Thứ Tư, 28 tháng 9, 2022

XXXXTrò chuyện qua mạng với nhà văn Hồ Trường An

Trò chuyện qua mạng
với nhà văn Hồ Trường An

Hỏi: Trước hết, xin nhà văn kể đôi chút về tiểu sử và sở thích văn chương của mình.
Hồ Trường An: Nguyên quán tôi là Hương Thủy (thuộc tỉnh Thừa Thiên, Huế). Sinh quán tôi là làng Long Ðức Ðông, tỉnh Vĩnh Long. Tôi tên Nguyễn Viết Quang. Tôi học trường Tiểu học Thiềng Ðức (làng Long Ðức Ðông). Sau đó, tôi học trường Cao Tiểu Vĩnh Long (Collège de Vinh Long), rồi trường Trung học Nguyễn Thông, trường Tống Phước Hiệp, hai trường này vốn là hậu thân của trường Cao Tiểu. Sau đó, tôi qua Mỹ Tho học trường Trung học Nguyễn Ðình Chiểu, rồi lên Sài Gòn học trường Trung học Chu văn An. Tôi lận đận năm thứ hai trường Ðại học Dược Khoa nên phải nhập ngũ (khóa 26 trường Võ Bị Thủ Ðức).
Hồi 10 tuổi, tôi thích đọc các tác phẩm văn chương của phong trào Nam bộ Kháng chiến gồm các tác giả gốc miền Nam như Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà, Dương Tử Giang, Liên Chớp, Lý văn Sâm, Bùi Nam Tử, Vân Lâu, Nguyễn Ðạt Thịnh. Sau đó tôi tìm đọc các tác phẩm của nhóm Tự lực Văn đoàn (Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Ðạo, Thạch Lam, Thế Lữ...), các tác phẩm của những tác giả trong nhóm Tủ sách Phổ thông Bán nguyệt san như Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Dân Giám, Thanh Châu, Trần Huyền Trân, Tô Hoài, Thâm Tâm, Lan Khai, Tchya (‘‘Tôi Chẳng Hề Yêu Ai’’). Về thơ, tôi thích các tác giả cổ điển trong cuốn Thi văn bình chú của Ngô Tất Tố và một vài tác giả được Hoài Thanh và Hoài Chân nói tới trong Thi nhân Việt Nam. Tôi đã từng chép thơ của Nguyễn Bính, Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu... bằng ngòi viết lá tre và bằng mực tím. Khi lên trung học, tôi thích đọc đủ loại truyện dài, truyện ngắn, biên khảo, thơ. Về tùy bút, tôi thích đọc các bài của Nguyễn Tuân (trong Vang bóng một thời), của Xuân Diệu (trong Phấn thông vàng), của bà Mộng Tuyết đăng rải rác các tạp chí văn chương hồi tiền chiến (năm 1969 bà gom lại cho in thành cuốn Dưới mái trăng non).
Kỷ niệm đáng nhớ nhất của tôi là vào một buổi sáng áp Tết năm 1950, tôi đến thăm vườn hoa huệ của anh bạn hàng xóm nổi danh là nhạc sĩ địa phương. Anh cho tôi xem quyển Nhốt gió của Bình Nguyên Lộc. Ðây là lần đầu tiên tôi đọc một tác giả Nam Kỳ có lối phân tích tâm lý khá sâu sắc. Tôi đuợc gia chủ cho uống một tô trà Huế, ăn vài miếng kẹo gừng và khi tôi ra về, ông tặng tôi một nhánh huệ trắng kèm theo quyển Nhốt gió ấy.
Hỏi: Xin nhà văn kể đôi điều về tác phẩm đầu tay của mình.
Hồ Trường An: Tôi tập viết văn hồi 13 tuổi rồi giấu các tác phẩm thơ lẫn truyện ngắn, các vở kịch cải lương của mình trong các xó kẹt trong kho lẫm chứa thóc, vì sợ có ai bắt gặp các đứa con tinh thần non nớt ấy thì mình sẽ bị chế giễu. Lâu ngày rồi tôi cũng quên luôn. Tới chừng tìm lại thì chúng bị mục rã vì thấm nước mưa và bị mọt, gián gặm nhấm lam nham. Cái bàn viết tôi đặt gần khung cửa sổ đẫm đầy bóng mát cây hoàng lan ngoài hông nhà. Tôi nghĩ rằng án thư và thư trai của tôi quá thơ mộng. Tại sao tôi không viết một cái gì? Do đó, văn chương học trò cứ tuôn trào tới tấp dưới ngòi bút thoăn thoắt như ngựa phi nước đại của tôi. Ðó là những tác phẩm đầu mùa của một cậu học sinh chưa lên tới bậc trung học, chỉ có một độc giả duy nhất là tôi đây.
Khi đã lao vào làng văn trận bút rồi, tôi viết truyện dài, truyện ngắn, điểm sách, làm thơ. Nhưng trước năm 1985, tôi chỉ in thành sách truyện dài và truyện ngắn thôi. Sau năm 1995, tôi cho in các quyển bút khảo; tiêu biểu nhất là các cuốn Cảo thơm, Bảy sắc cầu vồng. Song song đó, tôi cho in những quyển bút ký về các bộ môn trình diễn như Sàn gỗ màn nhung (kịch trường), Theo chân những tiếng hát (tân nhạc). Sau hết là hai tập thơ Thiênđường tìm lại, Vườn cau quê ngoại.
Hỏi: Xin nhà văn kể lại đôi điều về sinh hoạt văn chương của mình ở miền Nam thời trước 1975.
Hồ Trường An: Năm 1960, sau khi đỗ Tú tài ban Khoa học Thực nghiệm (ban A), tôi không ghi tên vào đai học, cứ nằm ở nhà, nghỉ xả hơi. Tôi đọc các tạp chí Sáng Tạo, Hiện Ðại, Thế Kỷ 20 và viết một vài chương cho quyển tiểu thuyết đang dự định trong đầu. Tôi làm thơ gửi đăng ở tạp chí Bách Khoa, ký bút hiệu là Hà Hợp Nguyễn (Hà là họ mẹ, Nguyễn là họ cha). Sau đó vì lận đận khoa cử tôi bỏ cuộc một thời gian khá dài. Năm 1967, tôi trở lại Bách Khoa với một vài truyện ngắn, ký bút danh là Hồ Trường An. Sau đó, tôi xoay qua làm ký giả các bộ môn Ðiện ảnh, Tân nhạc, Kịch trường. Tôi là cây bút chủ lục của tuần san Minh Tinh. Sau đó, đất nước đổi cờ. Khi ra hải ngoại, tôi cộng tác với nhiều tạp san như Quê Mẹ (Pháp), Lạc Hồng (Thụy Sĩ), Viên Giác (Tây ức), Làng Văn (Gia-nã-đại).
Hỏi: Ngày 30 tháng 4 nhà văn đang ở đâu, làm gì? Biến cố 30/4 thay đổi cuộc sống của nhà văn như thế nào?
Hồ Trường An: Ngày 28 tháng 4 năm 1975, tôi vẫn còn ở tại đơn vị của tôi, tức là Ban Thông tin Báo chí thuộc Khối Chiến tranh Chính trị của Bộ Tư lệnh Quân đoàn III & Quân khu 3 (Biên Hòa). Tình hình lúc đó căng thẳng lắm, vì Cộng quân đã tiến tới Suối Máu cách Biên Hòa chừng 50 cây số. Túng thế, tôi về Sài Gòn, nằm nhà chờ cuộc diễn tiến tới đâu. Sáng 30/4, tôi định trở lại đơn vị vì Cộng quân đã tiến tới nhà may Xi-măng Hà Tiên, cách Sài Gòn hơn 10 cây số. Thế là họ đã nuốt Tổng Hành dinh Bộ Tư lệnh Quân đoàn III & Quân khu 3 mất rồi, còn chỗ nào nữa đâu để tôi về? Chừng 10 giờ sáng Tổng thống Dương Văn Minh gọi quân Quốc gia buông súng đầu hàng. Sau đó, tôi bỏ xóm cũ gần Bệnh viện Cơ Ðốc (thuộc Phú Nhuận) để về nhà chị Thụy Vũ tôi ở Làng Báo chí, nằm giữa hồ tắm Thiên Nga và hồ tắm An Phú, không đăng ký đi học tập cải tạo. Tôi trốn lẩn quất cho tới năm 1977 mới tìm đường rời khỏi Việt Nam.
Tôi sang Pháp vào mùa xuân năm 1978, ở trại tiếp cư Foyer du Soleil tại tỉnh Mulhouse, gần biên thùy Pháp và Thụy Sĩ. Sau đó vài tuần, tôi đi Paris làm báo, cộng tác với tạp chí Quê Mẹ do ông Võ Văn Ái làm chủ bút.
Hỏi: Tác phẩm đầu tiên ở hải ngoại của nhà văn là tác phẩm nào? Nhà văn có thể kể lại kỷ niệm nào đáng nhớ liên quan đến tác phẩm này không?
Hồ Trường An: Trong các năm 1977, 1978, 1979, 1980, tôi viết báo nhiều và chỉ viết một vài truyện ngắn, sáng tác dăm ba bài thơ, đăng trên các báo Quê Mẹ, Lạc Hồng, Viên Giác. Tôi thực sự viết truyện dài đồng quê Lớp sóng phế hưng đầu tay nhờ sự khuyến khích của cụ Văn lang Trần Văn Ân, cố vấn của Cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Quyển này được nhóm thanh niên trong Phong trào Thanh niên Hành động Xã hội (Paris) in bằng phương pháp roneo và tặng miễn phí cho kiều bào ở các trại tạm cư (Foyer Sonacotra) rải rác trên đất Pháp. Sau đó, quyển truyện dài Nửa chợ nửa quê cũng in bằng phương pháp roneo và cũng biếu không cho kiều bào trên đất Pháp và các nơi khác ở hải ngoại. Không ngờ, thư từ độc giả bốn phương nườm nượp gửi về trụ sở của Phong trào Thanh niên Hành động Xã hội tán thưởng và khuyến khích tác giả. Có một ông già ở ngoại ô một thành phố phụ cận Kinh đô ánh sáng Paris, sống với nghề làm rẫy mỗi năm từ đầu xuân sang giữa thu. Ông ta đem rau dưa tới trụ sở của phong trào để tặng tác giả Hồ Trường An. Hỏi ra thì ông ta ở Cai Thia (Mỹ Tho), rất thích loại truyện ngắn mà tôi dùng các miền quê ở Mỹ Tho làm bối cảnh. Về sau, vào năm 1996, Nửa chợ nửa quê được nhà xuất bản Nam Á (Paris) tái bản. Còn Lớp sóng phế hưng do Tủ sách Cành Nam (Virginia/ Hoa Kỳ) tái bản.
Hỏi: Tại sao nhà văn lại thấy mình cần phải viết văn bằng tiếng Việt trong hoàn cảnh sống luu vong?
Hồ Trường An: Vì tôi kém ngoại ngữ. Tiếng Anh thì mù tịt. Còn tiếng Pháp thì chỉ đọc được, chứ viết không đúng theo tinh thần lẫn mẹo luật Pháp ngữ. Vả lại, tiếng Việt đã thâm nhập vào huyết mạch, xương tủy và óc não của tôi gần nửa thế kỷ rồi. Mỗi một câu nói của đồng bào, mỗi một tiếng Việt chứa cả hình ảnh thân thương, một đoạn đời sống trong đất nước xa xưa, một dĩ vãng hoa mộng. Tôi không cần tác phẩm mình được phổ biến trong các độc giả Âu Mỹ. Tôi chỉ muốn viết cho độc giả kiều bào. Thế là đủ.
Hỏi: Nhà văn nghĩ mình chịu ảnh hưởng của tác giả nào khác không (kể cả nhà văn Việt Nam và nước khác)?
Hồ Trường An: Về tả cảnh thiên nhiên, tôi theo vết chân của Nhất Linh (trong hai quyển Ðôi bạn và Bướm trắng) và Võ Phiến (trong các bài tùy bút), tức là phải vận dụng óc quan sát thật mãnh liệt, cốt sao cho lối miêu tả thật gợi hình, thật sống động. Về miêu tả các phụ nữ lớn tuổi ở nhà quê hay ở vùng nửa chợ nửa quê, tôi chịu ảnh hưởng từ Marcel Proust (trong bộ À la recherche du temps perdu [Ði tìm thời gian đã mất]) và Khái Hưng (trong hai quyển Gia đình và Thừa tự). Chắc các anh chị cũng thừa hiểu, ông Proust lẫn ông Khái Hưng viết về chuyện ngồi lê đôi mách của các bà, các mụ, các cô rất duyên dáng. Về ngôn ngữ các bà già trầu, tôi chịu ảnh hưởng của cụ Hồ Biểu Chánh. Cho nên bạn văn và độc giả âu yếm ban cho tôi cái hỗn danh thật kiều diễm: Bà Già Trầu. Riêng về cách ăn mặc, trang điểm, có lẽ tôi chịu ảnh hưởng danh sĩ Tào Tuyết Cần trong bộ Hồng lâu mộng chăng?
Hỏi: Trong truyện Còn tuôn mạch đời, nhà văn có đề cập tới rất nhiều văn hóa, phong tục, cuộc sống và xã hội mà người phụ nữ Việt Nam phải đối phó trên đất nước Pháp, sau thời kỳ chiến tranh (thí dụ: Dì Bảy Phụng Hảo thích ông Rồng Xanh (Ronsin) nhưng không muốn đứa con tên Sơn lấy vợ Pháp). Xin nhà văn cho biết thêm quan niệm của nhà văn về sự thay đổi quan trọng của người phụ nữ Việt Nam bên Pháp (sau chiến tranh) với hiện tại ngày nay (2005). Những thay đổi ấy tốt hay là xấu?
Hồ Trường An: Ðâu phải chỉ có phụ nữ Việt Nam hoang mang ở bước đầu trên đất nước định cư (trong đó có nước Pháp), mà các đấng mày râu cũng cùng tâm trạng như vậy đấy chứ. Họ lo âu về việc mưu sinh, họ sợ mình khó thích ứng với cuộc sống của dân bản xứ về ngôn ngữ, phong tục, cách giao tế với người văn minh như người Tây phương. Dì Bảy Phụng Hảo là người đàn bà thất học, tuy bộc tuệch lắm mồm, nhưng có căn bản tốt, lại trọng luân lý cổ truyền của dân Á Ðông. Lúc đầu, dì ấy không yêu ông Ronsin ở nhân diện vóc dáng, không chút cảm hứng đồng tình với ông ta, bởi vì dì cho đó là kẻ dị tộc dị chủng, luôn cả dị dạng dị hình nữa. Dì nhận lời cầu hôn của ông ta là do dì tìm gặp ở ông ta một kẻ chân thành và tốt bụng. Hơn nữa, dì cốt tìm một điểm tựa tinh thần và muốn tránh khỏi cảnh lẻ loi bơ vơ trên đất khách khi phải sống góa bụa mà không chắc sẽ nhờ cậy được vào thằng con trai độc nhất của mình. Dì không muốn con trai mình (chàng Sơn) lấy vợ đầm vì dì không muốn có một nàng dâu sống với phong tục khác phong tục Việt Nam (tự do tình dục, chung cuộc sống lứa đôi riêng tư mà quên mất đại gia đình), rồi biến Sơn thành kẻ thờ phụng vợ mà quên mất mẹ. Theo tôi nghĩ, những thay đổi trong đời sống của phụ nữ Việt Nam một khi xa tổ quốc quê hương sau cuộc nội chiến giữa Quốc gia và Cộng sản để định cư trên đất Pháp từ 5 năm chót của thập niên 70 mà tôi đưa vào quyển Còn tuôn mạch đời cho đến nay có cái hay lẫn cái dở. Hay ở chỗ biết thích ứng với cuộc sống mới để dựng lại hạnh phúc gia đình bắt đầu từ con số 0 và với hai bàn tay trắng. Dở ở chỗ là có nhiều bà nhiều cô quá mê say cuộc sống tự do của người bản xứ mà quên mất cái đẹp cổ truyền của người Việt Nam.
Hỏi: Xin nhà văn kể lại quá trình sáng tác văn chương. Ý tưởng đến với nhà văn như thể nào? Sau đó ý tưởng được phát triển và thay đổi ra sao? Công việc kiếm sống có ảnh hưởng đến quá trình sáng tác của nhà văn như thế nào?
Hồ Trường An: Tôi là nhà văn và cũng là người viết báo, cho nên tôi quen thói viết nhanh. Một ý tưởng nhỏ chợt nở hoa trong đầu óc tôi, khi tôi cầm bút lên là nó sinh sôi nảy nở thêm nhiều ý tưởng mới. Ngòi bút tôi cứ thế chạy như xe lửa tốc hành trên trang bản thảo. Trong khi tôi viết, nhiều ý tưởng ngộ nghĩnh khác chợt đến. Khi viết xong, những ý tưởng mới khác lại xuất hiện trong óc tuởng tượng của tôi thêm nữa. Cuộc mưu sinh của tôi vốn cam go. Tôi làm nhiều nghề lao động vất vả, nhưng không làm việc gì lâu bền, thất nghiệp nhiều phen lắm lượt. Nhưng việc mưu sinh vốn không cản trở vận tốc của ngòi bút tôi. Tôi là nhà văn phong tục. Công việc sáng tác của tôi không cần suy nghĩ theo kiểu bóp trán nặn óc một cách khổ sở như những nhà văn viết những tác phẩm tư tưởng. Tôi chỉ cần chú trọng đến sự diễn tả sao cho câu văn dí dỏm, săn tìm những tiếng lóng (le patois), thổ ngữ (langue régionnale) đặc biệt cốt chọc cười độc giả, và làm cho tác phẩm dễ đọc giống như như cháo cá, như canh khoai dễ nuốt trôi đối với thực khách kén ăn.
Hỏi: Chúng cháu đã đọc tập truyện Gả thiếp về vườn. Theo chúng cháu hiểu, nhà văn muốn phản ảnh đời sống vợ chồng, phong tục tập quán của người Việt, sự tọc mạch chuyện người khác của những kẻ ăn không ngồi rồi và nhất là những người thân trong gia đình của mình. Và tất cả những truyện ngắn trong tập này đều kết thúc có hậu.
Hồ Trường An: Những nhận xét của các anh chị trúng 98% những điều mà tác giả đã đưa vào tác phẩm. Nhưng các anh các chị cũng nên hiểu, những nhân vật cà chớn trong các truyện ngắn ấy hầu hết 98% là đàn bà. Họ có cá tánh mạnh, ưa giận hờn nhau, nhưng họ cũng dễ quên thù hằn và dễ tha thứ cho nhau. Lúc mới vào truyện, họ kiếm chuyện để bóc thối và bôi xấu lẫn nhau. Rồi họ chửi bới lẫn nhau, hung hăng thiếu điếu đâm chém nhau. Nhưng một khi địch thủ hay đối thủ của họ gặp hoạn nạn tai ương, họ vụt quên hiềm thù oán ghét cũ, sẵn sàng ra tay giúp đỡ và dùng lời ngọt ngào mềm mỏng để an ủi kẻ mà họ tưởng đâu rằng cho tới tàn đời suốt kiếp đôi bên sẽ không còn có cơ hội nào để nhìn mặt nhau nữa. Ðó là đặc tính của đàn bà Nam Kỳ ở vùng quê hay ở vùng nửa chợ nửa quê. Tôi vốn ưa nói xấu đàn bà quen thói, quen nết mất rồi. Phải cho tôi một vài cơ hội nói tốt cho họ một chút, để họ lên tinh thần, kẻo không họ sẽ phanh thây tôi ra quết nem bằm chả thì sao? Do đó, mọi truyện ngắn của tôi đều có hậu, đều có cái đoạn kết để các nhân vật thù nghịch xử sự dĩ hòa vi quý với nhau.
Hỏi: Những truyện ngắn trong tập Ðêm xanh huyền hoặc nói rất nhiều về tu và Phật giáo. Hầu như những nhân vật chính trong truyện đều hướng về sự trầm tĩnh và luật nhân quả theo Phật giáo. Nhà văn đã gửi gắm lòng tin vào Phật giáo qua những tác phẩm này phải không?
Hồ Trường An: Câu hỏi này rất hay. Tôi viết những truyện ngắn trong Ðêm xanh huyền hoặc dựa trên nền tảng Kinh Ðại Thừa. Mà tinh thần cốt tủy của loại kinh này là Tinh thần Bát-nhã (còn gọi là tinh thần bất nhị, tiếng Pháp gọi là ‘‘le non-deux’’/‘‘le non-dualisme’’). Cái nghĩa chính yếu là hai hiện tượng đối nghịch trong cùng một bản thể. Tiêu biểu nhất là truyện ‘‘Hai khuôn mặt’’. Vị thần hộ mạng (vong cô) của nữ nhân vật Tố Nga khi thì xuất hiện hình ảnh một người đàn ông thanh tú, dịu hiền khi mỗi cô ta hành động hay suy nghĩ điều thiện. Nhưng khi cô ta có mưu toan hoặc hành động xấu thì vong cô lại xuất hiện thành một mụ đàn bà già nua, xấu xí và hung ác. Tôi vốn thích đọc truyện dị thường (quyển Le contes extraordinaires của Edgar Allan Poe) hoặc loại truyện quái đản kinh dị của Stephen King nên có một dạo, tôi viết nhũng truyện quái đản để câu độc giả. Nhưng tôi lồng Phật pháp vào thì câu chuyện có giá trị tâm linh hơn.
Hỏi: Trong truyện ngắn “Nghĩa và Huyền Vũ” thì Huyền Vũ là con mèo rất ngoan và sâu sắc. Trong truyện “Tình đẹp chàng khờ”, Hiền là một người hiền lành tuy không được lanh lẹ như những bạn đồng lứa. Nhà văn có nói về sự khéo léo của Hiền giống như con mèo. Xin nhà văn cho biết nhà văn nghĩ gì về chú mèo và sự trầm lặng, tinh khôn và linh thiêng của nó?
Hồ Trường An: Hai truyện “Nghĩa và Huyền Vũ” và “Tình đẹp chàng khờ” trong tập Ðêm xanh huyền hoặc không phải là hai tấm gương soi mặt cho nhau. Nhân vật Hiền trong “Tình đẹp chàng khờ” vốn ngây ngô, khờ khạo, nhưng có tấm lòng từ bi bao la, không cần phân biệt điều tốt hay việc xấu, luôn hành xử với tấm lòng bao dung thanh thản. Nhờ tâm hồn trong sáng, nhìn thấy cái phức tạp trong công việc tỉ mỉ như chạm trổ tinh xảo các món nữ trang, nên đương sự rất khéo tay. Hiền không thấy việc vợ ngoại tình là xấu, việc mình bị cắm sừng là điều sỉ nhục. Anh ta chỉ biết yêu vợ, yêu đứa con ngoại tình của vợ. Lòng anh ta trong suốt, không bị bất kỳ mầm mống nhỏ nhặt nào của thành kiến, hận thù, tự ái làm vẩn đục. Cho nên anh ta có những cái kỳ diệu mà kẻ phàm phu thế tục không thể có. Ðó là tôi dựa trên thuyết Chân không Diệu hữu mà tạo ra nhân vật này. Thế có nghĩa là hễ tấm lòng mình rỗng không và trong sáng như pha lê (Chân không) thì tự động cái Tâm của mình có cái điều kỳ diệu vượt mọi khái niệm và sự tuởng tượng của người đời (Diệu hữu). Nhân vật Hiền là phóng ảnh của ông hoàng Mychkine trong quyển Chàng ngốc của Dostoievsky đấy. Còn con mèo trong “Nghĩa và Huyền Vũ” chỉ là con gia súc yêu mến nhà của chủ cũ, dù bị đưa xa nhà chủ cũ ngàn dặm nó cũng rán tìm về. Nó giống như loài chó có khứu giác rất tinh vi, ngửi được hơi hướm suốt lộ trình dài để tìm trở về nhà chủ cũ cho bằng được trước khi chết vì kiệt lực. Ở đây, tôi muốn nêu lên sự trung thành của con mèo và sự cấu tạo kỳ diệu của Hóa công cho mỗi sinh vật. Còn Nghĩa từ bẩm sinh đã bị chứng câm điếc. Nó có cặp mắt có tia sáng như mắt con mèo. Nó thích leo trèo thoăn thoắt như loài mèo. Nó là bạn của nhân vật xưng tôi trong truyện. Nhân vật này định cư tại tỉnh Vĩnh Long. Cả hai yêu thương nhau như anh em ruột thịt. Khi phải rời khỏi Vĩnh Long để lên cư ngụ tại tỉnh Lộc Ninh, Nghĩa nhớ bạn (nhân vật xưng tôi) nên cố gắng tìm về Vĩnh Long. Nó vốn bị câm điếc nên không biết hỏi đường đi nước bước với bất cứ một ai, vậy mà nó vẫn về được tới nhà của bạn mình. Ở đây, tôi cố tình mô tả mơ hồ, làm cho nhân vật Nghĩa trở thành huyền hoặc như một con mèo thành tinh biến hóa ra người. Tôi cũng muốn cho độc giả đoán rằng Nghĩa có vài cơ quan trong thể chất giống như cơ quan trong thể chất của con mèo. Biết đâu nó có cái mũi của con mèo để tìm về Vĩnh Long do sự hướng dẫn của khứu giác tinh nhuệ và nhiệm màu nên không cần phải hỏi ai về đường đi nước bước. Tôi cố tình cứ để cho độc giả tha hồ nghĩ ngợi, phán đoán, suy luận và tưởng tượng tùy theo sở thích của họ. Ðiều chính yếu mà tôi muốn nói: trong đáy thẳm của đời sống này hoặc sau lưng cuộc sống này có những điều kỳ diệu và huyền bí khó nghĩ bàn. Trước năm 1975, khi tôi định cấu tạo nhân vật Nghĩa này thì nhân loại chưa hề biết tới tia sáng laser. Vậy mà sau đó ít năm, tia laser được khám phá. Thế có phải trong vũ trụ này có hằng triệu hiện tượng mà nhân loại chưa khám phá ra đuợc hay không? Nhân vật Nghĩa có vẻ hoang đường không tưởng, nhưng biết đâu đó là hiện tượng hiện hữu ở trạng thái tiềm ẩn trong vũ trụ mù mịt này mà chúng ta chưa khám phá đấy thôi.
Hỏi: Trong truyện “Chiếc quạt Tôn nữ”, tại sao cô Chín Ngọc Diêu không ra mắt và cho biết cô ta là mẹ của Tôn nữ Phụng Cơ?
Hồ Trường An: Nếu anh hoặc chị ở vào trường hợp cô Chín Ngọc Diêu thì các anh chị có dám nhìn mặt con gái mà mình đã bỏ nhà ra đi từ khi nó vừa mới chào đời không? Vào lúc túng tiền, cô Chín tìm về tỉnh Vĩnh Long là nơi cư ngụ của con gái và rể của mình. Cô ta hăm he chàng rể rằng cô ta sẽ tiết lộ bí mật của mình cho con gái mình biết nếu chàng ta không cấp dưỡng cho cô ta. Nhưng trong thâm tâm, có lẽ cô ta cũng không muốn con gái mình bị xung động khi biết mình là mụ buôn hương bán phấn thuở xưa. Lại nữa, khi gặp Tôn nữ Phụng Cơ thì tình mẫu tử bỗng nở hoa trong lòng cô ta. Dĩ nhiên cô ta không bao giờ muốn con gái mình đau khổ một khi sự thật bị phơi bày. Hơn nữa, Tôn nữ Phụng Cơ từ thuở thơ bé được cha và cô ruột nàng cho nàng biết rằng mẹ nàng là một phụ nữ thánh thiện và có phẩm hạnh, nhưng đã qua đời khi nàng hãy còn trứng nước. Cho nên khi bước vào đời, nàng noi gương tốt của người mẹ do cha và cô mình bịa ra, nàng đem tấm lòng nhân hậu và thiên lương trong sáng để đối xử với mọi người. Nàng đâu ngờ mẹ mình vẫn còn sống, còn lăn lóc trong cuộc đời phóng đãng để rồi trở nên lẻ loi chênh chông trong tuổi hoàng hôn bóng xế. Từ bao lâu nay, nàng tôn thờ hình ảnh cao quý của mẹ mình. Dĩ nhiên, nếu nàng biết mẹ mình là một gái làng chơi thì nàng sẽ ra sao khi thần tượng thiêng liêng và huy hoàng của nàng bị sụp đổ? Cô Chín Ngọc Diêu há không biết điều đó hay sao? Cô ta trước đây vì hổ thẹn nên không dám nhìn mặt con, nhưng về sau lại nghĩ đến hạnh phúc của con mình nên giấu luôn sự thật về căn cước của mình. Lúc đầu cô là một kẻ hèn hạ, chỉ muốn làm eo làm ngặt chàng rể của mình để tống tiền. Về sau, tấm lòng mẫu tử chân thành biến cô ta thành một người mẹ cao thượng. Ðây là quyển tiểu thuyết tôi phóng tác theo cuốn phim The fan (Chiếc quạt), tựa tiếng Pháp là L’éventail de Lady Windermere (Chiếc quạt của phu nhân Windermere) do Otto Preminger đạo diễn. Phim này cũng phóng tác theo vở kịch cùng tựa của văn hào Oscar Wilde. Tôi giữ nguyên ý chính, nhưng thêm thắt một vài tình tiết, dăm ba nhân vật. Tôi cố gắng Việt Nam hóa tối đa câu chuyện để không ai bắt gặp dấu vết Tây phưong trong tác phẩm.
Hỏi: Trong truyện dài Hợp lưu, Liên là một người đàn bà khoan dung, luôn có lòng thành tín để đối phó cái xấu lẫn cái tốt của cuộc đời. Cô luôn quan niệm cái đẹp lẫn cái xấu chỉ là ‘‘Một’’. Chúng cháu rất hâm mộ nhân vật Liên. Chúng cháu muốn biết nhân vật Liên có dựa trên một người nào ở ngoài đời không?
Hồ Trường An: Liên là người đàn bà giàu lòng cảm thông và sáng suốt. Cô ta là một Phật tử thuần thành nên quan niệm nhân tình thế thái dựa theo tinh thần Bát-nhã: hai hiện tượng đối nghịch từ một bản thể duy nhất mà ra. Ðây là một trong vài trường hợp hiếm hoi mà tôi nói tốt cho đàn bà. Nhân vật Liên là tổng hợp của những người đàn bà tế nhị và thùy mị đoan trang ở ngoài đời mà tôi đã từng giao du hay tiếp xúc. Tôi dùng chày quết họ thật nhuyễn nhừ trong cối đá rồi nắn thành một nữ nhân vật mới, đặt cho cái tên Liên. Cô ta là người phụ nữ rất lý tưởng đối với bất cứ ai chung mẫu người tân tiến, gần như nữ nhân vật tên Mai trong Nửa chừng xuân của Khái Hưng hay như cô Vân trong Tôi là mẹ của Lê Văn Trương. Nhưng coi chừng đó, những nhân vật hoàn toàn chỉ có giá trị về vấn đề luân lý, về đạo đức, chứ chưa hẳn có giá trị về phương diện văn chương nghệ thuật. Các anh chị nghĩ sao đây?
Hỏi: Nhà văn có thể kể một số phản hồi của độc giả được không?
Hồ Trường An: Rất nhiều người gốc Nam Kỳ chê tôi viết truyện giải trí. Họ quên rằng đa số các tác phẩm văn chương của tôi không có cốt truyện, mà chỉ có cuộc sống thường nhật. Viết về cuộc sống thường nhật, tức là viết chuyện khô khan tẻ nhạt. Ðể hấp dẫn được độc giả, ít ra tác giả phải vận dụng một cái gì đó cho cuộc bút trình của mình, chớ đâu phải chỉ viết khơi khơi, nói xàm nói nhảm? Tôi có vài độc giả trung thành như các cô ca sĩ Khánh Ly, Trúc Mai, Mỹ Hòa... Trúc Mai muốn có toàn thể tác phẩm của tôi. Còn Khánh Ly thì bảo: ‘‘Anh nên viết truyện đồng quê có những món ăn quê mùa cho Khánh Ly đọc. Ðừng viết truyện tại tỉnh Troyes mà anh đang cư ngụ, chán thấy mồ!’’ Cái phần thưởng cho tôi trong bước đường văn nghiệp là hai nhà văn nữ Nguyễn Thị Hoàng Bắc và Nguyễn Thị Thanh Bình cho rằng tôi viết về đàn bà còn rành hơn các cây bút đàn bà, rằng tôi hiểu đàn bà hơn đàn bà hiểu đàn bà. Thật ra, hình như tôi ưa nói xấu và kể thói hư tật xấu của đàn bà hơn là suy tôn, ca ngợi đàn bà. Nhưng không hiểu tại sao tôi nhận thư ái mộ của nữ độc giả nhiều hơn thư ái mộ của nam độc giả?
Hỏi: Nhà văn nghĩ thế nào về môi trường phê bình văn học hiện nay?
Hồ Trường An: Hầu như hiện giờ chẳng có nhà phê bình văn chương Việt Nam nào dám đụng tới lãnh vực văn chương có tư tưởng (triết học, tâm linh). Về văn, họ không chịu mở mắt nhìn những tác phẩm tư tuởng của Dostoievsky (Nga), Herman Hesse (Ðức, Áo), Georges Bernanos (Pháp), Yukio Mishima (Nhật), Kim Dung (Trung Hoa). Không nhà văn nào thuộc lòng Phúc Âm làu làu như ông Dos. Không ai hiểu kinh Ðại Thừa của Phật giáo hơn Kim Dung. Chắc các anh chị thừa biết rằng khi tạo ra những nhân vật ngây thơ, khờ khạo nhưng trong trắng, hồn nhiên như ông hoàng Mychkine ngu ngốc trong tác phẩm Chàng ngốc, ông Dos đã làm sáng danh những con người dù khờ khạo, ngây thơ trước cuộc đời lừa phỉnh, đảo điên, nhưng mà coi chừng đó, họ có một sự minh triết kỳ diệu, vượt cả sự thông minh của kẻ phàm phu thế tục. Những đương sự ấy có bầu tâm cảnh thuần khiết, không có một vọng động và một thành kiến nào làm nhơ bẩn cái tâm hồn trong sáng như pha lê của họ. Cho nên họ có cái óc thông minh ưu việt tuyệt vời. Nhân vật chàng ngốc Mychkine là nguồn cảm hứng cho Kim Dung khi ông xây dựng những đứa con mồ côi thánh thiện như Viên Thừa Chí trong Bích huyết kiếm, Thạch Phá Thiên trong Hiệp khách hành, Quách Tĩnh trong Anh hùng xạ điêu, Dương Qua trong Thần điêu đại hiệp, Trương Vô Kỵ trong Ỷ thiên đồ long ký, Lệnh Hồ Xung trong Tiếu ngạo giang hồ. Về thi ca, các nhà phê bình Việt Nam không chịu đọc thơ Thiền, hoặc thơ Trung Ðông của Omar Khayyam, thơ của Rumi... để hiểu sự dung chứa kiến thức mênh mông về tâm linh của các tác giả dám dưa thi ca vào bản thể của hiện hữu. Cho nên các phê bình gia Việt Nam chỉ dám đả động đến các loại văn chương luận đề, phong tục, hiện thực, tân hiện thực vì họ ngại đi xa. Rất nhiều các nhà phê bình viết về Kim Dung, nhưng chưa có ai nhận xét cái cốt tủy trong các tác phẩm của ông ta, mà chỉ nói tới cái lớp da mà thôi. Có người còn hàm hồ chê tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là loại sách giải trí nữa.
Hỏi: Nhà văn nghĩ thế nào về tình hình văn chương trong nước và hải ngoại hiện nay? Nhà văn lạc quan hay bi quan?
Hồ Trường An: Xin cho tôi miễn đề cập tới văn chương trong nước. Tuy nhiên ở hải ngoại, tình trạng văn chương càng ngày càng suy thoái. Tác giả càng lúc càng xuất hiện nhiều, còn độc giả càng ngày càng thưa thớt dần. Ðó là tình trạng đĩ điếm thì nhiều, còn khách làng chơi quá ít. Văn chương ở hải ngoại đang sống ngoắc ngoải, chuyện cáo chung chỉ trong một tương lai không mấy xa xôi.
19/4/2006
Mai Tuấn Anh, Trần Thị Hồng Diễm, 
Ðường Thị Thanh Trúc, Vũ Khánh
Theo http://www.talawas.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  ĐẠO PHẬT Hay còn gọi là Phật giáo (Buddhism). Một tôn giáo được cung nghinh hơn hai ngàn năm qua. Đó là đạo, là con đường vi diệu giáo p...