Thứ Tư, 28 tháng 9, 2022

XXXXHòa Vang: Bụi hè đường cuốn bốc tung bay

Hòa Vang: Bụi hè
đường cuốn bốc tung bay

Trong những ngày rả rích mưa dầm gió bấc se se của mùa xuân miền Bắc, tôi chợt nhớ đến truyện ngắn “Sự tích những ngày đẹp trời” của Hòa Vang. Những giọt mưa (thu), nhờ có nhà văn, được mang tên “mưa Thủy Tinh”. “Chúng nhỏ bé, tí xíu, mà vẫn trọn vẹn mang hồn biển,… rây bột muối lên cả thành cửa sổ, làm mặn cả ngoài hiên...” Ngày mưa, nhớ lại tình yêu, rồi liên tưởng đến câu chuyện tình viết với những ngôn từ tinh tế của Hòa Vang, tôi thấy chợt tò mò muốn biết về ông.
Cô bạn gái của tôi nhớ lại thửa học trò, trong giờ sinh hoạt, lớp phó học tập tay cầm một tờ báo đứng trước lớp nói: “Các bạn, hôm nay, tớ có truyện ngắn hay lắm. Tớ sẽ đọc cả lớp mình cùng nghe nhé!” Vậy là chuyện tình Sơn Tinh-Thủy Tinh-Mị Nương vang lên trong lớp học đầu những năm 90 ấy. Lần đầu tiên, một phiên bản khác hẳn sự tích Sơn Tinh-Thủy Tinh được học từ cấp I, một sự lý giải, một góc độ nhìn nhận mới mẻ, lãng mạn, đầy tình cảm của một câu chuyện tình. Và Thủy Tinh, một chàng trai với tình yêu mãnh liệt, có nỗi oan tình, nhưng yêu cuồng nhiệt, tình yêu được thi vị hóa... Đoạn văn hay nhất bạn đọc là đoạn văn tâm sự của Thủy Tinh, về nỗi oan ức suốt mấy nghìn năm: “Một kẻ bị muôn đời gớm ghiếc, nguyền rủa và cô đơn. Nỗi cô đơn mênh mông, cồn cào, như cả xứ sở đầy sóng gió, biển cả và đại dương của tôi. Nhưng tôi yêu... Tôi đã yêu em, từ lâu lắm rồi cho đến mãi mãi...” Và giờ đây, cầm trên tay cuốn Hạt bụi người bay ngược do hoạ sĩ Trần Đại Thắng tặng, tôi lần giở đọc như thấm từng trang sách. Truyện ngắn “Linh nghiệm” như một bài học ngụ ngôn, khiến người đọc bàng hoàng, ngẫm nghĩ. Nghệ thuật viết của Hòa Vang trong truyện này đạt trình độ khá cao, gợi nhớ đến một Đàn hương hình của Mạc Ngôn. Tìm thông tin trên Google, tôi đọc được bài viết của Nguyễn Hoàng Sơn cung cấp một thông tin: nhà văn Hoà Vang đang ốm rất nặng, căn bệnh ung thư gan có khả năng quật ngã ông bất cứ lúc nào. Lòng nặng trĩu với ý nghĩ một nhà văn có tài, lại sắp sửa vĩnh viễn không còn trên cõi đời, tôi tự nhủ, mình sẽ tìm gặp bằng được Hòa Vang.
Nhà Hòa Vang nằm trong con ngõ thuộc Bộ Y tế, số 3 Quang Trung, bên cạnh hàng loạt các cửa hàng bán đồ điện lạnh. Trước ngõ có một bà bán hàng nước. Ý chừng bà đã quen với khách ra vào, tìm đến ngôi nhà 113 trong ngõ, đấy là nhà ông nhà văn “hay rượu”. Cửa nhà Hòa Vang có chăng quả cầu và dây đỏ - một dấu hiệu báo nhà có “song hỷ”. Ông từ trong nhà, nói tôi hãy tự tay mở cửa. Nhà văn đang ngồi viết thiếp mời lễ cưới của cô con gái thứ hai - một cô gái có cái tên rất hay: Nguyễn Y Vân (theo lời của ông nghĩa là Vẫn Y Nguyên). Ông mặc chiếc áo T-shirt màu đen, áo ghilê nhà báo khoác ra ngoài, trông “ra dáng” phong độ thôi, chứ so với tấm hình trên bìa sách mới xuất bản cuối năm 2005, ông quá gầy. Căn bệnh ung thư gan làm ông sút cân một cách nhanh chóng. Những mạch, gân nổi lên hết cả, bụng đã bắt đầu có dấu hiệu chướng to. Nhưng trong buổi nói chuyện, thần thái, phong cách của ông, có lẽ vẫn nguyên, chỉ có đôi mắt, không giấu được sự mệt mỏi, đau đớn. Ngắm ông, từ mái tóc, mũi, râu, môi, tôi thấy ông “đẹp”.
Trông nhà văn cũng đẹp “lão” đấy chứ?
Hà hà, tôi thì ăn thua gì, ông cụ nhà tôi còn đẹp hơn!
Ông là một người nổi tiếng “trong quá khứ”, từ những năm 89, 90. Ông còn nhớ con đường nào dẫn mình đến với văn chương không?
Tôi thấy ngại ngần bởi nếu nói rõ con đường đến với văn chương thì sự diễn đạt không được đúng lắm với hoàn cảnh của tôi. Tôi coi Viết Văn là một nghiệp. Cái nghiệp ấy ám vận vào người mình. Giũ bỏ cấu vứt thế nào, nó cũng không rời bỏ được. Mà tôi không có ý định vứt bỏ nó bao giờ. Người dẫn tôi đến với thế giới diệu kỳ của văn chương, chính là cha của tôi.
Hẳn người cha của ông phải là một người ưa thích văn học mới mong muốn con trai mình theo nghiệp văn chương?
Vâng, đúng vậy. Ông là một thư ký Nhà máy Đèn (Điện lực bây giờ) nhưng ông có một tấm lòng trân trọng đối với văn nghệ sĩ, đó là tấm lòng trinh trắng đối với văn học. Tấm lòng ấy như một nén nhang. Cha tôi không nhiều tiền. Ông cũng không phải là một người ham chơi các thú vui khác nào ngoài sách. Ông đã mở một hiệu sách tư ở phố Khâm Thiên bán chơi với niềm mong ước thanh sạch rằng khi nào có cơ duyên, nhà văn Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Hoàng Đạo... ghé qua hiệu sách, họ sẽ thấy những cuốn sách in tác phẩm của mình trên giá sách, và họ sẽ ký vào đó. Và cha tôi sẽ lưu lại trong tủ sách của mình. Niềm ham mê ấy, ông truyền lại cho tôi. Ông đã tạo cho tôi một ngăn tủ đựng sách riêng của mình.
Ông còn nhớ đó là những cuốn sách gì không?
Nhớ. Tôi chưa bao giờ quên. Dạo ấy, Hà Nội còn bị tạm chiếm. Tôi được đọc những cuốn sách Hồng. Ví như cuốn Ông đồ bể của Khái Hưng, Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài. Phải nói cho công bằng, sự giáo dục của chính quyền Bảo Đại về chính trị, ta không nói, nhưng về mặt đạo đức, lòng kính trọng ông bà, đối nhân xử thế trong những cuốn sách Tân văn thời ấy, còn tốt hơn nhiều so với nền giáo dục bây giờ.
Liệu sự so sánh giữa hai nền giáo dục như vậy có khập khiễng không?
Bản thân tôi là một thầy giáo. Tôi thấy nền giáo dục giờ, cứ nháo nhào lên. Ngay việc chữ “E” lên đầu bảng thay cho chữ “A”, tôi phản đối. Chừng nào người thầy còn nhận trực tiếp tiền từ tay học sinh, thì không còn nền giáo dục là vì thế.
Vâng. Vậy là nhờ có người cha và những cuốn sách, đã khiến cho ông say mê văn chương?
Dĩ nhiên, không thể ép cái gì người ta không thích. Tôi sinh ngày 3.11.1946 tại bệnh viện Sơn Tây - Hà Nội. Được hơn hai mươi ngày, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Thằng bé tôi được đặt vào một bên thúng, bên kia thúng là sách, và bố tôi gánh người - sách về quê Nhị Khê, Quan Gánh cách Hà Nội 16km. Sự chênh lệch, mâu thuẫn giữa hai bên nội ngoại, bố mẹ cũng xung khắc, chỉ còn bà nội là người gần gũi với tôi. Những tình cảm của tôi bắt đầu định hướng. Tôi quan sát, và ngoài cái đau xót của một đứa bé nằm trong cuộc, tôi đã thấy cái thú vị của sự quan sát và nảy sinh nhu cầu ghi chép lại. Cha mua tặng tôi một cuốn sổ, và kẻ nắn nót cho tôi dòng chữ: NHẬT KÝ NGUYỄN MẠNH HÙNG (tên thật của tôi). Cái khướu quan sát, sở thích đọc, và quan sát, đã giúp tôi có được một sự nhận thức rất nhạy cảm. Đó là yếu tố cần cho văn chương.
Ông còn nhớ gì về truyện ngắn đầu tiên của mình không?
Đó là truyện viết trên báo tường. Hồi đó, bạn bè thích ngồi lại trong giờ ra chơi, và nghe tôi bịa chuyện tài tình. Một trong những người vẫn thích, và nhớ đến tài kể chuyện của tôi là nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn, tác giả Cù lao Chàm.
Giấc mộng văn chương có vẻ bằng phẳng?
Không hề. Con đường văn chương cũng gian nan như chính cuộc đời tôi. Tôi có một hoài vọng, một ước mơ “dù cuộc đời có thế nào, tôi cũng sẽ trở thành một nhà văn”. Bị ảnh hưởng của chủ nghĩa lý lịch (gia đình bị mang tiếng dinh tê, tiểu tư sản), khó khăn lắm tôi mới vào được Đoàn, rồi xung phong vào chiến trường Quảng Trị, trở thành Đảng viên Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam Việt Nam, Dũng sĩ thành cổ 81 ngày đêm. Sau tôi học Đại học Sư phạm, đi dạy học môn Văn rồi chuyển ngạch Điện ảnh. Năm 1991, về hưu một cục rồi trở thành nhà văn thuộc Hội Nhà văn, nhưng tự do.
Có một số tác phẩm của ông bị coi là “có vấn đề” và đình chỉ xuất bản. Ông có thể nói rõ hơn về điều đó?
Trường hợp này có thể nói đến cuốn tiểu thuyết Tai quỷ xuất bản năm 1993 nhưng đã bị ngưng phát hành và thanh lý. Còn lý do tại sao ư? Tôi cũng chịu. Hồi đó, anh Cao Tiến Lê làm Phó Giám đốc Nhà xuất bản Thanh Niên, và trả tiền nhuận bút cho tôi rất cao. Tôi nộp cho vợ rồi làm một chuyến xuyên Việt xả hơi. Tai quỷ tôi viết siêu thực. Nguyên bản là Người tai quỷ nhưng biên tập cắt chữ “người” đi. Cuốn này tôi viết trên thân phận một người nghe được tiếng người chết. Truyện đó được đánh giá cao và đã được dịch sang tiếng nước ngoài. Sau này, một thạc sĩ Hàn Quốc làm luận án, nhờ nhà văn Ma Văn Kháng tìm tôi. Anh ta gặp tôi ngồi ở hàng nước đầu ngõ, hỏi giọng lơ lớ: “Ông có phải nhà văn Hòa Vang không?”
Truyện ngắn “Linh nghiệm” in trên Văn nghệ, Đỗ Phấn minh hoạ. Đây cũng là một truyện bạn đọc rất thích. Truyện “Hư ảnh” chỉ có Cửa Việt của Hoàng Phủ Ngọc Tường dám in. Rồi đó cũng là một trong những lý do làm Cửa Việt sập tiệm mấy tháng sau. Được giải truyện ngắn hay trong kỳ, làm đối thoại và sự kiện trong tháng do Ngô Thế Oanh in trên Cửa Việt, mang tên “Gặp Nhân sứ Hoà Vang”.
Còn “Sự tích những ngày đẹp trời”- đây có phải là tác phẩm ông tâm đắc nhất không?
Với tôi, “Sự tích những ngày đẹp trời” có giá trị lớn nhất không phải về mặt văn chương. Mà là ý tưởng cực kỳ độc đáo. Tôi có thể tự hào đến phút này. Dường như trời đất trao cho tôi ý tưởng đó. Cái án oan 4000 năm lẽ ra phải được các bậc trí giả nhìn ra, khi người ta coi ý nghĩa của truyện Sơn Tinh - Thuỷ Tinh là biểu dương hình tượng đắp đê chống lũ lụt hàng năm thì tôi cũng tạm chấp nhận được. Nhưng chúng ta phải sòng phẳng, bình đẳng. Cũng như có hai ông Thiện- Ác trong chùa, đó là điều công bằng. Hoạ sĩ Mạnh Quỳnh vẽ minh hoạ hai chàng trai Sơn Tinh- Thuỷ Tinh đẹp ngang nhau, ngang tài ngang sức như nhau. Song dân chủ cộng hoà vẽ, xã hội chủ nghĩa vẽ, mà đại diện là ông Mai Long, một hoạ sĩ thân thiết với tôi vẽ, làm tôi khó chịu. Sơn Tinh đứng ở trên cao, mặc bộ giáp trụ đứng vác hòn đất ném xuống dưới. Ở dưới, Thuỷ Tinh như một lão già, như con tôm xú, đội ốc vặn, mặt xanh lét. Khi xem bức hình minh hoạ đó, trong tôi gợn lên sự phản ứng trước cái bất bình đẳng. Nó bị kích thích, bất phẫn bất phát. Không bức xúc, không tức, không thể phát. Tôi lần ra một điều: hóa ra, cái ngòi bút của mình như một kim nam châm nó lay động, bởi nỗi oan con người. Những gì oan ức không nói được của con người. Thứ đồ sính lễ Hùng Vương yêu cầu, đó là thứ đồ thuộc về Sơn Tinh, rõ ràng chỉ có người miền núi dễ kiếm hơn miền biển, nó không phải đồ “hải sản”. Biển, xa hơn núi. Tản Viên gần Phong Châu. Vậy rõ ràng, ngay đầu tiên, vua Hùng Vương đã có ý nghiêng về Sơn Tinh, phần thắng, dĩ nhiên thuộc về người mà vua Hùng Vương muốn, chứ không phải Mị Nương muốn. Sáng 3/11/88, hoàn thành bản thảo đầu tiên, dừng lại ở mưa thu thánh thót, tên đầu tiên “Sự tích giọt mưa thu” tôi không thích. Lối tư duy không phải tư duy rả rích, uỷ mị. Tôi đặt tên lại “Oan Thuỷ Tinh” nhưng như thế, lại phô quá. Tôi chơi ngược “Thuỷ Tinh-Mị Nương”, không ưng, Rồi Trần Ninh Hồ và Hoàng Minh Tường tới chơi. Những người bạn rất thích và bảo tôi, “Mày là thằng bạo liệt nhất trong tình yêu, hãy viết thêm đi”. Đến câu kết: “Người ở biển bảo tôi, đó là những ngày đẹp trời”. Từ đó, tên truyện mới bật ra. Nó khái quát rất nhiều, rất đẹp. Còn nhiều ý nghĩa, bạn đọc sẽ tìm ra thôi.
Nghe nói, khi truyện được in, cũng có dư luận phản ứng?
Có. Một nhà thơ lớn (giờ đã thành người thiên cổ) gửi từ trong Nam ra: “Năm ngoái, Nguyễn Huy Thiệp đã đào xới đến Quang Trung, năm nay, Hoà Vang lại đào xới đến Hùng Vương. Sang năm nữa, liệu sẽ có ai đó nữa đào xới đến ai đó nữa đây?” Tôi nghe, và nói: “Nhà cháu chỉ có rượu và viết. Còn nếu muốn bắt nhà cháu thì phải báo cho nhà cháu biết để nhà cháu còn tập huấn vợ đưa cơm.” Về sau, có độc giả gửi thư khen, Hữu Thỉnh in ngay trên Văn nghệ bài khen đó.
Nhưng tại sao trong đa phần truyện ngắn của ông cứ phải có chút yếu tố siêu thực?
Tôi muốn phản ảnh đời sống tới một hiện thực cao hơn. Do đó, phải tìm đến siêu thực. Tôi tối kỵ nói đến những điều kỵ huý. Tác phẩm của tôi, người ta cứ cố tìm những tư tuởng chống chủ nghĩa xã hội. Văn chương, không có chức năng ám chỉ, cạnh khoé, xiên xỏ, mà chỉ có đa tầng đa nghĩa. Tôi nặng về suy nghĩ, không chịu viết một câu nào không có tư tưởng. Bạn bè khuyên nên bỏ bớt tính cầu kỳ đi.
Ông có theo dõi tình hình văn học Việt Nam không?
Thú thật, tôi rất ít đọc. Cầm vào cuốn sách, vừa ước nó hay, vừa ước nó dở. Hay thì mình sẽ bị cuốn vào đấy mất thời gian cả đêm. Tôi chỉ đọc những cuốn sách nào có dư luận, ví như Võ lâm ngoại sử của Nguyễn Huy Thiệp, vui, đọc một lần, rồi thôi. Đó là một niềm vui cho những bệnh nhân ung thư như tôi. Tôi cũng thích “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư. Tôi thực sự trân trọng và thấy mừng những nguời tài. Tôi tuyệt nhiên không đố kỵ.
Hiện tại, ông đang viết tác phẩm gì?
Tôi không thể ngồi viết như trước được nữa, chỉ đọc và thu băng qua máy ghi âm. Tiểu thuyết Dứt giậu hy vọng sẽ được hoàn thành. Nền: là vốn sống những ngày bị bệnh. Ba mươi mấy năm trước trên chiến trường thì không nghĩ mình sống chết. Giờ, sau chiến tranh, được sống khuyến mại ba mươi mấy năm, lãi to rồi. Và thực ra, tôi tưởng tượng ẩn sau của Dứt giậu là “Cùng tắc biến, biến tắc thông”.
Tổng kết lại cuộc đời và nghiệp văn chương, ông có thấy hài lòng về mình không?
Nhìn chung, cũng chỉ là một số đóng góp nho nhỏ vào dòng văn học Việt Nam. Cho dù, số tác phẩm của tôi chồng lại, mỏng quẹt chưa bằng chiều cao một chiếc guốc cao gót của những người mẫu chân dài. Nhưng, tôi đã theo nghiệp văn chương đến phút cuối của đời tôi. Ở thành cổ Quảng Trị, trung đoàn tăng cường của tôi, 1000 “thằng” vào, 45 thằng ra, 35 thằng què, cụt, vỡ đầu, còn 10 thằng hai bàn tay trắng. (khóc)... Cô biết không, hai bàn tay trắng nghĩa là không bị bom napal, nguyên lành, đó là hạnh phúc, đó là phúc tổ 70 đời. Vác được nguyên 2 bàn tay trắng về với ông và cha mẹ. Sau đó, cách đây hơn 3 năm, một đại tá trong số đó đi ăn cưới ở Bồ Đề bị chó dại cắn chết (cay đắng phết). 9 thằng còn lại vào thăm bạn ở bệnh viện Bạch Mai. Nước mắt nó ứa ra, không nói được nữa. Ngang mồm là một khúc chuối, người ta phải vót chẹn ngang để khỏi cắn vào lưỡi, dãi dớt tùm lum. Hôm sau, 2 hàng súng bắn vĩnh biệt – đó là tiêu chuẩn của một đại tá. 9 người đưa tiễn không ai khóc, đắng ngắt trong tâm hồn. Còn tôi, tôi đã chuẩn bị tư tưởng cho gia đình, thậm chí, còn lên kế hoạch ma chay thế nào. Tôi nói với ông Lê Hiệp, tác giả tượng đài Bắc Sơn rằng tôi đã vẽ được mẫu lọ cốt rồi, ông phải làm sẵn cho tôi hai cái. Lê Hiệp hỏi: “Ông định thế nào?” “Tôi chôn ở Nhị Khê thôi” “Thế thì phải làm bằng sành”. “Không, ông cứ làm hai cái quý vào!” Lê Hiệp về nhà gọi điện thoại lại: “Ông nói thật hay đùa?” Hà hà, chuyện đó, tôi đùa làm sao được. À, mà tôi còn một tiểu thuyết nữa chưa xuất bản: Cuốn Hùng Vũ và cõi y. Thế thôi, nhưng chuyện xuất bản, tôi cũng không vội vàng.
Cảm ơn nhà văn rất nhiều [1].
Chú thích:
[1] Bài phỏng vấn này được hoàn thành vào ngày 25/3/06, 5 ngày trước khi nhà văn Hòa Vang qua đời.
19/4/2006
Nguyễn Lan Anh
Theo http://www.talawas.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cành hồng nghiêng ngã

Cành hồng nghiêng ngã… Sydney đã vào đông mấy bữa rồi, đêm ngày gì cũng lạnh hẳn dưới 10 độ C chứ không còn chập chờn cái lạnh tàn thu “gi...