Paris, Vanoest, Annales du Musée Guimet,
Bibliothèque d’art, Nouvelle Série, VI (1956) 65-6
Nelumbo nucifera
7- T. Masao, Alkaloids of Nelumbo nucifera,
Japan 17,984 (1960) 5 tr.
8- S.M. Kupchan, B. Dasgupta, E. Fujita, M.L King, Alkaloids
of America lotus, Nelumbo lutea, Tetrahedron 19 (1963)
227-32
9- T.H. Yang, C.M. Chen, C.S. Lu, C.L. Liao, Alkaloids
of lotus receptacle, J. Chin. Chem. Soc. (Taipei) (3) 19 (1972)
143-7
10- Bê Thị Thuần, Hoàng Kim Thanh, Nguyễn Thi Thìn, Flavonoids
in the lotus plant (Nelumbo nucifera Gaertn), Tạp chí Dược học (6)
(1980) 19-20
11- Nguyễn Xuân Thăng, Nguyễn Thị Hằng, Đặng Hạnh Phúc, Inhibitory
effect of some traditional hypnotic drugs on adenosietriphosphatase of rat
brain membranes, Rev. Pharm. (1983) 82-9
12- S. Nishibe, H. Tsukamoto, H. Kinoshita, S. Kitagawa, A.
Sakushima, Alkaloids from embryo of the seed of Nelumbo nucifera,
J. Nat. Prod. (3) 49 (1986) 548-
13- N. Shoji, A. Umeyama, N. Saito, A. Iuchi, T. Takemoto, Asimilobine
and lirinidine serotonergic receptor antagonists from Nelumbo nucifera,
J. Nat. Prod. (4) 50 (1987) 773-4
14- G.R. Li, F.H. Lu, J.O. Qian, Effects of neferine on
physiologic properties and the dose-effect response to isoprenaline and calcium
in guinea pig atria, Yaoxue Xuebao (4) 23 (1988)
241-5
15- A. Saeed, E. Omer, A. Hashem, Investigation of
lipids and biological activity of Nymphaea hybrida Tach. V. and Nelumbo
nucifera, Bull. Fac. Pharm. (Cairo Uni.) (3) 31 (1993)
347-51
16- X. Wu, Z. He, B. Yu, The responses of plasma glucose
and serum C-peptide to five starchy foods, Yingyang Xuebao (2) 16 (1994)
174-9
17- B.K. Liou, H.Y. Chen, G.C. Yen, Antioxydative
activity of the methanolic extracts from various traditionally edible plants,
Zhongguo Nongye Huaxue Huizhi (1) 37 (1999) 105-16
18- D.H. Sohn, Y.C. Kim , S.H. Oh, E.J. Park, X. Li, B.H.
Lee, Hepatoprotective and free radical scavenging effects of Nelumbo
nucifera, Int. J. Phytother. Phytopharm.(6-7) 10 (2003)
165-9
Euphoria longana
19- H. Minakata, H. Komura, S.Y. Tamura, Y. Ohfune, K.
Nakanishi, T. Kada, Antimutagenic unusual amino acids from plants, Experientia (12) 41 (1985)
1622-3
20- M. Sawaguchi, Ointment containing melanolidins as
pharmaceutical stabilizers, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 63 05,032
(1988) 5 tr.
21- O. Wara-Aswapati, D. Srilok, S. Gomolmanee, P.
Boon-Long Effect of benomyl and sulfur dioxide on storage life of fresh
longan, ASEAN Food J. (2) 4 (1988) 73-5
22- S. Musui, K. Yoshihama, Y. Yokoyama, K. Matsumoto, H.
Kuroda, M. Suzuki , Hair growth-promoting preparations containing
vitamins and other substances, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 06
100,421 (1994) 5 tr.
23- J.T. Cheng, T.C. Lin, F.L. Hsu, Antihypertensive
effect of corilagin in the rat, Canadian J. Physiol. Pharmacol. (10) 73 (1995)
1425-9
24- E. Okuyama, H. Ebihara, H. Takeuchi, M. Yamazaki, Adenosine,
the anxiolytic-like princiople of the arillus of Euphoria longana,
Planta Med. (2) 65 (1999) 115-9
25- S. Huang, Z. Chen, Health-care solution of
polysaccharide of Euphoria longana and Lycium barbarum, its preparation and
application, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN
200330625 ((2003) 10 tr.
26- D.H. Kim, M.C. Song, J.M. Choi, S.H. Kim, D.K. Kim, I.S.
Chung, M.H. Park, B.M. Kwon, N.I. Beak, Development of biologically
active compounds from edible plant sources. VIII. Isolation of platelet
aggregation inhibitory compounds from the arils of Euphoria longana L.,
Han’guk Eungyong Sangmyong Hwakakhoeji (1) 47 (2004)
130-4
27- C.C. Lin, Nutritional compositions containing
androgen-herb extracts for alleviating fatigue, U.S. Pat. Appl.
Publ. US 2004076684 (2004) 3 tr.
28- D.H. Kim, D.W. Kim, S.Y. Choi, C.H. Park, N.I. Baek, 5-(hydroxymethyl)-2-furfuraldehyde,
anticonvulsant furan from the arils of Euphoria longana L., Agric. Chem.
Biotech.(1) 48 (2005) 32-4.

2- Chùm hoa lãng mạn Ti gôn
Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy
Mà viết
tìm em được ích gì?
T.T. Kh
(Bài thơ cuối cùng)
Vào khoảng giữa năm 1937, tạp chí "Tiểu
thuyết thứ bảy" ở Hà Nội có đăng một truyện ngắn "Hoa Ti-gôn" của
ký giả Thanh Châu. Đây là một chuyện tình bi đát của chàng họa sĩ Lê Chất.
Vừa mới ra trường, trên đường đi tìm phong cảnh làng quê để vẽ, anh thấy một cô
gái đẹp đang víu một cành hoa ti gôn màu đỏ trước một biệt thự ven Hà Nội. Mấy
ngày liền, anh mê mẩn trở lại nhìn cô ta nhưng đến một hôm thì hết còn thấy.
Chín năm sau, công thành danh toại, anh vẫn không quên cô gái đẹp thời xưa. Một
hôm, trong một buổi dạ vũ ở tòa lãnh sự Pháp ở Vân Nam bên Trung Quốc, anh gặp
lại cô gái, nay đã có chồng, một viên chức cao cấp, mà cô ta không hề yêu thương.
Sau kỳ tái ngộ đó, họ tâm sự và quyết định trốn qua Nhật cùng sống với nhau.
Nhưng cuối cùng, cô gái từ chối ra đi và gởi cho Lê Chất một lá thư kèm một
chùm hoa ti gôn. Bốn năm sau, anh nhận được một lá thư của chồng cô
gái báo tin nàng đã mất. Từ đó cho đến suốt cuộc đời, cứ đến mùa hoa ti
gôn nở, buồn đau, anh không quên mua một chùm hoa trang hoàng phòng làm việc để
nhớ đến người yêu xa xưa.
Mấy ngày sau truyện ngắn trữ tình này được đăng báo, một thiếu
phụ khoảng 20 tuổi, dáng dấp thùy mị, mang lại tòa báo một bài thơ tựa đề
"Hai sắc hoa ti gôn" ký tên T.T.Kh., đề ngày 30.10.1937. Bài thơ nghe
nói bị tòa soạn vứt vào sọt rác, may có người lấy ra
lại được, lột tả những đau xót của một người con gái
phải xa người yêu đi lấy chồng và suốt đời ray rức như mình là người phụ bạc,
càng não nùng qua giọng ngâm của người tốt giọng như Hoàng Oanh.
Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi
chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua
mái tóc
Tôi chờ người đến với
yêu đương.
Sau bài thơ lời lẽ mộc mạc nầy đã gây xôn xao trong giới yêu văn
thơ, tòa soạn nhận được qua bưu điện một bài thơ khác tựa đề "Bài thơ thứ
nhất" cùng tác giả, lời lẽ tương tự, mô tả kỹ lưỡng hơn mối tình dang dở.
Giới văn nghệ lại càng bàn tán xôn xao. Trong bầu không khí xao động, tờ
"Phụ nữ thời đàm" ở Hà Nội nhận được, cũng qua bưu điện, bài thơ
"Đan áo cho chồng" cùng tác giả, cùng giọng điệu, than vãn, oán trách
thân phận mình. Bài báo nầy vừa ra mắt thi tờ "Tiểu thuyết thứ bảy"
lại nhận thêm một bài thơ nữa kỳ nầy có tựa đề "Bài thơ cuối cùng"
(1938) cùng tác giả, ý tứ có phần khác ba bài thơ trước và, như tác giả đã báo
truớc, không còn một bài thơ nào khác ký tên T.T .Kh để độc giả hoang mang
không biết nàng là ai.
Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió
chẳng làm quên
Và người vỡ lỡ duyên
thầm kín
Lại chính là anh, anh
của em.
Trong suốt bốn bài thơ luôn có nói đến hoa dáng tim vỡ, nhưng,
ngoài tên bài "Hai sắc hoa ti gôn", chỉ trong "Bài thơ cuối
cùng" là có chỉ định hoa ti gôn: Trách ai mang cánh "ti
gôn" ấy. Tuy nhiên nội dung ngây thơ của người con gái lúc đầu
gặp gỡ người yêu dưới giàn hoa rồi luôn buồn tưởng tới nhà nghệ sĩ trong cuộc
sống lạnh lẽo bên người chồng,... những dữ kiện hòa hợp rất khắng khít với cốt
truyện "Hoa Ti-gôn". Rất dễ hiểu ký giả Thanh Châu khẳng định tác giả
các bài thơ là người yêu của ông. Nhưng ông không phải là người độc nhất. Nhà
thơ Nguyễn Bính, vì cũng đã sống một cuộc tình duyên dang dở tương tự, cũng cho
T.T Kh là người tình vườn xanh xưa cũ của mình: Và tiễn người đi bến
cát xa, Ở lại vườn Thanh có một mình. Bên phần thi sĩ Thanh Tâm
(Nguyễn Tuấn Trình) thì dẫn cớ T.T. là những chữ cái của bút hiệu mình, còn Kh
là hai chữ đầu tên cô Trần Thị Khánh, một nữ sinh ở phố Sinh Từ, Hà Nội, được
biết là không cho cưới người yêu mà phải lấy một ông chồng nhiều tuổi hơn: Khánh ơi, còn hỏi gì anh, Ái tình đã vỡ, ái tình lại nguyên (1940).
Trong những bài thơ viết tặng T.T.Kh. có bài "Mẩu máu Tigôn". Theo
nhà thơ lão thành Lương Trúc (1985) có gặp bà Trần Thị Khánh thì chuyện nầy có
thật. Tuy nhiên, sau nầy (1994), qua nhà văn Thế Nhật, có giả thuyết chữ T đầu
là họ nữ sĩ Trần Thị Văn Chung, kết hôn với luật sư Lê Ngọc Chấn, hiện còn
sống ở miền nam nước Pháp; chữ T thứ hai là Thanh, tên ký giả Thanh Châu, tác
giả truyện ngắn; còn Kh là... khóc, khóc cho mối tình dở dang!.
Rút cuộc, với vẻn vẹn độc nhất bốn bài thơ não lòng, T.T.Kh. đã
gây xốn xao dư luận cả một thời và đến nay chưa ai biết chắc chắn tung tích tác
giả. Theo thi sĩ Nguyễn Vỹ, cô Khánh không biết làm thơ, những bài ký tên T.T.Kh.
là do Thanh Tâm làm, còn Nhà văn Vũ Hạnh thì cho tác giả những bài thơ nấy là
thi sĩ Jean Leiba! Nhưng cần chăng biết nàng là ai, và như tác giả một bài sưu
tầm tỉ mỉ (1) đã kết luận, chúng ta cần gì phải thắc
mắc, nàng là ai cũng thế mà thôi, dù nàng là cô Trần Thị Khánh ở Hà Nội hay là
cô Trần Thị Chung ở Thanh Hóa. Điều quan trọng mà chúng ta biết rất rõ, những
bài thơ của T.T.Kh. là những bài thơ rất hay, sẽ mãi mãi bất tử trong thi đàn
Việt Nam. Tuy vậy, cũng nên tìm biết ti gôn là hoa gì, không lý chỉ có trong
trí tưởng tưởng của nhà văn lãng mạn, nhà thi sĩ đa tình! Thưa không:
gần đây tôi may mắn được đọc thơ của một cô "em gái"
Vườn có những hàng cây yên ả
Mùa Ti-gôn chưa trổ
hoa
Nắng nhìn nghiêng lá
trổ màu lục
Đôi khi đợi chờ
là hạnh phúc
Hồ Đắc Thiếu Anh (Có
một mùa Ti-gôn)
Thật
ra, ti gôn là một loại hoa nguồn gốc ngoại lai mà trong Nam nước ta thường nôm
na gọi là hoa nho hay nho kiểng, còn ở ngoài Trung và Bắc thông thái phiên âm
rút gọn danh từ Tây phương antigon hay antigone.
Trong thần thoại Hy Lạp có một bà tên Antigone, con vua Oedipe
thành quốc Thèbes (nay là Thiba) bên nước Hy Lạp và hoàng hậu Jocaste. Vì là
con của một cặp loạn luân, bà đã phải chịu sống một cuộc đời đau khổ, không
chồng, không con và sau cùng bị kết án giam lỏng trong mồ gia đình. Ngay lúc
mới sinh, Oedipe bị cha là Laios đem bỏ vào rừng cho chết đi vì ông tin một lời
nguyền rủa bảo con ông sẽ giết cha và lấy mẹ làm vợ. Oedipe không chết, được
nuôi lớn lên ở vương triều Corinthe như một đứa con mồ côi. Một ngày trên đường
đi, vì một chuyện xích mích, Oedipe giết Laios mà không biết ông ta là cha
mình. Trả lời là "con người" đúng câu hỏi của quái vật Sphinx, thân
phụ nữ mình sư tử, ai ban sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, chiều đi ba chân,
sau khi quái vật đập đầu vào đá chết đi, Oedipe được dân chúng đón tiếp như một
người hùng và tôn xưng lên ngôi vua. Sau đấy ông cưới hoàng hậu Jocaste làm vợ
mà không dè bà là mẹ mình, vô tình thực hiện lời nguyền rủa. Vào lúc ấy có bệnh
dịch hoành hành và thánh nhân đòi tìm cho ra người đã ám sát Laios may ra cứu
được toàn dân Thèbes. Khám phá ra mình đã giết cha, Oedipe vô cùng đau đớn, nhổ
mắt thành mù, được Antigone dẫn ra khỏi Thèbes làm người ăn xin trước khi chết
ở Colone. Còn Jocaste thì treo cổ tự tử. Ngoài hai con gái, Antigone và Ismène,
Oedipe và Jocaste có hai con trai, Polynice và Etéocle. Hai anh em thỏa thuận
luân phiên nhau thế cha lên ngôi trị vì mỗi người một năm. Etéocle bắt đầu lên
ngôi nhưng một năm sau không chịu nhường ngôi lại cho Polynice. Trong cuộc chiến
huynh đệ tranh ngôi cả hai đều tử trận. Em của Jocaste là Créon lên nối
ngôi, truyền lệnh khâm niệm Etéocle theo nghi lễ một nhà vua nhưng cấm không
được chôn cất Polynice xem như là kẻ phản bội. Antigone không chịu tuân lời
cậu, lại rải một ít đất lên thi hài anh gọi là lễ tang tối thiểu để linh hồn
anh yên giấc ngàn thu, vậy mà Créon lên án giam cháu. Không chịu sống giam cầm
suốt đời, Antigone treo cổ tự tử. Hémon, con của Créon, người yêu của Antigone,
tự sát ngay trên thi hài Antigone và tiếp theo đó, vợ Créon cũng chết theo con.
Rút cuộc người còn sống trong đau khổ là Créon cùng một lúc mất con, góa vợ,
chỉ vì một xử lý thiếu suy nghĩ của mình. Lời nguyền rủa thấy như còn tiếp tục
lâu dài...
Trong bối cảnh một thế giới đảo điên, con giết cha, anh em
giết nhau, cậu giết cháu, Oedipe không chủ ý phạm tội loạn luân, một hiện tượng
sau nầy được nhiều triết gia biện luận và nhiều soạn giả viết thành bi
kịch..., Antigone tỏ ra là một người con có hiếu vì đã chịu chăm sóc người cha
mù cho đến lúc ông chết, lại là một người em mang một tình thương anh vô
tận nên mới đơn thương độc mã bất tuân lệnh của ông vua cậu. Nhiều học giả
đã thấy qua nàng một bi kịch của những đối lập : một bên là tình thương
chị em, mệnh lệnh thần thánh, sự tận tâm tận tụy, bên kia là ý chí nhà vua,
luân lý thành quốc, sự mù quáng của tuổi già. Lòng hiếu thảo, tình thương của
nàng phải chăn được thể hiện qua một cây leo luôn quấn quít trên những cành
cứng, những bụi rậm như cây antigone thường thấy ở Nam Mỹ, phát xuất từ Mexicô,
mọc hoang nhiều ở các tiểu bang California, Arizona bên Hoa Kỳ, ở tỉnh Phan
Thiết bên ta. Mang tên khoa học Antigona leptopus Hook. et
Arn. (5,7) (có khi viết Linn. (8,9)) thuộc
họ Răm Polygonaceae, cây ti gôn còn được gọi hiếu nữ, Coral
vine, Mountain Rose, Queen’s Wreath hay Love’s chain. Dây
leo đa niên nhờ có củ to, thân mảnh, lá có phiến không lông, hình tim, xanh
tươi, dúng. Chùm có vòi, to, ở chót nhánh, hoa hườnghay trắng (var. alba Horst)
(PHH) cho nên T.T.Kh. mới có tựa bài "Hai sắc hoa ti gôn". Hoa có 5
tai đỏ, ngoài 3 trong 2, tiểu nhị dính nhau ở đáy, noãn sào 3 cánh, 3 vòi, nhụy
bế quả. Ưa chịu nóng mùa hè và thích nhiều nước. Vào mùa đông lá rụng nhiều,
chỉ ngọn cây chết nhưng chóng phục hồi (2).
Là một loại hoa đẹp, lại được mệnh danh là hoa lòng, hoa
máu, hoa ti gôn đã được nhiều nhà khảo cứu chú ý, nhất là về mặt chất sắc. Nhóm
Minocha ở viện Đại học Allahabad bên Ấn Độ dùng methanol-HCl (1%) chiết xuất
được hai anthocyanin pelargonin và malvin (4). Thay đổi dung
dịch, dùng ethanol, họ đạt được hentriacontan và trimethoxy propanoyl
anthraquinon (5), quercetin, rhamnetin, quercetin
glucopyranosid và hydroxy methyl anthraquinon arabinofuranosyl
glucopyranosid (3). Nhóm Valsakumari ở Trường kỷ sư
Tiruchirapalli cũng ở Ấn Độ thì tìm ra được trong hoa quercetin rhamnosyl
rhamnoside (7). Nhóm Kawasaki ở viện Đại học Shinshu bên Nhật
bản phát hiện trong lá 28 cây thuộc họ Răm 33 flavonoid. Quercetin glycosid có
mặt trong hầu hết các lá, nhiều nhất là rhamnodid và glucuronid, còn
myrcetin thì hiếm hơn (6). Những nhà khảo cứu ở viện Đại học
Michigan bên Hoa Kỳ dùng methanol thì chiết xuất được từ tất cả các bộ phận khí
sinh của cây, kể cả hoa, hentriacontan, ferulic acid, hydroxy cinnamic acid,
quercetin rhamnosid, kaempherol glucosid đồng thời với bêta-sitosterol,
bêta-sitosterol glucosid và mannitol (16). Trong một cuộc khảo
cứu về các acid béo trên 15 cây đủ loại mọc ở Rajasthan trong ấy có Antigonon
leptopus, tinh dầu hột cống hiến dimethyl oxazolin (10).
Cây ti gôn không chỉ phô trương sắc đẹp. Người ta đã tìm ra
được trong những phần chiết methanol các bộ phận khí sinh của cây có tính chất
ức chế lipid peroxi hóa (89%), cycloxygenase (50,4-72,5 %) với 250
microgam/mL (16), phản thrombin (80%) (13).
Ở viện Đại học Victoria bên Canada, một cuộc khảo cứu đã được thực hiện
trên các cây dùng để chữa các chứng thuộc đường niệu cùng bệnh đái đuờng ở
Trinidad và Tobago trong ấy có ti gôn (15). Một văn bằng
sáng chế Trung Quốc đề nghị dùng Antigonon leptopus cùng nhiều
cây khác như kha tử Terminalia chebula, mã tiền Strychnos
nux-vomica, đàn hương Santalum album, thảo đậu khấu Alpinia
katsumadai, nhục đậu khấu Myristica fragrans, đinh hương Eugenia
caryophyllata, ngũ linh chi Facces trogopterpri… nhờ những
tính chất chống đau, chống viêm, chống siêu trùng, bài niệu, giải độc, để
chữa một loạt bệnh viêm : viêm thận, viêm gan, viêm kết tràng,... (14).
Ti gôn đã được dùng làm thức uống (16). Cũng cần biết thêm nhóm
Krishna ở viện Đại học Andhra bên Ấn Độ đã khảo cứu cách đường hóa
và lên men cùng lúc sinh khối ti gôn để sản xuất ethanol với các
chủng Trichoderma reesei và Saccharomyces cerevisiae (8,11) hỗn
hợp với Kluyveromyces fragilis (l2), bêta-glucosidase(9).
Hoa ti gôn không thơm tùy loại có hai màu: màu trắng tượng
trưng cho lòng trinh bạch (Và phương trời thẳm mờ sương cát, Tay vít giây
hoa trắng chạnh lòng ), màu hồng hay đỏ chỉ sự đau khổ trong đời. (Nhưng
hồng, tựa trái tim tan vỡ, Và đỏ như như màu máu thắm phai). Chỉ với hai
màu, T.T.Kh đã trưng bày đủ đời mình, kết liễu với một nỗi nhớ tiếc không nguôi,
ví mình như một loài hoa vỡ, một trái tim phai:
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi, người ấy có
buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài
hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa
máu hồng.
Theo kết quả của những tìm kiếm, rất có thể T.T.Kh hiện còn
sống. Một con người, với một cuộc đời như vậy, có hãnh diện không khi thấy
những bài thơ mộc mạc nhưng chân thành của mình đã gây náo động khắp nước, cả
một thời, không những ở quốc nội hồi thơ mới được đăng báo, mà còn bây
giờ, gần bảy mươi năm sau, khắp thế giới, bất kỳ ở nơi nào có người Việt, còn
người yêu thơ?.
Nghiên cứu và phát triển 2(79) 2010,
vietsciences 02.2011
Tham khảo:
1- Lưu An, TTKh và những khám phá về thân thế tác giả,
khoahocphothong.net/forum/archiv/index.php/t-8504.html
2- Lê Văn Lân, Mùa thu và hoa tim vỡ, khoahoc.net
20.09.2007.
3- K.P. Tiwari, P.K. Minocha, Chemical constituents of
the flowers of Antigonon leptopus, Indian J. Chem.section B (5) 19B (1980)
431-2
4- K.P. Tiwari, P.K. Minocha, Study of anthocyanins from
flowers of Antigone leptopus, Vijnana Parishad Anusandhan Patrika (4) 23 (1980)
305-7
5- P.K. Minocha, M. Masood, K.P. Tiwari, 1,6,8-Trimethoxy-3-propanoylanthraquinone,
a new pigment from the flowers of Antigonon leptopus Hook and Arn,
Indian J. Chem.section B (3) 20B (1981) 251-2
6- M. Kawasaki, T. Komata, K. Yoshitama, Flavonoids in
the leaves of twenty-eight polygonaceous plants, Bot. Mag.(Tokyo) (1053) 99 (1986)
63-74
7- M.K. Valsakumari, N. Sulochana, Phytochemical
investigation on the flowers of Antigonon leptopus Hook and Arn, J. Inst.Chem.(India) (1) 64 (1992)
38
8- S.H. Krishna, Y. Prabhakar, R.J. Rao, Saccharification
studies of lignocellulosic biomass from Antigonon leptopus Linn, Indian
J; Pharm. Sci .(1) 59 (1997) 39-42
9- S.H. Krishna, G.V. Chowdary, D.S. Reddy, C. Ayyanna, Simultaneous
saccharification and fermentation of pretreated Antigonon leptopus Linn leaves
to ethanol, J. Chem. Tech. Biotech. (11) 74 (1999)
1055-60
10- M.M. Azam, M.R.K. Sherwani, Chemical investigation
of some seed oils from arid zone of Rajasthan, Oriental J. Chem. (2) 15 (1999)
295-300
11- S.H. Krishna, G.V. Chowdary, Optimization of
simultaneous saccharification and fermentation for the production of ethanol
from lignocellulosic biomass, J. Agri. Food Chem.(5) 48 (2000)
1971-6
l2- S.H. Krishna, D.S. Reddy, T. Janardhan, G.V. Chowdary, Simultaneous
saccharification and fermentation of lignocellulosic wastes to ethanol using a
thermotolerant yeast, Biores. Tech. (2) 77 (2001)
193-6
13- N. Chistokhodova, Nguyen Chi, T. Calvino, I. Kachirskaia, G.
Cunningham, M.D. Howard, Antithrombin activity of medicinal plants from
central Florida, J.Ethnopharm. (2) 81 (2002)
277-80
14- J. Wu, Manufacture of traditional Chinese medicine
with antiviral, anti-inflammatory, and detoxicating effects, Faming
Zhuanli Shanqing Gongkai Shuomingshu CN 1840147 (2006) 6 tr.
15- C.A. Lans, Ethnomedicines used in Trinidad and
Tobago for urany problems and diabetes mellitus, J.Ethnobio. Ethnomed. 2 (2006)
45
16- M. Vanisree, R.L. Alexander-Lindo, D.L. De Witt, M.G.
Nair, Functional food components of Antigonon leptopus tea, Food
Chem. (2) 106 (2008) 487-92.

3- Đỗ quyên hoa thắm
Anh về đọc lại dòng thơ cũ
Thoáng
nét bên đời hoa Đỗ Quyên
Gặp em
bụi phấn vương trên áo
Năm
tháng theo về anh có quên!
Võ Văn Hoa
"Thuở ấy, có hai vợ chồng trẻ sống
dưới động Truồi. Họ rất yêu nhau. Thế rồi tự nhiên chàng trai trở bệnh, thuốc
thang không khỏi mà ngày càng nặng thêm. Có người mách bảo lên động Bạch Mã tìm
loại cây thuốc giống như cây kim giao toàn thân màu trắng, uống vào sẽ cải tử
hoàn sinh. Người vợ đã lên đường tìm linh dược cho chồng nhưng qua mấy ngày lặn
lội trong rừng, cô chẳng tìm ra thuốc. Đói lạnh làm cô kiệt sức, cô ngã xuống
bên một dòng suối, đầu va vào tảng đá. Máu cô hòa vào dòng suối, chảy đến đâu
liền xuất hiện đến đó một loài cây cỏ thân gầy guộc, có màu hoa đỏ như máu gọi
là đỗ quyên. Loại hoa nầy chỉ sống trọn vẹn trong mùa xuân, vươn mình lên kẽ đá
và soi mình đỏ rực xuống dòng suối...." (1)
Thật ra, hoa đỗ quyên Rhododendron, còn có tên đỗ
quyên ấn, hồng thụ ấn (TH), thạch nam (LTĐ), thuộc họ cùng tên Đỗ quyên Ericaceae,
ngày nay với kỹ thuật hợp lai phổ biến rộng rãi, không chỉ toàn một màu đỏ thắm
mà tùy nơi còn mang nhiều sắc trắng, tím, tía, son qua hồng nhiệt, đỏ thẫm, đỏ
gạch, đỏ hồng, đỏ xanh, đỏ cam, đỏ vàng,... Nguồn gốc núi cao châu Á nhiệt
đới (Nhật Bản, Myanmar, Nepal) ngày nay nó mọc hoang và được trồng khắp nơi, ở
châu Á (Nhật Bản, Myanmar, Nepal), cũng như ở châu Âu, châu Mỹ. Là một cây
trang trí rất được ưa thích, nó đã được pha giống thành hằng trăm loại đủ cở
lớn, nhỏ, đủ màu sắc lộng lẫy. Hoa R. simsii Planch.
(tức R. indicum Sweet var. simsii Maxim, hay
var. ignescens Sweet, hay Azalea indica Sims.
non Linn) màu đỏ hồng, R. kaempferi Planch. màu đỏ cam
tươi, R. obtusum Planch. màu trắng, đỏ gạch, đỏ tía, đều thuộc
chủng của R. indicum Sweet (TH).
Môn cuộc phân tích hóa học giúp ta biết được nguyên do màu
đỏ ở hoa đỗ quyên là các chất sắc anthocyanin. Hai chất chính cyanidin glucosid
và cyanidin diglucosid thường gặp bên cạnh peonidin diglucosid. Hoa màu tía
chứa đựng malvidin diglucosid, màu tím là do myricetin methyl ether mà ra, còn
quercetin, azaleatin, methoxy kaempferol chuyển màu đỏ xanh. Lượng các cyanidin
hay flavonol, mà nhiều nhất là azaleatin rhamnosyl gucosid, làm thay đổi màu
hoa từ đỏ thẫm, đỏ xanh qua hồng nhiệt, đỏ cam, đỏ vàng. Càng ít cyanidin
glucosid, màu đỏ càng chuyển qua xanh. Cyanidin còn hiện ra dưới các thể
galactosid, arabinosid, galactosid glucosid, araginosid. Trong số các flavon
khác, đã xác định được những pelargonidin, delphinidin, petunidin, còn flavonol
glycosid thì có quercetin galactosid, rhamnosid, azaleatin galactosid, malvidin
glucosid, delphinidin glucosid. Hai chất sau nầy nhuộm hoa màu tía (3),
còn caroten hiến màu vàng trong hoa R. japonicum f. flavum(21).
Song song với hoa, thân, lá , rễ cây đỗ quyên R.
simsii cũng được khảo cứu. Rễ cây chứa đựng những flavon như
quercetin, kaempferol, hyperin cùng sitosterol. Bên cạnh amin acid, những kim
loại Zn, Fe, Cu, Co, Se, Mn và Cr đã được xác định (mg/100g) trong thân cây : 7,09,
21,37, 1,14, 0,31, 0,03, 6,62, 0,02 và trong rễ cây : 7,42, 28,69, 1,29,
0,32, 0,01, 0,99, 0,02. Trong lá cây, cùng với triterpen, flavonon glycosid và
chất phản oxy hóa "matteucinol", những flavonoid aglycon như
quercetin, kaempferol đã được trích chiết làm rượu thuốc Jinjuan (2).
Về mặt ứng dụng, lá cây đỗ quyên chứa đựng vitamin C. Lượng sinh
tố có nhiều về mùa hè so với mùa đông, có nhiều ở chỗ nóng so với trong bóng
râm, tăng lên trước khi mặt trời mọc rồi giảm dần (7,8). Phần
chiết chứa đựng nhiều flavonoid ở liều lưọng 300 mg/kg chữa bệnh viêm phế quản
mạn tính rất hiệu nghiệm (4). Nước chiết từ cây cống hiến một
chất thuốc có khả năng ức chế trùng VSH-II (6). Những flavon
glucosid ở lá cây R. anthopogonoid, cấu chất của anthorhododendrin,
có tác dụng long đờm trên chuột. Đằng khác, nó gây co thắt các mạch máu ở
chân ếch và tai thỏ đồng thời làm duỗi khí quản heo cùng các bắp thịt cánh chậu
trơn nhẵn. Nó rất hiệu nghiệm trong cuộc trị liệu viêm phế quản nhưng nên ghi
nhận LD50 ở chuột là 0,40 g/kg (12). Phần chiết
nhiều cây đỗ quyên khác cũng có tính chất long đờm (5) nhờ
những chất farrerol, astragalin, kaempferol, scopoletin, hay ngừa ho nhờ
hyperin và quercetin (13). Chất quercetin nầy còn có khả năng
ức chế những hoại tử khối u ở đại thực bào (20). Dầu lá
cây R. dauricum chứa đựng flavon được dùng chữa ho hen và bệnh
suyễn (15). Dùng methanol chiết lá thì được một chất thuốc làm
giảm đau, hiệu nghiệm 40% với 50 mg/kg nhưng cũng trở nên độc trên 150
mg/kg (14). Chiết với ethanol 95%, cây R. cephaluntum cống
hiến một chất chromen có khả năng ức chế hoạt động của 5-lipoxygenase và được
dùng chống viêm, dị ứng, hen suyễn (19).
Ở vùng núi miền Hắc hải bên Turkey cũng như ở Nhật Bản, Nepal,
Brazyl, và ngay ở châu Âu và châu Mỹ, các loại hoa đỗ quyên R.
ponticum, R.luteum chứa một chất độc, grayantoxin, được
ong hút về cùng nhựa hoa làm mật, ăn vào có thể bị nôn mửa, hôn mê, vú
nứt (22) hay huyết áp giảm xuống, nhịp chim chậm lại (11,16,17).
Chất độc nầy tác động lên cuộc gián phân bạch huyết bào con người (18).
Mang tên andromedotoxin, được phát hiện ở R. hunnewellianum (9) hay
acetylandromedol (11) ở R. chrysanthum, R.
campylocarpum và các hoa đỗ quyên khác cùng họ Đỗ quyên Ericaceae, đồng
thời tác dụng lên tim, nó còn kích thích da cùng các màng
nhầy (10). Trong Đông y, đỗ quyên vị đắng tính bình,
hơi độc vào can thận, có tác dụng dưỡng thận khí, bổ thận khu phong, trị
âm suy liệt dương, chân yếu lưng mỏi, di tinh, phối hợp với các vị khác. Chữa
tiết tinh, lạnh tinh, liệt dương: lá thạch nam, ba kích, nhục thung dung, tỏa
dương, sơn thù, mỗi vị 12-20g, sắc uống, hòa thêm 10 g cao ban long càng tốt.
Chữa can thận hư, phong hàn thấp, chân tê yếu : thạch nam, tật lê, hà thủ ô, ba
kích, ngũ gia bì, thỏ ty tử (quả hạt tơ hồng), uy linh tiên, mỗi vị 12-20 g,
sắc uống (LTĐ).
Tôi đã có dịp lên Bạch Mã nhưng không may mắn gặp được mùa
đỗ quyên trỗ hoa. Nghe nói đẹp lắm. "Khi mặt trời rọi những tia nắng ấm
xuống Bạch Mã, dòng suối đã mang hết nước về xuôi, hoa đỗ quyên rực rỡ một
vùng. Sắc đỗ quyên đỏ thắm như máu, nồng nàn như mời gọi mà không rực rỡ, xót
xa như phượng vĩ" (1). Tuy nhiên, tôi lại được đi dạo ở
miền núi Alpes bên Pháp, một chiều đầu hè, mặt trời tuy cao nhưng hết còn nóng,
gió nhẹ thổi vương chút nắng tàn, hoa đỗ quyên cũng đỏ thắm huy hoàng cả một
triền núi xanh thấp thoáng dưới bầu trời lửng lơ mây trắng... Tôi cảm thấy khoan
khoái, dễ chịu do khí trời mát mẻ, không khí trong sạch đã đành, mà cũng có lẽ
vì nhẹ bước giữa những khóm đỏ quyên tươi thắm như hân hoan đón rước kẻ đi dạo
rừng. Khó mà so sánh với Bạch Mã, tuy ở đây cũng có chim nhưng không phải
chim đỗ quyên, cũng có thác nhưng không phải thác Đỗ Quyên. Thôi thì tạm vui
nơi phong cảnh xứ người, có khi may mắn được nghe giọng hát ví von của ca sĩ Đỗ
Quyên khuây khỏa thời gian chờ đợi về tắm ao ta.
Nghiên cứu và Phát triển 2(45) 2004,vietsciences 12.2009
Tham khảo:
1- Nguyễn Hương, Bạch Mã, mùa hoa đỗ quyên nở, Nhớ
Huế - Huế mùa xuân, nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh (2000) 42-45, Rhododendron
simsii, R. indicum, Azalea indica
2- R. De Loose, Qualitative investigation on the flower
pigments of Belgian hybrids of Rhododendron simsii, Meded. Vlaam.
Chem. Ver. 30(4) (1968) 99-123
3- R. De Loose, Azalea indica flower color as related to
the parameters pH, anthocyanins and flavonol co-pigments, Sci.
Hortic. (Amsterdam) 9(3) (1978) 285-90
4- Y.F. Zhang, J.X. Tan, Y.F. Zhou, Change of action
potentials in vagus nerve (efferent) of chronic bronchitic rats and the effect
of treatment with flavonols of Rhododendron simsii, Yao Hsueh Tung
Pao 16(5) (1981) 4-6
5- J. Xie, L. Wang, C. Liu, D. Ge, Synthesis of
expectorant principle of natural flavanone, "matteucinol", Zhongguo
Yixue Kexueyuan Xuebao 8(2) (1986) 84-7
6- M.S. Zheng, An experimental study of the anti-HSV-II
action of 500 herbal drugs, J. Trad. Chin. Med. 9(2)
(1989) 113-6, Rhododendron spp
7- R. Wasicky, Vitamin C cycle in the plant, Anais
fac.farm.e odontol.univ.,Sao Paulo 15 (1958) 87-109
8- R. Wasicky, Extraction of vitamin C from the above
ground portions of plants by the rain, Sci. Pharm. Brazyl26 (1958)
100-3
9- H.P. Chu, G.K. How, The toxic principle
(andromedotoxin) from Nao-Yang-Hua, Rhododendron hunnewellianum. I. The effect
on circulation and respiration, Chinese J. Physiol. 5 (1962)
115-24
10- H. Schindler, Acetylandromedol (andromedotoxin) in
various Ericaceae species, especially in Rhododendron, and ist approximate
determination, Planta Med. 10 (1962) 232-7
11- F. Zymalkpwski, P. Pachaly, S. Auf dem Keller, Determination
of acetylandromedol (grayanotoxin I) in Rhododendron ponticum extracts, Planta
Med. 17(1) (1969) 8-13
12- Lanchow Med. Coll., Pharmacologic action and
toxicity of anthorhododendrin, Chung-Hua Hsueh Tsa Chih54(5)
(1974) 279-83
13- Lab. Med. Plants, Correlation between phylogeny,
chemical constituents and pharmaceutical aspects of plants and their
applications in drug research, Chih Wu Hsueh Pao 19(4)
(1977) 257-62
14- H. Tamura, H. Kuwahara, T. Inui, S. Terada, M. Yokota, A.
Hasebe, Use of Rhododendron. I. Drugs and perfumes, Shizuoka-ken
Kogyo Gijutsu Senta Kenkyu Hokoku (33) (1988) 61-5
15- F. Cong, F. Xiao, Z. Jiang, H. Yan, L. Meng, L. Cheng, Rhododendron
dauricum leaf extracts containing flavones for treatment of cough and asthma, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 86108317 (1988) 4 tr.
16- F. Onat, B.C. Yegen, R. Lawrance, A. Oktay, S. Oktay, Site
of action of grayanotoxins in mad honey in rats, J. Appl. Toxic. 11(3)
(1991) 199-201
17- F. Onat, B.C. Yegen, R. Lawrance, A. Oktay, S. Oktay, Mad
honey poisoning in man and rat, Rev. Envir. Healt9(1)
(1991) 3-9
18- M. Ascioglu, N. Cucer, A. Ekecik, Effect of
grayanotoxin II on in vitro mitotic activity of human lymphocytes, J.
Inter. Med. Res. 26(3) (1998) 140-3
19- A. Tokuta, T. Kawanabe, K. Tokuta, Y. Toue, A.
Satoshi, The new chromene derivatives as 5-lipoxygenase inhibitors, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 10251246 (1998) 5 tr.
20- K.R. Manjeet, B. Ghosh, Quercetin inhibits
LPS-induced nitric oxide and tumor necrosis factor-alpha production in murine
macrophages, Int. J. Immunopharm. 21(7) (1999)
435-43
21- I. Miyajima, K. Ureshino, N. Kobayashi, M. Akabane, Flower
color and pigments of intersubgeneric hybrid between white-flowered evergreen
and yellow-flowered deciduous azaleas, J. Jap. Soc. Hort. Sci. 69(3)
(2000) 280-282
22- B. Puschner, D.M. Holstege, N. Lamberski, T. Le, Grayanotoxin
poisoning in the three goats, J.Amer. Vet. Med. Ass. 219(4)
(2001) 573-5.

4- Hoa cau vườn trầu
Bóng
một giàn hoa một lá trầu,
Ngày xanh lui lại nhớ hàng cau.
Thái Ngộ Khê
Sau mấy chục năm tha hương, về
nước dự đám cưới một người cháu, tôi ngạc nhiên thấy nhà trai còn đem cau trầu
làm sính lễ lại đón cô dâu như thời trước. Tôi mừng thầm, sau hai cuộc chiến
tranh dài dăng dẳng, thảm thê, truyền thống vẫn còn giữ và dân tộc không quên
chuyện truyền thuyết tình cảm, sâu xa của hai anh em Cao Tân, Cao Lang và cô
gái họ Lưu tên Liên thời Hùng Vương kể lại trong Lĩnh Nam
chích quái. Thật ra, Việt Nam ta không phải là nước độc nhất dùng cau
trầu trong dịp cưới hỏi. Suốt vùng châu Á, phía đông bao trùm Thái Bình Dương
đến các đảo cạnh Úc châu, phía tây vượt quá Ấn Độ đến bờ biển Phi châu, phía
bắc lấn tràn Miến Điện và miền nam Trung Quốc, phía nam chiếm toàn Đông Nam Á
với quần đảo Nam Dương, ở đâu đất đai và khí hậu cho mọc cau, trầu là nơi
đó có tục lệ cau trầu.
Bên Java, khi một chàng trai hỏi ý một cô gái, cô gởi trả một
miếng trầu bọc hai lá: nếu úp cùng chiều là cô ta ưng ý. Cô vợ Arakan bên
Myanmar thì đem lá trầu xé làm hai đưa cho chồng một nửa: nếu anh quấn làm
miếng trầu ăn tức là anh đồng ý để vợ ra đi. Không phải tình cờ mà người
Mã Lai lấy tên cây cau, pinang, đặt tên meminang cho
cuộc dạm hỏi rồi pinangam cho đám hỏi, còn người ở đảo Bali
thì đặt tên cho một hòn núi Pinang Gunggam. Bên Ấn Độ, bất cứ
lễ sinh con hay lễ tế người chết đều phải có cau trầu. Người Borneo đặt cau
trầu quanh thi hài người quá cố cùng với những vật thường dùng hằng ngày. Người
Sumatra mang cau trầu đi biếu dân làng mình đến viếng cũng như lúc sắp từ
giã... Cưới hỏi, ly dị, kết nghĩa, chia ly,... rất nhiều quan hệ xã hội lúc
sống, khi chết, đã được diễn tả qua cau trầu.
Chuẩn bị ăn trầu là cả một nghệ thuật truyền thống bên nước
ta. Trước hết là phải biết cách cắt lá trầu, cắt xéo sao cho dễ têm sau nầy.
Cau thường dùng là một lát cau tươi, nếu là cau khô thì phải ngâm trong nước
cho mềm. Nếu răng không còn tốt mà cau quá cứng thì cần phải có ống xoáy, bỏ
vào khi đã đập dẹt. Quết vôi với cái chìa vôi cũng là một nghệ thuật: phải
dùng số lượng vừa phải, nhiều thì quá nồng, ít thì không ngon. Trầu
xanh, cau trắng, vôi nồng, Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên (Ca
dao). Bình vôi mà bên ta thường tôn vinh Ông Bình Vôi, thật ra chỉ là một cái
hũ bằng đất nung, nhưng dùng lâu năm, vôi cứng đóng trong lòng không dùng được
nữa, thường không nhà nào dám vứt đi mà đặt nó lên bàn thờ hay ở gốc đa, treo
trên cây, trước chùa. Ông Bình Vôi là một nhân vật linh động: ông
"đói" khi hết vôi, phải thêm vôi vào để cho ông "ăn",
ban tối ông cần "thở" thì phải rút cái chìa vôi ra,... Về thăm
quê hương năm ngoái, tôi còn thấy cây hương được thắp ngay trong miệng bình vôi
trên bàn thờ. Để thêm hương vị, bớt cay nồng, miếng trầu cũng được ăn cùng với
một vài loại rễ cây như cây chay, cây quách,... thường gọi chung là cây rễ.
Bên Miến Điện sạp bán trầu là cả một cái quầy đầy hũ lọ đựng đủ thứ rễ, đủ loại
ngũ cốc màu sắc rực rỡ có vẻ quyến rũ và người bán, thường là đàn ông, têm đúng
số lượng người mua đặt hàng. Sau cùng còn phải khéo têm trầu, sắp đặt có
mỹ thuật trong cơi trầu trước khi đem mời khách nhất là khi mình làm con
gái tiếp đón gia đình ông chồng tương lai có thể...
Sâu đậm hơn, cau trầu còn là mối liên quan giữa người
và thần linh. Nước miếng đỏ trong miệng người ăn trầu, rất lạ mắt
và có phần ghê tởm cho những người phương Tây, hình dung một sức mạnh cốt
tử trong mắt nhiều bộ lạc. Người Macassar ở Sulavesi dùng nước ăn trầu thoa
trán và thái dương trẻ con bị bệnh. Bên Philippines thì nước trầu được bôi vào
bụng con nít để tránh cảm lạnh. Ở nhiều chỗ khác, nước trầu còn có tính chất
bùa yêu mầu nhiệm. Ở Timor chẳng hạn, thầy phù thủy nhìn màu nước trầu phết vào
trán người chiến sĩ để suy đoán vũ lực và khả năng chiến đấu. Bên Java,
đường gân lá trầu chỉ định bản chất cơn bệnh, còn màu nước trầu thì biểu lộ
tính tình. Người Batak ở Sumatra cung hiến miếng trầu cho ma quỷ để chúng khỏi
rượt đuổi con người (1). Ở Bali, tôi chứng kiến được hằng ngày
các cô gái tân thời, áo cụt, quần jeans, tóc dài, da thắm, đẹp như tiên nữ,
tung tăn, tươi cười, hồn nhiên chạy đặt những khay trầu bằng lá tí hon trước
cửa nhà cũng như khắp các nẻo đường, theo một tục lệ có từ ngày xưa, bất chấp
chúng có tồn tại được lâu hay không.
Thật ra, ngoài chuyện ăn nhai vui miệng, cau trầu không chỉ
là một chuyện dị đoan. Nếu bây giờ miếng trầu qua các tay phù thủy, thì
trước kia những thầy thuốc như Sushruta ở Ấn Độ từ thế kỷ I, những lương y Ả
Rập như Rhazes, Avicienne qua thế kỷ X đã công nhận những giá trị y
học của cau trầu. Các sách xưa ghi miếng trầu kích thích nhiệt huyết, đem hương
vào miệng, củng cố cơ thể, nảy nở vẻ đẹp, tiêu tan bệnh tật, giúp thêm điềm
tĩnh,... Nó còn có khả năng tăng sức tim, chữa đau răng, củng cố nướu răng,... Theo một số sách khác, nó là một trong những thích thú trong đời bên
cạnh ăn uống, áo quần, hương hoa, phụ nữ. Ngày nay, miếng trầu được xếp ngang
hàng với guarana, kola,... những chất nhai chơi có khả năng kích thích (9).
Trái lại, các tu sĩ Miến Điện tin nhai trầu cổ võ suy nghĩ, kích thích tịnh tâm
(2).
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm
Tục lệ cau trầu chỉ được phổ biến ở Âu châu từ những thế kỷ XVI,
XVII, XVIII, bắt đầu với những người Bồ Đào Nha. Tiếp xúc với người Ấn Độ
và người Mã Lai, họ hấp thu hai danh từ vittilei và vetila để
chỉ trầu, dần dần đọc trạnh ra vettele, bettele,... cho
đến ngày nay thành betle hay betel. Bên phía
cau thì hai danh từ akakeya (Ấn Độ) và adakka (Mã
Lai) đã đưọc biến ra thành arec (noix d’arec), aréquier. Những
người Anh quen dùng chữ betle chỉ định trầu, từ đấy cây trầu betle
vine, lá trầu betle leaf, miếng trầu betle
quid, và kỳ quái là cả ngay trái cau betle nut cho
nên lúc ban đầu hay có sự lẫn lộn.
Ở Ấn Độ, tiếng Sanskrit để chỉ trầu là tâmbula, đổi
thành tambuli, tambulam trong tiếng Pali, tamboli,
tambolam trong tiếng Prâkrit, tambul trong tiếng
Persan, al tambul trong tiếng Ả Rập. Phát xuất từ một tiếng
Sanskrit khác, parna, người Hindi ngày nay gọi trầu là pân,
cho nên những quầy quán bán trầu bên Ấn Độ, Myanmar mang tên panshop.
Trong ngôn ngữ Nam Á, chữ trầu thay đổi với các sắc tộc: Khơme mluv, Bana bơlơu, Stieng mlu,
Kha blu, Kha blu, Thái Lan phlu, Môn jablu,
halang lamlu (1). Người Chăm một thời gồm có hai
thị tộc: Dừa và Cau. Thị tộc Cau chiếm giữ vùng Panduranga tức Phan Rang
ngày nay và tháp Pô Klaung Garai đã được vua Jaya Simhavarman III (ta gọi Chế
Mân) dựng lên trên núi Trầu (3) tức Bôn Hala. Lễ vật cúng
ở đây ngoài dê, gà, bánh rượu, lúc nào cũng có kèm theo cau trầu. Sách vở còn
kể nghệ nhân Chăm biết dùng vàng, bạc, đá quý tạo nên những hộp đựng cau, trầu,
vôi chạm trổ công phu. Trong đám quân binh tháp tùng nhà vua, luôn có những
người lính mang những hộp ấy và lễ vật cống hiến Trung Quốc không bao giờ thiếu
hộp cau trầu. Ở miền Nam nước ta còn có làng Trầu Phù Lưu, Thập bát Phù viên
tức Làng Trầu 18 thôn làm nên quê hương vườn trầu lý tưởng (4).
Ở Việt Nam ta, từ điển Alexandre Rhodes viết blâu, đọc giầu ở
miền Bắc thay vì trầu. Ngoài vôi, cau trầu thường được ăn với
vỏ cây chay. Cũng như ở các nước Đông Nam Á khác, cau trầu có mặt trong
tất cả các buổi lễ cúng, cưới hỏi, trang hoàng, trong hoàng tộc cũng như ngoài
dân gian. Nó "biểu tượng cho sự kính trọng, cho lòng biết ơn, cho sự tạ
lỗi - mỗi một khi nhà có việc, đều không thể thiếu cơi trầu, bình
vôi, người bạn đường chung thủy của trầu cau - là quyền lực của người nội
tướng trong gia đình..." (4a). Trong giao tiếp, miếng
trầu là đầu câu chuyện, thay vì điếu thuốc, chén trà. Rồi khi quen
nhau nhiều, không xa nhau lâu được: Láng diềng đã đỏ đèn đâu, Chờ em
chừng giập bã trầu em sang (Nguyễn Bính). Đêm đêm hẹn nhau ân ái ngoài
vườn: Quê em là đêm trăng tỏ, Hoa cau rụng trắng ngoài thềm (Đỗ
Trung Quân). Nhận một miếng trầu là gần như một lời cam kết: Miếng
trầu ăn nặng bằng chì, Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn. Sau này
thành vợ thành chồng, có con cái, ru con ngủ cũng còn lẩn vẩn với chuyện cau
trầu: Mua vôi chợ Quán chợ Cầu, Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh...
Nhưng nếu bản thân cau trầu luôn còn là bài thơ muôn thuở của
con người (4) thì ngày nay khoa học lại phân tích tìm kiếm
trong các loại thảo mộc nầy những tính chất dược lý có thể đem ra ứng dụng
trong đời sống hằng ngày. Mang tên khoa học Pepper (hay Piper) betle
(hay betel) L., trầu, hay trầu không, thuộc họ Hồ tiêu Piperaceae. Tên
khoa học của cau, còn được gọi bình lang, tân lang, là Areca catechu L.,
thuộc họ Cau Arecaceae. Trái cau thường được miêu tả trong
sách báo qua tên areca nut hay, vì lầm lẫn như đã thấy, betle
nut. Bên ta nhân dân dùng lá trầu giã nhỏ, cho thêm nước sôi vào dùng rửa
những vết loét, mẩn ngứa, viêm mạch bạch huyết. Nước pha lá trầu còn được dùng
làm thuốc nhỏ mắt chữa viêm kết mạc, chữa bệnh chàm mặt của trẻ em. Có nơi còn
giã lá trầu cho đắp lên ngực để chữa ho và hen, hoặc đắp lên vú cho sữa không
ra nữa. Trái cau thường được dùng làm thuốc lợi tiểu (gọi là đại phúc bì),
chữa giun sán cho người và súc vật, giúp sự tiêu hóa, chữa viêm ruột, lỵ, trẻ
con chốc đầu, hợp với thường sơn, thảo quả trong đơn thuốc "trường sơn
triệt ngược" chữa sốt rét (ĐTL).
Đôi ta nâng mấy cơi trầu
Đem phân tích, lá trầu chứa đựng năm propenylphenol có tính chất
khử nấm, trừ giun: chavicol, chavibetol, allyl pyrocatechol, chavibetol
acetat, allylcatechol acetat. Những chất phenol khác cũng đã được tìm ra:
hydroxy chavicol, eugenol, methyl eugenol, isoeugenol, flavon, quercetin, nhiều
nhất là safrol trong hoa. Hydroxy chavicol, tác dụng mạnh nhất, cùng eugenol và
tocopherol là những chất kháng oxi hóa đã được chiết xuất từ thân trầu. Những
chất acetyl ursolic acid, ursolic acid và sitosterol có tính chất chống viêm.
Sitosterol cũng đã được xác định dưới dạng palmitat trong rễ trầu cùng piperin,
piperlonguminin trong thân và tritriacontan, cepharadion, dotriacontanoic,
stearic acid trong lá. Bên Ấn độ, một cuộc khảo cứu các tinh dầu, phân biệt
được các loại trầu trồng ở các vùng. Trầu Bangla chứa nhiều eugenol (64%), đặc
biệt chống nấm, trầu Desawari nhiều propenyl benzodioxol (45%). Hai chất
anethol và caryophyllen nổi trội trong trầu Meetha. Trong năm loại trầu vùng
Kapoori thì có cả một loạt hóa chất: thujen, ocimen, cadinen,... Trầu Sanchi
đặc biệt có steraldehyd không tìm ra trong các trầu khác.
Tinh dầu trầu có tác dụng hạ huyết áp, duỗi bắp cơ, trị giun
sán, chữa dị ứng (22) như lá trầu (23).
Trầu hỗn hợp với những phần chiết tiêu lốt Piper longum, thùn
mùn Embelia ribes, cam thảo dây Abrus precatorius, tinh
dầu Polianthes tuberosa, natrium borat, làm thành một thuốc ngừa
thai dài hạn (11). Trầu có khả năng hủy bỏ tác dụng đột biến
của những chất gây ung thư nitrosonornicotin và methyl nitrosoamino
pyridyl butanon từ thuốc lá nhờ những eugenol, hydroxy chavicol, chlorophyll,
vitamin C cũng như chống dimethyl benzanthracen nhờ caroten. Trầu chiết được
dùng với bạc hà trong một hỗn hợp thuốc thơm để cho vào nước súc miệng (21).
Có hoạt kháng chống oxi hóa (24), lá trầu lại hoãn chậm sự ô
khét bơ dầu nhờ vậy giữ được lâu (25.
Như trong lá chè, trái cau chứa đựng nhiều tannin gây ra mùi vị
đặc biệt và được xem như là những chất gây ung thư. Từ tannin nầy, đã được
chiết xuất ra những catechin, epicatechin, leucocyanidin, cùng những chất proanthocyanidin,
di, tri, tetra và penta procyanidin. Trong số các procyanidin, đặc biệt
arecatannin B1 ức chế hoạt động của trùng HIV-1-PR. Một số chất
khác quan trọng trong trái cau là những alcaloid (2,38 mg/g): (%) arecolin
(0,30-0,63), arecaidin (0,31-0,66), guvacolin (0,03-0,06), guvacin (0,19-0,72)
và những dẫn xuất nitroso của chúng rất độc hại cho gen, cho tế bào biểu mô
miệng, niêm mạc mũi, có thể gây u tuyến ở phổi. Những aflatoxin B1,
B2, G1, G2 (3,5-26,2 microg/kg) trong cau
bị nhiễm trùng Aspergillus flavus cũng có tác dụng gây ung
thư. Safrol có khả năng gây ung thư ở thực quản. Acrolein thì rất độc hại cho
gen nhưng lại làm giảm hạ đường trong máu thỏ đã bị alloxan gây bệnh đái đường.
Vôi Ca(OH)2 cho phát xuất những gốc hydroxy OH có thể làm tổn
thương những tế bào miệng. Người ta biết khi thay đổi pH, chẳng hạn lúc tiếp
xúc với vôi là một chất alcali, những alcaloid có khả năng thay đổi màu, ví dụ
nhuộm đỏ trong nước miếng người ăn trầu. Vôi có khả năng ức chế methyl
mercaptan phát tiết ra ngoài nên ăn trầu đở hôi miệng. Chính vôi cũng
đã thủy phân arecolin và guvacolin ra thành arecaidin và guvacin. Cùng với
hai chất này, đã được xác định những alcaloid khác: nicotin, methyl nicotinat,
ethyl nicotinat cùng dimethyl piperidin carboxylat, ethl methyl tetrahydro
pyridin carboxylat. Những polysaccharid trong vỏ trái có tính chất chống bổ
thể, trình bày một số đường 48,2% (rhamnose, arabinose, mannose, galactose)
cùng uronic acid, protein. Saccharin được xác định trong cau dưới dạng muối
natri. Ngoài các acid mỡ (lauric, myristic, palmitic, stearic, phtalic acid)
cau còn chứa đựng những amin acid: ít tryptophan, methionin, hơn 15% prolin,
hơn 10% tyrosin, phenylalanin arginin.
Trong một cuộc khảo cứu rộng lớn trên 100 thảo mộc ở Á Đông,
hãng Coreana Cosmetics đã tìm ra cau cùng với riềng, nghệ, cải, đinh hương, đơn
bì, đại hoàng,... trong số những cây có thể dùng để chiết xuất chất kháng oxi
hóa. Một ứng dụng được thực hiện dựa lên tính chất nầy là cho trộn cau với
dương mai (28) hay với riềng Curcuma longa,
đinh hương Syzygium aromaticum, mộc hương Saussurea lappa (có
khả năng khử melanin) làm thuốc bảo vệ da (18). Có mỹ
phẩm dựa lên tính chất khử thải những gốc tự do của cau (27),
hỗn hợp vói vitamin C (29) hay cam thảo bắc Glycyrrhiza
glabra (30). Nhờ khả năng ức chế tác dụng 5’-nucleotidase,
glucotransferase trong Streptoccocus mutans của những chất
phenol, procyanidin và acid mỡ, cau được dùng để chữa sâu răng, trị viêm răng,
chống mảng răng (17). Bên ta trước kia đã thấy có thói dùng vỏ
trái cau chùi răng, một vật liệu vừa hữu hiệu vừa dễ kiếm cần phải được khuyến
khích. Những chất phenol, đặc biệt những ester, thức biệt thành NF-86I,
NF-86II, NPF-86IA, NPF-86IB, NPF-86IIA, NPF-86IIB, cau được đưa vào thuốc
trị u khối (13,14), chữa các chứng nhiễm virus (16).
Vì ức chế glycerophosphat deshydrogenase, chúng được cho vào thức ăn chống
béo (20). Cũng như trầu, tiêu Piper nigrum, rau
ngót Sauropis androgynus,... cau thuộc số ít thảo mộc ức chế
rất mạnh giun tròn Bursaphelenchus xylophilus, theo một bản báo cao
Mã lai. Trong cau có một phần tannin ức chế được enzym chuyển đổi angiotensin
nên được xem là chất chống huyết áp (12). Dùng dichloro
methan chiết xuất, cau cống hiến một chất thuốc chống trầm cảm (26).
Vườn em đất tốt trồng cau
Một vấn đề khá quan trọng đã được nhiều giới khoa học
lưu ý, đặc biệt ở Ấn Độ là khả năng gây ung thư của miếng trầu. Các bài
tổng kiểm đã được sử dụng lượt kê gần 500 bản báo cáo đủ loại. Kết luận đến nay
chưa ngã ngũ rõ ràng. Công tác sâu rộng và đầy đủ nhất, tuy hơi xưa
(1985), được Tổ chức Quốc tế Khảo cứu về Ung thư thực hiện (5).
Theo bài này, có đủ chứng cớ để tin ăn trầu, thêm hút thuốc, dễ gây ung thư
trên con người nhưng không thể buộc tội miếng trầu một mình. Như vậy là nghĩa
là người vừa ăn trầu vừa hút thuốc có nhiều khả năng mắc bệnh ung thư họng
nhưng không thể nói gì về người chỉ ăn trầu mà thôi. Hai mươi năm sau này,
nhiều bài tổng kiểm khác lại bổ túc. Theo Giáo sư Iwao Hirono (6),
dựa lên những khảo cứu về mặt dịch tể học ở đàn ông, đàn bà các nước Ấn
Độ, Mã Lai, Trung Quốc, thì ung thư chỉ do những yếu tố môi trường như cách
thức ăn trầu chỉ định chứ không dính dáng gì đến di truyền dân tộc. Ông đưa ra
mâu thuẫn lá trầu có khả năng ức chế gây ung thư benzopyren còn cau và vôi thì
có tác dụng ngược lại. Một công tác tương đối mới hơn (1989) (7) nhấn
mạnh vai trò của những alcaloid trong miếng trầu vì chúng tác dụng với vôi để
cấu tạo những gốc tự do phá hoại màng nhầy trong miệng, nơi mà vôi đã từng gây
viêm. Đằng khác, thuốc lá vừa gây phản ứng nitroso hóa các alcaloid kia vừa đem
thêm vào những nitrosamin độc hại của chính mình. Tuy nhiên các tác giả công
nhận là không có thuốc lá, miếng trầu chưa chắc đã gây ung thư. Thiếu vitamin
trong cơ thể, hoạt động vi khuẩn trong miệng và tác dụng gây kích thích
của vôi và cau là những tác nhân tiềm lực.
Theo Giáo sư P.C. Gupta (8), người đã theo
dõi lâu ngày lãnh vực nầy bên Ấn Độ, tuy khảo cứu dịch tể học cũng như thực
nghiệm không chứng minh được miếng trầu không thêm thuốc lá đã đem lại ung thư,
cau trong miệng đã gây những xơ dưới niêm mạc trong miệng tức là một tổn
thương tiền ung thư. Một người hút thuốc đã có sẵn những xơ nầy tất nhiên dễ bị
ung thư hơn những người khác. Ông lập chương trình phòng ngừa: ngừng hút
thuốc nếu ăn trầu và khám nghiệm kịp thời để phát giác thời tiền ung thư. Sau
cùng, một công tác khảo cứu tại viện Đại học Đài Loan (10) đặt
lại toàn thể vấn đề. Theo các tác giả bài báo nầy thì tính độc của polyphenol,
alcaloid và tannin trong cau chưa được chứng minh rõ ràng và cần phải được
xem lại. Phản ứng oxi hóa những polyphenol của cau trong nước miếng người ăn
trầu cho phát xuất những loại oxi có hoạt tính lớn là mấu chốt mọi khởi
xướng và phát triển ung thư miệng. Phản ứng nitro hoá những alcaloid cấu tạo
nên những nitroamin đặc thù của cau đã được chứng minh là những chất gây đột
biến, rất độc về mặt gen và có khả năng cho đột nhập u khối vào thú vật như
arecaidin và phần chiết từ cau. Nhiều thí nghiệm sẽ cần được thực hiện để nêu
rõ sự chuyển hóa của những thành phần cau và vai trò của chúng trong phản ứng
nhiều đợt gây ung thư hầu mong từ đấy tìm ra phương pháp phòng ngừa và chữa ung
thư miệng cũng như u xơ dưới niêm mạc miệng.
Song song với những khảo cứu y khoa kia, kỹ nghệ cũng kiếm
cách ứng dụng những tính chất của cau. Những phenol có khả năng bảo vệ những
nucleotid chống tác dụng phá hoại của những enzym nên được dùng bảo vệ thức ăn
như dưa chuột để giữ hương vị. Chúng ức chế urease chế tạo ammoniac trong urea
nên được dùng làm thuốc thơm trong vật liệu bảo dưỡng mèo. Người ta đã làm
thuốc nhuộm vải, lụa với phần chiết từ cau. Tannin được trộn với natrium
sulfat, natrium carbonat làm thuốc nhuộm tóc đen xám (15). Nhờ
chất proanthocyanidin, đặc biệt chất epicatechin-catechin, cau được hòa với
acetyl glutamin acetat, butylen glycol glycerol trong ethanol và nước thành
thuốc kích thích tóc mọc (19). Một loại giấm giàu enzym và amin
acid, xúc tiến sự tiêu hóa, gồm có một phần hột cau, nước gừng, cải củ, khoai
mài,... Thân cây cau có nhiều lignin, ít hollocellulose, có tính chất cơ
lý học tương đương với các gỗ cứng khác thường được dùng làm giấy. Vỏ trái cau
đem xử lý với nấm đỏ Phanerochaete chrysosporium tăng số
lượng protein lên quá 100%, còn nếu để nguyên cho ủ thì lignin hủy hoại
đến 62% nhưng năng suất khí methan phát ra tăng lên 48%. Tôi rất ngạc nhiên
chưa thấy một nước nào, nhất là các nước ít giàu, dùng vỏ trái cau làm bót đánh
răng, vừa rẻ tiền, vừa vệ sinh.
Mỗi lần về quê, nhìn hàng cau trong nắng, tôi nhớ đến Hàn Mặc
Tử, nhớ qua thôn Vỹ, nhớ về Nam Phổ làng xưa. Trong tai tôi bên phương trời Tây
luôn còn văng vẳng giọng hát ngọt ngào của Thu Hiền:
Nhà anh có một vườn
cau,
Nhà em có một vườn
trầu,..
Thông tin Khoa học và
Công nghệ 2(28)2000, khoahoc.net 01. 2006, vietsciences 03.2006,
chimviet.free.fr 02.2006
Tham khảo:
1- Solange Thierry, Le bétel trong Catalogues
du Musée de l’Homme, I. Inde et Asie du Sud-Est, 14-20
2- Dawn F. Rooney, Betel Chewing. Traditions in
South-East Asie trong Images of Asia (1993) 1-15
3- Ngô Văn Doanh, Tháp cổ Chămpa. Sự thật và huyền
thoại, nxb Văn hóa - Thông tin (1994) Hà Nội 175-186
4- Nguyễn Ngọc Chương, Trầu cau Việt điện thư, nxb
Hồ Chí Minh (1990/1997) 18; 4a- Trần Ngọc Thêm, Lời giới thiệu
5- International Agency for Research on Cancer, IARC
Monographs on the evaluation of the carcinogenic risknof chemicals to humains,
Vol. 37, IARC (1985) Lyon 141-202
6- I. Hirono, Naturally occuring carcinogens of plant
origin, trong Bioactive molecules, nxb
Kodansha-Elsevier(1987) Tokyo-Oxford-New York 167-181
7- S. Sen, G. Takukder, A. Sharma, Betel cytotoxicity, J.
Ethnopharm. 26 (1989) 217-46
8- P.C. Gupta, Betel quid and oral cancer: prospects
for prevention, Tobacco Smoke and Mycotoxins, IARC (1991) Lyon
466-470
9- J.F. Morton, Widespread tannin intake via stimulants
and masticatories, especially guarana, kola nut, betle vine, and accessories, Basic
Life Sci. 59 (1992) 739-65
10- J.H. Jeng, M.C. Chang, L.J. Hahn, Role of areca nut
in betel quid-associated chemical carcinogenesis: current awareness and future
perspectives, Oral Oncology 37(6) (2000) 477-92
11- P.C. Das, Oral contraceptive (long-acting), Brit. 1,445,599
(1976) 11tr.
12- J. Inokuchi, H. Okabe, T. Yamauchi, A. Nagamatsu, G. Nonaka,
I. Nishioka, Antihypertensive substance in seeds of Areca catechu L., Life
Sci. 38(15) (1986) 1375-82
13- K. Uchino, T. Matsuo, M. Iwamoto, New
5’-nucleotidase inhibitors, NPF-86IA, NPF-86IB, NPF-86IIA, and NPF-86IIB from
Areca catechu. Part I. Isolation and biological properties, Planta
Med. 54(5) (1988) 419-22
14- T. Matsuo, M. Iwamoto, Y ? Tonosaki, A. Fukuchi, Novel
antitumor substances from betel nut, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
63,307,892 (1988) 24tr.
15- K. Mizumaki, Hair dyes extracted from plants, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 02,138,114 (1990) 7tr.
16- A. Fukuchi, M. Iwamoto, K. Uchino, H. Ogawara, H. Hideki, N.
Yamamoto, Virucide extraction from betel nuts for treating human
immunodeficiency virus infection, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
02,196,725 (1990) 22tr.
17- M. Iwamoto, K. Ugino, Y. Toukairin, K. Kawaguchi, T.
Tatebayashi, H. Ogawara, Y. Tonosaki, The growth inhibition of
Streptococcus mutans by 5’-nucleotidase inhibitors from Areca catechu L., Chem.
Phar. Bull. 39(5) (1991) 1323-4
18- S. Shirota, K. Myazaki, M. Ichioka, T. Yokokura, Skin-lightening
cosmetics containing melanin inhibitors from plants, Jpn. Kokai
Tokkyo Koho JP 06,227,960 (1994) 54tr.
19- T. Takahashi, Y. Kobayashi, M. Kawamura, Y. Yokoo, T.
Kamiya, T. Tamaoki, Hair growth stimulant , PCT Int.
Appl. WO 96 00, 561 (1966) 22 tr.
20- T. Wada, T. Mizumo, K. Uchino, Glycerophosphate
dehydrogenase inhibitors, their use as food additives, and antiobesity foods
containing them, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 09,286,734
(1997) 6tr.
21- Y. Yahamara, T. Aoki, K. Miyake, H. Shioda, Agents
and method for improvement of flagrances and flavors using Piper betle extracts, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 11130685 (1998) 8 tr.
22- Y. Yamahara, Anti-allergic effects of Piper betle, Food
Style 21 2(4) (1998) 66-8
23- J. Yamahara, Allergy inhibitors containing extracts
of Piper betel, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 11130685 (1999)
5 tr.
24- C.K. Wang, H.Y. Su, C.K. Lii, Chemical composition
and toxicity of Taiwanese betel quid extract, Food Chem.
Toxicol. 37(3-2) (1999) 135-44
25- L.P. Lean, S. Mohamed, Antioxidative and antimycotic
effects of tumeric, lemon-grass, betel leaves, clove, black pepper leaves and
Garcinia atriviridis on butter cakes, J. Sci. Food Agric.79(13)
(1999) 1817-22
26- A. Dar, S. Khatoon, Behavioral and biochemical
studies of dichloromethane fraction from the Areca catechu nut, Pharmarm.
Bochem. Behavior 65(1) (2000) 1-6
27- B.G. Cho, G.G. Lee, G.S. Lee, Composition of free
radical eliminating cosmetic material containing extract of Areca catechu L., Repub.
Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2001058419 (2001) không có số tr.
28- J.D. Choi, G.H. Kim, G.S. Kim, G. Geon, Whitening
and wrinkle improvement cosmetics composition containing Areca catechu extract
and arbutin, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR
20021205 (2002) không có số tr.
29- J.D. Choi, G.G. Lee, G.S. Lee, Cosmetic compositions
comprising vitamin C or derivatives thereof and Areca catechu L. extract
for preventing skin aging, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR
2003043471 (2003) không có số tr.
30- K.K. Lee, K.S. Lee, medicinal cosmetical composition
with Areca catechu seed extract, PCT Int. Appl. WO
2004089327 (2004) không có số tr.

5- Hoa Quỳnh, nữ hoàng trong đêm
Mấy o
gái Huế lòng bền như cửu đỉnh
Đôi mắt cười sóng sánh nét quỳnh hoa
Hồ Đắc Thiếu Anh
Ngày xưa có một nàng công chúa
nhan sắc tuyệt vời, trong cung ngoài phố ai cũng ngưỡng mộ sắc đẹp của nàng.
Nhà vua anh nàng muốn cưới nàng làm vợ nhưng nàng không chịu vì theo truyền
thống Á Đông không có chuyện lấy nhau trong gia đình. Tức giận, nhà vua đày
nàng ra một hòn đảo ở ngoài Biển Đông. Nàng đành sống ở đó và không bao lâu thì
mất đi. Hồn nàng hóa kiếp trong thân một cây mà hoa nở ra hương sắc mặn mà,
tiếng vang đồn ra khắp nơi. Nhà vua tò mò một hôm cũng lấy thuyền ra đảo xem
hoa. Cập đảo vào ban tối, vua tự nhủ sáng mai lại xem cũng không muộn. Nhưng
nàng công chúa không muốn vua thấy nàng, dù ở hình thể một đóa hoa, nên chưa
đến sáng thì hoa tàn. Từ đây, hoa chỉ nở lúc đêm khuya.
Một huyền thoại khác cũng được lưu truyền. Thời nhà Tùy bên Trung
Quốc, tại Lạc Dương Thành, ở ngôi chùa cổ kính Dương Ly, một tối khuya ngoài
cửa chùa thình lình ánh sáng rực lên, hương thơm sực nức làm dân chúng bàng
hoàng, đổ xô lại xem. Gần giếng nước trong sân chùa mọc lên một cây bông lạ,
trên ngọn nở ra một đoá hoa tuyệt trần, cánh hoa trắng nõn, nhụy hoa điểm vàng,
mùi thơm ngào ngạt bay toả khắp nơi, lan xa ngàn dặm. Tin đồn đến tai Tùy Dạng
Đế lúc ấy trị vì ở Dương Châu. Là một ông vua hôn quân vô đạo, chơi bời trác
táng, ông cũng muốn đi thưởng ngoạn đóa hoa. Cần có đủ mặt bá quan văn võ triều
thần hộ giá, để tiện việc di chuyển, ông ban lệnh khai kênh Vạn Hà từ Trường An
đến Dương Châu, hao tốn hàng triệu ngày công lao động và hàng vạn công nhân bỏ
mình, gây ra nạn đói kém và dân chúng nỗi loạn khắp nơi, bước đầu của cuộc suy
sập nhà Tùy. Chính ngay trong số bá quan tháp tùng có mặt Lý Uyên và con là Lý
Thế Dân sau nầy lên ngôi lấy hiệu Đường Thái Tông. Ngay tối hôm đến Lạc Dương
Thành, Lý Thế Dân và bằng hữu vội đi xem hoa, sợ ngày mai phải chen chúc với
triều thần. Nhận ra chân mạng đế vương, hoa nhún mình xuống ba lần để nghinh
đón. Xong, một cơn mưa to làm rụng đóa hoa. Sáng hôm sau, Tùy Dạng Đế chỉ còn
thấy cuốn hoa úa rũ, tan tác, liền tức giận ra lệnh nhổ cây vứt đi. Từ đây hoa
chỉ nở vào đêm và đi vào truyền thuyết hoa quỳnh (1).
Cách đây 250 năm, quỳnh đã được nói đến là một cây mọc hoang ở Nam
và Trung Mỹ, ở Mexicô, Cuba, Guatemala cũng nhưng ở quần đảo Antilles. Cây
thích mọc ở xứ khí hậu nóng, nhưng không ưa trực tiếp chịu ánh nắng mặt trời.
Mặc dầu có khi mắc trên một cây khác, quỳnh không phải là một cây ký sinh như
tầm gửi, cũng không phải là một cây cộng sinh như phong lan, mà mọc trong đất
loại đất mùn, không cần nhiều nước, miễn là thoáng khí. Câu thơ của nhà thi hào
Nguyễn Du trong cuốn Kim Vân Kiều Hài văn lần bước dậm xanh, Một vùng
như thể cây quỳnh cành giao tuy cành giao có nghĩa ngọc quý như lá
ngọc cành vàng, làm người ta thường lầm tưởng quỳnh và giao (còn gọi cây san hô
xanh hay xương khô, thập nhị (TH), ngọc thụ, quang côn thụ (ĐTL), tên khoa
học Euphorbia tirucalli )sống cộng sinh với nhau hay hợp lại
thành cây quỳnh giao, thật ra giao là một cây dễ trụi lá và làm thành cột cứng
để quỳnh vốn mềm mại dựa vào. Không phải tình cờ mà người con đầu lòng của cụ
Phạm Quỳnh, một người rất hâm mộ truyện Kiều, được đặt tên Phạm Giao. Trồng
quỳnh tương đối dễ. Thường có thể chỉ cắt một đoạn thân, có thể dưới dạng lá,
cho cắm vào đất; sau đó những thân, cành và hoa mọc ra trên kẻ lá ấy. Các nhà
khảo cứu Do Thái đã có thử cấy mô nhiều loại quỳnh (14). Cho
hoa nở ra là một chuyện khác. Thường phải đặt chậu hoa vào nơi có ánh sáng
nhưng đừng quá nóng, phải đợi nhiều năm và chăm nom cắt tỉa, đừng cho cành, lá
mọc quá rườm rà, tưới nước vừa phải. Có người khuyên nên dùng phân dành cho
xương rồng bán trên thương trường. Hoa có thể nở hai đợt, vào mùa xuân và vào
mùa thu. Tùy loại, nhất là các giống lai, hoa có nhiều màu sắc khác nhau, có số
lượng ít nhiều trên mỗi cây và thời gian nở dài hay ngắn, ngày hay đêm.
Tên tôn vinh bên nước ta "Nữ hoàng trong đêm" tương
đương với tên gọi Tây phương Queen of the Night, Reine de la Nuit,
Königen der Nacht, Regine della Note, Reina de la Noche, Tên
khoa học tương đối phức tạp hơn vì có nhiều loại trong cùng một họ Xương
Rồng Cactaceae. Vì Tây phương gọi cactus, rất dễ
hiểu có những tên Phyllocactus grandis, P.grandiflora. Lấy gốc từ
tên vị nữ thần mặt trăng Hy Lạp Selene, một mỹ nhân e lệ, tên chi Selenicereus đã
được đặt ra. Chi này gồm có ít nhất bốn chục loài mà loài được biết nhiều nhất
là S. grandiflorus Britt. et Rose(còn có tên Cactus
grandiflorus) đã được nhà thảo mộc Thụy Điển Carl von Linné nhận dạng từ
1753. Vì cây phát triển trên một thân dạng lá, nên còn có tên chi Epiphyllum dựa
lên các danh từ Hy Lạp epi (nghĩa là trên) và phyllum (nghĩa
là lá). Có khoảng một chục loài lai giống Epiphyllum khác nhau
ở màu sắc (trắng, vàng, hồng, cam, tím) và kích thước hoa (10-35 cm). Hai
tên E. oxypetallum Haw.và E. akermannnii Haw.
thường được dùng để chỉ định những hoa quỳnh ở Việt Nam, nở ban đêm. E.
oxypetallum (bên Nhật Bản được gọi gekkabijin (15),
còn mang tên Phyllocactus grandis) gốc thân hình trụ, phần trên và
cành dẹt như lá có gân giữa cứng, khoẻ, mép thân uốn lượn và có khía tròn, màu
xanh bóng, dày (TH), hoa mặt ngoài ửng hường, các phiến trong trắng, tiểu nhụy
nhiều, noãn sào hạ, vòi nhụy trắng (PHH). E. akermannnii (gọi
là quỳnh đỏ) thân dẹt màu xanh bóng có múi nhỏ và phân cành ngắn, hoa lớn nở ở
đầu cành, ngoài có lá bấc dạng vẩy, cánh hoa dài, mảnh màu đỏ tươi ở ngoài, màu
đỏ hồng ở trong, nhị nhiều, bầu có vòi màu đỏ nhạt (TH). Gần đây nghe nói ở Đà
lạt có một giống quỳnh Nhật màu vàng đỏ, nở ban ngày. Ngoài ra, tương tự trong
họ Xương rồng còn có E. truncatus là cây càng cua hay huỳnh
hoa, Hylocereus undatus là cây thanh long hay tường liên.
Một vài công tác khoa học cho ta biết thêm ít nhiều về thành phần
các cây quỳnh. Chất sắc xác định trong Phyllocactus grandiflora là
một bêta-xanthin gọi là portulaxanthin (7). Epiphyllum
sp. cũng như Hylocereus undatus chứa đựng những
sterol, nổi trội là sitosterol kèm theo stigmasterol (11).
Kinetin ở lá và đọt cây (6) và tyramin trong chương trình
tìm kiếm những chất amin có tính chất trợ tim (9) đã được
tìm ra trong Selenicereus grandiflorus. Ở Ấn Độ, chính đọt non cây
đã được dùng để thay thế chất digitalin từng có thành tích trên tim. Phần chiết
khô cây này với ethanol chứa đựng một lượng nhỏ isohamnetin (1-3,6%)(13) còn
phần chiết tươi cống hiến một alcaloid là hordenin trước kia được gọi
cactin (10). Tetrahydroso quinolin cùng nhiều alkaloid phức tạp
hơn dimethy hydroxy bêta-phenylethylamin tức hordenin đã được tìm ra trong
những cây trong họXương rồng (8). Các nghiên cứu về dược học
của Epiphyllum oxypetallum được thực hiện tại Đài Loan (2).
Người Nhật Bản khảo cứu tác dụng cây nầy lên các tế bào biểu bì để tìm cách
tăng gia độ ẩm nước da (15). Họ tìm ra được trong hoa chất thơm
benzyl salicylat (12). Hoa quỳnh được xem là có vị ngọt, tính
bình, có tác dụng chống viêm, chống sưng, cầm máu. Hoa được dùng để chữa ho ra
máu, sưng cổ họng, xuất huyết tử cung. Hoa cũng được nấu chung với thịt heo để
trị sưng phổi, ho hen, và các bệnh đường. Sắc và uống 3-5 hoa. Có thể giã nát,
đắp lên vết thương, sưng, đau, hay thoa bóp giảm đau thấp khớp. Thân có vị
chua, mặn, tính mát, có tác dụng chống sưng. Toàn cây có tác dụng thanh phế,
trị ho. Tác dụng cây này lên hệ thống thần kinh giao cảm, tốc độ bất thường
nhịp tim, hiện tượng chảy ngược van hai lá, sự suy nhược thần kinh qua những
triệu chứng của tim, đã được những nhà khảo cứu Hoa Kỳ tìm hiểu (3).
Đặc biệt, họ đem thử hột Cactus grandiflorus lên tim để xem
những triệu chứng trong mục đích dùng nó làm thuôc chữa bệnh (5).
Trong liệu pháp vi lượng đồng cân, ngoài cơn đau viêm họng, cây được dùng để
chữa co giật, xuất huyết, nhiễm khuẩn tiết niệu. Nước vắt từ cây đem uống chữa
được những chứng thiếu kém hơi thở, nhiễm khuẩn bóng đái. Trong dân gian, cây
nằm trong các liều thuốc cầm máu, ngưng khạc ra máu, kinh nguyệt khó khăn. Nó
có thể dùng để chữa suy nhược và những chứng xúc cảm (13). Cây
cũng được liệt vào các thuốc kích dục.
Trong thiên nhiên biết bao là cây hoa khoe sắc tỏa hương, nhưng
trong số những hoa nở ban tối, có lẽ chỉ có hoa quỳnh là xứng nhất được mang
danh "Nữ hoàng trong đêm". Thảo nào các cụ đời xưa bên ta tổ chức
ngắm hoa, tận hưởng một thú vui tao nhã theo phương cách Á Đông. Thường các cụ
mời bạn bè lại nhà rồi trong khi chờ đợi hoa nở, các cụ cùng nhau thưởng thức
một tuần trà đậm đà. Có khi một vài chén rượu trắng giúp các cụ sáng tác những
câu thơ mà các cụ vui thích cùng nhau ngâm nga. Tôi qua bên Pháp quá lâu nên
hết còn có dịp nếm cái tinh khiết của cuộc ngắm hoa của các cụ thời xưa. Nhưng
vừa rồi, sau hơn hai mươi năm chờ đợi, khá lâu có lẽ vì không biết cách săn sóc
cây trồng, sau một chuyến đi xa về khuya, tôi và nhà tôi ngạc nhiên thú vị thấy
cây quỳnh ở nhà mình trổ hoa ở Xô thành, miền nam Paris, chưa đến sáng thì tàn.
Đóa hoa quỳnh đầu tiên của chúng tôi trên đất Pháp! Thì ra cây cũng như người,
giống tốt miễn gặp đất lành là mặc sức mọc rễ, đâm chồi, nở hoa. Không có thì
giờ loan báo bạn bè, chúng tôi chỉ biết cùng nhau hai đứa cụng nhau hai mái đầu
bạc chia sẽ nỗi hân hoan. Chúng tôi ngây ngất ngắm mãi không chán những cánh
hoa nõn nà trong trắng như cô gái trinh bạch, bao quanh từ lòng sâu một dãy
nhụy hoa vàng lạt, đầu đỏ, mảnh khảnh yểu điệu như những vũ nữ trên một chiếc
thuyền rồng, dẫn trước là vòi nhụy trông như một cái chong chóng nhiều cành.
Riêng phần tôi tỉnh cơn mê, chiếu đèn chụp hình ngang dọc, trong ngoài cho khỏi
tiếc sau nầy, vì theo kinh nghiệm đã sống, không biết bao giờ mới lại có hạnh
phúc ngồi ngắm hoa quỳnh ở nhà mình. Sắc đẹp phù du, vẻ đẹp chung thủy (4),
làm sao nói lên toàn vẹn cảm xúc của mình truớc một đóa hoa đẹp lộng lẫy như
hoa quỳnh. Đỗ Phủ đã từng thốt lên: Nhất phiến hoa phi giảm khước
xuân, hoa đẹp đến nỗi chỉ một cánh hoa thôi rơi cũng đủ để làm giảm
bớt cái đẹp của mùa xuân. Nhưng hoa quỳnh may thay nở đến vài giờ, một cánh
cũng không rụng, thời gian dù ngắn cũng đủ cho ta mơ say, xao xuyến.
Em ơi, đêm thơm một đóa quỳnh
Cùng em hương vương không gian
Cho ta mơ say mộng ngát tình
Quyện màu sắc thắm môi em.
(Dạ quỳnh hương:
- Thơ Hoàng Ngọc Quỳnh Giao
- Nhạc Phạm Anh Dũng)
Nghiên
cứu và Phát triển 4(69) 2008, khoahoc.net 12.2009
Tham khảo:
1- Phỏng theo Lý Lạc Long, Hương sắc quỳnh hoa, Thu
Quan vantuyen.net; www.cinet.vnnews.com/suutam/quynh.htm
2- Trần Việt Hưng, Dược thảo bông hoa, dẫn S.Y. Chow ,
C.F. Chen, S.M Chen, Pharmacological effects of Epiphyllum oxypetallum, Taiwan
Yi Xue Hui Za Zhi (Đài Loan tạp chí) số 12.1977; vnthuquan.net
3- H.W. Keiter, Cactus (Selenicereus spp.), The
Electric materia medica, Pharmacology and Therapeutics, 1992; henriettesherbal.com
4- Hải Đà - Vương Ngọc Long, Tản mạn về hoa quỳnh, khoahoc@doisong 22.06.2006; www.vuonghaida.com/.
5- J.S. Hepburn, G.W. Boericke, R. Ricketts, E.D. Boone, Laboratory
study of twenty drugs on normal human beings, with comments on their
symptomatology and therapeutic use, J. Amer.Inst. Homeop.43 (1950)
130-34
6- L. Engelbrecht, K. Nogai, Action of kinetin on the
inhibition of metabolism by chloramphenicol, Flora (Jena) (2) 154 (1964)
267-78
7- M. Piattelli, L. Minale, R.A. Nicolaus, Further
research on betaxanthins, Rendiconto dell’Accademia delle Scienze
Fisiche e Matematiche Naples 32 (1965) 55-6
8- S.D. Brown, J.L.Jr. Massingill, J.E. Hodgkins, Cactus
alkaloids, Phytochem. (11) 7 (1968) 2031-6
9- H. Wagner, J. Grevel, New cardioactive drugs. II.
Detection and isolation of cardiotonic amines with ion-pair HPLC, Planta
Medica (1) 44 (1982) 36-40
10- H. Petershofer-Halbmayer, O. Kubelka, J. Jurenitsch, W.
Kubelka, Isolation of hordenine ("cactine") from Selenicereus
grandiflorus Britt. + Rose and Selenicereus pteranthus (Link + Otto) Britt. +
Rose, Scientia Pharmaceutica (1) 50 (1982)
29-34
11- T.A. Salt, J.E. Tocker, J.H. Adler, Dominance of delta
5-sterols in eight species of the Cactaceae, Phytochem .(3) 26 (1987)
731-3
12- N. Matsuura, The analysis of the aroma ingredients of
the flower of Queen of the Night (Epiphyllum oxypetalum Haw.), Koryo 214
(2002) 129-33
13- S.S. Chatterjee, M. Noeldner, K. Schoetz, Use of plant
extracts containing rutin and isorhamnetin for treating depressive states and
depression and other emotional disorders, PCT Int. Appl. WO
2004078189 (2004) 18 tr.
14- N. Tel-Zur, S. Abbo, D. Bar-Zvi, Y. Mizrahi, Clone
identification and genetic relationship among vine cacti from the genera
Hylocereus and Selenicereus based on RAPD analysis, Scientia Hortic.
(Amsterdam) (1-4) 100 (2004) 279-89
15- S. Suzaki, Moisturizing effect of Gekkabijin (Epiphyllum oxypetalum
Haw.) extract, Frag. J. (10) 33 (2005) 51-6.

6- Mai Ngũ Phúc, mai Vạn Hạnh
Đừng
tưởng xuân tàn mai rụng hết,
Đêm
qua sân trước một cành mai.
Thiền sư Mãn Giác,
Ngô Tất Tố dịch
Trước nhà ba mẹ tôi ở làng Mỹ
Cang, bên bờ sông Ô Lâu, có hai cây mai hoa vàng. Lúc nhỏ tôi rất phục
thấy mai hằng năm đúng hẹn nở ngay vào dịp Tết, trừ những năm đầu chinh
chiến 46-47 như mai đã hiểu thấu lòng người chẳng còn bụng dạ nào nữa để
vui xuân, mừng năm mới. Thật vậy, như anh đào bên Nhật, hoa đào ngoài Bắc, bông
mai là biểu tượng mùa xuân ở miền Trung. "Hoa nở trong sương mù, trong
nắng ấm ban mai, trong giá rét mà sắc vẫn vàng như tơ lụa. Ôi sắc vàng của hoa
mai là một kỳ tích của tạo hóa. Như nắng mà không phải là nắng, như gió mà
không phải là gió, như sương mù mà cũng không phải là sương mù. Sắc vàng của
hoa mai là tích số của trời và đất. Những chuyển biến của thái hư đã sinh
thành nên một màu hoa lụa là" (4). Trong thơ văn, hoa mai
xuất hiện từ lâu. Mai và hạc là bạn tri âm được danh sĩ Nguyễn Trung Ngạn
(1289-1370) đề cao hình dáng, điệu bộ từ thế kỷ 14:
Dã mai cốt cách, nguyên: phi tục,
Hải hạc phong tư, tự:
bất quần.
(Cái cốt cách của mai
rừng vốn không thô tục, phong tư của loài hạc biển tự nó không thích họp
bầy) (5).
Qua thế kỷ sau, vua Lê Thánh Tông (1460-1497) (2) ca
ngợi hoa mai qua 6 bài thơ Cây mai, Cây mai già, Hoa mai đầu xuân, Bóng mai
trong nước, Hoa mai vẽ, Lại vịnh hoa mai vẽ, trong đó có câu :
Trội cành Nam chiếm một chồi,
Tin xuân mãi mãi điểm
cành mai.
Nhà ngoại giao Hi Doãn Ngô Thời Nhiệm (1745-1803) cho mai
vinh dự đón nhận những hột nước mắt của Huyền Trân:
Huyền Trân sái tận u sầu lệ
Hoa tác xuân mai dạ vũ
thanh.
(Huyền Trân nhỏ hết
nước mặt u sầu, hoá thành những tiếng mưa đêm trên cành mai mùa xuân).
Đằng sau những cánh mai thanh thoát, mỹ miều còn ẩn chứa một ý
nghĩa tâm linh, một niềm tin và khát khao thanh bình (3). Thảo
nào nhà thi hào Tố Như Nguyễn Du (1765-1820) trong cảnh thiên nhiên rừng núi
chỉ biết có mai và hạc:
Nghêu ngao vui thú yên hà,
Mai là bạn cũ hạc là
người quen.
Trong những hòn non bộ, mai bị uống xoắn như được khổ luyện,
lặng lẽ cam chịu những đau đớn và vất vả trước khi sinh thành cái đẹp bất
tử (4). Có phải vì vậy mà một người cao ngạo như Chu Thần Cao
Bá Quát (1809-1855) cũng chịu cúi đầu trước hoa mai:
Thập tải luận giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ
bái mai hoa.
(Mười năm giao du tìm
thanh kiếm cổ, một đời chỉ biết cúi lạy hoa mai).
Mùa thu năm 1868, nhà văn Đặng Huy Trứ (1825-1874) đã đặt làm
một loạt đồ sứ để cúng tế tại nhà thờ. Hiện nay còn tồn tại 7 dĩa, tô,
chén, bình hoa vẽ cá, nai, lên, hoa, đặc biệt dĩa bàn trà vẽ tích "Đạp
tuyết tầm mai" ghi câu thơ:
Tuyết trung vị vấn điều canh sự
Tiên cú bách hoa đầu
thượng khai.
(trong tuyết giá chưa
hỏi đến việc nhà vua giao phó, câu đầu tiên để thưởng thức hoa mai nở trước
trăm hoa) nói lên sự phấn khởi, hứng thú của thi nhân được thưởng thức hoa mai
nở trước mọi hoa khác. Dĩa nầy hiện nằm trong bộ sưu tầm của nhà khảo cứu Trần
Đình Sơn (2).
Hoa mai thường có năm cánh nhưng cũng có thể có ít hay nhiều
hơn. "Các cụ xưa kia thích mai năm cánh vì đó mới là mai truyền thống.
Năm cánh hướng về một tâm điểm tạo thành vòng tròn như mặt trời và các nhụy hoa
giống như những tia nắng rực rỡ ban mai. Mai là thời điểm bắt đầu của một ngày
mới, là bình minh, là hy vọng tốt lành. Ngày nay, bà con lại thích những cây
mai, cành mai có hoa to rực rỡ, nhiều cánh, nở lâu tàn và coi đó là những cành
mai ngũ phúc, với hy vọng năm mới sẽ phát tài, gia đình đại cát, đại lợi. Mai
nhiều cánh tượng trưng cho kiết tường, cho kiết hạnh" (3).
Đứng đầu trong tứ hữu mai-lan-cúc-trúc, trong tứ thời mai-liên-cúc-tùng, mai
cũng là thành phần của tam ích hữu tùng-mai-trúc (trượng phu tùng, ngự sử mai,
quân tử trúc) được thể hiện trong bài ngũ ngôn cổ phong 16 câu trên một ống
tranh:
Tùng mai trúc kết nạp
Bút đoan miêu tam
bằng.
Thể dị nại tuế hàn,
Tâm phù tiện cổ thu.
Lập nhân đường ngẫu
đề, Ất Dậu niên chế 1765.
(Tùng cúc mai họp lại,
lấy bút vẽ ba chàng, thể khác chung chịu rét, nếp xưa lòng cử hoài) (3).
Lẽ tất nhiên những cây mai được miêu tả, kê dẫn trong thơ văn không phải cùng
một loài và khác nhau tùy tác giả.
Mai có nhiều loại. Về mặt cấu trúc, mai được chia ra mai sẻ, mai
châu, mai liễu, mai chùm. Dựa vào màu sắc, mai được sắp thành hoàng mai, bạch
mai, thanh mai, hồng mai (2). Trong sách Cây cảnh, hoa
Việt Nam, ông Trần Hợp kê năm loài hoa mai thuộc ba họ (TH). Cây mai
tứ quý tức mai đỏ Ochna atropurpurea DC, cây huỳnh mai
tức mai vàng O. integerrima (Lour.) Merr. (còn có tên O.
harmandii H. Lec) và cây mai vàng thơm Ouratea lobopetala Gagnep.
thuộc họ Mai tức Lão mai Ochnaceae. Cây mai chấm thủy Wrightia
religiosa (Teijeims. et Binn) Hook.f., hoa màu trắng xòe rất thơm,
chủng lá nhỏ trồng làm cảnh trong chậu gọi là cẩm mai, thuộc họ Trúc đào Apocynaceae.
Còn cây mai gốc Nhật Prunus mume Sieb. et Zucc. (hay Armaniaca
mume Sieb) thì thuộc họ Hoa hồng Rosaceae. Cây này rất
phổ biến ở Á Đông. Bên Nhật Bản gọi cây là ume, từ đấy có tên
rượu umeshu, dưa umeboshi. Người Trung Quốc
có tên mei tương tự mai của ta, và rễ cây yemeigen. Tên
cây mai nầy bên Hàn Quốc là maesil. Anh Mỹ có danh từ Japanese
apricot. Theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, ngoài ba cây mai vàng O.
integerrima, mai đỏ O. atropurpurea và mai chấm thủy Wrightia
religiosa, ở Việt Nam còn có bốn cây: mai cánh lõm Gomphia
serrata (Gaertn.) Kanis, mai sọc G. striata (V.
Tiegh.) C.F. Wie, mai mù u tức bạch mai Ochrocarpus siamensis var. odoratissimus Pierre
và mao lai Bon Sinosideroxylon bonii Anbr. đều thuộc họ
Mai Ochnaceae (PHH). Ở Huế, những cây thuộc họ
Mai, ngành Thực vật có hoa Anthophyta, chỉ thu thập và định danh
được ba loài mai vàng O.integerrima (với hai biến dạng: mao
hồng diệp và mai trắng), mai tứ quý O. atropurpura và mai
núi Indosinia involucrata (Gagnep.) Vid. (1).
Trong các loài mai, cây mai Nhật Prunus mume được
khảo cứu nhiều nhất. Những nhà khảo cứu Hàn Quốc đã xác dịnh được 72 hóa chất
mà những chất thơm nhiều nhất là benzaldehyd, terpineol, hexadecanoic acid.
Cũng góp phần vào mùi hương là những chất dễ bốc hơi như acetaldehyd, ethanol,
butanol, methyl acetat, ethyl acetat, ethyl butyrat, butyl butyrat tìm được
trong trái. Khi trái bắt đầu chín, số lượng butyl acetat tăng gia nhưng chất
thơm nổi trội lúc ấy lại là ethanol và ethyl acetat. Trong trái tươi, đã
được xác định những citric, malic, oxalic, succinic, tartaric, fumaric acid bên
cạnh vitamin C (24). Khi trái chín, những amin acid, arginin,
serin, glutamic acid, glutamin, alanin, aspaeragin tăng lên nhiều. Những nhà
khảo Cứu Nhật Bản đã chiết ra những chlorogenic, neochlorogenic, caffeoyl
quinic acid. Dầu ép từ trái tươi chứa đựng một số aliphatic hydrocarbon C14-C24 cùng
terpineol, guaiacol, cresol, eugenol, hexenol, linalool, linalool oxyd,
furfural, methyl furfural, valeric, isovaleric, caproic acid. Từ hột,
benzaldehyd, ethyl benzoat, sitosterol, amygdalin đã được chiết xuất cùng nhiều
acid: valeric, isovaleric, caproic, caprylic, benzoic, lauric, palmitic,
stearic, oleic, linoleic succinic, citric, oleanolic acid.
Thân cây khô đem chiết nước cống hiến những triterpenoid như
ursolic, oleanolic acid. Dùng methanol chiết gỗ cây thì được những chất
phenolic như epicatechin, genkwanin, leucoanthocyanin, với chút ít các chất
đường như glucose, trehalose, mannitol (8), những flavonoid như
prudomenin, dihydro prudomenin. Cũng dùng methanol chiết hoa thì được hai
flavonol oligoglycosid: acetyl rutin và methyl rutin cùng những chất đường
sucrose, prunose. Rễ cây (yemeigen) chứa đựng catechin, epicatechin.
Những nhà khảo cứu Đài Loan xác định được 92 trong 181 hóa chất phát hiện qua
phép sắc ký trên trái cây ướp muối làm dưa umeboshi. Dưa chứa đựng những chất
thơm aldehyd, alcool cùng những monoterpen và những dẫn xuất của chúng, những
chất đường, những malic, citric acid và amin acid như glutamic acid, glycin,
alanin. Ở hãng kỹ nghệ Nhật Bản Masuda Perfumery Co, dưa đem chưng cho phát
hiện 89 hóa chất mà 48 đã được xác định, nhiều nhất là những những ester:
hexyl acetat, butyl hexanoat, hexyl butyrat, những decalacton bên cạnh những
acid: acetic, hexanoic, methyl butyric acid cùng những chất carotenoid:
ionon, trimethyl phenyl butenon. Trái cây còn non đem làm rượu umeshu đã được
tích trữ rong bóng tối, trong máy lạnh và trong ánh huỳnh quang : ethyl
carbamat tăng gia với ánh sáng và nhiệt độ. Đem bao với giấy cellophan
thì số lượng ethyl carbamat có nhiều trong giấy xanh hơn là trong giấy đỏ
hay vàng.
Cây mai Nhật chứa đựng nhiều chất có tính chất dược lý. Những
chất hydroxy methyl furfural và hydroxy tetramethoxy flavon có hoạt động trừ
giun sán loại Clonorchis sinensis (9). Những oleic,
linoleic, linolenic acid chiết từ trái cây ức chế những tác nhân gây đột
biến như furyl nitro furyl acrylamid, benzopyren và aflatoxin B1 trong
những cuộc thử Ames với Salmonella typhimurium TA100 và
TA98 (11). Chất rutin cũng chiết từ trái cây có hoạt động kháng
oxi hóa (20). Những flavonol glycoside và prunose chiết từ hoa
ức chế aldose reductase, riêng những prunose có khả năng cản trở sự kết tụ tiểu
cầu do thrombin gây ra (26). Những catechin, epicatechin chiết
từ rễ cây có tính chất lợi mật (21). Mai được dùng trong những
liều thuốc gồm có nhiều cây khác điều trị bệnh lao phổi (40),
chữa tinh dịch bị kháng thể gây vô sinh (16), xử lý ngoài da
bệnh mồ hôi nặng mùi (22). Nó là thành phần môn thuốc Cangwu chống
viêm, có tính chất ức chế cuộc xâm nhập những phản mao mạch và dị ứng (17),
thuốc xử lý bệnh nghiện ma túy (6). Uống nước chứa đựng mai
maesil bên Hàn Quốc đưa đến thành quả đào thải trong nước tiểu nhiều dimethyl
amin, triethyl amin là những chất có khả năng kết hợp với những nitrat thành
nitrosamin gây ung thư (23). Nhờ có tính chất loại bỏ
những gốc oxi, hột mai được dùng trong dược liệu và mỹ phẩm chống già, kháng
oxi hóa (50). Mai còn được dùng trong thuốc kích thích tóc
mọc (27), làm thuốc viên nhỏ sủi bọt con trẻ (28) hay
làm chất thơm cho thuốc lá (7). Bên Nhật Bản, hoa được ngâm vào
ruợu sake (24). Phấn hoa chứa đựng nhiều mỡ, vitamin
C cùng khoáng chất có thể cho vào món ăn bổ ích sức khỏe (18).
Trộn với chất ngọt isomalto oligosaccharid, mai được dùng làm bánh dòn crisp
mei (13,21).
Cây mai vàng Ochna integerrina tương đối
ít được khảo cứu hơn. Chất biflavonoid thường được nói đến nhiều là ochnaflavon
có khả năng khử hoạt tính của những enzym như phospholidase A2 (12),
arachidonate release đem lại tính chất chống viêm (15), có hoạt
động ức chế những tế bào ung thư từ đấy được dùng để điều trị ung thư máu như
bệnh bạch cầu và bạch huyết (14). Những biflavonoid khác
đã được tìm ra là dihydro ochnaflavon, dihydro ochnaflavon methyl ether,
hydroxy lophiron, hydroxy lophiron glucosid. Về glucosid còn có demethyl allyl
taxifolin glucosid. Bên phần cây mai đỏ O. atropurpurea cũng
cống hiến ochnaflavon từ lá tươi bên cạnh palmitoleic acid (25,6% tinh dầu
hột). Nói chung, hầu hết các bản báo cáo cây mai gốc Nhật là của các nhà khảo
cứu Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan và Hàn Quốc, những phòng thí nghiệm Thái Lan
có vài nghiên cứu trên cây huỳnh mai và Ấn Độ trên cây mai tứ quý.
Thú chơi mai tao nhã, trồng mai cầu kỳ, tạo dáng nghệ thuật ngày
nay vẫn còn. "Cạy cục ương hạt mai vàng trên đất phù sa, sau đó ông neo
mai vào núi đá. Hai mươi tuổi, thân mai chỉ roi roi bằng ngón tay út người lớn.
Ngày Tết chỉ nở chừng năm bảy cánh hoa. Vì sống trên đá nên cánh hoa mai cực
mỏng như tờ giấy cuốn thuốc lá... Lão huynh Lê có những bí quyết riêng để làm
cho hoa mai trên đá sống và ra hoa. Ông muốn chứng minh cho sự can trường của
hoa mai. Hoa có thể sống chỉ với vài chiếc rễ bám vào đá núi. Kham khổ bần hàn
là vậy mà xuân về vẫn nhớ lời hẹn ước, cố gắng nở những hoa vàng nhung mịn trên
đá. Tôi nghĩ là những đóa mai trên đá của lão huynh Lê còn nói nhiều hơn những
gì muốn nói. Đó là khát vọng sống mãnh liệt của con người gửi vào hoàng mai hoa
ước muốn duy trì một cuộc sống thanh bạch, bình dị như cỏ cây vô danh trong khu
vườn lớn của cuộc đời" (4).
Ở Pháp hiếm có hoa mai, nhưng phi mai bất thành xuân, Tết mà
không có mai thì còn gì là Tết? Trừ phi đặt gởi từ bên nhà qua, người Việt ở
trên đất khách nầy chạy kiếm một loại hoa gì tương tự để thay thế và họ đã tìm
ra cây hoa forsythia tức cây liên kiều, còn gọi trúc căn,
hoàng thọ đan, hạn liên tử, cao 2-4m, nở hoa vàng như mai vào đầu xuân, có khi
cả cuối đông nếu trời ít lạnh. Nguồn gốc Nhật, Tàu, nay nó được trồng nhiều
trong các vườn ở Pháp, nhiều nhất là hai loài Forsythia
suspensa và F. viridissima, thuộc họ Lài Oleaceae (ĐTL).
Cách đây hai năm, nhân lên viếng chùa Trúc Lâm ở làng Villebon, thầy Phước Đường
biếu cho vợ chồng chúng tôi một chậu cây nhỏ mà thầy bảo là cây mai. Về nhà
chăm sóc chu đáo, tưới nước nhiều, hai năm sau cây lớn lên chút ít và Tết vừa
qua nở một bông hoa vàng độc nhất, đặc biệt bốn cánh. Tôi chạy hỏi
khắp nơi, mai thường năm cánh, sao mai nhà tôi lại chỉ có bốn cánh? Ai
cũng lấy làm lạ. Khi hoa rụng, tôi cẩn thận ép nó vào giấy báo cho khô rồi nâng
niu cho kẹp nó vào trang "Hoàng hoa mai" cuốn Phú Xuân hương
sắc của Trụ Vũ, được anh Trần Đình Sơn gởi tặng. Tình cờ một cô
cháu lật sách thấy : thì ra chỉ là hoa cây forsythia, cây mai hoa
vàng trên đất Pháp, nhìn thấy từ lâu mà không để ý đến số cánh hoa. Cứ đến
dịp Tết đồng thời với hoa forsythia trong vườn, hàng hoa chợ
Tàu ở Paris cũng rực vàng hoa và thơm mùi xuân, nhắc nhở phần nào đứa con xa
hương trong một mùa ngắn nhớ về cảnh tượng xứ sở thân yêu.
Nghiên cứu và Phát triển 3 (51) 2005,
khoahoc.net .03.2006
Tham khảo:
1- Mai Văn Phô, Các loại mai ở Huế, Tạp chí Thông
tin Khoa học và Công nghệ (1) (1995) 68-70
2- Trần Đình Sơn, Hoàng anh, Tản mạn Phú Xuân, nxb
Trẻ, Tp Hồ Chí Minh (2001) 28-31, 173-4, 217-21
3- Huỳnh Văn Nguyệt, Mai vàng, biểu tượng của mùa xuân,
Nhớ Huế 12, nxb Trẻ , Tp Hồ Chí Minh (2002) 8-11
4- Nguyễn Xuân Hoàng, Thương nhớ ngàn mai, Nhớ
Huế 16, (2003) 4-6 ; Nhớ Huế 20 (2004) 8-10
5- Phương Huy, Cốt cách một loài hoa, Nhớ Huế 20
(2004) 36-9
6- B.W. Wu, S.P. Lee, Anti-narcotic medicine, Brit GB
1096708 (1967) 3 tr.
7- H. Matsushita, M. Shinosaki, Tabacco flavorant
containing Japanese plum extract, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
54062336 (1979) 8 tr.
8- Y. Takizawa, M. Saito, K. Okuhara, T. Mitsuhashi, Studies
on the constituents of Prunus mume Sieb. and Zucc. form purpurea Mak; phenolic
compounds and sugars, Tokyo Gakugei Daigaku Kiyo, Dai-4-bumon: Sugaku,
Shizen Kagaku 31 (1979) 137-41
9- B.Z. Ahn, J.K. Rhee, Anthelmintic activity of natural
products and their analogs against Clonorchis sinensis, Yakhak
Hoechi 30(5) (1986) 253-65
10- Z. Chen, S. Sun, Q. Xu, G.Liu, S.Hu, Z. Wu, Active
choleretic principle in Yemeigen (root of Prunus mume), Zhongcaoyao17(11)
(1986) 482-3
11- C. Dogasaki, H. Murakami, M. Nishijima, K. Yamamoto, T.
Miyazaki, Antimutagenic activities of hexane extracts of the fruit
extract and the kernels of Prunus mume Sieb. et Zucc. Yakugaku
Zasshi J. Pharm. Soc. Jap. 112(8) (1992) 577-84
12- H.W. Chang, S.H. Baek, K.W. Chung, K.H. Son, H.P. Kim, S.S.
Kang, Inactivation of phospholipase A2 by naturally occuring
biflavonoid, ochnaflavone, Biochem. Biophys. Res. Commun. 205(1)(1994)
843-9
13- D.I. Tzen, D.S. Tzeng, A.O. Chen, Effects of
packaging, light blanching and benzoic acid on the sanitation quality of Crisp
Mei during storage, Shipin Kexue (Taipei) 22(5)
(1995) 596-605
14- S.S. Kang,, H. Jang, K.H. Sonn, H.P. Kim, Anticancer
agents of biflavonoids from Ginkgo biloba and Lonicera japonica, Rep.
Korea KR 9609183 (1996)
15- S.J. Lee, K.H. Son, H.W. Chang, S.S. Kang, H.P. Kim , Inhibition
of arachidonate release from rat peritoneal macrophage by biflavonoids, Arc.
Pharm. Res. 20(6) (1997) 533-8
16-Lingyuan Meng, Ruoyun Meng, Ruosong Men, Ruomo Meng, Granules
for treating sperm antibody-induced infertility, Faming Zhuanli
Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1161220 (1997) 5 tr.
17- D. Su, G. Li, F. Pu, Study on pharmacodynamics of
Cangwu complex, Huaxi Yaoxue Zazhi 13(4) (1998)
240-1
18- J.Q. Liu, Q.Q. Zhang, W.S. Wu, X.Q. Li, Analysis of
nutritional components of the pollens of Prunus salicina and P. mume, Yingyang
Xuebao 22(1) (2000) 92-4
19- J. Ma, Compositions containing herbal madicines for
pulmonary tuberculosis, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai
Shuomingshu CN 1265315 (2000) 4 tr.
20- J.T. Han, S.Y. Lee, K.N. Kim, N.I. Baek, Rutin, an
antioxidant compound isolated from the fruit of Prunus mume, Hang’guk
Nonghwa Hakhoechi 44(1) (2001) 35-7
21- S.D. Lin, A.S.M. Ou, Manufacture of crisp mei by
using isomaltooligosaccharides, Taiwan Nongye Huaxue Yu Shipin
Kexue 39(4) (2001) 312-21
22- J. Chen, Medicine for external use to treat sweaty
feet with bromhidrosis, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN
1321481 (2001) 4 tr.
23- S.Y. Choi, M.J. Chung, N.J. Sung, Volatile
N-nitrosamine inhibition after intake Korean green tea and Maesil (Prunus mume
Sieb. et Zucc.) extracts with an amine-rich diet in subjects ingesting nitrate, Food
Chem. Toxic. 40(7) (2002) 949-957
24- Z. Chen, J. Lu, Simultaneous and direct
determination of oxalic acid, tartaric acid, malic acid, vitamin C, citric
acid, and succinic acid in Fructus mume by reversed-phase high-performance
liquid chromatography, J. Chrom. Sci. 40(1) (2002)
35-39
25- M. Tajima, M. Izume, T. Fukuhara, Singlet oxygen
scavenger from Prunus mume seed for cosmetics and pharmaceuticals, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 2002284633 (2002) 15 tr.
26- M. Yoshikawa, T. Murakami, T. Ishiwada, T. Morikawa, M.
Kagawa, Y. Higashi, H. Matsuda, New flavonol oligoglycosides and
polyacylated sucroses with inhibitory effects on aldose reductase and platelet
aggregation from the flowers of Prunus mume, J. Nat. Prod. 65(8)
(2002) 1151-5
27- S. Oka, Y. Osaki, M. Nakauchi, S. Ikemoto, H. Yamanishi, H.
Taniguchi, O. Nakaguchi, T. Sokano, Hair growth stimulant composition, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 2002284648 (2002) 7 tr.
28- F. Zeng, Y. Zhang, S. Chen, Effervescent product for
children, Shipin Gongye Keji 23(1) (2002) 41-3.

7- Sim tím đồi hoang
Đói
lòng ăn nửa trái sim,
Uống
lưng bát nước đi tìm người thương
Ca dao
Bài thơ Màu tím hoa
sim được phổ thành nhạc của Hữu Loan, dù không được chọn lựa trong
tuyển tập những bài thơ hay nhất của thế kỷ vừa qua, đã được đưa vào
chương trình thơ lãng mạng bậc trung học, và nhất là làm náo động các giới văn
nghệ sĩ: ở đâu có người yêu thơ yêu nhạc là có nghe ngâm bài thơ đó, nghe hát
bản nhạc đó. Lời lẽ mộc mạc, không chút cầu kỳ mà lại làm rung động tim
người nghe, bài thơ đặc biệt thể hiện chuyện thật trong đời tác giả. Nhà thơ
Nguyễn Hữu Loan sinh năm 1916, người gốc Thanh Hóa, gia nhập quân đội những
ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Năm 1948, trước khi ra chiến trường, ông cưới
cô vợ trẻ Đỗ Thị Ninh quen biết từ hồi cô còn bé, đến nay xem như là em
nuôi. Đám cưới đơn giản (Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới, Tôi mặc đồ
quân nhân, Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân) đầy tình thương, nhưng đôi
uyên ương phải xa nhau ngay (Tôi ở đơn vị về, Cưới nhau xong là đi). Rủi
ro hạnh phúc không lâu dài được bao lăm vì nàng đã xấu số chết đuối ở làng
ba tháng sau, trong lúc chàng xông pha chiến trận (Nhưng không chết người
trai khói lửa Mà chết người gái nhỏ hậu phương). Nhớ mãi ngày
xưa nàng yêu hoa sim tím nên mỗi lần thầm lặng hành quân qua những đồi hoa sim
hiu quạnh (Những đồi hoa sim, Những đồi hoa sim dài Trong chiều không
hết Màu tím hoa sim Tím chiều hoang biền biệt) nhà thi sĩ luôn nhớ đến
cô vợ trẻ, chỉ còn biết gởi lòng vào mấy câu thơ bất diệt mãi đeo đuổi anh
mấy chục năm sau trong một cuộc sống đói nghèo triền miên (1).
Anh đã lặng lẽ trút vào thơ nỗi đau đành đoạn, biến nỗi đau của mình thành
nỗi đau chung của những người trai thời loạn (4). Bài thơ chép
đi sao lại nhiều lần, bây giờ không biết bản nào là đúng. Sau nầy, nhà thơ còn
thêm vào vài câu (2) nhưng không làm thay đổi chút nào nội
dung và tình cảm một mối tình yêu đã làm mủi lòng hơn một độc-thính giả.
Ở Huế, màu tím từ thuở Chiêm Thành, châu Thuận châu Hóa, một
thời là màu thời gian (Màu thời gian không xanh, Màu thời gian tím ngát -
Đoàn Phú Tứ), màu của những cô nữ sinh Đồng Khánh, rồi ở Hà Nội cũng như sau
nầy là màu của những cô học trò Gia Long ở Sài Gòn. Ai mà không nhớ những tà áo
tím phất phới trên cầu Trường Tiền mỗi chiều chủ nhật khi các cô được đưa đi
dạo sắp thành hai hàng, khúc khích núp bóng sau những chiếc nón bài thơ. Áo tím
đã gây biết bao mộng mơ.
Màu áo tím đơn sơ
Bay dài mây núi Ngự
Giòng Hương giang ngẩn
ngơ
Lượn mái bồng thi tử.
Đinh Hùng - Phong vị thần kinh.
Áo tím đã được yêu thương, hẹn hò, thề thốt. Nhưng một ngày rồi
cũng hoa trắng thôi cài trên áo tím và chàng trai chỉ còn biết
ôm hận suốt đời
Em lên xe cưới về quê chồng,
Dù cách đò ngang cách
mấy sông,
Vẫn nhớ bóng vang thời
áo tím,
Nên tình thơ ủ kín
trong lòng.
Kiên
Giang Hà Huy Hà - Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Có nhiều loại chất sắc tím hoặc khoáng chất (tím cobalt, tím
mangan, tím sắt), hoặc động vật (vỏ ốc), hoặc nhân tạo (tím methyl, tím benzyl,
tím methylen), hoặc thiên nhiên (cây cỏ dùng trong đố ăn hay tan hòa trong dung
dịch hữu cơ dùng làm vec ni, mực). Có những chất sắc tím được gắn lên một mặt
nền thường là khoáng chất như alumin, baryum sulfat như tím alizarin để làm
sơn, sơn mài. Chất sắc tím cũng được dùng trong ngành dược liệu như tím
kết tinh, tím gentian để chữa giun kim hay bệnh ngoài da. Trong ánh sáng mặt
trời, màu tím nằm ở ngoại biên ở đoạn "tia sáng thấy được" gồm có bảy
màu trong cầu vòng: tím, chàm, xanh, lục, vàng, cam đỏ, vào mức độ dài làn
sóng điện từ 400 nm, biên thùy với các tia tử ngoại UV cần tránh hay cần thiết
để làm rám nước da. Trong ngũ sắc Huế, màu tím chiếm một địa vị chủ yếu. Họa sĩ
Phạm Đăng Trí lọc ra trong pháp lam những gam màu chủ đạo khá phổ biến: vàng
với xanh ẩn tím tức chàm, đỏ với bích ngọc tức lục ẩn xanh, xanh với hỏa hoàng
tức vàng cam,... thay vì những cặp màu bổ túc vàng với tím, đỏ với lục, xanh
với cam, da lang tức tím đỏ với lá mạ,... theo nguyên tắc hợp sắc của dĩa sắc
màu Chevreuil (nhà hoá học Pháp, 1786-1889). Màu tím và màu chàm chia nhau múi
số 5 trong dĩa sắc màu Newton (nhà vật lý, thiên văn, toán học Anh, 1642-1727)
bên cạnh bốn múi khác: số 1, nửa đỏ nửa cam; số 2, vàng; múi 3, lục; múi 4,
xanh. Theo T. Young (bác sĩ Anh, 1773-1829), những tế bào non ở võng mô ta có
khả năng thâu nhận và chuyển đi ba loại cảm giác theo ba lại sợi thần kinh;
màu tím được loại luồng sóng ngắn thâu nhận, màu đỏ loại luồng sóng dài và màu
lục loại luồng sóng trung ; tuy vậy, vào một thời điểm, cả ba loại sợi thâu
nhận những luồng sóng có tần số khác nhau nghĩa là đủ màu và nếu tác động lanh
và cùng lúc thì tạo ra cảm giác trăng! Cũng theo ông, trong cặp màu tương phản
đỏ - bích ngọc, nếu màu đỏ tác động lên sợi thần kinh đỏ, bích ngọc tác động
mạnh vào hai loại thần kinh lục và tím (3).
Trong bài thơ nhạc của Hữu Loan, không chỉ có màu tím mà còn có
hoa sim. Hoa sim màu hồng tím nên cây còn được gọi hồng sim, mọc đơn độc hoặc
từng ba cái ở mỗi kẽ lá. Quả mọng cũng màu tím nhưng tím sẫm nên ngoài chợ, một
rổ sim chín nổi bật lên giữa những mủng rau xanh, ớt đỏ, khế vàng. Cây sim mọc
hoang ở đối núi khắp nước ta, ở vùng nhiệt đới Đông Nam Á, từ miền nam Trung
Quốc xuống quần đảo Nam Dương, và ở Philipin thấy có trồng để lấy quả. Quả sim
nhỏ bằng lóng tay, khi chín toát ra một mùi hương dễ chịu, ăn vào ngọt lịm,
tương tự vị quả figue Ficus carica ở Pháp. Mang tên khoa
học Rhodomyrtus tomentosa (Ait.) Hassk., có khi Wight,
hay Myrtus tomentosa Aiton (PHH), Myrtus
canescens Lour., nó còn được gọi đương lê, sơn nhậm, nhậm tử, đào kim
nương (ñTL), Anh Mỹ có tên Rose Myrtle, Downy Rosemyrtle (12).
Cũng thuộc họ Sim Myrtaceae, còn có hai loại sim hoa trắng, một
loại phì quả đen chói, mọc từ Hòn Gay đến Phú Quốc, gọi là tiểu sim, mang tên
khoa học Rhodamnia dumetorum (Poir.) Merr., Anh Mỹ có
tên Silver Back (PHH), một loại quả hình cầu, nhiều hạt, gọi
là sim rừng lớn Rhodamnia trinervi Blume mà A. Pételot đã từng
giới thiệu từ lâu (ñTL). Bên ta, ở đồng bằng cũng như ở đồi cao, một loại cây
cũng cho nở hoa tím nên người ta thường lầm với hồng sim: đó là cây
muôi, mang tên chung khoa học Melastoma, Anh Mỹ gọi shrub,
thuộc họ Muôi Melastomataceae. Sách của Gs Phạm Hoàng Hộ kê đến 15
cây muôi: muôi thuờng M. normale D. Don ở Huế, muôi
Eberhardi M. eberhardii Guill. ở Thừa Thiên, muôi Đông M.
orientale Guill., muôi dằm M. palaceum Naudin ở
Đà Nẵng... (PHH)
Những hóa chất trong cây sim được khảo cứu đầu tiên là chất sắc
của nó với mục đích dùng trong thực phẩm. Các nhà hóa học Trung Quốc dùng
ethanol 40% pha hydrochorid acid (0,05mol/L) chiết xuất ở 40° trong thời gian 8
giờ, lấy được 7,8% một hỗn hợp ổn định trong ánh sáng và sức nóng. Dùng
nhựa xốp lọc sạch, tách rửa với ethanol 70% - 2% hydrochloric acid, chất sắc
ròng nhuộm một màu đỏ tía, rất ổn định trong một khoảng dài môi trường
acid (9,33). Đem phân tích, chất sắc gồm có pelargonidin
biglucosid, cyanidin galactosid và delphinidin galactosid (7).
Ellagi tannin (10) từ lá, những C-glycosid tannin từ lá và
rễ cây, có thể thủy phân: tomentosin, pedunculagin, casuariin,
castalagin, (8) đã được chiết xuất. Ellagin tannin kèm
theo ba flavon glycosid: myricetin rhamnosid, myricetin furanoarabinosid,
myricetin glocosid (10). Cùng với những flavonoid glycosid, đã
được tìm ra trong trái sim những phenol, acid hữu cơ, amin acid, carbohydrat
nhân một cuộc khảo cứu những liều thuốc chữa viêm gan (20). Một
dẫn xuất hydroxy pentamethoxy flavon còn được gọi combretol đã được xem xét vế
mặt cấu tạo tinh thể (13). Cây sim chứa đựng nhiều triterpenoid
và steroid: lupeol, bêta-amyrin, bêta-amyrenonol, betulin, friedlin;
alpha-amyrin, taraxerol cùng hopenediol và những oleananolid. Một loạt bảy
polysaccharid tan hòa trong nước được chiết xuất để học hỏi về mặt cấu tạo:
xylan, arabinogalactan, arabinigalactan-protein (19). Dùng
ethyl acetat chiết xuất, lá sim cống hiến một chất kháng sinh: rhodomyrton,
sườn cấu tạo là một xanthendion, có tác dụng chống những trùng Escherichia
coli và Staphylococcus aureus (12). Cây
sim chứa đựng một chất phản androgen (hormon nam), ức chế testosteron 5
alpha-reductase (31), được dùng trong mỹ phẩm chữa tóc (18).
Phần chiết cây sim cũng có tính chất chống viêm, ức chế những enzym như
hyaluronidase, hexosaminidase, elstase, phosphodiesterase, kích thích cuộc phát
triển nguyên bào sợi nên được dùng trong mỹ phẩm làm trắng da, thức ăn làm
đẹp da (32). Trái sim đã được dùng làm mứt, nước vắt làm thức
uống; trái sim phơi khô cũng như nước vắt cô đặc, nghiền thành bột làm thành
chất nhuộm thức ăn (11).
Ở Á châu, sim được dùng trong các thang thuốc chữa đủ thứ bệnh,
ngày nay phần lớn đã được người Trung Quốc đăng ký văn bằng sáng chế. Cây
sim, nhất là rễ cây (24,25,27), có tính chất giảm
đau (22) được dùng hỗn hợp với nhiều cây khác nhiều nhất
để chữa những chứng trong ngành phụ khoa (34). Chỉ riêng F. Wei
ở hảng được liệu Hoa Hồng (35) bên tỉnh Quảng Tây đã là
tác giả trong ba năm vừa qua hơn một chục văn bằng chữa khí hư, kinh nguyệt khó
khăn, bất thường, viêm khung chậu, viêm nội mạc tử cung (17,26,28),
thuốc trình bày dưới dạng bao (16,18). Ngoài ra, sim còn là
thành phần những liều thuốc chữa viêm kết tràng (14), viêm vị
tràng, biệt lỵ, thấp khớp, những chứng khó tiêu, chán ăn (5),
thông máu, giãn gân, cũng cố tỳ lách, giảm hạ lo âu (36), tiết
niệu nhiễm trùng (29), đau lưng mỏi chắc (21),
đặc biệt lá sim dùng chữa nhức đầu (23), chứng tăng huyết
áp (15). Thang thuốc Trang dương gồm có sim và khoảng ba chục
thuốc khác như bị lệ lạc thạch đằng, cao băng long, tang phiêu tiêu, nhân sâm,
hoàng tinh, đương quy, tắc kè, rết, nhau... đề cao điều hòa máu, nuôi dưỡng
thận, chống tóc rụng, nhuộm tóc đen, tăng cường mắt,... tăng thông minh,
giảm lo âu, xúc tiến tinh thần,... chữa những chứng bạc lông, mất ngủ, hồi
hộp, thiếu máu, đái dầm, bất lực, liệt dương, xơ cứng động mạch,... nói chung
là một thang thuốc yên tinh thần, định hồn phách, tăng tuổi thọ (6).
Bên ta, người ta dùng búp và lá sim non sắc uống chữa bệnh đi ỉa lỏng, đi lỵ,
hoặc dùng để rửa vết thương, vế loét (ĐTL). Ở Phú Quốc, rượu sim được tin là có
khả năng chữa trị nhứt khớp, đến nay mọc hoang, nghe nói đang được đem trồng
trên đồi.
Ở Pháp, mỗi lần đi dạo mùa hè trên dảy Alpes, trong ánh nắng dịu
ban chiều, nghĩ đến những đồi hoang của Hữu Loan, lững thững giữa những bụi đỗ
quyên đỏ tím khắp sườn núi, tôi không sao tránh được nhớ lại những buổi chiều
hè chạy theo các anh tôi đi bắn chim trên truông Phò Trạch cát trắng, băng qua
những cánh đồi cũng tím đỏ hoa trái sim, đánh dấu một thuở hồn nhiên trong thời
thơ ấu vô tư.
Nắng chiều tím cả cánh đồi
Gởi thương về Huế, thả
sầu về đâu?
Đỗ quyên hoa thắm phất
phơ
Ngắm hoa hoa nhắn mộng
mơ sim nhà.
VQY
Nghiên cứu và phát triển 2(73) 2009, khoahoc.net
09.2009
Tham khảo:
1- Violet, Vì sao có bài thơ "Màu tím hoa sim",
vietcyber.net/forums/printthread.php?t= 18417
2- Điều ít biết về "Màu tím hoa sim" của Hữu
Loan, vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/ 2004/ 12/3B9D9953
3- Phạm Đăng Trí, Quanh các pháp lam Huế, suy nghĩ về
màu sắc, trong Huế luôn luôn mới, nxb Hội Văn nghệ
thành phố Huế (1998) 67-80
4- Nguyễn Đức Hiệp, Hữu Loan và Màu tím hoa sim,
Khoahoc@doisong 28.06.2007
5- Y. Wu, Chinese medicinal preparation for treating
diseases of swine digestive tract, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai
Shuomingshu CN 1201688 (1998)
6- X. Wang, A chinese medicinal composition with
antiaging and yang invigorating effects, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai
Shuomingshu CN 1203096 (1998)
7- L. He, Z. Lihua, T. Jianbao, H. Qui, Y. Su, Properties
and extraction of pigment from Rhodomyrtus tomentosa (Ait.) Hassk, Jingxi
Huagong Bianjibu (6) 15 (1998) 27-9
8- Y. Liu, A. Hou, C. Ji, Y. Wu, Isolation and structure
of hydrolysable tannins of Rhodomyrtus tomentosa, Tianran Chanwu
Yanjiu Yu KaifaBianjibu (1) 10 (1998) 14-9
9- Y. Gao, X. Lai, X. Chen, Study on extraction and
stability of Rhodomyrtus tomentosa pigment, Huaxue Shijie (6) 40 (1999)
303-5
10- A. Hou, Y. Wu, Y. Liu, Flavone glycosides and an
ellagitannin from Downy Rosemyrte (Rhodomyrtus tomentosa), Zhongcaoyao (9) 30 (1999)
645-8
11- O. Ashitomi, Processed products from fruit of
Rhodomyrtus tomentosa, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2001299262
(2001) 3 tr.
12- S. Dachriyanus, M.V. Sargent, B.W. Skelton, I. Soediro, M.
Sutisma, A.H. White, E. Yulinah, Rhodomyrtone, an antibiotic from
Rhodomyrtus tomentosa, Aust. J. Chem. (3) 55 (2002)
229-32
13- S. Dachriyanus, R. Fahmi, M.V. Sargent, B.W. Skelton, W.
Brian, A.H. White, 5-Hydroxy-3,3’,4’,5’,7’-pentamethoxyflavone
(combretol), Acta Cryst. (1) E60 (2004) 086-8
14- J. Zou, J. Meng, Preparation and quality control
method of traditional chinese medicine for treating colitis, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1579518 (2005) 26 tr.
15- J. Huang, Process for preparation of chinese
traditional medicine for treating hypertension, Faming Zhuanli Shenqing
Gongkai Shuomingshu CN 1650979 (2005)
16- D. Wang, A soft capsule for treating gynecological
infections and its preparation method, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai
Shuomingshu CN 1660147 (2005)
17- F. Wei, Pharmaceutical sustained-release tablets for
treating chronic pelvic inflammatory disease, and its prepeartion method,
Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1698697 (2005) 11 tr.
18- J. Yao, Manufacture of a soft capsule treating
gynecological diseases, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai
Shuomingshu CN 1730011 (2005) 8tr.
19- X. Qin, Y. Sui, E. Ning, Structure research on the
polyssacharides of Rhodomyrtus tomentosa fruit (I), Shipin Kexue
(Beijing) (26) 4 (2005) 79-82
20- H.Sr. Ruqiang, C.Sr. Yonglu, Study on the oxidation
resistance of fructus rhodomyrti, Abs. Chem. Soc. 10-14 Sept.2006 (2006)
21- H. Gong, A chinese medicinal liquor for treating
traumatic injury, lumbago and skelalgia, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai
Shuomingshu CN 1768832 (2006)
22- Q. Yang, L. Guo, Y. Pe,ng, Y. Sui, Pharmaceutical
composition for treating menoxenia, and its preparation method, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1814009 (2006)
23- Y. Yang, Medicinal composition for treating migraine,
Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1824075 (2006) 13 tr.
24- W. Guo, Y. Zg, Z. Gao, X. Qi, Chinese al capsule for
treating gynecological infections and preparation method thereof, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1830473 (2006) 12 tr.
25- F. Wei, Manufacture of oral liquid containing
traditional chinese medicine extract for treating gynecopathy, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1846715 (2006)
26- F. Wei, Manufacture of Huahong dripping pills
containing traditional Chinesremedicine for treating gynecopathy, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1846743 (2006) 12 tr.
27- F. Wei, Chinese medicinal micro-pellet for treaiting
gynecologic diseases, and preparation method thereof, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1850187 (2006)
28- F. Wei, Chinese medicinal fluid extract for treating
gynecological diseases, and preparation method thereof, Faming Zhuanli
Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1850188 (2006)
29- F. Wei, Manufacture of traditional chinese medicine
composition for treating urinary tract infection, , Faming Zhuanli
Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1853687 (2006)
30- Q. Ye, H. Huang, D. Huang, W. Su, C. Tan, A medicine
for treating serious erosove trauma, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai
Shuomingshu CN 1883702 (2006) 9 tr.
31- Y; Miyake, The hair restor, the antiandrogen agent,
testosterone alpha-reductase inhibitor, and hair cosmetics, Jpn. Kokai
Tokkyo Koho JP 2006169133 (2006) 9 tr.
32- Y. Miyake, J. Nojima, Skin cosmetics and
skin-beautifying foods containing Rhodomyrtus tomentosa extracts, , Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 2006199678 (2006) 19 tr.
33- H. Ruqiang, D. Qian, L. Chunhong, Study on
purification and stability of the pigment from fructus rhodomyrti, Abs.
Chem. Soc.20-29 March.2007 (2007)
34- C. Zhu, A Chinese medicinal composition for treating
gynecological infection, and its preparation method, Faming Zhuanli
Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1965942 (2007)
35- S. Zhang, Y. Kan, Chinese al dripping pills
containing extracts from Duchesnea and Oldenlandia and others for treating
gynecologic inflammations, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai
Shuomingshu CN 1969995 (2007) 15 tr.
36- S. Ye, Herb tea spleen invigorating effect,
Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 101002590 (2007).

8- Thanh hao điều trị sốt rét
Ai ơi chớ thấy nhỏ mà khinh
Châm
chích vào ai cũng giật mình.
Trướng
rũ màn che vô cũng lọt,
Năm
canh to nhỏ biết bao tình.
Thảo Am
Sốt rét là một trong những
chứng bệnh lan tràn nhất thế giới. Trung bình mỗi phút có hai con trẻ chết vì
nó. Tính ra mỗi năm, trên dưới một triệu người bị tử thần sốt rét kéo đi. Từ
châu Phi qua Nam Mỹ đến châu Á, hơn 2,2 tỷ người (nghĩa là gần phân nửa nhân
loại) luôn bị sốt rét đe dọa hằng ngày. Tất cả bệnh nhân đều không chết hết
nhưng khoảng 100 triệu người luôn sống vất vưởng, cơ thể kiệt quệ vì đau lên
sốt xuống. Là một trong những chứng bệnh ra đời từ thuở tạo thiên lập địa, nó
thường quấy nhiễu ở những vùng đất đai ẩm ướt, bùn lầy (palud) hay ở
những nơi rừng núi chướng khí (mal area) cho nên Âu Mỹ có những danh
từ paludisme, malaria để chỉ chứng bệnh.
Để trị bệnh sốt rét, năm 1630 Don Francisco Lopez nghĩ tới dùng
vỏ cây quinquina và phải đợi gần 200 năm sau (1820) mới thấy hai nhà hóa học
Pháp, Joseph Pelletier và Joseph Caventou chiết xuất hoạt chất quinin từ vỏ cây
ấy. Tục truyền có bà bá tước tên là Cinchon đã sắc vỏ cây làm thuốc chữa trị
thành công nhiều lần các cơn sốt, cho nên sau đó người ta mới đặt tên Cinchona (họ
Cà phê Rubiaceae) cho cây, quinquina cho vỏ cây và quinin cho
thuốc. Có ba loại cây: cây đỏ C. succirubra Pavon chữa sốt,
cây vàng C. calisaya Wedd. hay C. ledgeriana Moens
để chiết xuất alcaloid, cây xám C. officinalis L. dùng chế
rượu khai vị. Cùng với quinin, cây còn chứa nhiều alcaloid (quinidin,
cinchonin, cinchonidin,), nhiều phytosterol (cinchol, cupreol, quebrachol),
quinovin là một glucosic, những quinic, quinotannic acid. Năm 1880, Alphonse
Laveran, y sĩ quân đội Pháp, lại phát hiện ra huyết trùng gây bệnh trong hồng
huyết cầu, sau này mang tên hematozoaire de Laveran. Từ 50 năm nay, Tổ chức Sức
khỏe Quốc tế OMS đặt mạnh chương trình bài trừ sốt rét trên toàn thế giới, huy
động nhiều lực lượng và phương tiện, nhưng đến nay chưa diệt trừ được chứng
bệnh khủng khiếp kia. Ở các nước ôn đới, bệnh đã thụt lùi rõ ràng, nhưng nó vẫn
còn hoành hành dữ dội ở các xứ nóng ấm, nhiều nhất là ở các nước thiếu vệ sinh
vì điều kiện kinh tế, xã hội trì trệ. Ở Việt Nam ta, cuộc bài trừ sốt rét đã và
đang được đặt ra, cần thiết, cấp bách.
Đối với con người, ký sinh sinh bệnh có ba loại chính: nhiều
nhất là Plasmodium vivax, nguy hiểm hơn là Plasmodium
falciparum, còn Plasmodium malariae thi tương đối hiếm có.
Những ký sinh nầy do muỗi chuyển qua cơ thể ta khi nó chích đốt vào da thịt. Ký
sinh chạy thẳng vào máu và sinh nở trong nhiều hệ thống, cơ quan, đặt biệt ở
gan. Một, hai tuần sau, nó xâm nhập hồng huyết cầu (lúc ấy người ta gọi nó
là schizont) và tiếp tục sinh nở cho đến lúc hồng huyết cầu vỡ tan.
Chính lúc ấy cơ thể thấy ớn lạnh, lên cơn sốt, toát mồ hôi. Những ký sinh vừa
sinh ra lại xông vào các huyết cầu khác và cứ mỗi chu kỳ hai, ba ngày, tùy loại
ký sinh, hồng huyết cầu lại bị vỡ và cơn sốt lại nổi dậy. Có khi chu kỳ kéo dài
ra, thấy như bệnh đã thuyên giảm, thật ra nó vẫn còn tiềm tàng trong cơ thể. ký
sinh trong hồng huyết cầu có thể biến hóa thành gametocyt dưới hai thể đực và
cái, không có tác dụng gì. Nhưng khi muỗi hút máu, gametocyt từ máu chuyển qua
muỗi, chạy thẳng vào dạ dày, biến thành gamet vừa đực vừa cái, cùng nhau tạo ra
trứng và ký sinh. Bắt đầu từ đây, muỗi có thể truyền nhiễm.
Có khoảng 70 loài muỗi có khả năng truyền bệnh, trong ấy nguy
hiểm nhất là loài muỗi Anopheles. Trước hết phải kể hai
con A. gambiae và A. funestus bên châu Phi. Ở
châu Á, đặc biệt ở Đông Dương, con A. minimus là một địch thủ
vô cùng ghê gớm. Nó rất yên lặng nhưng đốt thì rất đau. Chỉ có muỗi cái đốt và
nó chỉ đốt ban đêm. Nếu muỗi đực chỉ biết thích hút ngụy hoa, sống thảnh thơi
với vài ba giọt nhựa thì muỗi cái cần có máu sinh vật vì nó dùng protein máu
đùm bọc ấp trứng. Ta có thể độ lượng với muỗi cái vì nó lo chuyện bảo tồn nòi
giống! Vòi của nó gồm có hai ống: khi vòi chích vào da thịt thì một ống thảy
nước miếng đầy ký sinh vào cơ thể con người trong khi ống kia hút máu và hút
luôn cả gametocyt nếu nạn nhân đã nhiễm bệnh.
Hồi nhỏ trẻ con nào cũng thường được nghe kể sự tích con muỗi.
Có một cặp vợ chồng rất thương yêu nhau nhưng một ngày kia người vợ rủi ro từ
trần. Người chồng đau đớn, đưa thây vợ lên một chiếc đò chèo đi tìm thầy cứu
chữa. Lên một ngọn núi nọ, anh may mắn gặp được Nam cực tiên ông, thấy anh thật
thà ngay thẳng liền cho anh biết cách cứu sống vợ: về chích đầu ngón tay cho
giỏ vào miệng vợ ba giọt tức thì vợ sẽ sống lại, và cũng có khuyên nếu sau này
vợ đối xử tàn tệ với anh thì đòi lại ba giọt máu ấy. Anh về làm đúng lời tiên
ông và vợ anh sống lại. Hai vợ chồng lại vui vẻ sống với nhau nhưng không được
bao lâu thì cô vợ trở nên không đứng đắn, bội bạc bỏ anh đi theo một ông triệu
phú. Một hôm, không giằng lòng được, anh đến gặp vợ đòi lại ba giọt máu như
tiên ông đã dặn. Cô vợ không còn biết tình nghĩa gì hết, nhanh nhẩu trả lời:
"Tưởng đòi gì chứ chỉ ba giọt máu thì đây này!". Nói xong cô vợ
chích đầu ngón tay cho giỏ ra ba giọt máu, tức thì nằm xuống chết ngay, biến
thành một con muỗi ngày đêm bay theo anh chồng để lấy lại cho được ba giọt máu
kia!
Nếu người chồng kia chỉ bị một con muỗi độc nhất bay theo,
thường muỗi tấn công từng đoàn và việc làm cần thiết trước tiên là phải kiếm
cách diệt trừ chúng. Trong thập niên 50, chất diệt trùng DDT (dichloro diphenyl
trichloroethan) vừa mới được tìm ra, đem lại cho nhân loại một mối hy vọng tràn
trề. Người ta phun thuốc lên rừng núi, ao hồ, ngay cả vào nhà cửa, vườn tược,
làm ô nhiễm đất đai, ruộng nương không ít. Nhưng cũng nhờ vậy nhiều triệu người
đã được cứu vớt. Tuy nhiên khó khăn vẫn tồn tại: muỗi khôn ngoan biết ngẫu biến
để kháng cự lại chất thuốc diệt trùng. Mặt khác, muốn tiêu diệt được nhiều muỗi
cần phải huy động nhiều nguồn lực, tốn kém ngân quỷ lớn mà như đã thấy, bệnh phát
triển ở các xứ nghèo đói, thêm vào giặc giã, thiên tai thì lại càng thiếu
phương tiện chống đỡ.
Qua những năm 70, lại xuất hiện một chướng ngại khác như thể ông
trời muốn thách thử con người: những ký sinh, P. falciparum, P.
vivax, P. malariae, P. ovale đềukháng cự lại được các thuốc thường
được dùng nhiều nhất, loại amino quinolein, đứng hàng đầu là chloroquin (tên
thương mãi: Nivaquine). Thuốc nầy chỉ còn hiệu nghiệm chống những ký sinh ở
Bắc Phi, Trung Mỹ nhưng hoàn toàn vô hiệu ở châu Phi, châu Á, Nam Mỹ (17).
Ở những vùng muỗi chỉ kháng cự ít chloroquin thì có thể dùng amodiaquin hay hỗn
hợp sulfadoxin-pyrimethamin, không thì phải bước qua các thuốc thế hệ hai như
halofantrin hay mefloquin (tên thương mãi Lariam). Được bắt đầu dùng từ 1984,
đắt tiền, liệu thuốc còn hiệu nghiệm được bao lâu nữa? Rút cuộc, còn lại môn
thuốc cổ điển thời xưa: quinin. Nó luôn vẫn còn là một vị thuốc mầu nhiệm,
thường được dành cho những trường hợp bệnh nặng. Nhưng quinin cần phải được
tiêm vào tĩnh mạch ở bệnh viện, mà đường sá xa xôi, lắm khi không có thì giờ
chuyên chở bệnh nhân đến nơi. Đó là tình trạng ở các nước thế giới thứ ba. Vào
những năm 1988-1989, bệnh sốt rét phát triển cực độ. Hoảng hốt trước tình thế
nghiêm trọng, Cơ quan Quốc tế Sức khoẻ OMS triệu tập cấp tốc hai hội thảo năm
1991 ở Dakar và New Delhi, một cuộc gặp gỡ tháng tư năm sau ở Brazyl, và gần
đây ở Amsterdam để cùng nhau phát họa một chương trình rộng lớn, hầu mong giới
hạn phá phách của sốt rét, bảo vệ sức khỏe của hàng triệu nhân sinh.
Chuyên gia các nước đồng ý với nhau rằng song song với cuộc tìm
kiếm thuốc men mới, cần phải tổ chức những hệ thống giám sát để kê khai những
loại bệnh, xác định cơn dịch ngay từ lúc đầu. Ở mỗi một địa điểm cần yếu phải
có dụng cụ đặc biệt để chẩn đoán (xem xét hình thể schizont, người
ta có thể phân biệt được loại sốt rét) trước khi quyết định một cuộc trị liệu
cấp tốc và thích ứng. Một điều đáng chú ý là phải chẩn đoán trước khi cho uống
bất cứ thuốc gì vì thuốc tạm thời có thể làm biến mất schizont thì hết còn chẩn
đoán được. Ở các nước có gió mùa, cơn dịch thường bắt đầu vào mùa mưa, vậy phải
phòng ngừa dân cư vùng đó đúng lúc. Ở những nơi mà bệnh có thể xảy ra thường
xuyên, cần phải ngủ trong mùng, nếu có thể cho tẩm thuốc diệt muỗi như
pyrethre, một hoá chất không độc cho người. Bên Trung Quốc, nhờ kỹ luật khắt
khe, số bệnh nhân từ ba triệu người những năm 80 đã xuống dần 117.000 năm 1990,
mặc dầu một khó khăn khác lại xuất hiện : mùng không thể ngăn chận được
loài Anopheles culcifae hoành hành vào lúc trời chạn vạn, chưa
đến giờ đi ngủ!
Vấn đề môi sinh cũng rất quan trọng. Ở các đồng ruộng, có nước
tất có muỗi. Mà dân quê thì sống quanh đồng ruộng. Đã thấy có đề nghị thả vi
khuẩn hoặc nuôi cá ở đồng ruộng để chúng tiêu diệt ấu trùng muỗi. Ở Sri Lanka
có thí nghiệm tát khô đồng ruộng vài giờ mỗi ngày để ấu trùng chết đi. Điểm yếu
là công lao và thời giờ bỏ vào đó. Dù sao, những sáng kiến loại nầy có tính
cách địa phương và mỗi vùng, mỗi xứ phải kiếm cách chạy chữa tùy theo khả năng
của mình. Thành thử tường lũy cuối cùng chống cự sốt rét vẫn là thuốc men.
Thường thuốc chữa trị sốt rét gồm có hai loại: hủy schizont hay diệt gametocyt.
Quinin thuộc loại thứ nhất. Tác dụng của nó rất lanh nhưng chỉ trong thời gian
ngắn, cho nên người ta thường dùng amino-4 quinolein hơn. Những chất tương tự
amino-8 quinolein thuộc loại thứ nhì. Khi cơn sốt hạ xuống thì phải kiếm cách
chữa trị làm sao cho cơn bệnh khỏi tái phát. Thường người ta trở lại loại thứ
nhất hay trộn lẫn với loại thứ nhì. Nếu bệnh nhân vẫn còn ở trong vùng nhiễm bệnh
thì cần phải thường xuyên tiếp tục uống thuốc loại thứ nhất. Ngay cả bệnh nhân
dời đi ở vùng khác, an toàn hơn, cũng cần tiếp tục uống thuốc phòng ngừa trong
ít lâu nữa.
Trước sự thiếu thốn thuốc men mới lạ, nhiều phòng thí nghiệm,
nhiều cơ quan trên thế giới nỗ lực tìm kiếm một chất thuốc vừa hiệu nghiệm, vừa
rẻ tiền vì dễ chế biến. Thì đây, một vị thuốc mới đang được nói đến nhiều những
năm gần đây: mới vì cấu tạo khác với các thuốc khác trước đây, từ đấy cơ chế
tác động cũng khác. Đó là một chất chiết xuất từ cây thanh cao, thanh cao hoa
vàng (LTĐ), thanh hao, thanh hao hoa vàng, thanh hảo (2) hay
thanh thảo tức hoàng hoa cao (LTĐ), còn gọi cây
ngải (1), ngải hoa vàng (LTĐ) Artemisia annua L,
thuộc họ Cúc Asteraceae hay Compositae. Người
Trung Quốc đã có ghi chép cây nầy để dùng chữa bệnh trĩ lậu trong sách y khoa
từ năm 168 trước công nguyên. Sau đó, nó có mặt trong sách chữa bệnh cấp
biến Trửu hậu bị cấp phương xuất bản năm 340 sau công nguyên.
Tác giả, Cát Hồng, chỉ cách uống nước có ngâm lá cây thì làm thuyên giảm được
nhiệt độ trong cơ thể. Tuy vậy, cũng phải đợi hơn 1000 năm sau (1596) mới thấy
nhà chuyên môn về cỏ thuốc Lý Thời Trân xác định trong cuốn vật liệu y
khoa Bản thảo cương mục là cây Ginghao bài trừ được cơn nóng
lạnh (3). Năm 1798, trong cuốn Ôn bệnh điều biện bắt
đầu có đề nghị dùng cây Ginghao sắc uống chữa sốt rét. Ở Việt Nam cũng có cây
thanh hao, lúc trước từng được gọi cây nhân trầm hay chè nôi. Nó mọc hoang ở
các vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, thường được dùng để chữa các bệnh
ngoài da, khó tiêu hóa hay để giúp đàn bà ăn ngon khi mới nằm nơi dậy. Hồi
trước, tên thanh hao cũng còn chỉ vài cây khác cùng họ: thanh cao rồng A.
dracunculus L., thanh cao biển A. campestris L.
hay A. maritima L., thanh cao chỉ A. capillaris Thunb., thanh
cao ấm lầy A. palustris, thanh cao tay A.
subbdigitata Mattf. Đặc biệt một loại cỏ mọc hoang và được trồng nhiều
ở miền Bắc nước ta, được dùng để chữa bệnh mệt nhọc, kém ăn, thương hàn, sốt do
bệnh phổi, mồ hôi trộm là cũng được gọi cây thanh cao, thanh hao hay thảo cao Artemisia
apiacea Hance. Một cây thanh cao khác nữa khác họ là Baecka
frutescens L., mọc ở Phúc Yên, Thái Nguyên hay Nghệ Tĩnh, thường được
cho vào chum vại đựng đậu xanh hay quần áo để tránh sâu bọ cắn hại ; trong dân
gian thân cây được dùng làm chỗi quét nhà nên nó được gọi cây chỗi xúi (ĐTL).
Thanh hao là một cây nhỏ, cao vài chục phân, nhưng cũng có khi
lên đến gần hai thước. Năm 1971, các nhà khảo cứu Trung Quốc dùng ethyl ether
chiết xuất từ thân và lá cây (không có trong rễ) một hóa chất, đem thử thì thấy
có tác dụng lên ký sinh sốt rét Plasmodium berghen. Họ đặt tên
cho chất thuốc là Ginghaosu (QHS) tức là hoạt chất của cây
Ginghao hay, có vẻ hóa học hơn, artemisinin là danh từ nay được quốc tế dùng.
Trong lúc tìm kiếm, họ đã khảo sát trên 30 loài cây Artemisia khác
mà chẳng thấy cây nào chứa đựng QHS. Những nhà khảo cứu Hoa Kỳ cũng không tìm
ra artesiminin trong các cây A. dracunculus, A. ludoviciana, A.
pontica, A. schmidviana, A. vulgaris (6). Những nhà sinh y
học Đức nghiên cứu trên ba loài A. annua, A. apiacea, A.
capillaris, quê gốc đủ nơi, kết quả chỉ thấy có cây A. apiacea mọc
ở Nhật Bản (bên ta có tên thảo cao hay thanh cao ngò) là có hoạt động chống sốt
rét. Bên Mexico, tuy không tìm ra được artemisinin trong cây, những nhà vi
trùng học cũng khám phá ra được phần chiết của A. ludoviciana mexicana có
tính chất hạ nhiệt, chống trùng Plasmodium yoelii yoelii, với
LD50 29,2 mg/kg (20). Mặc dầu ít có chi tiết về
cách thức chế biến từ các phòng thí nghiệm Trung Quốc, ngày nay người ta biết
bên cạnh các dung dịch có thể chiết xuất artemisinin như rượu, chloroform,
aceton, hai dung dịch tương đối dễ dùng và rẻ tiền là hexan (10) và
petrolatum (30-60 độ)(9). Báo chí gần đây có đưa ra tên hai dung
dịch propylenglycol và ethylenglycol, chất sau nầy có thể độc cho cơ thể. Hóa
chất thô được đưa vào cột sắc ký silicagel, dùng hỗn hợp chloroform-ethylacetat
kéo ra một hóa chất ròng hơn (8). Lại cho vào cyclohexan hay
hay rượu 50% thì artemisinin kết tinh thành hình mũi kim trắng tinh. Năng suất
chiết xuất theo các tác giả Tây phương là 0,06% (7), trong khi
các phòng thí nghiệm Trung Quốc đưa ra con số từ 0,01 đến 0,5%. Thật ra năng
suất nầy còn tùy độ ròng của hóa chất vì artemisinin lẫn lộn trong cây với một
số terpen và dẫn xuất khác như artemisiten, arteannuin, arteannuic acid, và
càng muốn một artemisinin tinh khiết thì năng suất lại càng sụt xuống. Thấy
năng suất thấp, các nhà hóa học ở hãng Hoffmann la Roche đã kiếm cách tổng hợp
QHS. Cuộc chế biến nhân tạo nầy khá dài dòng (13 đợt phản ứng) với một năng
suất tổng quát tương đối lớn (5%) so với thành tích các hóa sư Trung Quốc
(0,24%) (11-14). Dù sao, cuộc nhân tạo tổng hợp nầy chưa đưa ra
phát triển trong kỹ nghệ được. Ở Viện Đại học Buenos Aires một phương cách
trồng thanh hao và sinh học tổng hợp artemisinin mới đã được thực hiện qua
phương pháp cấy mô (18).
Cấu tạo của artemisinin là một sesquiterpen lacton, đặc biệt có
mang bên trong một cầu peroxid. Khảo cứu liên quan cấu tạo - hoạt động, người
ta nhận thấy chính cái cầu nầy đã là nòng cốt cho tính chất chống sốt rét của
artemisinin. Thật vậy, đem phá cái cầu ấy thành deoxy artemisinin thì hoạt tính
biến mất. Sau nầy, những dẫn xuất của artemisinin như dihydro ether, ester,
carbonat được chế biến luôn còn giữ cầu peroxid thì đều là những thuốc chống
sốt rét mãnh liệt hơn cả artemisinin thiên nhiên. Nói chung, hoạt tính tăng
theo thứ tự
artemisinin < dihydro artemisinin < ester < ether <
carbonat
Carbonat ít được dùng vì khó tổng hợp. Các ester thì phải chế
biến ra muối artesunat mới hòa tan được trong nước. Rút cuộc hai ether được đem
thử nhiều nhất là artemether tức methyl ether (Trung Hoa) và arteether tức
ethyl ether (chương trình Liên Hiệp Quốc UNDP). Dựa vào tính chất hoạt động của
cầu peroxid, có phòng thí nghiệm đã tổng hợp những hoá chất trioxan (nghĩa là
một phân tử artemisinin không có vòng lacton trong ấy cầu peroxid gồm có hai
nguyên tử oxi vẫn còn nằm trong một vòng đã có mang một oxi khác), nhưng kết
quả là chỉ có một số nhỏ có ít nhiều hoạt tính chống sốt rét (14,16).
Trong hầu hết các cuộc khảo cứu, artemisinin và các dẫn xuất đều
là thuốc thuộc loại thứ nhất nghĩa là hủy schizont. Tuy vậy, cũng
có công tác chứng minh QHS là một chất diệt gametocyt (5),
chống ký sinh Plasmodium cynomolgi B trong muỗi Anopheles
stephensi. So với chloroquin thì các chất artemisinin, artemether,
arteether có nửa liều gây chết LD50 tuơng đối lớn hơn. Các
thuốc nầy đã được đưa đem thử nghiệm lâm sàng đầu tiên bên Trung Quốc từ những
năm đầu thập niên 80, sau đó khắp Đông Nam Á: Miến Điện (1987), Ấn Độ (1989),
Thái Lan (1991). Theo bà Vũ Thị Phan trong một bản báo cáo năm 1990 của Chương
trình chống Sốt rét, thì Việt Nam đã chiết xuất artemisinin và chế tạo
artemisunat để chữa trị sự nhiễm trùng của P. falciparum và P.
vivax kết hợp với những thuốc kháng sinh như tetracyclin, hay
doxycyclin (26). Một tài liệu khác (1990) cho biết ở Bệnh viện
Chợ Quán, artemisinin đã được đem so sánh với quinin. Trong khi 30 bệnh nhân
uống quinin, 32 bệnh nhân khác được cho artemisinin đút vào hậu môn, vì qua hình
thức này thuốc dễ dùng và hiệu nghiệm hơn, ngoài ra ít thấy có tác dụng phụ.
Kết quả rất khả quan. Các bác sĩ cộng tác trong chương trình này còn xác nhận
nếu được cho dùng phòng ngừa hoặc ngay lúc bệnh vừa mới phát giác thì thế nào
cũng giảm hạ được bệnh trạng và số tử vong (15). Ba năm sau,
trong một thử nghiệm lâm sàng, với 638 bệnh nhân, dùng thuốc uống artemisinin
cho thấy trong vòng 24 tiếng 98% ký sinh trùng sốt rét biến mất. Một thử nghiệm
khác vào năm 1999 cho thấy kết quả tốt nhất là dùng artemisinin và sau đó
quinin trong 3 hay 5 ngày (2).
Những năm sau nầy, thanh hao còn được khảo cứu sâu rộng hơn.
Ngoài vấn đề chống sốt rét, thanh hao qua một phấn chiết với ethylacetat và
butyl alcool có tính chất sát trùng với qinghao acid, chống viêm với scopoletin (17).
Tinh dầu thanh hao gồm có (%) camphor (44), germacren (16), pinocarveol (11),
selinen (9), carophyllen (9), artemisia ceton (3) có tính chất phản oxi hóa,
chống những trùng Enterococcus hirac (27), Schistosoma
japonicum, Toxoplasma gondii (21). Artemisinin cũng như
deoxy artemisinin, dihydro epideoxy arteannuin ức chế cuộc phát khởi u
khối (25,28). Artesunat, ngoài tính chất miễn dịch, được đề
nghị dùng làm thuốc chống ung thư (23,24). Đem thử trên chuột
cho thấy artemether có khả năng chống trùng Schistosoma mansoni,
ngăn cản nó đột nhập vào da (22). Những kết quả ban đầu nầy hé
mở một tương lai rộng lớn của khả năng thanh hao. Rồi đây những khảo cứu cấu
tạo - hoạt động sẽ cống hiến nhiều hoạt chất khác với những tính chất mới lạ.
Những thành phần của cây absinthin, anabsinthin, thujon đã được tìm ra là đồng
thời những tính chất kháng sinh, kháng nấm, kháng oxy hóa, chống độc tố, diệt
giun ký sinh, kích thích tình dục, làm toát mồ hôi ngoài việc điều chế các
rượu absinthe, vermuth (1).
Mấy năm trước, về thăm Việt Nam, tôi có được nghe nói nhiều đến
chuyện sản xuất artemisinin. Nước ta cần thuốc để chữa trị sốt rét thì sản xuất
là chuyện tất nhiên. Muốn đem bán ra nước ngoài lại là một vấn đề khác. Như đã
thấy, cần phải có một chất thuốc thật ròng nghĩa là phải bỏ nhiều công của,
buộc phải tính lợi hại. Thêm vào đó phải kể đến những văn bằng sáng chế quốc tế
trong số ấy Trung Quốc chiếm phần lớn. Ngoài ra, cũng phải nghĩ đến chuyện ngẫu
biến của muỗi và không biết artemisinin sẽ công hiệu đến ngày nào. Cần chăng
nên chuẩn bị một chất thuốc khác, may ra ta có được chút ưu tiên. Bên ta có cây
trường sơn Dichroa febrifuga Lour., thuộc họ Thường sơn Saxifragaceae,
mà hoạt chất dichroin hay febrifugin có khả năng vượt quá quinin 100 lần! Và
nhiều cây khác như dây ký ninh Tinospora crispa (L.) Miers,
cây sừng bò Streptocaulon juventas (Lour.) Merr., cỏ vườn
trầu Eleusine indica (L.) Gaertn, những cây thăng ma Cimicifugae L.
Thông tin Khoa học và Công nghê (3)
1995, khoahoc.net 08.2006
Tham khảo:
Tổng luận
(1) Chu Hữu Tín, Cây ngải (Artemisia annua L.) , Khoahoc@doisong (13.07.2006)
(2) Nguyễn Đức Hiệp, Dược thảo huyền diệu: Thanh hảo và
bệnh sốt rét, Diễn Đàn 164 (7.2006) 23-4; dẫn
Nguyen D.S., Dao B.H., Nguyen P.D., Nguyen V.H., Le N.B., Mai V.S., Meshnick
S.R., Treatment of malaria in Vietnam with oral artemisinin, Am.
J. Trop. Med. Hyg.48 (1993) 852-3 ; Peter J. de Vries, Nguyen
Ngoc Bich, Huynh Van Thien, Le Ngo Hung, Trinh Kim Anh, Piet A. Kager, Siem H.
Heisterkamp, Combinations of artemisinin and quinine for uncomplicated
Falcium malaria: efficacity and pharmacodynamics, Antimicrobial
Agents and Chemotherapy (5) 44 (2000) 1302-8
Đại cương
3- D.L. Klayman, Qinghaosu (artemisinin): an
antimalarial drug from China, Science (4703) 228 (1985)
1049-55
4- X.D. Luo, C.C. Shen, The chemistry, pharmacology, and
clinical applications of qinghaosu (artemisinin) and its derivatives,
Med. Res. Rev. (1) 7 (1987) 29-52
5- G.P. Dutta, R. Bajpai, R.A. Vishwakarma, Artemisinin (Qinghaosu)
– a new gametocytocidal drug for malaria, Chemother.35 (1989)
200-7
6- P.I. Trigg, Qinghaosu (artemisinin) as an
antimalarial drug, Econ. Med. Plant Res. 3 (1989)
20-55
Chiết xuất
7- D.L. Klayman, A.J. Lin, N. Action, J.P. Scovill, J.M. Hoch, W.K.
Milhous, A.D. Theoharides, Isolation of artemisinin (qinghaosu) from
Artemisia annua growing in the United States, J. Nat. Prod. (4) 47 (1984)
715-7
8- N. Action, D.L. Klayman, I.J. Rollman, Isolation of
artemisinin (qinghaosu) and its preparation from artemisitene using the Ito
miltilayer coil separator-extrector and isolation of arteannuin B, J.
Chrom. 355 (1986) 448-50
9- R.J. Roth, N. Action, The isolation of sesquiterpens
from Artemisia annua, J. Chem. Edu.(4) 66 (1989)
349-50
10- H.N. ElSohly, E.M. Croom Jr., F.S. El-Feraly, M.M.
El-Sherei, A large-scale extraction technique of artemisinin from
Artemisia annua, J. Nat. Prod. (6) 53 (1990)
1560-4
Nhân tạo tổng hợp
11- G. Schmid, W. Hofheinz, Total synthesis of qinghaosu,
J. Amer. Chem. Soc. 105 (1983) 624-5
12- X.X. Xu, J. Zhu, D.Z. Huang, W.S. Wei, Total
synthesis of arteannuin and deoxyarteannuin, Tetrahedron (3) 42 (1986)
819-28
13- M.A. Avery, C.Jennings-White, W.K.M. Chong, The
total synthesis of (+)- artemisinin and (+)-9-desmethylartemisinin, Tetr.Lett. (40) 28 (1987)
4629-32
14- S.S. Zaman, R.P. Sharma, Some aspects of the
chemistry and biological activity of artemisimin and related antimalarials,
Heterocycles (8) 32 (1991) 1593-638
Ứng dụng
15- A. Keith, Tran Tinh Hien, Nguyen Tran Chinh, Nguyen Hoan
Phu, Pham Phuong Mai, A randomized comparative study of artemisinine
(qinghaosu) suppositories and oral quinine in acute falciparum malaria,
Trans. Roy. Soc. Trop. Med. Hyg. 84 (1990) 499-502
16- W. Peters, B.L. Robinson, J.C. Rossier, C.W. Jefford, The
chemotherapy of rodent malaria. XLVIII. The activities of some synthetic
1,2,4-trioxanes against chloroquine-sensitive and chloroquine-resistant
parasite. Part 1: Studies leading to the development of novel cis-fused
cyclopenteno derivatives, Ann. Trop. Med. Paras.(1) 87 (1993)
1-7
17- L. Huang, J.F. Liu , L.X. Liu, D.F. Li, Y . Zhang, N.Z. Nui,
H.Y. Song, C.Y. Zhang, Antipyretic and anti-inflammatory effects of
Artemisia annua L.,China J. Chinese materia medica (1) 18 (1993)
44-8, 63-4
18- N.B. Paniego, A.E. Maligne, A.M. Giulietti, Artemisia
annua (qing-hao) : in vitro culture and the production of artemisinin, Biotech.
Agric. Fores.24 (1993) 64-78
19- N.J. White, The treatment of malaria, New
Eng. J. Med.(11) 335 (1996) 800-6
20- F. Malagon, J. Vasquez, G. Delgado, A. Ruiz, Antimalaric
effect of an alcoholic extract of Artimisia ludoviciana mexica in a rodent
malaria model, Parasitologia (1) 39 (1997) 3-7
21- Y. Li, Y.L. Wu, How Chinese scientists discovered
qinghaosu (artemisinin) and developed its derivatives? What are the future
perspective?, Med. Trop.: revue du Corpsde Santé colonial 58 (3
suppl.) (1998) 9-12
22- X. Shuhua, J. Chollet, N.A. Weiss, R.N. Bergquist, M.
Tanner, Preventive effect of artemether in experimental animals
infected with Schistomosa mansoni, Parasitol. Inter. (1) 49 (2000)
19-24
23- Q. Wang, L.M. Wu, A.Y. Li, Y. Zhao, N.P. Wang, Experimental
studies of antitumor effect of artesunate on liver cancer, China J.
Chinese materia medica (10) 26 (2001) 707-8
24- T. Efferth, H. Dunstan, A. Sauerbrey, H. Miyachi, C.R.
Chitambar, The anti-malarial artesunate is also active against cancer,
Int. J. Oncol. (4) 18 (2001) 767-73
25- P.C. Dias, M.A. Foglio, A. Possenti, D.C. Nogueira, J.E. de
Carvalho, Antiulcerogenic activity of crude ethanol extract and some
fractions obtained from aerial parts of Artemisia annua L., Phytoth.Res.: PTR (8) 15 (2001) 670-5
26- Phan Vu Thi, Artemisinine and artesunate in the
treatment of malaria in Vietnam (1984-1999), Bull. Soc. Path.
exot.(1990) (2) 95 (2002) 86-8
27- F. Juteau, V. Masotti, J.M. Bessiere, M. Dherbomez, J.
Viano, Aintibacterial and antioxidant activities of Artemisia annua
essential oil, Fitoterapia (6) 73 (2002) 532-5
28- M.A. Foglio, P.C. Dias, M.A. Antonio, A. Possenti, R.A.F.
Rodrigues, E.F. da Silva, 26. Rehder, J.E. de Carvalho, Antiulcerogenic
activity of some sesquiterpene lactones isolated from Artemisia annua,
Planta medica (6) 68 (2002) 515-8.

9- Trà mi, Hải đường
Vườn
ai nắng ấm chan hòa
Hồn
tôi chợt nở nụ hoa bình thường
Chẳng
trà mi chẳng hải đường
Nửa
gần gũi lắm nửa đường rất xa.
Nguyễn Đăng Trình
Trà mi hay hải đường? Nếu ở
trong nhiều nhà, đặc biệt ngoài Bắc, trà mi và hải đường là hai cây hoàn toàn
khác nhau, ở nhiều nơi khác, hai cây nầy chưa được phân biệt rõ ràng. Nói cho
đúng, cây thường được trồng làm cây cảnh gọi trà mi là "một cây gỗ nhỏ,
dạng bùi, cành nhánh nhiều, dài, xum xê. Lá mọc cách, nhẵn bóng, màu xanh đậm,
mép có răng nhỏ. Hoa đơn độc hay 2-3 chiếc ở đầu cành. Cánh hoa chuyển tiếp từ
cánh đài đến cánh tràng, mềm, xếp sát nhau, từ màu trắng, hồng đến đỏ. Nhị rất
nhiều. Hoa nở vào dịp đầu xuân..." (TH). Lẫn lộn là tên các cây nầy mặc
dầu cánh hoa hải đường có phần dày mập hơn cánh hoa trà mi. Thắc mắc, Giáo sư
Vĩnh Sính (1), nay đã mất, ở viện Đại học Alberta bên Canada,
lục lọi những câu trong Truyện Kiều phân biệt được hải đường tức haitang của
Trung Quốc, kaido của Nhật Bản
Hải đường lả ngọn đông lân
Giọt sương gieo nặng
cành xuân la đà. (hàng
175-176)
Hải đường mơn mởn cành
tơ,
Ngày xuân càng gió
càng mưa càng nồng. (hàng 1283-1284)
và trà mi tức shancha (sơn trà) của Trung
Quốc, tsutaki của Nhật Bản
Tiếc thay một đóa trà mi,
Con ong đã tỏ đường đi
lối về. (hàng 845-846)
Chim hôm thoi thót về
rừng,
Đóa trà mi đã ngậm
gương nửa vành. (hàng 1091-1092)
Theo anh Sính, hoa trà mi của ta là camellia/camélia mà
Tiên Điền tiên sinh mượn hình tượng nhằm nói lên kiếp hồng nhan trước những thử
thách quá ư nghiệt ngã của số phận khi định mệnh đã đưa đẩy Kiều vào tay của Mã
Giám Sinh và Sở Khanh - những kẻ "thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương".
Còn hoa hải đường qua lời của Đường Minh Hoàng hỏi Dương Quý Phi: "Hải
đường thụy vị túc da?" (Hải đường ngủ chưa đủ sao?) tiên sinh mượn
nhằm nói lên những nét yểu điệu gợi cảm của nàng Kiều qua bóng dáng một Dương
Quý Phi kiều diễm. Cũng theo anh, tên khoa học của cây hải đường là Malus
spectabilis, tiếng Anh gọi là flowering cherry-apple (hay Chinese
flowering apple, hay Japanese flowering crab-apple và
nhiều tên khác), tiếng Pháp gọi là pommier sauvage. Gần đây những
nhà khảo cứu Trung Quốc đề nghị một số tên: Camellia sasanqua là Flowering
cherry, C. hiemalis là Small rose, C.
japonica là Autumn peony, và một giống mới từ C. sasanqua là Mosaic
peony.
Trong sách báo, tên cây hải đường có mặt trong cuốn Cây
cỏ miền Nam Việt Nam của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ. Có thể đã dựa theo
pho Flore générale de l’Indochine, Giáo sư đã gán tên khoa
học Thea amplexicaulis Pitard cho hải đường, nhưng trong
bộ Cây cỏ Việt Nam, cũng cùng hình vẽ và mô tả gần giống nhau, cây
có tên khoa học Camellia amplexicaulis (Pit.) Coh-Swart (gần
đây danh từ Camellia thường được dùng thế Thea)
không mang tên hải đường nữa mà là trà hoa lá ôm và trong suốt bộ sách 6 cuốn
không còn tìm ra tên hải đường đâu nữa (PHH). Đằng khác, trong sách báo khoa
học thế giới mà tôi tìm đọc được, không thấy có khảo cứu ba cây Malus
spectabilis, Thea amplexicaulis và Camellia amplexicaulis.
Dù sao, chắc chắn một điều là trà mi phải mang tên chi khoa học Camellia như
Giáo sư Vĩnh Sính đã đề nghị. Nhà vạn vật học Thụy Điển Carl von Linné
(1707-1778) đặt tên nầy năm 1753 để tỏ lòng biết ơn vị giáo sĩ giòng Tên George
Joseph Kamel đã có công mang hột từ Trung Quốc về Âu châu cuối thế kỷ XVII.
Chi Camellia chắc chắn rồi, bây giờ câu hỏi là
loài Camellia nào? Về cây chè hay trà, Giáo sư Đỗ Tất Lợi chỉ
kể một vài Camellia thuộc họ Chè Theaceae: C.
sinensis O. Ktze (hay Thea chinensis Seem) tức cây
chè hay trà; C. sasanqua Thunb. (hay T. sasanqua (Thunb.)
Nois.) tức cây sở hay trà mai, trà mai hoa; C. oleosa (Lour)
Rehd (hay Thea oleosa Lour, C. drupifera Lour)
tức cây du trà, và một vài cây thuộc họ Hoa hồng Rosaceae: Crataegus
pinnatifida Bunge tức sơn trà hay bắc sơn trà; C.
cuneata Sieb.et Zucc., tức dã sơn trà hay nam sơn trà (ĐTL). Giáo sư
Phạm Hoàng Hộ kê đến ít nhất cũng 30 Camellia phần lớn mang
tên hoa trà (gân, gân có lông, sa, đồng, đuôi, dài, cám, nhụy ngắn, vàng, vàng
vàng, hoa vàng, lá ôm, trái mỏng, hấp trùng, san hô, Phamhoang, Nhật, Đông
Dương, Việt Nam,...) bên cạnh những C. sasanqua Thunb. tức
trà mai,C. oleifera C. Abel tức du trà còn gọi cây sở (PHH). Theo
Nguyễn Duy Chính (2) thì một phần các Camellia là
sơn trà: Nhật Bản sơn trà C. japonica, Vân Nam sơn trà C.
reticulata Lindl., tây nam sơn trà C. pitardii Cohen
Stuart, Nộ Giang sơn trà C. saluenensis Stapf ex Bean, Çông
hồng sơn trà C. hiemalis Nakai, ngoại trừ kim hoa trà C.
petelotii Sealy, cúc trà C. chrysantha Tuyama,Mông tự
liên nhị trà C. forestii Cohen Stuart. Không thấy nói đến trà
mi và hải đường. Danh từ trà mi chỉ được thấy trong cuốn Cây cảnh, hoa
Việt Nam của Trần Hợp (Công ty Phong lan Tp Hồ Chí Minh) với tên khoa
học C. japonica Nois (hay L.), thuộc họ Chè Theaceae. Theo
tác giả nầy, chủng có hoa đẹp hơn cả là var. flore-pleno Hort,
cánh hoa kép nhiều lớp xếp xoắn ốc. Người Nhật Bản gọi nó là tsubaki và
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ trà hoa Nhật.
Trong báo chí khoa học, một số cây Camellia đã
được khảo cứu. Từ hột cây C. japonica, dùng rượu chiết xuất được
saponin, prosaponin, sapogenol, thủy phân đem lại những chất đường arabinose,
galactose, glucose, cùng tiglic acid, camellin, những oligoglycosid có tính
chất chống hấp thu alcool. Các nhà dược lý học Nhật Bản còn trích từ hột cây 2
camelliin cùng 3 camelliatanin và từ lá cây 2 camelliatanin. Nhưng lại các nhà
khảo cứu Hàn QuÓc ở Khoa Tài nguyên Y học Á Đông khám phá ra camelliatanin H có
tính chất ức chế hoạt động của trùng HIV-1 PR với IC50: 0,9
microM. Lá cây còn chứa đựng nhiều catechol và ascorbic acid (mùa đông 127-211,
mùa hè 0,29 mg%). Dầu hột cây C. japonica chứa đựng nhiều
triterpen alcool trong ấy 19 chất đã được xác định. Một nhóm khảo cứu viên cũng
ở Trường Khoa học Công nghệ, Viện Đại học Tokyo, còn tìm ra được 27 triterpen
alcool trong dầu hột hai cây C. japonica và C.
sasanqua. Một số lớn các triperpen alcool nầy có tính chất kháng viêm (13).
Từ hoa cây C. japonica đã được xác định 3 flavonol, quercetin,
kaempferol, sexangularetin, 3 phenolic acid cùng spinasterol, stigmasterol, một
hỗn hợp 2 glucosid và một triterpen. Cánh hoa còn tươi chứa đựng 2 terpen
alcool, 2 sterol, 4 polyphenol, pectin, trisaccharid, flavandiol trong
cellulose, nhiều n-alcan, 2 tanin trong nụ hoa. Màu sắc trong C.
japonica cũng như trong C. sasanqua là từ những
anthocyanin mà lại, ít nhất cũng 14 chất. Một cây được sắp với C.
japonica vì mang tên Thea sinensis japonica đã được
khảo cứu từ lâu.
Như vừa thấy, cây trà mai, trà mai hoa C.
sasanqua, còn có tên cây sở, người Nhật gọi C. sasanqua,
cũng đã được khảo cứu nhiều. Lá cây chứa đựng một glycosid là sasanquin bên
cạnh eugenol, glucose, xylose, acscorbic acid cùng một số carotenoid (20,15
mg/100g) mà 83,6 % đã được xác định. Hai dimeric tanin được tìm ra trong nụ
hoa, theanin trong đọt, rễ, lá, mầm cây, mất dần khi cây lớn lên như ở C.
japonica. Từ hột cây đã được chiết xuất 3 sapogenin, 2 sapogenol, 3
theasapogenil, barrigenol, hydroxyerythrodiol, sasanqua saponin có tác dụng độc
lên thỏ LD50: 0,25 ppm. Bên phần hột cây C.
oleosa mà Giáo sư Đỗ Tất Lợi gọi là du trà, thì được chiết xuất với
nhiều dung dịch để lấy saponin: hỗn hợp butanol-nước (14,7%) tốt hơn nước một
mình (7,7%). Còn cây C. druppifera mà Giáo sư Đỗ Tất Lợi cũng
gọi du trà nhưng mang tên trà có nhân theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, thì được học
hỏi từ cuối thế chiến thứ nhất và kết quả đăng trong báo Kinh tế Đông Dương:
ép hột cây thành dầu trong, vàng, vị ngọt dễ chịu, chứa đựng acid béo (93,79%)
và oleic acid (1,36%), không có alcaloid và các chất cyanogen nhưng chút ít
glucosid saponin, có thể dùng làm xà phòng và, sau khi loại saponin, làm dầu ăn; cặn bả còn lại có thể làm phân bón và nhờ chứa đựng saponin, nó rất độc cho
ấu trùng sâu bọ (TH).
Về mặt dược liệu, sasanquol, một chất triterpen lấy từ tinh dầu
ra, có tính chất chống viêm (17). Cũng thử trên chuột, sasanqua
saponin có tính chất bảo vệ cơ tim bị thiếu máu cục bộ nguyên do thiếu
oxi-mô/tái oxi hóa (20) hay isoproterenol (24) gây
ra isoproterenol (24). Nhiều tannin, đặc biệt camelliin, có khả
năng ức chế hiệu ứng bệnh học tế bào do trùng HIV gây ra (EC50:
4,8-11,8 microg/ml). Còn gemin thì tỏ ra có hoạt động kháng VIH (EC50:
2,0 g/ml) (10). Lá cây đã được nghiền thành bột, chiết xuất
với nhiều dung dịch hữu cơ để dùng làm thuốc khử mùi trong nhà. Dầu sasanqua
được dùng làm thuốc tẩy (8) hay trong các hỗn hợp bảo vệ
da (7). Sasanqua saponin (25%) đem trộn với nicotin (2%) thuốc
lá thành hỗn hợp dùng để trừ rệp (LD50: 13,16 microg/ml; LD90:
62,25 microg/ml), hiệu nghiệm trên 85% (11). Saponin được dùng
làm thuốc khử trùng (25). Từ saponin nầy lại trích ra được
camelliagenin dùng để loại cá bống trắng, cá vây gai trong các ao nuôi tôm hay
để đuổi ruồi cùng nhiều loại sâu bọ trong nhà (15). Ở Việt Nam,
hột cây đã được khảo cứu để tìm protein và amin acid (5), acid
béo trong hột cây hoang (6). Lá cây bên ta cũng được xem như là
một nguồn eugenol (95-97% tinh dầu), nhưng kết quả khảo sát qua ba mùa thu,
đông, xuân là số lượng khá nhỏ (0,0026%) và eugenol không được tìm ra trong
thời gian cây lớn lên, trái lại hóa chất chính là linalool (37,12-48,82%) (12).
Hai cây sơn trà không thuộc chi Camellia, thường
được gọi là hawthorn, cũng đã được khảo cứu: cây nam sơn trà Crataegus
cuneata Sieb. et Zucc., còn được gọi red haws, thorn
apple hay Japanese hawthorn, được thấy nhiều hơn cây bắc
sơn trà C. pinnatifada Bunge, còn được gọi Chinese
hawthorn trong các bản báo cáo. Lấy ether chiết xuất C.
cuneata thì được ursulic acid. Trái cây chứa đựng một triterpenoid:
cuneatol. Trong lá cây non có một glycosid loại prunasin. Ba flavonoid
(vitaxin, rutin, hyperosid) đã được xác định trong cả hai cây Crataegus bên
cạnh 4 acid hữu cơ: tartaric, malic, citric và succinic acid. Cả hai cây, nhất
là C. pinnatifada, nhờ vậy, được dùng để phòng ngừa và chữa
những chứng tim mạch. Một phương pháp phân tách dựa lên sắc phân với nhựa
Amberlite XAD-2 và một hệ thống dung dịch tách rửa ethanol-nước phát hiện đến
56 flavonoid. Cây C. cuneata giàu ascorbic acid lại chứa đựng
một enzym ức chế hoạt động khử oxi của acid ấy. Nó cũng là một cây thuốc rất
hiệu nghiệm: dùng nước nóng pha NaOH chiết xuất thì được một dung dịch nồng độ
lớn natri ascorbat rất độc cho ung thư biểu mô có vảy da tế bào khối u tuyến
nước bọt con người vì có khả năng phá hủy những superoxid anion và những gốc
hydroxyl. Môn học cổ truyền Trung Quốc còn dùng nó sắc uống chữa bệnh tăng
lipid huyết. Hai văn bằng sáng chế dùng trái cây trong một hỗn hợp để chữa bệnh
nghiện ma túy (4) hay để làm giấm (19).
Trái cây cũng đã được dùng làm chất lợi tiểu, làm tiêu hóa, chữa những chứng ở
ruột (18). Trong đời sống hằng ngày, C. cuneata được
dùng trong mỹ phẩm bảo vệ da (9,11,16,23), kích thích tóc
mọc (21,22) cũng như C. pinnatifida (26).
Cây bắc sơn trà nầy chứa đựng (%) flavon (3,12-3,43), ursulic acid
(0,470-0,563), đường (17,38-21,43) và (ppm) Cu (16,04), Na (11,54), Zn (12,01),
Fe (126,0) và P (695,2).
Bên ta, trong dân gian, cây sở hay trà mai cũng có công dụng.
Dầu sở được dùng làm thực phẩm, nấu xà phòng, thắp đèn, chữa ghẻ lở. Khô sở
dùng làm phân bón, thuốc trừ sán, trừ giun đất; không thể dùng cho súc vật ăn
được vì có độc. Bó gảy xương: lá sở 50g, lá náng 50g, hai thứ giã nhỏ, đắp và
bó. Bên phần cây sơn trà (hoa, quả, lá) Tây y coi là một vị thuốc chủ yếu tác
dụng trên tuần hoàn (tim và mạch máu) và giảm đau an thần. Đông y lại coi sơn
trà là một vị thuốc chủ yếu trên bộ máy tiêu hóa. Theo tài liệu cổ, sơn trà có
vị chua, ngọt, tính ôn hòa vào ba vị kinh tỳ và can, tiêu được các thứ thịt
tích trong bụng, phá được hành khí, hành ứ hóa đờm rãi, giải được độc cá, lở
sơn, chữa tả lỵ, trị tích khối, huyết khối, giảm đau... Liều dùng trong Đông
y: ngày uống 3-10g dưới dạng thuốc sắc, uống một vị hoặc phối hợp v§i các vị thuốc
khác. Tây y dùng dưới dạng cao lỏng (ngày uống 2-4 lần trước bửa ăn, mỗi lần
20-30 giọt) hoặc cồn thuốc (ngày uống 3-4 lần, mỗi lần 20-30 giọt) để chữa các
bệnh về tim mạch, cao huyết áp và giảm đau (ĐTL). Thì ra ông cha ta, tuy không
khảo cứu khoa học tường tận, đã có nhiều kiến thức về các cây thuốc này.
Ở Paris, mùa xuân năm nay, tôi đã cố ý đi khắp các vườn hoa,
công viên tìm xem các loại mà người Pháp gọi là camélia. Hoa nở màu
hồng, màu đỏ, màu trắng lẫn lộn, có nhụy vàng lớn hay nhỏ hay không có nhụy,
cánh hoa nhiều lớp xếp sát nhau hay xếp xoắn ốc. Một điều đáng chú ý là các
cánh hoa đều mỏng, đặc tính của hoa trà mi. Thành thử tôi không tìm ra được một
loại hoa có thể cho là hải đường. Về Huế thì không đúng mùa, tôi chỉ được ngắm
hoa hải đường còn búp. Sau nầy còn phải tìm biết cho được cây kim ty hải đường,
không biết hình dáng ra sao? Nếu bạn ghé Paris, có thể lên nghĩa địa Montmartre
thắp một nén hương trên mồ bà Alphonsine Plessis (1824-1847) đã từng được nhà
văn hào Alexandre Dumas fils (1824-1895) dùng làm mẫu cho người kỹ nữ trong
cuốn sách truyện La dame aux camélias (1848). Tác giả giải
thích đặt tên sách như vậy vì nhân vật bạc mệnh rất yêu hoa camélia,
ngay hôm gặp nhau lần đầu nàng Marguerite đã tặng chàng Armand một đóa và bắt
hứa ngày mai phải đem trả lại khi hoa tàn, nên một đóa hoa camélia trắng
đã được cài lên hình bà Alphonsine Plessis đính trước thành mộ, mong ký ức hồng
nhan được tồn tại đời đời.
Nghiên cứu và Phát triển 2 (55) 2006,
khoahoc.net 12.2007
Tham khảo:
1- Vïnh Sính, Hải đường là ngọn đông lân, Diễn
Đàn, Paris 133(10) (2003) 45-6
2- Nguyễn Duy Chính, Sơn trà, Nghiên cứu và
Phát triển, Huế 4-5 (52-53) (2005) 100-12
3- Bouvelot, Contribution to the chemical study of the
fruit of Camellia drupifera, Bull. Econ. Indochine 21 (1918)
232-4
4- B.W. Wu, S.P. Lee, Anti-narcotic medicine, Brit GB
1096708 (1967) 3 tr.
5- Duong Tan Phuoc, H. Meier, W. Wiesemueller, Protein
and amino acid content in some extracted oilmeals of the Vietnam Democratic
Republic, Wissenschaftliche Zeitschrift der Univ. Rostock,
Math.-Naturw. Reihe 18(1/2) (Pt1) (1969) 151-3
6- Cl. Franzke, Duong Tan Phuoc, E. Hollstein, Fatty
acid composition of seeds of wild-growing oil plants of Vietnam, Fette,
Seifen, Anstrichmittel 73(10) (1971) 639-42
7- M. Aizawa, K. Senoo, K. Uehara, Skin preparation
containing drying-semidrying oils, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
61207313 (1986) 8 tr.
8- J. Liu, et al., Household synthetic detergent and its
production, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN
1048884 (1991) 6 tr.
9- C. Wananabe, T. Kondo, Skin cosmetics containing
kojic acid and plant extracts, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
03193712 (1991) 7 tr.
10- T. Hatano, L. Han, S. Taniguchi, T. Chou, T. Shingu, H.
Sakagami, M. Takeda, H. Nakashima, T. Murayama, et al., Anti-HIV tannins
from Camellia japonica and related plant species, Tennen Yuki
Kagobutsu Toronkai Koen Yoshishu 34 (1992) 510-7
11- A. Asano, A. Hayashi, S. Kuribayashi, K. Kaizu, Skin-lightening
cosmetics containing N,N’-diacetylcystinedimethyl and plant extracts, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 06065045 (1994) 14 tr.
12- Nguyen Thi Tam, Nguyen Trong Duong, Determination of
eugenol from Camellia leaves collected in some provinces of northern Vietnam, Tap
chi Duoc hoc (5) (1994) 16-7
13- T. Akihisa, K. Yasukawa, Y. Kimura, S.I. Takase, S.
Yamanouchi, T. Tamura, Triterpene alcohols from camellia and sasanqua
oils and their anti-inflammatory effects, Chem. Pharm. Bull. 45(12)
(1997) 2016-23
14- S. Hu, W. Hu, K. Wang, Effectiveness of using 27%
sasanqua saponin nicotine soluble aquae concentrate as insecticide to control
aphids, Hunan Shifan Daxue Ziran Kexue Xuebao 20(1)
(1997) 63-7
15- X. Hou, Q. Sun, S. You, G. Wang, J. Zhang, B. Su, S.
Wang, Application of Camellia oleosa seeds saponin, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1191069 (1998) 7 tr.
16- M. Hayase, Skin conditioners containing urea, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 10152428 (1998) 4 tr.
17- T. Akihisa, K. Yasukawa, Y. Kimura, S. Yamanouchi, T.
Tamura, Sasanquol, a 3,4-seco-triterpene alcohol from sasanqua oil, and
its anti-inflammatory effect, Phytochem.48(2) (1998)
301-5
18- T. Okamura, R. Akino, Y. Ohfuka, Induction of callus
from Crataegus cuneata stems, Mukogawa Joshi Daigaku Kiyo, Shizen
Kagaku-hen 47 (1999) 43-5
19- S. Wu, Wild haw vinegar and ist making process, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1274749 (2000) 4 tr
20- P. Li, M. He, Q. Huang, W. Peng, Protective effect
of sasanquasaponin on anoxia/reoxygenation injured rat myocardium and its
mechanism of action, Zhoncaoyao 31(11) (2000) 841-3
21- K. Suzuki, K. Imamura, T. Okajima, F. Kimura, Hair
growth stimulating compositions containing minoxidil and plant extracts, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 2000204022 (2000) 5 tr.
22- H. Nishizawa, T. Kono, Hair tonics containing hair
growth stimulants and plant extracts, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
20011089331 (2001) 15 tr
23- K. Hasegawa, K. Sato, O. Ifuku, I. Yamamoto, Skin
compositions having improved skin-whitening effects and storage stability, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 2001302525 (2001) 17 tr
24- Q. Huang, S. Cao, M. He, P. Li, W. Peng, Protective
effect and pharmacological ischemic preconditioning of sasanqua saponin
mediated by NO on intact rat heart, Zhoncaoyao 32(1) (2001)
44-6
25- W. Cao, L. Wu, X. Shi, B. Xei, Extraction and
rafinement of Camellia oleosa saponin with ultrafiltration membrane, Zhongguo
Yopuzhi27(3) (2002) 55-7
26- H. Kurita, M. Nishito, H. Shimogaki, Gray
hair-preventive agents and screening method for hair-active ingredients, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 200277531 (2003) 21 tr.

10- Trinh nữ thẹn thùng
Sáng
nay vô số lá vàng rơi
Người
gái trinh kia đã chết rồi!
Nguyễn Bính
Ngày xưa có một cô tên Trinh,
con nhà nghèo khó, nhưng là một cô gái rất đẹp, vóc người mảnh mai, dáng đi yểu
điệu, đặc biệt có đôi mắt đen huyền ẩn sau đôi hàng lông mi vừa dài, vừa sậm.
Trong xóm có cậu công tử tên Xinh đem lòng yêu mến cô Trinh. Nhuốm bệnh tương
tư, một hôm thừa lúc vô ý, cậu chạy lại nắm tay cô. - Cậu đừng làm vậy mà thất
giáo. Tôi đây thà chết chớ không bao giờ để hoen ố. Ông bá hộ, cha của cậu, thấy
cậu đã lớn tuổi, tìm nơi môn đăng hộ đối để định gia thất cho con. Sống
với người vợ không vừa ý, cậu Xinh vô cùng phẩn chí, đi tới đi lui như người
không hồn. Sau một thời gian đi xa, cậu Xinh trở về làng cũ, thẩn thờ ra sau
vườn gần mé sông, hình ảnh cô Trinh vẫn còn ghi trong tâm trí của cậu.
"Bổng nhiên, từ trong bụi rậm, cô Trinh bước ra. Cậu đứng nhìn, kìa cô
Trinh cất giọng hát, giọng trong trẻo, mê ly lạ thường. Chợt thấy cậu, cô Trinh
run rẩy, quay người toan chạy trốn. Cậu Xinh vội nắm tay cô rồi ôm vóc ngọc vào
lòng. Rõ ràng là đôi mắt đen huyền đang khuất sau hai hàng mi dày sậm. Cậu cúi
mặt để hôn. Nhưng hởi ôi nàng đã tắt thở. Cậu giật mình, mới biết nảy giờ mình
đang cúi xuống đất mà hôn một đóa hoa màu hồng, xung quanh đầy lá nhỏ mịn, thứ lá
xếp lại như hàng mi khép khi có hơi gió hoặc hơi thở nào động tới. Hỏi ra mới
biết, vì có kẻ tham quan ô lại toan dùng quyền lực cưỡng bức nên cô Trinh đã tự
tử từ hai năm nay. Cho hay, chữ trinh giá đáng nghìn vàng. Dẫu chết xuống âm
cảnh, người thiếu nữ vẫn giữ sự trong sạch của tâm hồn mình" (2).
Chuyện cô Trinh nhắc ta nhớ đến một sự tích trong thần thoại Hy
Lạp. Nữ thần Daphné, một tay thiện xạ, muốn sống độc thân như cô trinh nữ
Artémis, thần săn bắn. Một hôm, nhân từ chối những lời ngon ngọt của thần
Apollon và bị chàng si tình rượt đuổi trong rừng, nàng cầu cứu vua cha, thần
sông nước Pénée và được vua cha (hay Thượng đế Zeus) biến hóa ra thành một cây
hương mang lá không rụng, có hoa trắng thơm, cây thắng dapné (theo tiếng Hy
Lạp), tiếng Pháp gọi laurier, tiếng Anh laurel, tên
khoa học Laurus nobilis, thuộc họ Long não Lauraceae.
Apollon chỉ còn biết hái lá cây trang trí cho cây đàn lia và chiếc cung của
mình, nhưng đồng thời cũng tôn phong là cây thiêng liêng nên sau nầy thi sĩ,
tướng tá hay vua chúa thường hay mang vòng lá thắng (couronne de laurier).
Đặc biệt những nghệ sĩ hay nhà bác học thường được thưởng một vòng mang quả
mọng cây thắng (bacca laurea) nên sau này tiếng Pháp có danh từ baccalauréat để
chỉ bằng tú tài.
Đóa hoa màu hồng kia là hoa cây trinh nữ còn gọi là cây thẹn,
cây mắc cỡ, cây hỗ ngươi hay hàm tu thảo, ojigi so bên Nhật, lajwanti bên
Ấn Độ, lajjabati bên Bangladesh, tức là cây sensitive của
Anh, Pháp, mang tên khoa học Mimosa pudica L. từ hai tiếng La
Tinh mimus (điệu bô) và pudicus (trong trắng,
tiết hạnh) mà ra. Thuộc họ Trinh nữ Mimosaceae, nó là một cây nhỏ,
thường cao 30-40 cm hay cao hơn, cũng có thể bò sát đất, mọc hoang khắp nơi
trong nước ta, lóa xóa ở hàng rào, ven đường cái, bải cỏ rộng, thân có gai hình
móc. Lá kép chân vịt, cuống lá gầy có nhiều lông, mang bốn nhánh lá chét hình
lông chim, phiến lá chét nhỏ gồm 15-20 đôi gần như không cuống, khi ta đụng
phải thì là cụp lại. Hoa màu tím đỏ, tụ thành hình đầu trái xoan. Quả đậu
có lông cứng ở mép và thu lại giữa các hạt hình trái xoan (ĐTL, LTĐ).
Cây cỏ có rễ bám vào đất thì không di chuyển từ chỗ nầy qua nơi
khác được nhưng không phải vì vậy mà chúng luôn ở thể tĩnh. Tính nhận cảm của
chúng biểu lộ ở mỗi thay đổi khí hậu, ánh sáng, độ ẩm cũng như sự hiện diện
những hóa chất trong môi trường xung quanh. Thường cử động của cây cỏ được sắp
thành ba loại: loại tính hướng tropism (cử động hướng theo
tác nhân kích thích), loại tính ứng nasty (cử động không có
liên lạc với tác nhân kích thích) và loại tính theo taxis (cử
động hướng theo hay không tác nhân kích thích). Cây trinh nữ thuộc loại tính
ứng. Như ở nhiều loại cây đậu, đặc biệt ở các loại cây keo Acacia
karroo, cây me Oxalis strica, động tác là mở ban ngày,
khép ban đêm hay khi bị đụng tới ở cây trinh nữ đã được để ý đến trước cả công
nguyên. Hình như vào thời kỳ Đại đế Alexandre đã thấy có ghi chép hiện tượng
này. Chuyển động tuần hoàn tương đối chậm (khoảng 24 tiếng đồng hồ) của lá cây
gọi là tính ứng đêm nyctinastic, thao diễn như được một chiếc đồng
hồ sinh vật học điều khiển.
Thật vậy, khái niệm tính ứng đêm chỉ ra đời sau khi khái niệm
đồng hồ sinh vật học được nêu ra. Đầu thế kỷ 18, Du Fay, một nhà hóa học
kiêm vật lý học người Pháp, quản đốc ngự uyển, phát giác ra tính ứng đêm
(lá mở ngày khép đêm) luôn thao diễn dù ở trong bóng tối. Hiện tượng lạ lùng
khó giải thích nầy thúc đẩy các nhà khảo cứu, hóa học, nông học cũng như sinh
vật học, kiếm cách tìm hiểu cơ chế không những tinh ứng đêm tức cử động chậm mà
còn cả tính ứng tiếp xúc thigmonastic còn gọi tính ứng chấn
động seismonastic tức là phản ứng lanh của cây cỏ. Năm 1882,
nhà vạn vật học có tiếng Charles Darwin, tác giả cuốn sách độc
đáo "Nguồn gốc chủng loại", cùng với con trai Francis rút kinh
nghiệm khảo cứu trên hơn một trăm loại cây, cho xuất bản bộ sách quan
trọng "Khả năng vận động của cây cỏ" trong ấy tính
ứng đêm đã được đề cập đến. Những thí nghiệm khéo léo của hai ông về sự đổi màu
ngoài sáng đã đưa đến cuộc phát minh chất auxin là hormon cây cỏ đầu tiên trong
số sáu hormon được biết nhiều nhất: auxin ethylen, gibberillin, cytokinin,
abscisis acid và brassinolid. Ngày nay, người ta giải thích cử động của lá
cây là do các luồng ion, đặc biệt các ion K+, gây ra một cuộc di
chuyển nước trong hay quanh những tế bào sắp đặt trên và dưới các tổ chức mạch
trung tâm. Những tế bào nầy khi co thắt thì mất ion K+, khi phồng
trướng thì lấy lại các ion ấy, gây ra cuộc chuyển động (49).
Bên lề cơ chế, những nhà khảo cứu muốn tìm cho ra những hoạt
chất đã kích thích hoạt động của lá cây. Thoạt tiên, được nghĩ đến trước tiên
là những amin acid, đặc biệt glutamic acid, alanin hỗn hợp với serin, hay
glutamic acid với alanin, nhưng thực nghiệm không chứng minh được rõ ràng.
Sau đó, phương pháp điện sinh lý học dẫn đường đến chất natri glutamat. Cùng
lúc, những chất như mimosin, tubulin, jasmonic acid, acetylcholin, indol acetic
acic, hay một enzym, apyrase, cũng được đề nghị làm chất điều hòa chuyển động
tuần hoàn trong lá. Năm 1983, Schildneckt và Binder ở Viện Đại học Heidelberg
bên Đức chiết xuất và xác định được từ nhiều cây, đặc biệt từ cây trinh nữ, các
loại cây keo, cây me, những chất turgorin gồm có trong phân tử nhóm acid SO3H,
mà họ cho là một loại mới phytohormon chỉ đạo cuộc chuyển động kia. Sau cùng,
Yamamura và Ueda, hai giáo sư ở Viện Đại học Keio tại Yokohama bên Nhật,
khám ra một hỗn hợp gồm có ba chất: kali malat, magnê aconitat và dimethyl
ammonium và theo hai ông chính là chất kích thích cây trinh nữ vì lá đã phản
ứng với liều lượng 10-3-10-9 M. Đằng khác, hai tác
giả nầy còn phân biệt: hỗn hợp ba chất kia chịu trách nhiệm tinh ứng lanh, còn
cử động chậm tinh ứng đêm thì là do cặp hai chất kali glucopyranosyl gentisat
(khép lá ban đêm) và mimopudin (19) (mở lá ban ngày) dao
động thăng bằng với nhau mà nhờ thay đổi cách chiết xuất họ đã phân
biệt được.
Thật ra, những crocetin glucosid với Benerji, phenolic glycosid
với Umrath, chính xác hơn những dihydroxy benzoic acid - glucorinid hay -
glucosid sulfat hay - glucosid disulfat hay glucopyranosyl sulfat gallic acid
cũng đã từng được Chamberland và nhất là Schildneckt nói đến. Song song
với cây trinh nữ, khảo cứu trên nhiều cây như loại đơn châu Lespedeza
cuneata, vọng giang nam Cassia mimosoides, diệp hạ châu Phyllanthus
urianata, Yamamura và Ueda (19) nhận thấy một
trong hai chất của cặp đôi này luôn là một glucosid do một enzym là
bêta-glucosidase hoạt hóa theo chiếc đồng hồ sinh vật học trong những những
điều kiện sinh lý học. Phân biệt được hai tinh ứng, hai ông hy vọng kết thúc
một cuộc tranh luận bắt đầu từ hơn 80 năm nay. Bên phần Phòng thí nghiệm Sinh
lý Thực vật ở Viện Đại học Poitiers bên Pháp thì khám phá ra được trong những
tế bào vận động lá cây, hai protein myosin và actin co bóp như ở các bắp thịt
con người (1). Còn cần phải giải thích quan hệ giữa các protein
nầy với các hóa chất kích thích trong một cơ chế phức tạp.
Bên cạnh những chất dính dáng đến động tác của lá, nhiều hóa
chất khác cũng đã được tìm ra trong cây trinh nữ. Mimosin được nói đến nhiều
nhất là một alcaloid (3,9) đã được nhân tạo tổng
hợp (5). Nó cũng được chiết xuất từ cây keo giậu Leucaena
leucocephala (còn gọi cây keo, bọ chét, bình linh) và rất giống chất
leucenol (hay leucenin) chiết xuất từ cây keo đậu L.glauca (còn
gọi cây muồng, táo nhân, bồ kết dại). Tổng số alcaloid chiết xuất được trong
cây là 0,4 mg/ml (7). Lá và hoa chứa đựng rutin (3,97 và
3,11 %) (14). Trong hột cây có acid, nhiều nhất là những (%)
linolenic (0,4), linoleic (51), oleic (31), palmitic (8,7) và stearic acid
(8,9) (4). Trong dầu hột cây, những acid nầy cũng được tìm ra
với 5,7% behenic acid (8). Ngoài ra cũng đã được phát giác
trong cây pinitol, norepinephrin, propyl tetracosanyl phenol trong lá, và một
số glycosidic flavonoid: mimosid (mimosin glucosid), cardenolid, bufadienolid
trong hột, rhamnosyl orientin hay isoorientin, hydroxy maysin, cassia occidentalin
là những glycosyl flavon trong phần cây ngoài trời. Để xác định selenium trong
cây trinh nữ cũng như trong nước, đất, thức ăn, những nhà hóa học Việt Nam
sử dụng trioxy azobenzen cho hỗn hợp với Se (17) và tìm ra
được selenium (mg/kg) trong thân cây (30,7-104,3), lá (40,5-201,4) và hoa
(80,0-153,5) trên những mẫu hái ở bốn vùng khác nhau (10).
Trong rễ cây trinh nữ còn có djenkolic acid, một amin acid độc
nhất không phải là một protein và chứa lưu huỳnh, được một enzym là alkyl
cystein lyase thủy phân thành pyruvat, ammoniac và nhất là methylen thiol hay
carbon disulfid CS2, đặc biệt khi rễ cây bị tổn thương (12),
có tính chất diệt nấm, diệt giun, diệt sâu, kìm vi khuẩn (16),
có khả năng ngăn cản sự sinh truởng những vi khuẩn trong đất (155ng/ml) (11).
Bột rễ cây đem thử lên chuột cái Rattus norvegicus thấy ức chế
được hoạt động estrogen, ngăn chận tử cung phồng lớn khi cho tác dụng estradiol
monobenzoat (21,25). Phần rễ chiết với nước hay rượu
thì ngăn cản được tác dụng của nọc rắn mang bành Naja kaouthia (54).
Tính chất khử vi trùng của cây đã được chứng minh trên trùng Vibrio
cholerae (13). Nước chiết lá khô có tính chất chống suy
nhược trên chuột nên được dùng để làm thuyên giảm suy sút sinh lực (18),
có thể là nhờ những alcaloid (7). Phần chiết lá với rượu đem
thử trên chuột thì có tác dụng làm tăng máu (250mg/kg) (56).
Mimosin còn có khả năng ngăn cản tóc mọc (6). Trong kỹ nghệ,
cây trinh nữ được dùng trong mỹ phẩm, có tính chất cố định hương thơm,
không làm hỏng da lại làm láng tóc nên được trộn với sáp hoa cam và dung dịch
hữu cơ thành thuốc phun tóc (15), chữa những chứng ngoài da như
bệnh cứng bì (scleroderma), bệnh sẹo lồi (keloid) (22). Phần
chiết cây cũng được dùng để phòng ngừa hay chữa những bệnh do vi khuẩn hay
độc trùng gây ra ở các giống vật sống dưới nước như tôm hùm (26).
Trong Đông y, cây trinh nữ có vị ngọt chát, tính mát, trấn tĩnh
an thần. Nó được dùng trong nhân dân chữa suy nhược thần kinh, mất ngủ. Chữa
thần kinh suy nhược, nhức đầu, ù tai, khó ngủ: lá cây trinh nữ, dây
lạc tiên Passiflora foetida (còn gọi nhãn lòng, mác mát), củ
tóc tiên Ophiopogon japonicus (còn gọi mạch môn, củ cỏ lan,
cây lan tiên), hột muồng ngủ Cassia tora (còn gọi muồng muồng,
muồng lạc, đậu ma, thảo quyết minh, quyết minh tử), hoài sơn Dioscorea
persimilis (còn gọi củ mài, khoai mài, sơn dược), mỗi vị 20g sắc uống.
Chữa phong thấp nhức xương: rễ cây trinh nữ sao, bưởi bung Acronychia
pedunculata (còn gọi bái bài, bí bái cái) sao, dây đau xương Tinospora
sinensis (còn gọi khoan cân đằng, tục cân đằng), kê huyết đằng Sargentodoxa
cuneuta (còn gọi đại huyết đằng, dây máu gà), mỗi vị 20g sắc uống hoặc
ngâm rượu uống (ĐTL, LTĐ).
Viết xong bài báo, tôi muốn tìm chụp một cái hình cây trinh nữ
để minh họa. Nó là một cây xứ nóng, rất khó kiếm ở Pháp, nhất là ở Paris. Người
ta khuyên tôi nên đi tìm một nhà kính là nơi nhiệt độ luôn giữ được cao. Nhà
kính ở Jardin des Plantes không có trồng cây trinh nữ. Tôi được hướng về
nhà kính Serres d’Auteuil. May quá, ở đây có trồng cây này, mọc cao
chứ không phải bò sát đất, vào đầu hè, hoa nở tím hồng thật xinh. Thấy tôi mê
mẩn ngắm bông hoa thời tuổi trẻ ở đồng quê của tôi, cô gái phục vụ kéo tôi đi
xem một cây khác, giống hệt cây trinh nữ nhưng lá không ghép lại khi đụng tay
vào, hoa lại vô cùng sực sỡ, hình dạng khác thường, hai màu vàng, đỏ nổi bật
trên nền lá xanh. Nó được gọi là cây mimosa có gai, mang tên
khoa học Acacia seyal Delille. Bất giác tôi thốt ra: "Qu’elle
est belle!" (Sao mà đẹp thế!) Elle có thể
hiểu là hoa cây hay hoa người, làm cô nàng đứng cạnh hoa, trong hướng mắt của
tôi, đỏ mặt thẹn thùng. May mắn thay, ở thời buổi nay, bên phương trời tây, còn
bắt gặp được một cô gái biết e lệ cúi đầu không khác gì cây trinh nữ ghép
lá ẩn mình!.
Nghiên cứu và Phát triển 4-5 (52-53)
2005, vietsciences 12(2007)
Tham khảo:
1- Jean-Michel Le Corfec, Le langage du corps du pudique
mimosa, Sciences et Avenir 2 (1998) 54
2- Sơn Nam - Tô Nguyệt Đình, Cây mắc cở trong Chuyện
xưa tích cũ, nxb Phụ nữ, Hà Nội - Tp HồChíMinh (2001) 6-8
3- J. Renz, Mimosin, Z. physiol. Chem. 244 (1936)
153-8
4- J.S. Aggarwal, D. Karimullah, Chemical examination of
the seeds of Mimosa pudica Linn. I- Analysis of fatty oil, J. Sci.
Ind. Res. (India) 4 (1945) 80-2
5- I.D. Spenser, A.D. Notation, A synthesis of mimosine, Can.
J. Chem. 40 (1962) 1374-9
6- R.G. Crounse, J.D. Maxwell, H. Blank, Inhibition of
growth of hair by mimosine, Nature 194 (1962)
694-5
7- Q. Abdul, M. Khondaker, H. Quamrul, Study of the
actions of the total alkaloid extract of Mimosa pudica Linn. (Lajjabati) and
atropine sulfate on the isolated duodenum of rabbits, Bangladesh
Veter. J.(1-4) 8 (1974) 27-32
8- R.C. Badami, K.B. Patil, S.C. Shivamurthy, Minor seed
oils. XIII- Examination of seed oils rich in linoleic acid, J. Food
Sci. Techn. (3) 14 (1977) 126-8
9- B. Tangendjaja, R.B.H. Wills, Analysis of mimosine
and 3-hydroxy-4(1H)-pyrolidone by high-performance liquid chromatography, J.
Chrom. (2) 202 (1980) 317-8
10- Dang Hong Thuy, Dam Trung Bao, Study of selenium
content in Mimosa pudica L., Rev. Pharm. (Hanoi,
Vietnam) (1984) 12-7
11- P.G. Hartel, B.L. Haines, Effects of potential plant
CS2 emissions on bacterial growth in the rhisosphere, Soil Biol.
Biochem. (3) 24 (1992) 219-24
12- P.G. Hartel, R.E. Reeder, Effects of drought and
root injury on plant-generated carbon disulfide emissions in soil, Plant
Soil (2) 148 (1993) 271-6
13- K.A. Akinsinde, D.K. Olukoya, Vibriocidal activities
of some local herbs, J. Diarrhoeal Diseases Res. 114-
G. Toker, S. Turkoz, B. Sener, The determination of rutin in some
plants by ultra violet spectroscopy, Fac. Phar. Gazi Univ. (Ankara,
Turk) (1) 14 1997) 51-4
14- G.Toker, S.Turkoz, B. Sener, The determination of
rutin in some plants by ultra violet spectroscopy, Fac. Phar. Gazi
Univ.(Ankara, Tirk) (1) 14 (1997) 51-4
15- T. Kripp, B. Krause, G. Lang, W. Maurer, I.
Toeche-Mittler, Cosmetic compositions containing flowwer wax, Ger.Offen.
DE 19641992(1998) 10 tr.
16- J. Piluk, P.G. Hartel, B.L. Haines, Production of
carbon disulfide (CS2) from L- djenkolic acid in th roots of Mimosa pudica L., Plant
Soil (1) 200 1998) 27-32
17- Thu Lam Ngoc, Tan Le Van, The complex formation of
Se(VI) with trioxyazobenzene and its a18- M. Molina, C.M. Contreras, P.
Tellez-Alcantara, Mimosa pudica may possess antidepressant actions in
the rat, Phytomed. (5) 6 (1999) 319-23
18- M. Molina, C.M/ Contreras, P. Tellez-Alcantara, Mimosa
pidica may process antidepressant actions in the rat, Phytomed. (5) 6 (1999)
319-23
19- M. Ueda, S. Yamamura, Leaf-opening substance of
Mimosa pudica L.; chemical studies on the other leaf movement of mimosa, Tetr.
Lett. (2) 40 (1999) 353-6
20- Hai giáo sư Shosuke Yamamura, Minoru Ueda và cộng tác viên,
ngoài những bản báo cáo khảo cứu, còn có cho đăng một loạt bài tổng kiểm lần
lượt trình bày kết quả chung của đề tài. Sau đây chỉ xin dẫn ba bài tiêu biểu
nhất: The chemistry of leaf-movement in Mimosa pudica L., Tetrahedron (36) 55 (1999)
10937-48; The diversity of chemical substances controlling the
nyctinastic leaf-movement in plants, Phytochem. (1) 53 (2000)
39-44 ; Chemistry and biology of plant leaf movement, Angew.
Chem. Int. Ed. (8) 39 (2000) 1400-14
21- S.V. Alsala, Estrogenic and anti-estrogenic
activities of Mimosa pudica on Rattus norvegicus, J. Ecotox. Envir.
Monitoring (1) 10 (2000) 25-9
22- J. Anderson, L. Declercq, D.F. Collins, T. Mammone, H.A.L.
Corstjens, Compositions containing mimosa phenolic compoundsUSXXAM US
6290993 (2001) 4 tr. ; PCT Int. Appl. WO
0107008(2001) 13 tr.
23- M. Mahanta, A.K. Mukherjee, Neutralisation of
lethality, myotoxicity and toxic enzymes of Naja kaouthia venom by Mimosa
pudica root extracts, J. Ethnopharm. (1) 75 (2001)
55-60
24- T. Amalraj, S. Ignacimuthu, Hyperglycemic effect of
leaves of Mimosa pudica Linn., Fitoter. (4) 73 (2002)
351-2
25- S. Valsala, P.R. Karpagaganapathy, Effect of Mimosa
pudica root powder on oestrous cycle and ovulation in cycling female albino
rat, Rattus norvegicus, Phytother. Res. (2) 16 (2002)
190-2
26- U.M. Desai, C.T. Achuthankutty, R.A. Sreepada, Composition
for treating wssv infected tiger shrimp, PCT Int. Appl. WO
0272121(2002).

11- Vông vang, hoa tình tuổi trẻ
Em
sắp xa thành phố
Ví lại đất hương tràm,
Hỏi
em thích gì nhất
Em
cười: hoa vông vang!
Thanh Trắc Nguyễn Văn
"Thôi
thế cũng đủ làm Đẩu sung sướng đến rưng rưng nước mắt. Tay vẫn cầm lá thư, lơ
đãng, chàng lững thững đưa bước ra phía đồi sau nhà. Trời mát! tóc thoảng nhẹ
bay phất phơ trên trán bâng khuâng vô tình đứng trông mấy bông vông vang phất
phơ bên bụi cỏ đương kín đáo cúp lại trong buổi mai... và man mác hy
vọng" (1)
Trong những năm thập niên 40, hầu hết các học sinh Việt Nam đều
có đọc Hoa vông vang của Đỗ Tốn, được giải Tự Lực Văn Đoàn, và
ít nhiều đều có mơ mộng với mối tình đầu của mình. Tác giả đã khéo tả tâm trạng
của chàng thiếu niên yêu đương tha thiết mà chẳng dám thổ lộ với người mình
yêu, cho đến lúc nàng lên xe hoa về nhà chồng. Truyện tác động vào trái
tim tuổi trẻ khi đã một lần yêu trộm nhớ thầm! Vậy mà hồi ấy tôi không biết và
cũng không tìm hiểu bông vông vang thơm đẹp như thế nào. Có lẽ vì ở Huế không
có cây ấy. Gần đây thôi, hơn một nửa thế kỷ sau, bên phương trời Tây, khi dọn
nhà, nhân mân mê cuốn sách cũ trước khi sắp vào kệ, tôi như bị lôi cuốn lần giở
đọc lại những dòng xưa đã từng làm mình bâng khuâng, hồi hộp thuở còn ngây thơ.
Ừ nhỉ, vông vang là cây gì, hoa màu sắc, hương thơm ra sao?
Tìm tòi trong sách thì mới biết cây vông vang có nguồn gốc từ Ấn
Độ nhưng mọc hoang dại khá phổ biến ở vùng trung du, trong vườn, trên nương
rẫy, ven đường khắp nước ta (TH), gặp nhiều ở Tiền Giang, Bến Tre, Hậu Giang,... (VVC), cũng còn thấy ở Mã Lai, Trung Quốc, Philippin (ĐTL). Nó là cây thân
cỏ cao khoảng 1m, phía gốc hơi thành gỗ, thân hơi có lông, lá hình tim, hoa màu
vàng, quả thuôn trên phủ đầy lông trắng nhạt, trên mặt có những đường nhăn đồng
tâm xung quanh rốn hạt. Đỗ Tốn còn xác định thêm: "Hằng năm, cứ về
dạo cuối xuân sang hạ, mà có khi tới cả mùa thu, nếu bạn đi chơi về vùng
quê, bạn có thấy những bông hoa lớn bằng hoa râm bụt nở vàng tươi lẫn trong bờ
cây bụi cỏ thì đúng là hoa vông vang đó.... Hoa vông vang rất đẹp, tuy nhiên
cánh hoa cũng rất mỏng manh, chỉ một làn gió mạnh cũng đủ làm cho cánh yếu rập
nát bơ sờ".
Cây vông vang còn gọi bông vang, bụp vang, bụp vàng, mang tên
khoa học Hibiscus abelmoschus L. hay Abelmoschus
moschatus (hay moscheutos) Moench hay (L.)
Medic, thuộc họ Bụp hay Bông Malvaceae. Người Ấn Độ gọi nó
muskdana, Âu Mỹ thì có nhiều tên: Ketnie musquée, musk mallow, ambrette.
Cây chứa nhiều chất sterol: campesterol, sitosterol, stigmasterol,
ergosterol (11), farnesol (9). Sitosterol dưới
thể bêta tìm ra được cả trong lá, cánh hoa tươi lẫn trái khô (8),
myrcetin và dẫn xuất glucosid cùng cyanidinglucosid chỉ trong cánh hoa
tươi (6,8). Trong nhị và nhụy hoa đã được tìm ra những dẫn xuất
của flavon và aspartic acid bên cạnh sitosterol, ikshusterol, methy linolenat,
quercimeritrin, rutin (14). Hột cây được khảo cứu nhiều nhất.
Ngoài farnesol (5,15), sitosterol (3) đã thấy
trong các bộ phận khác của cây, hột còn chứa terpen, ambrettolid (5,12),
farnesylacetat, oxacyclononadecenon (12), ambrettolid acid
lacton (9), những phospholipid như cephalin, phosphadityl
serin, phosphadityl cholin plasmalogen (7), methinin
sulfoxyd (4), epoxyoleic acid, sterculic acid cùng những acid
dãy dài từ C10 đến C18 bên cạnh protein trong
tinh dầu (10) gần đây được khảo cứu tường tận (16).
Là cây mọc hoang, vông vang cũng được trồng để dùng trong kỹ
nghệ làm thuốc. Hột, còn gọi hột xạ, lấy ở trái chín vào mùa hạ hay mùa thu,
cho chiết xuất tinh dầu, màu vàng nhạt ở nhiệt độ thường, mùi thơm có tác dụng
làm dậy mùi và bền mùi, giá rất đắt. Đem phân tích, hột chứa đựng (%) tinh
dầu (19,5), protein (36) (10), sợi thô (31,46), tinh bột
(13,35), tro (5,3), độ ẩm (11,4) (2). Tinh dầu có chỉ số khúc
xạ nD20 1.4720, chỉ số xà phòng hóa 214 và chỉ số iod 87,25,
trong suốt nếu chiết xuất với ether dầu hỏa, đục hơn với ether hoặc cồn (2).
Dùng sắc ký khí/ phối ký GC/MS cùng phổ kế 13C-NMR phân tích, đã được tìm ra
tetra, hexa, octa decenolid bên cạnh farnesen, decyl và dodecyl acetat cùng
những dẫn xuất của chúng (15,17,18). Tinh dầu được dùng làm
hương liệu, đặc biệt trong nước hoa hay thuốc tránh sâu mọt. Người Ấn Độ chế
tạo những bã thơm hương xạ (196g từ 10kg hột, 134g từ 700g dầu) (5).
Người ta cũng dùng chất nhầy chiết từ rễ cây làm hồ giấy hay tinh chế tinh bột.
Về mặt dược liệu, cả lá, rễ lẫn hột cây đều có công dụng.
Lá thu hái quanh năm, dùng tươi hay phơi khô, có vị nhạt, nhiều nhớt, tính mát.
Nó có tác dụng nhuận tràng, lợi tiểu, tiêu độc, sát trùng, hoạt thai, dùng trị
táo bón, thủy thũng, thúc đẻ, tan ung độc. Trong lá đã được chiết xuất một chất
nhầy là một peptidoglycan, trọng lượng phân tử khoảng 1.8000.000, có hoạt động
giảm đường trong máu khi thử trên chuột (13). Rễ có vị ngọt
nhạt, cũng nhiều nhớt, tính mát, có tác dụng tiêu độc, sát trùng, thư cân, giải
cơ, trừ thấp, dùng trị nhức mỏi chân tay, các khớp sưng nóng đỏ đau, co quắp,
mụn nhọt, viêm dạ dày hành tá tràng (VVC), có khi được dùng làm thuốc bổ, thuốc
mát thay sâm bổ chính (ĐTL).
Hột cây có tính chất chống co thắt, kích thích lợi tiểu, được
dùng uống trị đái dầm, sắc uống làm thuốc kích thích ruột và thận, cũng
còn được dùng làm thuốc trấn kinh, chữa di tinh, thông tiểu, dưới dạng thuốc
sắc hay thuốc bột. Một tính chất quan trọng của hột nữa là trị rắn cắn. Trong
dân gian, người ta thường nhai nuốc nước, lấy bã đắp (VVC). Người Mexico gọi
hột vông vang là hột rắn. Hột không chứa đựng alcaloid ở thể tự do hay ở thể
glucosid, nhưng thí nghiệm cho thấy nó có khả năng hấp thu than hoạt hóa. Nó có
tác dụng tương tự như nhũ tương phân tán để giải thể tính độc của nọc rắn mang
bành (2). Có nơi khai thác một cây hơi giống vông vang là sâm
bổ chính Hibiscus sagittifolius Kurtz, mọc ở Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Hòa Bình, vùng Tây Bắc, hoa sắc đỏ. Riêng cây sâm báo Thanh
Hóa H. sagittifolius var. septentrionalis Gagnep,
cũng cùng họ Bông Malvaceae, thì lại có hoa màu vàng như hoa
vông vang (ĐTL).
Nếu hột vông vang được dùng thông dụng, hoa vông vang chỉ nên để
ngắm. Trong bản in lại, Đỗ Tốn có dặn thêm: "Nếu bạn thấy hoa, bạn nên để
mặc cho hoa phơ phất giữa cây cỏ thiên nhiên, như vậy thì hoa rất đẹp, chứ vì
mến hoa mà bạn vội hái để định đem về thì thực là một điều đáng tiếc: hoa
vông vang chỉ ưa cuộc sống giữa tự do và hoang dại - điều mà tự đáy tâm hồn ai
nấy chúng ta đều mơ ước - chứ nằm ở trong tay bạn thì chỉ một giờ thôi cũng
đủ cho cả hoa lá phải héo rũ " Một hôm, nhân đi dạo trong rừng vùng núi
lửa miền trung nước Pháp, tôi có gặp ở chỗ ẩm ướt, dưới bóng cây, một loài hoa
rất giống hoa vông vang mà tôi chỉ biết qua sách vở, cũng màu vàng, cũng héo rũ
nếu bị cắt hái. Hỏi thì được trả lời tên nó là cây impatiens hay impatiente (hoa
móc tai) thuộc họ Móc tai Balsaminaceae, người Pháp thường gọi hoa
"đừng đụng tôi" (ne me touches pas), tương tự như cách gọi hoa
tai chuột myosotis, thuộc họ Vòi voi Boraginaceae, là
hoa "đừng quên tôi" (forget-me-not) mà một bài hát đã làm náo
động lòng thanh niên thiếu nữ cả một thời. Đi vào quần chúng cùng các loại hoa
này, vông vang thật là hoa tình tuổi trẻ với tất cả tư thế e lệ, tình cảm cao
nhã của thời niên thiếu, ngây thơ.
Nghiên cứu và Phát triển 1(35)
2002,vietsciences 07.2010
Tham khảo:
1- Đỗ Tốn, Hoa vông vang trong Hoa vông
vang, nxb Đời Nay, Hà Nội (1942)77
2- V. Bachster, Notes on Mexican drugs, plants, and
foods. V. Viper seed, a drug used against snake bite, Ciencia (Mex.)
7 (1946) 307; Chem. Abs. 42 (1948) 3912a
3- G. Misra, V.N. Sharma, K.N. Kaul, The constitution of
ambrette seed, Soap, Perfumer and Cosmetics 34 (1961)
761; Chemù. Abs. 55 (1961) 23939c
4- L. Peyron, Precursors of certain sulfur compounds
encountered with essential oils, Bull. Soc. France Physiol.
Vegetale 7 (1961) 46; Chem. Abs. 56 (1962)
12014b
5- G. Misra, V.N. Sharma, C.R. Mitra, K.N. Kaul, Aromatic
principles from Abelmoschus moschatus [Hibiscus abelmoschus] seeds, Indian 72.408; Chem. Abs. 58 (1963) 4384f
6- A.G.R. Nair, S. Nagarajan, S. Subramanian, Flavonoids
of the flowers of Hibiscus abelmoschus and Althaea rosea, Current
Sci. (India) 38 (14) (1964) 431; Chem.
Abs 61 (1964) 11005a
7- K.C. Srivastava, S.C. Rastogi, Phospholipids from the
seeds of Hibiscus abelmoschus, Planta Med. 17 (2)
(1969) 189; Chem. Abs.71 (1969) 27896z
8- G. Misra, S.K. Nigam, C.R. Mitra, Chemical
examination of Abelmoschus moschatus [Hibiscus abelmoschus] leaf, flower, and
fruit, Acta Phytother.18 (7) (1971) 134 ; Chem.
Abs. 76 (1972) 12000g.
9- C.A. Paredes, Aromatic plant species of Ecuador, Politecnica 3 (1)
(1971) 134; Chem. Abs. 84 (1976) 102302b
10- M. Hashmi, M. Khan, M.S. Ahmad, S. Osman, Abelmoschus
moschatus seed oils: a reinvestigation, J. Oil Technol. Assoc.
India 14 (2) (1982) 64 ; Chem. Abs. 98 (1983)
86284d
11- U.K. Chauhan, Sterols of some malvaceous plants with
particular emphasis on cholesterol occurrence, Proc. Natl. Acad.
Sci., Ind. Sect. B 54 (3) (1984 236; Chem.Abs. 103 (1985)
157419m
12- T.Y. Nee, S. Cartt, M.R. Pollard, Seed coat
components of Hibiscus abelmoschus, Phytochem. 25 (9)
(1986) 2157; Chem. Abs. 105 (1986) 222739y
13- M. Tomoda, R. Gonda, N. Shimizu, S. Nakanishi, H.
Hikino, Plant mucilages. Part XLI. A mucilage from Hibiscus abelmoschus
leaves, Phytochem. 26 (8) (1987) 2297; Chem.
Abs. 107 (1987) 233080u
14 T. Ohmoto, K. Yamaguchi, K. Ikeda, Constituents of
Abelmoschus moscheutos L., Chem. Phar. Bull. 36 (2)
(1988) 578; Chem. Abs. 109 (1988) 20257m
15- Y. Tang, T. Zhou, J. Ding, H. Sun, The chemical constituents
of the essential oil from ambrette seeds, Yunnan Zhiwu Yanjiu 12 (1)
(1990) 113
16- L. Cravo, F. Perineau, J.M. Bessiere, Study of the
chemical composition of the essential oil, oleoresin andnits volatile product
obtained from ambrette (Abelmoschus moscheutos Moench) seeds, Flavour
Fragrance J. 7 (2) (1992) 65
17- Nguyen Xuan Dung, Pham Van Khien, Do Duc Nhuan, Tran Minh
Hoi, Ninh Khac Ban, P.A. Leclercq, A. Museli, A. Bihelli, J. Casanova, Composition
of the seed oil of Hibiscus abelmoschus L. (Malvaceae) growing in VietNam, J.
Essent. Oil Res. 11 (4) (1999) 447
18- P.K Rout, Y.R. Rao, K.S. Jena, D. Sahoo, B.C. Mishra, Extraction
and composition of the essential oil of ambrette (Abelmoschus moschatus) seeds, J.
Essent. Oil. Res.16 (1) (2004) 35

15/11/2015
Võ Quang Yến
Nguồn: Nhà xuất bản Đà Nẵng 2008
Chim Việt Cành Nam tái bản 2014
Theo http://chimviet.free.fr/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét