Hoa Chămpa
trên đất nước hoa Chămpa
Đêm đêm ngửi mùi hương, mùi hoa sứ nhà nàngHương nồng hoa tình ái, đậm đà đây đó gọi tênNhà nàng cách gần bên, giàn hoa sứ quanh tườngNhìn sang trộm nhớ thương thầm, mơ ngày mai lứa đôi.Hoàng Phương (Hoa sứ nhà nàng)
Trong cuốn "Truyện cổ đất nước hoa Chămpa" có
chuyện "Bốn cây hoa chămpa": Ngày xưa bên Lào có ông lãnh chúa
Chun-la-ni mường Piêng-chăn, đem cô gái Khai Cong của ông bạn Thac-khiên-thi mường
Khiên-tha-ni về làm vợ kế khi hai vợ chồng ông bạn nây cùng nhân dân trong mường
bị một cặp đại bàng quỷ từ trên núi cao xuống ăn thịt hết. Một năm sau, Khai
Cong sinh cho lãnh chúa được bốn hoàng tử khôi ngô tuấn tú vào lúc lãnh chúa vắng
nhà. Hoàng hậu Ac-khi không có con, căm giận đánh tháo thay bốn con chó con, bỏ
bốn đứa trẻ vào một cái chum bịt kín thả trôi sông. Khi trở về, nghe lời hoàng
hậu, lãnh chúa nghi ngờ Kham Cong chính là ma quỷ và đuổi nàng xuống làm tôi tớ
nuôi lợn. Cái chum không trôi theo dòng sông mà trôi ngược lên đến bờ được vợ
chồng lão làm vườn vớt lên thương yêu chăm sóc thành bốn đứa trẻ bụ bẫm xinh đẹp.
Khi chúng lên năm, mụ Ac-khi biết được, cho mấy nàng hầu lại đầu độc cho chết
đi. Vợ chồng lão làm vườn đem chôn chúng giữa sân thì nơi đó mọc lên bốn cây
hoa chămpa rất đẹp. Mụ Ac-khi lại sai mấy nàng hầu lại chặt cây nhưng dao cứ
văng ra, mụ đem lính lại bắt vợ chồng ông lão phải tự chặt thì bốn cây tự ngã
xuống. Khi thả cây xuống sông thì bốn cây lại trôi ngược dòng đến vùng đất của
Đức tiên ông Phaluxita Phay. Dùng đôi mắt lữa, tiên ông thiêu cháy bốn cây, hoá
phép thành bốn chàng tráng sĩ đẹp trai tuấn tú. Tiên ông nhận bốn chàng trai
làm con nuôi và giữ lại để dạy phép tắc, võ nghệ, sau nầy sẽ đi diệt trừ các
loài ác quỷ cứu thiên hạ. Tiên ông đặt tên cho bốn chàng Chămpa Kham (Chămpa
vàng), Chămpa Ngân (Chămpa bạc), Chămpa Thong (Chămpa đồng), Chămpa Keo (Chămpa
ngọc). đúng như màu hoa chămpa ở nhà ông lão làm vườn.
Sau nhiều năm dạy võ nghệ kiếm cung, thấy các chàng học rất
lanh và người nào cũng giỏi, Tiên ông ban cho mỗi người một ná thần rồi giảng
giải cho bốn chàng trai biết muốn cứu dân lành, muốn có công bằng xã hội, mình
không thể chỉ hiền và tốt mà còn phải có sức mạnh, phải có tài phép... trước
cho phép bốn anh em hạ sơn. Về đến mường Piêng-chăn của cha. họ đi tìm cha, mẹ
và vợ chồng lão làm vườn. Lãnh chúa Chun-la-ni mắt mở to, mồm há hốc như không tin
ở tai và mắt mình nữa. Hối hận, ông đập đầu xuống đất khóc lóc thảm thiết. Mấy
hôm sau, mường Piêng-chăn mở ngày hội lớn mừng đón bốn chàng hoàng tử Chămpa trở
về, ông lão làm vườn đứng vai chủ lễ. Triều thần quyết xử trảm phơi nắng mụ
Ac-khi nhưng bốn chàng trai xin tha cho mụ khỏi tội chết, trở về với cuộc đời
dân thường. Trong số bốn vị hoàng tử, anh cả Chămpa Kham được đưa làm phó lãnh
chúa giúp đỡ cha lúc tuổi già yếu, Chămpa Ngân kết duyên với nàng Phatima trở
thành phò mã của mường Chămpa, Chămpa Thong kết duyên với nàng Cay Son làm phò
mã mường Cut-xi-xat-ta-nat. Còn hoàng tử út Chămpa Keo thì về mường
Khiên-tha-ni quê hương mẹ dể diệt trừ yêu quái. Chàng dùng nỏ thần bắn chết hai
con chim đại bàng, nhưng lấy ân báo oán chàng cho chim sống lại buộc từ nay
không được ăn thịt người. Tuy nhiên, hai con chim thấy đã gieo nhiều tội ác với
nhân loại nên không còn muốn sống nữa và truớc khi gục đầu xuống chết, trao tặng
cho hoàng tử hai viên ngọc quý, ngậm vào có thể bay được, có thể nhìn xuyên thấu
từ nơi này sang nơi nọ. Nhân dân mường Khiên-tha-ni cảm kích công trời biển cứu
muôn dân sống lại của hoàng tử, tỏ lòng chàng làm người kế vị duy nhất lãnh
chúa Thac-khiên-thi đã quá già yếu.Như tác giả Hoài Nguyên đã giải thích trong bài tựa cuốn
"Truyện cổ đất nước hoa Champa" (Nxb Thuận Hóa, 1997), chủ đề
tư tưởng của cốt truyện xoay quanh cái Thiện và Ác, cái Nhân và Quả, ở Hiền gặp
Lành, ở Ác gặp Họa và cái Thiện bao giờ cũng thắng cái Ác, vì đó cũng chính là
những điều Giáo lý của Đức Phật vừa là bản chất, tâm tu tình cảm của nhân dân
lao động Lào. Không phải tình cờ mà bốn cây trong truyện mang tên cây hoa
chămpa, trùng tên với vương quốc trước kia ở miền nam Việt Nam. Kể từ thế kỷ thứ
18, khu vực Wat Phou vương quốc Chămpa trở thành tiểu vương quốc Champasak
(1713-1946) mang trong tên một quá khứ Chămpa. Tại quốc gia Lào, hoa chămpa được
gọi là dok champa, tức là cây hoa sứ hay cây hoa đại bên ta. Với mùi hương
thanh khiết, màu sắc thanh nhã, hoa chămpa rất được phổ biến và trở nên biểu tượng
cho xứ Triệu Voi, thể hiện trên huy hiệu mang trên áo thanh niên thiếu nữ. Cũng
như hoa mang tên Sacuanjoche là biểu tượng cho xứ Nicaragua. Hương
hoa chămpa lan tỏa rất xa, nhất là dưới ánh trăng huyền ảo một đêm khí trời ấm
áp. Phụ nữ Lào thích trang trí với một hay nhiều hoa chămpa trên mái tóc, người
đã đẹp lại càng thêm hấp dẫn. Làm sao không rung động được hôm tiếp tân ở Luang
Prabang, dưới ánh trăng vằng vặt, trong bầu nhạc chămpa dịu dàng du dương, một
cô gái Lào, má hồng môi thắm, đẹp như tiên nữ, mái tóc ngào ngạt hương thơm
chămpa ngồi xếp bằng sít trước mặt, miệng nhoẻn một nụ cưới duyên dáng, nắm tay
mình, và nhẹ nhàng cẩn thận cho cuốn vào cổ tay những sợi chỉ baci để
chào mừng khách quý đồng thời cầu mong phúc lành với lời dặn dò giữ gìn sợi chỉ baci thật
lâu cho phúc lành kéo dài! Bay bổng lên chín tầng mây, khách chỉ biết thả hồn
theo gió, tận hưởng những phút thần tiên ít có trong đời.
Vào thế kỷ XV, một nhà quý phái người Ý, ba tước Pompeo
Frangipani, chế tạo một nước hoa mùi quả hạnh để tẩm thơm da dùng làm găng tay.
Ông thợ làm bánh của ông lấy chất thơm ấy ướp hương kem sau này mang tên "kem
frangipan" và chất thơm mang danh frangipan. Khoảng cuối thế kỷ XVII,
nhân đi ngang qua Caraïbes giữa Trung và Nam Mỹ, nhà thực vật học Pháp Charles
Plumier (1646-1706), người đã từng ngang dọc Tân thế giới, khảo sát và vẽ một
cây có hoa thơm ngọt ngào tương tự chất frangipan nên cây được gọi frangipanier.
Cuộc trùng phùng chỉ có chừng ấy. Nguồn gốc Trung Mỹ, cây được đặt tên khoa học Plumeria,
vinh danh nhà thực vật học Pháp Charles Plumier, thuộc họ Trúc đào Apocynaceae,
ta gọi cây sứ. Tùy theo loài, nó được phân chia theo nhiều tên khoa học:
- P.obtusifolia hay P.acuminata, nguồn gốc Mehico,
là cây sứ hoa trắng, thân mập, cong queo, xù xì, cao 2-3 đến 7-8m; vỏ
xốp màu trắng xám, xốp; lá thuôn dài, rộng ở giữa và hẹp lại ở hai đầu, màu
xanh bóng, nhẵn, xếp sát nhau thành vòng ở ngọn cành, khi rụng để lại sẹo ở
càng; hoa lớn 5cm, mọc thành cụm trên một cuống chung, cuống hoa mập dài
30-50cm, cánh hoa dày, mập, màu trắng, trung tâm vàng, mùi thơm, nở quanh năm;
quả ít thấy, dài 19-15cm. Cây trồng bằng giâm cành vào mùa mưa, mọc khỏe, có rễ.
Nhờ dáng đẹp, hoa thơm, cây hay được trồng làm cảnh quanh đền chùa và các công
viên. Chủng trồng P. acuminata var. tricolor hoa trắng, mép hồng
và trung tâm vàng. P. hypoleuca là cây sứ hoa vàng, tương sự
cây hoa trắng nhưng cánh hoa màu vàng đậm.
- Gs Phạm Hoàng Hộ dành tên khoa học P.rubra cho
các cây sứ cùi hay cây đại là cây sứ hoa đỏ, thấp hơn
loài hoa trắng, cành chia nhiều nhánh, xòe thành tầng thấp; lá thuông dài
20-40cm, thon, nhọn ở đỉnh, xanh bóng, không lông, phiến to, xếp sát nhau ở đầu
cành, rụng vào mùa khô; hoa 5-7cm mọc thành cụm ỏ đầu cành trên một cuống
chung, cánh hoa đỏ dày; nguồn gốc Mehico, Equador hay Guyane, được thuần hóa ở
Nam California. Nó được gọi ‘‘cây sứ cùi" vì khi rụng lá, cành cây giống
những ngón tay người bị bệnh cùi (tức bệnh phong hủi) tương tự người Úc gọi nó
là ‘‘cây ngón tay người chết". Thời nhà Nguyễn nó được trồng trong cung điện,
đền đài, lăng tẩm, am thờ làm tăng nét cổ kính. Có khi cây đại thụ quá già qua
thời gian không chịu đựng được gió bảo buộc phải được chống đở hoặc bằng thân
cây hoặc bàng cột sắt làm mất vẻ uy nghiêm, mỹ miều. Ngày nay cây được phổ biến
trồng trong các công viên, vườn tược trước khi trở thành cây cảnh dưới nhiều dạng
được hóa chủng, có khi thành bonzai trong chậu. Những dạng thường gặp
: P.rubra, hoa hường, thường có tâm vàng; P.lutea, vàng, có khi
trộn với hường; P.acutifolia, trắng, tâm vàng, có khi trộn với hường; P.tricolor, trắng, bìa hường, tâm vàng. P.alba là cây đại trắng,
nhánh mập ; lá rộng 1-4cm, phiến thon hẹp hay dài thon, mặt dưới có lông, bìa uống
xuống khi khô; hoa có cọng xanh xanh, đài có răng 1,4mm, màu trắng, tâm vàng
nghệ. P.obtusa được gọi là cây đại lá tà, lớn hơn hai loài trên; lá
cũng to hơn, phiến dài đến 30cm, rộng 10cm, gân trăng trắng, cách bìa 5mm; hoa
to, có cọng dài 30-60cm, thơm, màu trắng, tâm vàng, rộng 4-6cm.
Cùng họ Trúc đào Apocynaceae có cây Adenum
obesum bên ta gọi cây sứ thái hay sứ sa mạc, tương đối thấp,
trồng trong chậu, thoa màu đỏ tươi, có thể uốn tạo thành cây cảnh. Còn có
hai cây ngọc lan, tên khoa học ngọc lan trắng Michelia alba vàngọc
lan vàng Michelia champaca, họ Mộc lan Magnoliaceae, cây rất
cao, hoa thơm không kém hoa chămpa, cùng mang tên champaca, cũng được gọi cây sứ
bên ta. Xin đừng lầm với cây ngọc lan rừng còn được gọi ngọc lan tây tức ngọc
lan ylang ylang hay hoàng lan Cananga odorata họ Annonaceae vì
hoa nó cũng rất thơm. Ở các nước láng diềng của ta cây Plumeria có những
tên phổ biến: kamboja ở Indonesia, kalachuchi ở Philipin, chapha ở
Ấn Độ, araliya ở Sri Lanka, kê đàn hoa, đàn hoàng hoa ở
Trung Quốc,... Người Ấn Độ thường tin trưởng nó là bất tử vì chặt đi nó vẫn ra
hoa ra lá, ngay cả khi bị nhổ đi! Người ta trồng cây sứ cốt yếu là để được thụ
hưởng hương thơm của hoa. Không phải tình cờ mà cây được thấy trong sân chùa, đền
miếu và lắm khi nghĩa địa. Hoa thường được dùng để trang hoàng bàn thờ Phật. Ở nhiều
nước, nhất là ở các đảo Thái Bình Dương, hoa được kết thành vòng đội trên đầu
các cô hay quanh vào cổ khách, đặc biệt các khách du lịch. Phụ nữ Indonesia
dùng hoa cài trên tai để làm tín hiệu cho phái nam nhi: bên tai mặt là chưa hứa... Hương
thơm ngào ngạt năng mùi nên không những ở nước ta mà còn ở các nước lân cận,
dân gian tin tưởng cây là nơi trú ngụ của các loài ma. Truyền thống dân gian Mã
Lai đặt tên ma là pontianak. Tôi nhớ hồi nhỏ, vào những năm thập niên 40,
trong sân trước nhà ông Hoành anh tôi thuê ở Vĩnh Điện, tỉnh lỵ Quảng Nam, có
cây ngọc lan hoa trắng rất đẹp và mùi hương lan tỏa rộng đến nổi người trong thị
trấn đồn là trên cây có ma ở, nhất là nghe nói ông Hoành đã treo cổ tự tử ngay
sau lầu!. Vào đêm những hôm trăng sáng, một ngọn gió thoảng lung lay lá cây các
cành là đủ để gây trong đầu óc đứa trẻ hình dáng một cô gái áo dài trăng tinh
nhởn nhơ khêu gợi... Trong những đêm nầy, người tinh mắt và chịu khó có thể tìm
ra trên cây, không phải một bóng ma, mà một con sâu giả rắn là ấu trùng của
con Deilephila elpenor, bướm đêm nhân sư Asella (Sphinx asella) thuộc họ Sphingidae. Trong
quá trình nỗ lực tìm mật hoa, mặc dầu loại Plumeria không có mật,
nhưng có sắc, có hương, bướm vô tình chuyển phấn hoa từ hoa nầy sang hoa khác từ
đấy thụ phấn cho cây, chứng minh hoa đã nổ lực để bảo vệ nòi giống, từ đấy nói
lên kỹ thuật khéo léo của Tạo hóa.
Phần lớn các Plumeria đều được khảo cứu về mặt thành phần hóa
học và tính chất dược lý. Tinh dầu chiết xuất từ hoa chứa đựng những thành phần
bốc hơi (citronellol, farnesol, geraniol, bornesitol, linalol, phenyl-ethyl
alcohol) và những flavonoid (kaempferol,kaempferol-glycoside, quercetin,
quercetin-glycoside..,quercitrin, rutin...).Trong vỏ thân có beta-sitosterol,
iridoid như fulvoplumierin, allamcin và allamandin, p-benzoquinon, lignan loại
liriodendrin, agoniadin.... Iridoid (P.rubra) có hoạt tính tiêu diệt tế bào ung
thư lymphocytic leukemia trên chuột, fibrosarcoma, melanoma trên
người (J.Nat.Prod.1990). Đặc biệt, chất kháng sinh funvoplumierin chiết ra từ
hoa có tác dụng ngăn cản sự tăng sinh của một số vi khuẩn Mycobacterium
tuberculosis (Experimentia 1952). Fulvoplumierin cũng có khả năng ức chế
men reverse transcriptase của siêu vi HIV-1 trên người (J.Nat. Prod.1991). Chiết
từ rễ cây, ngoài beta-dihydroplumericic acid, beta-dihydroplumericin, còn có
isoplumricin, plumericin. Cả hai chất plumericin có khả năng tiêu diệt nhuyễn
thể, vi trùng (J.Ethnopharm.1991). Nhựa chứa acetyl lupeol, alpha và
beta-amyrin, cerotic acid, lupeol, lupeol acetat, oxymethyl-dioxycinnamic acid,
plumieric acid.. Ngoài môt ít pectin, lá tươi cây P.acuminata chứa
stigmastenol, lupeol arboxylic acid và ursolic acid có tác dụng chống đột biến,
làm giảm số lượng các tế bào MPCE (micronuckeated polychromatic erythrocytes)
trên chuột (Mut.Res.1996). Vỏ, rễ và lá chứa đựng glucozid là một chất đắng
không mùi gọi là plumierid, không có trong hoa. Vỏ thân và vỏ rễ hơi có độc, vị
đắng, tính mát. Thành phần chủ yếu trong nhựa mủ là plumeric acid. Một công
trình khảo cứu ở Ấn Độ chứng minh hoa và lá được dùng để chữa bá bệnh nhờ ở
tính chất phản oxy hóa (P.rubra).
Theo Đông y, hoa sứ có vị ngọt, tính bình, có các tác dụng
thanh nhiệt, lợi tiểu, nhuận tràng, bổ phổi, dùng làm thuốc chữa ho, viêm ruột,
lỵ, gan, phế quản, phòng say nóng, trị chứng khó tiêu, kém hấp thu ở trẻ em, chữa
bệnh huyết hữu, cao huyết áp dưới dạng thuốc sắc. Lá có tác dụng hành huyết
tiêu viêm, rửa sạch, giã nhuyễn, thêm vào chút muối và đắp vào những nơi sai khớp,
bong gân, mụn nhọt (P.rubra). Cũng có thế hơ lá lên lửa cho héo và đắp phía
ngoài rồi cố định bằng băng hoặc vải sạch. Vỏ có vị đắng, tính mát, có tác dụng
thanh nhiệt, tả hạ, tiêu thủng, sát trùng, điệu kinh, trị nóng nhiệt. Vỏ cây
cũng được dùng trị bệnh hoa liểu (P. acuminata). Vỏ rễ trị bệnh lậu, bệnh loét
đường sinh dục. Vỏ thân và vỏ rễ dùng dưới dạng thuốc sắc có tác dụng tẩy mạnh,
tháo nước, dùng trong trường hợp thũng nước, chữa táo bón (thay thế cho đại
hoàng). Vỏ cây có thể chế thành cao dùng với liều lượng nhỏ và tăng dần. Chữa
chân răng sưng đau, ngậm vỏ rễ ngâm rượu. Nhựa mũ của thân chữa mụn cốc, chai
chân, sưng tấy, mụt nhọt, dùng dưới dạng nhũ dịch, còn được bôi ngoài để chữa
chai chân và vết loét viêm tấy. Hạt dùng để cầm máu (P.alba). Dầu chiết xuất từ
hoa nhờ hương thơm được dùng trong mỹ phẩm, để làm chất khử mùi, khử trùng. Dầu
sứ là một chất thuốc chống sán, giun đũa. Nhờ những hiệu lực bổ phổi, làm dịu,
nó được dùng chống những chứng viêm phổi, phế quản. Dầu sứ cũng được bôi lên
thuốc đắp vào hạch bẹn.Hoa gì đây?Hoa chămpa tế nhị, thơm tho, trên mái tóc cô gái Lào dịu hiền,
thôn dã, phản ảnh một nét đẹp giản dị, đồng quê. Dân Lào không được biết là người
hiếu chiến, có người cho năm cánh của hoa thể hiện sự đoàn kết với năm nước
láng giềng. Những hôm viếng thăm đất nước "Triệu Voi", dạo chơi ở
Luang Prabang, lững thững trong sân chùa Vat Xieng Thong yên tĩnh trên bờ Me
Kong, ngào ngạt thương thơm hoa chămpa, ngắm nhìn các chú tiểu hồn nhiên nắm
tay nhau tươi cười trong bóng mát, khách cảm thấy đắm mình trong một bầu hòa
bình, hạnh phúc. Cũng như hôm ăn trưa trong một tiệm trên bờ sông Nam Khan êm đềm
nước chảy, bà chủ tiệm cùng bạn bè tự động hiến khách những điệu tình ca dân
dã, tuy không hiểu lời, khách cũng sẵn sàng chia sẻ lối sống bình dân vui tươi
của người dân "đất nước hoa chămpa". Mang trong lòng một tâm hồn chất
phát, thật thà, chắc chắn họ là những người vời vợi tình cảm, dạt dào tình
thương. Trong bầu nhạc sống nồng nhiệt, một người bạn đồng hành người Pháp thỏ
thẻ cùng tôi: về Pháp, mình phải xét lại lối sống bên phương trời Tây!.
Hương chămpa thơm lừng trong gió
Gởi đến em, người con gái ta thương
Một góc tình yêu vàng như màu nắng
Mãi thơm trong tựa cánh hoa rừng...
Hansy (Gởi hương)
Có một mùa hoa chămpa
Em cùng anh tự tình bên suối
Màu hoa vàng nhuộm mắt ai đắm đuối
Ðể hương thơm theo mãi suốt đời...
Bun Ni (Có một mùa hoa)
Thành Xô mùa xuân 2016
Võ Quang Yến
Nguồn: Khoahocnet.com/






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét