Lối xưa xe ngựa 10
Chương X - NỬA DÒNG MÁU VIỆT
Ở đây tôi không có ý định nói chung về tất cả những người lai
Việt Nam mà chỉ đặc biệt chú ý tới bốn người đã cầm bút viết về quê ngoại của
họ. Những người này đều có ít nhiều tên tuổi song mỗi người phản ứng một cách
khi đề cập đến người Việt hay đất Việt.
Samuel BARON nhận xét về người Việt ở thế kỷ 17 như sau: "tính tình hiền hậu nhưng hèn yếu, ưa khoác lác, hiếu học nhưng chỉ để ra làm
quan... "
Michel Đức CHAIGNEAU xác nhận người Việt ở thế kỷ thứ 19 cũng hay
khoe khoang, khoác lác, lại ở bẩn... những nghệ nhân tài giỏi không phải không
có nhưng bị chính thể vùi dập...
Hai người này đã quan sát Việt Nam từ bên ngoài nhìn vào, trong
khi ấy thì HỒ Dzếnh và Kim LEFÈVRE lại nhìn Việt Nam từ quả tim nhìn ra nên họ
HỒ mới thủ thỉ: "Tôi yêu cái giải đất cần lao này, cái giải đất thoát
được ra ngoài sự lọc lừa, phản trắc, cái giải đất chỉ bị bạc đãi mà không bạc
đãi ai bao giờ".
Hẳn họ HỒ không thể nào ngờ rằng chỉ mấy chục năm sau, tại Paris,
lại có một người con lai khác lớn tiếng than thở, một thiếu phụ vừa có học
vấn vừa xinh đẹp: "Tôi yêu nước Việt Nam nhưng Việt Nam chẳng yêu tôi!". Vì bị Việt Nam hất hủi mà Kim LEFÈVRE phải chọn ở lại Pháp.
Bốn người, bốn hoàn cảnh, bốn cá tính; ba người gốc Âu, một người
gốc Á; ba nam, một nữ; hai người dứt khoát chọn Tây phương, hai người thiên
về quê ngoại.
I. Samuel BARON
Samuel BARON là một người Hòa Lan lai Bắc. Cha làm đại diện cho
công ty Ấn Độ - Hòa Lan ở Cacho (Kẻ Chợ = Thăng Long) vào năm
1663. Lớn lên, Samuel Baron cũng giúp việc cho công ty này, sau đổi sang làm
cho công ty Ấn Độ của Anh, lấy quốc tịch Anh, rồi cuối cùng bỏ đi buôn riêng
quanh vùng Đông Nam Á. Những năm 1678/80/82 đều có trở lại Kẻ Chợ.
Với tư cách một người đã sinh và sống nhiều năm ở Bắc, Samuel Baron
viết cuốn A Description of the Kingdom of Tonqueen (khoảng
1685/6) để giới thiệu Đàng ngoài với người Anh. Đây là một trong những cuốn
sách đầu tiên viết về Việt Nam của người Âu và cũng là một nguồn tư liệu quý
báu của chúng ta về đời sống Đàng ngoài thời Hậu Lê. Trước đó, Tavernier cũng
đã cho xuất bản một cuốn sách về Việt Nam song bị Samuel Baron chê là bịa đặt
những điều hoang đường. Samuel Baron cam đoan những chi tiết trong sách mình
mới đúng sự thật, vì ngoài kinh nghiệm bản thân, Samuel Baron còn nhờ người bản
xứ có uy tín chỉ điểm cho những khía cạnh nào không nắm vững.
Chúng ta hãy thử theo Samuel Baron đi ngược thời gian trở về thế
kỷ 17 xem đời sống của ông cha ta lúc ấy ra sao?Trước hết, kinh đô Thăng Long đã tỏ ra chật chội. Chợ họp mỗi
tháng hai kỳ vào những ngày mồng một và ngày rằm, mỗi lần có phiên chợ người
các nơi đổ về đông chật đường đi, muốn nhích lên độ một trăm bước phải mất đến
nửa tiếng đồng hồ. Phố phường tụ họp theo nghề nghiệp. Các dinh thự xây cất
bằng gỗ, trông bề ngoài tầm thường chứ không có gì nguy nga, tráng lệ. Nhà của
thường dân bằng tre nứa. Những điều này phần đông được giáo sĩ Baldinotti xác
nhận (1626) và giải thích: "Vì nhà bằng tre nứa nên Thăng Long hay bị
hỏa hoạn, có lần thiêu rụi tới năm, sáu nghìn nóc nhà, song nhờ Kẻ chợ vốn có
nhiều hồ ao nên dập tắt lửa dễ dàng và chỉ bốn, năm hôm sau nhà cửa lại dựng
lên san sát như cũ".
Người dân Việt tầm vóc bé nhỏ, yếu ớt, tính tình nhu hòa, không
nóng nẩy nhưng ưa ganh tị, lại độc ác, sống sượng, hay mê tín, dị đoan, hay
khoác lác; dân tộc tầm thường, nghèo khốn mà lại khinh bỉ ngành giao thương,
hiếu học chẳng phải vì ham hiểu biết mà vì muốn đạt mục đích ra làm quan;
không ưa du lịch mà cũng không tin lời những người đã đi xa thấy rộng, tự cao,
tự đại, cho rằng Việt Nam là nhất...
Tiếng Việt thì một chữ trỏ vào đến 12, 13 vật khác nhau.
Đi thăm bạn bè phải đợi sau bữa cơm trưa, đi buổi sáng là vô lễ.
Trước khi ăn cơm không rửa tay lại súc miệng, vì miệng ăn trầu,
còn ăn cơm thì đã có đũa không ăn bốc, không sợ tay bẩn.
Luật lệ bắt chước Tàu nhưng được châm chước dung hòa với phong tục
cổ truyền thành ra có phần nhân hậu hơn Trung Quốc và cả Aristote nữa: Chẳng
hạn đàn bà, trẻ con phạm tội không bị hành hạ chặt chân tay, hay bêu riếu nơi
công cộng.Hàng
tháng vua Lê họp triều vào những ngày mồng 5 và ngày rằm; lương vua khoảng
8000 đô la một năm. Địa vị vua Lê lúc ấy đã suy yếu đến nỗi dân gian có câu:
"Mất một nghìn ông Vua không bằng mất một ông Chúa" bởi Chúa cầm
quyền chính, mỗi khi thay đổi Chúa là một lần chính thể bị xáo trộn, kẻ lên
người xuống, gây nên tình trạng hoang mang, bất an.
Chúa Trịnh thiết triều mỗi ngày từ 8 g sáng. Khi Chúa lâm triều,
quân túc vệ mang võ khí đứng ngoài sân, nội giám túc trực quanh mình để đệ đơn
từ lên, hay truyền mệnh lệnh từ trên xuống. Chúa dùng tới bốn, năm trăm nội thị
và rất thương yêu những người này, thường cất nhắc họ vào những chức vị quan
trọng có khi lấn át cả các quan văn vỏ có thực tài.
Có điều lạ là, theo S. Baron, khi vào chầu Chúa các quan mặc quần
áo rất đẹp nhưng chân thì lại đi đất. Trên nguyên tắc, mũ áo các quan đã có
luật lệ ấn định từ lâu, mỗi triều dù có thay đổi ít nhiều chi tiết song vẫn
phải đầy đủ lệ bộ: mũ, áo, xiêm, y, hia, hốt, v.v... không lẽ hia chỉ dùng đi từ
nhà đến phủ Chúa rồi đến nơi cởi ra đi chân đất?
Tuy S. Baron khen các Chúa Trịnh là những người tốt - không cướp
ngôi vua Lê, không tàn sát người trong họ - nhưng tỏ ra bất mãn với tục lệ ai
muốn kêu cầu điều gì ở phủ Chúa đều phải kèm theo lễ vật.
Phủ Chúa nằm giữa kinh thành, rộng rãi, tường vây bốn phía. Trong
và ngoài đều có trại lính canh. Nội tẩm được xây cất xa hoa, lộng lẫy, sơn son
thếp vàng, chạm trổ tinh vi. Nhưng giáo sĩ Amaral (1638) lại viết hơi khác:
"Kẻ chợ thường bị chiến tranh thiêu rụi nên lâu đài không xây cất bằng đá
cho bền vững mà xây bằng gạch, gỗ, có bị thiêu đốt xây lại cũng dễ. Vì lo hỏa
hoạn, trong thành chỉ có cung vua Lê, phủ Chúa nằm ở ngoài thành".
Đông cung Thế tử hàng ngày cũng họp các quan ở phủ riêng nên chỉ
vào chầu Chúa mỗi tháng một lần. Thường nhật cho đại diện túc trực ở phủ Chúa
để theo dõi tình hình mà liệu bề hành sự cho ăn khớp (1).
Vua, Chúa rất ít khi ra ngoài. Lên ngôi cũng không cử hành đại lễ
linh đình vì phong tục Việt Nam vốn kiệm ước.Khi Vua băng hà, cả nước phải để tang không được dùng xa xỉ phẩm
như đeo vàng ngọc hay mặc gấm vóc. Quân sĩ vận toàn đồ đen.
Người dân khi chết, đàn ông mặc bẩy cỗ áo đẹp đẹp nhất của mình,
đàn bà chín cái. Trong miệng người chết bỏ vàng ngọc để sang thế giới bên kia
có tiền chi dụng. Người nghèo không có vàng ngọc thì cắt móng chân móng tay bỏ
vào miệng người chết, tin rằng miệng dơ bẩn thì người quá cố không thể trở về
tác yêu tác quái với người sống.
S. Baron đưa ra nhiều chi tiết khá lạ: ví dụ bức họa vẽ cảnh chúa
Trịnh thiết triều lại ngồi trên võng, trông rất lạ lùng khó hiểu mà cũng khó
tin. Song trong Ký Sự Lên Kinh của Hải Thượng Lãn Ông, một
danh y thời ấy, được vời lên Thăng Long chữa bệnh cho cha con Trịnh Cán, phủ
Chúa được tả như sau: "Gian giữa đặt một sập ngự thếp vàng, trên sập mắc
một chiếc võng điều. Trước võng và bàn ghế hai bên bầy toàn những thứ mà người
đời chưa từng thấy... Thánh thượng xuống võng ngồi trên nệm gấm, nghiêng người
sang phía trái, đặt tay lên trên chiếc gối đệm rồi bảo quan Chánh đường xem
bệnh trước..." Như vậy là trong nội tẩm của Chúa quả có mắc võng bên trên
sập, song không rõ khi thiết triều Chúa có ngồi võng thực sự hay không? Ngồi
võng có lẽ thoải mái hơn nhưng e thiếu nghiêm chỉnh.
Tuy S. Baron tin mình viết toàn sự thật, song cuốn A
Description of the Kingdom of Tonqueen chứa đựng khá nhiều điều sai
lầm mà ta có thể kiểm chứng dễ dàng, tỉ như bảo Lý Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh
chỉ mấy tháng sau cả hai cùng bị một người khác giết chết để chiếm ngôi. S.
Baron sai lầm ngay cả những khi bắt bẻ Tavernier, có lẽ vì không am tường, lại
làm việc cẩu thả.
S. Baron tỏ ý không tin người Việt biết chữ Hán từ trước khi nhà
Đinh lên cầm quyền và cũng chẳng tin Việt Nam thắng nổi Trung Quốc mấy trận.
Theo ý S. Baron, đó là vì người Việt ưa khoác lác, nếu Tầu quả thực có lui quân
về thì hẳn vì họ bị nội loạn hay ngoại xâm, chứ nhất định người Việt không đủ
tài cán đánh bại một cường quốc, chẳng qua nói khoác để giữ thể diện với ngoại
quốc và con cháu. Rõ ràng vì thiên kiến nếu sự thật đã bị S. Baron bóp méo.Về y dược, thời ấy dường như ta có một thứ lá chữa bệnh gẫy xương
rất thần hiệu. Giáo sĩ Christophe Borri, sống ở Đàng trong cùng thời, kể chuyện
chính ông bị ngã gẫy xương, chữa theo phương pháp Âu Tây không lành, sau nhờ
một thầy lang lấy lá giã nhỏ băng bó, ít lâu sau khỏi. Giáo sĩ thử thí nghiệm,
bẻ gẫy chân gà, rồi cũng y theo cách của thầy lang bó lại, thấy rất hiệu nghiệm
đến nỗi khi về nước ông cũng đem theo một bó lá trong hành trang, tiếc rằng về
đến nơi, lá khô, hết hiệu lực. Tuy giáo sĩ ca ngợi y khoa Việt Nam, nhưng S.
Baron vẫn một mực hoài nghi, cho đó cũng chỉ là một chuyện khoác lác của người
Việt, dẫu rằng công nhận lấy hành nướng giã nhỏ đắp rốn thì khỏi bệnh chướng
bụng, và thuở ấy người Việt đã biết dùng hấp giác rất thường (2).
Về đạo Phật ở Trung Quốc, S. Baron nêu ra một giả thuyết rất kỳ
quái: vua Tàu nghe đồn có một đạo ở Tây phương nhiều người hâm mộ bèn sai các
quan đi tìm. Ba năm sau, các quan Tàu đi đến Ấn Độ, gặp đạo Phật bèn cho ngay
là đã tìm đến nơi, và thỉnh 72 cuốn kinh về, nhờ đó đạo Phật có dịp bành trướng
ở Trung Quốc. Theo ý S. Baron thì cái đạo được nhiều người hâm mộ ấy chính ra
phải là đạo Thiên chúa, đã làm ra nhiều phép lạ. Chỉ vì các quan Tàu lười
biếng, làm việc không đến nơi, đến chốn cho nên đạo Phật giành mất đất của đạo
Thiên chúa. Đạo Thiên chúa mới là chánh đạo, còn cái đạo Phật hoang đường kia
chỉ mê hoặc nổi những bọn ngu dốt, vô học như phụ nữ hay hoạn quan.
Tóm lại A Description of the Kingdom of Tonqueen ghi
chép nhiều điều chính xác song lại chen lẫn với những điều sai lầm do tác giả
hoặc không nắm vững vấn đề, hoặc vì thiên kiến. Hồng Lam, trong Trung
Bắc Chủ Nhật số 144 đã tỏ ra nhẹ dạ cả tin khi tuyên bố: "S.
Baron quan sát phong tục Việt Nam khá đúng và ngòi bút công bình hơn cả".
Jean Baptiste rời Pháp lần đầu vào năm 1791. Con nhà dòng ở đất Lorient (Bretagne), thuộc phe bảo hoàng, J. Baptiste bất mãn với chính thể mới bỏ nước ra đi, khi ấy chỉ là một sĩ quan trẻ tuổi, vô danh. Sau thời gian làm quan với Gia Long, năm 1819, J. Baptiste về thăm quê, đến 1821 lại rời Pháp đi Việt Nam lần nữa, nhưng lần này với tư cách một vị Lãnh sự của vua Lộ y 18. Khi đến nơi thì vua Gia Long đã mất (25/1/1820), vua Minh Mệnh lên cầm quyền có ý xa lánh ngoại quốc, không trọng vọng Chaigneau và Vannier như Gia Long, lại thêm sự ganh tị của các quan đại thần ngày một lớn, nên đến 1824 thì cả Chaigneau lẫn Vannier cùng đem gia quyến về Pháp.
Michel Đức sống ở Việt Nam đến năm mười sáu tuổi mới theo cha sang Pháp lần đầu, và mười chín tuổi lại theo về Việt Nam. Năm 1863-64, sứ bộ Phan Thanh Giản sang Pháp thương thuyết để chuộc lại ba tỉnh miền Đông, có gặp gia quyến của hai viên sĩ quan này. Bà Vannier khi ấy đã ngoài 80 tuổi, nhà tận miền Nam nước Pháp cũng chống gậy lên Paris ra mắt sứ bộ và ở lại cho đến hôm tiễn biệt. Mấy năm sau thì mất, chôn ở Toulon.
Michel Đức, cũng đã trên 60, thân hành đến tận sứ quán thăm hỏi và
khi sứ bộ về còn gửi dâng vua Tự Đức một bức truyền thần, song sứ bộ không dám
nhận vì hình vẽ bán thân, sợ mang tội khi quân.
Năm 1867, Michel Đức cho xuất bản cuốn Souvenirs de Huế.
Khác với S. Baron, Michel Đức nhìn nhận ngay mẹ mình là người Việt, và không
quên hóm hỉnh nhắc lại lời vua Gia Long bình phẩm, sau khi gặp "cậu Đức" lần đầu. Nhà vua ngắm nghía kỹ càng rồi ngoảnh lại bảo J. Baptiste:
"Công trình của ông được lắm, chỉ phải tội ông nặn cho nó cái mũi hơi
tẹt, giống người Nam".
Là con một vị quan nhất phẩm, đã từng ăn sung mặt sướng, ở nhà
sang, kẻ hầu người hạ tấp nập, đi đâu có kiệu có lọng, kẻ đón nguời đưa, từng
được theo cha đi xem tế Nam giao, theo vua Gia Long du thuyền trên sông Hương,
gặp Hoàng hậu cùng các phi tần, dự buổi trình diễn của ban hát hoàng
cung... cuộc đời thơ ấu của Michel Đức là cuộc đời hưởng thụ tột bực, cho nên
khi đáp tàu về Pháp, Michel Đức phải cố nín mới khỏi bật khóc khi thấy mình sắp
phải lìa xa những người thân yêu: bạn bè, gia nhân, thầy giáo Bửu... Nhưng khi
vừa đặt chân lên đất Pháp thì Michel Đức choáng váng trước đời sống đầy xe ngựa
nhộn nhịp, lâu đài nguy nga. Chỉ hai năm sau, khi vua Minh Mệnh ướm hỏi Michel
Đức có muốn ở lại làm quan thì Michel Đức đã kiếm lời từ chối khéo: "Tôi
không dám tự quyền định đoạt phải hỏi ý cha tôi, tuỳ người sắp xếp".
Ngoài miệng nói vậy, nhưng trong thâm tâm Michel Đức nghĩ "Nước Pháp đã
chinh phục tôi, quả tim tôi đã thuộc về nước Pháp rồi". Michel Đức đủ
sáng suốt để viết thêm: "Người ta có thể cho tôi là bạc" song biết
làm sao bây giờ? Nhà cửa Việt Nam thì lụp xụp, tối tăm, lâu đài kiến trúc
chẳng có gì đồ sộ; tuy vua Gia Long có hậu đãi cha con Michel Đức, nhưng vua
Minh Mệnh lại tỏ vẻ thờ ơ, lạnh nhạt... Dù sao Michel Đức cũng còn trẻ tuổi, lại
sẵn thán phục cha, một người mà đến vua Gia Long còn hết lòng trọng vọng, mà
cha Michel Đức chẳng do nước Pháp đào tạo ra là gì? Huống hồ Michel Đức lại
được một nhà Nho là thầy Bửu giáo huấn, Michel Đức phục tùng cha và chọn nước
Pháp là phải. Tất nhiên đây là một sự lựa chọn theo lý trí vì Michel Đức quả có
cảm tình với Việt Nam, còn nước Pháp tuy choáng lộn, song thực sự đã làm gì cho
"cậu Đức" chưa? Cho nên tuy chọn ở lại Pháp, nhưng khi phái đoàn
Phan Thanh Giản sang, thì Michel Đức đã đến thăm ngay và gửi cả quà tặng, rõ
ràng nhìn nhận và bày tỏ cảm tình với quê mẹ, dù lúc ấy mẹ đã mất từ lâu.
S. Baron sống ở Bắc thì viết về đời sống ở Bắc; Michel Đức sinh
trưởng ở Huế tất nhiên viết về Huế: địa thế, phong tục... vẽ cả bản đồ nữa. Cụ
Vương Hồng Sển đã có lần đặt câu hỏi chợ Dinh ở đâu? Đọc Michel Đức sẽ thấy
chợ Dinh nằm bên một chiếc cầu phía Đông sông Trường Tiền (tức sông Hương, bản
đồ Bulletin des Amis du Vieux Huế). Chợ Dinh to hơn chợ Được, sở dĩ
mang tên này vì họp gần các dinh thự.
Bàn về công nghệ ở nước ta, Michel Đức đưa ra một nhận xét khá xác
đáng: "Việt Nam sở dĩ không có những tay thợ danh tiếng chỉ vì chính thể
quá bất công, hễ người nào khéo liền bị sung công, bắt làm quần quật mà lương
lại rẻ ủng, bị bóc lột hết mức, và chỉ được thả về với gia đình khi nào già yếu
hay bệnh tật, cũng không được hưởng một đồng xu đền bù. Cho nên dù có khả năng
cũng không mấy ai chịu học nghề cho tinh xảo, kẻ có tài thường dấu tài. Ở Bắc
thuở ấy có một nhà làm đồ sứ rất khéo, không kém gì đồ sứ Tầu, mạo danh một
hãng sản xuất của Trung Quốc chứ không dám đứng tên thật của mình, sợ lại bị
sung công. Do chính sách ngược đãi những người thợ khéo ấy mà ngành công nghệ
của Việt Nam không sao phát đạt, không sao ngóc đầu dậy được.
Là con quan nhất phẩm, thường được ra vào nơi cung cấm nên những
chi tiết do Michel Đức kể có lẽ lý thú nhất là về hai vua Gia Long và Minh
Mệnh. Theo con mắt quan sát của "cậu Đức", lần đầu gặp vua Gia Long
khi mới lên 8 tuổi, thì nhà vua cao trên bậc trung, thân hình vạm vỡ, da trắng,
mắt sắc, hai má có hai nốt ruồi đen, chung quanh mỗi nốt ruồi có một túm lông
dài mọc lan ra tận chùm râu bạc vừa dài vừa rậm. Dáng người đĩnh đạc, tác phong
oai nghiêm, khi vui khi giận bất thường... Gia Long rất am tường guồng máy hành
chánh, thường khi bắt bẻ các viên đại thần làm sai trái.
Điều mà Michel Đức nhấn mạnh là Gia Long ưa đùa cợt và nói chuyện
nhảm những lúc vắng người. Khi "cậu Đức", theo tục lệ Việt Nam tung
hô "Thiên tử muôn năm" thì Gia Long chặn ngay lại hỏi: "Mi
tưởng ta là con Trời thực chăng? Ta cũng có cha, có mẹ như ai. Cha ta đã làm
như thế này... mẹ ta làm thế này..." Tóm lại, Gia Long đã ban cho "cậu Đức" một bài học vỡ lòng về phương pháp cấu tạo hài nhi, vừa bằng lời
nói, vừa bằng cử chỉ. Michel Đức không dám thuật lại tường tận sợ người đọc đỏ
mặt.
Michel Đức cũng biết Minh Mệnh không phải là con Chánh cung hoàng
hậu như Thiệu Trị. Khi ở Pháp về, nhiều lần Michel Đức được Minh Mệnh vời vào
cung để hỏi chuyện nước Pháp và nhờ dịch những chữ ghi trên mấy bức họa vẽ cảnh
nước Pháp. Trước hết, Michel Đức phải đọc to lên, sau dịch từng chữ, cuối cùng
mới dịch nghĩa toàn câu. Để Michel Đức khỏi nhẩy những chữ khó, Minh Mệnh lấy
ngón tay chỉ từng chữ một. Mỗi khi dịch xong, viên quan ngồi cạnh phải ghi ngay
lại bằng chữ Hán. Gặp những chữ tên người hay tên tỉnh không dịch được, viên
quan lúng túng thì chính Minh Mệnh chỉ điểm cho nên dùng chữ gì.
Minh Mệnh đặc biệt chú ý đến quân đội, nhung phục của Pháp, hỏi
rất cặn kẽ và dựa theo Pháp chế tạo ra một loại ngù đeo hai vai cho các võ
quan. Những viên quan này thường nói trộm sau lưng vua: "Chúng mình là
sĩ quan của Pha lang cha".
Minh Mệnh không quên hỏi về xã hội Pháp và đặc biệt sửng sốt khi
nghe nói trong những buổi họp công cộng đều có mặt phụ nữ. "Như thế thì
còn gì là trật tự nữa?"
Nhà vua cũng tò mò muốn hiểu tại sao người Pháp hay sưu tầm những
con thú chết, lột da, nhồi trấu, cùng là những loài sâu bọ vô giá trị. Khi biết
để đem về trưng bày tại Bảo tàng viện thì nhà vua lại càng kinh ngạc: "Dùng lâu đài để chứa những con sâu ấy? Thật là điên rồ! Thật là trẻ con!
Chẳng lẽ người Pháp hết việc làm rồi ư?".
Sách của Michel Đức ít sai lầm hơn S. Baron, có lẽ vì Michel Đức
không quá khinh rẻ quê ngoại nên chịu tìm hiểu một cách khách quan, lại am
tường tiếng Việt, và có một người thầy giáo là người Việt, thầy Bửu, một nhà
Nho chân chính, cho nên sự hiểu biết của Michel Đức về nước Việt cũng thấu đáo
hơn.
Theo A. Brébion, Michel Đức về Pháp làm việc ở sở Thuế từ 1827 đến
1852, đồng thời cũng làm Trợ giáo dạy Việt ngữ tại trường Langues orientales
(Ngôn ngữ Đông phương). Năm 1876, Michel Đức cho ra hai cuốn: Thơ Nam
kỳ và Thơ tiếp theo thơ Nam Kỳ cùng nói về chiến
tranh Việt Pháp, do nhà A. Challamel xuất bản.
Từ 1945, Hồ Dzếnh sống ở Thanh Hoá, sau mới ra Hà Nội.
Bắt đầu viết từ 1937. Đã xuất bản: Dĩ Vãng (1940), Quê Ngoại (1942), Chân Trời Cũ (1943), Một Truyện Tình Mười Lăm Năm Về Trước (1943), Hai Mối Tình (?), Những Vành Khăn Trắng (?), Hoa Xuân Đất Việt (1945), Cô Gái Bình Xuyên (1946).
Việt Nam dưới ngòi bút của Hồ Dzếnh
Thẳng thắn mà nói, Hồ Dzếnh không thành công về mặt tiểu thuyết. Một Truyện Tình Mười Lăm Năm Về Trước, Hai Mối Tình, Những Vành Khăn Trắng, nội dung đạo đức có thừa, nhưng nghệ thuật yếu kém. Bút pháp bình thường, cách dựng chuyện quá đơn giản, tâm lý lại không có gì sâu sắc. Nhân vật chỉ là những mẫu người rập khuôn hay tiêu biểu cho những mẫu người lý tưởng của Hồ. Người goá phụ trong Lạnh Lùng của Nhất Linh "thực" hơn là các quả phụ trong Những Vành Khăn Trắng. Có lẽ vì cũng nhận ra nhược điểm ấy nên Hồ Dzếnh đã chọn một bút hiệu khác - Lưu Thị Hạnh - cho những tiểu thuyết của mình?
Truyện ngắn - đặc biệt loại tự truyện - của Hồ Dzếnh hay hơn. Tác giả viết với giọng thành thật, không bị gò bó trong một khuôn khổ cứng nhắc của luân thường đạo lý nên dễ đi thẳng vào lòng người. "Em Dìn" vượt ra ngoài lễ giáo nhưng lại là một nhân vật đứng vững.
Thơ Hồ Dzếnh thuộc loại trữ tình, thích hợp với tâm hồn đa cảm của tác giả nên cũng khá thành công. Tập Quê Ngoại mở đầu bằng ba chữ "Kính dâng mẹ" đã nói lên ngay vị trí của người mẹ trong tâm hồn nhà thơ: cuốn sách đầu tay trân trọng dành cho mẹ. Hồ Dzếnh yêu mẹ, Hồ Dzếnh cũng rất yêu Việt Nam:
Tôi yêu nhưng chính là "say"
Tình quê Nam Việt, bàn tay dịu dàng.
Thơ tôi đê thắm, bướm vàng,
Con sông be bé, cái làng xa xa..."
"Lũy tre xanh", Quê Ngoại
"Be bé", "dịu dàng", đó là hình ảnh Việt Nam trong tâm khảm Hồ Dzếnh. Song bảo nó là hình ảnh người mẹ mà Hồ yêu quý cũng không sai. Trong thơ Hồ, hình ảnh người mẹ và hình ảnh đất nước Việt Nam thường khi lẫn lộn, người mẹ nhỏ bé, dịu dàng, lặng lẽ cam phận, chăm chỉ làm ăn thì hình ảnh Việt Nam cũng thế "con sông be bé... bàn tay dịu dàng... dải đất cần lao..."
Vì yêu mẹ, không bao giờ Hồ Dzếnh nghĩ đến chuyện phủ nhận nguồn gốc Việt của mình, va điềm nhiên công nhận: "Tôi đã từng uống nước và nói thứ tiếng Việt Nam" (Chân Trời Cũ, tr. 166).
Dĩ nhiên khi so sánh, Hồ thừa biết quê cha đẹp đẽ, huy hoàng hơn :
Ôm tôi chị bảo luôn rằng:
Chấp trăm Hà Nội không bằng quê ta!"
"Giang tây", Hoa Xuân Đất Việt
Nhưng khi cần lựa chọn giữa hai tổ quốc thì chưa hẳn quê cha đã thắng vì trong lòng Hồ Dzếnh có một cuộc xung đột: trí nói quê cha hùng mạnh hơn song tận đáy lòng Hồ cảm thấy quê mẹ gần gũi, thân thiết hơn. Cậu bé Hồ không biết phân xử ra sao đành chỉ trốn sau dòng nước mắt:
"Có ai hỏi tôi yêu nước Việt Nam hay nước Trung Hoa hơn thì tôi chỉ còn biết... khóc". ("Thằng cháu đích tôn", Chân Trời Cũ).
Thế nhưng rồi Hồ cũng phải dứt khoát chọn lựa. Trên tiêu chuẩn nào nếu sự huy hoàng, rực rỡ đã không cám dỗ nổi Hồ? Song thân Hồ Dzếnh đại diện cho hai tổ quốc, thì đây là hình ảnh của song thân qua mắt nhà thơ:
"Tôi không làm nũng cha tôi vì người nghiêm, ít nói... lòng mẹ tôi mới thực là địa hạt tình cảm của tôi" (Chân Trời Cũ, tr. 139).
Đối với cha, Hồ Zdếnh kính và uý, với mẹ Hồ mới thấy thoải mái, yên vui. Cha đã nghiêm, ít nói, quê nội lại xa vời nên chỉ gây được trong lòng Hồ một chút tình cảm không lấy gì làm thắm thiết:
"Mây ơi, nếu lạc về phương Bắc
Chậm chậm cho ta gửi mấy lời:
Từ thuở ly hương ta vẫn nhớ,
Nhưng tình... xa lắm gió mây ơi".
"Tư hương", Hoa Xuân Đất Việt
Rõ ràng cái "nhớ" ở đây chẳng có gì là sôi nổi, bồng bột, quả là thứ tình... "xa lắm". Ngược lại, hướng về quê mẹ, Hồ thường có những dòng cảm động dù chỉ là những chi tiết tầm thường. "Đê thắm, bướm vàng, con sông be bé..." thì ở đâu mà chẳng có, song dưới ngòi bút Hồ Zdếnh, chúng có một giá trị đặc biệt vì Hồ đã trút lên cảnh vật lòng thương yêu thắm thiết của mình.
Như một người Việt Nam thuần túy, Hồ Zdếnh cũng xót xa thấy Việt Nam bị giày xéo dưới gót thực dân:
"Tám mươi năm đô hộ, tám mươi năm!"
Và mơ cho Việt Nam một ngày mai tươi sáng hơn:
"Bao giờ cho sáng lều tranh nhỏ..."
"Mái lều tranh", Hoa Xuân Đất Việt
Trái với Samuel Baron, hay Michel Đức Chaigneau, chính cái bé nhỏ, kém cỏi của Việt Nam đã khiến chàng "quân tử Tàu" này thiên hẳn về quê mẹ:
"Chính sự khó và chậm ấy khiến tôi yêu nước Nam của tôi bằng một tấm lòng trọng đại, một mối tình vô song, nhất là quê hương thứ hai cua tôi lại không được huy hoàng, rực rỡ." ("Em Dìn", Chân Trời Cũ).
"Nước Nam Của Tôi", đọc Hồ Zdếnh ta thấy nhan nhản những dòng bộc lộ tình yêu Việt Nam:
"Hỡi vô cùng yêu dấu - Nước ta ơi!" ("Trang sách xưa", Hoa Xuân Đất Việt).
"Lòng tôi thương sâu xa đất nước Nam" (Chân Trời Cũ, tr. 151).
"Nước Nam yêu quý của tôi" (Chân Trời Cũ, tr. 151).
Hồ Zdếnh yêu thương Việt Nam qua hình ảnh người mẹ, nhưng lại cũng yêu Việt Nam như mẹ yêu con, con càng xấu xí càng thương nhiều hơn để bù đắp.
Hồ Zdếnh không chỉ yêu Việt Nam mà "chính là say" Việt Nam, cho nên rất chủ quan khi nhắc nhở đến quê hương của mẹ :
"Nước Nam, quê hương thứ hai của tôi còn đẹp lắm, người nước Nam rất đỗi hiền lành..." ("Chị Yên", Chân Trời Cũ).
Dân tộc Việt Nam có thật hiền lành hơn hẳn các dân tộc khác không? Muốn tin tưởng Hồ Zdếnh, chúng ta phải quên đi những "ngoại lệ"; những bà mẹ chồng, những bà mẹ ghẻ, những cường hào, ác bá... dưới ngòi bút các nhà văn khác.
Hồ còn đi xa hơn nữa, không những người Việt Nam hiền lành mà đất nước Việt Nam cũng hơn đời:
"Tôi yêu vô cùng cái giải đất cần lao này, cái giải đất thoát ra được ngoài sự lọc lừa, phản trắc, cái giải đất chỉ bị bạc đãi mà không bạc đãi ai bao giờ ("Sáng trăng xuông", Chân Trời Cũ).
"Khi yêu trái ấu cũng tròn...". Hồ Zdếnh không quan sát Việt Nam bằng đôi mắt, Hồ Zdếnh ngắm nhìn Việt Nam bằng quả tim thiên tư.
Chúng ta đã đánh giá văn tài của Hồ Zdếnh, nhưng hình như ít quan tâm đến công dân Hồ Zdếnh. Hồ Zdếnh không chỉ yêu Việt Nam bằng đầu lưỡi, Hồ Zdếnh thực sự đã "sống gửi thịt, thác gửi xương" ở Việt Nam. Đối với Hồ Zdếnh, chỉ có tấm lòng mới "đáng kể":
"Nhưng trên cả tình và tài... đó là tấm lòng" Hồ Zdếnh đã viết như thế và còn trích thêm một câu Kiều:
"Chữ "tâm" kia mới bằng ba chữ "tài",
khi đề tựa Chân Trời Cũ.
Văn tài của Hồ Zdếnh khiến ta quý trọng, tấm chân tình của Hồ Zdếnh làm cho ta cảm động.
IV. Kim LEFEVRE (1937? -) |
Sinh tại Hà Nội, có lẽ vào năm 1937: Kim không có khai sinh thực
sự. Cái tên Lan Kim Thu do cha dượng đặt và khai cho khi Kim lên mười để có
giấy tờ đi học.
Cha đẻ là một quân nhân Pháp, Jean Tiffon, song hai cha con chưa
bao giờ gặp nhau: Kim là con vô thừa nhận. Mẹ Kim người Bắc, có một trình độ
học vấn cao so với phụ nữ thời xưa (Certificat d'études), vì trót sinh
con hoang nên bị gia đình hất hủi. Thời thơ ấu của Kim là một chuỗi ngày đau
khổ, lọt lòng mẹ đã bị gửi đi ở vú, rồi nhờ họ hàng, hết nhà này đến nhà kia -
mẹ còn phải nhọc nhằn kiếm tiền. Đi đến đâu Kim cũng toàn nghe những lời cay
đắng :"Cái giống lai nó bạc lắm". Năm lên 6, mẹ bị gia đình ép phải
bỏ Kim vào Viện mồ côi, đời sống lại còn cay cực hơn đến nỗi có lần Kim toan tự
tận. Năm 1945, vì thời cuộc, Viện phải giải tán, Kim được mẹ đón về, song vì
không nhận ra mẹ, bà phước không chịu giao trả. Người mẹ buồn tủi, khóc lóc,
trông cái dáng sụt sùi, thiểu não của mẹ, một hình ảnh quen thuộc chợt lóe ra
trong ký ức Kim, cuối cùng hai mẹ con cũng được đoàn tụ. (Nếu quả Kim sinh năm
1937, 1943 vào Viện, 1945 xuất Viện thì mới ở có hai năm sao Kim đã có thể quên
được mẹ?). Tiếng gọi là "đoàn tụ", thực ra xuất Viện là Kim lại tiếp
tục cuộc đời "ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô" một thời gian nữa rồi
mới được mẹ đón về ở với cha dượng, một người Tàu ở Chợ Lớn, hết sức lạnh nhạt
với Kim mặc dầu cô bé tìm đủ mọi cách để lấy lòng. Không thành công, Kim dám
xoay ra ăn cắp tiền cốt để bị trừng phạt, ít nhất như thế người ta cũng có đếm
xỉa đến Kim, nhưng Kim vẫn thất bại. Năm 12 tuổi cha bán đi làm con ở.
Cũng may mẹ Kim đủ sáng suốt để nhận định Kim cần phải có học vấn
để tự tạo một tương lai sáng sủa. Người đàn bà vốn rất phục tòng chồng này đã
không ngần ngại, lén lút xin cho con riêng đi học, và Kim đã đi học trong một
tình trạng khác người: học bài vụng trộm trong bếp, cặp sách dấu trong đống
củi... Mặc dầu gặp nhiều trở ngại, song nhờ trí thông minh và nhất là nhờ sự
giúp đỡ tận tình của mẹ, Kim đã giành được một địa vị trong xã hội: tốt nghiệp
hạng ba trường Đại học sư phạm và được bổ nhiệm ngay tại Saigon. Mấy tháng sau,
được học bổng sang Pháp (1960) Kim đã chọn ở lại Pháp, đi dạy học các trường trung
học một thời gian rồi chuyển sang ngành ca kịch. Đã từng trình diễn ở các nước
Âu, Á và Phi châu.
Năm 1989, Kim cho ra đời cuốn Métisse blanche (Đứa
con gái lai bạch chủng) và được Bernard Pivot mời lên đài truyền hình phỏng
vấn. Nhờ cuốn sách này Kim đã nối lại được liên lạc với Việt Nam mà Kim cố tình
tránh né từ lâu: Việt Nam gợi cho Kim những ngày thơ ấu đầy đau khổ. Ngày nay
Kim đã trở về thăm gia đình và thăm Việt Nam, Kim đã giải tỏa được nỗi sợ hãi
Việt Nam mà Kim vừa yêu lại vừa hận.
1990 Kim cho ra tiếp cuốn thứ hai Retour à la saison des
pluies (Trở lại mùa mưa).
Hai tổ quốc mà không một chỗ đứng
Kim chưa ra đời đã bất hạnh: mẹ Kim vừa có thai thì người cha đột
ngột bỏ đi không một lời từ biệt. Có lẽ ông ta cũng yêu mẹ Kim, nhưng chưa đủ
để vượt qua những trở ngại của xã hội để đi đến hôn nhân.
Cha không nhận, người Pháp ở Việt Nam cũng không mấy ai muốn có
liên hệ xa gần gì với giọt máu rơi này. Khi còn làm bếp cho một ông Giám đốc
Viện Hải học ở Nha Trang, thấy ông có ý săn sóc dạy Kim tiếng Pháp, mẹ Kim đánh
bạo xin ông giúp Kim đi học, Kim chẳng cũng thuộc nòi giống của ông đấy ư? Lập
tức ngày hôm sau bức tường phân chia chủ tớ lại được vạch ra phân minh. Rồi đến
khi Kim đi học ở Đà Lạt, bà Mẹ Nhất cũng lộ vẻ khó chịu khi Kim tỏ lòng biết ơn
theo kiểu Việt Nam mà bà cho là quỵ luỵ.
Cha không ngó ngàng đến, người Pháp không nhìn nhận, thậm chí cả những người
lai như Kim cũng khinh bỉ Kim là "annamite". Đối với Kim, nước Pháp
đại diện cho người cha mà Kim thù hận. Kim tưởng tượng cha mình là một thực dân
hống hách, thuộc "phe bên kia". Tóm lại, Kim không có cảm tình với
quê cha, tuy nhiên, đôi khi ngắm những tấm hình phụ nữ Pháp trẻ đẹp treo trên
tường Kim cũng có lần ao ước mình là một cô gái Pháp, và cảm thấy tủi hổ vì
thân phận "annamite" của mình!
Nhưng giấc mơ trở thành người Pháp chỉ thoáng qua vì những người
thực lòng yêu thương Kim toàn là người Việt, dù đếm được trên đầu ngón tay:
mẹ, bà Tư, bà Pho... cho nên Kim thường vui vẻ nhận mình là Việt Nam, thích ăn
cơm ta, thích mặc áo dài hơn áo đầm, thích đi chùa hơn đi nhà thờ, và còn tự
hứa lớn lên sẽ nhuộm răng thật đen... Kim mong muốn trở thành một cô gái Việt
thuần túy và tự lừa dối mình bằng cách tránh soi gương để khỏi phải đối chiếu
với sự thực. Có lúc Kim cũng ao ước cha mẹ mình là người Việt, nếu không thì
cũng mong mỏi gặp một tai nạn lớn để có thể trút bỏ hết những giọt máu Pháp
trong mình. Song dù Kim có tự lừa dối được mình thì bạn bè, kể cả những người
thân nhất, đôi khi cũng thốt ra những lời làm Kim tủi cực : "Mày là con
lai, chúng tao tin mày thế nào được?". Người lớn cũng một luận điệu:
"Nuôi làm gì cái giống lai, ngày sau lớn lên, cái máu Tây mạnh hơn, nó sẽ
bỏ mình ngay. Giống lai là chúa bạc".
Bên cha không nhận, bên mẹ hất hủi, Kim lại mơ ước đến một giải
pháp thứ ba: tìm ra một xứ trong đó chỉ có toàn người lai ở, từ cha mẹ đến cô
giáo đều lai tuốt. Ở đó Kim sẽ không thấy mình lạc loài và cô đơn.
Là một cô bé nhạy cảm, thèm khát yêu thương mà chỉ tiếp nhận những
cử chỉ lạnh nhạt, những lời nói phũ phàng, Kim rất hận Việt Nam, hận đến nỗi từ
khi định cư ở Pháp, trong suốt 30 năm, Kim hầu như tuyệt tình với người Việt,
tránh né tất cả những gì liên quan đến Việt Nam.
Ngày nay bình tâm nghĩ lại, Kim đã thận trọng cân nhắc: "Việt Nam đã nuôi dưỡng tôi, những tình thương đầu tiên tôi đã tiếp nhận là ở
Việt Nam. Tôi nói tiếng Việt, thấm nhuần văn hoá Việt. Tôi thiết tha với Việt
Nam, tổ quốc của tôi. Tôi đã hết lòng hòa mình vào đời sống Việt Nam, nhưng
Việt Nam không yêu tôi và sẽ chẳng bao giờ chấp nhận tôi. Tuy vậy tôi cũng
không lên án Việt Nam. Việt Nam với tôi là hình ảnh người mẹ dịu hiền" (Métisse blanche). "Phụ tình án đã rõ ràng...".
Còn đối với nước Pháp đã giang tay đón cô sinh viên du học, những
ác cảm và thành kiến ban đầu đã hết ngay từ ngày Kim đặt chân đến Paris. Duy
đối với người cha thì Kim dứt khoác giữ vững lập trường: "Có thể sau này
tôi sẽ tìm gặp đứa em cùng mẹ khác cha, nhưng bắt liên lạc với người cha ấy thì
không bao giờ!".
Xã hội Việt Nam qua tác phẩm của Kim Lefèvre
Có người từng đặt câu hỏi: "Cái xã hội mà Kim Lefèvre mô tả
có đúng sự thật không?".
Tôi nghĩ rằng khi viết, Kim Lefèvre đã chân thành và cố gắng tỏ ra
khách quan song có thể Kim còn bị giới hạn vì hai điểm:
- "Giáo dục" gia đình.
- Mặc cảm làm con lai.
Cái xã hội mà Kim Lefèvre mô tả có rất nhiều người lấy Pháp và rất
nhiều người lai, cậu Albert, anh Yves, bốn người cô họ lai, cùng mẹ nhưng khác
cha... Chính mẹ Kim không phải chỉ "sẩy chân" có một lần với cha Kim
mà sau đó còn sinh thêm một đứa con trai với một người quân nhân Pháp khác. Và
cũng chính mẹ Kim đã từng mơ ước Kim được một người Pháp để mắt tới dù khi ấy
Kim chỉ mới có hơn 10 tuổi. Lấy Tây tuy chưa hẳn là một chuyện bình thường
nhưng cũng là chuyện thường xảy ra trong gia đình và chung quanh Kim. Đối với
ngoại quốc người Việt thường tỏ ra rất cởi mở, riêng về vấn đề hôn nhân dị
chủng thì người Việt thời xưa lại rất kỳ thị, đặc biệt với người Pháp sự kỳ thị
còn đèo thêm mặc cảm của người dân bị đô hộ. Những cuộc phối hợp dựa trên tình
yêu như trường hợp mẹ Kim rất hiếm, phần đông chỉ là chuyện bị cưỡng ép, và nếu
có "tự nguyện" thì cũng dựa trên căn bản lý tài, cho nên những
người lấy ngoại quốc thường bị khinh bỉ, con nhà "nền nếp" đến bước
đường cùng cũng không chịu làm "me tây". Gia đình Kim, cái "nền nếp" đã trở nên lỏng lẻo, do đó có nhiều điều Kim không hiểu hoặc
hiểu lầm, tỉ như chuyện bóp cổ con gái khi mới đẻ ra, Kim nhắc đi nhắc lại mấy
lần trong cả hai cuốn sách. Tôi chỉ nghe người Tàu giết con gái, chưa từng nghe
người Việt bóp cổ con gái bao giờ, có nghèo thì cũng chỉ đến bán con là cùng.
Cái xã hội Việt Nam xưa tuy có trọng nam khinh nữ thật nhưng chưa đi đến chỗ
bóp cổ con gái.
Cái xã hội Việt Nam ấy cũng rất giả dối, nghĩ một đằng làm một
nẻo, đặc biệt trong quan hệ nam nữ. Người con gái muốn được kính nễ thì phải
"treo giá ngọc", Kim là con lai càng phải "gìn vàng giữ ngọc" gấp bội để xoá bỏ thành kiến rằng con lai thuộc loại dễ dàng. Cho nên
Kim cương quyết né tránh anh chàng phi công tài hoa khi nhận ra lòng mình
"dường đã xiêu xiêu". Có lẽ mẹ Kim đã điêu đứng vì trót nhẹ dạ cho
nên nhồi nhét vào đầu Kim "làm thân con gái chữ trinh làm đầu" ngay
từ khi Kim còn bé, và Kim đã ghi lòng tạc dạ mà chẳng hiểu gì, đến nỗi lần đầu
tiếp nhận một luồng mắt đưa tình, cô bé sợ hãi bật khóc vì tưởng mình đã mất
trinh!
Cái xã hội Việt Nam ấy đã kỳ thị lại bất công, trút lên đầu những
người lai, những đứa trẻ vô tội, tất cả hận thù của một nước bị đô hộ. "Ở
Việt Nam tôi chưa hề thấy ai lên tiếng bênh vực cho những đứa con lai như tôi
bao giờ".
Đâu là sự thực?
Viết xong Métisse blanche Kim đã giải toả được
mối hận và những mặc cảm về Việt Nam, song tận đáy lòng Kim vẫn ẩn náu một cô
bé đã bị Việt Nam ngược đãi, Kim không tài nào quên được.
Thuở nhỏ Kim quả có một đời sống cay cực, nhưng nói rằng "Việt Nam không yêu và sẽ không bao giờ chấp nhận" Kim thì có phần oan cho
Việt Nam. Ngay thời ấy Kim cũng vẫn có những người thành thật yêu Kim: mẹ, bà
Tư, bà Pho, lũ bạn ở nhà quê đã từng mời mọc Kim về nhà... thế không là "chấp nhận" thì là gì? Dĩ nhiên người ta không thể quên đi được sự khác
biệt của Kim rành rành in trên nét mặt. Sự khác biệt ấy có thể là một khuyết
điểm (như Kim nghĩ), song bà Tư đã chẳng giảng cho Kim hay rằng nó có thể trở
nên ưu điểm đấy ư? Quả nhiên khi Kim vừa lớn lên; biết bao nhiêu người đã cảm
cái sắc đẹp của Kim song vì mặc cảm Kim yên trí những người này chỉ muốn lợi
dụng mình. Như vậy không đúng, cái anh chàng Hồ đã chẳng hết lòng yêu và giúp
đỡ Kim ngay từ ngày Kim mới bắt đầu bước chân vào Đại học cho tới khi sang Pháp? Trường hợp này phải nói chính Kim đã phụ Hồ: tuy không yêu nhưng để mặc cho
Hồ săn sóc mình như một vị hôn phu chính thức.
Việt Nam bị đô hộ, hận thù tích lũy, gặp dịp phát tiết là trút ra,
có kể gì đến phải trái hay bất công? Đành rằng hành động như thế chẳng có gì
là quang minh chính đại, nhưng thử hỏi có dân tộc nào bị giày xéo, áp bức mà
không cảm thấy nhục nhã, uất hận? Ngay như nước Pháp mà Kim chọn để định cư vì
"người Pháp không kỳ thị" thử hỏi sau Thế chiến Hai, họ đã đối xử
ra sao với những phụ nữ đã từng thân cận với người Đức? Họ không gọi những
người này là "me Đức" nhưng họ đã gọt đầu bêu riếu những người đàn
bà khốn khổ này. Lòng kỳ thị phát sinh ra từ cuộc sống bấp bênh nhiều hơn do sự
khác biệt chủng tộc. Sự khác biệt chỉ gây tính hiếu kỳ nếu quyền lợi của người
quan sát không bị đe dọa. Nước Pháp ngày nay không còn như nước Pháp khi Kim
mới bước chân sang, hẳn Kim cũng đã nhận thấy nạn thất nghiệp ngày một gia tăng
cùng với chính sách bài ngoại của Le Pen?
Kim nhận xét ở Việt Nam mình bị lạc loài, sang Pháp được đón nhận
ngay. Nhưng hai trường hợp khác hẳn nhau. Nước Pháp giang tay đón tiếp một
thiếu nữ trẻ đẹp, có học vấn, có nghề nghiệp, tương lai. Việt Nam, trái lại, phải
bắt buộc cáng đáng một đứa con rơi của kẻ thù, có thể lớn lên nó sẽ hùa theo
những đứa con lai khác quay lại ức hiếp, khinh khi người nuôi dưỡng nó. "Kẻ ăn ốc, người đổ vỏ"... Đã thế Việt Nam lại nghèo khổ, "ốc đã
chẳng mang nổi mình ốc", còn đèo bòng cọc rêu sao được? Kim phàn nàn ở
Việt Nam không có ai bênh vực những đứa con lai, nhưng thời đô hộ, con lai thừa
quyền uy để ức hiếp người Việt thì họ còn cần gì ai bênh vực? Tại sao kẻ bị áp
chế lại phải lên tiếng bênh vực cho người ức hiếp mình ? Trường hợp những người
lai bị khốn khổ như Kim cũng có nhưng hiếm, số người Việt bị ngược đãi nhiều
hơn.Có lẽ Kim đã đặt sai trọng tâm của vấn đề. Thật ra Kim chỉ khổ khi còn nhỏ, từ khi bắt đầu đi học và "trổ mã" thì Việt Nam không "bạc đãi" Kim nữa, trái lại người ta ưa chuộng và quý trọng Kim. Ngay cả người cha dượng cũng thay đổi thái độ, trọng Kim hơn cả con riêng mình. Kim đã có nhiều người bạn thân, Kim đã chẳng từng thề thốt "sống chết có nhau" (à la vie, à la mort) với cô bạn Lê An là gì? Khi lĩnh bằng Đại học, chính Kim đã nhận xét, rằng không còn ai , kể cả Kim, phân biệt Kim là con lai nữa.
Kim chọn ở lại Pháp vì đời sống ở Paris thích hợp với Kim hơn. Đây là vấn đề lựa chọn tự do chứ không phải vấn đề tránh né kỳ thị. Ở Saigon, ai làm gì mọi người đều biết, ở Paris mạnh ai nấy sống, không ai có thì giờ dòm ngó đến ai. Lòng ưa chuộng tự do của Kim đã thể hiện ngay từ khi Kim hứa với mẹ sẽ xin đi dạy học ở tỉnh nhà (Tuy Hòa) song lại nộp đơn xin dạy ở Saigon, vì tự biết ở Saigon không bị gia đình kiềm thúc. Kim bỏ Việt Nam, chọn Pháp cùng một lẽ ấy. Sự kỳ thị của Việt Nam đối với Kim chỉ có thực khi Kim còn nhỏ và trong ký ức Kim.
Bốn người con lai, bốn hoàn cảnh, bốn tâm tình. Samuel Baron chỉ nhận mình đã sinh và sống ở Đàng ngoài, đủ để gây lòng tin của độc giả, tuyệt nhiên không bao giờ đả động đến người mẹ Việt. Samuel Baron tách hẳn mình ra khỏi Việt Nam, gọi dân Việt là "dân bản xứ". Ở thế kỷ 17, Á châu chìm đắm trong đạo Nho, lại là thứ Nho suy vi, trọng văn khinh võ, trong khi Âu Châu hùng mạnh, vũ khí tối tân, rầm rộ đi chinh phục các nước Á, Phi. Việt Nam vốn đã yếu kém về binh bị, lại đèo thêm nạn Nam Bắc phân tranh càng suy nhược. Không cần phải cân nhắc cũng thấy ngay ai mạnh ai yếu. Samuel Baron chọn Tây phương cũng dễ hiểu. Đến quê cha là Hòa Lan mà Samuel Baron cũng từ bỏ để xin gia nhập quốc tịch Anh thì còn nói gì đến quê mẹ hèn yếu? Chỉ đáng trách là muốn tỏ lòng sùng kính Âu châu, Samuel Baron đã không ngần ngại bóp méo sự thật, kể cả những điều rất dễ kiểm tra khiến người ta đem dạ hoài nghi luôn cả những điều Samuel Baron viết đúng sự thực. Mặc dầu chúng ta cần đến A Description of the Kingdom of Tonqueen chúng ta không thể không dè dặt, biết rằng những nhận định của tác giả đôi khi lệch lạc vì thiên kiến.
Michel Đức Chaigneau sống ở Việt Nam 16 năm, sung sướng tột bực, thế mà vừa đặt chân đến nước Pháp, quả tim Michel Đức đã bị chinh phục ngay. Dĩ nhiên sự lựa chọn này không thể dựa trên ân tình: nước Pháp chưa từng nuôi Michel Đức một ngày, bất quá "cậu Đức" choáng mắt vì đời sống xa hoa, rực rỡ ở Pháp. Có điều khác với Samuel Baron, Michel Đức không vì thế mà khinh rẻ quê mẹ, chối bỏ gốc Việt của mình. Trong gia đình, nếu người mẹ bị coi rẻ thì tất nhiên quê mẹ cũng không được trọng vọng. Rất có thể địa vị bà Benette Huề cao hơn địa vị người mẹ của Samuel Baron. Bà Huề được vua Gia Long và cả đạo Thiên chúa ở đằng sau hậu thuẫn. Người cha Michel Đức, Jean Baptiste Chaigneau, lại con nhà thế tộc, khác với cha Samuel Baron là nhà buôn, nên cách đối đãi của Jean Baptiste Chaigneau với vợ có thể cũng khác. Cho nên dù Michel Đức chọn ở lại Pháp nhưng đối với Việt Nam vẫn còn "vương tơ". Đôi khi tôi tự hỏi sau khi đã nếm mùi vị đời sống văn minh có bao giờ "cậu Đức" thấy tiếc cái đời sống hủ lậu nơi quê mẹ?
Trái với Samuel Baron và Michel Đức Chaigneau, Hồ Dzếnh và Kim Lefèvre đều tỏ lòng thương yêu Việt Nam, yêu qua người mẹ. Cuốn sách đầu tay của Hồ Dzếnh mang dòng chữ "kính dâng mẹ" thì cuốn sách đầu tay của Kim Lefèvre cũng mang hàng chữ "A ma mère".
Tuy không có một thời thơ ấu vàng son như Michel Đức, nhưng may mắn hơn Kim Lefèvre, đời sống thuở nhỏ của Hồ Dzếnh cũng tràn đầy hạnh phúc. Gia cảnh đã hơn mà về nhiều phương diện khác Hồ cũng hơn Kim: về màu da cũng như văn hóa, Hồ Dzếnh dễ hòa đồng với người Việt, ít khi bị phát giác, bị chỉ trỏ... dường như chỉ có một lần cậu bé Hồ đã hậm hực khi bị thầy giáo tiểu học nhiếc là "cái đồ Tô Định" (Chân Trời Cũ, tr. 144) cho nên Hồ yêu thương Việt Nam cũng là tự nhiên.
Hồ là người sống hoàn toàn bằng tình cảm. Tình cảm giúp Hồ tạo nên những dòng thơ xúc động, nhưng cũng chính tình cảm đôi khi dẫn dắt Hồ đi quá đà:
"Tôi tự tạo ra đau khổ để sống, để sung sướng vì thấy mình đau khổ hơn người". ("Chị Yên", Chân Trời Cũ).
Đời sống nội tâm tuy phong phú nhưng Hồ đã mon men đến bên bờ vực thẳm của não bệnh:
" Thường thường tôi chỉ sống bằng mộng. Tôi không bằng lòng ai cả. Hình như tôi không bằng lòng cả tôi. Cái đau khổ tôi tự tạo lấy, dần dần trở nên mãnh liệt. Tôi phải kiếm cớ luôn luôn cho lòng mình thắc mắc, trong cái tin tưởng quái gở là mọi người không ai yêu tôi. Đó thực là một cực hình cho kẻ nào, như tôi, chịu ảnh hưởng sự khủng hoảng tinh thần do chính mình gây ra, do chính mình ham thích". ("Lòng Mẹ", Chân Trời Cũ).
Tuy cũng nhạy cảm, nhưng Kim Lefèvre không để cho tình cảm lấn át lý trí, trừ những lúc ôn lại quá khứ. Không phải thiếu phụ trung niên đã than trách "Việt Nam chẳng yêu tôi" mà chính là cô bé Kim đang hậm hực. Sự thực không phải Việt Nam không chấp nhận Kim mà là Kim không chấp nhận Việt Nam thì đúng hơn. Trong ký ức Kim chỉ có một nước Việt Nam hất hủi Kim chứ không có nước Việt Nam quý trọng Kim, yêu thương Kim.
Hồ Dzếnh chọn Việt Nam vì thương xót, Kim Lefèvre chọn Pháp vì tự do. Vấn đề đặt ra trong Métisse blanche không phải chỉ có một mà là hai; con lai và tự do. Nhan đề "Đứa con gái lai bạch chủng" đánh lạc hướng người đọc, song lại hấp dẫn hơn một nhan đề loại "Tôi chọn tự do" .
Viết xong Métisse blanche mối hận thù Việt Nam coi như giải tỏa. Kim đã trở về thăm gia đình và Việt Nam. Kim còn dịch Tướng Về Hưu của Nguyễn Huy Thiệp và ký tên vào danh sách những người đòi trả lại tự do cho Dương Thu Hương. Quả nhiên Kim Lefèvre vẫn quan tâm đến quê mẹ.Chú thích:
1. Theo Nguyễn Triệu Luật (Bốn con yêu và hai ông Đồ, tr. 155) thì phủ chúa Trịnh ở trước nhà Bảo cô Saint Antoine, phố hàng Bột; phủ đệ của Thế tử ở chỗ nhà Tế sinh, quay về tây nam, nhìn sang phủ Chúa.
Hải Thượng Lãn Ông cũng nói phủ Chúa nằm ở bên trong thành (tr. 32, 146).
2. Quán Chi (Trung Bắc Chủ Nhật, số 13, 26/5/1940, tr. 22-24) cho biết hồi đầu thế kỷ 20 có Thiện Minh Tiên nghiên cứu y học lấy thuốc Nam thay dần thuốc Bắc, đã chữa một đứa bé ngã gãy xương bằng lá với xương gà tán nhỏ, nửa tháng thì khỏi.
Sách tham khảo:
- BARON Samuel, Description du Royaume du Tonkin, bản dịch của H. Deseille. Không đề năm xuất bản.
- BREBION A., Dictionnaire de Bio-Bibliographie générale, ancienne et moderne de l'Indochine française. Paris: Société d'éditions géographiques, maritimes et coloniales, 1935.
- CRAWFURD John, Journal of an Embassy from the Governor general of India to the Courts of Siam and Cochinchina. London: Henry Colburn, 1828.
- Hải Thượng Lãn Ông, Ký Sự Lên Kinh, Hà Nội, 1977. Dịch giả Bùi Hạnh Cẩn.
- Hồ Dzếnh, Quê Ngoại + Hoa Xuân Đất Việt. Saigon: Hoa Tiên tái bản 1969. Tái bản ở Mỹ.
. Một Truyện Tình 15 Năm Về Trước. Saigon tái bản 1969. Tái bản ở Mỹ.
- Hồng Lam và Văn Hòe, "Thành Hà Nội vào thời cố A. de Rhodes", Trung Bắc Chủ Nhật số 64.
- LEFÈVRE Kim, Métisse blanche. Paris: B. Barrault, 1989; J'ai lu, 1990.
- Trần Hữu Tá, "Hồ Dzếnh", Từ Điển Văn học, Hà Nội: KHXH, 1983.
Tháng 2/1992
Nguyễn Thị Chân Quỳnh
Nguồn: Rút trong Thế Kỷ 21,
số 33, 34 và 36,
1992








Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét