Cây nhà lá vườn 2
Tập 2: Cây trái
12- Bắp nướng than hồng
Bắp non nay đã trổ cờ
Gặp người quen biết ngó lơ
không chào.Ca dao
Tôi chắc từ nhỏ, trẻ em ở vùng
nào trong nước ta cũng đã từng chạy theo những trái bắp nướng trên than hoặc
chỉ nấu trong nước. Nướng hay nấu, bắp có trạng thái đặc cứng khác nhau, mùi vị
riêng biệt của một thức ăn điền dã mà chắc lớn lên mấy ai quên được. Có nơi ăn
bắp non với mỡ hành. Có người nghiền thành bột làm bánh tráng, khi nướng thơm
phứt. Tôi thì nhớ mãi chén chè bắp mềm ngọt mà mỗi khi học xa về, mạ tôi để
dành cho một vài chén bù vào những miếng cơm độn bắp già cứng nhắc những năm
40, nhai mãi không nuốt được... Tuy vậy, được mùa chớ phụ bắp khoai, dân ta đã
từng biết đói, đâu có quên ơn thức ăn những ngày khó khăn.
Chữ bắp chỉ được thông dụng trong Nam. Ở ngoài Bắc, người ta
thường dùng chữ ngô. Vậy thì bắp hay ngô? Dược sĩ Bùi Kim Tùng giải thích:
"Vào thế kỷ thứ 16, vua Lê cử ông Phùng Khắc Khoan (tức Trạng Bùng là tên
nôm làng Phùng Xá) đi sứ sang Trung Quốc (1597, nhà Minh). Ông Trạng Bùng thấy
dân Trung Quốc trồng một loại lương thực lạ có hạt tròn bóng như ngọc gọi là
ngọc mễ. Ông Trạng Bùng bèn ra lệnh lén lút đem hạt giống về nước. Vì thế ngọc
mễ được gọi là hạt ngô (nước Ngô thuộc Trung Quốc). Tới thời Ngô Quyền, người
ta kiêng chữ ngô nên gọi là bắp" (BKT). Chắc là có ai trước ông Trạng Bùng
đem ngô về nước vì Ngô Quyền trị vì giữa thế kỷ 10! Hay là muốn tránh tên một
ông Ngô nào đó sau thế kỷ 16. Theo Lê Quý Đôn trong Vân đài loại
ngữ thì "hồi đầu Khang Hy (1662-1762), Trần Thế Vinh, người huyện
Tiên Phong (Sơn Tây, phủ Quảng Oai) sang sứ nhà Thanh, mới lấy được giống lúa
ngô đem về nước ; suốt cả hạt Sơn Tây, nhờ có lúa ngô thay cho cơm gạo".
Thuyết nầy dời lại ít lâu cuộc nhập tịch ngô vào Việt Nam nhưng cũng không giải
thích tại sao ngô lại được gọi là bắp. Người Minh thấy cây ngô giống cây thục
thử (cây kê nước Thục) hay cây "cao lương" nên gọi nó là "ngọc
thục thử" vì hạt như hạt ngọc. Sách Bản thảo cương mục đã
tả nó như cây Ý dĩ, có râu trắng trên cái bọng giữa cây, bọng nứt thi lòi hạt
ra, chi chít sắc vàng, trắng, đen, rang lên ăn điều trung khai vị (hòa ở trong
mình, làm cho muốn ăn). Lê Quý Đôn đặt tên nó là "Ngô hòa" hay
"lúa Ngô". Sách Đại Nam nhất thống chí nói nó đem từ
Tây Phiên (các nước Phiên ở phương Tây) đến nên có tên "Phiên mạch",
cho biết Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí đặt tên
"hoàng mạch" hay "hoàng thúc" (thúc là một loại hạt nhỏ như
hạt đậu) và gọi nó "ngọc cao lương" tục danh "lúa bắp",
không nói đến tên "lúa ngô". Có thể giản tiện giải thích gọi là bắp
vì hình trái giống cái bắp như bắp cày, bắp chuối, bắp cải, bắp tay, bắp chân... (5)
Dù sao có thể hiểu bắp là từ Trung Quốc mà qua nước ta. Nhưng
chưa biết bắp từ đâu được đem sang Trung Quốc. Rất có thể những người Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha mang nó từ Nam Mỹ trước về Âu châu, sau qua Phi châu, Á châu.
Ngày nay người ta biết bắp là từ một giống mọc hoang được đem về trồng và ghép
lai từ hàng ngàn năm nay. Nó là thứ ngũ cốc được chọn lựa, thí nghiệm, thay đổi
tính di truyền nhiều nhất. Sở dĩ nguồn gốc của nó được bàn cãi xôn xao vì một
đằng đó là một dịp cho các nhà di truyền học và thảo mộc học khảo cứu sự hiện
hình hiếm có của một giống cây mới, đằng kia tìm hiểu cách trồng trọt và chọn
giống là học hỏi sự phát triển của một dân tộc. Đề tài nầy tất nhiên huy động
nhiều giới khảo cứu viên đủ ngành. Từ cuối thế kỷ 19, nhà thảo mộc Thụy Sĩ
Alphonse de Candolle đã làm bản kê khai những vùng nguyên gốc cây được trồng.
Đầu thế kỷ 20, một nhà thảo mộc khác, Nicolai Ivanovitch Vavilov, người Nga,
chạy tìm khắp thế giới những cây có ích trồng được. Chính ông đã hiểu nguồn gốc
một cây là nơi có nhiều cây ấy nhất và xác định bắp phải bắt nguồn từ miền
Trung Mỹ. Sau Vavilov, nhiều nhà thảo mộc Hoa Kỳ lưu tâm đến đề tài nầy và đưa
giả thuyết bắp là từ giống hoang teosinte (từ tiếng
Azteque teocentli) tức Euclania mexicana, một cây rơm
mọc ở Mexico, Guatemala, Honduras mà lại (1). Vào giữa thế kỷ
20, nhà di truyền học George Beadle, cộng tác với R.A. Emerson ở Viện Đại học
Cornell, cho giao hợp teosinte với bắp và đạt được nhiều giống lai có khả năng
sinh sản. Cũng vào thời ấy, Paul Mangelsdorf, ở Viện Đại học Chapel Hill (North
Carolina), cho bắp quá khác teosinte để có thể từ teosinte mà
ra (2). Theo ông, bắp phải bắt nguồn từ một giống hoang có hình
thái giống bắp hơn còn teosinte thì chỉ có thể là một cây lai
giữa bắp và một giống sơ khai gọi là Tropsacum. Lẽ tất nhiên Beadle
không đồng ý. Cuộc tranh luận bắt đầu từ đây.
Không bào chữa ngay giả thuyết teosinte, Beadle bỏ
công khảo cứu những quan hệ cơ bản giữa DNA và những protein mà kết quả đưa ông
đến giải Nobel sinh lý và y học năm 1958. Trong lúc ấy, cộng tác với nhà khảo
cổ học Richard McNeish, Mangelsdorf chạy tìm những bằng chứng cho khẳng định
của mình. McNeish quan tâm đến nguồn gốc canh nông ở châu Mỹ và cuộc thăm dò đã
đưa ông đi lục soát những hang động, những hầm trú ẩn trong hóc đá. Năm 1963,
khám phá đặc sắc nhất của ông tại Coxcatlan và San Marcos ở hai thung lũng
Tehuacan và Oaxaca là khoảng 100 mảnh bông bắp để lại từ năm 5600 trước Công
nguyên. Cạnh đấy, cũng ở miền Nam Mexico, thung lũng Balsas thì lại cống hiến
những mẫu hoang teosinte. Theo họ, rõ ràng bắp ngày xưa tuy nhỏ hơn
bắp ngày nay, cả hai giống nhau về mặt hình thái: trục (rachi) cứng mang
nhiều hàng hột, mày (glume) bao hột thì tương đối mềm; trái lại,
trục teosinte mềm dẻo, chỉ mang hai hàng hột, còn mày cứng giữ
kỹ hột. Bên phần Beadle, vẫn luôn trung thành với giả thuyết của mình, năm
1970, cộng tác với những nhà sinh vật học, khảo cổ học và dân bản xứ ở Mexico,
ông mở chiến dịch "Săn tìm đột biến teosinte" và thu lượm
được 70 kg hột, không chứng minh được gì, nhưng đem gieo và hợp giống những hột
nầy với nhau, ông phát minh ra chỉ có 5 gen thiết lập khác biệt hình thái
giữa teosinte và bắp.
Trong thập niên 80, John Doebley ở Viện Đại học Minnesota, khảo
cứu những biến thể trong bộ gen viên lục (chloroplaste) của teosinte và
bắp cùng những biến dị của hai giống, xác nhận những kết luận của Beadle: quần
thể teosinte mọc trong thung lũng Balsas không khác gì bắp xứ
Mexico. Ông còn chứng minh teosinte đem trồng đã cho hột vượt
qua được đấu (cupule) gắn nó vào trục và ra thoát khỏi mày cứng cấm tù
nó. Năm 1989, cộng tác với Austin Long ở Viện Đại học Arizona, Bruce Benz ở
Viện Đại học Wesleyan (Texas), ông bỏ công tìm kiếm những bằng chứng cho cuộc
thuần dưỡng teosinte về mặt khảo cổ học : họ chỉ tìm ra được
những mẫu bắp xưa 3500 năm trước Công nguyên, nghĩa là 2000 năm sau những mẫu
của McNeish và nghi hoặc cách định ngày của ông nầy. Nhưng đầu năm 2001,
Dolores Piperno, ở Viện Smithsonian, và Kent Flannery, ở Viện Đại học Michigan,
xác định được 3 mẫu bắp trong một hang động ở Guila Naquitz, thung lũng Oaxaca,
sống 4250 năm trước Công nguyên. Có thể xem đây là những mẫu xưa nhất tìm được
ở Nam Mỹ (6). Cuộc tranh cãi kéo dài rất lâu, hiện chưa ngã ngũ
rõ ràng tuy giả thuyết teosinte có phần thắng thế. Beadle vượt
ra khỏi những bằng chứng khoa học, còn cống hiến những luận chứng về ngôn ngữ,
tập quán: teocentli có nghĩa là "bông bắp của thượng
đế" chứng minh người Azteque thấy có liên quan giữa teosinte và
bắp. Đằng khác, ở nhiều nơi trong nước Mexico, teosinte được gọi là madre
de maiz nghĩa là "mẹ của bắp", nói lên ký ức văn hóa của
người dân bản xứ.
Ngoài phẩm chất dinh dưỡng, bắp sấy khô dễ chuyên chở và tích
trữ lâu ngày. Nhờ nó mà những dân tộc Asteque, Maya, Inca,... lập nên được sự
nghiệp to lớn vào những thế kỷ XIV, XV trước khi người Tây Ban Nha bước chân
lên đất Nam Mỹ. Những kim tự tháp của người Maya ở Yucatan, những bức tường khổng
lồ của dân Inca ở thành Cuzco,... đang còn đó để chứng minh bắp thịt cứng rắn
của những người ăn bắp. Trong danh sách triều cống dâng cho vị vua Azteque cuối
cùng Montezuma, thấy có quy định số bắp hằng năm 20 tỉnh trong vương quốc phải
nộp là 300.000 thưng. Thổ dân có thể nhập cảng bắp từ miền Nam Mexico rồi cho
thích nghi vào thủy thổ những vùng ôn đới, nhiệt đới ở Nam Mỹ. Vẫn biết những
phương pháp chọn lựa, ghép lai hiện đại ngày nay đã tạo ra những loại bắp với
năng suất vô cùng cao, thích hợp với đủ loại khí hậu, chống chỏi được nhiều
bệnh tật cũng như sâu bọ, cuộc sáng tạo những mẫu bắp trồng với những kỹ thuật
thô sơ của thổ dân châu Mỹ trước đây quả là một thành công xuất chúng của con
người trong công cuộc thích ứng đời sống với thiên nhiên. Chọn cây hoang đem về
trồng rồi cải tạo cho nó đem lại nhiều năng suất chứng minh lương tri con người: từ cuộc sống săn-hái qua canh nông có tổ chức là một bước lớn của nhân loại,
mọi nơi trên hoàn cầu.
Trên thế giới ngày nay, với số lượng sản xuất hằng năm khoảng
600 triệu tấn, trị giá trên 50 tỷ USD/Euro, bắp là tài nguyên canh nông sắp
hạng nhì sau lúa mì. Trực tiếp hay gián tiếp nuôi 15-20% nhân loại, nó được
trồng trong 70 nước, chiếm hơn 120 triệu ha, từ những nơi cao độ thấp như quanh
biển Caspienne đến những vùng đồi núi vượt quá 4.000m trong dãy núi Andes, từ
những nơi bán-khô (lượng mưa dưới 400mm) như Trung Mỹ đến những vùng ẩm ướt
(lượng mưa trên 2.000mm) như Đông Nam Á. Sau cách thức thô sơ chọn lựa bông bắp
theo những chỉ tiêu hình thái hay sinh vật học, dễ thực hiện nhưng ít có hiệu
quả, ngày nay nhiều phương pháp tối tân hơn đã được sử dụng. Chẳng hạn phương
pháp "bông gieo theo hàng" (épi à la ligne) dựa lên kết quả
cây bắp thế hệ sau, sau hơn một thế kỷ thực nghiệm đã làm tăng dầu trong bắp từ
4,5 lên 16,6%, protein từ 10,9 lên 26,6%. Tiếp sau là các cuộc chọn lựa
"quặc ngược lũy tích" (récurrente cumulative) nhắm đạt một
giống lai ưu thế (heterosis), những phương pháp "tạp giao đỉnh
ngọn" (top-cross), "tạp giao thuận nghịch" (croisement
diallèle) cho giao phối nhiều mẫu hòng cải thiện với những tính chất hay ho
ở các mẫu khác, đưa đến những loại bắp dễ thích nghi với khí hậu hay biết chống
lại được bệnh tật như chứng làm khô lá (minthosporiose)... Sau 20 thế
hệ, nhiều phối hợp đã cho đạt đến 15.000 bắp lai đơn, đôi hay ba tùy theo đã
dùng hai, ba hay bốn giống. Trong tương lai dần dần những cuộc hợp lai đều được
thực nghiệm trong phòng thí nghiệm. Muốn đạt được một mẫu có có đủ điều kiện
đem ra trồng, phải thử nghiệm khoảng 10.000 cuộc hợp lai. Có điều là ngày nay,
người ta không chỉ bằng lòng với một cuộc chọn lọc hay hợp lai. Để hạ bớt số
thực nghiệm, nhiều phương hướng mới đang được khảo sát: sớm dò giống lai ưu
thế để hướng dẫn các mẫu, nuôi trồng viên lục nhiều loài để cho hợp với nhau
như táo với lê hay cà chua với khoai..., lai giống khác loài như với bắp khác
xứ hay teosinte với bắp, phát sinh đột biến với hoá chất hay tia gamma,... và
vận động di truyền (4) .
Trong mục đích chống sâu bọ, tăng năng suất, người ta thực hiện
những cuộc chuyển đổi di truyền. Loại bắp Novartis chẳng hạn mang thêm trong
cây một gen lấy từ vi khuẩn Bacillus thuringiensis, có khả năng sản
sinh một độc tố. Độc tố nầy là một chất sát trùng sinh hóa học, có khả năng
tiêu diệt bướm ống (pyrale) thuộc một loại sâu cánh phấn (lepidoptere)
mà ấu trùng ăn hại bắp. Lợi ích loại bắp này là tự nó chống lại sâu bọ, không
cần dùng thuốc trừ sâu hóa học. Mới xem thì thấy phương pháp thần hiệu này thật
là sạch sẽ đối với môi trường sinh thái. Trong thực tế, cây có gen mới nầy có
thể ghép lai với những loại cỏ hoang dại cùng loại và cho phát sinh những cỏ
hoang biết chống lại sâu bọ. Điển hình là trường hợp cây cải dầu (colza) mang
gen khử trùng, nó bất thường ghép lai với cỏ hoang như củ cải dại (ravenelle),
truyền cho cỏ nầy tính chất khử trùng và cỏ mặc sức mọc, lấn áp cả cải dầu!
Vẫn biết bắp không ghép lai với bất cứ một loại cây nào khác mà chọn những cây
có bộ gen gần giống nó. Đây là lời cảnh cáo cho hội đồng ban giấy phép vì hiện
có bốn mẫu ngoài Novartis đang chờ đợi được khai thác. Ngày nay ở Pháp, cây cải
dầu mang gen chưa được ban giấy phép cũng như cây củ cải đường mang gen vì thấy
nó phối hợp với một loại củ cải đường hoang gọi là củ cải đường biển. Câu hỏi
là liệu những dữ kiện khoa học, kỹ thuật có vượt trội lên trên những lợi tức
kinh tế không?
Bắp hay ngô còn được gọi má khẩu lý (Thái), hờ
bo (Ba Na), mang tên khoa học Zea mays L., thuộc họ
Lúa Poaceae hay Gramineae. Anh, Pháp thường gọi nó
là mais từ danh từ xưa maiz, người Mỹ có tên corn. Nó
là một cây trồng khắp nơi, chỉ sống một năm, cao 1-2 m, lá mọc so le, hình dải,
dài, hoa đơn tính cùng gốc: hoa đực nhỏ, mọc thành bông ở ngọn, hoa cái mọc
sít nhau, được nhiều lá bắc to bao, vòi nhụy dài, quả dĩnh, hạt nhiều, xếp
thành hàng. Mùa hoa quả nằm vào tháng 4-6, hoặc tùy thuộc vào mùa gieo trồng
trong năm (VDL). Ở Việt Nam ta, bắp là một cây lương thực trồng rất phổ biến,
nhiều nhất ở miền núi. Hột bắp nếu không nướng, nấu để ăn, thì dùng để nấu
rượu, làm tương, thân lá tươi làm thức ăn cho súc vật (LTĐ). Có nhiều loại bắp,
thường được xếp theo hạng bắp tè (trắng, mềm), bắp nhỏ (ít tinh bột, ăn cả lõi
như rau), bắp nếp (dẻo hạt), bắp vàng (hạt cứng nhưng sản lượng cao nên dùng
cho gia súc). Hột bắp nấu lâu thì bung ra nên gọi là bắp bung. Bắp bung, xôi
nếp, hành phi, bột đậu xanh hấp hợp nhau lại thành xôi lúa là một thức ăn bình
dân, thông dụng mà thơm ngon, hấp dẫn lại thêm bổ sức vì chứa đựng nhiều glucid
và protein. Nung hột bắp trong hộp kín lên nhiệt độ cao rồi mở nắp lanh khiến
áp suất thay đổi đột ngột, nó vừa bung vừa nổ nên gọi là bắp nổ, còn có tên
bỏng bắp tức popcorn của người Mỹ (BKT).
Hột bắp chứa flagellat, abscisin, (%) protein (7-12) cùng lysin
(1,8-4,45) và tryptophan (0,4-1,0). Phần chính protein-polysaccharid trong vỏ
hột là hydroxyprolin và những amin acid : serin, threonin. Lá và hột bắp nẩy
mầm chứa indol butyric acid nội sinh ở dạng tự do hay ester. Octenol là chất
được tìm ra trước nhất trong số những chất dễ bốc hơi của bắp dự trữ. Phấn hoa
chứa những flavonoid như isohamnetin, quercetin và quercetin-3-glycosid, một
trong những flavonol có nhiều nhất trong các tổ chức cây cỏ. Phần chiết đầu
nhụy chứa đựng mazenic acid (2-2,5%) bên cạnh hai phytosterol là sitosterol và
stigmasterol dưới dạng acetat. Đầu nhụy và vòi nhụy đem chiết rượu thì có được
2,05-2,97% flavonoid, dưới dạng glycosid, hai sapogenin là sitosterol, oleanic
acid và chất đường trong phần saponin là rhamnose. Thân bắp ủ chứa (g/kg)
cellulose (193-238), lignin (8-29), protein và amin acid: lysin, arginin,
leucin, proilin, glutamic acid. Đường trong hemicellulose nhiều nhất là (g/g)
xylose bên cạnh arabinose (0,17), galactose (0,06) và mannose (0,01). Cám bắp
chứa đựng (%) nhiều phenolic acid (4), gồm có phần lớn ferulic và diferulic
acid, heteroxylan (50) bên cạnh cellulose (20). Dầu hột bắp chứa tocopherol,
sitosterol và propyl gallat. Trong mầm bắp thì chỉ có tocopherol. Carotenoid
trong bắp là zeaxanthin, thành phần điểm vàng ở võng mạc, có nhiệm vụ che chở
chống những gốc tự do của oxy phát xuất từ ánh sáng. Phần chiết ether dầu hỏa
phát hiện provitamin A. Khoáng chất, kim loại trong bắp là Na, K, Mg, Ca, Fe,
P, S và Cl.
Nhờ tính chất ức chế protease, bắp cũng như đậu, gạo, có khả
năng ngăn chận ung thư vú, da, ruột kết ở thú vật và một cuộc khảo cứu dịch tể
học cho thấy thức ăn gồm nhiều loại ngũ cốc nầy giảm hạ ung thư vú, tiền liệt,
ruột kết con người (9). Phần chiết hột bắp với ethanol có tính
chất chống vi khuẩn, kháng cự Staphylococcus aureus(10).
Người Tàu ngâm hột bắp (cũng như gạo, đậu, lúa miến, khoai lang,...) trong
nước cây (táo, đào, thơm,...) và cho lên men để chế rượu bổ và thơm (16) hay
giấm (14). Họ cũng dùng vòi nhụy cho trộn với bột bầu bí, dâu
tằm, sinh địa, kỷ tử, cám mì, đại mạch, sơn dược, cỏ ngọt cùng nhiều loại ngũ
cốc.... để làm thuốc giảm đuờng trong máu (12). Để chữa chứng
viêm gan B và C, người Nga đề nghị một hỗn hợp nhiều cây thuốc chứa lectin :
đầu nhụy bắp, lá hoa xôn, lá liễu rủ, lá hương phong, lá bạc hà, hoa xu xi, bạc
hà mèo (17). Ở Nam Mỹ, vòi nhụy và đầu nhụy bắp, thường được
gọi "pelos de choclo" hay "barba de choclo",
được đem sắc uống làm thuốc thông tiểu tiện và chữa áp suất trước kinh
nguyệt (13). Bên Iran, rau bắp được trộn với nhiều cây khác để
uống thải sỏi thận (18). Bột bắp được cho trộn với đào gai,
gừng khô, vỏ cam khô, kỷ tử thành thuốc cho vào thức ăn bổ sức (15).
Từ lâu, hột bắp cũng như gạo, khoai, đã được dùng làm giấy vấn thuốc (7).
Người ta cũng lấy dầu bắp chứa đựng chất diệt khuẩn để dùng trong mỹ phẩm xà
phòng cạo râu (8).
Trong Đông y, râu bắp và ruột cây bắp vị ngọt, tính bình, có tác
dụng lợi tiểu, tiêu thủng, thông mật, cầm máu. Chữa huyết áp cao : uống nước
luộc bắp hằng ngày, mỗi ngày 2-3 lần, mỗi lần vài bát, uống liền 2-3 tháng.
Chữa đái đường : uống mỗi ngày 20-30g bột mầm bắp khô trong nước sắc đọt khoai
lang đỏ hay hằng ngày ăn chè bắp sữa nấu với củ mài, đồng thời ăn rau lang đỏ
nấu canh. Chữa phù thũng, viêm thận cấp, đái đỏ hay viêm gan tắc mật, đái vàng
và da vàng : 40g râu bắp, hay 150g ruột cây bắp sắc uống (VDL). Mầm bắp sấy
khô, tán bột, chứa đựng nhiều enzym tiêu hóa, được dùng để trị các bệnh chậm
tiêu, đầy bụng, đi tiêu phân sống (BKT). Ngoài sitosterol, stigmasterol,
saponin, K (0,028g và 0,532g/20g), vitamin C, râu bắp chứa tới 1600 đơn vị sinh
lý vitamin K nên có thể phối hợp nó với sinh tố nầy để làm thuốc cầm máu. Để
chữa những bệnh về tim, đau thận, tê thấp, sỏi thận, viêm túi mật, viêm gan với
hiện tượng trở ngại bài tiết mật, có thể dùng bắp dưới hình thức thuốc pha hoặc
nấu sôi, hay chế thành cao lỏng, mỗi ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 30-40 giọt
trước bửa ăn (ĐTL). Không phải tình cờ mà Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã có
đo lường protein và amin acid 16 loại bắp để xác định giá trị sinh vật học của
chúng (11).
Bắp không chỉ là cây lương thực ở nước ta mà còn lẫn lộn với
chuyện thần linh. Ai mà không biết sự tích cây nêu ngày Tết. Thuở ma quỷ chiếm
toàn mặt đất, dân chúng chạy cầu cứu đức Phật. Ngài khuyên dân chúng thương
lượng với ma quỷ đổi một gánh bắp lấy một mảnh đất to bằng một bóng áo. Thấy
đòi hỏi không có gì lớn lao, ma quỷ đồng ý. Phật liền bảo gài một cái áo trên
đầu một cây tre rồi vận thần thông cho tre vươn lên trên trời cao. Bóng áo đổ
xuống chiếm toàn mặt đất. Từ đấy ma quỷ hết còn làm chủ trên mặt đất. Và cũng
từ đấy, mỗi khi Tết đến, dân chúng dựng cây nêu để cho ma quỷ khỏi về. Qua phần
văn nghệ, trong câu hò giả gạo ở Huế, bắp cũng là đề tài để phe nữ thử tài phái
nam: Trong trăm thứ bắp có bắp chi là bắp không rang? Và câu
trả lời cũng láu lỉnh không kém: Trong trăm thứ bắp, lắp bắp mồm, lắp
bắp miệng là bắp không rang... Nhưng đối với người Huế hay, nói
chung, những người yêu Huế, hoa bắp là một trong những hình ảnh Huế mà chàng
thi sĩ đa tình Hàn Mặc Tử đã gợi lên trong bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ bất
hủ từ thuở tiền chiến:
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu,
hoa bắp lay...
Nghiên cứu và Phát triển 3(46)2004,
khoahoc.net 06.01.2005
Tham
khảo:
1- H.G. Wilkes, Teosinte : the closest relative of maize, The
Bussey Institution Of Harvard University (1967)
2-P.C. Mangelsdorf, Corn, its origin, evolution and
improvement, Press of Harvard University (1974)
3-G. Beadle, L'origine du maïs, Pour la
Science (3) (1980) 59-71
4-J.P. Gay, Le mais, La Recherche 18 (1987)
459-66
5- TÓ Am NguyÍn Toåi, Cây lúa b¡p hay lúa ngô, Thông
tin Khoa h†c và Công nghŒ 22(4) (1998) 162-6
6- Bruce Benz, La domestication du mais, La
Recherche 348 (12) (2001) 25-29
7- O.P. Kohre, Cigaret paper, DE 598550 19340613
(1934)
6- Standard Branchs,Inc., Antiseptics, GB 423354
19350122 (1935)
9- W. Troll, R. Wer, Protease inhibitors: possible
anticarcinogens inedible seeds, Prostate4(4) (1983)
345-9
10- C. Perez, C. Anesini, Antibacterial activity of
alimentary plants against Staphylococcus aureus growth, J. Chin.
Med. 22(2) (1994) 169-74
11- Khoi Bui Huy, M. Hidvegi, R. Lasztity, A. Salgo, L.
Sarkadi, Biological nutritive value of protein of Vietnamese maize
varieties, Per. Polyt. Chem. Eng. 38 (3-4)
(1994) 209-17
12- Y. Zhu, L. Zhou, Hypoglycemic granules, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1154857 A 19970723 (1997)
12tr.
13- A. Sosa, R. de Ruiz, E.L. Rosa, M.del.R. Fusco, S.O.
Ruiz, Flavonoids and saponins from styles and stigmas of Zea mays L.
(Gramineae), Acta Farm. Bonaerense16(4) (1997) 215-8
14- X. Li, Preparation of fruit vinegar, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1180743 A 19980506 (1998) 9tr.
15- K. Tang, Preparation of health food, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1180495 A 19980506 (1998) 3tr.
16- F. Sun, Fruit-grain wine, Faming Zhuanli
Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1267717 A 20000927 (2000) 3tr.
17- A.A. Korsun, E.V. Korsun, E.N. Yagovdik-Telezhnaya, Agent
for treatment of viral hepatitis B and C and method of treatment, RUXXE7 RU
2185185 Cl 20020720 (2002)
18- M. Al-Ali, S. Wahbi, H. Twaij, A. Al-Badr, Tribulus
terrestris : preliminary study of its diuretic and contractile effects and
comparison with Zea mays, J. Ethnophar. 85(2-3)
(2003) 257-60.
13- Hương thơm mùi thúi một
múi sầu riêng
Sầu riêng ai khéo đặt tên
Ai sầu không biết, riêng em
không sầu.Ca dao
Tục truyền ngày xưa ở miền
Đồng Nai, Bến Nghé có một chàng trai bỏ xứ ra đi kiếm cách sinh sống nơi xa
chốn lạ. Lần lữa qua đến vùng Chùa Tháp, Cao Mên, tình cờ chàng gặp một cô gái
đang lên cơn sốt. Nhờ biết vài ba lá thuốc, chàng chữa cô nàng lành bệnh. Nấn
ná lâu ngày ở quê người đẹp, chàng cùng nàng thành vợ nên chồng. Nhưng rủi ro
cho cặp uyên ương, không hưởng hạnh phúc được bao lâu thì nàng lại mắc bệnh,
lần nầy cây lá chàng biết chẳng còn công hiệu, nàng từ bỏ cỏi trần. Nặng trong
tim một mối tình tuyệt vọng, chàng trở về làng cũ, đem theo hạt "tu
ren" của quê nàng, trồng lên thành cây để tưởng nhớ người yêu. Đến mùa
trái chín, ăn thấy ngon ngọt, chàng mời láng giềng thưởng thức. Ngào ngạt hương
thơm, lại thêm mùi vị độc đáo, ai nấy đều ưa thích. Tuy vậy nỗi đau buồn của
chàng vẫn không nguôi ngoai và hết mùa trái chín thì chàng cũng lìa trần theo
dấu vợ hiền. Dân làng cảm kích cuộc tình duyên sâu đậm, lại thương mến chàng
trai chung thủy nên đặt tên sầu riêng cho trái cây nầy. Trong
Nam có câu hát chọc ghẹo anh học trò đi qua Lái Thiêu
Ghe anh nhỏ mũi tráng
lườn
Ở trên Gia định xuống
vườn thăm em.
Cùng em ăn trái sầu
riêng
Ăn rồi cảm thấy một
niềm vui chung.
Ngày
nay trái sầu riêng rất được ưa chuộng ở miền Nam nước ta. Trái cây béo bở, nghe
nói người ham mê thì như nghiện ngập, mất bao nhiêu tiền cũng mua cho được .
Thật ra sầu riêng không chỉ có ở nước ta. Được quốc tế gọi durian,
từ danh từ djoerian bên quần đảo Indonesia, với tên khoa
học Durio zibethinus Murr., thuộc họ
Gạo Bombacaceae, nó mọc khắp vùng Đông Nam Á và được trồng từ
Thái Lan qua Mã Lai, từ Việt Nam xuống quần đảo Nam Dương. Ngoài vị ngọt bùi,
đặc điểm của sầu riêng là mùi hương của nó: người thích bảo thơm, kẻ không quen
thì cho thúi. Trước một chuyến bay cất cánh từ Tân Sơn Nhất cách đây mấy
năm, một hành khách người Việt có mang theo một, hai trái, gói ghém cẩn
thận, bao bọc kỹ lưỡng, vậy mà hương bay nồng nặc, người ngoại quốc bịt mủi
phàn nàn và rút cuộc gói sầu riêng phải đưa xuống gầm máy bay. Gần đây hơn,
trong bầu không khí chiến tranh sinh vật học, chuyến bay Brisbane-Adelaide bên
Úc trễ mất 4 tiếng đồng hồ vì cảnh sát mất công tìm kiếm nguồn gốc một mùi hôi
và tìm hiểu chất thuốc trắng rải trên ghế, thật ra chỉ là bột hương để át mùi
sầu riêng. Hôm ghé qua Jakarta, vợ chồng chúng tôi trầm ngâm trước bản căn dặn
khách hàng ở khách sạn chớ đem sầu riêng vào phòng ! Một anh bạn Pháp đã từng
sống ở Sài Gòn bảo mùi sầu riêng nhắc anh nhớ tới mùi phó mát Camembert để chảy
lâu ngày, vấn vương đôi chút các mùi hành, tỏi,...
Lẽ tất nhiên, người châu Á, đặc biệt người Đông Nam Á, nhÃt là
những phòng thí nghiệm Âu Á, không thể thản nhiên trước trái cây độc đáo nầy.
Công trình khảo cứu nghiêm chỉnh, sâu sắc trước nhất về cấu tạo trái sầu riêng
được thực hiện ở Viện Đại học Sains Malaysia tại Minden, Penang bên Mã Lai.
Dùng dichloromethan chiết xuất những thành phần dễ bốc hơi (66-69mg/kg) từ tử y
ba mẫu cấy mô mọc ở Penang rồi đem phân tích qua phép sắc ký khí kết hợp với
máy lượng phổ ký GC-MS, hai nhà khảo cứu K.C. Wong và D.Y. Tie xác định được 63
cấu chất gồm có những hoá chất không có lưu huỳnh (ester, alcool, ceton,
aldehyd, hydrocarbon) và những hoá chất có lưu huỳnh (ester, thioalcool,
hydrocarbon và đặc biệt hydrosulfid) (16). Ở Trung tâm Sinh học
Công nghệ Thức ăn ở Singapore, các hóa sư xác định được đến 108 cấu chất (19).
Các ester chiếm tỷ số lớn nhất thành phần bốc hơi (49,23-57,88%) trong ấy phần
lớn là ethylpropanoat và ethylbutanoat (16) được xem là
hóa chất nặng mùi nhất trong số những chất không chứa lưu huỳnh (18).
Những ester không bảo hoà là ethyl E-butenoat, ethyl E-methylbutenoat (16) và
những chất hiếm thấy : ethyl Z,Z-, E,Z-, E,E-decadienoat, ethyl E,Z,Z- và
E,E,Z- decatrienonat (17) (E = entgengen = trans ; Z =
zusammen = cis). Mùi hương đậm đà, ngào ngạt của sầu riêng phát xuất từ các
ester ấy. Các chất số lượng đứng hạng nhì thuộc loại hydroxy ceton, nhiều nhất
là hydroxy butanon (20). Còn có 2 chất số lượng ít hơn nữa là
hai chất đồng phân hydroxy pentanon (16), cấu chất của hương
thơm cà phê, da ua, phó mát Gruyère và gan heo nấu chín.
Nguyên do mùi thúi sầu riêng là những chất có lưu huỳnh, 4 ester
: S-ethyl thioacetat, S-propyl thioacetat, S-propyl thiopropionat và ethyl
methylthio acetat; 4 thioalcool: methan thiol, ethan thiol, propan thiol và
ethylthio ethan thiol; 3 hydrocarbon: 2 đồng vị dimethyl trithiolan và
trimethyl trithian; 10 sulfid: dimethyl, diethyl, ethylpropyl sulfid,
methylethyl, methylpropyl, ethylhydro disulfid, diethyl, methylethyl, ethylpropyl
trisulphid và diethyltetrasulfid (8,16). Hai tác giả Wong và
Tie bảo không xác định được những chất methan thiol, diethyl và dimethyl
disulphid, triethyltrisulfid đã được J. Baldry, J. Dougan, G.E. Howard ở Viện
Nhiệt đới London bên Anh (3) tìm ra trong sầu riêng
Singapore và Kuala Lumpur, cũng như ethyl methyl disulfid, diethyl tetrasulphid
và ethyl hydrodisulfid mà R. Moser, D. Düvel, R. Greve ở các Viện Khoa học, Kỹ
thuật và Thực vật Ứng dụng Hamburg bên Đức (8)đã phát hiện
trong sầu riêng hái ở Chandburi (vụ mùa xuân) và Prajeen Rayong (vụ mùa hè) bên
Thái Lan. Cũng theo Wong và Tie (16), các mùi hành, kiệu, tỏi
tây trong sầu riêng phát xuất từ các chất có lưu huỳnh ấy vì chúng cũng được
tìm ra trong kiệu, hành, tỏi tây. Đặc biệt mùi tỏi là do các thioglycosid phân
tán (1). Ngoại trừ ethyl hydro disulfid, các chất hydro sulfid
và thiol không có hay có ít trong trái còn xanh, tăng gia với độ chín của trái
và không có chút nào trong hột và vỏ trái cây (8).
Ngoài các chất dễ bốc hơi, một số các acid mỡ có vòng
cyclopropen trong hột được khảo sát vì dầu chiết xuất ra (65,4%) có khả năng
ngăn gây vô sinh (1) hay hỗn loạn sinh lý ở thú vật (1,7),
bắt nguồn từ sự chuyển hóa các acid mỡ, như tăng lớn gan, phồng bóng đái. Giả
thuyết được đưa ra là tính độc do vòng cyclopropen liên kết với sulfydryl của
protein tạo nên (1). Về mặt amin acid, dầu sầu riêng chứa nhiều
nhất (%) steraric (45,84), sau đó những là palmitic (26,75) và ít hơn là những
oleic (14,95) và linolenic (12,46) acid (21. Đặc biệt arachidic
acid có nhiều trong vỏ trái hái mùa hè (8). Trong tử y và hột
trái thì (%) sterculic acid (38,53) có nhiều nhất, nhiều hơn malvalic acid
(15,72), còn dihydro sterculic acid (2,52) thì chỉ có chút ít. Số lượng các
acid nầy giảm sụt khi đem nấu hột (6). Trong một công trình
khảo cứu trên 4 mẫu cấy mô, S.K. Berry nhận thấy hễ tỷ lệ lipid càng lớn so với
acid mỡ không bảo hòa thì sốđiểm gây cảm giác càng lớn, cũng như khi tỷ lệ
palmitic acid so với palmitoleic acid càng nhỏ(9). Nên biết thêm là
trong trái sầu riêng còn có vitamin (8), flavanol, caffeic
acid (1)đồng thời những nhân tố antihistamin bền nhiệt cũng đã
được tìm ra (5).
Một vài công tác nhắm tìm quan hệ giữa tính độc giả định của sầu
riêng và rượu. Trong một cơ thể chuột đã tẩm ethanol, sầu riêng có khả năng
thức tỉnh con thú, rút ngắn thời gian ngủ (12), đồng thời giảm
hạ sức gây chết của rượu (4). Sự đối vận sầu riêng với rượu có
thể là do có hiện tượng giao thoa với sự hấp thu rượu vào ruột hay với sự xâm
nhập rượu vào các tế bào mục tiêu (4). Có nhiều tác giả không
tin rượu trở nên độc khi cùng dùng với sầu riêng (2). Khảo sát
nhiều tổ chức sầu riêng, từ lá cây qua vỏ trái, từ tử y qua lá mầm, người ta đã
dùng hiện tượng điện chuyển để xác định cấu tạo các amin acid. Một phản ứng
giao phôi với kháng huyết thanh dấy lên chống nhiều loại hột đã biết đem lại
một sự tích lũy dinh dưỡng protein, từ đấy có thể lập thành phương pháp bảo trợ
hột (13). Trái sầu riêng cũng đã được xem xét về mặt chín mở.
Độ ẩm tương đối nhỏ và ethylen tăng gia độ mở. Cho rải 100ppm gibberellic acid
lên trái thì độ mở bị hảm lại nhưng quá trình trái chín vẫn tiếp tục. Một acid
mỡ liên kết với sucrose bao phủ trái kềm hảm cả độ mở lẫn trái chín. Tác dụng
của ethylen lên độ mở luôn quan trọng hơn sự hao hụt trọng lượng(14).
Về mặt tính chất sinh vật học, đã được phát giác những polysaccharid (23,24) chiết
xuất từ vỏ trái có khả năng ức chế hoạt động của hai chủng vi khuẩn Staphylococcus
aureus, Escherichia coli và hai chủng nấm men Candida
albicans, Saccharomyces cerevisiae (22).
Người ta cũng có theo dõi quá trình phát triển của cây sầu riêng
ở Sedang bên Mã Lai. Cây lớn lên rất mau đến năm thứ bảy, khi sản xuất chất khô
đạt đến mức tối cao. Vào lúc ấy, rễ cây chiếm 30% và cây 70%. Các khoáng chất
N, P, K, Ca và Mg trong cây tăng cường song song với chất khô nhưng có rất ít
trong trái những năm đầu. Để thúc đẩy phát triển cây và sớm sản xuất trái, một
loại thuốc Oxisol đã được dùng và kết quả rất khả quan (10). Để
bảo vệ cây và rễ chống trùng Phytophthora palmivora có thể
dùng thuốc metalaxyl hay gốc cây có sức chịu đựng (11). Sau
cùng, nhiều mẫu sầu riêng, măng cụt, lê tàu cho tác dụng trong một cuộc nhiễm
trùng giao phối với nhóm di truyền Colletotrichum
gloeosporioides, phát hiện chúng đều có rDNA giống nhau và các liên
kết trong mtDNA cũng rất tương tự, chứng minh chúng phát xuất từ một gốc chung
nhưng khác nhau ở chỗ phải thích nghi vào môi trường mỗi nơi (15).
Đến nay, so với các cây quả khác, thấy như các tính chất dược
học của sầu riêng chưa được tận dụng hoàn toàn. Ngoài hương vị đặc biệt đưa sầu
riêng lên thành một món ăn đắt tiền, bên cạnh khả năng đã thấy giảm hạ sức gây
chết của rượu, thức tỉnh khi bị rượu làm cho buồn ngủ(4,12), còn có
những tính chất khác chưa được khảo cứu cặn kẽ như ngăn cản sinh đẻ(7),
đặc tính kích dục (8),.... Sầu riêng có thể trở thành một loại
trái còn quý báu hơn.
Thông tin Khoa học và Công nghệ2 1996,
khoahoc.net 24.03.2005
Tham khảo:
1- W.R. Stanton, The chemical composition of some
tropical food plants, Trop Sci. (1)8 (1966)
6-10
2- C.W. Ogle, Y.F. Tey, Alleged toxicity of durian and
alcohol,Far. East. Med. J. (9)7 (1971) 297
3- J. Baldry, J. Dougan, G.E. Howard, Volatile flavoring
constituents of durian, Phytochem. (6) 11 (1972)
2081-7
4- S. Techapaitoon, M.K. Sim, Alleged toxicity of durian
and alcohol, Asian J. Med. (5) 9 (1973)
158-9
5- V. Rattanapanone, Antithiamin factors in fruits,
mushrooms and spices, Chiang Mai Med. Bull. (1) 18 (1979)
9-16
6- S.K. Berry, Cyclopropene fatty acids in some
Malaysian edible seeds and nuts. I. Durian (Durio zibethinus, Murr.), Lipids (6) 15 (1980)
452-5
7- S.K. Berry, Cyclopreponoid fatty acids in some
Malaysian edible seeds and nuts, J. Food Sci.Technol. (5) 17 (1980)
224-7
8- R. Moser, D. Düvel, R. Greve, Volatile constituents
and fatty acid composition of lipids in Durio zibethinus, Phytochem. 19 (1980)
79-81
9- S.K. Berry, Fatty acid composition and organoleptic
quality of four clones of durion (Durio zibethinus, Murr.), J. Am.
Oil. Chem. Soc. (6) 58 (1981) 716-7
10- O. Yaacob, The growth pattern and nutrient uptake of
durian (Durio zibethinus, Murr.) on an Oxisol, Commun. Soil. Sci.
Plant Anal.(8) 14 (1983) 689-98
11- U. Pupipat, Control of some soilborne diseases in
Thailand, FFTC Book. Ser. 26 (Soilborne
Crop Dis. Asia) (1984) 49-58
12- N. Nilvises, C. Saengsirinavin, Effet of durian on
sleep in alcohol preteated animals, Varasarn Paesachasarthara (3) 13 (1986)
67-75
13- M.R. Charbonneau, M.J. Brown, J.S. Greenwood, Examination
of recalcitrant seed proteins of Durio zibethinus, Pertanika (2) 14 (1991)
125-32
14- S. Sriyook, S. Siriatiwat, S. Siriphanich, Durian
fruit dehiscence-water status and ethylene, HortScience (10) 29 (1994)
1195-8
15- P.W. Alahakoon, A.E. Brown, S. Sreenivasaprasad, Cross-infection
potential of genetic groups of Colletotrichum gloeosporioides on tropical
fruits, Physiol. Mol. Plant Pathol. (2) 44 (1994)
93-103
16- K.C. Wong, D.Y. Tie, Volatile constituents of durian
(Durio zibethinus Murr.), Flavour Fragrance J. (2) 10 (1995)
79-83
17- R. Naef, A. Velluz, Sulfur compounds and some
uncommon esters in durian (Durio zibethinus Murr.), Flavour
Frangrance J. (5) 11 (1996) 295-303
18- H. Weenen, W.E. Koolhaas, A. Apriyantono, Sulfur-containing
volatiles of durian fruits (Durio ziberthinus Murr.), J. Agric.
Food Chem.(10) 44 (1996) 3291-3
19- J. Jiang, S.Y. Choo, N. Omar, N. Ahamad, GC-MS
analysis of volatile compounds in durian (Durio zibethinus Murr.), Dev.
Food Sci.40 (1998) 345-52
20- Q. Liu, J. Zhou, Z. Mandan, Y. Zhu, W. Wenyi, Component
analysis of aroma from durian, Fenxi Ceshi Xuebao (2) 18 (1999)
58-60
21- S.R. Eni, Summarno, Fatty acid content in durian
(Durio zibethinus Murr.) seed, Majalah Farmasi Indonesia (2) 12 (2001)
66-72
22- V. Lipipun, N. Nantawanit, S. Pongsamart, Antimicrobial
activity (in vitro) of polysaccaride gel from durian fruit-hulls, Songklanakarin
J. Sci. Techn .(1) 24 (2002) 31-8
23- S. Pongsamart, Polysaccharide products from durian :
process for isolation and purification and their applications, U.S.
Pat. Appl. Publ.US 2003166608 A1 20030904 (2003) 4 tr.
24- S. Pongsamart et all., Water-soluble polysaccharides
with pharmaceutical importance from durian rinds (Durio Ziberthinus Murr.) UK
Carbohydrate Polymers (4)56 (2004) 471-8.
14- Jacquelin hột mít ngăn
chận trùng sida
Ai về nhắn với họ ngưồn
Mít non cho xuống cá chuồn cho
lên.Ca dao
Bệnh SIDA (Syndrome d'Immuni
Deficiency Acquise, hay theo danh pháp Anh Mỹ AIDS, Acquired Immmune Deficiency
Syndrome) như tên gọi, là toàn bộ những bệnh lý mà mẫu số chung là sự suy nhược
hệ thống miễn dịch của con người. Do đấy, cơ thể rất dễ bị mọi vi trùng phá
phách, hoành hành. Từ những thập niên 80, 90, trùng gây bệnh được tìm ra là một
độc trùng hay virus mang tên VIH (Virus de l'Immunodeficience Humaine hay HIV).
Vài năm sau, người ta còn phân biệt được hai thứ VIH1 và VIH2,
con thứ nhất dễ bắt gặp hơn. Cả hai đều là những trùng ghê gớm nhờ khả năng
ngẫu biến dễ dàng khiến chúng có phương tiện thay hình đổi dạng lanh chóng để
lẫn tránh thuốc men.
Cơ chế truyền nhiễm
Những trùng VIH thuộc loại retrovirus, nghĩa là những virus sinh
sản đâm chồi trên mặt tế bào. Cấu tạo chúng là những ARN (Acide RiboNucléique
hay RNA) bao quanh ở ngoài một lớp glycoprotein gp (gp41 và gp120 ở VIH1).
Những gp nầy đóng một vai trò cốt yếu trong việc truyền nhiễm. Khi VIH xâm nhập
cơ thể sinh vật, nó đặc biệt tấn công vào những lymphocyt T4, tức là những bạch
huyết bào chủ chốt trong cuộc bảo vệ chống nguyên lực nhiễm bệnh. Trên mặt
huyết bào có một lớp protein gọi là CD4. Công việc đầu tiên của VIH là cho gắn
liến gp của mình vào CD4 (hay CD26) của huyết bào qua sự hỗ trợ của một dư phân
tử như phân tử fusin hay cơ quan nhận cảm CCR5 để cho nó lọt được vào lòng
huyết bào. Bệnh tình càng tiến thì số lượng bạch huyết bào T4 càng sụt. Thường
trong máu người có khoảng 1000 T4 mỗi mililit. Khi số lượng nầy sụt xuống dưới
200 thì cơ thể hết còn chống lại được các vi trùng gây bệnh, ngay cả những loại
thường được cho là yếu ớt.
Đột nhập được vào lòng huyết bào rồi thì VIH tổ chức chuyện sinh
sôi nảy nở. Bản chất di truyền của nó là ARN nhưđã thấy, nhưng bộ máy tế bào
của huyết cầu không biết trực tiếp chế biến ARN. Nó sử dụng một giếu tố có sẵn
trong cơ thể người là ETI (Enzym Transcriptase Inverse) để cho tế bào thực hiện
công việc sản xuất các trùng con. Ngày nay, kinh nghiệm lâm sàng cho biết chứng
bệnh SIDA diễn biến theo 4 giai đoạn:
- Trong giai đoạn thứ nhất, thời kỳ sơ nhiễm (từ 3 tuần đến 3
tháng), tức là đợt tấn công của VIH tương đương với một hoạt động virus tuy khá
quan trọng mà ít có triệu chứng rõ rệt. Thỉnh thoảng thấy bệnh nhân lên cơn sốt
trong khoảng 1 tháng, trong mình khó chịu, chán ăn, nhức đầu, đau xương, bắp
thịt rã rời, mụt mọc đầy da. Bệnh tương đối nặng hơn trong các trường hợp nầy.
Tuy nhiên, những thử nghiệm dò tìm ít đem lại kết quả vì mục đích là tìm kiếm
kháng thể do cuộc phòng thủ miễn dịch phát ra nhưng chúng đang còn quá ít.
- Qua giai đoạn thứ nhì, lúc huyết bào chế biến trùng con là lúc
cuộc phòng thủ miễn dịch hoạt động mãnh liệt, cũng là lúc huyết bào mới được
sản xuất tối đa để bù lại các huyết bào bị hư hỏng. Mỗi ngày khoảng chừng 1 tỷ
trùng con và tế bào được chế biến và phá hủy. Khả năng phòng thủ miễn dịch sụt
dần xuống. Tuy là một giai đoạn kéo khá dài, trung bình 1 năm, vẫn ít thấy có
tín hiệu huyết thanh dương tính phát hiện nên gọi là thời kỳ vô triệu chứng.
- Giai đoạn thứ ba, dài khoảng 2 năm, tức là thời kỳ tiền SIDA,
tương đương với hội chứng u hạch bạch huyết dai dẳng. Những hạch phồng lên,
trung bình 30 tháng sau khi bệnh bộc khởi.
- Khi cuộc phòng thủ miễn dịch hết còn hữu hiệu, số bạch huyết
bào T4 sụt xuống dưới 200 mỗi mililit, bệnh nhân bước qua giai đoạn thứ tư tức
là giai đoạn cuối cùng, thời kỳ SIDA công khai. Vào lúc nầy, mọi vi khuẩn, vi
trùng gây bệnh, tế bào ung thư,... đua nhau nảy nở, dần đưa bệnh nhân vào tay
tử thần.
Phòng ngừa chống chỏi
Bên lề cuộc tìm kiếm khó khăn một vaccin để vô hiệu hóa virus,
việc bài trừ SIDA hiện nay dựa lên khoa liệu pháp hóa học, dùng hóa chất ngăn
chận trùng VIH xâm nhập bạch huyết bào hay chế biến trùng con. Biết chắc VIH
phải vào cho được lòng huyết bào, những công tác khảo cứu đầu tiên tìm kiếm
cách phá hủy tác động giữa gp120 vỏ trùng và protein CD4 huyết bào. CD4 là một
phân tử không hoà tan. Qua nhiều phản ứng hóa học, người ta có thể chế biến nó
thành hoà tan, đem pha loãng rồi dùng dung dịch che chở huyết bào. Kết quả rõ
ràng tích cực nhưng lâu ngày có những phản ứng phụ không tốt. Nhiều khảo cứu
viên muốn xoay qua dùng những bạch huyết bào T4 tương ứng với vùng tác động của
virus, tương đối dễ chế tạo hơn và cũng ít phản ứng phụ hơn. Mặt khác, những
hóa chất có điện tích âm như loại polyanionic (những polysulfat như heparin,
dextran sulfat, pentosan polysulphat, mannan sulfat, curdlan sulfat,
polyvinylic alcool sulfat, những polycarboxylat như aurin tricarboxylic acid)
cũng làm cản trở không ít tác động giữa VIH và T4. Trong lãnh vực nầy, những
polymer sulfat cũng tỏ ra rất hiệu nghiệm và nhiều phòng thí nghiệm đang đầu tư
vào cuộc chế tạo các sulfat nầy.
Không ngăn ngừa được trùng SIDA đột nhập huyết bào thì phải kiếm
cách đừng cho nó phát triển trong ấy. Trong lúc chờ đợi một vaccin nan giải,
người ta đã nghĩ cách ghép vào huyết bào một gen mới để nó tự chống lại virus.
Hiện giờ, mục tiêu dễ thấy là enzym ETI đã biến hoá ARN của trùng ra ADN. Những
chất ức chế ETI được dùng trước nhất là những 2',3'-didesoxynucleosid: hãng
Wellcome cho ra AZT (3'-azido-2',3'-didesoxythymidin), hãng Hoffmann-Laroche
thực hiện DDC (2',3'-dideoxycytidin), hãng Bristol-Meyers Squibb chế tạo DDI,
hãng Glaxo phát hành 3TC,... Tác dụng ức chế các thuốc nầy là hoặc giành chỗ
ARN hoặc sát nhập vào các ADN đang thành hình. Có điều ETI cũng là enzym tổng
hợp ADN cho người, phá phách nó tất nhiên có hại cho cơ thể. Đằng khác, VIH lại
có khả năng ngẫu biến để thích nghi với những điều kiện của môi trường mới lại
làm cho cuộc điều trị rắc rối hơn. Những chất như acyclic phosphonat nucleosid
PMEA, rất ổn định trong tế bào, có tác dụng lâu dài, dẫn xuất FPMPA của nó cũng
có tác dụng đáng kể nhưng đều mắc phải nhược điểm nói trên. Trước những khó
khăn đó, cần phải tìm cho ra nhũng chất ức chế đặc thù. Từ 1989, ra đời những
chất acyclouridin HEPT (Mitsubishi Kasei Corporation), benzodiazepin TIBO
(Janssen-Johnson và Johnson) và, một vài năm sau, những phân tử thuộc các loại
dipyridodiazepinon (Boehringer Ingelheim), pyridinon (Merk, Sherp và Dohme),
bis-heteroaryl piperazin (Upjohn) đặc biệt chỉ phá hoại ETI phục vụ VIH mà
không đảđộng đến các enzym ADN polymerase khác của cơ thể.
Vài năm gần dây, một chiến lược mới bài trừ VIH đã được thực
hiện và kết quả rất khả quan. Thay vì chỉ dùng một chất thuốc độc nhất, người
ta áp dụng cùng một lúc nhiều chất, trừ khử luôn một lần nhiều dạng của trùng
đang ngẫu biến. Lúc đầu, từng cặp đôi thuốc đã đuợc kết hợp: AZT và DDC, AZT và
DDI, AZT và 3T. Những cặp đôi nầy rõ ràng có hiệu lực hơn khi thuốc được dùng
một mình. Sau đó, kết quả thật mỹ mãn khi các cặp thuốc kia được kết hợp thêm
với một trong những thuốc mới như Saquinavir (Roche), Ritonavir (Abbott),
Indinavir (Merck), ngay cả lúc số bạch huyết bào T4 của bệnh nhân sụt xuống gần
200 mỗi mililit máu. Các chuyên gia tiên đoán sẽ rồi còn được hoàn thiện hơn
nếu các bệnh nhân được dùng thuốc ngay từ giai đoạn thứ nhất, nhất là khi bắt
đầu thấy có triệu chứng. Hơn nữa, họ còn đề nghị đồng thời với 3 cặp thuốc kia,
nên điều trị bệnh nhân thêm với những thuốc phục chế hệ miễn dịch, thuốc chống
oxi hóa để tránh xung động và thuốc kháng sinh phổ rộng để giảm hạ hiệu ứng các
du nhân tử sinh bệnh.
Lectin hột mít
Tìm ra được lúc đầu trong thảo mộc (thân, rễ, lá, củ), về sau cả
trong nấm, vi khuẩn, động vật hạ cấp (như ốc, sên) hay động vật có xương sống
(như gà, chuột, lươn), lectin là những protein có khả năng tác động với
sacccharid để gây ra sự ngưng kết các tế bào động vật. Sau nhiều tên : agglutinin,
hemaglutinin, phytohemaglutinin, cuối cùng nó được gọi lectin (từ động từ La
Tinh legere có nghĩa chọn lựa) vì nó có khả năng phân biệt các loại
máu. Lectin đầu tiên được khám phá ra là ricin (từ hột thầu dầu) năm 1888, rất
độc vì làm ngưng kết các hồng huyết bào. Ricin và sau nầy một chất tương tự,
albrin (từ hột cam thảo dây) đã được dùng để chứng minh nhiều nguyên tắc căn
bản trong ngành huyết học. Concanavalin, lectin đầu tiên chiết xuất ròng sạch
từ một loại đậu năm 1916, lại có tính chất làm kết tủa huyết bào vì nó ngưng
kết với glycogen, những carbohydrat, tức là đường tích trử trong cơ thể. Người
ta còn biết cứ cho thêm đường như glucose thì tránh được huyết bào bị
concanavalin kết tủa, vì concanavalin liên kết với glucose dễ hơn với đường
trong huyết bào. Dần dần, các lectin trở thành những dụng cụ quý báu để khảo
sát những thay đổi ở mặt ngoài tế bào trong thời gian ung thư hoá đồng thời cho
phát triển những tính chất đặc thù của những tế bào u khối.
Lectin phát xuất từ hột mít (tiếng Pháp: jacque hay jaque,
tiếng Anh: jackfruit) mang tên jacalin. Nó được chiết xuất với một
dung dịch đệm phosphat rồi phân đoạn protein qua sắc ký ái lực hay sắc phân
lỏng cao áp. Người ta làm tinh khiết nó trên một cột N-acetyl-D-galactosamin,
Sepharoche, Sephadex hay G100. Jacalin tinh thể trụ góc đứng hệ thoi xem xét
cặn kẽ cho thấy một dạng tetramer. Gần đây, từ A. integrifolia đã
được phát giác một dạng tetramer có cấu tạo tương tự gọi là artocarpin, ít được
học hỏi (24). Mít thường được dùng để khảo cứu thuộc loại Artocarpus
heterophyllus Lamk. hay A. integrifolia Linn., A.
integer Mer., có khi A. integre, A. incisa, A. communis, A.
lingnamensis, A. champeden, A. tonkinensis, A. hirsuta, A. hypargyreus, A.
altilis, A. lakoocha cùng một số mít hoang dại ở Việt Nam thuộc họ Dâu
tằm Moraceae. Jacalin là một glycoprotein mang 4 polypeptid, chứa
3% carbohydrat mà cấu tạo đã được phân tích. Lớn chừng 50kDa, nó gồm có một dãy
alfa liên kết 133 amin acid bất cộng hóa, một dãy 15kDa mang glycogen, một dãy
12kDa không mang glycogen và một dãy bêta ngắn với 20 mảnh. Dãy nầy có một
trọng lượng phân tử 2090, tương đối nhỏ so với dãy kia, 16.200. Hai dãy 15kDa
và 12kDa có thành phần amin acid tương tự. Đem phân giải protein với Staphyloccocus
areus proteinase thì chúng hiến thêm một peptid nhỏ hơn
4kDa. Phần chiết thô còn chứa những polypeptid khác.
Hai dãy bêta và 15kDa đã được phân tích qua sác phân lỏng cao áp
và dãy 17kDa qua phương pháp điện chuyển. Dãy bêta trong 3 loại A.
integrifolia, A. champeden và A. tonkinensis có phần
khác nhau, đặc biệt jacalin của A. champenden có hai dãy
bêta (17) Nghiên cứu trên 2 loại mít hoang ở Việt Nam, các
tác giả tìm ra một dãy alfa thứ nhì ở jacalin A. asparulus và
một dãy bêta thứ nhì ở jacalin của A. masticata (20).
Ngoài ra, một số mít khác mọc ở Việt Nam nhưA. heterophyllus, A.
malinoxylus, A. parva, A. petelotii cũng đã được khảo cứu và cho thấy
các loại mít không có cấu tạo hoàn toàn giống nhau (20). Một
cuộc nghiên cứu cấy mô jacalin cDNA (isolectin) phát hiện những chuỗi amin acid
đã được tổng hợp qua một prepropeptid với cấu tạo: N-tín hiệu (21 mảnh) -
propeptid (39 mảnh) - bêta peptid (20 mảnh) - vùng liên kết (4 mảnh) - alfa
peptid (133 mảnh). Cũng như agglutinin của một loại dâu cam Maclura
pomifera, ngoài O-glycan và N-acetylgalactosamin, jacalin có ái lực với
methyl D-galactosid chứ không phải galactose ở thể tự do cũng như có khả năng
ngưng kết với tinh dịch của người và chuột.
Những công tác khảo cứu nhiệt động học về liên quan của các
diosid cho thấy jacalin tác động ưu tiên với GalD(1-3)DGalNAc, một disaccharid
thường có trong các glycoprotein. Từ 20 năm nay, người ta biết jacalin phản ứng
với dãy carbohydrat alkali bền hay ít bền loại galactosyl acetyl galactosamin
thuộc nhóm Thomson-Friendenreich (22). Tính chất jacalin làm
kết tủa các glycoprotein IgA, IgD được chứng minh (2,3). Hơn
nữa, IgA lại được chỉđịnh là IgA1. Mặt khác, jacalin còn ngưng kết ít nhiều với
cả IgA2 (4,6), IgM (4,5), IgG (19),
IgE (4), hiện tượng phần nào mâu thuẩn với vài công tác khác.
Người ta suy đoán những tính chất liên kết khác nhau với Ig (9) vì
phương cách chiết xuất không hoàn toàn giống nhau, từ những cây mít không mọc
cùng vùng đất, xa nhau hàng nghìn dặm (từ Brazyl qua Philippines, từ La Réunion
qua Okinawa, từ Hawai qua Ấn Độ). Ngay cả tên cây mít cũng có khi lẫn lộn (11).
Ứng dụng jacalin
Ngoài tính chất kết tủa các immunoglobulin, lectin còn có khả
năng ngưng kết nhiều loại tế bào như hồng huyết cầu erythrocyt, bạch huyết cầu
leucocyt, u khối, vi khuẩn virus. Riêng jacalin đã trở thành một dụng cụ cần
yếu trong ngành huyết học (1,2,11) nhờ tính chất gián phân
các bạch huyết bào. Nó được chứng minh đã kích thích những chức năng các tế bào
T và B con người, đặc biệt kích thích bạch huyết bào T phát tiết
immunoglobulin. Người ta dùng nó để chiết xuất IgA, IgA1, ước tính số lượng
IgA1, phân tách IgA1 và IgA2 (23), loại bỏ IgG trong cuộc chế
biến gamma globulin, làm ròng polysaccharid (29), dò
tìm galactoglucomannan trong thực phẩm, phát sinh sản xuất gamma interferon
trong bạch cầu đơn nhân máu ngoại vi và trong môi cấy lymphocyt T con người,
khảo cứu liên quan protein-carbohydrat trong thời gian di chuyển bạch cầu trung
tính, khảo cứu các loại ung thư lành tính cũng như ác tính. Ngoài ra, quan
trọng nhất là tính chất gián phân của jacalin chính xác lên màng bạch huyết bào
CD4 T (11,13). Tính chất rất quan trọng khi ta biết có một
tương quan rõ rệt giữa số lượng tế bào T của màng CD4 và tiến triển của chứng
bệnh SIDA.
Một cuộc hợp tác giữa 12 khảo cứu viên nhiều trường Đại học,
viện Sinh học, trường Y khoa, bệnh viện ở Pháp và Hoa Kỳđã đi sâu vào việc dùng
jacalin ức chế VIH (16). Ở phòng thí nghiệm, in vitro,
các tác giả nhận thấy jacalin rõ ràng ức chế cuộc nhiễm trùng của VIH1 lên
những bạch huyết bào con người, đặc biệt các tế bào đơn nhân máu ngoại vi và
các tuyến tủy bào bạch cầu đơn nhân to. Như trên đã thấy, khi VIH lọt vào máu,
màng gp120 vỏ trùng tác động với protein CD4 bạch huyết bào. Jacalin làm giảm
hạ tác động ấy nhưng không phải vì đã thay thế CD4 liên kết với gp120. Jacalin
tác động với bạch huyết bào T và rất có thể đã phá VIH qua cuộc liên kết với
các phân tử màng tế bào, nhất là CD4. Mặt khác, các tác giả còn tìm ra trong
jacalin một dãy alfa gồm có 14 amin acid giống hệt một khúc trong gp120. Một
peptid nhân tạo tổng hợp tương đương với dãy alfa nầy cũng có khả năng ức chế
VIH, in vitro(14).
Nước ta có ít nhất một chục loại mít trong số khoảng 50 loại
trên thế giới. Lectin và jacalin đã được khảo cứu ở các trường Đại học Tổng hợp
Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh. Vài năm trước đây đã thấy phát hành một bản lectin
chiết xuất từ mít, muồng, chay, sen, mướp đắng, dâu tằm, sam, ốc, trạch, diệp
ngọc (Gs Nguyễn Quốc Khang). Ngoài ra, nhiều tên khảo cứu viên Việt Nam đã thấy
ký trong các bản báo cáo sau một thời gian thực tập ở Pháp : B.P. Thuân, lectin
sam Tachypleus tridentatus (7); Nguyễn Quốc Khang,
jacalin chay A. tonkinensis (8), muồng Crotalaria
striata (12); Đỗ Ngọc Liên, jacalin chay A.
tonkinensis, mít dại A. integrifolia, mít tố nữ A.
champeden (15,17), A. asperulus, A. masticata (18), A.
heterophyllus, A. melinoxylus, A. parva, A. petelotii (20).
Các jacalin nầy đều có tính chất gián phân bạch huyết cầu và kích thích mỗi thứ
một khác cuộc tăng sinh các tế bào đơn nhân máu ngoại vi. Rõ ràng, Việt Nam
không thiếu tay nghề cũng như nguyên liệu.
Tôi nhớ hồi còn nhỏ, mỗi lần nghỉ học về quê là thích ra vườn
ngửi mùi mít chín. Mùi mít ngon ngọt, khẩu vị khác nhau tùy loại mít ráo, mít
ướt, mít mật, mít gai, hột mít nấu chín cũng béo bở lại ngạt ngào hương thơm
khi đem nướng. Sau nầy ở Paris, ở cửa trước vườn Luxembourg, những hôm vào thu
trời lành lạnh, mua nắm trong tay những hột dẻ vừa mới nướng nóng bỏng, tôi lại
tưởng nhớ đến những hột mít mạ tôi nướng trên lò than thơm phức thời xưa, trong
lòng mang máng một chuyện cổ tích đã được Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc kể trong sách.
Có người cháu gái đến thăm nhà cô, lại thích ăn mít vườn cô. Người cô không
muốn cho ăn mít, bảo nấu cơm cho cháu ăn. Người cháu biết ý, lanh miệng "Thôi
cô ạ, đừng cơm cơm mít mít chi nữa cho nó phiền" thay vì cơm cơm nước
nước. Bất đắc dĩ, cô phải ra vườn hái mít cho cháu nhưng cô chọn một trái vừa
nhỏ, vừa sâu, đem bổ cho cháu ăn. Tuy khó nuốt trôi miệng, người cháu cũng khéo
miệng "Có gì mà cô! Có lô gốc mít!". Câu nầy trở thành tục ngữ giễu
bà cô keo kiệt. Cả người cháu lẫn bà cô không dè hột mít có khả năng cống hiến
chất thuốc chữa trị chứng bệnh hiểm nghèo nhất vào những thế kỷ 20,21 nầy.
Thông tin Khoa học và Công nghệ (3)1997, vietsciences 09.2008
Tham khảo
- Encyclopaedia Universalis 10, 266; 13,
561; 19, 977; 20, 1034
- La Recherche 241 (1992) 288; 261 (1994)
90; 268 (1994) 946; 291 (1996) 30
1- P.S. Appukuttan, D. Basu, Four identical subnits in
jack fruit seed agglutinin offer only two saccharide binding sites, FEBS
Let.r (2)180 (1985) 331-4
2- M.C. Roque-Barreira, A. Campos-Neto, Jacalin: an
IgA-binding lectin, J. Immunol. (3)134 (1985)
1740-3
3- P. Aucouturier, E. Mihaesco, C. Mihaesco, J.L.
Preud'homme, Characterization of jacalin, the human IgA and IgD binding
lectin from jackfruit, Mol. Immunol. (5)24 (1987)
503-11
4- H. Kondoh, K. Kobayashi, H. Hagiwara, A simple
procedure for the isolation of human secretory IgA of IgA1 and IgA2 subclass by
a jackfruit lectin, jacalin, affinity chromatography, Mol.
Immunol. (11)24 (1987) 1219-22
5- H. Hagiwara, D. Collet-Cassart, K. Kobayashi, J.P.
Vaerman, Jacalin: isolation, caracterization, and influence of various
factors on its interaction with human IgA1, as assessed by precipitation and
latex agglutination, Mol. Immunol. (1)25 (1988)
69-83
6- P. Aucouturier, F. Duarte, E. Mihaescao, N. Pineau, J.L.
Preud'homme, Jacalin, the human IgA1 and IgD precipitation lectin, also
binds IgA2 of both allotypes, J. Immunol. Methods (2)113 (1988)
185-91
7- B.P. Thuan, A.D. Strosberg, J.Hoebeke, Purification
and structural properties of the lectins from Tachypleus tridentatus, Lectins-Biol.
Biochem, Clin. Biochem. (6) (1988) 405-10
8- N.Q. Khang, A.D. Strosberg, J. Hoebeke, Purification
and characterization of the Artocarpus tonkinensis lectin, Lectins-Biol.
Biochem., Clin. Biochem. (6) (1988) 341-8
9- K. Kobayashi, H. Kondoh, K. Hagiwara, J.P. Vaerman, Jacalin
: chaos in its immmunoglobulin-binding specificity, Mol. Immunol. (10)25 (1988)
1037-8
10- N. Pineau, J.C. Brugier, J.P. Breux, B. Becq-Giraudon, J.M.
Descamps, P. Aucouturier, J.L. Preud'homme, Stimulation of peripheral
blood lymphocytes of HIV infected patients by jacalin, a lectin mitogenic for
human CD4+ lymphocytes, AIDS 3 (1989) 659-63
11- P. Aucouturier, N. Pineau, J.C. Brugier, E. Mihaesco, F.
Duarte, F. Skvaril, J.L. Prud'homme, Jacalin: a new labaratiry tool in
immunochemistry and cellular immunology, J. Clin. Labor. Anal. (4)3 (1989)
244-51
12- N.Q. Khang, J.L. Guillaume, J. Hoebeke, A blood
group A specific lectin from the seed of Crotalaria striata, Biochem.
Biophys. Acta 1033 (1990) 210-1
13- N. Pineau, P. Aucouturier, J.C. Brugier, J.L.
Preud'homme, Jacalin : a lectin mitogenic for human CD4 T lymphocytes, Clin.
Exp. Immmunol. 80 (1990) 420-5
14- J. Favero, J. Dornand, P. Corbeau, C. Devaux, M. Nicolas,
J.P. Liautard, Medicinal use of jacalin and fragments thereof in
particular for treating HIV virus-related diseases, PCT Int. Appl. WO
92 22,574 (1992) 27 tr.
15- D.N. Lien, I.M. Cesari, I. Bouty, D. Bout, J. Hoebeke, Immunocapture
assay for quantification of human IgA antibodies to parasite antigenic enzymes.
Application with the alkaline phosphatase of Shistosoma mansoni, J.
Immunoassay (4)13 (1992) 521-36
16- J. Favero, P. Corbeau, M. Nicolas, M. Benkirane, G. Travé,
J.F.P. Dixon, P. Aucouturier, S. Rasheed; J.W. Parker, J.P. Liautard, C.
Devaux, J. Dornand, Inhibition of human immunodefiency virus infection
by the lectin jacalin and by a derived peptide showing a sequence similarly
with gp120, Eur. J. Immunol. 23 (1993) 179-85
17- D.N. Lien, M. Brillard, J. Hoebeke, The α- and
β-subnits of the jacalins are cleavage products from a 17-kDa precursor,
Biochem. Biophs. Acta 1156 (1993) 219-22
18- D.N. Lien, M. Brillard, J. Hoebeke, P. Aucouturier, A
new α chain of jacalin from jack-fruit seeds of two wild species, C.R.
Acad. Sci.III (2)318 (1995) 167-72
19- Y. Wu, D. Zhou, Research on Artocarpus lingnanensis
binding proteins of human serum or colostrum, Miannyixue Zazhi (4)11 (1995)
235-7
20- F. Blasco, D. N. Lien, P. Aucouturier, J.L. Preud'homme, A.
Barra, Mitogenic activity of new lectins from seeds of wild Artocarpus
species from Vietnam, C.R. Acad. Sci.III 319 (1996)
405-9
21- S. Suresh, P. Rani, P. Geetha, J. Pratap, J. Venkatesh, R.
Sankaranarayanan, A. Surolia, M. Vijayan, Homology between jacalin and
artocarpin from jackfruit (Artocarpus integrifolia) seeds. Partial sequence and
preliminary crystallographic studies of artocarpin, Acta Cryst.D Biol.
Cryst. (4)D53 (1997) 469-71
22- S. Kabir, Jacalin: a jackfruit (Artocarpus
heterophyllus) seed-derivated lectin of versatile applications in
immunobiological research, J. Immunol. Methods (2)212 (1998)
193-211
23- A.M. Kerr, L.M. Loomes, B.C. Bonner, A.M. Hutchings, B.W.
Bernard, Purification and characterization of human serum secretory
IgA1 and IgA2 using jacalin, Methods Mol. Med. 9 (1998)
265-78
24- J.V. Pratap, A.A. Jeyaprakash, P.G. Rani, K. Sekar, A.
Surolia, M. Vijayan, Crystal structures of artocarpin, a Moraceae
lectin with mannose specificity, and its complex with methy-α-D-mannose:
implications to the generation of carbohydrate specificity, J. Mol.
Biol. (2)317 (2002) 237-47.
15- Khế chua khế ngọt
Khế chua nấu với óc nhồi,
Cái nước nó xám nhưng mùi nó
ngon.Ca dao
Ngày xưa có hai anh em hưởng
gia tài cha mẹ, người anh giành hết tài sản, chỉ để lại cho em một ngôi nhà
tranh và một cây khế. Đến mùa trái chín, một con chim phượng hoàng đến ăn hết
trái. Thấy người em buồn rầu, chim bảo: Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba
gang, mang đi mà đựng. Rồi một hôm chim chở người em đến một hòn đảo đầy vàng
bạc, đá quý, mặc sức lượm đầy túi đem về trở nên giàu có. Người anh thấy vậy,
đổi nhà với em rồi cũng được chim chở đi lấy vàng, nhưng tham lam anh lượm quá
nhiều, mang túi quá nặng nên trên đường về bị rơi xuống biển... Có một biến
dị của đoạn kết là chim phượng hoàng không chở đi lấy vàng mà chỉ nhả ra vàng
bạc. Đến lượt người anh thì chẳng có chim phượng hoàng mà là một bầy quạ rủ
nhau lại kêu "xấu hổ! xấu hổ!". Dù với kết luận nào, chuyện cổ tích
nầy thật là một bài học luân lý quý báu về biển lận, tham lam (1).
Người ta còn kể chuyện một người được bạn cho mượn vàng nhưng
khi bạn lại thăm, tưởng bạn đòi nợ liền cùng vợ lập tâm giết đi và đem xác chôn
dưới gốc cây khế. Khi trái chín, có một quả to, người vợ hái ăn, thụ thai và đẻ
ra một đứa con trai khỏe mạnh, khôi ngô nhưng phải cái tật không biết nói. Thấy
hai vợ chồng buồn bực, một hôm đứa bé bật nói, đòi mời quan huyện qua, rồi khai
lại đầu đuôi câu chuyện. Quan cho đào gốc cây khế, tìm ra xác chết, liền phê án
trị tội hai vợ chồng. Bên phần đứa bé, tức là người bạn bị giết, khi ra đi vợ
mới có thai, bây giờ về hai mươi năm sau thì con đã có cháu, nên mới có câu cổ
ngữ (2).
Tham vàng, phụ nghĩa
cố nhân,
Oan hồn, hồn hiện,
trời gần chẳng xa.
Sinh con rồi mới sinh
cha,
Sinh cháu giữ nhà rồi
mới sinh ông.
Khế
là một cây có nhiều trong các vườn nước ta. Trái khế chín thơm ngọt, ăn ngon
nhưng cũng có loại chua dùng trong bếp núc. Trái khế xanh là phần rau sống để
ăn với thịt phay, dùng để nấu canh lươn, canh hến, trong món cua giấm, kho cá
để giảm mùi tanh, tăng khẩu vị, nấu ốc nhồi với cà chua, thìa là (HTKC). Khế
cũng được ngâm muối và ngâm nước đường thành khế muối ăn thay chanh
muối, hay ngâm nước mắm đường pha chút gừng, ăn vừa mặn, ngọt, chua lại hơi cay
cay, gọi là khế giầm (BKT). Trong bửa ăn khế còn góp phần thẩm
mỹ. Hãy đọc một tác giả biết ngắm trước khi ăn: "Ngày nay, món tôm chua ăn
với thịt ba chỉ được phổ biến khắp nơi nhưng mỗi nơi làm một khác. Có nơi trộn
thêm nhiều đu đủ, con tôm khô và hơi mặn, màu sắc kém đẹp trong khi tôm chua
Huế phải là loại tôm vừa, không quá nhỏ, không thêm nhiều phụ gia, khi ăn nghe
thoảng mùi riềng, tỏi; thêm vào chút đường, con tôm đỏ ong và bóng mượt rất bắt
màu bên lá rau húng màu lục, lát chuối màu trắng, lát khế chua màu vàng"(3).
Theo Đông y, khế vị chua ngọt, chủ trị phong nhiệt (nóng sốt),
sinh tân dịch, chỉ khát (chữa khát). Lá khế giã nhỏ chữa mẩn ngứa, lở sơn, lở
loét, sưng đau do dị ứng (ĐTL). Nước trái khế uống mát, chữa bệnh scorbut. Bên
Cao Mên, rễ cây khế phối hợp với cây kleng pear hay khleng
kraham và vỏ cây băng lăng Lagerstroemia floribunda Jack.
với gạo làm thuốc chữa ngộ độc, đặc biệt do mã tiền. Trong nhân dân, lá, hoa
hay cành khế được cho vào nước nấu sôi xông và tắm; lá đã nấu rồi dùng xát lên
nơi lở loét, thường chỉ điều trị 3-4 ngày là khỏi (ĐTL). Dược sĩ Bùi Kim Tùng
cho biết một tu sĩ bảo nước sắc hoa khế làm giảm cholesterol-huyết rất hay, đã
kiểm tra định kỳ và thấy kết quả thu lượm được còn hạn chế nhưng cách dùng
thuốc an toàn.
Cây khế còn được gọi khế ta, khế cơm, khế chua, dương đào. Vì trái
khi cắt ngang có năm cạnh nên Trung Quốc có tên ngũ lãng tử, ngũ liêm tử (liễm
là thu lại, tụ lại), còn Hoa Kỳ thì gọi starfruit (trái sao)
hay golden star (sao vàng). Cao 5-6 thước, cây khế mọc khắp
nơi, từ Đông Nam Á qua Mỹ châu. Mang tên khoa học Averrhoa
carambola L., nó thuộc họ Chua me đất hay Me đất Oxalidaceae.
Có hai Averrhoa khác nhau: A. microphella Tard.
(khế lá nhỏ) và A. bilimbi (khế tàu, khế ngọt). Còn có cây khế
rừng hay khế cháy, cây quai xanh Rourea microphylla Planch,
khác giống, thuộc họ Khế rừng Connaraceae, dùng làm thuốc bổ cho
phụ nữ sau khi sinh nở, chữa đi tiểu vàng, đỏ, đái láu, mụn nhọt (ĐTL, BKT).
Trái khế chín ngọt là nhờ những chất đường: fructose, glucose,
sucrose, số lượng ít thay đổi nếu sau khi hái được giữ ở 5 độ. Hương thơm tỏa
ra là nhờ chứa đựng một số hóa chất dễ bốc hơi. Trong số nầy gần 200 chất đã
được xác định cấu trúc: bên cạnh số lớn ester, ceton, lacton, còn có methyl
anthranilat, methyl benzoat, nhiều carotenoid (22 microg/g) cùng các chất phát
sinh ra chúng. Trong số các carotenoid, những caroten, lutein, phytofluen,
ionon, theaspiran, cryptoflavin, cryptoxanthin, cryptochrom, mutatoxanthin,
megastigmatrien, megastigmadienon, megastimatrienon, megastigmatrienol là những
chất sắc nhuộm vỏ trái khế màu vàng tươi dịu. Các chất carotenoid nầy biến hóa
ra những chất thơm methyl heptadienon, dimethyl undecadienon, geranyl aceton,
bêta-ionon, đặc biệt từ bêta-caroten (623 microg/100g), damascenon đã tìm ra
trong trái nho, táo tây, cà chua. Đến lượt ionon biến hóa ra thành dehydro
ionon, ionol, hydroxy ionol. Đặc biệt trong các chất thơm có 4 chất đồng vị
megastigmatrien, thơm mùi hường và ngấy dâu, 2 chất đồng vị megastigmadienon
thơm mùi hoa, đều từ ionol mà lại. Đến lượt 4 chất đồng vị megastigmatrien cũng
không ổn định và bị acid xúc tác trong môi trường dưỡng khí để hóa thành
trimethyl dihydro và trimethyl tetrahydro naphtalen. Các nhà khảo cứu nhận thấy
những carotenoid trong cây khế tương tự với những carotenoid trong
cây lạc tiên Passiflora edulis Sims.
Hương thơm của trái khế lẽ tất nhiên quyến rũ nhiều sâu bọ,
trong số nầy được bắt gặp nhiều nhất là Anastrepha suspensa Loew., Dacus
dorsalis Hendel, Bactrocera dorsalis Hendel bên
cạnh D. umbrosus, D. cucurbitae, Pseudomonas syringae, Eucosma
notanthes Meyrich.Khi cây khế bị sâu A. suspensa phá
hoại thì hiệu nghiệm nhất là dùng thuốc methyl bromid. Chất methyl eugenol bắt
sâu đực D. dorsalis rất hữu hiệu. D. umbrosus cũng
được hấp dẫn nhưng thuốc ít có hiệu lực với D. cucurbitae.
Trong khế có nhiều acid. Loại có ích cho ta là ascorbic acid tức
vitamin C (22-30mg/100g)(6). Ta hiểu ngay tại sao khế được dùng để
chữa bệnh scorbut tức là bệnh thiếu vitamin C: cơ thể suy yếu, khớp tay chân
đau, nướu răng, nội tạng chảy máu,… Trong trái khế còn có protein (0,4-2,7g/
100g), nhiều amin acid như alanin, glycin, serin, hydroprolin (5),
những aspartic và glutamic acid; oxalic acid (0,08-0,73g/100g) (7) dưới
dạng oxalat (8); các acid mỡ như palmitic, oleic,
linoleic, linolenic, stearic acid (4). Những flavonoid như
lupeol, sitosterol trong vỏ rutin, quercetin glucosid trong hoa, ionon glucosid
trong nước ép, dihydro abscisis alcool cùng hexanal, hexenol, hexanol và một số
rượu terpen như terpinenol, terpinol, nerol, geraniol, linalool cũng đã được
xác định. Cyanidin glucosid đã được tìm ra trong cả khế A.
carambola và A. bilimbi.Nhiều loại enzym xúc tác những
phản ứng biến hóa trong khế đã đuợc chiết xuất và tinh lọc: amylase, catalase,
invertase, peroxidase, pectin esterase, polyphenoloxidase và nhất là
polygalacturonase tăng gia với độ chín của trái. Nhiều khoáng chất, kim loại trong
trái khế : N, P, K, Fe, Mn, Zn, Cu đã được đo lường cặn kẽ để phác họa một
chương trình bón cây (11). Ngày nay, để lấy giống khế, kỹ thuật
cấy mô được thực hiện hoặc từ lá mầm (10) hoặc từ rễ
cây (8). Một công trình khảo cứu Việt Nam cho biết trong lá khế,
ngoài flavonoid, còn có saponosid, tannin, acid hữu cơ. Những saponosid và
flavonoid chiết xuất với rượu 90 độ có tác dụng chống vi khuẩn Gram dương nhưng
vô hiệu đối với các vi khuẩn Gram âm và Candida albicans (12).
Với tính chất dược lý nầy, ta hiểu vì sao nhân dân cho lá khế vào nước tám để
chữa lở loét, mẩn ngứa,...
Những năm gấn đây, khảo cứu về những tính chất dược liệu và áp
dụng khếđược chú trọng nhiều. Phần chiết với rượu có những tính chất hạ nhiệt,
giảm đau, chống viêm, chống co giật, chống vi khuẩn (20), đặc
biệt trong số các chất dễ bốc hơi (19), hạđường trong máu (22),
giảm cholesterol (24), đồng thời tăng gia thớ sợi trong đố
ăn (23). Tính chất chống oxy hóa có nhiều tương liên với những
phenol (17) và proanthocyanidin (21) hơn
là với những flavonoid (22). Dù sao, khế có tính chất nầy mạnh
hơn xoài, chuối nhưng yếu hơn đu đủ, thơm, cam quật,… (13).
Phần chiết lá với nước hay rượu được dùng để làm đồăn bổ sức khoẻ chứa đựng
những chất ức chế testosteron-5-reductase, chống androgen hay làm thuốc xức
tóc (15), bảo vệ da chống già (14). Cũng nên
biết là trái khế có những chất độc thần kinh, chưa xác định được cấu trúc,
tương đối nặng cho những bệnh nhân có urea, có thể dẫn đến chết, phải chữa với
bằng thấm tách máu (haemodialysis) hàng ngày (18). Nguyên do có
thể từ oxalat mà lại (16).
Tôi còn nhớ hôm nhà tôi về thăm quê chồng lần đầu tiên, tôi đưa
nàng viếng chùa Từ Hiếu ở Huế, tĩnh mịch trong rừng thông vi vút mà tôi từng
quen thuộc thời trẻ tuổi hay lại cắm trại. Giữa sân chùa có cây khế bách niên
vững chắc, nhiều trái khế chín vàng mượt lóng lánh thật đẹp giữa cành lá xanh
sum suê. Thấy nhà tôi mãi ngắm nghía, một vị sư đề nghị biếu nàng một trái. Cả
nàng lẫn tôi lưỡng lự vì nghĩ trái khế mỹ miều biết bao trong môi trường thiên
nhiên, lấy nó ra ngoài liệu còn có giữ vẻ đẹp kia không. Hái nó thì thật là
uổng. Nhưng sư thầy cố nài, bảo còn có những trái khác, cây khác. Miễn cưỡng
nhận lời, tôi xin phép thầy được chụp một cái ảnh trước khi hái trái khế và cẩn
thận trao lại cho nhà tôi. Ngày nay, mỗi lần nhìn lại cái ảnh ấy, hương vịđậm
đà của trái khế lại hiện ra, ngọt ngào thơm phức, đưa tôi về nơi miền quê thơ
ấu. Và làm sao không xúc động được khi nghe ca sĩ Trung Đức đầm ấm thổn thức
qua những câu đầy tình thương trong bài hát Quê hương của Giáp
Văn Thạch - Đỗ Trung Quân:
Quê hương là chùm khế
ngọt
Cho con trèo hái mỗi
ngày...
Thông tin Khoa học và Công nghệ 2 (32) 2001, khoahoc.net 4.9.2008
Tham khảo:
1- Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, nxb
Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh 1993, 135-40
2- Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Truyện cổ nước Nam,
quyển thượng: Người ta, Csxb Sudasie in lại, Paris 1994,
28-31
3- Tô Kiều Ngân, Chuyện Huế ít người biết trong Người
Xa Huế-Nhớ Huế2, Tp Hồ Chí Minh 2000, 35
4- H.E. Nordby, N.T. Hall, Lilip markers in
chemotaxonomy of tropical fruits : preliminary studies with carambola and
loquat, Proc. Fla. State Hortic. Soc. 92 (1979)
298-300
5- N.T. Hall, J.M. Smoot, R.J.,Jr. Knight, Protein and
amino acid compositions of ten tropical fruits by gaz-liquid chromatography, J.
Agric. Food. Chem. (6) 28 (1980) 1217-21
6- M.R. Baqar, Vitamin C content of some Papua Naw
Guinean fruits, J. Food Technol (4) 15 (1980)
459-61
7- C.W.,III Wilson, P.E. Shaw, R.J.,Jr. Knight, Analysis
of oxalic acid in carambola (Averrhoa carambola L.) and spinach by
high-performance liquid chromatography, J. Agric. Food. Chem. (6) 30 (1982)
1106-8
8- D.D. Kaushik, Oxalic acid-hydrazinederivative :
synthetic and in plants, Comp. Physiol. Ecol. (1) 8 (1983)
80
9- A.S. Kantharajah, G.D. Richards, W.A. Dodd, Roots as
a source of explants for the successful micropropagation of carambola (Averrhoa
carambola L.), Sci. Hortic. (Amsterdam) (1-2) 51 (1992)
26-7
10- M.N. Amin, M.A. Razzaqua, Regeration of Averrhoa carambola
plants in vitro from callus cultures of seedling explants, J. Hort.
Sci. (4) 68 (1993) 551-6
11- P.K. Chattopadhyay, A. Ghosh, Changes in mineral
composition inflorescence and developing carambola fruit, Agric.
Sci. Dig. (3-4) 14 (1994) 159-61
12- Lai Quang Long, Vo Van Dien, Nguyen Van Khanh, Preliminary
results on study on the Averrhoa carambola L. leaves extracts, Tap
chi Duoc hoc (9) (1996) 14-6
13- M. A. Murcia, A.M. Jimenez, M. Martinez-Tome, Evaluation
of the antioxydant properties if Mediterranean and tropical fruits compared
with common food additives, J. Food Prot.(12) 64 (2001)
2037-46
14- Y. Ishida, R. Takagaki, N. Kishida, N. Oe, Z.
kawashima, Skin-conditionong Averrhoa carambola extracts and its
applications to cosmetics, foods, and beverages, Jpn. Kokai Tokkyo
Koho JP 2002226323 (2002) 14 tr.
15- Y. Ishida, R. Takagaki, N. Kishida, Z. Kawashima, Averrhoa
carambola (star fruit) leaf extract and its applications, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 200241296 (2002) 10 tr.
16- C.L. Chen, K.J. Chou, J.S. Wang, J.H. Yeh, H.C. Fang, H.M.
Chung, Neurotoxic effects of carambola in rats: the role of oxalate, J.
Formosan Med. Assoc. (5) 101 (2002)337-41
17- P. Luximon-Ramma, T. Bahorun, A. Crozier, Antioxidant
actions and phenolic and vitamin C of common Mauritian exotic fruits, J.
Sci. Food Agric.(5) 83 (2003) 496-502
18- N.M. Moyses, J.A. Cardeal da Costa, N. Garci âCairasco, J.
Coutinho Netto, B. Nakagawa, M. Dantas, Intoxication by star (Averrhoa
carambola) in 32 uremic patients: treatmant and outcome, Nephr.
Dialysis, Transp.(1) 18 (2003) 120-5
19- T.S. El Alfy, S.H. Tadros, T.A. Ibrahim, A. A. Sleem, Volatile
constituents, nutritive value and bioactivity of the pericarp of Averrhoa
carambola L. fruits grow in Egypt, Bull. Fac. Phar. (Cairo Univ.) (2) 42 (2004)
20524
20- S.H. Tadros, A.A. Sleem, Pharmacognostical and
biological study of the leaf of Averrhoa carambola L. grown in Egypt, Bull.
Fac. Phar. (Cairo Univ.) (2) 42 (2004) 225-46
21- G. Shui, L.P. Leong, Analysis of polyphenolic
antioxydants in star fruit liquid chromatography and mass spectrometry, J
. Chrom., A (1-2) 1022 (2004) 67-75
22- C.F. Chau, C.H. Chen, C.Y. Lin, Insoluble fiber-rich
fractions derived from Averrhoa carambola: hypoglycemic effects determined by
in vitro methods, Lebensm.-Wissens. Techn.(3) 37 (2004)
331-5
23- C.F. Chau, C.H. Chen, M.H. Lee, Characterization and
physicochemical properties of some potental fibres from Averrhoa carambola, Nahrung (1) 48 (2004)
43-6
24- C.F. Chau, C.H. Chen, T.Y. Wang, Effects of a novel
pomace fiber on lipid and cholesterol metabolism in the hamster, Nutr.
Res. (5) 24 (2004) 337-45.
16- Làng ớt Espelette ở xứ
Basque
Ớt nào là ớt chẳng cay,
Gái nào là gái chẳng hay ghen
chồng.Vôi nào là vôi chẳng nồngGái nào là gái có chồng chẳng
ghen.Ca dao
Ở miền nam nước Pháp, Xứ
Basque nằm dài dưới chân dãy núi Pyrénées phía Đại Tây Dương, quanh thung lũng
sông Adour, nguyên từ ba vùng Soule, Labourd, hạ-Navarre, trong bốn thế kỷ
XIV-XVII dần dần bị nước Pháp láng diềng thôn tính. Ngày nay, thuộc tỉnh
Pyrénées-Atlantiques, Xứ Basque là một vùng chuyên về chăn nuôi trồng trọt ở
miền núi, đánh cá (Saint-Jean-de-Luz), kỹ nghệ, thương mãi (Bayonne), du lịch
(Biarritz) ở miền biển. Người Basque không chỉ có trên đất Pháp, một phần lớn
sống bên Tây Ban Nha, bên kia dãy Pyrénées. Họ cùng nói một thứ tiếng đặc biệt
không giống một ngôn ngữ nào kề cạnh. Họ rất nổi tiếng với thuật đấu bò
(tauromachie), đánh bóng cầu (pelote basque), những ca sĩ có giọng nam cao
(ténor) như Louis Mariano, Rudi Hirigoyen,... và cái mũ nồi béret vượt trùng
dương qua tồn tại trên đất nước Việt Nam ta.
Xứ Basque ngày nay còn nổi tiếng với một gia vị quen thuộc của
ta là ớt ở làng ớt cạnh Bayonne. Ai đi ngang qua Espelette (tiếng basque :
Ezpeletako), không sao quên được những dãy nhà sơn đỏ suốt thị trấn trang
hoàng trên tường, ngoài hiên, từ trên đến dưới, những chuỗi ớt khô đỏ thắm, ở
quán ăn, khách sạn, cũng như ở nhà bưu điện, tòa đốc lý. Nhà văn Pierre Loti đã
không ngớt ngắm nhìn trong cuốn Ratmuncho (1897): Nhà cửa nổi bật đây
đó từ các rặng cây. Khắp nơi, trên các hành lang bằng gỗ, những quả bí ngô
vàng, những bó đậu hồng nằm phơi ; khắp nơi, trên tường, những chuỗi ớt đỏ xếp
tầng như những tràng san hô đẹp. Tất cả những thức nầy thu lượm từ mảnh đất
nuôi dưỡng thời xưa, theo cách thức ngàn năm, dự kiến những tháng tối trời,
nhiệt độ đã rời gót. Đặc biệt vào dịp mùa tháng chín tháng mười, thị
trấn còn náo động hơn với chuyện mua bán ớt. Ngoài đường những chậu trồng cây
ớt, trái đã chín đỏ hay còn tươi xanh trang hoàng các lối đi. Trong quán ăn, cà
phê, những chuỗi ớt tươi đỏ được treo phơi ngay từ trần nhà, choáng tất cả
khoảng trống còn lại. Trong các tiệm buôn, nhà hàng, người mua kẻ bán tấp nập
như ngày hội. Ngày hội nầy được chính thức tổ chức cuối tháng mười. Vào lúc ấy
dân làng hai ngàn người phồng lên gấp mười...
Tục truyền một chiều thu vàng, một cụ già mang bị lom khom bước
vào làng. Ông đói bụng nhưng không có đủ tiền trả bửa ăn ở quán. Ông nghĩ có đủ
lòng tự tôn để không vào nhà thờ xin miếng bánh. Khiêm nhường trong thân phận,
ông không dám vào lâu đài bá tước đòi được mời ăn. Lững thững trên đường ra
làng, ông thấy một cái nhà nhỏ, không có gì đặc biệt, nhưng hai ông bà già đứng
ngoài cửa cất tiếng chào. Ông liền mạnh dạn xin ngủ nhờ trên đống rơm. Khi ông
xin một bát cháo thì hai ông bà lắt đầu buồn rầu bảo lữa đã tắt, chỉ còn nồi
cháo lạnh. Ông liền nói không can gì, cứ xin cho. Xong, ông rút từ bị ra một
gói bột đỏ, cho vào cháo, tức khắc cháo nóng lên thơm phưng phứt và cả ba người
vui vẻ ngon ăn luôn hết nồi. Chuyện còn kể hai ông bà chủ nhà đêm hôm ấy không
ngủ nhiều nhưng chưa nghe ai nói đến tính chất kích dục của bột ớt. Dù sao,
sáng hôm sau, trước khi từ biệt, cụ già cám ơn cặp vợ chồng không chỉ bát cháo
mà còn tính hiếu khách của chủ nhà. Và cụ để lại vài hột giống để, như cụ nói,
cháo luôn được nóng để sưởi tấm lòng. Cụ chỉ dẫn cách trồng dưới nắng mặt trời,
cách hái vào cuối hè và cách phơi trong những ngày mùa thu. Mấy năm sau, khi cụ
đi ngang lại qua làng, mọi vườn tược đều sum sê cây ớt, nhà trong nhà ngoài đều
treo nhan nhản những chuỗi ớt đỏ, ông bá tước phải thuê thêm người làm vườn và
vị giám mục trong chiếc áo đỏ hoe khoe từ ngày khách ghé qua, làng đã thịnh
vượng lên ... vì cặp vợ chồng hào hiệp đã chia sẻ bí mật cây ớt với mọi người
trong làng.
Hiện chưa biết rõ nhưng người ta tin cây ớt trồng cách đây
7000-9000 năm ở Nam Mỹ hay Trung Mỹ, được đem qua Âu châu thế kỷ 15, sau cuộc
hành trình của Christophe Colomb, và được trồng ở Espelette vào khoảng 1650. Người
Aztèques gọi nó là chili hay chile, chế biến,
chọn lọc từ cây gốc nguyên thủy piquin, trộn với ca cao làm thức
uống bổ sức. Họ kê ớt thành ba loại: cay ít, cay nhiều và cay đến nỗi phải bỏ
chạy (!) hay theo thứ tự cay (1-10): Cholicero (1-3), Anaheim (1-4), Guindila (3), Ancho,
Mulato, Nour (3-5), Cubanelle (4), Chipotle,
Guajillo, Jalapeno, Morita (5-6), Fresno (5-7), Furila (7), Lombok,
Chile de ârbol (8). Người Pháp gọi nó là piment từ
nguyên gốc La tinh pimentum nghĩa là chất sắc. Cũng còn có
tên poivron phát xuất từ poivre-long nghĩa là
hột tiêu dài vì như tuồng Christophe Colomb lầm ớt với tiêu đỏ và ngày nay danh
từ poivron chỉ định một loại ớt khác không cay. Bột ớt, thật
ra không cay lắm (trong bảng kê độ cay Scoville, ớt đứng ngang hàng với tiêu ở
phần dưới) đến đúng lúc để thế bột tiêu rất đắc nhưng cần thiết trong các món
ăn. Thuộc về một trong các loài Capsicum (C. frutescens, C.
pubescens, C. baccatum, C. chinense,...) họ Cà Solanaceae,
cây ớt ở Espelette là C. annuum gọi Gorria, ngày
nay mang tên Ớt Espelette (Piment d'Espelette, Espektako
Biperra) theo cách kê chính thức những thức ăn uống ở Pháp theo nguồn gốc
AOC của viện INAO từ năm 2000. Chỉ có ớt mười xã có quyền mang tên này là
Ainhoa, Cambo-les-Bains, Espelette, Halsou, Itxassou, Jatxou, Larressore,
Saint-Pée-sur-Nivelle, Souraïde và Ustaritz (55 vườn, 400.000 cây) họp lại
thành nghiệp đoàn. Ớt chín màu đỏ phải được trình bày theo ba thể thức:
- Ớt trái tươi sẵn sàng để chế biến, không có chút màu xanh của
trái chưa chín, hình thức đều đặn, độ dài giữa 7 và 14cm không kể cọng;
- Ớt trái cột trên dây từng 2,3 hay 4 trái, nhiều dây họp lại
thành thừng gồm có 20, 30, 40, 60, 80 hay 100 trái đồng đều;
- Ớt bột, màu từ đỏ cam đến đỏ đậm, hạt bột không được quá 5mm,
độ ẩm phải dưới 12%.
Bột ớt còn phải cống hiến một cường độ khứu giác mà hương thơm
nổi trội là mùi trái cây, mùi trái nướng và/ hay mùi cỏ khô cộng thêm tính cay
nồng nhưng đừng nóng bổng dù giữ lâu hay mau trong miệng, miễn là dần dần đưa
vào vòm miệng một cảm giác nồng ấm.
Ở Hungari, bột ớt phơi thật khô, chứa rất ít nước thỉ được
gọi paprika từ nguyên gốc tiếng Phạn pipari nghĩa
là tiêu. Có nhiều hạng paprika, thường được sắp cay ít cay nhiều
theo màu sắc: đỏ đậm, đỏ lạt, hồng, vàng,... Ở Cận Đông và Bắc Phi, ớt bột
được nghiền với dầu, tỏi, ngò, rau thơm cùng nhiều rau bản xứ khác để làm thành
một gia vị gọi là la harissa. Gia vị chilli hay chile bên
nước Chili là ớt trộn với tỏi, tiêu, đinh hương, thìa là, kinh giới ô. Bên Mexico,
lê tàu (avocat) nghiền thêm hành, chanh, cà chua và ớt thành món guacamole tức aguacate
mole. Ở Louisane bên Hoa Kỳ thường được sử dụng một nước chấm mang
tên tabasco: đem ớt nghiền nhỏ cho vào thùng làm bằng gỗ sồi
uớp muối ba năm; xong khi thấy màu sắc và mùi vị đúng mức thì lấy ra ngâm với
dấm bốn tuần, lọc và cho vào chai. Ở Ấn Độ, ớt cùng với tỏi và gừng cồng hiến
chất cay cho ca ry. Ở Hàn Quốc, dưa kim chi chế biến từ bắp
cải thêm hành, tỏi, gừng, ớt và muối hay tép mặn sawoojub giữ
vài ngày trước khi dùng. Bên các đảo Antlles một loại ớt không cay mang một tên
kỳ lạ: piment végétarien (ớt chay)! Ở nước ta có nhiều loại
ớt (C. frutescens): ớt cà (var. grossum), trái to vàng hay
đỏ, tương đương với poivron của Pháp, không cay;
ớt hiểm (var. microcarpum), ớt chỉ thiên (var. fascilatum), trái
nhỏ, mọc chỉ thẳng lên, rất cay; ớt tím (var. conoides), màu tím; ớt
sừng trâu (var. acuminatum), trái nhọn, rất cay; ớt dài (var. longum)
màu vàng dùng làm kiểng ; nhiều nơi còn có ớt bị, trái to, màu đỏ hay vàng; ớt
mọi cũng cay không kém. Trên thế giới có khoảng 200 loại ớt.
Về mặt hóa học, ớt chứa vitamin C (nhiều hơn cả cam). Chính từ
ớt mà nhà hóa học Szent-Györgyi người Hungari đã chiết xuất sinh tố nầy và được
tặng thưởng giải Nobel năm 1937. Tuy nhiên, thường số lượng ớt được ăn rất ít,
đằng khác khi đem ớt nấu thì sinh tố mất đi. Ớt cay là vì chứa chất capsaicin
(một alcaloid), nhiều trong hột ớt, có tính chất làm chảy nước miếng (nước bọt)
và tác dụng lên dịch vị để giúp sự tiêu hóa. Nó có tác dụng làm nỡ giảng mạch
máu, làm giảm hạ huyết áp từ đó giảm hạ bệnh biến tim mạch. Nhờ có tính chất
kích thích adrenalin và noradrenalin (hai hormon), đốt cháy đường và mỡ, góp
phần vào nhiều loại thuốc chữa những chứng khó tiêu, lên men trong ruột, ỉa chảy,
bệnh lỵ, nôn mửa, thấp khớp, thống phong, tê liệt, viêm thanh quản, xuất huyết
tử cung, ho đột khởi như bệnh ho gà. Tính chất cay của ớt rất mạnh vì đem bỏ
vào 10.000.000 trọng lượng nước (1g trong 10m3 nước) vẫn còn cay! Ăn tươi, nó
là một thức ăn kích thích, giúp tiêu hóa đặc biệt những thức ăn có bột nhưng nó
cũng có khả năng gây sung huyết làm đỏ da. Khi ăn ớt quá cay thì nên ăn đường,
ăn cơm, ăn bánh mì, ăn yoghurt, tốt nhất là uống sửa, chứ uống nước chẳng ích
gì vì capsaicin không tan hòa trong nước. Bên nước ta, ai mà không biết tương
ớt. Và ở Huế môn bún bò làm sao ngon được nếu không có ớt cay. Khi vào cơ thể,
capsaicin khởi động một cơn đau từ đấy cho phát xuất chất endorphin (gần giống
morphin) gây ra một cảm giác thoải mái giải thích tại sao có người nghiện ớt.
Cây ớt chế biến capsaicin trong trái để tự bảo vệ, xua đuổi mọi súc vật, thế mà
chim chóc và nhất là con người lại thèm muốn, nghiện ngập!
Trong ớt còn có những chất chống oxy hóa như flavonoid
(luteolin, quercetin), alpha-tocopherol (một dạng vitamin E), peridoxin (tức
vitamin B6), vitamin K, những carotenoid là những chất sắc nhuộm màu trái ớt:
những chất capsanthin, capsorubin cống hiến màu đỏ, chất cucubiten màu vàng. Có
nhiều loại ớt chứa đựng chất anthocyanin nhuộm tím nhưng hiếm. Nên nói thêm là
hương thơm của ớt là từ tinh dầu mà lại. Để sử dụng bên ngoài, nó được dùng làm
thuốc xức chữa ngứa ngáy, chống những cơn đau thần kinh ngoại biên như đau
lưng, thống phong. Lá ớt nghiền nhuyễn có thể dùng thoa bóp chữa đụng giập, thấp
khớp. Lá ớt nghiền thành bột là một thuốc chống nhiễu, cho vào thức ăn có khả
năng trị dung kim. Ở nước ta, trong dân gian, lá ớt giả nhỏ được cho đáp vào
nơi bị thương, một hai lần mỗi ngày, thuờng mười lăm ba mươi phút hết đau, hai
ba giờ khỏi hẵn. Tuy nhiên một loại dầu-nhựa capsaicin có khả năng gây tức thì
sưng mắt, nghẹt thở nên đã được dùng làm bom chống biểu tình. Nạn nhân cảm thấy
mắt, họng, da bị cháy, nghẹn cổ, buồn nôn, chân tay rã rời, hết còn khả năng
phối hợp! Trong môn y khoa Ấn Độ cổ truyền, ớt được xem là một chất kích thích
vừa hệ thống tuần hoàn vừa cơ quan tiêu hóa nhưng cũng có khả năng làm trầm
trọng thêm những loại viêm, làm tăng gia nguy cơ bệnh biến tim mạch và khích
động biến loạn óc não ở những người yếu ớt khi sử dụng quá nhiều.
Ở làng ớt Espelette, ớt được dùng dưới đủ hình thức. Trước khi
nghiền thành bột , trái ớt phải sấy thật khô trong lò. Bột được trộn với dấm để
tăng gia khẩu vị trứng tráng hay xà lách. Bột cũng được trộn với dấm và muối
thành một nước chấm lỏng hay với nhiều gia vị thành một lớp đặc sệt để nêm thịt
nướng từng miếng hay xâu trên que xiên. Khi muốn nấu món ragu đặc biệt gọi
là axoa, họ trộn hành, tỏi, ớt, cho rán trong dầu mười phút, bỏ vào
thịt vai bê (có khi thịt bò) cắt nhỏ, trộn cho đều, thêm nước rồi cho hầm 45
phút đến một giờ, đừng quên dở nắp cho nước bay hơi khi sắp xong, sau cùng cho
vào khoai tây cắt nhỏ đã rán cùng một lúc với hành, tỏi, ớt. Để nấu món cá
tuyết than (colin) xào ớt thì cho tẩm bột những lát cá, thêm vào ít dầu rồi cho
vào chảo có sẵn hành, ớt, cà chua, nấu mười phút, cho thêm những khúc cá, nấu
thêm sáu phút nữa, đem dọn với cơm rang pilaf. Món cá ngừ (thon)
nấu ớt cũng rất đặc biệt vùng basque: cho vào lò đã nóng khoai tây cắt đều,
thêm muối, tiêu, hành đã ngâm nước nóng ba mươi phút, húng tây, rượu trắng, giữ
nóng nửa tiếng đồng hồ, xong cho vào lò những lát cá đã tẩm húng tây thái nhỏ
và ớt trên lớp khoai tây, giữ nóng hai mươi phút nữa; dọn ăn lúc đang còn
nóng. Người Basque cũng thích ăn gà xào ớt: cho rán trong chảo thịt gà với
dầu, xong cho vào cà rôt cắt nhỏ, tỏi tây phần trắng và xanh mềm, ánh tỏi cắt
đôi, hành tăm cắt đôi, húng tây,
thêm chút nước rồi hầm ba mươi phút, lấy thịt gà ra cho vào một chảo khác trong
ấy đã cho rán hành tăm, đun nóng năm, bảy phút, cho thêm mù tạt, ớt và kem tươi,
dùng nóng với cơm basmati. Ở Pháp món "poulet à la
basquaise" rất được ưa chuộng.
Bên cạnh vô số cách thức chế biến thức ăn có ớt, người Basque
thường thích cho ớt vào những sản phẩm của thịt heo (thịt lợn) như xúc xích,
dồi (boudin), dồi nhỏ (andouillette), pa tê gan, jambon, mù tạt, ketchup, ngay
cả vào những đồ ngọt như sô cô la, bọt sô cô la, mức, xi rô, vào cả trà, rượu
van, rượu khai vị sangria. Với Espelette, ớt thật là một gia vị
quốc hồn quốc túy của Xứ Basque.
Xô thành, sau hai lần viếng thăm Espelette 2009-2010
Tài liệu Phòng du lịch
thành phố Espelette
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển 5 (82)2010, khoahoc.net 6.1.2011
17- Lợi hại của rượu vang
Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền
không muaNguyễn Khuyến
Khoảng hai mươi năm về trước,
nhân về Sài Gòn, tôi được anh Trịnh Công Sơn mời lại nhà ăn cơm. Biết anh thích
uống rượu, tôi hỏi quanh tôi rượu gì ngon nhất để đem biếu và tôi mang lại hai
chai rượu trắng thượng hạng. Sau nầy mới biết tôi bị lố: nhạc sĩ họ Trịnh chỉ
uống rượu vang (Pháp: vin, Anh Mỹ: wine; Đức: wein), còn gọi rượu chát, khác
với rượu trắng, rượu đế, rượu bia, rượu cồn! Gần đây hơn, nhân đi ăn ở Đà Nẵng
với bạn quen, một anh đem đến một chai Bordeaux, hỏi tôi và nhà tôi quen sống ở
Pháp thì nghĩ gì về nhãn rượu nầy vì có ý định cho nhập cảng. Ngày nay thấy
rượu vang đã có mặt nhiều trong các quán ăn cho là sang vì phần đông người nước
ta còn đang quen uống bia rất phổ biến nhất là từ ngày có những nhãn hiệu ngoại
quốc chế biến ngay trong nước. So với rượu trắng của ta, rượu vang có phần nhẹ
hơn (11-13 độ) và có thể uống nhiều hơn, nhưng ở Pháp là nước có truyền thống
"rượu vang - phó mát" lâu đời thì câu hỏi là có thể uống bao nhiêu để
khỏi tai hại cho cơ thể. Người Mỹ thường nói đến một cái nghịch lý ở Pháp (paradoce
français, french paradox): nhiều vùng trong nước uống nhiều rượu vang mà
thức ăn lại chứa nhiều mỡ lại có ít bệnh tim mạch hơn các vùng khác. Người đặt
danh từ nghịch lý kia và cũng là người đưa ra giải thích trước tiên là Serge
Renaud (Viện Đại học Bordeaux): chính rượu đã ức chế sự kết tụ những tiểu cầu
có khả năng nghẽn tắc động mạch (xơ vữa động mạch) nguyên do các chứng bệnh tim
mạch. Bên phần giáo sư sinh vật học Joseph Kanner ở Israël thì tin những hợp
chất phenol nhờ các tính chất chống oxy hóa đã đóng một vai trò quan trọng vì
tác dụng thay đổi cấu tạo các lipoprotein LDL chuyên chở cholesterol.
Thức ăn của ta chứa đựng nhiều chất mỡ trong ấy có cholesterol
cần thiết cho cuộc vận dụng các tế bào. Số lượng cholesterol ấy chỉ chiếm 15%
tổng số, 85% còn lại được chế tạo trong cơ thể từ các chất mỡ khác gọi là
triglycerid. Cholesterol không tan hòa trong máu nên phải cần những lipoprotein
chuyên chở: các lipoprotein tỷ trọng lớn HDL chở cholesterol về gan đểđược hủy
hoại và loại thải vào mật (cholesterol tốt), các lipoprotein tỷ trọng nhỏ LDL
chở cholesterol lại các tế bào dùng làm thành màng hay nguyên liệu chế tạo
những phân tử như vitamin, steroid. Khi nào số lượng quá lớn, các cholesterol
LDL nầy (cholesterol xấu) tích tụ trong các mạch máu thành chất lắng dẫn đường
đến xơ vữa động mạch. Hơn nữa, những LDL có thể bị oxy hóa, biến dạng, không
còn được các tế bào nhìn nhận, hết còn bị hủy hoại và càng tích tụ thêm trong
các mạch máu. Cuộc oxy hóa nầy tăng gia với số lượng mỡ hấp thụ. Đằng khác, sự
hủy hoại các triglerid cho phát sinh những chất có tính chất oxy hóa như
malondialdehyd MDA góp phần vào cuộc oxy hóa hay thay đổi LDL. Ở trong bao tử,
chính những polyphenol của rượu ngăn cản MDA tác động oxy hóa LDL.
Muốn làm rượu vang, người ta ép trái nho cả vỏ và hột thành nước
hèm gồm có nước (85-90%) và những chất đường mà thành phần và số lượng phụ
thuộc gốc cây nho và miền đất trồng. Cho lên men nước hèm với những vi khuẩn và
nấm men, đường biến hóa thành khoảng một ngàn hóa chất mà chất nổi trội là
ethanol (7-10%), một phân tử nhỏ, độc vì gây xơ gan, ung thư, nhiễu loạn tâm
thần, có thể chuyển từ bụng mẹ qua bào thai, tỷ lệ phụ thuộc hàm lượng các chất
đường. Trong thời gian lên men còn được cấu tạo một số acid: tartric (0,2-0,5%
được gọi là acid của nho), malic, lactic (0,1-0,5%), succinic (0,5-1,5%),
acetic, oxalic, ascorbic (có mặt lúc ban đầu nhưng mất dần), citric (rất ít, có
khi không), 20 amin acid như trong cơ thể con người, những hợp chất nitơ
(0,2-0,4%),... chất glycerol cống hiến vị ngọt trong số những polyol, cùng
những những hợp chất phenol (0,01-0,5%) là những chất thơm tuy đã có sẵn trong
trái nho lại tăng thêm qua sự chuyển hóa của các nấm men. Những chất thơm nầy
tiếp tục tăng thêm sau nầy, qua quá trình thành thục trong thùng gỗ hay trong
chai. Trong rượu cũng có nhiều chất vô cơ: Ca, Mg, Na, Fe, P, đặc biệt muối K,
sulfat là những chất kích thích bài niệu.
Về mặt dược liệu, rượu chứa chút ít vitamin B, đặc biệt vitamin
P cũng cố màng huyết quản, chống xuất huyết và bệnh phù. Quan trọng trong rượu
van còn là những polyphenol, những chất chống oxy hóa mãnh liệt, có khả năng
ngăn chận cuộc cấu tạo những gốc tự do thường phá hoại các tế bào, hậu quả là
làm cho cơ thể chóng già. Trong các thức ăn có ít nhất cũng năm trăm chất
polyphenol. Trong rượu vang, polyphenol được chia làm hai loại: loại flavonoid
mang phân tử flavonol và loại không-flavonoid. Theo một công trình của Augustin
Scalbert ở Viện Quốc Gia khảo cứu Nông học INRA tại Chermont-Ferrand, trong mỗi
100ml, rượu đỏ chứa đựng polyphenol (107mg, 11 chất) mười lần nhiều hơn rươu
hồng (10mg, 6 chất) và rượu trắng/ sâm banh (10,4mg, 12 chất) vì trong quá
trình ngâm rượu hồng và trắng, vỏ trái và hột nho đã bị thải. Trong rượu đỏ, số
lượng flavonoid cũng nhiều hơn, đứng đầu là những flavonol (47mg/100ml) đặc
biệt gồm có delphinidin là chất sắc anthocyan (22mg/100ml) nhuộm đỏ rượu. Trong
số ít những chất không-flavonoid có những stilben mà nổi tiếng nhất là chất
resveratrol (3,42mg/100ml) một lúc đã được xem như là "chất bổ" của
rượu vì cũng là một chất chống oxy hóa, tất nhiên chống ung thư, ngăn cản những
gốc tự do tác dụng lên cơ thể đưa đến già nua.
Ngày nay, "chất bổ" này nói riêng, lợi hại nói chung
của rượu đang là một đề tài tranh luận. Một nhóm ở Viện Quốc gia Khảo cứu Y
khoa INSERM tin ở khả năng delphinidin trong các bệnh tim mạch vì đã xác định
được cơ chế tác dụng gây giãn mạch của nó: họ chứng minh trên chuột chất ấy
hoạt hóa một điểm nhận cảm thường khích thích sự cấu tạo ni tơ oxyd của một gốc
tự do gây giản mạch. Giả thuyết không được xác thực vì không chỉ có rượu chứa
đựng polyphenol: những chất nầy có mặt còn nhiều hơn (mg/ số polyphenol) trong
100g bột cacao (549/7), sô cô la đen (262/4), cà phê (215/5), trà xanh
(89/4),... Trong nước nho ép chỉ có 1mg 1 polyphenol, chứng minh nước nho ép
chỉ là nước đường. Đồng thời french paradox cũng hết còn có
giá trị. Một công trình khảo cứu ở Viện Đại học Wake Forest bên Hoa Kỳ thực
hiện trên 3000 người bắt đầu từ 75 tuổi cho biết uống mỗi ngày 1-2 ly rượu vang
giảm hạ 40% nguy cơ nhiễu loạn tri giác, chứng minh rượu có khả năng phòng ngừa
bệnh Alzheimer, tuy chưa biết rõ cơ chế tác dụng. Bác sĩ Luc Letennneur ở Viện
Sức khỏe, Dịch tể học và Phát triển ISPED, cho kết quả này không chính xác, vì
không cho biết nên uống ít hay uống nhiều và rượu sẽ không bao giờ trở nên một
môn thuốc. Người ta thường cho rượu gây béo phì. Nhìn kỹ, 100ml rượu vang tương
đương với 10g ethanol cống hiến 70 kcal, một ly rượu khai vị 25ml 60 kcal, một
lon bia 250ml 100 kcal,... đem calo vào cơ thể nhưng những calo nầy chuyển
hóa ra nhiệt năng chứ không được tích trữ, trừ những loại rượu porto, muscat,... chứa đựng nhiều đường hay bia nhiều mạch nha thì calo tồn tại: trong các
trường hợp này, rượu thật gây béo phì. Đấy là chưa nói rượu khai vị có mục đích
chính là khích động ăn ngon, ăn nhiều…
Còn có một vấn đề nữa là rượu vang với ung thư. Tháng 9 năm
2009, Viện Quốc gia Ung thư INCA cho phát hành một tập sách mỏng đã gây ra một
luận chiến sôi nổi. Dựa lên tổng hợp trên hơn một trăm bài khảo cứu quốc tế về
liên quan giữa các thức ăn và bệnh ung thư, trong mục đích giúp các bác sĩ trả
lời các bệnh nhân trước những câu hỏi lắm khi mâu thuẫn không có căn cứ khoa
học, viện khuyên nên tuyệt đối cấm bỏ mọi loại rượu, kể cả rượu vang, uống hằng
ngày hay chỉ thỉnh thoảng, vì rượu làm tăng gia ung thư, ít nhiều tùy theo cơ
quan trong cơ thể. Như vậy viện bất chấp lời dặn dò của một cơ quan rất chính
thức là Chương trình Quốc Gia Sức khoẻ Dinh dưỡng: đàn bà mỗi ngày 2 ly (10cl)
và đàn ông 3 ly. Những chuyên gia của viện ước tính sự tăng gia ấy nằm giữa 2
và 10% tùy theo cơ quan, nhưng có thể tăng lên đến 168% ở vùng "tai, mũi,
họng" trong trường hợp kết hợp với thuốc lá. Tập sách của viện INCA gây
lên phẩn nộ trong nhiều giới, bị chỉ trích là chỉ nhắm mặt ung thư mà quên
những tính chất khác của rượu, chẳng hạn bên phần tim mạch. Đằng khác, cũng dựa
lên cùng các bài khảo cứu ấy, Hội Khảo cứu Ung thư Quốc tế WCRF năm 2007 đã cho
đăng những kết quả ít cực đoan hơn: hội khuyên nên uống tối cao mỗi ngày đàn bà
10-15g rượu vang và đàn ông 20-30g, nghĩa là tương đương với lời dặn dò của
Chương trình Quốc gia Sức khỏe Dinh dưỡng. Hội còn xác định không có ngưỡng
rượu không được vượt qua trái với lời khuyên của Viện INCA!
Trước cuộc tranh luận nầy, bộ Y tế Pháp cậy Hội đồng tối cao Sức
khỏe HCSP làm trọng tài. Hội đồng bảo nếu không thể xác định ngưỡng rượu không
được vượt qua, cũng không khuyên số ly rượu có thể uống hằng ngày, tuyên bố
không có duyên cớ chính đáng để hoàn toàn cấm uống rượu vang. Dù sao, giới hạn
đàn bà 2 ly, đàn ông 3 ly chỉ là một lời khuyên mà thôi, nhắm nhắn nhủ những
người muốn rượu nhiều. Hội đồng HCSP đề nghị thực hiện một cuộc khảo cứu đặc
thù về tác dụng số lượng nhỏ rượu về mọi mặt tim mạch, ung thư,... để biết
tường tận hơn. Theo bác sĩ Dominique Bessette ở Viện INCA thì với một số lượng
nhỏ, rượu đã có tác dụng nhưng chưa có những cuộc khảo cứu chính xác, những
cuộc thí nghiệm chỉ thực hiện in vitro và trên thú vật, những
polyphenol ròng đã dùng không có cùng tính chất với những polyphenol trong
rượu. Giáo sư ung thư học David Kjavat ở Bệnh viện Salpêtrière tại Paris chỉ
trích kết luận cả hai viện Theo Hội WCRF, kết quả quá nhỏ để có ý nghĩa: nếu
rượu mặc dầu uống ít gây ung thư vùng tai mũi họng thì tại sao trong hơn 60
triệu dân Pháp, chỉ có 12.000 bệnh nhân? Trong 25 cuộc khảo cứu trong tập sách
của viện INCA, chỉ có 9 chứng minh uống rượu ít vẫn bị ung thư tăng lên, 11
trung hòa và 5 gạt bỏ tác dụng của ít rượu. Đằng khác, các cuộc khảo cứu được
thực hiện năm 2005 mà qua 2006 người ta chứng minh vai trò của papillomavirus trong
60% các ung thư tai mũi họng! Nói chung chưa có một chứng minh nào đích xác đưa
đến một kết luận rõ ràng.
Theo Tổ chức Quốc tế Sức khỏe, câu rao các hảng rượu "nên
uống vừa phải" không phải do luật lệ bắt buộc mà chỉ là để phản ứng
lại câu ghi "lạm dụng rượu có hại cho sức khỏe". Chi bằng
nghe theo thông điệp của Tổ chức Quốc tế Sức khỏe "nên uống ít thì hơn".
Có lẽ nên nhấm nháp rượu để tìm thích thú hơn uống nhiều đến khi say túy lúy
thì rượu hết còn niềm vui mà là một tai hại cho mình đồng thời làm phiền phức
cho mọi người xung quanh. Tuy chỉ là dân Pháp nhập tịch, không chút chính cống,
lắm lúc tôi thấy thích thú khi nhấm nháp một mẫu phó mát nặng mùi, Camembert,
Roquefort hay Bleu d'Auvergne, đồng thời nếm mùi một ly rượu đỏ nồng ấm, bất cứ
Côtes du Rhône, Bordeaux hay Beaujolais. Nói chuyện uống rượu, tôi còn nhớ một
kỷ niệm thú vị. Hồi ấy công tác ở Trung tâm Khảo cứu Khoa học, tôi còn làm Tổng
thư ký nhóm Hóa học hữu cơ của Hội Hóa học Pháp. Trong số các nhiệm vụ, tôi có
bổn phận tổ chức những cuộc hội thảo của nhóm và từ đó luôn cả chuyện ăn ở của
các giáo sư được mời đến thuyết minh cùng buổi tiệc liên hoan ngày cuối. Mấy
tháng trước, tôi đã phải chạy kiếm một quán ăn rộng rãi có thể và nhất là bằng
lòng tiếp đón một số đông khách ăn. Đây tôi mới biết nhiều quán ăn ngon ít thích
đón cả một đoàn nhiều người, sợ ồn ào làm phiền phức khách thường quen. Tôi cũng
là người chỉ định loại rượu vang sẽ kèm theo các món ăn: nhãn hiệu Saint-Amour
tôi đã từng thưởng thức ở đây. Lúc bắt đầu tiệc, người dọn bàn cần trình bày
chai rượu vừa mới khui để được chấp nhận trước khi rót vì rượu có thể có mùi hư
hay mùi nút chai. Thường anh ta đưa rượu đến một vị cao niên mà anh cho là
người chủ tọa bửa tiệc, nhưng trước mặt biết bao là giáo sư, có ông già lụm
khụm, có ông râu ria xồm xoàm, biết ai là người có ưu tiên, cuộc đánh giá
rất là tế nhị. Đằng khác anh chỉ biết có một mình tôi là người đã đến đặt hàng,
nên không do dự lâu, anh đến mời tôi nếm thử rượu. Thế là tôi đứng dậy, trước
mặt tất cả các khách quan các nước, giáo sư, tiến sĩ, kẻ trẻ, người già, hai
mắt nhìn về phía tôi, chờ đợi một phán xét, tôi, một người Á Đông giữa những
khách phương Tây sành rượu, lại tương đối trẻ, trịnh trọng nâng cốc nhấm nháp,
lưỡng lự suy nghĩ rồi mới gật đầu cho phép dọn rượu. Tôi không bao giờ nghĩ
mình lại có được một vinh hạnh, dù chỉ chốc lát, bất ngờ như vậy.
Vui lễ Noël 2012
Mừng Năm Mới Quý Tỵ
2013
Nghiên cứu và Phát triển 1(90) 2012, khoa
hoc.net.26.12.2012, vietsciences 12.2012Tham
khảo:* Sciences et Avenir:- Vincent
Gaullier, L'art de sublimer les grands vins, 12.1997- Hors-série, Le
guide du vin, 10-11.1999- Sylvie Riou-Milliot,
Eléna Sender, La vérité sur le vin, 09.2010dẫn· thông báo Insee
05.2004, Iresp 09.2099, kết quả chương trình Inra- những báo cáo của Dr
Ramsau-Hansen (Rome 06.2010), Dr Kaycee Sink (Vienne 07.2009)
- những báo cáo của Dr
Ramsau-Hansen (Rome 06.2010), Dr Kaycee Sink (Vienne 07.2009) · J.Kanner, Natural
antioxydants in grapes and wines, J.Agric.Food.Chem. 1994· Pr David
Khayat, Vrai régime anti-cancer,nxb Odile· Pr Roger
Corder, Boire mieux pour vivre mieux, nxb Thierry Souccar * Le Nouvel
Observateur: Fabien Gruhier, Trois verres de vin, ça va, 01.1997
; L'heure de l'apéro, 08.200218- Măng cụt giáng châuSầu riêng, măng cụt Cái Mơn,Nghêu sò Cầu Lợi, thuốc ngon Mỏ
Cày.Câu hát dân gian"Mùa đông về dằng dặc trong tiếng động nghìn trùng của mưa
trên lá. Tưởng không còn gì để trông ngóng ở khu vườn trước lúc sang xuân, thì
đến tháng mười một, măng cụt chín, như một quả vui đột xuất cuối năm. Đây là
mùa thu hoạch chính của những khu vườn vùng Kim Long. Quả măng, người Huế còn
gọi là trái giáng châu, lúc chín màu tím sẫm, ở rốn quả nổi lên một hình hoa
nhỏ, nhìn hoa có bao nhiêu cánh thì biết bên trong có bao nhiêu múi. Hình như
nó chẳng có tác dụng gì cả ngoài việc khiến người ta ưa nhìn đến nó, giống như
hạt cúc giả trên áo phụ nữ, vì thế bà Lan Hữu tạm giải thích rằng đó là cái bản
năng tự trang sức của thiên nhiên ở nơi cây măng cụt" (1).Cây măng cụt
người Tàu gọi là sơn trúc tử tuy nó không mọc bên Trung Quốc, người Huế gọi gọn
nhẹ cây măng, mang tên khoa học Garcinia mangostana L., thuộc
họ Bứa Guttiferae. Người Phápgọi nó mangoustanier,
Anh Mỹmangosteen, có khi manggis. Cách gọi nầy của
người nước ngoài có ảnh hưởng gì đến tên của ta không vì phần lớn các cây Garcinia khác
đều mang tên bứa: bứa lửa, bứa nhà, bứa mọi, bứa núi (PHH)? Còn
tên gọi đài các ở Huế là giáng châu, như ngọc trên trời ban xuống, thì có lẽ từ
cung đình mà ra. "Thiết nghĩ cây măng cụt sống được trên đất Kim Long phải
có từ lâu, có lẽ từ thời Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần khi mở đất tới xứ Đồng Nai,
nếu không cũng phải thời Gia Long lên ngôi nhận sản vật hai miền cung tiến ra
kinh đô. Bởi tương truyền giống măng cụt do bà Từ Dũ đem từ trong Nam ra ...." (2). Giáng cũng còn có nghĩa đỏ tía, châu chỉ định một
cây có lòng đỏ, một màu đỏ thắm như trong châu sa, châu tử, châu thần thì cách
lấy tên nầy đặt cho măng cụt cũng dễ hiểu thôi.Cây măng cụt
nguồn gốc Mã Lai, Nam Dương, từ Malacca qua Moluku, ngày nay bắt gặp khắp Đông
Nam Á, ở Ấn Độ, Miến Điện cũng nhưở Tích Lan, Phi Luật Tân, được các nhà truyền
giáo đạo Gia tô di thực vào miền Nam nước ta (ĐTL), rồi trồng nhiều ở các tỉnh
Tây Ninh, Gia Định, Thủ Dầu Một. Ở đây khí hậu cũng nóng ấm nên cây dễ mọc,
nhưng nó không tiến được xa lên miền Bắc lạnh lẽo, xa lắm là đến tận Huế. Có
người đã từng ngạc nhiên: "Cây măng cụt chẳng hạn, từ miền Đông Nam Bộ nó
nhảy qua suốt một dải miền Trung rồi xuất hiện trở lại ở những khu vườn
Huế" rồi thắc mắc "Riêng tôi vẫn thấy một điều lạ chưa giải đáp được
về cây măng cụt ở Huế, sao chịu về đây để chín bằng mưa dầm gió bấc, sao chín
được bằng sức đông lạnh của Huế? Dầu sao, nhờ có mùa măng, vườn An Hiên vẫn
giữ được phong độ qua buổi vạn vật tàn phai" (1). Cách
thức thích ứng nầy của cây măng cụt với thời tiết đã gây ra một hiện tượng khá
lạ. "Mùa măng cụt ở Huế lại so le với mùa măng cụt ở Nam Bộ. Vì vậy khi
măng cụt miền Nam hút trái, giống trái cây nầy được nhiều người ưa chuộng, măng
cụt Huế đang mùa trổ quả lại được buôn ngược vào trong Nam. Riêng người Huế thì
ăn được cả hai mùa trái cây của hai miền đất nước. Có được điều đó hẳn do phong
thổ ở Huế khác hơn. Hiện nay vườn măng cụt ở Huế sai quả nhất Kim Long phải kể
đến vườn ông Lê Tự Thái, mỗi gốc cây có tuổi đời già hơn tuổi của mấy đời chủ
nhân... Măng cụt Nguyệt Biều trồng nhiều song người Huế vẫn chuộng trái của
vườn Kim Long" (2).Măng cụt là một
loại cây to, có thể cao tới 20-25m. Lá dày, dai, màu lục sẫm, hình thuôn dài.
Hoa đực cụm 3-9 hoa có lá bắc. Hoa lưỡng tính có cuống có đốt. Quả hình cầu, to
bằng quả cam trung bình, vỏ ngoài màu đỏ tím dày cứng, trong đỏ tươi như rượu
vang, dày xốp, phía dưới có lá dài, phía đỉnh có đầu nhụy. Trong quả có từ 6
đến 18 hạt, quanh hạt có áo hạt trắng, ăn ngọt thơm ngon (LTĐ). Như các loại
quả khác, măng cụt ngọt nhờ có nhiều chất đường: sucrose, fructose, glucose và
có thể cả maltose. Nó thơm nhờ một số lớn các chất dễ bốc hơi. Phổ sắc ký lỏng
tinh dầu chiết xuất phát hiện khoảng 50 hóa chất hữu cơ, trong số ấy hơn 30
chất đã được xác định (5). Nhiều nhất là (%) hexenol (27,27),
tương đối ít hơn là octan (14,76) đứng trước hexyl acetat (7,87), copaen
(7,28), aceton (5,65), furfural (4,89), hexanol (4,38), methyl butenon (4,34),
toluen (2,80). Những chất khác đều dưới 2% nhưng góp phần với các chất trên cấu
thành hương vị của măng cụt. Ngoài hexyl acetat và hexenyl acetat đặc biệt của
măng cụt, mùi trái cây là do các chất hexenal, hexanol, alfa bisabolen mà ra,
thêm vào mùi xoài với alfa-copaen, mùi hoa lài với furfuryl methylceton, mùi
huệ dạ hương với phenyl acetaldehyd, mùi cỏ với hexenol, hexanal, mùi cỏ héo
với pyridin, mùi lá ướt với xylen, mùi hoa khô với benzaldehyd, mùi hồ đào với
delta cadinen. Aceton, ethyl cyclohexan đóng góp tính chất dịu ngọt trong lúc
toluen, alfa-terpinol đem lại mùi đường thắng, methyl butenol, guaien mùi dầu,
valencen đặc biệt mùi mứt cam. Đáng để ý là nếu furfurl methylceton cống hiến
hương thơm dễ chịu thì furfural lại cho thoáng vào một mùi hôi khó ngửi. Qua ví
dụ một trái măng cụt, ta thấy hương vị thiên nhiên quả là phức tạp.Áo hạt măng cụt
không thấy được khảo cứu. Phần lớn các công tác đều hướng về vỏ quả. Thành phần
chính đã được xác định là một loạt xanthon mà những chất chính là những
mangostin, những isomangostin, normangostin bên cạnh trioxyxanthon,
pyranoxanthon, dihydroxy methyl butenyl xanthon, trihydroxy methyl butenyl
xanthon, pyrano xanthenon. Những garcinon, mangostinon, garcimangoson,
gartanin, egonol, epicatechin, procyanidin từ măng cụt nguồn gốc Việt Nam (8),
benzophenon glucosid tuy số lượng ít cũng đã được tìm ra. Cũng có một vài bản
báo cáo trình bày thành phần hóa học của lá măng cụt. Bên cạnh protein (7,8%),
tanin (11,2%), đã được xác định những trihydroxy methoxy methyl butenyl
xanthon, ethyl methyl maleimid glucopyranosid, cùng những triterpenoid như
cycloartenol, friedlin, sitosterol, betulin, mangiferadiol, mangiferolic acid,
cyclolanostendiol, hydroxy cyclolanostenon. Từ ruột thân cây, tetrahydroxy
xanthon và dẫn xuất O-glucosid của nó cùng pentahydroxy xanthon, maclurin, cũng
đã được tìm ra. Còn tử y thì chứa đựng mangostin, những calaba xanthon,
dihydroxy và trihydroxy dimethyl allyl xanthon.Trái măng cụt
thơm ngon cũng còn cống hiến nhiều môn thuốc. Từ lâu, ở Á châu, bên Ấn Độ, hệ
thống khoa học đời sống ayurvedic đã kê nó vào nhiều thang thuốc cổ truyền, đặc
biệt chống viêm, chữa tiêu chảy, ức chế dị ứng, làm giản phế quản trong cuộc
điều trị hen suyển. Nó cũng được xem như là những thuốc chống dịch tả, bệnh lỵ,
kháng vi khuẩn, kháng vi sinh vật, chống suy giảm miễn dịch. Người Thái dùng nó
để chữa vết thương ngoài da (ĐTL). Người Mã Lai, Phi Luật Tân dùng nước sắc vỏ
chữa lỵ, đau bụng, đi tiêu lỏng, bệnh vàng da. Theo Đông y, vỏ quả măng cụt có
vị chua chát, tính bình, đi vào hai kinh phế và đại tràng, có công năng thu
liễn, sáp trường, chi huyết, dùng trị tiêu chảy, ngộ độc chất ăn, khi bệnh
thuyên giảm thì thôi, dùng lâu sinh táo bón (BKT). Cách thức dùng tương đối dễ: bỏ vỏ quả măng cụt khô (60g) vào nước (1.200 ml), có thể thêm hạt mùi (5g),
hạt thìa lìa (5g), rồi đun sôi, sắc kỹ cho cạn chừng một nữa, uống mỗi ngày 2
lần, mỗi lần 120 ml. Nếu là người lớn, đau bụng, có thể thêm thuốc phiện (ĐTL).
Những công tác khảo cứu mới cho biết những tính chất của vỏ trái : nhờ chất
epicatechin, nó chống oxi hoá (25) ; nhờ những flavonoid,
nó ức chế hoạt động sản xuất acid của trùng Streptococcus mutans GS-5 (26).Trong số các
xanthon, hoạt chất được khảo cứu sâu rộng nhất là những mangostin. Chúng có tác
dụng mạnh lên các vi khuẩn Staphylococcus aureus ở nồng độ 7,8
microg/ml (5,6), lên các nấm Fusarium oxysporum
vasinfectum, Alternaria tenuis, Dreschlera oryzae (15), Trichophyton
mentagrophytes, Microsporum gypseum (6,7), Epidermophyton
floccosum ở nồng độ 1 microg/ml (22), Mycobacterium
tuberculosis ở nồng độ 6,25 microg/ml (22) . Đem
thử trên heo và chuột, nó có khả năng ức chế hệ thống phân vệ tế bào bám dính
miễn dịch (4). Đặc biệt mangostin ức chếBacillus
subtilis ở nồng độ 3,13 microg/ml, Staphylococcus aureus NIHJ
209p chịu đựng methicillin ở nồng độ 1,57 microg/ml, tác dụng tăng cường nếu
cho thêm vào vannomycin (11). Mangostin thì chống sự oxi hóa
lipid (14), ức chế sự sản xuất nitrit từ lipopolysaccharid do
các tế bào đại thực gây ra (24). Cả hai mangostin đều có
tính chất chống dịứng ; thuốc viên rất hiệu nghiệm trên các bệnh nhân bị chứng
sổ mũi mùa (16). Cả hai ức chế sự co của động mạch chủ trên
ngực thỏ đã bị histamin và serotonin tác động (13). Nói chung,
cả hai đều là những chất đối kháng thiên nhiên tác dụng của histamin, tức là
những tác nhân điều trị đắc lực những bệnh biến dị ứng (17).
Hai chất nầy, chiết xuất từ măng cụt nguồn gốc Việt Nam, lại có khả năng khử
gốc, kháng oxi hóa (18). Một phần chiết măng cụt gồm có
mangostin ức chế VIH-1 protease (IC50=5,12 và 4,81 microM) (10) .Đứng về mặt ứng
dụng, măng cụt được dùng trong thuốc tẩy, thuốc đánh răng, mỹ phẩm có tính chất
kháng vi sinh vật (23). Một chất xanthon trộn lẫn với gartanin
hay ergonol ức chế Helicobacter pylori đã được dùng để chữa
ung thư, loét hay viêm dạ dày. Mangostin có công hiệu trên Helicobacter
pylori ở nồng độ 1,56 microg/ml (12). Nó ức chế
glucosyl transferase phát xuất từ trùng sâu răng Streptococcus sobrinus và
collagenase do vi khuẩn viêm lợi Porphyromonas gingivalis gây
chảy mũi nên được dùng trong thuốc đánh răng (21), có khả năng
ngừa chặn sâu răng và mảng răng (19). Nó cũng được trộn với
nhiều hóa chất khác như cetyl alcool, cetyl phosphat, dimethicon, eicosen,
disodium, magnesium stearat, dipropylen glycol, triethanolamin,... để làm một
loại thuốc bảo vệ chống ánh nắng mặt trời (18). Nhờ tính chất
ức chế hoạt động phosphodiesterase, ở nồng độ 50 microg/ml trong một dung dịch
5% dimethyl sulfoxyd, nó được dùng để làm thuốc kích thích tiêu mỡ(20).Một cô gái Huế
sống tha hương bên chân trời Đức băng giá, không có cây măng cụt trong vườn và
chắc cũng không có nhiều quả măng cụt trong tủ lạnh, một lần về thăm thành phố
quê nhà đã đặc biệt rung cảm thưởng thức trái cây với tị triết lý: "Hãy
lắng nghe tiếng động của quả Giáng Châu đang rơi trong vườn, đểđừng hất hủi
không về với Huế nghèo nàn trong buổi cuối đông. Giáng châu trên cành dù cho
chín tới vẫn chưa phải là giáng châu, phải đợi một thời điểm nống ấm vừa tầm -
như tiếng nhắc nhở của nắng sớm qua hương hoa mộc - giáng châu rơi xuống, chạm
đất - phải "rơi và chạm" như một nghi lễ hành thâm, như sự cúi xuống
của giọt nắng đầu tiên - đó là bí mật vị ngọt thanh khiết vô song của những múi
giáng châu trinh nguyên, hái trên cành không chạm đất giáng châu vẫn còn giữ
một vị chua chưa đủ xứng danh là viên ngọc của trời riêng tặng cho đất... Nếu
chín trong lòng nắng không ấm không nồng làm sao giáng châu trở thành một giáng
tiên trong mùa đông ở Huế?" (3). Trong giấc mơ nơi đất
khách nghe tiếng giáng châu "rơi và chạm" vào đất, giật mình thức
giấc, thế nào cô gái kia không nhớ được về vườn nhà sai quả êm dịu trong ánh
nắng mùa thu!.
- những báo cáo của Dr
Ramsau-Hansen (Rome 06.2010), Dr Kaycee Sink (Vienne 07.2009)
· Pr Roger
Corder, Boire mieux pour vivre mieux, nxb Thierry Souccar
.jpg)




































.jpg)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét