Hoa cau vườn trầu
Bóng một giàn hoa một lá trầu,
Ngày xanh lui lại nhớ hàng cau
Thái Ngộ Khê
Sau mấy chục năm tha hương, về nước dự đám cưới một người
cháu, tôi ngạc nhiên thấy nhà trai còn đem cau trầu làm sính lễ lại đón cô dâu
như thời trước. Tôi mừng thầm, sau hai cuộc chiến tranh dài dăng dẳng, thảm
thê, truyền thống vẫn còn giữ và dân tộc không quên chuyện truyền thuyết tình cảm,
sâu xa của hai anh em Cao Tân, Cao Lang và cô gái học Lưu tên Liên thời
Hùng Vương kể lại trong Lĩnh Nam chích quái. Thật ra, Việt Nam
ta không phải là nước độc nhất dùng cau trầu trong dịp cưới hỏi. Suốt vùng châu
Á, phía đông bao trùm Thái Bình Dương đến các đảo cạnh Úc châu, phía tây vượt
quá Ấn Độ đến bờ biển Phi châu, phía bắc lấn tràn Miến Điện và miền nam Trung
Quốc, phía nam chiếm toàn Đông Nam Á với quần đảo Nam Dương, ở đâu đất đai và
khí hậu cho mọc cau, trầu là nơi đó có tục lệ cau trầu.Bên Java, khi một chàng trai hỏi ý một cô gái, cô gởi trả một
miếng trầu bọc hai lá: nếu úp cùng chiều là cô ta ưng ý. Cô vợ Arakan bên
Myanmar thì đem lá trầu xé làm hai đưa cho chồng một nửa: nếu anh quấn làm miếng
trầu ăn tức là anh đồng ý để vợ ra đi. Không phải tình cờ mà người Mã lai lấy
tên cây cau, pinang, đặt tên meminang cho cuộc dạm hỏi rồi pinangam cho
đám hỏi, còn người ở đảo Bali thì đặt tên cho một hòn núi Pinang
Gunggam. Bên Ấn Độ, bất cứ lễ sinh con hay lễ tế người chết đều phải có
cau trầu. Người Borneo đặt cau trầu quanh thi hài người quá cố cùng với những vật
thường dùng hằng ngày. Người Sumatra mang cau trầu đi biếu dân làng mình đến viếng
cũng như lúc sắp từ giã... Cưới hỏi, ly dị, kết nghĩa, chia ly,... rất nhiều
quan hệ xã hội lúc sống, khi chết, đã được diễn tả qua cau trầu.
Đi xa hơn, cau trầu còn là mối liên quan giữa người và thần
linh. Nước miếng đỏ trong miệng người ăn trầu, rất lạ mắt và có phần ghê tởm
cho những người phương Tây, hình dung một sức mạnh cốt tử trong mắt nhiều bộ lạc.
Người Macassar ở Sulavesi dùng nước ăn trầu thoa trán và thái dương trẻ con bị
bệnh. Bên Philippines thì nước trầu được bôi vào bụng con nít để tránh cảm lạnh.
Ở nhiều chỗ khác, nước trầu còn có tính chất bùa yêu mầu nhiệm. Ở Timor chẳng hạn,
thầy phù thủy nhìn màu nước trầu phết vào trán người chiến sĩ để suy đoán vũ lực
và khả năng chiến đấu. Bên Java, đường gân lá trầu chỉ định bản chất cơn bệnh,
còn màu nước trầu thì biểu lộ tính tình. Người Batak ở Sumatra cung hiến miếng
trầu cho ma quỷ để chúng khỏi rượt đuổi con người (1). Ở Bali, tôi chứng
kiến được hằng ngày các cô gái tân thời, áo cụt, quần jeans, tóc dài, da thắm,
đẹp như tiên nữ, tung tăn, tươi cười, hồn nhiên chạy đặt những khay trầu bằng
lá tí hon trước cửa nhà cũng như khắp các nẻo đường, theo một tục lệ có từ ngày
xưa, bất chấp chúng có tồn tại được lâu hay không.
Thật ra, cau trầu không chỉ là một chuyện dị đoan. Nếu bây giờ
miếng trầu qua các tay phù thủy, thì trước kia những thầy thuốc như Sushruta ở Ấn
Độ từ thế kỷ 1, những lương y Ả Rập như Rhazes, Avicienne qua thế kỷ 10 đã công
nhận những giá trị y học của cau trầu. Các sách xưa ghi miếng trầu kích thích
nhiệt huyết, đem hương vào miệng, củng cố cơ thể, nảy nở vẻ đẹp, tiêu tan bệnh
tật, giúp thêm điềm tĩnh,... Nó còn có khả năng tăng sức tim, chữa đau răng, củng
cố nướu răng,... Theo một số sách khác, nó là một trong những thích thú trong đời
bên cạnh ăn uống, áo quần, hương hoa, phụ nữ. Ngày nay, miếng trầu được xếp
ngang hàng với guarana, kola,... những chất nhai chơi có khả năng kích
thích (9). Trái lại, các tu sĩ Myanmar tin nhai trầu cổ võ suy nghĩ, kích
thích tịnh tâm (2).Hoa cau rụng trắng ngoài thềm
Tục lệ cau trầu chỉ được phổ biến ở Âu châu từ những thế kỷ
16, 17, 18, bắt đầu với những người Bồ Đào Nha. Tiếp xúc với người Ấn Độ và người
Mã Lai, họ hấp thu hai danh từ vittilei và vetila để chỉ trầu, dần
dần đọc trạnh ra vettele, bettele,… cho đến ngày nay thành betle hay betel. Bên
phía cau thì hai danh từ akakeya (Ấn Độ) và adakka (Mã
Lai) đã được biến ra thành arec, (noix d'arec), aréquier. Những người Anh
quen dùng chữ betle chỉ định trầu, từ đấy cây trầu betle
vine, lá trầu betle leaf, miếng trầu betle quid, và kỳ
quái là cả ngay trái cau betle nut cho nên lúc ban đầu hay có sự lẫn
lộn.
Ở Ấn Độ, tiếng Sanskrit để chỉ trầu là tâm bula, đổi
thành tambuli, tambulam trong tiếng Pali, tamboli,
tambolam trong tiếng Prâkrit, tambul trong tiếng Persan, al
tambul trong tiếng Ả Rập. Phát xuất từ một tiếng Sanskrit khác, parna, người
Hindi ngày nay gọi trầu là pân, cho nên những quầy quán bán trầu bên Ấn Độ,
Myanmar mang tên panshop. Trong ngôn ngữ Nam Á, chữ trầu thay đổi với các
sắc tộc: Khơme mluv, Bana bơlơu, Stieng mlu,
Kha blu, Kha blu, Thái Lan phlu, Môn jablu, halang lamlu (1).
Người Chăm một thời gồm có hai thị tộc: Dừa và Cau. Thị tộc Cau chiếm giữ vùng
Panduranga tức Phan Rang ngày nay và tháp Pô Klaung Garai đã được vua Jaya
Simhavarman III (ta gọi Chế Mân) dựng lên trên núi Trầu (3) tức Bôn
Hala. Lễ vật cúng ở đây ngoài dê, gà, bánh rượu, lúc nào cũng có kèm theo cau
trầu. Sách vở còn kể nghệ nhân Chăm biết dùng vàng, bạc, đá quý tạo nên những hộp
đựng cau, trầu, vôi chạm trổ công phu. Trong đám quân binh tháp tùng nhà vua,
luôn có những người lính mang những hộp ấy và lễ vật cống hiến Trung Quốc không
bao giờ thiếu hộp cau trầu. Ở miền Nam nước ta còn có làng Trầu Phù Lưu, Thập
bát Phù viên tức Làng Trầu 18 thôn làm nên quê hương vườn trầu lý tưởng (4).
Ở Việt Nam ta, từ điển Alexandre Rhodes viết blâu, đọc giầu ở
miền Bắc thay vì trầu. Ngoài vôi, cau trầu thường được ăn với vỏ cây
chay. Cũng như ở các nước Đông Nam Á khác, cau trầu có mặt trong tất cả các buổi
lễ cúng, cưới hỏi, trang hoàng, trong hoàng tộc cũng như ngoài dân gian. Nó
"biểu tượng cho sự kính trọng, cho lòng biết ơn, cho sự tạ lỗi - mỗi một
khi nhà có việc, đều không thể thiếu cơi trầu, bình vôi, người bạn đường chung
thủy của trầu cau - là quyền lực của người nội tướng trong gia
đình..." (4a). Trong giao tiếp, miếng trầu là đầu câu chuyện, thay
vì điếu thuốc, chén trà. Rồi khi quen nhau nhiều, không xa nhau lâu được: Láng diềng đã đỏ đèn đâu, Chờ em chừng giập bã trầu em sang (Nguyễn
Bính). Đêm đêm hẹn nhau ân ái ngoài vườn : Quê em là đêm trăng tỏ, Hoa cau
rụng trắng ngoài thềm (Đỗ Trung Quân). Nhận một miếng trầu là gần như một
lời cam kết: Miếng trầu ăn nặng bằng chì, Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn. Sau
nầy thành vợ thành chồng, có con cái, ru con ngủ cũng còn lẩn vẩn với chuyện
cau trầu : Mua vôi chợ Quán chợ Cầu, Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh...
Nhưng nếu bản thân cau trầu luôn còn là bài thơ muôn thuở của
con người (4) thì ngày nay khoa học lại phân tích tìm kiếm trong các
loại thảo mộc nầy những tính chất dược lý có thể đem ra ứng dụng trong đời sống
hằng ngày. Mang tên khoa học Pepper (hay Piper) betle
(hay betel) L., trầu, hay trầu không, thuộc họ Hồ tiêu Piperaceae. Tên
khoa học của cau, còn được gọi binh lang, tân lang, là Areca catechu L.,
thuộc họ Cau Arecaceae. Trái cau thường được miêu tả trong sách báo
qua tên areca nut hay, vì lầm lẫn như đã thấy, betle nut. Bên ta
nhân dân dùng lá trầu giã nhỏ, cho thêm nước sôi vào dùng rửa những vết loét, mẩn
ngứa, viêm mạch bạch huyết. Nước pha lá trầu còn được dùng làm thuốc nhỏ mắt chữa
viêm kết mạc, chữa bệnh chàm mặt của trẻ em. Có nơi còn giã lá trầu cho đắp lên
ngực để chữa ho và hen, hoặc đắp lên vú cho sữa không ra nữa. Trái cau thường
được dùng làm thuốc lợi tiểu (gọi là đại phúc bì), chữa giun sán cho người và
súc vật, giúp sự tiêu hóa, chữa viêm ruột, lỵ, trẻ con chốc đầu, hợp với thường
sơn, thảo quả trong đơn thuốc "trường sơn triệt ngược" chữa sốt rét
(*).
Đôi ta nâng mấy cơi trầu
Đem phân tích, lá trầu chứa đựng năm propenylphenol có tính
chất khử nấm, trừ giun: chavicol, chavibetol, allyl pyrocatechol, chavibetol
acetat, allylcatechol acetat. Những chất phenol khác cũng đã được tìm ra:
hydroxy chavicol, eugenol, methyl eugenol, isoeugenol, flavon, quercetin, nhiều
nhất là safrol trong hoa. Hydroxy chavicol, tác dụng mạnh nhất, cùng eugenol và
tocopherol là những chất kháng oxi hóa đã được chiết xuất từ thân trầu. Những
chất 3beta-acetyl ursolic acid, ursolic acid và beta-sitosterol có tính chất chống
viêm. beta-sitosterol cũng đã được xác định dưới dạng palmitat trong rễ trầu
cùng piperin, piperlonguminin trong thân và tritriacontan, cepharadion,
dotriacontanoic, stearic acid trong lá. Bên Ấn độ, một cuộc khảo cứu các tinh dầu,
phân biệt được các loại trầu trồng ở các vùng. Trầu Bangla chứa nhiều eugenol
(64%), đặc biệt chống nấm, trầu Desawari nhiều propenyl benzodioxol (45%). Hai
chất anethol và cis-caryophyllen nổi trội trong trầu Meetha. Trong năm loại trầu
vùng Kapoori thì có cả một loạt hóa chất: alpha-thujen, beta-ocimen,
delta-cadinen,... Trầu Sanchi đặc biệt có steraldehyd không tìm ra trong các trầu
khác.Tinh dầu trầu có tác dụng hạ huyết áp, duỗi bắp cơ, trị giun
sán, chữa dị ứng (22) như lá trầu (23). Trầu hỗn hợp với những
phần chiết tiêu lốt Piper longum, thùn mùn Embelia ribes, cam thảo
dây Abrus precatorius, tinh dầu Polianthes tuberosa, natrium borat,
làm thành một thuốc ngừa thai dài hạn (11). Trầu có khả năng hủy bỏ tác dụng
đột biến của những chất gây ung thư nitrosonornicotin và methyl nitrosoamino
pyridyl butanon từ thuốc lá nhờ những eugenol, hydroxy chavicol, chlorophyll,
vitamin C cũng như chống dimethyl benz[a] anthracen nhờ beta-caroten. Trầu chiết
được dùng với bạc hà trong một hỗn hợp thuốc thơm để cho vào nước súc miệng (21).
Có hoạt kháng chống oxi hóa (24), lá trầu lại hoãn chậm sự ô khét bơ dầu
nhờ vậy giữ được lâu (25).
Như trong lá chè, trái cau chứa đựng nhiều tannin gây ra mùi
vị đặc biệt và được xem như là những chất gây ung thư. Từ tannin nầy, đã được
chiết xuất ra những catechin, epicatechin, leucocyanidin, cùng những chất
proanthocyanidin, di- tri- tetra- và penta procyanidin. Trong số các
procyanidin, đặc biệt arecatannin B1 ức chế hoạt động của trùng HIV-1-PR.
Một số chất khác quan trọng trong trái cau là những alcaloid (2,38 mg/g): (%)
arecolin (0,30-0,63), arecaidin (0,31-0,66), guvacolin (0,03-0,06), guvacin
(0,19-0,72) và những dẫn xuất nitroso của chúng rất độc hại cho gen, cho tế bào
biểu mô miệng, niêm mạc mũi, có thể gây u tuyến ở phổi. Những aflatoxin B1, B2,
G1, G2 (3,5-26,2 µg/kg) trong cau bị nhiễm trùng Aspergillus
flavus cũng có tác dụng gây ung thư. Safrol có khả năng gây ung thư ở thực
quản. Acrolein thì rất độc hại cho gen nhưng lại làm giảm hạ đường trong máu thỏ
đã bị alloxan gây bệnh đái đường. Vôi Ca(OH)2 cho phát xuất những gốc OH
có thể làm tổn thương những tế bào miệng. Người ta biết khi thay đổi pH, chẳng
hạn lúc tiếp xúc với vôi là một chất alcali, những alcaloid có khả năng thay đổi
màu, ví dụ nhuộm đỏ trong nước miếng người ăn trầu. Vôi có khả năng ức chế
methyl mercaptan phát tiết ra ngoài nên ăn trầu đỡ hôi miệng. Chính vôi cũng đã
thủy phân arecolin và guvacolin ra thành arecaidin và guvacin. Cùng với hai chất
nầy, đã được xác định những alcaloid khác: nicotin, methyl nicotinat, ethyl
nicotinat cùng dimethyl piperidin carboxylat, ethl methyl tetrahydro pyridin
carboxylat. Những polysaccharid trong vỏ trái có tính chất chống bổ thể, trình
bày một số đường 48,2% (rhamnose, arabinose, mannose, galactose) cùng uronic
acid, protein. Saccharin được xác định trong cau dưới dạng muối natri. Ngoài
các acid mỡ (lauric, myristic, palmitic, stearic, phtalic acid) cau còn chứa đựng
những amin acid: ít tryptophan, methionin, hơn 15% prolin, hơn 10% tyrosin,
phenylalanin arginin.
Trong một cuộc khảo cứu rộng lớn trên 100 thảo mộc ở Á Đông,
hãng Coreana Cosmetics đã tìm ra cau cùng với riềng, nghệ, cải, đinh hương, đơn
bì, đại hoàng,… trong số những cây có thể dùng để chiết xuất chất kháng oxi
hóa. Một ứng dụng được thực hiện dựa lên tính chất nầy là cho trộn cau với
dương mai (28) hay với riềng Curcuma longa, đinh hương Syzygium
aromaticum, mộc hương Saussurea lappa (có khả năng khử melanin) làm
thuốc bảo vệ da (18). Có mỹ phẩm dựa lên tính chất khử thải những gốc tự
do của cau (27), hỗn hợp vói vitamin C (29) hay cam thảo bắc Glycyrrhiza
glabra (30). Nhờ khả năng ức chế tác dụng 5’-nucleotidase,
glucotransferase trong Streptoccocus mutans của những chất phenol,
procyanidin và acid mỡ, cau được dùng để chữa sâu răng, trị viêm răng, chống mảng
răng (17). Bên ta trước kia đã thấy có thói dùng vỏ trái cau chùi răng, một
vật liệu vừa hữu hiệu vừa dễ kiếm cần phải được khuyến khích. Những chất
phenol, đặc biệt những ester, thức biệt thành NF-86I, NF-86II, NPF-86IA,
NPF-86IB, NPF-86IIA, NPF-86IIB, cau được đưa vào thuốc trị u khối (13,14),
chữa các chứng nhiễm virus (16). Vì ức chế glycerophosphat deshydrogenase,
chúng được cho vào thức ăn chống béo (20). Cũng như trầu, tiêu Piper
nigrum, rau ngót Sauropis androgynus,… cau thuộc số ít thảo mộc ức chế
rất mạnh giun tròn Bursaphelenchus xylophilus, theo một bản báo cao Mã
lai. Trong cau có một phần tannin ức chế được enzym chuyển đổi angiotensin nên
được xem là chất chống huyết áp (12). Dùng dichloro methan chiết xuất, cau
cống hiến một chất thuốc chống trầm cảm (26).
Vườn em đất tốt trồng cauMột vấn đề khá quan trọng đã được nhiều giới khoa học
lưu ý, đặc biệt ở Ấn Độ là khả năng gây ung thư của miếng trầu. Các bài tổng kiểm
đã được sử dụng lượt kê gần 500 bản báo cáo đủ loại. Kết luận đến nay chưa ngã
ngũ rõ ràng. Công tác sâu rộng và đầy đủ nhất, tuy hơi xưa (1985), được Tổ chức
Quốc tế Khảo cứu về Ung thư thực hiện (5). Theo bài này, có đủ chứng cớ để
tin ăn trầu, thêm hút thuốc, dễ gây ung thư trên con người nhưng không thể buộc
tội miếng trầu một mình. Như vậy là nghĩa là người vừa ăn trầu vừa hút thuốc có
nhiều khả năng mắc bệnh ung thư họng nhưng không thể nói gì về người chỉ ăn trầu
mà thôi. Hai mươi năm sau này, nhiều bài tổng kiểm khác lại bổ túc. Theo Giáo
sư Iwao Hirono (6), dựa lên những khảo cứu về mặt dịch tể học ở đàn ông,
đàn bà các nước Ấn Độ, Mã Lai, Trung Quốc, thì ung thư chỉ do những yếu tố môi
trường như cách thức ăn trầu chỉ định chứ không dính dáng gì đến di truyền dân
tộc. Ông đưa ra mâu thuẫn lá trầu có khả năng ức chế gây ung thư benzo[a]pyren
còn cau và vôi thì có tác dụng ngược lại. Một công tác tương đối mới hơn
(1989) (7) nhấn mạnh vai trò của những alcaloid trong miếng trầu vì
chúng tác dụng với vôi để cấu tạo những gốc tự do phá hoại màng nhầy trong miệng,
nơi mà vôi đã từng gây viêm. Đằng khác, thuốc lá vừa gây phản ứng nitroso hóa
các alcaloid kia vừa đem thêm vào những nitrosamin độc hại của chính mình. Tuy
nhiên các tác giả công nhận là không có thuốc lá, miếng trầu chưa chắc đã gây
ung thư. Thiếu vitamin trong cơ thể, hoạt động vi khuẩn trong miệng và tác dụng
gây kích thích của vôi và cau là những tác nhân tiềm lực.
Theo Giáo sư P.C. Gupta (8), người đã theo dõi lâu ngày
lãnh vực nầy bên Ấn Độ, tuy khảo cứu dịch tể học cũng như thực nghiệm không chứng
minh được miếng trầu không thêm thuốc lá đã đem lại ung thư, cau trong miệng đã
gây những xơ dưới niêm mạc trong miệng tức là một tổn thương tiền ung thư. Một
người hút thuốc đã có sẵn những xơ nầy tất nhiên dễ bị ung thư hơn những người
khác. Ông lập chương trình phòng ngừa : ngừng hút thuốc nếu ăn trầu và khám
nghiệm kịp thời để phát giác thời tiền ung thư. Sau cùng, một công tác khảo cứu
tại viện Đại học Đài Loan (10) đặt lại toàn thể vấn đề. Theo các tác
giả bài báo nầy thì tính độc của polyphenol, alcaloid và tannin trong cau
chưa được chứng minh rõ ràng và cần phải được xem lại. Phản ứng oxi hóa những
polyphenol của cau trong nước miếng người ăn trầu cho phát xuất những loại oxi
có hoạt tính lớn là mấu chốt mọi khởi xướng và phát triển ung thư miệng. Phản ứng
nitro hoá những alcaloid cấu tạo nên những nitroamin đặc thù của cau đã được chứng
minh là những chất gây đột biến, rất độc về mặt gen và có khả năng cho đột nhập
u khối vào thú vật như arecaidin và phần chiết từ cau. Nhiều thí nghiệm sẽ cần
được thực hiện để nêu rõ sự chuyển hóa của những thành phần cau và vai trò của
chúng trong phản ứng nhiều đợt gây ung thư hầu mong từ đấy tìm ra phương pháp
phòng ngừa và chữa ung thư miệng cũng như u xơ dưới niêm mạc miệng.
Song song với những khảo cứu y khoa kia, kỹ nghệ cũng kiếm
cách ứng dụng những tính chất của cau. Những phenol có khả năng bảo vệ những
nucleotid chống tác dụng phá hoại của những enzym nên được dùng bảo vệ thức
ăn như dưa chuột để giữ hương vị. Chúng ức chế urease chế tạo ammoniac trong
urea nên được dùng làm thuốc thơm trong vật liệu bảo dưỡng mèo. Người ta đã làm
thuốc nhuộm vải, lụa với phần chiết từ cau. Tannin được trộn với natrium
sulfat, natrium carbonat làm thuốc nhuộm tóc đen xám (15). Nhờ chất
proanthocyanidin, đặc biệt chất epicatechin-catechin, cau đưọc hòa với acetyl
glutamin acetat, butylen glycol glycerol trong ethanol và nước thành thuốc kích
thích tóc mọc (19). Một loại giấm giàu enzym và amin acid, xúc tiến sự
tiêu hóa, gồm có một phần hột cau, nước gừng, cải củ, khoai mài,... Thân cây
cau có nhiều lignin, ít hollocellulose, có tính chất cơ lý học tương đương với
các gỗ cứng khác thường được dùng làm giấy. Vỏ trái cau đem xử lý với nấm đỏ Phanerochaete
chrysosporium tăng số lượng protein lên quá 100%, còn nếu để nguyên
cho ủ thì lignin hủy hoại đến 62% nhưng năng suất khí methan phát ra tăng lên
48%. Tôi rất ngạc nhiên chưa thấy một nước nào, nhất là các nước ít giàu, dùng
vỏ trái cau làm bót đánh răng, vừa rẻ tiền, vừa vệ sinh.
Mỗi lần về quê, nhìn hàng cau trong nắng, tôi nhớ đến Hàn Mặc
Tử, nhớ qua thôn Vỹ, nhớ về Nam Phổ làng xưa. Trong tai tôi bên phương trời Tây
luôn còn văng vẳng giọng hát ngọt ngào của Thu Hiền:
Nhà anh có một vườn cau,
Nhà em có một vườn trầu,…
Tham khảo:
(*) Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam,
nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (1968/1986) 135,190
1- Solange Thierry, Le bétel trong Catalogues
du Musée de l'Homme, I. Inde et Asie du Sud-Est, 14-20
2- Dawn F. Rooney, Betel Chewing. Traditions in South-East Asie trong Images
of Asia (1993) 1-15
3- Ngô Văn Doanh, Tháp cổ Chămpa. Sự thật và huyền thoại, nxb Văn hóa –
Thông tin (1994) Hà Nội 175-186
4- Nguyễn Ngọc Chương, Trầu cau Việt điện thư, nxb Hồ Chí Minh (1990/1997)
18 ; 4a- Trần Ngọc Thêm, Lời giới thiệu
5- International Agency for Research on Cancer, IARC Monographs on the
evaluation of the carcinogenic risknof chemicals to humains, Vol. 37, IARC
(1985) Lyon 141-202
6- I. Hirono, Naturally occuring carcinogens of plant origin, trong Bioactive
molecules, nxb Kodansha-Elsevier (1987) Tokyo-Oxford-New York 167-181
7- S. Sen, G. Takukder, A. Sharma, Betel cytotoxicity, J.
Ethnopharm. 26 (1989) 217-46
8- P.C. Gupta, Betel quid and oral cancer : prospects for prevention, Tobacco
Smoke and Mycotoxins, IARC (1991) Lyon 466-470
9- J.F. Morton, Widespread tannin intake via stimulants and masticatories,
especially guarana, kola nut, betle vine, and accessories, Basic Life
Sci. 59 (1992) 739-65
10- J.H. Jeng, M.C. Chang, L.J. Hahn, Role of areca nut in betel
quid-associated chemical carcinogenesis : current awareness and future
perspectives, Oral Oncology 37(6) (2000) 477-92
11- P.C. Das, Oral contraceptive (long-acting), Brit. 1,445,599
(1976) 11tr.
12- J. Inokuchi, H. Okabe, T. Yamauchi, A. Nagamatsu, G. Nonaka, I.
Nishioka, Antihypertensive substance in seeds of Areca catechu L., Life
Sci. 38(15) (1986) 1375-82
13- K. Uchino, T. Matsuo, M. Iwamoto, New 5’-nucleotidase inhibitors,
NPF-86IA, NPF-86IB, NPF-86IIA, and NPF-86IIB from Areca catechu. Part I.
Isolation and biological properties, Planta Med. 54(5) (1988) 419-22
14- T. Matsuo, M. Iwamoto, Y ? Tonosaki, A. Fukuchi, Novel antitumor
substances from betel nut, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 63,307,892
(1988) 24tr.
15- K. Mizumaki, Hair dyes extracted from plants, Jpn. Kokai Tokkyo
Koho JP 02,138,114 (1990) 7tr.
16- A. Fukuchi, M. Iwamoto, K. Uchino, H. Ogawara, H. Hideki, N.
Yamamoto, Virucide extraction from betel nuts for treating human
immunodeficiency virus infection, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
02,196,725 (1990) 22tr.
17- M. Iwamoto, K. Ugino, Y. Toukairin, K. Kawaguchi, T. Tatebayashi, H.
Ogawara, Y. Tonosaki, The growth inhibition of Streptococcus mutans by
5’-nucleotidase inhibitors from Areca catechu L., Chem. Phar. Bull. 39(5)
(1991) 1323-4
18- S. Shirota, K. Myazaki, M. Ichioka, T. Yokokura, Skin-lightening
cosmetics containing melanin inhibitors from plants, Jpn. Kokai Tokkyo
Koho JP 06,227,960 (1994) 54tr.
19- T. Takahashi, Y. Kobayashi, M. Kawamura, Y. Yokoo, T. Kamiya, T.
Tamaoki, Hair growth stimulant , PCT Int. Appl. WO 96 00, 561
(1966) 22 tr.
20- T. Wada, T. Mizumo, K. Uchino, Glycerophosphate dehydrogenase
inhibitors, their use as food additives, and antiobesity foods containing them, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 09,286,734 (1997) 6tr.
21- Y. Yahamara, T. Aoki, K. Miyake, H. Shioda, Agents and method for
improvement of flagrances and flavors using Piper betle extracts, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 11130685 (1998) 8 tr.
22- Y. Yamahara, Anti-allergic effects of Piper betle, Food Style 21 2(4)
(1998) 66-8
23- J. Yamahara, Allergy inhibitors containing extracts of Piper betel, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 11130685 (1999) 5 tr.
24- C.K. Wang, H.Y. Su, C.K. Lii, Chemical composition and toxicity of
Taiwanese betel quid extract, Food Chem. Toxicol. 37(3-2) (1999)
135-44
25- L.P. Lean, S. Mohamed, Antioxidative and antimycotic effects of
tumeric, lemon-grass, betel leaves, clove, black pepper leaves and Garcinia
atriviridis on butter cakes, J. Sci. Food Agric.79(13) (1999) 1817-22
26- A. Dar, S. Khatoon, Behavioral and biochemical studies of
dichloromethane fraction from the Areca catechu nut, Pharmarm. Bochem.
Behavior 65(1) (2000) 1-6
27- B.G. Cho, G.G. Lee, G.S. Lee, Composition of free radical eliminating
cosmetic material containing extract of Areca catechu L., Repub. Korean
Kongkae Taeho Kongbo KR 2001058419 (2001) không có số tr.
28- J.D. Choi, G.H. Kim, G.S. Kim, G. Geon, Whitening and wrinkle
improvement cosmetics composition containing Areca catechu extract and arbutin, Repub.
Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 20021205 (2002) không có số tr.
29- J.D. Choi, G.G. Lee, G.S. Lee, Cosmetic compositions comprising
vitamin C or derivatives thereof and Areca catechu L. extract for preventing
skin aging, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2003043471 (2003)
không có số tr.
30- K.K. Lee, K.S. Lee, medicinal cosmetical composition with Areca
catechu seed extract, PCT Int. Appl. WO 2004089327 (2004) không có số
tr.
Võ Quang Yến
Nguồn: Trích "Thông tin Khoa học
và Công nghệ 2 (28) (2000) 3-11"
Theo http://chimviet.free.fr/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét