Thứ Tư, 3 tháng 12, 2025

Mồ hôi nước mắt 2

Mồ hôi nước mắt 2

- 3 -
Ánh làm thư ký ở nhà in Minh Tân, được thầy Ba và thầy Tư rất tín dụng. Minh Tân là một nhà in lớn, máy móc tối tân được mua ở Nhật và ở Đức về khá nhiều. Công việc phần lớn là thầu các đồ in của các Bộ, các Nha và các Công sở.
Chữ mới rất nhiều và toàn là chữ mua tận bên Pháp về. Công việc đã bề bộn, hai anh em thầy Ba lại còn mở thêm một ngành xuất bản sách.
Một mình cô Lê thị Ánh làm thư ký phụ trách cả ngành hoạt động: ấn loát, và xuất bản.
Nói đúng ra, không phải là do thầy Tư mê cô nên muốn cất nhắc cô lên và tăng tiền lương của cô từ hai ngàn đồng đến hai ngàn năm trăm đồng.
Không phải vậy đâu.
Vì ai cũng biết tánh thầy Tư, tuy là mê gái đẹp nhưng rất hà tiện. Có keo bẩn như thế thì hai anh em Thầy mới giàu có bạc triệu như thế! Thầy hà tiện cho đến đỗi mỗi lần thầy đang đi trong văn phòng mà trông thấy một cái đinh ghim rớt nằm trên gạch hoa là thầy lập tức cúi xuống lượm lên, lau chùi sạch sẽ rồi bỏ cẩn thận vào hộp ghim trên bàn giấy của thầy. Xuống dưới xưởng in, lỡ mà thầy gặp một anh thợ nào vô ý làm rớt xuống đất vài ba chữ chì, không lượm bỏ trở lại vào hộc chữ thì phải biết, thầy mắng cho một trận nên thân. Anh em thợ nhà in thỉnh thoảng có chuyện nhà cần thiết phải xin phép nghỉ một buổi, là thầy trừ tiền lương ngay. Chẳng hạn như anh Sáu Long có cợ vừa chết, xin nghỉ ba ngày để lo đám tang và mượn trước thầy nửa tháng lương, không những thầy Tư không cho mượn tiền mà đến ngày trả lương lại còn trừ mất của anh ba ngày ấy nữa!
Cô Ánh rất bực mình vì trên bàn giấy của cô không được một lọ keo để dán thư. Cô khẽ bảo với anh tùy phái xin tiền thầy Tư để đi mua một bình keo. Nhưng anh tùy phái cười:
- Ý! Cô không biết, lần trước cô Năm cũng có xin tiền mua ve keo đã bị thầy rầy rồi đa! Thẩy biểu xuống nhà in lấy hồ lên mà dán.
Cô Anh thấy văn phòng lớn như thế mà phải xuống chỗ thợ máy để xin một quệt hồ đem lên dùng thì có vẻ bần tiện quá. Hôm lãnh lương, cô tự bỏ tiền túi ra 25 đồng để mua một bình keo Nacra. Hôm sau thầy Tư trông thấy, trố mắt hỏi cô:
- Bình keo có lấy trên bàn giấy của anh tôi, hả cô Ánh?
- Dạ thưa thầy Tư, tôi mua ngoài tiệm.
Thầy Tư dịu giọng nhe răng cười:
- Ừ, thứ này xài tốt lắm, cô à.
Nói thế rồi thầy đi luôn, biệt có hỏi là cô lấy tiền ở đâu mà mua lọ keo tốt ấy.
Hai anh em thầy Tư hồi trước học hành không ra gì. Con trai bà chủ tiệm cầm đồ hồi thời Pháp thuộc, bà cắt cổ mổ họng đám người nghèo túng đem cầm cố tài sản, để cho bà làm giàu. Bà có hai cậu con trai đi học. Thầy Ba đỗ bằng Tiểu học rồi, nhưng chơi bời lêu lỏng, lấy bốn người vợ toàn là gái điếm cả. Còn thầy Tư thì chưa được cái bằng tiểu học nữa, nhưng bị mẹ bắt ở nhà để chép sổ sách tiệm cầm đồ và làm biên lai cho người đem đến thế áo quần, đồng hồ, xe máy, chậu đồng, mâm thau, đủ thứ… Các cô các bà thua tứ sắc, hay cần tiền buôn bán thì đem đến cầm vòng vàng, xuyến, nhẫn, cà rá, hột xoàn, đáng giá 1000 đồng thì chỉ cầm 200 đồng, rồi quá hạn không có tiền chuộc về là mất tiêu! Nhờ ở gần bà mẹ làm nghề ấy nên thầy Tư tập được cái tánh đặc biệt, là keo bẩn. Sau thầy lấy con ở, một con ở dốt nát bẩn thỉu, dụ dỗ ở dưới Sađéc đem về để khỏi tốn tiền cưới vợ. Nhưng con đầy tớ đó có chửa, rồi có quân sư bày vẽ cho nó, nó vòi tiền thầy. Thầy đánh đập tàn nhẫn, cho nó một số tiền rồi đuổi nó đi. Thầy lấy con ở khác cũng thế. Bây giờ thầy có bốn vợ, đều là bốn con ở cùng một điệu như thế cả. Một hôm, bốn đứa ở cũ toa rập với nhau kéo nhau làm đơn ra tòa kiện thầy. Tòa bắt thầy Tư phải cấp dưỡng cho cả 4 người. Tại vậy mà bây giờ thầy Tư có bốn vợ. Từ đấy, thầy không dám nuôi đầy tớ nữa và cũng không dám kiếm vợ khác nữa.
Đối với cô thư ký Lê thị Ánh, thầy mê sắc đẹp của cô, thèm muốn cô lắm. Nhưng biết Ánh có sức học giỏi hơn thầy, và thấy Ánh lúc nào cũng có bộ mặt nghiêm nghị, thầy đâm ra...nể cô. Thỉnh thoảng nói đùa vài câu, bị Ánh làm nghiêm không trả lời, thầy mắc cỡ không dám hó hé. Nhưng mặc dầu thầy Tư Quản lý chưa chiếm được tình yêu của cô thư ký, thầy vẫn muốn có cô giúp việc ở văn phòng, vì Ánh làm việc đắc lực, Ánh có nhiều khả năng và nhiều đức tính tốt, nhất là cô làm việc rất chuyên cần, tận tụy, hơn cô Năm nhiều.
Trong thâm tâm thầy vẫn muốn ‘‘lấy’’ cô Ánh lắm. Thầy định dần dà thân mật với cô, quyến rủ cô, rồi chờ một cơ hội thuận tiện nào đó, thầy sẽ..,thầy sẽ... Nhưng đó là ý nghĩ thầm kín của thầy Tư, thầy có dám thố lộ cho ai biết đâu.

Ánh bây giờ nghiễm nhiên thành cô thư ký ở văn phòng. Ai đã biết rõ đoạn đời dĩ vãng của cô, ai đã thấy đứa đầy tớ cũ của bà Minh Tú, mới trước đây vài ba năm hãy còn đi gánh nước thuê, còn xách giỏ đi chợ, chân không mang guốc, Tay xách hủ mắm, tay cầm cái chổi tàu cau, đầu đội nón rách, mình mặc áo bà ba vá vai, quần vá ống, trông bộ tịch nghèo nàn ai cũng khinh rẻ, mà bây giờ lại thấy cô ngồi làm việc trong văn phòng với chiếc áo dài trắng thướt tha yêu kiều, hai bàn tay nõn nà nhấn phớt qua dịu dàng mềm mại trên bàn máy chữ có vẻ diệu hiền, duyên dáng, thì ai cũng khâm phục chí tự lập, nhẫn nại và chuyên cần của cô, thành công với bao nhiêu mồ hôi nước mắt.
Người ngạc nhiên trước nhất là ông giáo sư Ngọc Minh. Té ra ở đời thường có những ngẫu nhiên rất lạ lùng khó hiểu, Đời sống của mỗi người như pho tiểu thuyết, do bàn tay định mệnh đã bố trí, sắp đặt sẵn sàng từ hồi nào, mà mỗi người chúng ta là một vai chính. Biết bao nhiêu sự kiện xẩy ra cho chúng ta là người ngạc nhiên trước hết. Mỗi việc gì chúng ta làm, mỗi hành động, cử chỉ của chúng ta, hình như quả thật có một số kiếp huyền bí đã sắp xếp trước đâu vào đó hết! Nếu không, thì tại sao Ánh đã từ giã nhà bà Mình Tú và xách gói quần áo rách ra đi đến bây giờ gần hai năm rồi, còn ông giáo sư Ngọc Minh đã dọn nhà ở riêng tận miệt Thị Nghè, thế mà ngẫu nhiên gặp lại Ánh, đứa ở cũ mà ông đã yêu tha thiết, say mê, tìm kiếm, nhớ nhung, gần như tuyệt vọng, ông Ngọc Minh đâu có ngờ là bây giờ Ánh làm thư ký ở một nhà in đồ sộ như thế nầy, ông có ngờ đâu cô thư ký đang ngồi đánh máy kia, là Lê thị Ánh? Có phải Ánh thật không? Nhưng ai mà giống Ánh y như hệt thế kia?
Ông Ngọc Minh vừa buớc vào cửa văn phòog nhà in, tay xách một cặp da, vừa trông thấy thiếu nữ ngồi đánh máy ở bàn giấy trước mặt ông, ông sửng sốt đứng yên, đăm đăm nhìn cô. Nhưng cô chăm chỉ đánh máy một bức thư dài, không ngước mắt lên, không trông thấy ông. Vẻ mặt Ánh điềm nhiên, và đẹp hơn Ánh hồi nào, nhưng vẫn đượm nét buồn hấp dẫn, một quyến rủ huyền ảo xa xăm.
Một phút ông do dự. Nỗi lòng hồi hộp, xúc động liên miên, ông biết nói sao với Ánh, trong một tình thế khác hẳn trước kia, ông mừng rỡ vô cùng, mà ông cũng bỡ ngỡ vô cùng. Nhưng có phải thật Ánh đó không?
Trong văn phòng chỉ có một mình cô thư ký ngồi đánh máy, cô không để ý đến ai cả, theo thói quen của cô như thế, trừ khi có ai đến gần hỏi cô việc gì cô mới ngưng việc để trả lời rất dịu dàng nhã nhặn. Ông giáo sư Ngọc Minh đứng cách xa, lặng lẽ, không lên tiếng. Ông toan đến gần chào Ánh ngay, và hỏi chuyện Ánh, nhưng ông còn ngập ngừng...
Thầy Tư Quản lý, từ dưới xưởng máy đi lên. Trông thấy khách thầy vồn vã bước ra chào:
- Thưa ông hỏi có việc chỉ?
Ông giáo sư Ngọc Minh mỉm cười:
- Tôi có một quyển sách, muốn nhờ quý quán in dùm.
Được một khách hàng mới, thầy Tư mừng rở đón mời:
- Dạ, dạ. Dạ mời ông vào...
Bàn giấy của thầy nơi góc tường. Ghế của khách đặt trước bàn, vi thế khách ngồi đối diện ngay với bàn cô thư ký cách xa chừng năm bước.
Ông Ngọc Minh mở cặp da lấy ra một tập bản thảo đánh máy sạch sẽ, trên giấy pelure, dầy 100 trang. Ông đưa thầy Tư coi và bảo:
- Tôi muốn in 3.000 cuốn giấy thường, 100 cuốn giấy impérial du Japon, xin ông tính cho biết giá in bao nhiêu?
- Dạ.
Ánh đang lui cui đánh máy. Nghe tiếng nói hơi quen quen, cô ngước mắt lên ngó. Bỗng nhiên đôi má cô đỏ bừng, cô thẹn thùng cúi mặt xuống liền, Ánh nhận ra ngay ông Ngọc Minh. Nhưng ông Ngọc Minh không ngó cô. Ông đang chăm chú đàm thoại với ông Quản lý nhà in về ấn phí quyền bản thảo của ông.
Ánh rất đổi ngạc nhiên. Cô hết sức trấn tỉnh tinh thần nhưng không sao giấu nỗi băn khoăn lộ ra trên nét mặt kiều diễm của cô, đang điềm nhiên vô tư lự, bỗng bối rối, thẹn thùng, nôn nao, hồi hộp... Cô đã đánh máy gần cả một trang thư dài không sao, thế mà bây giờ cuối bức thư cô lại vấp phải hai lỗi lớn: chữ z cô đánh lộn ra chữ R, chữ expression cô bỏ sót mất một chữ S. Ánh ngưng đánh, mở ô kéo tìm cục tẩy nhưng lục soạn các đồ vật và giấy tờ trong hộc, kiếm mãi không ra. Ánh sực nhớ hôm qua thầy Tư bảo cô đưa miếng tẩy cho thầy mượn, mà thầy chưa trả lại. Ánh bực mình lắm. Đứng dậy đến bàn thầy Tư để hỏi miếng tẩy, thì cô mắc cỡ vì có ông Ngọc Minh ngồi đấy. Cũng tại gặp ông Ngọc Minh một cách bất ngờ và quá đột ngột nên cô mới bối rối đánh máy làm mất hai chữ. Cô đang nôn nao trong lòng, băn khoăn trong trí, lại kiếm không ra cục tẩy khiến cô càng bối rối thêm. Cô toan rút tờ giấy ra, đặt tờ giấy khác vào để đánh máy lại, nhưng bức thư dài quá đánh lại thật mất công và sợ thầy Tư hỏi. Cô không quên lúc nãy thầy Tư có dặn cô: ‘‘Thư này gấp nghe cô Ánh!’’.
Cô thầm mong ông Ngọc Minh ngồi nói chuyện lâu lâu với thầy Tư để cô có thì giờ đánh lại thư khác. Dè đâu, thầy Tư, quay qua hỏi cô:
- Cô Ánh ơi, xong bức thư đó, cô đánh cho tôi bản tính giá in nầy gấp nhé.
- Dạ.
Trong lúc Ánh còn ngó thầy Tư, Ánh cảm thấy ông Ngọc Minh chăm chăm nhìn cô. Cô không dám ngó ông. Nhưng thầy Tư vừa cúi xuống bản tính giá tiền thì tự nhiên cặp mắt cô chạm phải đôi mắt của ông Ngọc Minh. Một luồng điện nẫy ra giữa bốn con ngươi im lìm xao xuyến. Đôi mi của Ánh chớp chớp như một rèm thưa rung động dịu dàng... Ánh cúi mặt xuống, vừa lúc ông Quản lý trao cô tờ gìấy tính giá tiền.
- Cô đánh ngay rồi đưa qua tôi ký.
- Dạ.
Ánh đánh bốn phút xong, đứng dậy cầm bản khai giá đến bàn giấy ông Quản lý. Sẵn dịp cô hỏi luôn cục tẩy.
Một lúc sau, Ánh đang chăm chú vào công việc thì ông Ngọc Minh đứng dậy ra về. Lúc ông đi ngang gần bàn cô, cô nghe tiếng nói dịu dàng của ông:
- Chào cô.
Ánh lễ phép đáp:
- Dạ, chào ông.
Ông Ngọc Minh đi ra khỏi cửa rồi, thầy Tư để tập bản thảo trên bàn Ánh:
- Cô coi theo kiểu mẫu hợp đồng in sách, đánh một bản hợp đồng với ông này, theo đúng các điều kiện như các hợp đồng kia, còn giá in thì theo bản khai giá lúc nãy. Phải làm xong hôm nay để sáng mai ông ấy tới đóng tiền đặt cọc và ký hợp đồng luôn thể. Có tên và địa chỉ của tác giả trên danh thiếp tôi ghim vào bìa đấy.
- Dạ.
Thầy Tư đi xuống xưởng máy.
Ánh xem danh thiếp:Trần Ngọc Minh Đại học Saigon trên trang bìa tên quyển sách:
‘‘ĐI TỚI MỘT XÃ HỘI KHÔNG GIAI CẤP’’’
Lật qua trang sau, Ánh chăm chú đọc mấy lời tựa:
Gởi Ánh,
Cô nữ sinh đi ở mướn,
Nếu Ánh được sanh trưong trong một gia đình khá giả, hoặc giàu sang, hay quý phái thì Ánh đã là một nàng Tiên được bao nhiêu đàn ông say mê, và Ánh đã là vợ một ông Bộ trưởng, một ông Đại sứ, một nhà Triệu phú, một Bác sĩ, một Kỹ sư, một Luật sư, hoặc một nhân vật ‘‘thượng lưu’’ nào đó trong xã hội. Em đã được bao nhiêu người đàn ông lẫn đàn bà, quỳ lụy, nịnh bợ, kính nể, dù là em xấu xí, hoặc dỗt nát, ngu đăn, hoặc lẳng lơ, mất nết. Ánh đã được lên Đại học, được đi Ngoại quốc, được luyện tập thành tài, trở nên một trí thức thượng lưu, chẳng kém ai.
Nhưng Ánh chỉ là con gái một gia đình lao công nghèo khổ! Cho nên em phải bỏ dở việc học, và đành đi ở mướn, làm thuê, và ai cũng khinh rẻ em. Dù em có đủ công, dung, ngôn, hạnh, hơn con nhà khuê các. Dù em có tài năng trí đức hơn muôn ngàn thiếu nữ ăn không ngồi rồi, xa hoa phù phiếm.
Tôi viết quyển sách này, riêng để tặng Ánh, và tặng chung hết thảy các cô, Ánh, nạn nhân của xã hội tàn nhẫn, bất công, tham tàn, ích ký.
Tôi xin đề nghị với hết thảy Loài Người một xã hội có nhân đạo hơn, nghĩa là chân chính văn minh hơn, hợp với phẩm giá của con Người. Ta phải xây dựng một xã hội không có giàu nghèo cách biệt, không có giai cấp đấu tranh, trong đó một cô gái như Ánh, thông minh, dịu hiền, có tài năng, trí đức, không phải đi ở mướn làm thuê, sống hẩm hiu, tủi nhục ……….
………………………..

Xem đến đây, Ánh để tay trên trang bản thảo, ngồi mơ màng suy tư... Lòng cô nao nao xao xuyến. Thật ra, Ánh không ngạc nhiên vì những tư tưởng của ông giáo sư Ngọc Minh, người đã thành thật yêu quý cô, và đã nhiều lần bày tỏ với cô quan niệm bình đẳng xã hội như trên kia, nhưng Ánh không thể tin đựợc rằng ông muốn thực hiện lý tưởng cao siêu ấy. Sống trong thành kiến xã hội giai cấp từ nghìn xưa để lại, Ánh không thế tin tưởng được rằng một người thượng lưu, có địa vị cao sang, gia đình quý tộc, có thể hạ mình xuống để yêu và muốn cưới một đứa đầy tớ bần hàn khốn khổ như Ánh, Nhưng chuyện ấy đã qua rồi. Ánh đã ra đi, không một lần bước chân trở lại, dù để thăm chủ cũ. Hôm nay thật Ánh không ngờ, sau hai năm quên lãng, một ngẫu nhiên, lạ lùng đã đưa ông giáo sư Ngọc Minh đến đây, bổng dưng gặp lại Ánh, và để in một quyển sách vì vấn đề ‘‘Vô giai cấp’’, mà bài tựa lại đề tặng Ánh!... Ánh tưởng tượng ông Ngọc Minh sáng nay cũng không thể không ngạc nhiên được khi thấy Ánh ngồi đây, làm thư ký đánh máy trong một nhà in lớn.
Ánh vô cùng cảm động. Bây giờ Ánh không còn chút nào nghi ngờ tình yêu chân thật rất cao thượng của ông Ngọc Minh. Mấy Iời tựa tha thiết để trên trang đầu tập bản thảo này đã biểu lộ hết tâm sự đau đớn của ông giáo sư.
Ánh cảm thấy một phần nào hãnh diện được ông Ngọc Minh vẫn lưu ý đến mình sau hai năm xa cách.
Nhưng chính vì thế mà Ánh càng thêm đau khổ. Đau khổ vì người yêu của Ánh, người yêu trong trái tim của Ánh, lại không phải là ông Ngọc Minh, Ánh kính phục ông Ngọc Minh là một thần tượng mà từ nay cô tự nguyện sẽ suốt đời quý mến trung thành, một ân nhân cao cả đã xây dựng cho tư tưởng cô một quan niệm xã hội công bình vừa tiến bộ. Một lý tưởng siêu việt của đời sống.
Bởi suy nghĩ kỹ, ông Ngọc Minh không thể là người mà cô yêu được hay là cô được yêu.
Về địa vị, tiền tài, tư cách, tính nết, tài năng, tư tưởng ông còn hơn gấp mấy các bạn trai trẻ thời buổi này. Ông không ham mê vật dục, không rượu chè đàng điếm, không trụy lạc vì vật chất cũng như tinh thần. Ông là một người toàn thiện, toàn mỹ, có thể là một người chồng lý tưởng cho tất cả các thiếu nữ. Nhưng không bao giờ Ánh dám nghĩ rằng ông sẽ có thể là chồng của Ánh!
Tất cả những điều tốt đẹp, thanh cao trên kia đã làm cho Ngọc Minh thành một người rất đáng kính phục, đáng quý, và dĩ nhiên là rất đáng yêu.
Nhưng Ánh tự xét rằng Ánh không xứng dáng một chút nào được vinh dự nhận lãnh hạnh phúc diễm tuyệt ấy, than ôi, tình yêu quá xinh đẹp của ông Ngọc Minh đâu có được là tình yêu của Ánh!
Tình yêu của Ánh là Hoàng, Ánh nghĩ như thế, và Ánh chỉ nghĩ có thế thôi! Hoàng không có địa vị, chức tước, không có tài năng được như ông giáo sư Đại học. Nhưng Ánh yêu Hoàng. Ba năm rồi, ồ không, hơn bốn năm rồi chớ! — Ánh không biết Hoàng phiêu lạc nơi nào? Ánh cố công tìm đã nhiều lần, không gặp, Ánh đã nhẫn nại dò hỏi nhiều người, không ai biết. Nhưng Ánh vẫn yêu Hoàng. Ánh yêu người bạn học cũ nghèo nàn, khổ sở, Ánh yêu người bạn trai đã bán chiếc đồng hồ đeo tay của ông chú cho, một vật kỷ niệm thi đỗ, để lấy 200 đồng bạc đưa cho Ánh mua thuốc uống trong lúc Ánh nằm sốt mê man trên giường bệnh, trong căn nhà lá rách rưới. Ánh yêu người đã cùng chung cảnh ngộ như Ánh, và tuy Hoàng chưa hề nói ra miệng một câu ‘‘anh yêu em’’ nhưng câu ấy Hoàng đã khỏi phải nói, vì Ánh đã tìm thấy trong đôi mắt nhìn say mê của Hoàng, và trong số tiền 200 đồng kia tuy không là bao nhiêu, nhưng nó quý báu hơn hết thảy vàng bạc, châu báu trên đời.
Ánh nghĩ rằng đã yêu Hoàng rồi, Ánh sẽ chờ đợi Hoàng với một lòng trung trinh với thời hạn. Một ngày nào đây, không sớm thì muộn, Ánh sẽ gặp lại Hoàng. Ánh tin như thế. Ánh chỉ quên được Hoàng khi nào hình ảnh của Hoàng biến mất khỏi trái tim của Ánh.
Ánh cũng biết không có một lời thề nguyện nào ràng buộc Ánh cả, nhưng Ánh cảm thấy rằng Ánh với Hoàng còn vương vấn với nhau bằng một món nợ duyên kiếp không vay mà nàng quyết trả.
Ánh cũng lo sợ nếu một thời gian lâu không tái ngộ, Ánh sẽ làm thế nào? Nhưng Ánh tự an ủi; chừng đó sẽ hay. Ánh còn trẻ, đời Ánh còn dài, Ánh không cần phải vội vàng hấp tấp, không cần nương dựa vào ai. Ánh sẽ tự lập lấy thân với mồ hôi nước mắt của mình để xây dựng một đời sống lý tưởng, chú trọng đến giá trị của con người, nhất là con ngươi nghèo. Về điểm này Ánh nhận thấy ông giáo sư Ngọc Minh là người duy nhất để cho Ánh kính phục và hoàn toàn tin tưởng.
Trưa hôm ấy, về nhà, Ánh ăn cơm xong, nằm trên chiếc võng rách lót bằng miếng bao cà gòn, nghĩ khá nhiều về ông giáo sư. Ánh tủm tỉm cười một mình, tưởng tượng ông Ngọc Minh không khỏi ngạc nhiên thấy đứa đầy tớ của ông trước kia nay đã thành một cô thư ký trong một nhà in lớn. Ánh tưởng tượng ông Ngọc Minh nói lại chuyện ấy cho em ông nghe. Chắc bà Minh Tú không tin! Nhưng rồi Ánh tự hỏi thái độ của ông Ngọc Minh từ nay về sau đối với Ánh sẽ như thế nào? Ánh rất thắc mắc về bài tựa nơi trang quyển sácn mà ông đã tặng Ánh hơn ba năm xa biệt, phần Ánh đã gần như lãng quên. Ông chủ nhà cũ rồi, mà ông Ngọc Minh hãy còn nhớ đến Ánh, ông hãy còn yêu Ánh thiết tha đến thế ư? Nếu không, sao ngay trang đầu quyển sách, ông lại đề tặng Ánh? Lúc ở trong nhà ông, không có lần nào Ánh đáp lại ông một lời ân ái, lúc Ánh xách gói ra đi cũng không có được một lời từ biệt. Thế mà nay ông vẫn không thay đổi tư tưởng, nhưng cuộc đời tình cảm của ông có thay đối như thế nào chưa?
Trường hợp ông Ngọc Minh khiến cho Ánh tò mò muốn hiểu biết về ông nhiều hơn. Dù sao, Ngọc Minh cũng là một người khác thường, mà Ánh tự hãnh diện đã gần một thời gian. Nghĩ xa nghĩ gần, Ánh thương ông Ngọc Minh lắm. Nhớ lại những cử chỉ của ông, Ánh tự nhiên rưng rưng hai ngấn lệ... Ánh không hiểu tại sao Ánh thấy nao nao trong lòng, một nỗỉ buồn mênh mông vô cớ...
Ánh chờ ngày mai ông Ngọc Minhv tác giả quyển bản thảo ‘‘ Đi tới một xã, hội không giai cấp’’ sẽ đến nhà in để ký hợp đồng và đặt cọc tiền in, từ ngày mai trở đi, ông Ngọc Minh sẽ còn phải thường tới nhà in luôn để chữa bài, cho đến ngày sách in xong, nghĩa là trong vòng một hai tháng.
Nghĩ đến cuộc trùng phùng thật ngẫu nhiên này, Ánh hồi hộp băn khoăn...
* * *
Sáng hôm sau, Ánh ngồi đánh máy trong văn phòng, nhưng trái tim xao xuyến khác thường. Ánh vẫn phục sức giản dị, áo dài trắng mềm mại ôm sát vào người để nổi bật lên một bộ ngực tuyệt đẹp. Mái tóc huyền đen mướt, chải sơ sài nhưng gọn gàng, không cần nước hoa vẫn thoang thoảng hương thơm. Ánh khôrg đeo một món nữ trang nào, trừ một chiếc đồng hồ đeo tay, lấp lánh dưới tay áo, Ánh không thích phô bày đồng hồ ra ngoài áo như phần đông phụ nữ.
Chín giờ hơn, Ánh nghe tiếng xe đỗ trước cửa nhà in. Một phút sau tiếng giày tây bước vào, Ánh đoán biết có lẽ là ông Ngọc Minh. Thoạt tiên cô không muốn ngó ra, nhưng rồi sao tự nhiên cô cũng ngoảnh mặt ra xem. Có bẽn lẽn vội quay mặt vào, và điềm nhiên đánh máy như không cần biết khách là ai!
Nhưng một cô thiếu nữ đang bị rung cảm có thể nào giấu được đôi má ửng đỏ của mình không?
Một người tinh ý như ông Ngọc Minh thoáng trông gương mặt của cô, cũng biết ngay là cô đang ngượng ngùng e lệ. Nếu lúc bấy giờ ông giáo nhìn kỹ vào tờ giấy đánh máy của cô, chắc ông sẽ thấy cô vừa đánh lầm một con số trên biên lai: 32.000$ mà cô cứ đánh 3.200$, mất một con số không. Không phải chỉ mà là mất một tý gì trong tâm hồn của cô nữa!
Cũng may là Ánh trông thấy ngay sự nhầm lẫn mà cô biết là tại cô đang bối rối. Nhưng Ánh mỉm cười nghĩ thầm rằng chính ông Ngọc Minh cũng không điềm tĩnh gì hơn cô, vì trong văn phòng không có ai mà ông Ngọc Minh đang đứng trước mặt cô một lúc khá lâu mà ông không nói ra được một lời. Cả hai người đều ngượng nghịu. Ánh không dám ngước mặt lên để chào ông, cứ cúi xnống đánh máy mà đánh trật hết. Còn ông Ngọc Minh thì không nhúc nhích, đờ câm như pho tượng. Ông lặng lẽ nhìn Ánh, nhìn làn tóc mướt dịu của cô, khuôn mặt trái soan của cô đẹp hơn trước nhiều, ông nhận thấy Ánh tuy bây giờ là cô thư ký trong một sở lớn, nhưng vẫn hiền lành thùy mị như xưa, vẫn giản dị, không lòe loẹt xa hoa ông khẽ gọi:
- Cô Ánh!
Ánh khẽ đáp:
- Dạ.
Ánh ngước mặt lên, càng e lệ. Nhưng sực nhớ rằng dù sao cô cũng phải lễ phép với ông khách hàng, Ánh liền đứng dậy.
- Thưa ông, hôm nay ông đến ký hợp đồng in sách, có phải không ạ?
- Vâng.
- Dạ xin mời ông ngồi, tôi đi gọi ông Quản lý lên.
Ánh vừa bước ra khỏi bàn của cô, thì ông Ngọc Minh
khẽ bảo:
- Thong thả cũng được, cô Ánh à. Tôi muốn hỏi Ánh vài câu chuyện riêng, nếu cô cho phép.
- Dạ.
- Nhà Ánh ở đâu?
Ánh cúi mặt xuống, im lặng một lúc rồi bẽn lẽn hỏi:
- Thưa ông, Ang hỏi nhà tôi để chi ạ?
- Tôi muốn đến thăm Ánh.
- Dạ thưa ông, nhà tôi ở trong ngõ hẻm xóm lao động.
- Ngỏ hẻm nào? số nhà mấy?
- Dạ nhà không có số.
- Tôi sẽ tìm đến được nếu cô vui lòng chỉ chỗ.
- Dạ, chắc là ông sẽ không tìm thấy.
- Tại sao?
Ánh không đáp, đứng cúi mặt xuống bàn, tay mân mê một tờ giấy.
Đối diện cô, ông Ngọc Minh cũng im lặng, Một lúc Ánh lại nghe tiếng gọi dịu dàng của ông:
- Cô Ánh...
- Dạ.
Nhưng thầy Tư Quản lý từ dưới xưởng máy vừa bước lên. Ông Ngọc Minh quay lại.
Thầy Tư vui vẻ chào:
- Thưa ông, hợp đồng chúng tôi làm xong rồi.
- Vâng. Tôi đến đặt tiền trước.
- Dạ, cảm ơn ông.
Ông Ngọc Minh đến bàn quản lý, ký hợp đồng với nhà in và đặt trước 20.000$ Cô Ánh đã đánh máy sẵn các giấy tờ cần thiết, trao qua thầy Tư. Sau khi thỏa thuận mọi điều kiện về ấn loát, ông Ngọc Minh đứng dậy ra về, Trước mặt thầy Tư ông không thể nói chuyên riêng với Ánh nữa. Đi ngang qua bàn cô. Ông lễ phép chào. Ánh cũng điềm nhiên đáp lại.
Thầy Tư không nghi ngờ một việc gì cả.
Ánh có cảm tưởng như cô đang sống trong một cuốn tiểu thuyết hào hứng ly kỳ mà có lẽ cô là một vai chính chăng? Cô nhận xét rằng trên đời có hai hạng người. Một hạng sống thản nhiên, không có gì xảy ra ngoài mức bình thuờng, theo một thông lệ quen, qua những tháng ngày phẳng lặng, và một hạng người khác hình như sinh ra để đóng một vai trò trong tấn kịch ly kỳ của định mệnh. Đời của họ là một liên tục các biến cố bất ngờ; lúc đầu, thấy như rời rạc, không ăn nhập vào đâu, nhưng rốt cuộc lại chính là cả một bố cục khéo léo, chặc chẽ của số kiếp.
Vâng, Ánh thuộc về hạng người này. Thông minh và giàu tình cảm, với một ít kinh nghiệm chua chát của tuổi xuân đầy oán hận bi thương, cô đã biết rằng sắc đẹp thiên nhiên của cô và hoàn cảnh éo le của cô hiện tại là hai yếu tố của một tấn kịch mà chính cô cũng chưa biết là sẽ có những tình tiết như thế nào. Cô băn khoăn không hiểu rồi đây cuộc tái ngộ ngẫu nhiên giữa cô và ông Ngọc Minh sẽ đi đến đâu? Tình yêu tha thiết và âm thầm của cô với Hoàng sẽ như thế nào? Hoàng là người cô yêu, và cô đợi chờ, sao cô không gặp? Mà người cô gặp lại không phải là người cô yêu.
Ánh thật không ngờ tuổi cô hãy còn thơ dại, lòng cô còn trong trắng, mà cô đã chịu cảnh trái ngược lạ lùng như thế! Thì ra tình yêu cũng rắc rối thế ư? Mà đây có phải là tình yêu không? có phải bởi số kiếp của cô đau khổ, nên mối tình đầu cô cũng phải gặp cảnh trở trêu? Lời tục thường nói ‘‘xa mặt cách lòng’’, Ánh cho rằng câu ấy chưa chắc đúng. Chứng cớ là Ánh xa Hoàng đã ba năm, không biết người bạn trai nghèo khổ kia hiện nay thất lạc nơi nào, mà Ánh vẫn còn yêu Hoàng, vẫn nhớ Hoàng cho đến đỗi ông Ngọc Minh lưu luyến với cô như thế mà lòng cô vẫn hờ hững e dè...
Ông Ngọc Minh ngày nào cũng đến nhà in để chữa mô-rát của quyển sách ông, và ngày nào cũng gặp Ánh. Một hôm, ở văn phòng không có ai, ông khẽ bảo Ánh:
- Cô Ánh ạ, ngày mai chúa nhựt, tôi muốn mời Ánh đến nhà tôi, dùng cơm trưa với tôi cho vui. Lần nầy tôi mong Ánh nhận lời.
Ông Ngọc Minh nói ‘’lần nầy’’ vì từ hôm gặp lại Ánh ở nhà in, ông đã mời Ánh hai lần rồi, nhưng Ánh đều viện lý do để từ chối.
Có lẽ bây giờ, Ánh không dám phụ lòng tốt của ông nữa. Nếu Ánh cứ từ chối, hóa ra Ánh làm cao, với ông giáo sư? Đâu có phải phép lịch sự như thế. Ông Ngọc Minh quá là một người quân tử, nhiều lễ độ, luôn luôn chân thật, Ánh chẳng qua vì muốn giữ giá trị của một thiếu nữ nghèo khổ, tự xét mình không xứng đáng là người bạn của ông, chứ Ánh đâu phải là một kẻ kiêu căng, ỡm ờ, vô lễ! Ánh rất cảm động, và trong thâm tâm có
đôi phần hãnh diện được ông Ngọc Minh niềm nỡ, chiếu cố đến chút phận nghèo hèn của cô.
- Dạ,thưa ông, tôi rất hân hạnh được ông cho phép đến thăm ông tại nhà. Tôi xin vâng lời ông. Nhưng còn dùng cơm thì tôi không dám.
- Sao vậy, cô Ánh? Cô ngại điều gì chăng?
Ánh bẽn lẽn thật khó trả lời. Sau cùng, Ánh không dám từ chối.
10 giờ sáng chủ nhật, Ánh đi ô tô buýt qua đến chợ Thị Nghè. Ánh đi bộ tìm đến nhà ông Ngọc Minh.
Hôm qua, ông Ngọc Minh có đề nghị với Ánh rằng 9 giờ ông sẽ lái xe hơi đến đón Ánh ở ngõ hẻm Bàn Cờ, nhưng Ánh không dám làm phiền ông Ngọc Minh như thế. Trời nắng gắt, tuy Ánh đội nón, nhưng không dè nhà ông Ngọc Minh ở cách chợ khá xa, Ánh tìm được nhà thì mồ hôi đã chảy ướt cả lưng áo trắng của cô. Đôi má Ánh đã hồng hào tự nhiên bị nắng nung nóng, càng đẹp bừng lên.
Ông Ngọc Minh đang dạo trong vườn hoa. Trông thấy Ánh thấp thoáng ngoài ngõ. E lệ chưa dám vào, ông liền rảo bước mỉm cười đón Ánh:
- Mời Ánh vào.
- Dạ.
Ông đi cạnh Ánh, cảm ơn Ánh đã đến, và tỏ nỗi ái ngại vì sự Ánh đi bộ dưới trời nắng chang chang. Ánh để nón ngoài hè, úp vào chân tường, nhưng ông Ngọc Minh cúi xuống cầm chiếc nón đem vào nhà, đặt tử tế trên một chiếc bàn con cạnh cửa sổ phòng khách. Ông mời Ánh ngồi. Tuy nhà ông rất thoáng đạt, gió thổi mát rượi, nhưng ông cũng mở quạt máy để Ánh ngồi một lúc cho ráo mồ hôi.

Rất tự nhiên không ỡm ờ khách sáo. Ông mời Ánh đi xem qua các căn phòng trong nhà. Ông đưa Ánh sang phòng giấy kế phòng khách, với một tủ sách, đầy nhóc các sách Phảp, Anh, Hán, Việt, có đến bốn năm trăm quyển. Bàn viết của ông kê sát vào tường, cạnh cửa sổ ngỏ ra vườn hoa. Ông chỉ Ánh xem những giỏ phong lan tươi nở treo lơ lửng dưới dàn hoa âng-ti-gôn hồng, ông dắt Ánh đến dứng nơi cửa sổ. Nhìn các chùm hoa soan lý tý như những nụ cười hé nhỏ đáng yêu, ông khẽ bảo:
- Ban đêm trời sáng trăng, cảnh ở đây nên thơ lắm.
Ánh mơ màng:
- Dạ ban ngày như bây giờ thấy cũng đã rất nên thơ...
- Ở đây tôi làm việc được yên tĩnh. Chỉ có ở đây là tôi mới viết được quyển sách của tôi.
- Ông giãi bày trong sách những ý tưởng thật đẹp.
- Tôi không tin rằng có nhiều người hiểu tôi. Phải có đau khổ nhiều như Ánh mới thông cảm được cái cao quý của đau khổ. Phải không, Ánh?
- Dạ tôi cũng nhận xét như thế. Nhưng thưa ông tôi hơi ngạc nhiên vì đời ông đâu có gì đau khổ? Trái lại, ông có đủ tất cả tiện nghi vật chất và tinh thần đi xây dựng hạnh phúc.
- Phải, Ánh nói đúng. Chính vì thế nên tôi đau khổ. Nhiều khi nghĩ đến xã hội có bao nhiêu người đói rách, bần hàn, mà mình ăn sang mặc sướng, tôi có cảm tưởng như mình đang phạm một tội ác... Nếu không thì mình cũng đồng lõa với xã hội bất công và tàn ác nầy. Nhiều khi tôi tự hỏi mình có quyền sống ích kỷ không? Mình sống hẳn cho mình, không cần thắc mắc về hoàn cảnh của kẻ khác, không cần quan tâm đến đời sống chung quanh mình, cũng được chứ. Nhưng, khốn nỗi, mình cứ phải chứng kiến hằng ngày những tấn kịch vô cùng bi thảm của xã hội, mình làm ngơ làm sao được? Chính đó cũng là một bi kịch thường xuyên trong nội tâm của mình.
Ông đưa Ánh sang phòng bên cạnh, là phòng ngủ của ông. Phòng ngủ của một người đàn ông độc thân, trang hoàng thanh nhã và đơn giản. Rồi ông đưa Ánh đi ngang qua phòng tắm, phòng ăn, ra nhà bếp. Ánh ngạc nhiên thấy bếp vắng tanh không có người. Không dám hỏi, nhưng Ánh không biết sao hôm nay ông Ngọc Minh mời cô dùng cơm trưa mà chẳng nấu nướng gì cả.
Vừa kịp ông cho biết:
- Tôi ở đây một mình với một đứa em nhỏ coi nhà. Tôì ăn cơm tháng nơi một tiệm ở ĐaKao. Hôm nay nó đi lấy đồ ăn đem về. Như thế tiện hơn.
Ông đưa Ánh ra vườn xem các loại hoa ông trồng và ông săn sóc mỗi ngày. Trưa nắng, nhưng rất mát, nơi đây thoáng gió và có nhiều cây cao, tàn cây che rợp cả khu vườn.
Thấy Ánh có vẻ thích cảnh vườn, ông Ngọc Minh đưa Ánh đi xem khắp cả chung quanh. Hai người thong thả bước từng bước, Ánh đi bên cạnh ông, lần này đã dạn dĩ và tự nhiên hơn, không còn khép nép e lệ nữa. Nhưng Ánh chỉ nghe ông nói chuyện, thỉnh thoảng cô mới hỏi một câu, hoặc dừng bước một lượt với ông, và chăm chỉ nghe, như say mê những lời ông nói. Ông Ngọc Minh không có câu nào tán tỉnh Ánh cả. Ông chỉ nói về đời sống của các thứ hoa ông trồng, hoặc của một vài loại chim mà ông chỉ cho Ánh coi chúng đang nhảy nhót trên cây,
- Ánh nghe con chìa vôi, nó hót...
Hai người lặng yên nghe một lúc tiếng chim hót líu lo. Rồi ông nói tiếp:
- Cứ chiều chiều vào khoảng sáu giờ, mặt trời vừa lặn, thì có hai con chìa vôi bay xuống trước ngõ rồi nhảy tưng tửng trong sân, chờ tôi quăng cho mấy hột mè! Có khi con chó Rít đang nằm trên sân, chìa vòi nhảy lên lưng nó, mổ lông nó. Con Rít không cự nự, lại còn tỏ vẻ bằng lòng nữa là khác. Chúng nó mến nhau lắm.
Ánh tủm tỉm cười. Hai người lại rảo bước đi vòng quanh khu vườn rộng. Gần nửa tiếng đồng hồ, ông Ngọc Minh đưa Ánh đến một góc vườn rợp mát hơn cả. Nơi đây có bốn cây nhãn đã có trái, từng chùm trái lồng trong các miếng mo cau, thòng xuống các cành rậm. Một chiếc võng đã hơi cũ treo từ thân một cây vú sữa qua một cây nhãn. Bên cạnh võng, đặt một chiếc ghế phô tơi bằng nylon, và một bàn tròn nhỏ, xinh xắn. Trên bàn để một quyển sách đang xem dở, có một cục đá trắng đè lên
Ông chỉ chiếc ghế phô tơi, bảo Ánh:
- Mời Ánh ngồi. Chúng ta nghỉ ở đây một lúc cho mát, đợi em nhỏ đem cơm về dọn trong nhà chúng ta sẽ vào dùng cơm. Ánh uống gì?
Ánh lại mất vẻ tự nhiên rồi bẽn lẽn, Ánh đáp:
- Dạ thưa ông, thôi ạ.
- Chắc Ánh kháit. Ánh tới từ nãy đến giờ, tôi quên mời Ánh giải khát... Ánh uống nước cam tươi nhé?
Sự thật Ánh khát lắm, vì đi nắng, và nghe nói đến cam tươi, Ánh cũng thích. Kể ra trái cam thì có gì là quý đâu, trái cam có gì là lạ, nhưng từ nhỏ tới giờ có lần nào Ánh được ăn một trái cam, hay uống một ly nước cam tươi? Tám đồng bạc một ly nước cam tươi, đâu phải một cô gái nghèo và không ưa xa xỉ như Ánh lúc nào cũng uống được? Nhưng cô vẫn quen tính tự trọng và bỡ ngỡ của thiếu nữ:
- Dạ thôi ạ...
Nhưng thường trong trường hợp này, người đàn ông luôn luôn phải hiểu tâm lý, và tự động:
- Ánh đợi tôi một chút nhé!
Ánh chưa nói gì được thì ông Ngọc Minh lẹ bước về nhà. Ánh chưa dám ngồi, đi quanh quẩn xem các bụi hoa. Ngọc Minh trở ra, tay ôm một dĩa mây khá lớn, trong có bốn trái cam chín, thứ cam dễ thương của ngoại quốc mà ta ăn vào một miếng thì nước ngọt hơi chua chua dìu dịu thắm mát trong tim gan. Một tay, ông cầm hai chai sô đa. Ở đây, ông không dùng nước đá.
Rất tự nhiên, ông Ngọc Minh ngồi trong võng, để hai chân xuống đất, lấy con dao, cắt đôi quả cam, rồi vắt nước vào ly. Ánh đã ngồi xuống ghế phô tơi, đối diện ông.
Muốn giúp ông một tay, Ánh vui vẻ bảo:
- Dạ thưa ông, để tôi...
Chìu ý Ánh ông Ngọc Minh đưa con dao cho Ánh, Ánh vắt một quả cam kia vào ly, rồi cắt một quả nữa, vắt hết vào ly thứ hai. Ông Ngọc Minh mở chai sôđa, rót vào đầy hai ly.
Ông để một cái muỗng vào ly của Ánh. khuấy đều, rồi ngó Ánh:
- Mời Ánh dùng.
- Dạ.
Hai người cùng nâng ly nước cam. Ánh mới hớp một hớp đầu, khẽ nuốt vào thấy mát rượi trên môi, thật ngọt và hơi chua chua thắm dịu vào trong cơ thể... Đang khát, nóng nực, Ánh uống ba hớp nước cam vào, cảm thấy khoan khoái dễ chịu. Làn gió mát cuốn bay nhẹ nhàng tà áo trắng và mơn trớn vài sợi tóc mai ẻo lả bên mép tai thiếu nữ.
Ánh hơi ngà ngà say, say một chút nắng hồng, say một chút gió mơ. Đôi mắt nàng lơ đểnh nhìn làn mây trắng phất phới như một tấm đăng ten trên khuôn trời xanh thẫm. Một con hoàng yến cất tiếng líu lo, giọng hót du dương, như mấy vần thơ rung cảm vơi mây với gió...
Ông đi cạnh Ánh, cảm ơn Ánh đã đến, và tỏ nỗi ái ngại vì sự Ánh đi bộ dưới trời nắng chang chang. Ánh để nón ngoài hè, úp vào chân tường, nhưng ông Ngọc Minh cúi xuống cầm chiếc nón đem vào nhà, đặt tử tế trên một chiếc bàn con cạnh cửa sổ phòng khách. Ông mời Ánh ngồi. Tuy nhà ông rất thoáng đạt, gió thổi mát rượi, nhưng ông cũng mở quạt máy để Ánh ngồi một lúc cho ráo mồ hôi.
Rất tự nhiên không ỡm ờ khách sáo. Ông mời Ánh đi xem qua các căn phòng trong nhà. Ông đưa Ánh sang phòng giấy kế phòng khách, với một tủ sách, đầy nhóc các sách Phảp, Anh, Hán, Việt, có đến bốn năm trăm quyển. Bàn viết của ông kê sát vào tường, cạnh cửa sổ ngỏ ra vườn hoa. Ông chỉ Ánh xem những giỏ phong lan tươi nở treo lơ lửng dưới dàn hoa âng-ti-gôn hồng, ông dắt Ánh đến dứng nơi cửa sổ. Nhìn các chùm hoa soan lý tý như những nụ cười hé nhỏ đáng yêu, ông khẽ bảo:
- Ban đêm trời sáng trăng, cảnh ở đây nên thơ lắm.
Ánh mơ màng:
- Dạ ban ngày như bây giờ thấy cũng đã rất nên thơ...
- Ở đây tôi làm việc được yên tĩnh. Chỉ có ở đây là tôi mới viết được quyển sách của tôi.
- Ông giãi bày trong sách những ý tưởng thật đẹp.
- Tôi không tin rằng có nhiều người hiểu tôi. Phải có đau khổ nhiều như Ánh mới thông cảm được cái cao quý của đau khổ. Phải không, Ánh?
- Dạ tôi cũng nhận xét như thế. Nhưng thưa ông tôi hơi ngạc nhiên vì đời ông đâu có gì đau khổ? Trái lại, ông có đủ tất cả tiện nghi vật chất và tinh thần đi xây dựng hạnh phúc.
- Phải, Ánh nói đúng. Chính vì thế nên tôi đau khổ. Nhiều khi nghĩ đến xã hội có bao nhiêu người đói rách, bần hàn, mà mình ăn sang mặc sướng, tôi có cảm tưởng như mình đang phạm một tội ác... Nếu không thì mình cũng đồng lõa với xã hội bất công và tàn ác nầy. Nhiều khi tôi tự hỏi mình có quyền sống ích kỷ không? Mình sống hẳn cho mình, không cần thắc mắc về hoàn cảnh của kẻ khác, không cần quan tâm đến đời sống chung quanh mình, cũng được chứ. Nhưng, khốn nỗi, mình cứ phải chứng kiến hằng ngày những tấn kịch vô cùng bi thảm của xã hội, mình làm ngơ làm sao được? Chính đó cũng là một bi kịch thường xuyên trong nội tâm của mình.
Ông đưa Ánh sang phòng bên cạnh, là phòng ngủ của ông. Phòng ngủ của một người đàn ông độc thân, trang hoàng thanh nhã và đơn giản. Rồi ông đưa Ánh đi ngang qua phòng tắm, phòng ăn, ra nhà bếp. Ánh ngạc nhiên thấy bếp vắng tanh không có người. Không dám hỏi, nhưng Ánh không biết sao hôm nay ông Ngọc Minh mời cô dùng cơm trưa mà chẳng nấu nướng gì cả.
Vừa kịp ông cho biết:
- Tôi ở đây một mình với một đứa em nhỏ coi nhà. Tôì ăn cơm tháng nơi một tiệm ở ĐaKao. Hôm nay nó đi lấy đồ ăn đem về. Như thế tiện hơn.
Ông đưa Ánh ra vườn xem các loại hoa ông trồng và ông săn sóc mỗi ngày. Trưa nắng, nhưng rất mát, nơi đây thoáng gió và có nhiều cây cao, tàn cây che rợp cả khu vườn.
Thấy Ánh có vẻ thích cảnh vườn, ông Ngọc Minh đưa Ánh đi xem khắp cả chung quanh. Hai người thong thả bước từng bước, Ánh đi bên cạnh ông, lần này đã dạn dĩ và tự nhiên hơn, không còn khép nép e lệ nữa. Nhưng Ánh chỉ nghe ông nói chuyện, thỉnh thoảng cô mới hỏi một câu, hoặc dừng bước một lượt với ông, và chăm chỉ nghe, như say mê những lời ông nói. Ông Ngọc Minh không có câu nào tán tỉnh Ánh cả. Ông chỉ nói về đời sống của các thứ hoa ông trồng, hoặc của một vài loại chim mà ông chỉ cho Ánh coi chúng đang nhảy nhót trên cây,
- Ánh nghe con chìa vôi, nó hót...
Hai người lặng yên nghe một lúc tiếng chim hót líu lo. Rồi ông nói tiếp:
- Cứ chiều chiều vào khoảng sáu giờ, mặt trời vừa lặn, thì có hai con chìa vôi bay xuống trước ngõ rồi nhảy tưng tửng trong sân, chờ tôi quăng cho mấy hột mè! Có khi con chó Rít đang nằm trên sân, chìa vòi nhảy lên lưng nó, mổ lông nó. Con Rít không cự nự, lại còn tỏ vẻ bằng lòng nữa là khác. Chúng nó mến nhau lắm.
Ánh tủm tỉm cười. Hai người lại rảo bước đi vòng quanh khu vườn rộng. Gần nửa tiếng đồng hồ, ông Ngọc Minh đưa Ánh đến một góc vườn rợp mát hơn cả. Nơi đây có bốn cây nhãn đã có trái, từng chùm trái lồng trong các miếng mo cau, thòng xuống các cành rậm. Một chiếc võng đã hơi cũ treo từ thân một cây vú sữa qua một cây nhãn. Bên cạnh võng, đặt một chiếc ghế phô tơi bằng nylon, và một bàn tròn nhỏ, xinh xắn. Trên bàn để một quyển sách đang xem dở, có một cục đá trắng đè lên
Ông chỉ chiếc ghế phô tơi, bảo Ánh:
- Mời Ánh ngồi. Chúng ta nghỉ ở đây một lúc cho mát, đợi em nhỏ đem cơm về dọn trong nhà chúng ta sẽ vào dùng cơm. Ánh uống gì?
Ánh lại mất vẻ tự nhiên rồi bẽn lẽn, Ánh đáp:
- Dạ thưa ông, thôi ạ.
- Chắc Ánh kháit. Ánh tới từ nãy đến giờ, tôi quên mời Ánh giải khát... Ánh uống nước cam tươi nhé?
Sự thật Ánh khát lắm, vì đi nắng, và nghe nói đến cam tươi, Ánh cũng thích. Kể ra trái cam thì có gì là quý đâu, trái cam có gì là lạ, nhưng từ nhỏ tới giờ có lần nào Ánh được ăn một trái cam, hay uống một ly nước cam tươi? Tám đồng bạc một ly nước cam tươi, đâu phải một cô gái nghèo và không ưa xa xỉ như Ánh lúc nào cũng uống được? Nhưng cô vẫn quen tính tự trọng và bỡ ngỡ của thiếu nữ:
- Dạ thôi ạ...
Nhưng thường trong trường hợp này, người đàn ông luôn luôn phải hiểu tâm lý, và tự động:
- Ánh đợi tôi một chút nhé!
Ánh chưa nói gì được thì ông Ngọc Minh lẹ bước về nhà. Ánh chưa dám ngồi, đi quanh quẩn xem các bụi hoa. Ngọc Minh trở ra, tay ôm một dĩa mây khá lớn, trong có bốn trái cam chín, thứ cam dễ thương của ngoại quốc mà ta ăn vào một miếng thì nước ngọt hơi chua chua dìu dịu thắm mát trong tim gan. Một tay, ông cầm hai chai sô đa. Ở đây, ông không dùng nước đá.
Rất tự nhiên, ông Ngọc Minh ngồi trong võng, để hai chân xuống đất, lấy con dao, cắt đôi quả cam, rồi vắt nước vào ly. Ánh đã ngồi xuống ghế phô tơi, đối diện ông.
Muốn giúp ông một tay, Ánh vui vẻ bảo:
- Dạ thưa ông, để tôi...
Chìu ý Ánh ông Ngọc Minh đưa con dao cho Ánh, Ánh vắt một quả cam kia vào ly, rồi cắt một quả nữa, vắt hết vào ly thứ hai. Ông Ngọc Minh mở chai sôđa, rót vào đầy hai ly.
Ông để một cái muỗng vào ly của Ánh. khuấy đều, rồi ngó Ánh:
- Mời Ánh dùng.
- Dạ.

Hai người cùng nâng ly nước cam. Ánh mới hớp một hớp đầu, khẽ nuốt vào thấy mát rượi trên môi, thật ngọt và hơi chua chua thắm dịu vào trong cơ thể... Đang khát, nóng nực, Ánh uống ba hớp nước cam vào, cảm thấy khoan khoái dễ chịu. Làn gió mát cuốn bay nhẹ nhàng tà áo trắng và mơn trớn vài sợi tóc mai ẻo lả bên mép tai thiếu nữ.
Ánh hơi ngà ngà say, say một chút nắng hồng, say một chút gió mơ. Đôi mắt nàng lơ đểnh nhìn làn mây trắng phất phới như một tấm đăng ten trên khuôn trời xanh thẫm. Một con hoàng yến cất tiếng líu lo, giọng hót du dương, như mấy vần thơ rung cảm với mây với gió...
Gần 12 giờ, em Chút xách hai gà mên về, đi thẳng vào bếp, dọn cơm và các thức ăn lên bàn ở phòng ăn. Ngọc Minh đã đưa Ánh vào. Trên bàn đã có sẵn ba dĩa đồ ăn còn nóng hổi, một tô canh đang bay hơi, một tô cơm nóng và một dĩa mây đựng trái cây để tráng miệng. Ông Ngọc Minh lấy ra một chai rượu chát đỏ để đãi Ánh.
Bữa cơm vui vẻ kéo dài đến 1 giờ. Ngọc Minh và Ánh đều tự nhiên, thân mật, hoàn toàn đúng phép lịch sự xã giao, không ai vượt qua giới hạn. Ánh tuy không uống được rượu, nhưng lần đầu tiên cô được hân hạnh ngồi trước một ly rượu chát đỏ mà ông giáo sư thân thiện rót mời, cô vẫn uống được chút ít. Đôi má cô đã đỏ bừng, đầu óc hơi choáng voáng. Nhưng cô rất bình tĩnh, cảm thấy lần đầu tiên cái thú say ngà ngà của men rượu, cô mỉm cười rất tự nhiên, nghe ông Ngọc Minh nói chuyện có duyên dáng về các vấn đề mà cô thích nghe, cô thấy lý thú và giúp cô học hỏi được nhiều điều mới lạ. Ngồi đối diện với cô nơi bàn ăn, ông Ngọc Minh đã thành như một người bạn trai quý mến, đáng cảm phục vô cùng. Tuy nhiên, Ánh vẫn là Ánh như hồi Ánh còn là đứa đầy tớ ở nhà ông, Ánh vẫn là Ánh như ngày nay là thư ký ở nhà in Minh Tân, dẫu Ánh có thay đổi bề ngoài, ở chiếc áo dài trắng tinh, ở chiếc quần trắng mới ủi, ở đôi guốc tân thời xinh xắn hơn đôi guốc cùng năm xưa, thế thôi. Lòng Ánh vẫn không thay đổi. Những lời nói dịu dàng chân thật của ông Ngọc Minh, những cử chỉ niềm nở đậm đà của ông, những mùi rượu ngây ngất tô điểm thêm đôi má hồng của Ánh càng thêm duyên dáng, và không khí tự do, thân mật, vắng vẻ, của biệt thự sang trọng này, vẫn chưa đem lại tình yêu trong lòng nàng. Một người ngoài cuộc ngó vào thấy nụ cười thân mật trao đổi cùng nhau giữa ông Ngọc Minh và Ánh, thấy cử chỉ tự nhiên của hai người, có thể tin rằng họ đã yêu nhau, hay là họ đã bắt đầu yêu nhau, Nhưng Ánh hiểu lòng Ánh hơn ai hết. Ánh thành thật cảm mến ông Ngọc Minh, và cô không ngần ngại tỏ cùng ông một niềm cảm mến sâu đậm. Còn tình yêu, thì thật nàng chưa có, Ngọc Minh là một nhà tâm lý học, có lẽ ông cũng phân tích được tình cảm tế nhị ấy trong lòng Ánh vì ông đã biết nàng nhiều. Có lẽ ông đã nhận xét đúng những ý nghĩ của Ánh qua một vài cử chỉ dè dặt của nàng, một vài phút thoáng qua sau một đôi câu hỏi kín đáo của ông mà nàng không muốn trả lời quá vội.
Ông yêu Ánh, điều đó đã hẳn rồi. Ánh đã biết, và trước kia ông đã thú thật với Ánh nhiều lần. Nhưng lần này ông dè dặt hơn. Lần này Ánh không phải là một con đầy tớ. Ánh đã là một cô thơ ký, đàng hoàng nghiêm trang, kể về giai cấp thì ông giáo với cô không còn cách biệt nhau bao xa. Nhưng tình yêu mà ông đã tha thiết tặng đứa đầy tớ nghèo khổ năm xưa, mà nàng đã không dám nhận vì thành kiến xã hội và thân thế nghèo hèn của nàng, nay ông lại muốn đem dâng cô thư ký diễm kiều tình yêu vẫn chân thành như trước, nhưng ông không chắc gì nàng hoan hỉ nhận lời.
Ánh đoán biết thế, nên càng quý mến ông Ngọc Minh rất nhiều.
Từ tình bạn quý mến đến tình yêu say mê, có lẽ không xa. Nhưng cũng có lẽ không gần.
Hiện giờ, trong bữa cơm đầu tiên của ông Ngọc Minh mời Ánh, và sau bữa ăn ấy, hai người đã thành ra đôi bạn rất thân. Họ rất thành thật với nhau, Họ rất có thể tha thiết trung thành với mối tình êm dịu, sâu sắc, nàng không quá hờ hững như trước, chàng không quá sỗ sàng, nông nổi...
Chưa phải là tình yêu, nhưng có thể mau chóng trở nên tình yêu nếu Ánh khônng có một tâm sự riêng mà chỉ Ánh biết với Ánh mà thôi.
Hai giờ Ánh đứng dậy xin về, ông Ngọc Minh tiễn Ánh ra cửa, lấy nón đưa Ánh rồi âu yếm nhìn thẳng vào mắt nàng, ông khẽ hỏi:
- Chúa nhật tuần tới, Ánh đến đây dùng cơm trưa với tôi nữa nhé? Tôi mong lắm...
Ánh mỉm cười:
- Ông thật tử tế với Ánh quá, Ánh cảm động lắm. nhưng... thưa ông, Ánh không dám hứa trước,.. Nếu vì một lý do nào Ánh không đến được, Ánh tin rằng ông sẽ tha lỗi cho Ánh,..
- Chúa nhựt... Ánh không bận gì chứ?
- Thưa, bây giờ Ánh chưa biết được.
- Thứ bảy, tôi đến nhà in sửa bài, Ánh cho tôi biết nhé?
- Dạ.
Ngọc Minh đưa Ánh đến gara, mời Ánh lên xe của ông để ông đưa Ánh về Sàigòn.
Ánh nằm thao thức nhớ Hoàng, hai ngấn lệ âm thầm rơi trên gối, chiếc gối mà nàng đã thêu hai chừ A.H. phối hợp với nhau.
Ánh khóc gì nhớ Hoàng là một lẽ, nhưng thực ra còn vì một lẽ khác nữa. Chiều hôm ấy, sau khi ở nhà Ngọc Minh về, vào khoảng 4 giờ. Thúy và Hoa đến chơi nhà Ánh. Mặc dầu bây giờ Ánh lên làm thư ký ở văn phòng, lương nhiều hơn và địa vị sang hơn, nhưng hai cô thợ đóng sách của nhà in MinhTân vẫn là đôi bạn thân nhất của Ánh từ trước tời giờ. Với Ánh, không có cảm tình nào thay đổi cả.
Ánh không hề quên ơn Hoa là người đã giới thiệu Ánh vào làm ở nhà in. Ánh cũng không xa cách Thúy là người bạn đã cùng với Hoa thường binh vực Ánh trong những lúc Ánh bị một vài chị đồng nghiệp trong sở dèm pha ganh ghét.
Chiều chúa nhật này, như đã nhiều lần, Hoa và Thúy đến chơi nhà Ánh sau khi Ánh ở nhà ông Ngọc Minh về. Gần 6 giờ Hai cô rủ Ánh đi xem chớp bóng, nhưng thấy Ánh hơi buồn buồn, Hoa cười:
- Bồ lại nhớ xừ Hoàng rồi phải không?
Ánh mơ màng nhìn ánh nắng chiều còn trải một tấm thảm vàng dưới hiên, và khẽ đáp:
- Ừ, Ánh nhớ Hoàng...
Thúy cũng bông lơn:
- Hơi đâu mà nhớ nhung cho bận lòng con người thiếu nữ, hở ta!
- Ánh thì nghĩ rằng một thiếu nữ như tụi mình phải có một cái gì để nhớ nhung, một cái gì để mơ mộng chớ.
Hoa cười:
- Nhớ nhung và mơ mộng để chi vậy?
- Để yêu đời chớ chi! Để nhìn trong mọi vật thấy hình ảnh mà mình thương nhớ! Hoa kia, nắng kia, làn gió rung rinh ngọn lá kia, đám mây bay kia, lúc hiệp, lúc tan như thế đó, là hình ảnh của một giấc mơ phản chiếu khắp bầu trời, là hình ảnh của một người in khắp bao la...
- Thôi đi bồ! Xừ Hoàng biến đâu mất tíêu, ba bốn năm trời nay bồ đâu có gặp chàng, mà mơ với mộng?
- Ánh còn nhớ Hoàng, thì Ánh tin rằng Hoàng còn sống ở đâu đó. Hoàng chưa mất tiêu đâu, vì Hoàng còn yêu Ánh, Ánh biết, Ánh vẫn nghe tiếng Hoàng nhắc đến Ánh đêm, ngày, không ngớt...
- Bồ nghe ở đâu?
- Ánh nghe Hoàng đê mê trong nhớ nhung, hồi họp trong tim, thì thầm trong giấc ngủ...
Hoa vỗ tay lên vai Ánh:
- Thôi mà! Đừng có mơ mộng quá rồi đâm ra thất tình nghe bà? Tui thì hễ chuyện gì đã qua, là không thành vấn đề.
Thúy tiếp:
- Tôi trước kia cũng có thằng mèo, hai đứa cũng mê nhau ác, vậy mà rồi tự nhiên thằng chả bỏ đi biệt tích đến nay, tôi cũng không còn nhớ nó nữa! Tụi đàn ông con trai đốn lắm, nghe cậu! Họ chỉ vờ vĩnh yêu đương, để cho mình tin sống tin chết với họ, rồi họ xa mình một đôi bữa là bắt tình nhân với con khác ngay! Tôi thì tôi không tin là có các thứ ái tình thủy chung như chuyện tiểu thuyết đâu?
- Hoàng đâu phải như tụi con trai thường, các chị chưa biết Hoàng,
- Xí, tại bồ mê Hoàng nên bồ thần thánh hóa người yêu của bồ đó thôi. Chờ nếu hắn yêu bồ thiệt tình, sao hắn đi đâu ba bốn năm mà không thư từ gì cho cậu biết?
- Ánh tin rằng Hoàng không đi đâu xa. Thế nào không sớm thì muộn Hoàng cũng sẽ gặp Ánh, Ánh cũng sẽ gặp Hoàng...
Hoa cười:
- Hoàng thề thốt với bồ nặng lời lắm sao mà cậu tin anh chàng dữ vậy hả?
- Hoàng chẳng thề thốt gì với mình cả,
- Không thì Hoàng nói với bồ thế nào mà bồ mê anh chàng lung vậy?
- Hoàng chẳng nói chi với Ánh cả.
- Ánh nói chuyện vô lý hết sức, anh chàng không nói gì mà Ánh yêu, Ánh nhớ sao?
Hoàng chưa nói là Hoàng yêu Ánh, Ánh cũng chưa hề nói là Ánh yêu Hoàng.
Thúy cười ha hả để ngạo Ánh:
- Thế mà hai ông bà mê nhau? chuyện lạ đời không?
- Ừ, hai đứa mê nhau.
Hoa đập bàn tay lên cánh tay Ánh.
- Thôi, đi bồ! Bồ chỉ tiểu thuyết hóa một mối tình bâng quơ, vớ vẩn. Nè, Hoa đề nghị với Ánh câu này Ánh chịu thì Hoa nói.
- Hoa cứ nói đi.
- Ánh có biết xừ Phú không?
- Không, nhưng mà bây giờ Ánh cũng không muốn biết người đàn ông nào nữa hết.
- Bộ không gặp lại Hoàng thì ở vậy già đời sao chớ?
- Không, nhưng Ánh không thích làm quen nhiều với đàn ông. Chỉ một người thôi, chừng nào mình không còn là mộng trung nhân của người ấy nữa, thì hẳn hay.
Hoa đứng dậy lại bàn rót một tách nước trà nguội, quay lại nói với Ánh:
- Ánh gàn lắm. Mình nói Ánh đừng giận nghen!
Uống nước xong, Hoa trở lại Ánh:
- Bây giờ Ánh đã có địa vị khá. Dù sao Ánh cũng là cô thư ký, tội gì Ánh phải đeo đuổi mãi cái bóng một thằng bạn học cũ, nghèo kiết xác, mà Ánh không biết hiện giờ ở đâu?
Ánh đứng dậy làm thinh, muốn nói lãng qua câu chuyện khác:
- Hoa với Thúy ngồi chơi. Ánh xuống bếp nấu nước sôi pha trà nhé.
- Thôi mà! Có đi chơi với tụi mình thì đi! Ra Sàigòn uống nước mía ngon hơn.
Hoa và Thúy, đứng dậy cầm nón. Ánh tiễn hai bạn ra tận cửa. Lúc hai cô đã ra đường, quay lại thấy Ánh còn đứng nơi cửa nhìn theo, nét mặt buồn bã nghĩ ngợi...
Đêm ấy, Ánh nhớ thương Hoàng và nghĩ đến ông Ngọc Minh, trằn trọc không ngủ được...
Dù muốn dù không, trong đời Ánh cũng đã có hai người đàn ông, hai mối tình trái ngược mà Ánh không có can đảm dứt khoát một mối nào, cả hai đều tha thiết êm đềm. Một thiếu nữ khác có thể quên Hoàng rất dễ, và có lẽ đã quên lâu rồi, nhưng Ánh không đành bỏ rơi một người bạn nghèo khổ, mà Ánh đã cảm mến đức hạnh từ lâu. Ánh chỉ muốn được một ngươi chồng yêu Ánh rất nhiều và tính nết hiền lành. Thì Hoàng chính là người chồng lý tưởng mà Ánh đã chọn lựa đã gá nghĩa kết duyên. Ánh không ngờ vì Hoàng nghèo và chắc là đang bôn tẩu xa xôi để lo sinh kế, nên hai cô bạn thân nhất của Ánh và Thúy cũng tỏ vẻ khinh khi. Ánh đau lòng cho tình đời, nhưng tâm sự của Ánh chỉ có Ánh biết thôi. Ánh nhất định chờ Hoàng, và chỉ yêu Hoàng thôi.
Quyển sách của ông Ngọc Minh đã in xong. Ông lấy một quyển đẹp nhất, đặc biệt bằng giấy Impérial Japon, ký nơi trang đầu tặng Ánh. Đó là bản đầu tiên của loại sách quý.
Như các bạn đã biết, quyển sách của ông Ngọc-Minh nhan đề là: ‘‘ĐI TỚI MỘT XÃ HỘI KHÔNG GIAI CẤP’’
Ngay trang đầu, có bài tựa ‘‘gởi Ánh’’.
Dĩ nhiên, lúc ông Ngọc Minh viết quyển sách của ông và bài tựa ấy, ông không được gặp Ánh và ông tưởng Ánh vẫn sống cái kiếp đầy tớ trong một gia đình nào đó. Ông đâu có ngờ rằng nhờ kiên nhẫn và cố gắng, Ánh đã trở nên một cô thư ký văn phòng, mà ngẫu nhiên hay tiền định? Ánh lại làm việc ngay ở nhà in mà ông đến thuê in quyển sách của ông.
Ngọc Minh có hỏi Ánh trước khi đưa bài tựa cho thợ sắp chữ:
- Ánh có bằng lòng cho tôi đề ‘‘gởi Ánh’’ như lời tựa nầy không?
- Dạ điều ấy xin tùy nơi ông chớ em đâu có quyền gì?
- Đành rằng thế, nhưng khi tôi viết quyển sách này, tôi đã nghĩ đến Ánh. Vì được biết Ánh trước kia nên tôi mới viết quyển sách này. Nhưng bây giờ hoàn cảnh đã thay đổi...
Ánh không do dự đáp:
- Dạ, thưa ông, hoàn cảnh vẫn không thay đổi. Ánh ngày nay vẫn là Ánh ngày xưa.
- Nghĩa là Ánh bằng lòng tôi để nguyên bài tựa?
- Vâng.
- Thành thật tôi sung sướng được hiểu Ánh nhiều hơn và quý mến Ánh nhiều hơn.
Ấn bản đặc biệt đầu tiên, ghi số 001 đóng và xén xong rất đẹp, ông Ngọc Minh lấy bút đề nơi trang đầu, trước bài tựa, mấy câu sau đây:
Với tất cả cảm mến chân thành và nồng nhiệt
tặng LÊ THỊ ÁNH
Người bạn đã giúp tôi được nhiều nhận xét xác thực và sâu xa về thực tế, xã hội, nhờ đó tôi mới viết thành quyển sách nầy.
Sàigòn, I5 - 6-1956, Ngọc Minh.
Ánh rất sung sướng được ông Ngọc Minh niềm nở chiếu cố đến thân thế hèn mọn của cô, và khi ông trao tặng cô quyển sách quý báu ấn bản đặc biệt đầu tiên vừa lấy ở nhà in ra, cô lễ phép đưa hai tay nhận lãnh, nhưng cô cảm động quá không nói được lời cảm tạ. Cô nhìn ông với đôi mắt dịu dàng, muốn rơm rớm lệ. Cô định nói một câu, một tiếng thôi, để tỏ lòng tri ân sâu đậm, nhưng trên môi cô chỉ nở một nụ cười cảm xúc. Cô im lặng luôn.
Ngọc Minh khẻ bảo:
- Chủ nhật nầy mời Ánh đến nhà dùng cơm trưa với tôi, để cùng tôi kỷ niệm ngày tác phẩm nầy ra đời.
Không một chút e lệ, Ánh đáp ngay:
- Dạ, chủ nhựt em xin đến.
Đây là lần thứ hai Ánh đến nhà ông Ngọc Minh. Sau lần đầu tiên, đã hai chủ nhựt rồi ông Ngọc Minh vẫn mời Ánh, nhưng Ánh đã từ chối. Ánh viện cớ mắc bận công việc nhà, nhưng sự thực là Ánh không muốn đến thường. Ánh muốn giữ một cách biệt khiêm nhường và nhã nhặn giữa Ánh và ông Ngọc Minh hơn là gần gũi ông luôn.
Nhưng lần này Ánh cảm thấy không nên phụ hảo ý của ông, và hơn nữa Ánh muốn đến để tỏ lòng biết ơn ông đã chiếu cố đến cô, và chúc mừng ông về tác phẩm có giá trị đặc biệt mà ông sắp cho ra đời.
Cũng như lần đầu tiên, Ánh đi xe ô tô buýt đến chợ Bến thành, đi xe ngựa qua chợ Thị nghè rồi đi bộ đến nhà ông Ngọc Minh ở một xóm vắng, nửa thành thị nửa thôn quê, thanh tịnh và mát mẻ. Ông Ngọc Minh niềm nở đón Ánh ngay từ ngoài cổng, Ánh đến lúc 10 giờ. Sau khi tiếp Ánh ở phòng khách, ông Ngọc Minh đưa Ánh ra ngồi dưới bóng mát ngoài vườn trò chuyện vui vẻ cho đến gần 12 giờ sắp sửa đi dùng cơm.
Bỗng nhiên, một chiếc xe hơi nhà từ phía Thị Nghè chạy xuống rẽ vào cổng, ngừng ngay trong sân. Người lái xe là một thiếu phụ, mở cửa xe bước ra, đứng yên lặng nhìn về phía bóng mát ngoài vườn, nơi ông Ngọc Minh đang ngồi trò chuyện thân mật với Ánh. Ánh nhận ngay ra là bà Minh Tú, em ruột của ông giáo sư, là chủ nhà cũ của Ánh. Gần ba năm nay, từ ngày Ánh không giúp việc cho bà nữa, lần này là lần đầu tiên Ánh gặp lại bà. Nhưng Ánh vẫn giữ thái độ bình tĩnh. Ông Ngọc Minh đứng dậy ra đón em với một nụ cười điềm nhiên, thân ái:
- Minh Tú? Các cháu vẫn mạnh, chứ em? Em lái xe một mình à?
Minh Tú chỉ đáp:
- Dạ, thưa anh Hai.
Bà nhìn chòng chọc cô thiếu nữ mà bà rất kinh ngạc nhận ra là Ánh. Nét mặt giận dữ, bà tiến đến con đầy tớ cũ của bà đang
ngồi trong ghế ny Iông, bên cạnh chiếc võng của anh bà, dưới bóng mát mấy cây nhãn. Ánh mặc áo trắng dài, quần trắng, đi guốc cao gót, vẫn mái tóc huyền buông xuống nửa lưng.
Ánh đứng dậy, khẽ cúi đầu theo phép lịch sự:
- Thưa chào Bà.
Minh Tú đã tái mặt, giọng nói như muốn run lên:
- Mầy phải không, Ánh? Mầy làm gì ở đây?
Ánh điềm nhiên:
- Thưa Bà, tôi đến thăm ông giáo?
Minh Tú nói dằn từng tiếng:
- Cái bộ mặt mầy mà đến thăm ông giáo? Mầy là hạng con ở, mà mầy dám đến đây quyến rủ anh tao hả? Ai cho phép mầy bén máng tới đây?
Ông Ngọc Minh thật không ngờ em gái của ông có thể nói với Ánh những lời tàn nhẫn như thế. Ông chạy đến nắm tay Minh Tú và dịu dàng bảo:
- Em Năm à, anh mời Ánh đến dùng cơm với anh trưa nay. Ánh là khách của anh, em không nên có những lời nói khiếm nhã.
Minh Tú quay lại sừng sộ với ông Giáo:
- Tại sao anh Hai cho phép nó tới đây? Nó là con đầy tớ của em trước kia mà!
- Em lầm rồi. Ánh bây giờ không phải là đầy tớ của ai nữa cả. Ánh là thư ký của một nhà in lớn. Ánh đã giúp cho anh trong việc sửa chữa các bản vỗ của ấn công suốt một tháng nay trong lúc anh in quyển sách của anh ở đấy. Sách đã in xong, nay anh mời Ánh đến dùng cơm với anh để ghi một kỷ niệm tốt đẹp trong đời anh...
Minh Tú càng nổi nóng:
- Chính em đến để nói cho anh Hai biết rằng quyển sách anh Hai gửi cho vợ chồng em sáng hôm qua là một cái nhục cho tụi em. Tại sao anh Hai in ngay trang đầu quyển sách là đề tặng con Ánh? Con Ánh? Con Ánh, nó là hạng đầy tớ, anh biết chớ? Nó là người con gái đi làm thuê ở mướn, nó đâu có xứng đáng gì để anh tâng bốc nó. Tại sao anh tâng bốc nó? Hay là con khốn nạn đó nó cho anh uống bùa mê thuốc lú gì rồi?
Ông Ngọc Minh nghiêm nét mặt, ngó thẳng vào mắt Minh Tú:
- Năm, em nghe đây: em không có quyền nói xấu một thiếu nữ hoàn toàn vô tội, trong trắng, hiền lành và rất đoan trang, rất đáng quý mến, Ánh là bạn của anh.
Minh Tú không tự chủ được nữa, xấn đến Ánh, toan cầm xắc đập vào mặt Ánh, nhưng ông Ngọc Minh chạy tới kịp, lôi bà ra, miệng ông lẩm bẩm.
- Em mất bình tĩnh rồi... Em Năm, em không còn nể anh nữa sao? Em vào đây anh bảo...
Ông Ngọc Minh đặt bàn tay dịu dàng trên vai em, định đưa em vào nhà:
- Em vào phòng khách ngồi một lúc cho bớt giận... Em nên bình tĩnh... đừng nóng nảy... Em thương anh Hai, nghe lời anh Hai... Em Năm...!
Minh Tú không nói sao được đứng gục đầu vào vai anh, khóc òa lên, khóc nức nở... Vừa lặp đi lặp lại:
- Nó là con đầy tớ.. Nó là con đầy tớ...
Ngọc Minh khẽ bảo em:
- Em vừa làm nhục một cô gái đáng quý mến nhất, hiền lành nhất... Em làm cho thêm đau khổ một tâm hồn vô tội, đã đau khổ nhiều... Không!... Em không nên tàn nhẫn thế...

Ngọc Minh để cô em đứng đấy, giữa hai bồn hoa. Ông quay lưng tiến lại gần Ánh.
- Ánh ạ, tôi xin lỗi về tất cả những gì em tôi vừa nói...
Ánh im lặng từ đầu đến cuối suốt trong lúc câu chuyện xảy ra. Cô ngồi xuống ghế cúi đầu buồn bã.. Hai ngấn lệ trào ra trên đôi mí mắt âm thầm rơi xuống má...
Nhưng Ngọc Minh nghe tiếng xe rồ máy, ngó ra thì Minh Tú đã ngồi trong xe, nét mặt hầm hầm. Chiếc xe quay đầu ra cổng, chạy về Sàigòn.
Ngọc Minh hiểu rằng Minh Tú giận ông. Bà em gái của ông thù ghét Ánh, việc ấy thật là vô lý. Bà thù ghét từ hồi Ánh còn làm đầy tớ ở nhà bà kia, từ hồi bà dò biết anh ruột của bà đã đem lòng thương Ánh.
Nhưng chuyện đã xảy ra lâu rồi, và đã ba năm nay Minh Tú không còn nhắc nhở đến Ánh nữa. Bà đã nghĩ rằng anh của bà đối với Ánh chẳng qua như lửa gần rơm, vì hằng ngày si mê sắc đẹp quyến rủ của ‘‘con nhỏ ở’’ nên ông bị mù quáng nhất thời mà thôi. Nhưng Ánh đã nghĩ việc, ra đi làm đầy tớ cho một nhà nào khác thì lẽ nào anh của bà còn đeo đuổi, dan díu, với con ở nghèo nàn rách rưới đó được nữa! Không dè hôm nay, tình cờ bà bắt gặp ‘‘con Ánh’’ ở đây, bây giờ ra vẻ một ‘‘cô tiểu thư’’, ngồi ghế nilông trò chuyện vui vẻ thân mật với ông giáo. Bà căm thù muốn đánh vỡ mặt đứa ở cũ của bà, nhưng bà càng tức giận ông Ngọc Minh nhiều hơn nữa. Bà tức giận ông anh cả của bà, đường đường là một vị giáo sư Đại học, giàu có, sang trọng, mà lại hạ mình xuống đi giao thiệp với đứa đầy tớ cũ, ghi tên nó long trọng trên trang đầu quyển sách để tặng nó, rồi lại còn mời nó về nhà ăn cơm, coi nó như một người ‘‘bạn’’ quý! Cô em gái quen nếp sống phong kiến từ thuở nhỏ, trong khuôn khổ một xã hội quý phái giả dối, kiêu căng xấc xược, khinh người, không thể nào chấp nhận được một thái độ mà bà cho là tồi bại đến như thế!
Minh Tú hằn hộc lên xe, rồ máy chạy về Sàigòn, không thèm chào anh Hai.
Nhưng ông Ngọc Minh vẫn điềm nhiên, không hề bị hành động gây hấn của cô em gái làm cho nao núng. Ông thuộc về hạng người yêu đời sống tự do, và tự do sy sinh cho một lý tưởng cao siêu của bác ái và nhân đạo. Ông không có gì ân hận về công việc của ông làm. Và ông cũng không phiền trách em gái của ông bởi không cùng quan niệm với ông về giá trị của con người và ý nghĩa của cuộc đời. Ông xin lỗi Ánh vì em ông đã làm nhục Ánh trong lúc căm giận nóng nảy, và ông rất cảm động trước thái độ im lặng đau đớn của cô.
Tủi nhục và đau khổ quá, Ánh phải khóc, nhưng Ánh để hai dòng lệ chảy âm thầm xuống má, không nói một câu nào. Ánh không trả lời lại những tiếng chửi rủa hàm hồ của Minh Tú, là không phải Ánh sợ Minh Tú. Có người đàn bà nào sợ người đàn bà nào đâu! Ngay bây giờ đây, em gái ông Ngọc Minh có quyền gì chửi bới Ánh? Bà lấy tư cách gì sỉ vã Ánh, lăng mạ Ánh, cấm đoán Ánh, giao thiệp với ông Ngọc Minh? Một cô gái khác, ở vào địa vị Ánh đã dễ gì làm thinh để cho người đàn bà kia nhục mạ mình? Nhưng Ánh là Ánh, không phải một cô gái khác. Ánh tự hiểu mình, không cần đôi co đụng độ với ai. Hơn thua nhau một vài lời nói mà chi? Quen đau khổ từ lâu, Ánh tự tìm an ủi thanh cao nhất trong im lặng.
Người đàn bà hung dữ đã đi rồi, ông Ngọc Minh xin lỗi Ánh một lần nữa Ánh chỉ đáp:
- Thưa ông, em cũng xin lỗi ông, vì chính em là nguyên nhân các việc đã xảy ra, làm cho ông buồn phiền
Ngọc Minh mỉm cười, ngó Ánh:
- Thôi, chúng ta hãy quên tất cả những chuyện đó và bây giờ chúng ta đi ăn cơm nhé?
Ánh dịu dàng đáp:
- Dạ.
Ông Ngọc Minh thầm phục tính tự chủ hòa nhã của Ánh. Không muốn phô bày tâm sự buồn bã đau thương mình trước mặt ông một cách quá hèn nhát, trái lại, Ánh muốn làm vui lòng ông giáo trong buổi cơm mà ông đã có dụng ý đặc biệt với Ánh đến dự để kỷ niệm quyển sách của ông mới ra đời. Ánh điềm nhiên trò chuyện với ông về những hoạt động thích thú trong một nhà in, về bề mặt lẫn bề trái của nghề ấn loát và xuất bản sách mà Ánh đã hiểu khá nhiều trong những kinh nghiệm hằng ngày. Ánh thản nhiên trò chuyện như không có vụ vừa xảy ra. Vài nụ cười duyên dáng tươi nở trên gương mặt kiều diễm, dịu hiền, thay thế cho những ngấn lệ đau khổ âm thầm lúc nãy.
Ánh đã tỏ ra là một thiếu nữ rất lịch sự trong phép xã giao, và rất bình tĩnh trước mọi thử thách bất ngờ dù hết sức mỉa mai, chua chát.
Ba giờ chiều, Ánh xin từ giã, ông Ngọc Minh nắm bàn tay Ánh, âu yếm nhìn vào mắt Ánh để nói những lời tha thiết cảm ơn. Ông mời Ánh lên xe, ông lái xe đưa Ánh về Saigòn.
Đêm ấy Ánh nằm thao thức trong võng, suy nghĩ nhiều về vấn đề giao thiệp với ông Ngọc Minh, Ánh nhận xét thái độ của bà Minh Tú thật quá nông nỗi. Bà làm nhục Ánh và mắng nhiếc Ánh, chỉ vì một thành kiến sai lầm. Nếu thực ra, bà ấy hiểu rõ địa vị hiện tại và tư cách của Ánh, có lẽ bà không đến đỗi tàn nhẫn với Ánh như thế. Nhưng dù sao, cử chỉ và ngôn ngữ của Minh Tú không có ảnh hưởng gì đến cảm tình chân thật và tốt đẹp của Ánh đối với ông Ngọc Minh.
Ánh đã không cầm được giọt lệ trước mặt bà ấy, chỉ vì một phút ngẫm nghĩ tủi nhục cho duyên kiếp của mình cứ gặp phải cảnh đời oan trái, chứ phải đâu vì những tiếng xỉa xói chanh chua của bà. Ánh không cần lưu tâm đến những lời nhục mạ thô lỗ và vu khống không thể xúc phạm được đến phẩm giá và danh dự của mình. Ánh tự thấy lương tâm trong trắng, yên tĩnh không một chút nào xao xuyến. Cảm tình của Ánh đối với ông Ngọc Minh cũng không vì thái độ của em gái mà bị giảm bớt. Trái lại, Ánh càng cảm phục, càng qúy mến ông giáo, chính ông mới là nạn nhân của Minh Tú. Ông phải chịu đựng và đau khổ rất nhiều vì tình yêu của ông, bất chắp cả gia đình và thành kiến xã hội.
Ánh vô cùng cảm động thấy ông Ngọc Minh yêu Ánh với một lòng thủy chung nhẫn nại, bền bỉ hiếm có. Mặc dầu tình yêu của ông không được Ánh đáp lại thỏa mãn, ông vẫn không bao giờ rời bỏ Ánh, hay là lạnh nhạt với Ánh, Ánh ân hận vì sự quá dè dặt của mình khiến ông Ngọc Minh có thể hiểu lầm rằng Ánh thờ ơ lãnh đạm. Ánh thấy có lỗi một khi Ánh không tỏ ra nồng nàn âu yếm với người đàn ông rất tốt, rất cao quý, rất đáng yêu. Có những phút xúc cảm vì những cử chỉ quá tốt đẹp của ông giáo, Ánh muốn thú thật với ông rằng trong thâm tâm Ánh vẫn yêu ông nhiều lắm, tuy ngoài mặt Ánh còn băn khoan do dự. Trong những cơn buồn chán, Ánh muốn đáp lại thành thật mối tình tha thiết của ông giáo, và nhận ngay lời cầu hôn của ông. Sự phản đối quyết liệt của em gái ông không phải là một cản trở khiến Ánh lo ngại. Tình yêu của Ngọc Minh đủ đảm bảo hạnh phúc tuyệt đẹp của hai người bất chấp mọi trở ngại. Ngọc Minh và Ánh đã hiểu nhau nhiều lắm rồi. Trong cuộc giao thiệp thân mật giữa hai người trải qua bao nhiêu thứ thách, Ánh nhận thấy ông Ngọc Minh không có chút gì giả dối, gượng ép, hay lố lăng. Nếu Ngọc Minh đã tìm thấy nơi Ánh rất nhiều đức tính tốt đẹp để làm một người vợ hoàn toàn, một người vợ xứng đáng với địa vị và danh dự của ông, và thích hợp với lý tưởng xã hội của ông, thì Ánh cũng có thể đặt nơi Ngọc Minh tất cả niềm tin tưởng vào một hạnh phúc diễm tuyệt, không bao giờ tàn phai.
Tuy nhiên, trong những giờ phút chán nán, trước thực tế tàn nhẫn của đời thì Ánh suy nghĩ như thế, hình như là muốn dứt khoát với một tình trạng éo le, mâu thuẫn... nhưng nhắm mắt lại, hồi tưởng đến thân thế dĩ vãng và hiện tại của mình, thì Ánh lại thấy hiện ra hình ảnh âm thầm đau khổ của Hoàng, người bạn nghèo hiền hậu của năm xưa.
Với ông Ngọc Minh, Ánh thấy mở rộng một tương lai huy hoàng đầy nhung lụa, một hạnh phúc xa hoa xây dựng giữa màu sắc rnuôn hương. Nhưng Ánh vẫn tự thấy mình như một bóng phàm trần xa lạ bỗng dưng lạc lối vào động Đào nguyên.
Với Hoàng, trái lại Ánh thấy gần gũi hơn nhiều, trong một thực tế đơn sơ khiêm tốn, thích hợp với nề nếp và địa vị của Ánh hơn. Đã quen sống trong cảnh nghèo hàn bẩn chật từ thuở còn chui rúc dưới lúp nhà tranh ở xóm An bình, bên cạnh cha mẹ nghèo, vất vả tạm bợ với mồ hôi nước mắt, cho đến ngày nay tuy làm một nghề ít khổ cực hơn, kiếm được chút ít bạc tiền tạm đủ hơn, nhưng Ánh vẫn thích sống đạm bạc, thanh bần. Lý do Ánh vẫn yêu Hoàng chính là quan niệm thực tế bình dân ấy. Ánh không hề có những tham vọng cao xa. Người chồng lý tưởng của Ánh không phải ông triệu phú, hay là một bậc trí thức có danh vọng cao sang, có dư giả bạc tiền, để được ở nhà lầu, đi xe hơi, mặc quần áo mắc tiền, sắm nữ trang quý giá. Ánh chỉ muốn một người bạn nghèo, nhưng hiền lành, giản dị, thanh nhã và lịch sự, vừa là một người chồng rất yêu Ánh, quý Ánh, vừa là người bạn tâm phúc hiểu Ánh, người cố vấn khôn ngoan hơn Ánh, để Ánh đặt hoàn toàn tin tưởng nơi chàng. Hoàng, chính là người chồng lý tưởng mà Ánh mơ uớc, tin cậy, chờ đợi từ mấy năm nay,
Ánh không bao giờ so sánh Hoàng với ông Ngọc Minh. Kể về học thức, tiền tài, địa vị, danh vọng giữa hai người có phân biệt như một trời một vực. Thật thế. Nhưng nếu vòm trời cao có rực rỡ muôn nghìn sắc mây, thì vực thẳm cũng tràn ngập mênh mông nhạc sống du dương, hồi hộp của tình yêu.
Ánh biết chắc Hoàng yêu Ánh rất nồng nhiệt, không phải một ngọn lửa tình bồng bột trong tuổi xuân thời rồi sẽ vụt tắt âm u lạnh lẽo trong đêm đông.
Ai hiểu Hoàng bằng Ánh? Ai đã ấp ủ trong tim một mối tình thầm lặng thắm thía, âm ỉ suốt mấy năm cùng chung
Chương 4
Cô Phạm thị Toàn treo nón ngoài hè bước vào phòng khách, thì ông Ngọc Minh cũng từ trong thư viện của ông bước ra. Ông đưa tay niềm nở bắt tay cô nữ sinh vừa thi đỗ bằng Quốc gia Sư Phạm:
- Thành thật khen Toàn…Toàn đỗ cao, tất cả các môn đều được điểm tốt nhất. Toàn thành công vẻ vang lắm đó?
- Thưa ông, em thành công được là hoàn toàn nhớ ơn ông Em đến để tỏ cùng ông tất cả lòng tri ân của em, ông là bậc ân nhân của suốt cả đời em.
- Toàn đừng nói thế chứ. Trước đây ba năm, ngày đầu tiên tôi tiếp Toàn nơi đây, tôi đã bảo với Toàn rằng giúp Toàn học cho thành đạt đó là một niềm vui thích của tôi... Tôi thật sung sướng thấy Toàn đã chiếm được bảng vàng với ưu hạng, hiếm lắm, sau ba năm đèn sách chuyên cần... Vả lại, theo lời ông hiệu trưởng trưởng Quốc gia Sư phạm có nói với tôi, suốt trong 3 niên khóa Toàn đã tỏ ra một giáo sinh có nhiều đức tính nhất
Ông Ngọc Minh tươi cười nói tiếp:
- Hôm nay chúng ta phải ăn mừng kết quả rực rỡ của Toàn... Toàn đồng ý chứ?... Tôi muốn làm bữa tiệc nho nhỏ, nhưng thân mật, để đãi cô giáo tân khoa!..
Toàn bẽn lẽn cười:
- Dạ, em xin vâng lời.
Ông Ngọc Minh chỉ một chiếc ghế của phòng khách:
- Mời Toàn ngồi.
Ông Ngọc Minh ngồi dối diện!
- Trước hết, Toàn thích uống gì để giải khát?
Toàn rất tự nhiên:
- Dạ, ông cho em uống gì cũng được ạ.
- Xá xị nhé?
- Dạ.
Ông Ngọc Minh đứng dậy đến tủ lạnh, mở cửa tủ lấy ra hai chai xá xị đem lại bàn khách với hai ly.
Trong lúc ông mở nắp chai rồi rót nước giải khát ra ly, Toàn với giọng dịu dàng, cảm động, nói:
- Ông tử tế quá... Lúc nào em đến thăm ông, em cũng được ông tiếp đãi nồng hậu và tỏ lòng thành thật mến thương em...
Ông Ngọc Minh mời:
- Toàn uống đt.
Hai người cùng nâng ly. Ngọc Minh đặt ly xuống, nói chậm rãi:
- Toàn là một thiếu nữ rất đáng mến. Tôi tin chắc rằng khi Toàn đi dạy học, học sinh cũng sẽ mến Toàn lắm. Và Toàn sẽ là một cô giáo gương mẫu
- Thưa ông, nếu mai sau em sẽ thành một giáo viên được học sinh quý mến, ấy cũng là nhờ em được may mắn noi gương tốt đẹp của ông. Em xin thưa thật với ông rằng hồi em học Đệ tứ, em chỉ là một nữ sinh sút kém, sự học chán nản, không có tương lai. Phần thì Má em đi bán hàng. Ba em đi làm công, ngày một buổi đến trường thì không khí học đường hơi hỗn độn, bê bối, hoc sinh tụi em đâu có được thọ lãnh một nền giáo hóa đầy đủ vững vàng! Cho nên sự học hành của chúng em không có gì khả quan. Chúng em lạl không được gặp những vị giáo sư kiểu mẫu có thể nêu cho chúng em những gương đức dục tốt đẹp thanh cao. Nếu em không được Trời cho cái đặc ân ông giúp đỡ thi hồi Đệ tứ, mặc dầu còn năm tháng nữa đi thi, em cũng phải từ giã vĩnh viễn mái trường mà về nhà giúp mẹ, làm nghề buôn thúng bán bưng mà thôi, như vô số các nữ sinh bị học dở dang chỉ vì gia đình túng bẩn. Vì thiếu bốn tháng tiền học, ông Hlệu trưởng nhất định đuổi em đi, nên Ba Má em không cho em đi học nữa. Phần thì ham học, phần thì tiếc công đèn sách bấy lâu, em đánh bạo đến nhà trường xin ông Đốc cho em thiếu chịu một tháng nữa để Má em cố gắng hốt hụi trả tiền trường nhưng ông Hiệu trưởng không có chút thương hại đứa nữ sinh nghèo của trường mình, mà tàn nhẫn đuổi em ra khỏi lớp. Không dè, tình cờ ông được biết hoàn cảnh của em, và ông đem lòng thương xót, giúp em tiếp tục việc học hành. Hôm ấy, em xin thưa thật với ông rằng về nhà em khóc nhiều lắm... Em khóc vì em cảm động quá... Em không ngờ em được phước đức gặp một vị cứu tinh cho đời em. Năm ấy, em đó được bằng Trung học Đệ nhất cấp, chính là nhờ công ơn vô lượng của ông... Rồi ông lại khuyến khích cho em vô học trường Quốc gia Sư phạm. Suốt ba năm qua, ông tiếp tục giúp đỡ cho em không biết bao nhiêu mà kể. Ngày nay em đã thi đỗ, sắp được bổ đi dạy học, em nhận thấy ơn của ông đối với em và gia đình em, rộng lớn vô biên, rồi đây em biết lấy gì mà đền đáp được tấm lòng đại lượng của ông... Ông đã cứu em ra khỏi cơn tuyệt vọng và cảnh dốt nát, bần cùng... Ông đã đem ánh sáng vào đời sống tối tăm của em... Ông đã xây dựng tương lai tươi đẹp cho em. Em và cả gia đình em được nở mày nở mặt là nhờ bàn tay tế độ của ông... Em sung sướng và lo ngại không biết lấy gì đền đáp lòng thương vô bờ bến của ông.
Cô Toàn bỗng nói không được nữa, gục đầu xuống thành ghế, khóc nức nở.
Ông Ngọc Minh đứng dậy, đến gần Toàn. Như một người anh dịu hiền, thân mến, ông vỗ vai thiếu nữ:
- Toàn đứng dậy đi với tôi ra vườn... Chúng ta dạo một vòng quanh các bồn hoa, để Toàn qua khỏi cơn xúc động.
Toàn vẫn còn ngồi yên nơi ghế, không dám ngước mặt lên. Ngọc Minh nói tiếp:
- Tôi cảm thông ý nghĩ tốt đẹp cao quý của Toàn.
... Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chúng ta hãy ra vườn. Kia, trời, mây, nắng, gió và cây cỏ, hoa, tất cả đều đang nở nụ cười tươi thắm để mừng Toàn đó!
Toàn mỉm cười sung sướng, lấy khăn lau khô ngấn lệ và đứng dậy, cùng với ông Ngọc Minh bước ra sân. Toàn quen với ông Ngọc Minh đã ba năm rồi, sự gần gũi bên ông không còn ngượng ngùng e lệ nữa. Trong ba năm cô đã đến đây nhiều lần thăm ông, nghe ông nói chuyện, thỉnh thoảng cùng ông tưới nước cho các khóm hoa, hoặc xin phép xuống bếp làm một vài món bánh đặc biệt mà ông Ngọc Minh ưa dùng.
Tuy ông Ngọc Minh có dạy các lớp của cô, nhưng Toàn vẫn đối xử với ông như tình thầy trò thân thiện, hơn nữa, như một người em đối người anh cả lúc nào cũng ưu ái và đứng đắn, gần như một người bạn thân tín. Trong thâm tâm, cô Toàn yêu ông Ngọc Minh lắm, nhưng tình yêu rụt rè lẫn với lòng kính phục, đối với một ân nhân.
Cô chưa hề có một cử chỉ suồng sã, hoặc thân mật tỏ tình âu yếm... Không quá gần mà cũng không quá xa, cô vẫn giữ được giữa ông Ngọc Minh và cô một ranh giới xã giao vừa đúng mức. Giả sử, bất cứ lúc nào, ông Ngọc Minh tỏ ý yêu cô và muốn kết hôn với cô, chắc chắn cô sẽ nhận lời ngay, không do dự. Vì, với sự nhận xét của cô, ông Ngọc Minh là người đàn ông hoàn toàn hơn hết thảy những người đàn ông khác mà Toàn đã quen biết trong phạm vi giao thiệp hằng ngày. Nhưng ông Ngọc Minh cũng không bao giờ thố lộ một tâm sự gì ngoài giới hạn một tình thương sâu rộng, chân thành mà vẫn đứng đắn.

Nếu một người nào đứng ngoài cổng ngó vào thấy Ngọc Minh và Phạm thị Toàn đi song song kề nhau dưới bóng cây trong vườn; trò chuyện thân mật như bây giờ, họ có thể tưởng rằng đó là một cặp tình nhân xứng đôi vừa lứa lắm. Toàn đẹp thùy mị, đẹp nhất là đôi mắt bồ câu, trồng con ngươi màu thau thau rất dễ quyến rủ. Khuôn mặt trái soan, với đôi gò má đều dặn và mịn, nước da hồng hào không son phấn. Ngực nở vung bén, tròn trịa, nổi hẳn lên trên vạt áo trắng dài tha thướt ôm sát vào thân hình. Cô mặc quần đen, đi đôi guốc đen, Cô học trò nghèo Phạm thị Toàn, con gái nhà lao động, sống bằng mồ hôi nước mắt của cha mẹ nhưng nhờ sự giúp đỡ tiền bạc của ông Ngọc Minh, và nhờ trí óc thông minh của cô chịu kiên nhẫn, chịu đựng các khổ nhục, chăm chỉ học hành, nay đã thi đỗ thành tài, hết mấy tháng hè sẽ được bổ đi làm cô Giáo, kể ra cũng xứng đáng với ông Giáo sư Triết học và Văn chuơng luôn luôn tha thiết với chủ trương đả phá thành kiến giai cấp trong xã hội và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của những người nghèo khổ!
Cô Toàn đã hiểu thấu triệt quan niệm nhân sinh của ông Ngọc Minh và cô chịu rất nhiều ảnh hưởng của các tư tưởng triết học xã hội của ông Giáo.
Hôm nay, ông nói với cô như thế nầy:
- Trong đời sống hiện tại, chung quanh ta có vô số những cảnh khổ cực đau thương. Tôi mong rằng rồi đây Toàn bước chân ra đường đi, sẽ quan sát tường tận những cảnh tình bi đát ấy. Mỗi người chúng ta phải có bổn phận cứu giúp một trong muôn người những kẻ xấu số bị xã hội hất hủi, ruồng bỏ trong cô đơn sầu hận, trong tủi nhục âm thầm. Cuộc đời của ta chỉ có nghĩa khi nào nó được hy sinh cho một nhiệm vụ nhân đạo, cho lý tưởng công bình bác ái. Bằng lời nói, bằng câu văn, bằng hành vi thích hợp với lý tưởng chúng ta, bằng cách nêu gương sáng khắp chung quanh mình, chúng ta phải đánh đổ các hình thức tham tàn, bất công, ích kỷ của các lớp người phong kiến. Toàn sẽ là một cô Giáo, tôi mong rằng Toàn sẽ còn là một nữ chiến sĩ của tư tưởng bình đẳng, tiến bộ. Toàn nên xây dựng tư tưởng ấy trong đầu óc các em thiếu niên, Chúng ta phải chiến thắng với lý tưởng xã hội, không phải bằng máu, lửa, bằng oán hận, căm thù, mà bằng sự thực hiện hòa bình, chủ trương giai cấp bình đẳng, nhân đạo, và bác ái.
Ông Ngọc Minh ngừng bước, nhìn thẳng vào đôi mắt của cô Phạm thị Toàn, và chậm rãi, nhấn mạnh từng câu:
- Chúng ta phải đào tạo một thế hệ thanh niên có ý thức về số phận đau thương khốn khổ của con người. Nhân loại bị bỏ cuộc về đủ mọi phương diện, bóc lột cả tinh thần, cả vật chất. Chúng ta phải cố gắng giải phóng đồng loại của chúng ta, được chừng nào hay chừng nấy, qua nhiều thế hệ bằng ba khí giới mạnh nhất của con người trí thức biết giác ngộ! là Chân, Thiện, Mỹ...
Toàn hiểu ông Ngọc Minh nhiều hơn ai hết, vì chính cô đã được ông Giáo sư tận tâm giúp đỡ, thành thật quý mến, mà không có hậu ý nào cả, Tuy nhiên, đã từ lâu, cô vẫn nghi ngờ về một bí mật trong đời sống của ông Ngọc Minh. Cô tự hỏi: tại sao từ ngày cô được biết ông, cô vẫn thấy ông Ngọc Minh sống độc thân, không bao giờ nghe ông nói đến chuyện gia đình?
Con gái, ai mà chả tò mò? Nhất là Toàn, cô nữ sinh trẻ đẹp đã may mắn được quen ông Ngọc Minh, được thường tới lui thăm viếng ông, và được ông tiếp đãi vui vẻ, bình đẳng, thân mật như người anh cả, như người bạn hiền thì Toàn có thể tự cho phép mình ngó kín đáo đôi chút vào đời sống của vị ân nhân. Đã mấy lần trước, thừa những lúc ông nói chuyện thân mật, cô muốn hỏi ông về đời tư của ông, nhưng cô do dự, sợ thất lễ, và sợ ông giáo.
Không lần nào Toàn nghe ông thố lộ ít nhiều về đời sống cá nhân của ông. Ông thường nói chuyện, với một giọng hùng hồn, đôi khi rất cảm động, về đời sống đau khổ của những người khác, những bất công của xã hội, những tư tưởng bác ái và bình đẳng. Tuyệt nhiên Toàn không nghe ông nói đến ông bao giờ.
Lần này ngồi đối diện với ông nơi bàn ăn, khi bữa cơm đã xong, hai người ăn trái cây tráng miệng, Toàn tủm tỉm cười:
- Thưa ông, em vẫn ân hận là không bao giờ em được hân hạnh gặp bà Giáo ở đây, để cám ơn bà Giáo.
Toàn hồi hộp đợi ông Ngọc Minh trả lời, vừa lo ngại phản ứng của ông. Nhưng, rất tự nhiên, vui vẻ, ông ngó Toàn:
- Bà Giáo nào? Cô tưởng tôi có một người vợ mà tôi giấu ở trong tủ kia phải không?
Toàn đỏ bừng đôi má. Cô thẹn và ân hận đã hỏi ông Ngọc Minh một câu mà bây giờ cô mới thấy là vô lý! Nhưng ông Ngọc Minh đâu có giận cô. Ông điềm nhiên nói tiếp:
- Dĩ nhiên một ngày kia tôi sẽ cưới vợ. Tôi thích ở độc thân như bây giờ, vì tôi yêu công việc làm trong quạnh hiu yên tĩnh. Nhưng tôi cũng cần có một người vợ để tạo lập hạnh phúc gia đình...
Rồi ông ăn mấy trái nho, và nói chậm rãi nhỏ nhẹ:
- Tôi muốn có một người vợ hiền lành, như một con chim con...
Toàn tủm tỉm cười. Hình như ông Ngọc Minh không để ý và nói với Toàn như thể nói riêng với mình:
- Tôi muốn mỗi nét đẹp, mỗi nụ cười, mỗi lời nói, mỗi điệu bộ, và mỗi cử chỉ của nàng đều là thơ, là nhạc. Người đàn bà là gì? Tất cả những người đàn bà đều không phải tất cả là đàn bà. Toutes les femmes ne sont pas toutes des femmes. Tôi thường nghĩ thế, và luôn luôn tôi hình dung người đàn bà là tượng trưng của hiền lành tuyệt đối. Trong đời sống vô cùng khổ não của con người chỉ có đàn bà là nguồn vui vô tận. Những tâm hồn quạnh quẽ, hoang vu, cần có tiếng hát êm dịu của tin tưởng vang ra từ thâm tâm của con tim phụ nữ. Tất cả những Bi, Thương, Sầu, Hận, đeo theo số kiếp của con người, chỉ có nụ cười của người đàn bà, và bàn tay huyền dịu của họ là làm cho êm nhẹ bớt được thôi. Và khi chính họ đau khổ, coi họ khóc nức nở, thì ngấn lệ và nét buồn của họ là cả thảm kịch bi thương của nhân loại.
Nhưng đáng tiếc, rất nhiều người đàn bà đã mất cả ý thức về nghĩa vụ cao quý, gần như thiêng liêng của họ. Biết bao nhiêu người đàn bà quên rằng Thượng đế sinh họ ra là ảnh tượng của diệu hiền, của duyên dáng, của tình yêu và họ là biểu lộ của vẻ đẹp vũ trụ không có nó không thể nào có đời sống điều hòa. Cho nên, tôi thường ngạc nhiên khi chợt nghe người đàn bà nói với người đàn ông mà họ đã yêu: ‘‘Em là của riêng anh. Em thuộc về anh hoàn toàn’’. Không! Người đàn bà thốt ra câu nói ấy là tự mình thoái vị phẩm cách phụ nữ của mình. Không có ai thuộc về ai hoàn toàn cả. Không có ai là của riêng ai.
Ông Ngọc Minh đưa dĩa bôm mời Toàn. Ông lấy một trái, sau khi Toàn lấy một trái. Toàn cầm dao gọt bôm, vừa hỏi ông:
- Thế, thưa ông, quan niệm của ông về tình yêu như thế nào?
Ông Ngọc Minh ăn nửa trái, uống một hớp cà phê đen, rồi nói:
- Tình yêu không phải là vật vô tri vô giác của một con tim nầy hiến dâng cho một con tim khác. Nó là một cảm thông sâu đậm của hai tâm hồn và hai thể xác. Nó có thể là một cảm thông trọn vẹn, hoặc là một phần nào. Nhưng dù nó có trung thành duy nhất, hay tha thiết say mê thế nào chăng nữa, nó cũng không thể nào là một sự thoái vị của bản thân. Khi tình yêu đã tự hiến hoàn toàn cho một người nào, - làm của riêng người ấy, thì tình yêu không còn bản chất của nó nữa, nó đã trở nên một vật vô tri vô giác, nó không còn là tình yêu nữa.
Toàn mỉm cười:
- Thưa ông, nếu em hiểu không lầm tư tưởng của ông, thì ông không thừa nhận tình duyên thủy chung duy nhất?
- Toàn hiểu lầm rồi đó. Nhưng không phải một mình Toàn. Từ bao nhiêu thế kỷ, biết bao nhiêu người trên trời đất nầy, đã nghĩ sai lầm rằng tựu trung tình yêu chỉ là sự quyến rủ thể chất của hai xác thịt mà thôi. Đã đành rằng tất cả mọi cuộc ‘‘tình duyên’’ dù là khởi điểm ở tinh thần cũng đều kết cuộc bằng đòi hỏi vật chất. Tình yêu thể xác dù có xinh đẹp thế mấy đi nữa nhất định
cũng sẽ hướng về vật dục tầm thường của tất cả loài người, và tất cả loài thú. Một người đàn bà nào có thể trao gởi vĩnh viễn thân thể của họ cho một người nào đó, và trái lại. Nhưng gọi đó là ‘‘Tình yêu duy nhất’’ được ư? Bởi vì sau thời gian trôi đi, tất cả mọi ‘‘Tình yêu’’ bồng bột lúc ban sơ, sau sẽ trở thành những mặc cảm. Nó mất hẳn tính chất rạo rực xúc cảm của tình yêu. Không thể gọi nó là ‘tình yêu’’ được nữa. Nó hết còn là tình yêu chân chính lâu bền.
- Thưa ông nếu vậy thì đâu là tình yêu chân chính lâu bền?
Ngọc Minh cười:
- Tôi đã bảo lúc nay rằng không có ai thuộc về ai hoàn toàn, không có ai là của riêng ai. Bởi vì Thượng đế sinh mỗi người đâu có phải để dành riêng cho một người đâu. Chúng ta, tất cả, đều thuộc về tất cả. Cái truyền thuyết ‘‘Giây tơ hồng’’ của thời phong kiến xa xưa, ngày nay còn có nghĩa lý gì nữa đâu. Mối tình vật chất chỉ là một sức mạnh hấp dẫn lẫn nhau, - une force de séduction réciproque - của hai tâm hồn và hai thể xác cảm thông nhau và quyến rủ nhau. Thế thôi, còn tình yêu chân chính lâu bền, đó là tình yêu tinh thần nhân loại. Tình yên bằng hy sinh, bằng thương mến chân thật, tình yêu rộng lớn, không vị kỷ, sẵn sàng hiến cả cho xã hội...
Ngọc Minh ăn hết nửa trái bôm còn bỏ dở, uống một hớp cà phê, rồi ngó Toàn:
- Toàn hiểu tôi nói gì chứ?
Toàn chăm chú nghe từ nãy, mỉm cười đáp:
- Dạ, em hiểu nhiều lắm.
Ngọc Minh nói tiếp:
- Toàn sắp ra làm cô giáo, và sắp bước chân trên đường đời Tôi cảm ơnToàn đã cho tôi được nhiều vui mừng vì sự học hành và tinh nết của Toàn dưới máy học đường đã làm rạng rỡ cho Toàn, và xứng đáng lòng tin tưởng của tôi. Nay, trước khi tiễn Toàn đi làm nhiệm vụ giáo hóa cho một thế hệ bạn trẻ, tôi còn một ước vọng cuối cùng đặt nơi Toàn, là mong sao Toàn sẽ đem tình yêu nhân loại an ủi và giúp đỡ một phần nào những cái đau khổ đầy rẫy trong xã hội ta hiện nay. Tôi nhận thấy một điều trái ngược như sau đây rất đáng buồn, là ở cái xã hội văn minh Âu Mỹ, những số người nghèo đói, tàn tật, cực nhọc, đau khổ, bị hà hiếp, bị áp chế, bị bóc lột, bị bỏ rơi, ít hơn ở xã hội ta, mà số người từ thiện, có lòng bác ái nhân đạo, luôn luôn sẵn sàng cứu giúp, thì rất nhiều. Trái lại, ở xã hội ta, những kẻ thiếu cơm ăn, thiếu áo mặc, tàn tật bịnh hoạn, khổ cực về đủ phương diện thì nhiều không đếm được, mà người tận tâm cứu gìúp, hy sinh cứu giúp, với tình yêu nhân loại tha thiết, xót xa và không vụ lợi thì... thật ít quá. Tôi ước ao Toàn sẽ gặp được tình yêu đầm thắm thanh cao ấy, ở bất cứ nơi nào có mặt Toàn...
Từ nãy giờ, Toàn ngồi nghe say mê. Trí óc Toàn như bị thôi miên, đôi mắt Toàn như bi thu hút, dính chặt vào đôi môi của ông giáo sư Văn chương và Triệt lý, tất cả tin thần và tư tưởng của cô như chìm ngập giọng nói hùng biện, êm đềm, thắm thía của vị giáo sư còn trẻ tuổi...
Ngọc Minh uống hớp càphê cuối cùng còn trong tách Toàn cũng tự nhiên bắt chước nâng tách càphê lên uống cạn. Ông Ngọc Minh mỉm cười ngó cô:
- Vả lại, rồi đây Toàn sẽ có chồng, Toàn kết duyên với một người đàn ông mà Toàn sẽ yêu mến, dĩ nhiên Toàn sẽ không thật là hoàn toàn thuộc về người ấy và người ấy cũng thế, nhưng nếu cả hai tâm hồn cảm thông với nhau trong tình yêu nhân loại, rộng lớn hơn, và cao siêu hơn, thì mối tình riêng của hai người sẽ được hạnh phúc xinh đẹp, bền lâu, không có gì làm cho tàn phai được cã. Dù cho gặp nghịch cảnh khốc hại đến đâu, tình yêu nhân loại luôn luôn sẽ thắng, và nhờ đó mà hạnh phúc riêng của hai nguời sẽ còn xinh đẹp mãi với thời gian.
Ông Ngọc Minh đứng đậy. Cô Toàn cũng theo ông. Đồng hồ đã điểm 1 giờ. Hai người bước ra phòng khách Phạm thị Toàn, cô Giáo Tân khoa, y phục rất đơn sơ nhưng cô trẻ đẹp, vô cùng duyên dáng, đôi má ửng hồng, cảm động nhìn Ngọc Minh.
- Thưa ông, em sẽ triệt để trung thành với lời chỉ bảo của ông. Ông đã mở rộng trước viễn ảnh của em một chân trời tươi sáng, rực,rỡ vô ngần. Mỗi khi em sẽ hành động một việc gì, em cũng sẽ nhớ đến tất cả những lời vàng ngọc của ông vừa nói với em. Em xin nguyện sẽ phụng sự cho đến hơi thở cuối cùng cái lý tưởng cao siêu, tuyệt diệu, tuyệt mỹ, mà ông đã truyền cảm cho em...
Ông Ngọc Minh đưa Toàn ra sân, vừa đi song song bên cạnh thiếu nữ vừa nói:
- Toàn sẽ thành công trên đường đời, cũng như Toàn đã thành công nơi học đường... Tôi cảm ơn Toàn đã tỏ những cảm tình nồng hậu với tôi, và tôi rất vui sướng tìm được nơi Toàn một tình bạn mà tôi mong rằng sẽ không bao giờ phai nhạt...
Ông mời Toàn lên xe, để ông đưa cô về Dakao.
Cô Phạm thị Toàn được bổ đi dạy tại trường Nữ Trung học Mỹ tho. Cô ở trọ nhà một bà dì đường Lê Lợi.
Ngày đầu tiên cô đến đây, với một chiếc va-li, có mẹ cô đi theo để gởi gắm cho cô em gái của bà, mà ở đây người ta thường gọi là chị Tư Đen, vợ anh Tư hớt tóc. Vợ chồng anh Tư niềm nở đón tiếp Toàn, ra điều hãnh diện có đứa cháu gái làm cô giáo, từ nay ăn ở trong nhà chị, và được đi dạy Trung học Đệ nhứt cấp ở trường Nữ Trung học tỉnh.
Chị Tư dọn dẹp lại nhà cửa để cho xứng đáng là nơi ở trọ của một cô giáo. Chị nghĩ: ‘‘rồi nữa những ngày chủ nhật học trò đến thăm cô giáo, chà! vẻ vang và danh giá cho gia đinh chị xiết bao! Chị sửa sang lại căn phòng ngủ của chị ở nhà giữa để làm phòng ngủ của Toàn, còn hai vợ chồng chị thì dọn xuống căn phòng nhỏ hẹp hơn ở kế bếp. Toàn tuy mang tiếng là ở trọ nhà bà dì ruột, nhưng cô đã ngỏ ý với mẹ cô để nói lại cho dì biết rằng mỗi tháng Toàn sẽ đưa cho dì một ngàn đồng bạc để thanh toán tiền nhà và tiền cơm, gọi là một chút đóng góp với gia đình, chớ không dám làm bận rộn dì và dượng, Còn có điểm tâm lý rất dễ hiểu của một đôi vợ chồng thuộc về thành phần lao động, không biết chữ nghĩa không có địa vị trong xã hội, từ nay được làm dì và dượng một cô giáo trẻ đẹp được bao nhiêu người trọng dụng, Má của Toàn ngồi ăn trầu, nói chuyện với em rể và em gái, về những thành tích vẻ vang của Toàn trong học đường và sự giúp đỡ tận tâm của ông giáo sư Ngọc Minh ở trường Đại học. Với tính thực thà sẵn có của những phụ nữ chất phác hiền lành trong giới bình dân, má cô Toàn có ý khoe với em gái và em rể:
- Ông Giáo sư thương nó lắm. Tội nghiệp, ổng chưa có vợ con gì hết, trên 30 tuổi rồi mà còn cứ ở câu ky vậy hoài, không chịu lấy vợ. Ông thương con nhỏ hết sức thương vậy đó, nó thi đỗ là nhờ tiền của ông cho. Chớ dượng nghĩ coi, nhà mình nghèo tiền của đâu cho nó học! Thấy ông tử tế quá với nó như vậy, tui có nói cho con Hai nó biết hễ chừng nào ông giáo Ngọc Minh muốn hỏi nó làm vợ, thì tui gả liền.
Chị Tư Đen gật đầu:
- Được người danh giá không gả, thì gả cho ai!
Chồng chị, anh Tư hớt tóc cũng nói hùa theo:
- Chớ sao! Con Hai ngày nay đã được địa vị sang trọng là nhờ người ta tác thành cho, thì phải lấy người ta để đền ơn người ta chớ. Nhưng con Hai nó có ưng ông giáo đó không?
Má của Toàn cười:
- Ai biết gì nó? Nhưng coi bộ con nhỏ khen ổng vàng trời, cả ngày nó cứ nhắc đến ổng. Tui có hỏi thiệt nó: ông có tình ý gì với mầy không mà ổng giúp tiền, giúp của cho mầy ăn học vậy? Tui hỏi vậy để cho biết, mà con nhỏ cứ nhe răng cười, không nói gì hết. Tụi bạn của nó cứ kêu giỡn nó là ‘‘Bà Ngọc Minh’’.
Chị Tư Đen hỏi:
- Chị có gặp ông giáo đó lần nào chưa?
- Ai mà gặp! Con Hai, thì nó đến nhà ổng hoài. Nó ăn cơm với ổng nữa.
- Thời buổi này là thời buổi tự do. Con trai con gái thương yêu nhau tưới hột sen! Nhứt là học trò với thầy giáo đời nay thì khỏi nói. Không phải như thời xưa đâu chị ơi. Cứ kệ họ. Nhưng mà phải bắt họ cưới hỏi đàng hoàng, chớ làm chuyện núp lén rồi trót tay nhúng phải thùng chàm, bụng làm dạ chịu biết làm sao đây. Để bữa nào tui dỗ dành con Hai, tui hỏi coi nó nói sao.
- Ừ, bữa nào dì hỏi thử coi. Chớ tui hỏi nó, nó cứ nói nửa nạc nửa mỡ, hổng biết đâu mà rờ hết trơn...
Câu chuyện bàn tính giữa Má của Toàn và vợ chồng chị Tư Đen là câu chuyện nói lén trong lúc Toàn không có ở nhà. Đến Mỹ tho hồi 1 giờ chiều, dọn cất vali và thay đồ đạc xong, đến 5 giờ Toàn rủ đứa em gái con bà dì, tên là Ngọc 12 tuổi, nữ sinh trường Tiểu học Mỹ tho đưa Toàn đi xem qua trường Nữ Trung học, để coi địa điểm như thế nào, và có ở gần nhà bà dì không. Toàn rất vừa ý, vì từ nhà ở đường Lê Lợl đến trường Nữ Trung học ở đường Ngô Quyền, Toàn đi bộ không đầy 15 phút. Nhân tiện, em Ngọc đưa Toàn đi rảo qua vài đường lớn trong thành phố, Hùng Vương, Gia Long... Đến một vườn dọc một bóng cây có một đám đông người chen đứng chật ních, nghe một người gãy đàn guitare, vừa ca bài ‘‘Con thuyền không bến’’
Toàn không chú ý đến lắm vì không phải thật lúc rỗi rãi để nghe đàn. Cô nắm tay em Ngọc đi nhanh, tránh đám đông người. Em Ngọc bảo:
- Chàng nghệ sĩ mù đấy, chị Hai à.
Toàn hơi ngạc nhiên:
- Chàng nghệ sĩ mù nào?
- Cái anh hát và đờn guitare đó.
- Người mù à?
- Dạ. Anh ấy đui hết hai con mắt
- Ai đặt cái tên ‘‘chàng nghệ sĩ mù’’ đó?
- Dạ, em đâu có biết. Em nghe tụi trong lớp cứ gọi anh ta như vậy, em cũng bắt chuớc gọi theo.
- Tụi bạn trong lớp em đứa nào cũng biết anh ta sao?
- Dạ, biết hết chớ. Học trò đứa nào cũng biết. Chàng nghệ sĩ mù hát hay lắm, chị ơi! Đờn cũng hay nữa. Sáng nào đi học em cũng thấy anh ấy ngồi hát và đờn ở góc đường Lê Đại Hành, người ta bu lại nghe rồi cho ảnh tiền.
- Vậy hả.
- Dạ.
- Em có cho không?
- Em đâu có tiền mà cho.
Toàn cười, rồi hỏi tiếp:
- Sao em biết chàng nghệ sĩ mù hát hay?
- Sáng nào đi học, em cũng đi tới góc đường Lê đại Hành đứng nghe một chặp rồi mới đến trường. Mấy đứa trong lớp em cũng vậy. Ở Sàigòn có nghệ sĩ mù đi hát và đờn để kiếm tiền như vậy không, chị Hai?
- Có chứ. Nhưng không phải là nghệ sĩ.
- Thế thì nghệ sĩ là sao hả chị?
- Không phải ai ca hát được, chơi đờn được, là nghệ sĩ. Phải là người có tài, đàn thật là hay, giọng hát thật là trong, hoặc thật cao, hoặc thật ấm, thế mới là nghệ sĩ. Chị thấy mấy người mù đi hát dạo ở trong sở thú Sàigòn hoặc trong các tiệm ăn, người ta cho họ tiền vì thấy họ mù loà người ta thương, chứ đâu phải họ hát hay.
- Nhưng chàng nghệ sĩ mù hồi nẩy đó hát và đờn nghe mùi lắm chị ơi. Tụi em nghe mà mê!
Câu chuyện phiếm về chàng nghệ sĩ mù đến đây vừa hết vì Toàn và em Ngọc đa về đến nhà. Ở nhà, má Toàn và vợ chồng chị Tư Đen nói lén về chuyện Toàn, cũng vừa chấm dứt vì Toàn đã về.
Đêm đầu tiên ở Mỹ tho, Toàn trằn trọc không ngủ được. Đúng là đêm đầu tiên, vì tuy Mỹ tho chỉ cách Sàigòn vào khoảng hơn 70 cây số, nhưng với Toàn nó vẫn là một thành phố xa lạ. Từ nhỏ đến lớn Toàn chưa bước chân đến đây bao giờ.
‘‘Lạ nước lạ cái’’, lạ nhà lạ cửa, một cô gái đang có bao nhiêu ý nghĩ băn khoăn về thân phận, về duyên kiếp về nghề nghiệp, làm sao ngủ được?

Trorg phòng riêng, đèn tắt tối om, Toàn khẽ nghiêng mình về chiếc bàn con, dòm mặt đồng hồ có những con số bằng lân tinh, màu xanh sáng ngời. Toàn ngạc nhiên nhìn thấy cây kim giờ chỉ số 1. Mới đó mà đã một giờ rồi! Toàn nằm trở lại ngay thẳng trên chiếc giường lạ, nhắm riết mắt và tự bảo: Khuya quá rồi, phải ngủ, để sáng dậy tỉnh táo vào trường trình diện với bà Hiệu trưởng.
Nhưng rồi Toàn vẫn không ngủ được, Toàn muốn đếm con số từ 1 đến 100 để dễ buồn ngủ, nhưng đếm thầm từ 1 đến 10, 11, 12... 15... 20, 21, 22... 30 rồi thứ tự bị đứt đoạn, để thay vào đó những hình ảnh quen thuộc, quyến rủ say mê của dĩ vãng... Trí nhớ của Toàn cứ ôn lại đoạn đời của Toàn vừa mới trải qua... Một đoạn đời xinh đẹp không ngờ! Đáng lẽ không bao giờ Toàn làm được cô giáo. Số phận hẩm hiu của Toàn từ hồi niên thiếu, tưởng đâu không thể nào thoát ra được khỏi tối tăm, bần hàn. Ngay từ thuở bé, đã phải giúp mẹ dọn dẹp bếp núc, quét tước nhà cửa, rửa chén, nấu cơm, để mẹ đi buôn thúng bán mẹt kiếm tiền nuôi đàn con dại. Ba má Toàn đã nghèo mà sinh con chi cho lắm thế? Toàn phải bồng bế và săn sóc bốn đứa em! Ba của Toàn làm thợ trong một xưởng cưa, lương tháng hụt trước thiếu sau, cố tiện tặn cho mấy cũng không tránh khỏi nợ nần. Cơm ăn bữa no bữa đói, quần áo tấm rách tấm lành, khi Toàn đã trông thấy cảnh ba má Toàn cãi lộn và đánh nhau vì công nợ vì hết gạo, hết tiền. May sao ba Toàn cố gắng làm việc được tăng lương, thêm tiền phụ cấp gia đình, mẹ Toàn cũng tần tảo bán buôn. Khi Toàn lên 9 tuổi, cha mẹ Toàn cố gắng dành dụm chút ít tiền cho Toàn được đi học. Toàn không ngờ học mau tấn tới, đến 14 tuổi đỗ bằng Tiểu học. Tấm bằng Tiểu học này là cả mồ hôi nước mắt của ba má Toàn đúc kết thành. 18 tuổi Toàn học Đệ tứ, gặp lúc vận nhà nguy biến, cha mẹ Toàn không còn cách nào cho Toàn tiếp tục học được nữa. Toàn bị đuổi ra khỏi trường, suýt phải về nhà trở lại nghề giữ em, làm bếp, đi chợ, và đành ôm phận dốt nát thấp hèn, sống chuỗi ‘‘ngày tàn trong ngõ hẹp’’ Ba Toàn lại bị đau nặng, nằm nhà thương Đô thành, má Toàn buôn bán ế ẩm. Ngẫu nhiên, ông giáo sư Ngọc Minh đến cứu Toàn, không khác nào một vị thiên thần từ trên Thiên đình giáng xuống để nâng đỡ Toàn lên khỏi vực thẳm. Toàn đỗ bằng Trung học, rồi bằng Sư phạm, là hoàn toàn nhờ sự giúp đỡ tinh thần và tiền bạc của ông giáo sư Ngọc Minh... Toàn thật không ngờ ngày nay Toàn có phước được làm cô giáo ở trường Nữ Trung học. Toàn nhớ lại hầu hết những lời lẽ thâm thúy và cao thượng vô ngần mà Ngọc Minh đã nói với cô trong bữa tiệc mừng cô thi đậu. Ngọc Minh là một ánh sáng thần tượng tươi đẹp ảo huyền chiếu vào mảnh đời đen tối của cô.
Toàn nhìn thấy ánh sáng ấy gần lắm, mà cũng xa lắm! Cô với không đến. Ngọc Minh là một mặt trời rực rỡ mà cô chỉ là một đóa hoa hoang vu ở bên đường!
Nhưng trở về thực tế Toàn vui sướng, và lo ngại, cảm thấy bắt đầu giai đoạn xây dựng cuộc đời mình với tự sức mình. Cánh cửa đời từ nay mở lớn, đường đời rộng thênh thang, xa biền biệt... Không biết tương lai sẽ để dành cho mình những biến cố bất ngờ gì. Tuy chung quanh Toàn không thiếu bạn bè thân quyến nhưng Toàn vẫn thấy đơn độc, quạnh hiu, chơ vơ, một hình một bóng.
Gương mặt hiền hoà, điềm đạm của ông giáo sư Ngọc Minh vẫn hiện ra luôn luôn trong tâm tư của Toàn. Hình ảnh đẹp nhất, trong sáng nhất, cao quý nhất,- của người đàn ông, đã in vết đậm trong tư tưởng của cô.
Toàn chưa hề yêu ai bao giờ cả. Suốt thời kỳ ở dưới mái học đường, Toàn chỉ chăm học, quyết lo xây dựng cho tương lai trước hết, không bao giờ nghĩ đến một cuộc phiêu lưu tình cảm. Tim của cô gái 21 tuổi ấy, chưa hề rung động xao xuyến vì hình ảnh một chàng trai nào mặc dầu Toàn vẫn được bao nhiêu gã thanh niên si mê, cầu khẩn chút hương yêu. Không phải sắt đá, nhưng Toàn không tin tưởng vào những cuộc ái ân non nớt, bồng bột, quá hời hợt và quá tầm thường. Dĩ nhiên một ngày nào đó Toàn sẽ yêu một người nào đó. Nhưng “ Người ấy là ai?’’ Toàn buồn bã nghĩ rằng người ấy… chắc không phải là ông Ngọc Minh!. Không, Toàn không được diễm phúc tuyệt vời ấy!
Dù sao, đến Mỹ Tho được hai hôm, Toàn liền viết thư thăm vị ân nhân, và thưa để ông rõ công việc cô sắp đặt ở nhà người dì như thế nào, mà những cảm tưởng đầu tiên của cô đối với thành phố xa lạ như thế nào. Ông Ngọc Minh phúc đáp thư cô, ân cần hỏi han, dặn dò, khuyên bảo. Cuộc trao đổi thư từ giữa cô và ông Ngọc Minh vẫn đượm màu thân mến, dịu dàng,tin cậy, nhưng vẫn không vượt ra ngoài phạm vi lễ giáo …
- 2 -
Toàn đi dạy học đã một tháng rồi. Toàn dạy buổi sáng, buổi chiều nghỉ, định ở nhà học thêm chương trình Tú tài.
Bây giờ đã thành thói quen, cứ mỗi sáng, 7 giờ, Toàn đến trường Nữ Trung học, dắt theo em Ngọc, con bà dì, một nữ sinh rất dễ thương, học trường Tiểu học. Chìu theo ý em bé, cô giáo Phạm thị Toan đi thẳng đường Lê Lợi đến ngã tư đường Lê đại Hành, đứng đấy nghe chàng nghệ sĩ mù ca một vài bài. Bé Ngọc nghe mê. Đôi khi trống trường đã đánh, Ngọc còn đòi ở nán lại nghe cho hết bài ca của chàng rồi mới vội vã chạy theo chị đến trường.
Chính Toàn cũng có khiếu về âm nhạc mà Toàn không ngờ. Con nhà nghèo từ thưở bé, lo ẵm em và chụm bếp cho mẹ, Toàn còn biết gì là ca nhạc nữa. Toàn chỉ ru em với vài ba bài hát xưa nghe lỏm bên hàng xóm mà thôi. Đến lớn lên, đi học, bạn gái cùng lứa với Toàn say mê tân nhạc, bỏ cả học hành, nô nức đua nhau tập đàn, tập ca, với tham vọng trở thành danh ca trên đài phát thanh. Riêng Toàn nhất định không chạy theo phong trào ấy. Cô muốn gắng công đèn sách cho đến ngày đỗ đạt, cho có một trình độ học thức khá mở mang, rồi cô mới tìm những thú vui thanh tao của nghệ thuật.
Ngày nay, thì giờ hơi rảnh rang, trí óc đã thư thái, mỗi buổi sáng Toàn nắm tay bé Ngọc, đứng nghe năm ba phút đàn ca của ‘‘chàng nghệ sĩ mù’’ âm nhạc bỗng lâng lâng trổi dậy, réo rắt trong tim cô...
Toàn nghe say mê như bé Ngọc, và mỗi lần nghe xong, cô giáo đều mở bóp lấy hai đồng bạc đưa Ngọc, bảo em cúi xuống đặt nhè nhẹ trong chiếc nón nỉ cũ mòn của chàng. Toàn lặng lẽ rảo bước đến trường, nhưng giọng ca nỉ non của ‘‘chàng nghệ sĩ mù’’ còn văng vẳng dư âm trong lòng cô giáo...
Một buổi sáng thứ bảy, theo thường lệ, cô giáo Toàn dắt em Ngọc đến trường, hai chị em ghé chỗ ‘‘chàng nghệ sĩ mù’’ nghe chàng ca liên tiếp ba bài: ‘‘Đêm đông’’, ‘‘Giọt mưa thu’’, ‘‘Con thuyền không bến’’. Giọng ca nhịp với cung đàn, trổi lên như lời than thở, ai oán, não nùng… Nghe buồn thắm thía làm sao! Toàn có cảm tưởng rằng tuy chàng trai trẻ nghèo khổ và tật nguyền phải dùng cây đàn làm kế sinh nhai, nhưng tiếng hát lẫn tiếng đàn của chàng có một giọng chân thành cảm động, phát xuất từ trong tâm để dân chúng châu thành Mỹ tho tặng chàng danh hiệu ‘‘Chàng nghệ sĩ mù’’, không phải là mỉa mai đâu. Chàng chính là một nghệ sĩ, một bậc tài hoa bị xấu số đó thôi!
Rảo bước đến trường, cô giáo Toàn đã phải nói với em Ngọc
- Chàng ta hát hay quá. Ở Sàigòn chỉ chưa nghe ai đờn và hát hay như thế.
Ngọc bảo:
- Chị ơi, em nghe giọng hát của anh ấy sao mà buồn thảm hết sức! Em ứa nước mắt muốn khóc, chị à. Hèn chi bữa nay người ta xúm lại nghe đông quá.
- Họ nghe vậy mà họ không cho tiền.
- Dạ, em ngó trong cái mũ nỉ của anh ấy chỉ thấy lưa thưa chừng mười đồng. Chị giáo cho 5 đồng, là nhều hơn hết thảy. Mấy người kia, họ chỉ bỏ vô mũ 1 đồng thôi chị ạ. Tội nghiệp quá hả, chị!
- Trong đám đông người nghe đó, giỏi lắm chừng mươi người cho tiền.
- Em thấy có mấy ông lính cũng cho tiền và cho thuốc thơm hút nữa chị ơi.
- Nhưng xem như chàng không để ý đến gì cả... Chàng cứ ngồi rướn gân lên hát, hát như say như mê, như cuồng, như dại...như hòa hồn với mây gió...
Tan buổi học sáng hôm ấy, Toàn vừa dắt em Ngọc về đến nhà thì ông Tư hớt tóc hỏi ngay Toàn:
- Hai à, cậu ‘‘nghệ sĩ mù’’ bị xe nhà binh cán, con biết chưa?
Toàn hốt hoảng, trố mắt ngó ông Tư:
- Trời ơi! Thiệt sao dượng?
- Thiệt. Dì Tư con đi chợ thấy cảnh thương tâm quá về nhà có nói chuyện lại.
- Trời ơi! Tội nghiệp quá vậy! Anh ấy có chết không, dượng?
- Dượng không rõ. Dì Tư con nói: Vào hồi 10 giờ cậu ta cầm gậy đi mò về ngã chợ, băng qua ngã tư Lê văn Duyệt thì bị chiếc xe nhà binh đụng vào cậu, cậu ngã xuống đường bị bánh xe cán lên cái chưn, đổ máu tùm lum. Rồi xe nhà binh chở cậu tới bịnh viện Thủ Khoa Huân...
Bé Ngọc cũng ngơ ngác, buồn xịu mặt:
- Ảnh không chết, hả ba?
- Ba đâu có biết.
Toàn đi vào phòng thay đồ, nhưng hôm nay sao trong lòng hơi buồn bã hoang mang... Toàn cũng không hiểu tại sao Toàn buồn bã như thế sau khi nghe chàng nghệ sĩ trẻ tuổi và mù lòa bị tai nạn? Toàn không hề quen với chàng và không biết chàng tên gì, chàng mấy tuổi, gia đình như thế nào, tại sao phải đi lang thang nơi đầu đường xó chợ, với một cây đàn, và một giọng hát, để làm kế sinh nhai? Với chàng có đôi chút cảm tình, nhưng cảm tình rất tự nhiên chỉ vì giọng hát rung động của chàng đó thôi, cũng như tất cả những người khác, đàn ông và đàn bà, trong đám bình dân thường có dịp ghé lại năm phút nơi chàng ngồi để nghe giọng hát của chàng cũng như Ngọc, em bé 12 tuổi, cũng như bao nhiêu các em khác, thế thôi.
Trưa nay, ở châu thành Mỹ Tho, những người nào đã từng say mê tiếng đàn và giọng hát của người trai trẻ mù lòa, khi biết tin chàng bị nạn xe hơi trầm trọng, chắc là ai cũng thương xót, tội nghiệp cho chàng, chứ không riêng gì cô giáo Phạm thị Toàn ở trường Nữ Trung học. Bà Tư Đen cũng tỏ vẻ thương hại người con trai xấu số ấy. Trong bữa cơm trưa, cả nhà ngồi chung quanh mâm, vừa ăn vừa bàn tán.
Toàn hỏi bà Tư:
- Anh ấy nhà cửa ở đâu mà phải đi lang thang như vậy, dì Tư?
- Ai mà biết! Nhưng cậu ta ở đâu tới đây chớ không phải người ở Mỹ Tho.
- Anh ta không có cha mẹ hay bà con cô bác gì ở đây sao, dì Tư?
- Dì không rõ. Nghe người ta nói hình như cứ buổi sáng thì cậu ta hay ngồi đờn và hát ở góc đường Lê đại Hành, buổi chiều mát cậu ngồi ngoài bờ sông, tối thì ngủ nhờ ở cái Chùa nào đó. Họ đồn cậu ấy có học thức, đã thi đỗ Trung học rồi, nhưng nhà nghèo rồi bị tai nạn sao đó nên mới bị đui hết hai con mắt. Ai tò mò hỏi cậu ở đâu, thì cậu làm thinh. Ai hỏi quá thì cậu nói quê cậu ở Bến tre, có khi nói ở Thủ dầu một, có khi nói ở Biên hòa.
- Sao người ta biết anh là người có học thức, đã thi đỗ Trung học.
- Người ta đoán vậy đó, chớ có ai biết rõ đâu. Cậu ấy có bao giờ nói lý lịch cho ai nghe đâu. Nhưng nói chuyện có vẻ người học thức. Tụi lính Ngoại quốc nghe cậu đờn hay, hát hay, cũng hỏi chuyện cậu, cậu trả lời tiếng Anh cũng được nữa.
Bé Ngọc nói xen vào, giọng con nít:

- Chị hai ơi, dạo trước có bữa em đứng nghe ảnh hát, đông người nghe lắm. Rồi hồi ãnh nghĩ hát, có người hỏi ảnh có vợ con chưa, nhà ở đâu, anh tủm tỉm cười dễ thương lắm, ảnh nói: Xin lỗi ông, đời tư của tôi nghèo nàn khốn khổ, có nghĩa lý gì đâu. Tôi chỉ biết tôi là kẽ tật nguyền, không có ích chi cho xã hội.
Toàn bảo:
- Tuy anh ta đui vậy chớ coi gương mặt cũng biết là người thông minh, và hiền hậu. Chắc cuộc đời của anh ta cũng có cái bí mật gì đó.
Xong bữa cơm, Toàn vào phòng riêng nằm nghĩ như mọi hôm, theo thường lệ. Nhưng trưa nay, cô nhắm mắt để ngủ mà không ngủ được. Hình ảnh chàng nghệ sĩ mù bị xe nhà binh đụng giữa đường, máu chảy đầm đìa, chưa ai biết sống chết ra sao. Hình ảnh ghê rợn mà cô chỉ thấy trong tưởng tượng, cứ hiện nơi góc đường Lê đại Hành, hát lên những lời sầu não nhịp với điệu đàn ai oán lâm ly. Cô rùng mình, mở mắt ra để khỏi thấy cảnh tượng bi thương ấy nữa. Cô ngồi dậy, uể oải, nhìn thực tế yên tĩnh chung quanh cô, như vừa thoát ra một ác mộng. Rồi cô lại nằm xuống.
Để tránh các ám ảnh cứ như đè nặng trên ý nghĩ, cô thử dùng tâm lý để phân tách cảm giác của cô trong lúc này. Thật ra thì tai nạn xe cộ hằng ngày đâu phải là chuyện hiếm, chuyện lạ? Quen với nhịp sống rộn ràng náo nhiệt giữa những đám đông muôn triệu người xen những đám xe nghìn vạn chiếc, người ở những đô thị to lớn như Sàigòn không còn thấy rung động dể dàng nữa trước những tai nạn xảy ra thường xuyên chung quanh mình. Chen chúc trong quãng đại quần chúng đang quay cuồng theo thời gian, hầu hết chỉ lo riêng cho cá nhân, bảo vệ đời sống riêng của mình, còn ai đoái thương đến những đau khổ tật nguyền của kẻ khác? Một chiếc xe cán chết một người, hay một con chó, ở một ngã tư thành phố, thiên hạ bu lại xem chẳng qua vì tính háo kỳ như xem một phim chóp bóng vậy thôi. Cũng có đôi kẻ bùi ngùi thương hại, nhưng rồi ai nấy cũng lo việc riêng của mình, còn mấy ai ra tay tế độ, cứu vớt giùm ai? Lính cảnh sát chở xác người bất hạnh chết oan đưa đến bịnh viện, thế là một tấn kịch hằng ngày bế mạc. Đám đông khán giả giải tán dần sau khi đã thỏa mãn được tính tò mò, mục kích được một cảnh linh động hồi hộp mà không tốn tiền. Họ cũng bàn tán xôn xao, như phê bình một lớp tuồng trên sân khấu, với ác ý hay là thông cảm. Rồi trên đường đời tranh đấu cho sinh nhai, từng đoàn xe cộ lại tiếp tục chiếc ngược chiếc xuôi, lớp sóng người ào ạt không ngừng theo nhịp sống quay cuồng như guồng máy… Một phút qua là trôi vào quá khứ. Còn mấy ai lắng tai nghe tiếng rên rỉ của đau thương?
Cô giáo Toàn nhớ lại những lời của ông Ngọc Minh: ‘‘Mỗi giờ, mỗi phút, mỗi người trong chúng ta đều đi sát bên cạnh đau khổ, nhưng chỉ có tình thương nhân loại, lòng bác ái, từ thiện là nghe thấy tiếng nói đau khổ mà thôi. Còn tất cả đều thờ ơ đi qua. Ý nghĩa của đời ta, và lý tưởng cao cả nhất của nó, là dừng bước lại nơi tình thương nhân loại, nơi lòng bác ái đi cứu giúp hết thảy mọi đau khổ trên đời, - không vì lợi riêng, không vì tin điều tôn giáo, không vì Phật hay vì Chúa. Cứu đau khổ, chỉ vì đau khổ mà thôi.’’
Cô giáo Phạm thị Toàn bỗng ngồi vùng dậy. Đôi mắt diễm huyền mơ mộng của cô đắm chìm trong trầm lặng suy tư. Trong tâm hồn cô như trổi dậy một tiếng nói:
‘‘Tại sao Toàn không đi cứu giúp người nghệ sĩ mù lòa? Chàng ở tỉnh nầy, đơn độc bơ vơ, không một ai an ủi trong cơn hoạn nạn. Nếu rủi chàng bị thương nặng, mình phải tận tâm săn sóc chàng, mình phải đem tình thương nhân loại hàn gắn những đau khổ, bi đát của một kẻ tật nguyền mà một chút ánh sáng của mặt trời cũng không có: mình đã chịu ơn ông Ngọc Minh nhiều lắm, mình chỉ có thể vui sướng được làm một việc gì hợp với lý tưởng cao cả mà mình đã thọ lãnh nơi ông... Phải chứ? Mình đâu được quyền thờ ơ trước thống khổ cùng cực của một người, dù là người ấy mình không hề quen biết, Giờ phút nầy trong bịnh viện của thành phố một người mà vừa bị lâm nguy vì tai nạn, không có quyền nằm nghỉ ngơi. Mình đang mơ một lý tưởng cao siêu, thì đây là cơ hội để mình hy sinh cho lý tưởng. Thương xót hão huyền bằng lời nói suông cũng không khác gì ích kỷ. Đó chỉ là giả dối. Không! Toàn phải đi làm bổn phận!
Toàn đứng dậy, không do dự nữa. Cô mặc áo dài đen, mang đôi guốc, lấy lược chải sơ tóc, rồi ra nhà ngoài tìm em Ngọc con bà dì, khẽ bảo nó:
- Ngọc ơi, em đi với chị không?
- Đi đâu, chị Hai?
- Ra đường chị sẽ cho em biết.
Ngó đồng hồ đeo tay đã 1 giờ 30. Trời nắng chang chang. Toàn không cần đội nón, vì từ nhà đến bịnh viện Thủ Khoa Quân đường không xa mấy, Toàn bảo với bà Tư Đen:
- Thưa dì Tư, con dẫn em Ngọc đi ra phố một tý.
- Con đi phố làm gì giờ này, để chiều mát con đi có được không?
- Thưa dì Tư, tụi con đi một lúc rồi về ngay. Chiều con còn ở nhà chấm bài.
- Ừ. con đi.
Ra ngoài đuờng bé Ngọc nghe Toàn nói đi nhà thương thăm chàng nghệ sĩ mù, xem chàng bị thương nặng nhẹ thế nào, Ngọc mừng lắm:
- Ồ, phải đấy chị hai à. Em sợ anh ấy chết rồi, chị à.
- Tụi mình không chứng kiến tai nạn, không thể biết được. Chỉ ngại giờ nầy đến nhà thương người ta không cho vô thăm.
- Nói sao, để được vô, hả chị Hai?
- Đến đấy sẽ liệu, em ạ. Nhưng phải nói là ‘‘người nhà’’, chứ không thì ai cho vào! Chắc chắn là họ để anh ta nằm phòng bố thí.
- Sao em thương anh nghệ sĩ ấy quá, chị Hai à. Anh ấy đã đui mà nếu bị què nữa thì tội nghiệp biết mấy, chị Hai!
- Chính vì lý do ấy mà chị muốn đến thăm người ta, để an ủi phần nào. Nếu cần phải cứu giúp về phương tiện gì, chị cũng không từ nan. Đó là tình thương nhân loại. Đó là bổn phận. Chị không muốn trốn tránh bổn phận.
- Trong sách Luân Lý em học, cũng có dạy ‘‘Thương kẻ tàn tật, thương người đói rách. Thương người như thể thương thân’’ đó.
Mười lăm phút sau, Toàn và Ngọc đã đến bịnh viện đường Thủ Khoa Huân, ngoài ngõ không ai canh gác. Hai chị em đi thẳng vào sân...
Gặp một chị làm công, Toàn mỉm cười chào, nhưng chị ta ngó chăm chăm gắt gỏng hỏi:
- Cô đi đâu?
- Tôi đi thăm anh mù bị tai nạn xe hơi lúc 10 giờ sáng.
- Giờ nầy cấm người ngoài vô đây.
- Lúc sáng tôi mắc dạy học...trưa về tới nhà mới hay.
- 4 giờ chiều mới được vô.
- Tôi là...người nhà anh ấy, xin chị làm ơn cho tụi tôi vô coi thử ảnh bị thương nặng hay nhẹ, rồi tụi tôi ra liền.
- Nặng, nhưng cô về đi, 4 giờ chiều mới được vô thăm tự do.
Cô Toàn hơi thất vọng, định hỏi rõ về bịnh tình của chàng, rồi về đợi 4 giờ vậy. Nhưng chị làm công trả lời cụt ngủn, hai tiếng:
- Không biết!
May quá, có một cô y tá đứng trong một phòng bịnh hỏi vói ra:
- Ai hỏi gì đó, chị Năm?
- Thưa cô, người ta xin vô thăm người nhà nhưng em biểu 4 giờ mới được vô.
Toàn thừa cơ hội đi thẳng đến cô nữ y tá và nhã nhặn hỏi:
- Xin lỗi cô, vì buổi sáng tôi mắc dạy học ở trường, trưa về nhà mới hay tin, nên vội vàng vào thăm xem anh mù bị xe nhà binh cán lúc 10 giờ sáng nay, bịnh tình có trầm trọng lắm không?
- Chị dạy trường nào?
- Thưa, trường Nữ Trung học.
- Ở trường Nữ, tôi có quen mấy chị. Chắc chị mới đổi tới phải không?
- Dạ.
- Xin lỗi chị, phương danh chị là chi?
- Toàn, Phạm thị Toàn.
- À... Tôi có được nghe tiếng chị. Chị dạy lớp đệ lục phải không? Em tôi cũng là học trò của chị đấy, nó mến chị lắm. Bây giờ chị muốn vô thăm ai?
- Dạ...anh mù bị xe cán...
- À, cái anh ‘‘nghệ sĩ mù’’ đó hả? Chị có bà con với ảnh?
- Dạ, không có bà con.
Cô nữ y tá thấy cô giáo Toàn hơi bối rối, cô vội nói tiếp:
-Ồ, xin lỗi chị...tôi tò mò quá...Xin mời chị đi với tôi... Anh ta nằm riêng ở phòng mổ.
- Bị mổ? Có sao không chị?
- Không phải mổ. Nhưng gãy mất một cái xương nơi ống chân. Bác sĩ phải cưa cái xương đó bỏ đi.
- Thế là nạn nhân phải què mất một chân?
- Bác sĩ sẽ gắn vào đó một ống xương giả rồi đắp lại... Không sao.
Vừa nói chuyện vừa đi, cô nữ y tá và hai chị em cô Toàn đến một phòng kế phòng mỗ. Một phòng riêng biệt... Cô y tá khẽ đẩy cửa, bước vào. Cô Toàn và em Ngọc theo sau.
‘‘CHÀNG NGHỆ SĨ MÙ’’ đang nằm trên giường bịnh một ống chân bị băng bó kín mít từ đầu gối xuống đến bàn chân. Không biết chàng ngủ hay thức, chỉ thấy nằm không cử động. Chiếc áo sơ mi trắng của chàng còn dính nhiều vết máu chưa khô. Gương mặt chàng đầy nét đau thương, nhưng đẹp và hiền lành. Chính những nét đau tê tái ấy càng làm tăng vẻ đẹp trai của người nghệ sĩ mù.
Chiếc đàn mandoline chàng dùng mọi ngày được đặt nằm bên cạnh chàng phía bên trái, và bị đứt cả dây, mất nhiều phiếm. Mặt đàn cũng không còn nguyên vẹn, bị móp, bị gãy nhiều nơi. Chiếc đàn nầy không còn dùng được nữa, có lẽ vì thương tiếc nó mà chàng âu yếm giữ nó ở bên cạnh.
Cô y tá đến gần chàng:
- Ông ơi, có người quen đến thăm đây.
Bịnh nhân gắng gượng hỏi, tiếng chàng như rên rỉ:
- Ai đấy?
Cô y tá quay lại nói khẽ với Toàn:
- Chị ở lại thăm bịnh nhân, tôi xin phép còn đi làm công việc.
Toàn nhã nhặn nắm tay cô:
- Cám ơn chị nhé. Tôi cũng chỉ hỏi thăm bịnh nhân một chút rồi về.
Cô y tá bước ra ngoài. Toàn khẽ bước đến cạnh, giường. Cô do dự chưa biết nên gọi bịnh nhân bằng gì. Gọi bằng ‘‘ông’’ như cô y tá vừa rồi, có vẻ trịnh trọng quá. Đoán chừng chàng chỉ lớn hơn cô vào khoảng 3, 4 tuổi thôi, cô định gọi bằng ‘‘anh’’ cho thích hợp hơn.
Đành rằng không quen biết, nhưng người trai trẻ cùng lứa với cô, dù cô xưng hô với đôi chút cảm tình thân thiện, như hồi cô còn đi học vẫn quên xưng hô như thế với các bạn nam sinh, cũng chẳng ngại gì. Vả lại đây là cô lấy tình thương nhân loại mà hỏi thăm một nạn nhân mù loà đang đau khổ trên giường bịnh, nên cô không thẹn thùng e lệ. Cô cất tiếng dịu dàng hỏi:
- Anh bị xe đụng có trầm trọng lắm không?
Người nghệ sĩ mù tra lời yếu ớt:
- Dạ, Bác sĩ nói bị gãy một cái xương trong ống chân.
- Anh có đau nhiều không?
- Dạ, có. Thầy y tá bảo bây giờ mới bị cũng chưa đau gì mấy. Tối nay nó sẽ sưng lên to và đau nhức ghê gớm. Nhưng Bác sĩ có tiêm thuốc cho êm dịu bớt.
- Người ta có cho anh biết sẽ chữa cách nào cho mau lành mạnh không?
- Dạ, nghe mấy thầy mấy cô làm việc ở đây nói là thế nào cũng phải mổ ống chân để lấy cái xương gãy đó ra, hoặc là bó cái xương đó lại bằng plâtre. Bác sĩ thì chưa nói thế nào cả.
- Anh ăn uống được không?
- Dạ...tôi đau nhức quá, chưa ăn uống gì được cả.
- Gia đình anh đã hay tin anh bị nạn chưa?
- Dạ...tôi...không có gia đình.
- Anh không có bà con thân thuộc gì ở đây sao?
- Dạ…không.
- Bạn hữu của anh có ai đến thăm anh không?
- Dạ...không, Tôi làm gì có bạn.
- Anh ở đâu?...Anh trọ nhà ai?
- Tôi không có nhà trọ... Tôi thường ngủ nhờ trong một ngôi chùa.
Cả hai người cùng im lặng. Cô giáo Phạm thị Toàn cảm động, thương xót, đứng nhìn chăm chăm nét mặt đau khổ của chàng nghệ sĩ tài hoa, đôi mắt chàng bị bịt kín lại không lọt vào được một tia sáng mặt trời. Chàng hỏi:
- Xin lỗi, cô...hay bà?
Toàn khẽ mỉm cười, e lệ:
- Cô.
Bệnh nhân lại im một lúc, rồi hỏi:
- Xin cô tha lỗi... Tôi được hân hạnh nói chuyện với cô từ nãy giờ, được hân hạnh cô hỏi thăm, mà tôi chưa rõ...cô là...
- Tôi là...một người đi đường.
- Sao cô biết tôi nằm ở đây?
- Sáng nay tôi đi chợ, thình lình trông thấy anh bị tai nạn khủng khiếp và thấy xe nhà binh chở anh vào bịnh viện, nên tôi tìm đến thăm.
- Cô có lòng bác ái đối với kẻ bị nạn, thật đáng kính phục. Xin thành thật cảm ơn cô.
- Nghe anh nói Bác sĩ có thể chữa được, tôi mừng cho anh. Tôi sẽ cầu nguyện Phật trời cho anh khỏi bị tàn tật nơi chưn nữa.
- Cô ơi...
- Tôi đây...
- Cô có lòng nhơn đức, thương xót kẻ tật nguyền, tôi cảm động lắm... Và xin tạ ơn cô, nhưng tôi cũng xin cô đừng cầu nguyện làm chi... Dù người ta sẽ chữa khỏi cho tôi, hay là tôi sẽ bị tàn tật một lần nữa, tôi cũng tin rằng số phận của tôi phải thế...
Giọng an ủi của Toàn rất nhỏ nhẹ, dịu hiền:
- Anh không nên bi quan... Anh rán chịu đựng đau khổ, nhưng anh cứ hy vọng... Nếu anh muốn tôi giúp đỡ anh một phần nào, tôi xin sẵn sàng giúp anh, theo phương tiện của tôi.
- Cô ở đâu?
- Tôi ở tỉnh nầy. Từ nhà tôi đến bịnh viện không xa mấy. Tôi xin hứa sẽ mỗi ngày đến thăm anh. Anh cần dùng những gì cứ cho tôi biết.
- Tôi là kẻ tàn tật, đời tôi coi như vứt đi, tôi còn cần dùng gì nữa, thưa cô?
- Anh có bà con thân thuộc nào ở xa, muốn nhắn gì tôi xin nhắn giùm anh... Anh cứ cho tôi biết địa chỉ của họ, tôi sẽ biên thư thế cho anh.
- Tôi không có ai là bà con thân thuộc, cô ạ, như tôi đã thành thật nói với cô lúc nãy.
- Anh bị đưa vô nhà thương đột ngột quá vậy, thì áo quần và đồ đạc anh cần dùng hằng ngày anh để đâu, tôi có thể đi lấy đem đến cho anh được không?
Chàng nghệ sĩ mù im một lúc, bỗng khóc lên một giọng đau đớn:
- Cô ơi...!
Toàn khẽ hỏi:
- Sao anh khóc...? Chắc những vết thương ở chưn làm anh đau nhức lắm phải không? Anh còn bị đau ở đâu nữa không?
- Thưa... không...
- Hai cánh tay của anh có sao không?
- Thưa... không...
- Anh nằm yên cho khỏe... anh đừng buồn đừng khóc... Anh coi tôi như một người bà con muốn giúp đỡ anh trong muôn một, anh đừng ngại chi. Nếu anh không có họ hàng thân quyến ở đây, thì tôi sẽ xin đến mỗi buổi chiều, độ nửa tiếng đồng hồ để săn sóc anh...
- Tôi cảm ơn cô nhiều lắm... Nhưng... Thưa cô... tôi làm phiền cô như thế, tôi rất ái ngại.
- Anh không làm phiền tôi đâu. Tôi tình nguyện giúp anh trong khi anh bị tai nạn. Tôi vui vẻ được làm chút bổn phận tầm thường thôi.
- Cô cho phép tôi gọi cô bằng ‘‘chị’’, để tỏ lòng khâm phục và tri ân của tôi.
Toàn cười rất tự nhiên:
- Xin lỗi anh, anh năm nay mấy tuổi?
- Thưa, 25.
- Tôi còn kém tuổi anh cơ mà! Tôi làm ‘‘em’’ phải hơn chứ, tôi chỉ yêu cầu anh một điều nầy thôi, là những món gì tôi sẽ đem đến anh dùng, mong anh đừng từ chối. Một điều nữa, là anh cần dùng món gì, hay việc gì, anh cũng cứ thật tình cho tôi biết, tôi sẽ tùy theo phương tiện của tôi xin sẵn sàng giúp anh, không câu nệ. Anh đồng ý nhé?
Bịnh nhân vẫn có nét mặt đau khổ, giọng nói rất thành thật, cảm động, như muốn nói nhiều mà ngậm ngùi. Chàng chỉ khẽ đáp:
- Dạ...
Toàn vui vẻ, thân thiện:
- Chắc không? Anh hứa đi!
- Dạ... Tôi xin hứa...
- Thế là anh đã đồng ý rồi đấy. Bây giờ anh cần dùng những gì, chiều mai tôi đem vào.
Chàng nghệ sĩ mù suy nghĩ một lúc:
- Tôi đợi sáng mai Bác sĩ thăm bịnh sẽ quyết định như thế nào, rồi chiều mai tôi xin trả lời cô rõ.
- Dạ. 4 giờ chiều mai tôi sẽ đến thăm anh. Bây giờ chúc anh nằm nghỉ yên...
Bịnh nhân muốn cố gắng ngồi dậy, nhưng Toàn bảo:
- Anh đừng ngồi dậy để khỏi động đến những vết thương ở chân... Chào anh nhé.
- Dạ, chào cô... Xin cảm ơn cô...nhiều lắm...
Ở bịnh viện về, Toàn nói thật ý định của mình cho Dì và Dượng nghe. Ông Tư hớt tóc khen ngợi và rất tán thành:
- Cháu cứu giúp kẻ hoạn nạn là việc nên làm chớ có sao! Ở đời mình phải thương người trong lúc gặp tai họa, đó là việc phước đức. Dượng nghe cháu nói. Dượng chịu lắm.
Nhưng vợ ông, bà Tư Đen, tỏ ý không bằng lòng:
- Cháu là con gái, người ta là con trai. Cháu vô thăm một lần thì không sao, chớ mỗi bữa mỗi tới, lo săn sóc đỡ đần, lại đem đồ đạc vô cho, sợ rồi thiên hạ dị nghị đấy cháu.
- Thưa Dì, tại người ta mù lòa, mà bị tai nạn nguy hiểm thì cháu mới giúp đỡ chứ. Cháu có tình ý gì đâu mà sợ dị nghị?
- Cháu không có ý gì, nhưng ở thành phố nhỏ như ở Mỹ tho này, người ta ưa nhiều chuyện lắm. Người ta đâu có biết là cháu có lòng nhân đạo, giúp người tàn tật, thương kẻ nghèo hèn? Người ta cứ phê bình cho là cháu có tình ý gì với cái cậu đui mắt đó, nên mới lo cho cậu như vậy. Không lẽ cháu là cô giáo mà cháu lại hạ mình xuống đi săn sóc một kẻ ăn mày ăn xin ngồi đầu đường xó chợ hay sao? Cháu nghĩ kỹ lại coi dì nói như vậy mà có đúng hay không?
- Thưa Dì, anh ta đâu phải là người ăn mày ăn xin! Cháu không dám khinh khi một chàng thanh niên tuy rủi ro chịu cảnh mù loà nhưng đời sống vẫn lương thiện. Lấy tiếng đờn giọng ca làm kế sinh nhai, là một nghề tốt đẹp, chứ có gì hèn hạ! Cháu cũng lựa người nào thật là đau khổ, xứng đáng để cháu giúp đỡ, chứ đâu phải cháu bạ đâu giúp đó?
- Dì nói vậy, nhưng việc đó tùy ý cháu, Dì chỉ sợ dư luận thành phố ở Mỹ tho người ta bàn tán xôn xao, Chớ nếu cháu cho là việc phải thì cháu cứ làm. Dì đâu có cản được.
Ông Tư hớt tóc nói:
- Việc gì mà bàn tán xôn xao hở? Thời buổi bây giờ người ta hoan nghênh những công tác xã hội, chỉ sợ không làm được chớ làm được là việc quý, đáng khen, không ai phê bình bậy bạ đâu. Như các bà Xơ đi săn sóc những người cùi đó, thì sao? Cháu có ý nghĩ nhơn đạo, cháu cứ hành động theo lòng thích muốn của cháu, Ai có nói gì, dượng sẽ bào chữa cho.
- Cháu có làm gì sai lầm mà cháu sợ dư luận chứ! Nhưng thưa Dì, Dượng, đồng lòng cho phép cháu giúp đỡ người ta, thì cháu mới giúp.
- Dượng bằng lòng đó.
- Dì cũng bằng lòng, chớ Dì không ngăn cấm việc làm phải của cháu. Dì chỉ lo là lo vì những kẻ không hiểu phê bình bậy bạ làm mất danh giá của cháu đó thôi, vì cháu còn con gái, mà làm cô Giáo sư trường Trung học nên Dì cũng nghĩ xa xa một chút. Dì sợ các bà Giáo cô Giáo và học trò bàn tán.
- Cháu xin Dì cứ an tâm. Cháu sẽ không làm mất danh giá của cháu đâu. Trái lại, cháu thấy cháu làm được việc từ thiện nào, cháu giúp đỡ được ai chút ít dù là một an ủi nhỏ mọn, cháu cũng thỏa mãn. Cháu thưa thật với Dì Dượng là trước kia cháu không có ý nghĩ gì về sự giúp đỡ kẻ đau khổ. Vì chính cháu cũng đau khổ mà cháu còn giúp được ai? Nhưng từ ngày cháu nhờ ơn ông Giáo sư Ngọc Minh cho cháu tiếp tục việc học hành và thành đạt theo ý nguyện như ngày nay, cháu được tiêm nhiễm những tư tưởng nhân đạo bác ái của ông, cháu thấy rằng nếu ở trên cảnh đời đầy rẫy những bất công, mà người nầy giúp đỡ người kia, người kia giúp đỡ người nọ, để nhẹ bớt được phần nào, thì đời sống có vẻ thích thú và có ý nghĩa thanh cao đẹp đẻ biết bao! Còn nếu chỉ lo ích kỹ riêng phần mình, ai đau khổ mặc ai, ai tàn tật đói rách mặc ai, ai hẩm hiu trơ trọi mặc ai, miễn phận mình được ấm ro, thì đời sống còn thú vị gì nữa! Sống như thế lạt lẽo lắm và buồn lắm! Cháu đem lại chút ít an ủi bằng lời nói, bằng việc làm, cho anh thanh niên tàn tật đau khổ kia, cháu thấy lòng cháu vui vẻ lạ!
- Cháu định giúp đỡ cậu nghệ sĩ mù bị tai nạn đó bằng cách nào?
- Còn tùy theo phương tiện của cháu.
- Dì thấy cậu ta cũng tội nghiệp...

- Hoàn cảnh anh ấy đáng giúp đỡ lắm. Nhưng cháu thương mến anh ấy vì anh ấy không ăn mày tình thương của ai hết. Cháu thành thật mến anh từ lúc cháu hỏi chuyện anh trong bịnh viện và biết được đôi chút về tư cách của anh.
- Tư cách thế nào?
- Một thanh niên khả ái, mặc dầu bị cảnh ngộ bi đát nhưng vẫn hãnh diện, thanh cao, không chịu hèn hạ. Anh rất điềm tĩnh, lễ phép, tỏ ra một người có giáo dục, đáng kính mến.
- Tên cậu ấy là gì?
- Cháu không hỏi.
- Nó biết tên cháu là gì không? Nó có hỏi cháu ở đâu, làm nghề gì không?
- Dạ, không,
Em bé Ngọc xen vào, nói với mẹ:
- Má ơi, anh ấy khóc, má à.
Toàn tiếp lời:
- Anh ấy khóc, vì cảm động nghe cháu tỏ ý muốn săn sóc anh và an ủi anh.
Bà Tư Đen hơi bùi ngùi. Bà lấy trầu ăn, làm thinh, có vẻ chính bà cũng thương xót, đàn bà, dù sao, cũng rất dễ cảm động.
Chiều hôm sau, Toàn vào nhà thương thăm bịnh nhân, đem vào cho chàng một bộ áo quần bà ba mới được giặt ủi trắng bốc của ông Tư gởi cho, (Bà Tư không phản đối) và một đôi dép da, do Toàn lấy tiền của mình ra mua. Đôi dép của chàng đã bị rơi đâu mất lúc xe nhà binh chở chàng vào bịnh viện, chàng đi chưn không.
Nghe tiếng cô chào và hỏi thăm, chàng muốn gắng gượng ngồi dậy, Nhưng Toàn không cho:
- Anh ngồi dậy sao được! Chân của anh bị băng bó, cần phải nằm yên tĩnh, anh cử động sẽ đau nhức lắm đấy.
Chàng nằm yên. Toàn dịu dàng bảo:
- Sáng mai, trước khi bác sĩ đến đây thăm bịnh, anh nhớ thay bộ quần áo này nhé.
- Dạ, xin cám ơn cô.
Giọng nói của chàng rất yếu. Không phải giọng ấm áp và trong trẻo lúc chàng hát những bài ‘‘Giọt mưa thu.’’ ‘‘Con thuyền không bến...’’. Tiếng chàng bây giờ chỉ bé nhỏ như một hơi thở trầm lặng, như bị nghẹn ngào trong cổ gần muốn tắt luôn như đôi mắt của chàng đã tắt. Chắc chàng đã khóc nhiều lắm từ lúc bị tai nạn bất ngờ.
Đúng theo thì giờ như cô đã sắp đặt, chiều nào cô giáo Phạm thị Toàn cũng đến thăm bịnh nhân, và đem vào cho chàng một ít món cần thiết, hoặc một vài trái cây. Cô hỏi thăm cặn kẽ, chăm chú theo dõi bịnh tình và tự tay săn sóc cho chàng rất chu đáo như một cô y tá dịu hiền tận tụy đối với một thương binh.
Không cho bịnh nhân biết, cô còn gởi nơi chị làm công coi sóc khu bệnh thất này, một số tiền hai trăm đồng để nhờ chị săn sóc hằng ngày, cho từ những bữa ăn, những chai nước uống, cho đến các công việc cần thiết cho một người mù lại bị què một chân đi không được, và không làm gì được cả,
Muốn tránh khỏi người ngoài bàn tán nọ kia, Toàn có khẽ dặn bịnh nhân!
- Nếu có người nào hỏi tôi là ai, thì anh cứ bảo là một người em họ, con ông chú, anh nhé.
- Dạ... Xin lỗi cô, cô...thứ mấy?
- Thứ Hai.
- Cô có thể cho tôi được biết phương danh không?
- Anh cứ gọi là cô Hai, tiện hơn.
- 3 -
Mặc dầu có những rào đón đề phòng để khỏi bị nghi ngờ, một vài dư luận trong các giới thân cận của Toàn, nhất là ở ngay hai trường Nam Nữ Trung học, vẫn đưa ra đôi lời phê bình hoặc vu khống bịa đặt mỉa mai cô giáo sư Phạm thị Toàn. Có lẽ vì ghen ghét Toàn được đa số nữ sinh kính mến, vì Toàn có những cử chỉ cao thượng không thích hợp với vài bạn đồng nghiệp, vì Toàn có sắc đẹp lộng lẫy, thùy mị nhưng nghiêm trang, vì có vài người đã dò hỏi ở Sàigòn biết rõ Toàn là con một gia đình lao động nghèo khó ở xóm nhà lá rách rưới nơi ngoại ô, hoặc vì lý do nào khác nữa, một thiểu số độ vài ba cô giáo, thầy giáo, đồn đãi nhiều chuyện không tốt cho Toàn. Thí dụ họ loan tin rằng cô Toàn ‘‘mê cái thằng ca sĩ đui’’, và ‘‘cung phụng cho nó đủ các thứ’’. Luôn luôn họ phê bình có ác ý: ‘‘Thiếu gì thanh niên mà đi yêu một thằng mù tại nó có giọng hát mê hồn chứ gì!’’. Một nữ sinh Đệ thất một hôm trong giờ chơi, lại hỏi cô:
- Thưa cô người ta đồn cô có mèo với cái anh nghệ sĩ mù ở góc đường Lê đại Hành đó, phải không, cô? Em không tin như vậy đâu, cô à.
Toàn mỉm cười:
- Ai bảo với em thế?
- Chị của em bảo em thế thật đấy.
- Chị em là ai?
- Chị Hồng em làm Nữ Phụ tá Xã hội đó.
Toàn thản nhiên bảo em nữ sinh:
- Chị em lầm đấy.
Trưa về nhà, Toàn thuật lại câu chuyện cho Bà Tư nghe. Bà Tư tức giận bảo:
- Mấy người đó sao ưa đặt chuyện nói xấu người ta vậy? Tưởng ai chớ cô Hồng, cả tĩnh Mỹ tho nầy, ai còn lạ gì cổ! Cổ lấy hàng tá chồng, toàn những Trung úy, Thiếu úy, chớ tốt lành gì đó mà bươi móc chuyện người khác? Sao mà dì ghét hạng người đó quá!
- Cháu nói chuyên lại để đì nghe chơi cho vui vậy thôi. Chứ cháu đâu có sợ những dư luận vu vơ. Cháu làm việc phải, cháu biết. Một trăm một ngàn cái dư luận tàn ác hơn thế nữa cũng không làm cháu nao núng được đâu!
- Tâm địa người ta phần nhiều như thế đó, cháu ạ. Mình làm trái, người ta cũng chê, mình làm phải người ta cũng ghét. Cháu biết cô Hồng là ai không? Con một, quý phái ở tỉnh nầy đây. Má cổ buôn hột xoàn và chuyên môn cầm đồ để cắt cổ mổ họng người nghèo. Ba của cổ làm công chức bự hồi còn thời Tây lận. Gia đình giàu sang như vậy, họ khinh kẻ nghèo cũng không có gì lạ! Họ phách lối lắm, cháu ơi. Họ đặt đìều nói xấu cháu là
tại họ ganh ghét cháu và khinh khi người nghệ sĩ mù. Họ đâu có lòng nhân đạo. Họ có thành kiến giai cấp nặng lắm... Dầu cháu làm tới Giáo sư Trung học, mà họ biết gia đình cha mẹ cháu là dân lao động, con nhà nghèo nàn, thì họ vẫn coi cháu rẻ rúng, không ra chi...
Suốt ba tháng, không một buổi chiều nào cô Toàn không vào thăm người bịnh của cô. Cô săn sóc chàng với tất cả lòng tận tụy, hiền từ, có những cử chỉ hồn nhiên rất dịu dàng, khiêm nhượng.
Sự hiện diện thường xuyên của cô chỉ trong thời gian vài ba chục phút mỗi ngày ở bên cạnh chàng, đối với chàng là một linh được có hiệu nghiệm và quý báu hơn tất cả những vị thuốc hay của Bác sĩ.
Cứ vào khoảng 5 giờ chiều, chàng nằm trên giường bịnh, nghe tiếng guốc của cô nhẹ nhàng từ ngoài cửa bước vào, rồi tiếng êm dịu hỏi chàng: ‘‘Hôm nay anh đã bớt nhiều chưa’’, chàng có cảm giác như một vì Ngọc nữ trong thần thoại hiện ra hỏi thăm chàng. Chàng cứ nghĩ rằng chàng đang sống một giấc mơ tiên. Đã sẵn có tâm hồn nghệ sĩ, lại bị mù lòa, chỉ nghe tiếng nói của thiếu nữ thanh thanh như tiếng nhạc mơ hồ, chàng tưởng tượng đấy là một giai nhân diễm kiều trong mộng chứ không phải là một người thật ở ngoài đời.
Chàng có thấy gì đâu? Chàng có biết gì đâu? Chàng đang rên rỉ giữa đêm thẳm vô biên, với những vết thương không thể nào hàn gắn được, trong giờ phút gần như hấp hối, bỗng nhiên chàng nghe tiếng gọi huyền diệu của Hư Vô. Chàng tưởng như đã nhìn thấy ánh sáng... Một tia sáng diễm lệ đã chiếu rực rỡ vào vực thẳm mù mịt của đời chàng.
Nàng là ai? Cũng không phải một hình ảnh nữa, vì chàng có trông thấy gì đâu. Nhưng chàng cảm giác như một hiện diện thiêng liêng, đem đến cho chàng một nguồn hy vọng an ủi vô cùng linh nghiệm. Chàng thấy bịnhh tình đã thuyên giảm được nhiều, vết thương mỗi ngày mỗi êm dịu.
Bác sĩ đã phải nói với cô Toàn, một buổi chiều gặp cô trong bịnh viện ra về:
- Nhờ cô mà bịnh nhân đã mau khỏe mạnh. Anh ta sống được, là cái ơn của cô.
Cô Giáo sư trẻ tuổi nhã nhặn đáp:
- Tôi có làm gì được đâu. Người bịnh khốn khổ ấy không thể nào bình phục được nếu không có sự săn sóc thuốc men rất tận tụy của Bác sĩ, và tài nghệ tinh vi của Bác sĩ. Bác sĩ đã cứu anh ta khỏi chết và khỏi bị tàn phế.
- Tôi chỉ dự vào chút ít thôi, cô giáo ạ. Tôi biết theo kinh nghiệm của tôi trong bao nhiêu năm hành nghề, Y học cố gắng có thể sửa chữa lại một phần nào những tan nát đổ gãy trong sức khỏe của con người, nhưng chỉ có yếu tố tâm lý mới cứu vãng được nguy biến lớn lao. Biết bao nhiêu những chứng bịnh mà Y học có thể cứu chữa được một nửa thôi, chính vì Y học không có tài gì cứu chữa tâm lý bị suy nhược của bệnh nhân. Người ta có nói cho tôi nghe về tình trạng của anh ‘‘Nghệ sĩ mù’’ nầy. Kể ra, anh ta cũng đáng thương và đáng mến. Biết đâu, anh ta có thể trở nên một nghệ sĩ tài hoa của đất nước nếu gặp cơ hội thuận tiện cho tài năng nẩy nở. Vì cô là giáo sư, cô cũng biết rằng tất cả những thiên tài đều do hoàn cảnh đào tạo một phần lớn. Biết bao nhiêu những người mù đã trở thành vĩ nhân của thế giới trong các lĩnh vực âm nhạc, Văn chương, Học thuật, Xã hội, vì nhờ hoàn cảnh khuyến khích thiên tài của họ. Hoàn cảnh của anh nghệ sĩ mù đang nằm trong bịnh viện, cách đây ba tháng có thể làm cho anh tuyệt vọng, oán đời ghét đời, rồi tinh thần khủng hoảng, suy nhược dần dần. Dù thuốc men có tài giỏi chăng nữa cũng chỉ hàn gắn tạm cái vết thương nguy hiểm của anh mà thôi. Đến khi anh ra khỏi bịnh viện, anh sẽ chỉ còn là một kẻ tàn phế vô ích, oán hận xã hội và cũng bị xã hội ruồng bỏ, khinh khi. Nhưng anh được may mắn có cô săn sóc, an ủi. Sự hiện diện thùy mị dịu dàng của cô mỗi ngày đã cứu vớt anh ta hơn tất cả những món thuốc của Y khoa. Tôi chỉ là Bác sĩ của một cái chân bị gãy, cô là Bác sĩ của cã một cuộc đời bị nguy nan trầm trọng. Cô đã cứu được tinh thần của anh. Cô đã cứu được lẽ sống của anh...
- Tôi chỉ thấy tôi vui sướng trong khi làm một bổn phận nho nhỏ.
- Còn hơn một bổn phận nữa chớ! Cả một hy sinh lớn lao, cô ạ. Nếu tất cả mọi người đều vui vẻ hy sinh như cô, hay là hy sinh một chút, một chút thôi, để cứu vớt những kẻ đau khổ, thì cuộc đời sẽ tốt đẹp hơn nhiều. Nhưng loài người tàn nhẫn lắm, xã hội ích kỷ lắm, đến cả đạo đức của con người cũng có phần giả dối, cho nên đời sống của nhân loại còn đầy dẫy những cảnh lầm than khổ hận!...
Đứng nói chuyện một lúc rồi Bác sĩ mời cô Giáo sư Phạm thị Toàn lên xe hơi của ông để ông đưa cô về. Cô Giáo nhã nhặn cảm ơn mỹ ý của ông, nhưng cô viện lẽ đường gần, và khí trời mát mẻ, cô thích đi bộ để hóng gió chiều.
Hầu hết bịnh nhân và y tá trong nhà thương Thủ Khoa Huân đều thích được vinh dự làm quen với cô Giáo sư Phạm thị Toàn và rất mến phục hành vi của cô.
Chàng nghệ sĩ mù đã gần bình phục hẳn. Ống chân của chàng khỏi bị tàn phế, chàng đã đi được gần vững và sắp sửa được ra khỏi bịnh viện.
Một buổi chiều chủ nhật, cô Toàn vừa đến, mỉm cười trong thấy chàng ngồi trên chiếc ghế đá ngoài sân bịnh viện. Cô đến gần hỏi thăm như thường lệ, xem vết thương đã khá nhiều. Cô đưa biếu chàng mấy trái cam. Người mù vui lòng nhận lãnh, cám ơn cô, và bảo:
- Thưa cô hai, Bác sĩ bảo độ nửa tháng nữa thì chân tôi lành hẳn, nhưng Bác sĩ cho phép tôi ở lại thêm một thời gian nếu tôi muốn. Tôi chưa biết tính sao... Tôi cứ phó thác cho bàn tay định mệnh..
- Ra khỏi nhà thương, anh sẽ ở đâu, và sẽ làm gì?
- Tôi trở lại nhà chùa, xin ở trọ như trước. Và tôi mong được tiếp tục đờn và ca, để làm kế sinh nhai.
- Tôi muốn đưa ý kiến như sau đây, tùy anh suy nghĩ nhé. Anh biết mỗi tháng tôi về Sàigòn hai lần. Chuyến vừa rồi, tôi đi thăm một người bạn gái ở Chợ lớn, ngẫu nhiên đi ngang qua một đường phố trông thấy một trường học khá lớn, ngoài cổng có tấm bảng đề là ‘‘Trường tiểu học người mù’’. Tôi có vào xem, thì mới biết là ở đấy có mấy lớp dạy người mù, toàn là nam học sinh, từ 10 đến 17, 18 tuổi. Thầy giáo có hai ba ông đều là người mù. Hiệu trưởng, một viên Đại úy, cũng là người mù. Trước kia ông là Đại úy trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt được bổ nhậm làm Giám đốc trường mù. Tôi ở Sàigòn đã lâu, nhưng lần đầu tiên tôi mới được trông thấy một trường học riêng biệt dành cho các thanh thiếu niên mù lòa, học Việt ngữ, Địa lý, sử ký, và nhất là âm nhạc. Theo lời viên thư ký nói chuyện với tôi thì số học trò mù mỗi ngày vào thêm mỗi đông mà nhà trường thì thiếu Giáo sư. Ở đấy hiện nay chỉ có hai Giáo sư mà thôi, dạy học bằng phương pháp Braille... của người mù dạy cho học sinh mù. Được biết đại khái như thế, tôi bỗng nẫy ra một ý nghĩ là anh nên đến đấy xin làm Giáo sư Âm nhạc... Hay là, nếu anh bằng lòng, tôi sẽ hỏi kỷ càng các điều kiện xin làm Giáo sư ở đấy, và nếu được, tôi sẽ tìm cách giới thiệu anh?...
Chàng nghệ sĩ mù suy nghĩ một lát rồi hỏi:
- Tôi làm sao có điều kiện xin dạy ở đó được?
- Tôi cũng chưa biết rõ những chi tiết nhưng tôi thấy hai Giáo sư ở đấy đều là người mù mà họ vẫn dạy học được cho gần 30 học sinh mù, thì có lẽ anh cũng dạy được vậy chứ. Anh chưa quen với phương pháp Braille để dạy chữ, nhưng anh là nhạc sĩ, anh có thể dạy âm nhạc.
- Dạ, hôm nào cô có dịp đi Sàigòn, nhờ cô hỏi thử xem... Nhưng tôi sợ tôi không có đủ khả năng để dạy ở trường mù. Vả lại tôi chưa nghe nói đến trường mù bao giờ. Bây giờ có nói, tôi mới biết...
- Tôi xin hứa với anh rằng tôi sẽ cố gắng vận động để anh được vào dạy ở trường ấy.
- Dạ, nhờ ơn cô...
Cô Toàn mở bóp lấy con dao, cắt một quả cam, trao bịnh nhân:
- Anh dùng tạm mấy múi cam.
- Dạ. Cám ơn cô Hai.
Chàng nghệ sĩ mù ăn cam xong, lấy khăn tay trong túi ra lau tay. Đây là một chiếc khăn của Toàn may cho. Cả áo quần sạch sẽ, trắng trẻo của chàng mặc đều là của Toàn sắm. Cho đến đôi dép chàng mang và cặp kính đen chàng đeo thường xuyên cũng là do Toàn mua cho. Tuy bị mù lòa, chàng vẫn có vẻ một trang thanh niên tuấn tú, nét thông minh vẫn lộ ra trên gương mặt hiền từ. Toàn hỏi:
- Hôm nay anh đã bước đi thật vững chưa?
- Thưa cô Hai, hôm nay tôi thấy chân tôi đã gần lành mạnh lại như trước... Tôi muốn đi để cô Hai xem...
Chàng nghệ sĩ mù vịn tay nơi thành ghế xi măng, đứng dậy... Chàng bước đi... Chỉ cái tội không trông thấy đường, nên chàng cứ phải đưa tay ra rờ phía trước, và hai chân phải dò dẫm lối đi, nhưng chàng bước đã chắc chắn, vững vàng, chân không bị thọt, không khập khễnh... Cô Toàn bước chậm rãi theo bên cạnh, để dìu dắt chàng. Thỉnh thoảng cô khẽ bảo:
- Anh coi chừng, có cái rễ cây lớn nơi bên lề đường...
Anh tránh qua tay phải... anh dừng bước mau... Coi chừng có bồn bông phía trước... Rẽ qua tay trái...
Đi một vòng quanh cả sân rộng, vừa nói chuyện về trường Mù Chợ lớn, rồi trở lại chiếc ghế xi măng dưới gốc cây, Toàn bảo:
- Thôi anh ngồi dưới gốc cây nghỉ.
Chàng thanh niên mù nở một nụ cười hãnh diện, sung sướng, đôi mắt đeo kính đen quay về phía Toàn:
- Hôm nay tôi biết có cô Hai vào thăm, nên tôi ra ngồi đây đón cô Hai, và tôi cố gắng đi được nhiều, để cô Hai xem.
- Anh đi thế có mỏi chân không?
- Thưa không, cô Hai. Tôi thấy khỏe lắm. Tôi không còn đau nhức nơi ống chân nữa. Tôi bước vững rồi, như cô Hai vừa thấy đó...
Chàng lấy tay rờ ghế xi măng và ngồi xuống:
- Xin lỗi, cô Hai...
Chàng ngồi im một lát, khẽ bảo:
- Mời cô Hai ngồi.
- Dạ.
Toàn chợt trông thấy Bác sĩ (Giám đốc bịnh viện, cùng Bác sĩ Võ thanh Bình bạn thân của ông, từ trong đi ra. Bác sĩ Bình ở Sàigòn và có phòng mạch tại Sàigòn, cô giáo Toàn mới quen biết ông được một tháng, do Bác sĩ Giám đốc bịnh viện giới thiệu một buổi chiều thứ bảy mà ngẫu nhiên hai người gặp cô từ trong bịnh viện ra về. Cuộc sơ ngộ đã gây cho bác sĩ Bình một rung cảm đột ngột. Một tiếng sét ái tình! Toàn không để ý đến. Nhưng rất ngạc nhiên khi đã đoán hiểu. Vị Bác sĩ trẻ tuổi vừa mới quen đã tỏ ra với Toàn những tình ý tha thiết bồng bột lạ. Từ hôm ấy, chiều thứ bảy nào Bác sĩ Bình cũng lái xe hơi Huê Kỳ từ Sàigòn xuống Mỹ tho để gặp cho được cô giáo Toàn. Đã có lần Bác sĩ Bình mời cô đi dùng cơm Tây tại nhà hàng sang trọng nhất ở Mỹ tho, có cả hai vợ chồng Bác sĩ Giám đốc bịnh viện. Toàn đã từ chối. Nhưng chính ông Giám đốc bịnh viện cũng khẩn khoản mời cô, để có dịp ông giới thiệu cô với phu nhân để hai người làm quen với nhau, cô giáo Toàn cảm kích hão ý của Bác sĩ Giám đốc, xin nhận lời và cảm ơn thịnh tình của hai vị Bác sĩ. Cơm xong, vào lúc 10 giờ đêm, Bác sĩ Bình lái xe đưa cô Giáo về nhà.
Toàn không trang điểm nhiều, nhưng tuyệt đẹp. Nói chuyện với Bác sĩ Bình, cô luôn nhã nhặn, vui vẻ, và rất đứng đắn. Toàn đã thấy rõ cảm tình nồng nhiệt của Bác sĩ Bình đối với cô, cảm tình thố lộ trong mỗi lời nói đầy tình tứ, trong mỗi tia mắt rạo rực si mê. Nhưng Toàn vẫn thản nhiên. Cô cười nói rất duyên dáng nhưng đoan trang, lịch thiệp mà nghiêm chỉnh, không kiêu kỳ, cũng không dễ dãi.
Chiều hôm chúa nhật ấy, Toàn đang đứng trước mặt chàng thanh niên mù ngồi trên ghế xi măng trong sân bịnh viện, cô trông thấy Bác sĩ Giám đốc bịnh viện với Bác sĩ Bình từ trong đi ra. Hai người vừa đi vừa nói chuyện thân mật, tiến đến cô. Hai người nghiêng đầu chào. Toàn mỉm cười và cúi đầu đáp lễ. Bác sĩ Bình nhanh nhẩu hỏi:
- Thế nào, chàng nghệ sĩ tài hoa của cô hôm nay đã lành bịnh hẳn chưa?
Bác sĩ Bình điểm một nụ cười mỉa mai, lộ chút ghen tương bóng gió. Toàn nhã nhặn trả lời:
- Dạ việc đó chắc là Bác sĩ Giám Đốc bịnh viện đây biết rõ hơn tôi.
Ông Giám đốc muốn xoa dịu giây phút gay cấn vụng về do bạn mình gây ra:
- Bịnh nhân hôm nay đã đi mạnh dạn. Trong 10 hôm nữa có thể khỏi hẳn được.
Toàn tiếp tục nói chuyện với Giám đốc bịnh viện về vấn đề bịnh nhân, trong lúc Bác sĩ Bình im lặng ngó chàng thanh niên mù vừa đứng dậy lễ phép chào ông Giám đốc. Bác sĩ Bình quay ngó cô giáo, với một nụ cười:
- Chiều hôm qua, thứ bảy, hình như cô bỏ quên người bệnh của cô?
Toàn ngạc nhiên hỏi lại:
- Dạ, chiều hôm qua tôi bận việc nhà, không đến. Nhưng thưa Bác sĩ, sao Bác sĩ biết?
- Chiều hôm qua tôi ở Sàigòn xuống đây, nhưng rất tiếc không được may mắn gặp cô.
Toàn mỉm cười, hỏm hỉnh đáp lại:
- Chính chiều thứ bảy Bác sĩ đã bỏ quên những bệnh nhân của Bác sĩ ở Sàigòn, để đi Mỹ tho!
Ông Giám đốc bịnh viện cắt ngang câu chuyện đối đáp bằng trí khôn giữa bạn ông và cô Giáo sư trẻ đẹp:
- Mời cô sang nhà tôi uống trà. Cô biết, từ hôm quen cô, vợ tôi cứ khen cô mãi và mến cô lắm. Hôm nay nhân tiện ông bạn tôi đây và tôi sang thăm một người bà con bịnh nặng, vợ tôi có dặn nếu gặp cô thì mời cô sang chơi. Bây giờ chắc cô rảnh?
- Dạ, tôi định vào thăm bịnh nhân một lát rồi về. Nhưng tôi có thể sang chào bà Bác sĩ, vì từ hôm được hân hạnh quen bà nhà, tôi bận việc quá chưa đến hầu thăm bà được... Xin phép Bác sĩ, để tôi đưa ông bạn của tôi vào phòng đã
Bác sĩ Bình bảo:
- Tôi tưởng cậu ấy có thể đi một mình được...
Toàn điềm nhiên trả lời:
- Nhưng thưa Bác sĩ, đây là một người mù. Và hơn nữa, một bịnh nhân ạ.
‘‘Chàng nghệ sĩ mù’’ cúi đầu chào ông Giám đốc bịnh viện, rồi đi theo ‘‘cô Hai’’. Cô khẽ đỡ cánh tay chàng, dìu dắt chàng bước đi chậm rai... Cô nhận thấy nét mặt chàng đang vui bỗng nhiên sầm lại, như buồn buồn đau khổ...
Toàn ái ngại, nhưng không thể từ chối hảo tâm của Bác sĩ Võ thanh Bình. Nhân vì Toàn nói bà vợ ông Giám đốc bịnh viện rằng còn mấy hôm nữa là nghỉ lễ Noël cô sẽ về Sài gòn thăm gia đình, Bác sĩ Bình chụp ngay cơ hội:
- Cô cho phép tôi sẽ đem xe đến rước cô về Sàigòn?
- Ồ! Bác sĩ có lòng tốt tôi xin thành thật cảm ơn, nhưng tôi đâu dám làm phiền Bác sĩ như thế!,
- Có gì là phiền đâu, cô giáo sư! Trái lại...tôi rất...
- Nhưng Bác sĩ ở Sàigòn...
- Chính trước Noël một ngày tôi sẽ xuống Mỹ tho thăm hai ông bà bạn tôi đây, rồi Noël tôi trở về Sàigòn. Nhân tiện, tôi xin rước cô về Sàigòn luôn.
Vợ ông Giám đốc bịnh viện tiếp lời:
- Phải đấy, 23 Décembre anh Bình sẽ đem xuống một vài món quà mà chúng tôi nhờ anh ấy mua giùm, rồi sáng 24 anh trở về Sàigòn, sẵn xe anh ấy có thể đưa cô giáo sư về Sàigòn.
Chồng bà cũng tán thành ý kiến ấy. Chối từ thì có vẻ khiếm nhã, cô Toàn cảm ơn hảo ý của Bác sĩ Bình và sáng ngày 24 cô lên xe đi với ông. Sự thật, Toàn biết Bác sĩ Bình yêu cô, mê cô, và tìm mọi cơ hội để tỏ tình yêu ấy. Hơn nữa, trong vài câu chuyện thân mật giữa cô và bà vợ ông Giám đốc bịnh viện, cô đoán chừng như có cuộc vận động ngấm ngầm của Bác sĩ Bình nhờ vợ chồng người bạn đứng trung gian làm mai mối cô cho ông. Toàn vẫn tỏ thái độ vô tình, để xem như thế nào, và nhất là để tìm hiểu tư cách của Bác sĩ Võ thanh Bình. Nhân dịp ngồi cạnh ông trong chiếc xe huê kỳ từ Mỹ tho về Sàigòn, trao đổi câu chuyện tâm tình, Toàn đã hiểu được Bác sĩ Bình, là người như thế nào rồi. Cô nhận thấy chưa gì mà Bác sĩ Bình đã tỏ ra một tính ghen tuông quá tầm thường, ông mỉa mai cô sao lại săn sóc một kẻ bịnh nhân mù lòa mà ông bảo là ‘‘hạ cấp’’.
Ông vẫn khen cô có lòng nhân đạo, nhưng ông ghen với kẻ tàn tật được cô săn sóc, đỡ đần, và ông đã tỏ ra ích kỷ một cách tàn nhẫn và bần tiện, muốn bảo cô đừng giúp đỡ ‘‘thằng đui hạ lưu’’ ấy nữa, theo lời ông mạt sát chàng thanh niên xấu số kia. Ông hứa hẹn với cô một đời sống xa hoa rực rỡ, hạnh phúc tràn trề, nhưng trái lại ông sẽ yêu cầu cô đừng giao thiệp với lớp người ‘‘hèn hạ’’ mặc dầu chỉ giúp đỡ đôi chút.
Ông tỏ vẻ khinh bỉ ‘‘chàng nghệ sĩ mù” và ông ghê tởm những bệnh nhân, ông chỉ làm giàu trên những vết thương lở lói của họ, ông chỉ ham sống đời trưởng giả xa hoa nhờ các loại vi trùng hút máu những người mang bịnh, nghĩa là theo ông ‘‘những người đó có sống cũng không ích gì cho xã hội’’.
Toàn hỏi:
- Thưa ông, thế ông quan niệm nghề Bác sĩ như thế nào ạ?
Bác sĩ Võ thanh Bình đáp:
- Tôi nói thật với Toàn, tôi không ưa triết lý vẩn vơ. Nếu phải triết Iý, thì triết lý của tôi gồm hai chữ LaTinh: Primo Vivere, là lo sống trước đã. Cũng như người Tàu nói: dĩ thực vi tiên, lo ăn trước đã. Tôi học nghề Bác sĩ, nói thật với cô không phải để ‘‘cứu nhân độ thế’’ như một số Thầy thuốc tuyên bố giả dối đó đâu. Tôi chọn nghề đó là vì tôi thấy làm Bác sĩ dễ làm giàu, mau làm giàu. Đấy, cô xem, chỉ vài ba năm, tôi đã sắm được xe hơi, nhà lầu, và có đầy đủ tiện nghi để sống cuộc đời vương giả. Tôi nghe mấy ông bạn của tôi nói chuyện về ông giáo sư Ngọc Minh ở trường Đại học Văn khoa, một thằng cha triết học ươn ươn gàn gàn, cứ đem ‘‘Tình thương nhân loại’’ ra làm mực thước cho đời người. Sống như thế tức là sống thụt lùi về đời thượng cổ man rợ, đời Diogène, Esope, chứ không phải là đời Nguyên tử của loài người tiến bộ. Tôi mong Toàn đồng ý với tôi, và chúng ta sẽ xây dựng hạnh phúc gia đinh, nghĩa là hạnh phúc của chúng ta, bằng sắc đẹp, bằng tiền tài, bằng địa vị, bằng danh lợi. Tôi thú thật với Toàn rằng tôi yêu Toàn vì Toàn có một nhan sắc kiều diễm mê hồn. Đôi mắt của Toàn đẹp quá, Toàn à. Tôi chưa từng yêu một cô thiếu nữ nào mà sắc đẹp làm tôi say mê như Toàn. Nhưng tôi hơi ngạc nhiên, xin lỗi Toàn nhé, và tôi buồn thấy Toàn đối dãi dịu dàng gần như âu yếm một thằng đui, một thằng què, một kẻ thất nghiệp ngồi đầu đường xó chợ để hát kiếm tiền. Một đứa tàn tật như thế, tôi tự hỏi, sống làm chi trong xã hội? xã hội có nhờ cậy gì được nó không? Giả sử xe nhà binh cán nó chết, tôi tưởng cũng chẳng có ai thương tiếc nó đâu. Toàn là người có học thức. Một cô giáo sư Trung học là một bậc thượng lưu trong nữ giới, có tài hoa hơn người. Một đời sống xa hoa sung sướng trên nhung lụa mới xứng đáng với địa vị của Toàn. Tôi xin đem cả hạnh phúc cao quý ấy dâng tặng Toàn. Nếu Toàn bằng lòng, chúng ta sẽ làm đám đảm cưới linh đình nhất ở Thủ đô Sàigòn, đãi tiệc cưới tại nhà hàng Caravelle, mời hết các nhân vật to lớn trong chính phủ, và trong Y giới, Giáo giới. Cưới xong, chúng ta đi du lịch 3 tháng trăng mật, sang Nhật Bản, Phi luật Tân, và Úc Châu, Mỹ Châu, Âu Châu, ghé Ấn Độ chơi mười hôm rồi ghé Xiêm, ghé Miến Điện. Tôi đã sắp đặt chương trình như thế để hưởng hạnh phúc tuyệt với với Toàn, nếu Toàn... Toàn yêu kiều diễm lệ, Toàn... Toàn biết tại sau tôi 32 tuổi mà chưa có vợ không? Là vì tôi kén chọn một người vợ xứng đáng với tôi. Tôi xin thú thật với Toàn rằng đàn bà con gái, họ yêu tôi nhiều lắm. Vì tôi là Bác sĩ, vì tôi có nhiều tiền, vì tôi có xe hơi có biệt thự, có đủ cả. Tôi có thể làm ông Bộ trưởng, ông Đại sứ, còn hơn mấy ông Bộ trưởng bây giờ nữa đó. Nhưng các bà các cô ấy yêu tôi, tôi biết là họ chỉ muốn lợi dụng, thèm thuồng cái địa vị Bác sĩ của tôi thôi. Bây giờ tôi mới quyết định thành lập gia thất, và xây dựng hạnh phúc mà tôi muốn hoàn toàn, rực rỡ, với một người thật đẹp mà tôi thật yêu. Trời xui khiến tôi gặp Toàn. Ngay giờ phút đầu tiên tôi mới ngó Toàn, thật là một tiếng sét, tôi đã thấy ngay rằng Toàn là một vì Tiên nữ xuất thế, người đẹp duy nhất, người bạn trăm năm mà tôi đang tìm kiếm...
Bác sĩ Võ thanh Bình lái xe chạy chậm chậm... Ông âu yếm nhìn vào đôi mắt của cô giáo sư Phạm thị Toàn. Ông đợi cô đáp lại ông bằng một nụ cười chấp nhận. Nhưng Toàn im lặng, nghiêm trang, mắt đăm đăm nhìn thẳng phía trước...
Bác sĩ Bình không nản lòng, vẫn mỉm cười tình tứ, hỏi:
- Tôi đưa Toàn về thẳng biệt thự của tôi ở Hòa Hưng, Toàn nghỉ một lát cho khỏe rồi chiều tôi đưa Toàn về thăm Ba Má nhé?
Toàn vẫn làm nghiêm, không một lời đáp lại.
Tuy nhiên, Toàn là người lịch thiệp, không đến nỗi lỗ mãng. Dù cô không tán đồng tư tưởng của Bác sĩ Võ thanh Bình, và cô không chịu được những lời ông chỉ trích giáo sư Ngọc Minh và khinh miệt người nghệ sĩ mù, Toàn vẫn không muốn tỏ ra phẫn nộ. Bẩm tính hiền lành, thanh nhã, Toàn suy nghĩ một lúc rồi đáp:
- Mỗi người có một quan niệm riêng về ý nghĩa và giá trị của cuộc đời. Đứng về phương diện ông, có lẽ ông nói đúng...
- Cô giáo đồng ý chứ? Thế thì thật vinh hạnh cho tôi! Tôi chỉ mong ước được như thế thôi.
- Sự đồng ý, tôi chưa dám chắc... Vì tôi cũng có những ý nghĩ riêng của tôi...
- Tôi mong được Toàn trả lời sớm.
- Tôi sẽ không để ông chờ đợi lâu đâu.
- Thế thì hạnh phúc cho tôi lắm! Tôi hy vọng rằng Toàn sẽ cho tôi được mãn nguyện. Tôi xin thề với Toàn một tình yêu trung thành triệt để...
- Chúng ta sẽ xem xét lại vấn đề... Bây giờ xin nói chuyện khác...
- Toàn về thẳng biệt thự của tôi để nghỉ một lát cho khỏe nhé?
- Dạ. Không lẽ Bác sĩ có lòng tốt đưa tôi từ Mỹ tho về Sàigòn, mà tôi lại không tiễn Bác sĩ về đến tận nhà sao?
Nhưng xin thưa trước rằng tôi chỉ vào thăm năm phút rồi sẽ xin giã từ, vì tôi nóng lòng về thăm gia đình tôi.
Bác-sĩ Võ thanh Bình cười:
- Tôi phục cô giáo lắm. Cô ăn nói khôn ngoan lắm.
Tôi không lầm một khi tôi nghĩ rằng cô là người đàn bà hoàn toàn...người đàn bà lý tưởng.
Toàn mỉm cười:
- Tôi lại không ưa cái gì lý tưởng. Tôi ưa thực tế. Lý tưởng cao xa quá. Thực tế gần gũi hơn, có phải không bác sĩ?
- Chính thế... Nhưng cô giáo cứ cho tôi hết cái ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác.
- Bác sĩ ngạc nhiên lắm ư? Vì sao thế thưa bác sĩ?

- Vì Toàn thường ca tụng ông Ngọc Minh, ông ấy đâu có phải là con người thực tế? Toàn hy sinh thì giờ và tiền của để nuôi một phế nhân hèn hạ, đấy đâu phải là một hành động thực tế?
- Vậy thì, Bác sĩ bảo thế nào là thực tế?
- Thực tế là như tôi đã bảo với Toàn, đời sống xây dựng trên hạnh phúc thiết thực về tinh thần và vật chất theo những khả năng của mỗi người.
- Dạ, đấy là thực tế của người giàu sang, của người có những khả năng rộng lớn. Nhưng còn những kẻ chỉ có những phương tiện khiêm tốn hơn, và họ muốn xử dụng đầy đủ những phương tiện ấy theo sở thích của họ, không cần phải mơ tưởng chuyện cao xa, không muốn đuổi theo giấc mộng công hầu, thế chính họ cũng sống theo thực tế của họ đấy chứ?
- Toàn là giáo sư Văn chương có khác. Toàn lý luận khéo quá, tôi xin bái phục.
- Bác sĩ dạy quá lời... Tôi cho rằng cuộc đời có hai mặt, cũng như quả đất mà chúng ta đang bám vào đây. Chúng ta sống ban ngày khi quả đất xoay về phía mặt trời, nhưng khi quả đất xoay qua phía mặt trăng thì là ban đêm. Tựu trung, mặt nào cũng là mặt đất cả, và ban ngày ban đêm luân chuyển mãi mãi, không có bên nào sáng hẳn, không bên nào tối hẳn. Đấy là thực tế của vũ trụ, thực tế của mọi vật, thực tế của đời người. Thưa Bác sĩ có phải thế không?
- Toàn nói đúng, Tôi không cãi. Nhưng Toàn thích sống giữa ánh sáng rực rỡ của mặt trời, hay là thích ở trong bóng tối của ban đêm?
- Dạ thưa Bác sĩ, đã biết rằng sáng với tối vẫn là một, thì chúngta đâu có lựa chọn được. Cứ ở một chỗ mà có sáng rồi có tối, hết tối rồi lại sáng, mặt trời đâu có chiếu riêng cho ai?... Tối với sáng, cũng như mộng với thực. Ta nằm trong tối nhắm mắt lại, tưởng là giấc mộng, nhưng qua một đêm, mở mắt ra, thì tuần hoàn của thiên mộng sẽ là thực, thực sẽ là mộng, lấy đâu làm giới hạn? Lấy gì làm tiêu chuẩn?
- Toàn nói thế sao đúng? Đêm không phải là ngày. Trong ban đêm đâu có ban ngày? Trong ánh sáng chói lọi của mặt trời, đâu có bóng tối?
- Dạ, tôi đâu dám nghĩ rằng tôi nói đúng. Nhưng tôi nhận xét thực tế trong cõi đời ; không cớ ánh sáng nào mà không có bóng tối, không có ban đêm mà nào không có ban ngày. Thì đây, Bác sĩ đang sống trong huy hoàng nhung lụa, rực rỡ những ngọc ngà châu báu. Nhưng giữa cuộc sống xa hoa chói lọi ấy, biết bao nhiêu là những chuyện làm cho Bác sĩ buồn, giận, đau, khổ, tâm không vui tươi, hồn không thanh thoát: Thưa, đấy là những bóng tối trong ánh sáng! Những bóng tối nặng nề, tịch mịch, triền miên trong trí óc, trong suy tư, trong tư tưởng. Trái lại, chàng nghệ sĩ mù kia y không được diễm phúc trông thấy mặt trời. Y sống trong một vực thẳm âm u. Nhưng chắc chắn y phải có những lúc vui vẻ, phấn khởi, hân hoan, đầy hy vọng, đấy là ánh sáng thiêng liêng đã rọi vào hồn y, vào con tim y, đấy là hào quang ấm áp, rực Irỡ huy hoàng của Thượng Đế ban cho y. Thế cho nên, theo ý nghĩ nông cạn của tôi, ánh sáng và bóng tối chỉ là những tượng trưng. Cuộc đời hoa lệ hay đen tối đều là ảo ảnh. Tình cảm rạo rực trong lòng ta, rung động đê mê xao xuyến trong hồn ta đấy mới là thực tế. Kẻ có chân hạnh phúc, tức là kẻ nào được hưởng trọn vẹn những hân hoan sâu đậm của tâm hồn. Thưa Bác sĩ, có phải thế không ạ?
Bác sĩ Võ Thanh Bình im lặng một lúc, rồi bảo:
- Cô nói đúng.
Cô giáo Toàn đến thăm trường Mù ở Chợ lớn. Cô đi thẳng đến văn phòng ông Hiệu trưởng, xin vào yết kiến. Ông Hiệu trưởng cũng là một người mù, nhưng học giỏi.
- Thưa ông Hiệu trưởng, tôi có một người bạn trai bị mù. Trước kia anh ấy đã thi đậu Trung học Đệ nhứt cấp do một biến cố, rủi ro anh ấy bị mù từ mấy năm nay. Nay tôi muốn đến xin ông Hiệu trưởng làm ơn nhận cho anh ấy vào dạy tại trường nầy, thưa ông Hiệu trưởng có thể được không?
- Người ấy có biết đọc chữ nổi của người mù chưa?
-Dạ thưa... chưa.
- Chưa, thì làm sao dạy được? Chương trình học vấn ở trường Mù khác hẳn chương trình các học đường khác. Chúng tôi không phải dạy bằng lối chữ viết thường mà bằng lối chữ nổi của Louis Braille. Cho nên các giáo viên cần phải biết lối chữ ấy.
- Thưa ông Hiệu trưởng nếu thế thì xin ông Hiệu trưởng làm ơn cho người ấy vào học mẫu tự Braille một thời gian. Có lẽ người ấy sẽ mau biết. Trong luc đó, nhờ có bằng Trung học Đệ nhứt cấp người ấy sẽ co thể tạm giảng bằng miệng các bài học trong chương trình, như Sử, Địa, Văn chương chẳng hạn. Trong thời gian học chữ Braille, bạn tôi xin đóng tiền học phí, và nếu được ông Hiệu trưởng cho tạm dạy tập sự bằng miệng, người bạn tôi cũng không dám xin lương bổng gì đâu.
- Nói đúng ra, nếu thầy ấy đã có học lực đến T.H.Đ.N.C. thì học mẫu tự của người Mù sẽ mau chóng, và sẽ áp dụng được ngay trong việc giáo huấn cho các em. Đây là trường tiểu học, vì ở nước ta chưa có trường Trung học riêng cho người Mù. Nếu người bạn của cô sẽ quen thuộc với chữ nổi được rồi, thì thầy ấy có thể trở thành một giáo viên rất tốt. Xin thú thật với cô, ở trường Mù đây chúng tôi chưa có giáo viên đỗ T.H.Đ.N.C. Cô có thể cho tôi biết ngoài trình độ học vấn người bạn của cô còn có khả năng gì nữa không?
- Dạ thưa ông Hiệu trưởng anh ấy rất giỏi về Âm nhạc.
- À, thế hả? âmnhạc gì?
- Thưa anh ấy chuyên về tân nhạc, và cũng rất giỏi về cổ nhạc Nam phần.
- Hát hay không?
- Dạ thưa, anh ấy ca hay lắm.
- Thế thì được. Chính lúc nầy chúng tôi đang tổ chức một Ban Ca Vũ nhạc của trường Mù. Ở đây có một thầy ca rất hay, nhưng chỉ ca Vọng cổ, thầy ấy đang học ca tân nhạc. Người bạn của cô hiện giờ ở đâu?
- Thưa anh ấy ở Mỹ tho.
- Bao nhiêu tuổi?
- Thưa, 23 tuổi. Vì tôi dạy tại trường Nữ Trung học Mỹ tho có quen với anh ấy, nên anh ấy nhờ tôi lên xin giùm ông Hiệu trưởng.
- Được, tôi xin tán thành. Tôi sẽ nhận thầy ấy ăn ở luôn trong trường khỏi tốn tiền, trong thời gian thầy ấy cố gắng học mau lẹ phương pháp xử dụng lối chữ nổi riêng cho người Mù, thầy ấy sẽ dạy về ca nhạc, và giúp chúng tôi thành lập mau chóng Ban Ca vũ nhạc của người mù, để kịp biểu diễn trong dịp Tết sắp đến, lấy tiền giúp quỹ nhà trường. Xin thú thật với cô, quỹ nhà trường nghèo lắm. Chúng tôi muốn mở thêm nhiều ngành hoạt động mới cho học sinh Mù, theo những điều học hỏi của tôi ở các trường Mù bên Pháp, nhưng chỉ vì tài chính eo hẹp nên chúng tôi đành phải bó tay. Nếu ban Ca vũ nhạc của trường Mù chúng tôi sẽ thu được kết quả mỹ mãn, đó là hy vọng duy nhất cho công quỹ của nhà trường được dồi dào hơn, và hoạt động của chúng tôi sẽ được phát triển hơn. Tương lai của các học sinh Mù sẽ nhờ đó mà được thêm bảo đảm. Tôi chỉ còn lo tìm người dạy về môn vũ. Môn vũ thì hơi khó, vì một là cần phải các môn vũ lành mạnh của các em ở học đường, hai là dạy cho các em Mù khó hơn dạy các em bình thường.
- Thưa ông Hiệu trưởng, nếu ông Hiệu trưởng cần đến, tôi sẽ xin tình nguyện giúp về môn vũ, vì tôi được biết chút ít các môn vũ ở học đường.
- Nếu thế thì còn gì hơn. Phải, đúng là các môn vũ ở học đường phải do các thầy giáo và cô giáo có khả năng và kinh nghiệm về bộ môn ấy, chỉ huy cho các em trường Mù thì thích hợp lắm. Tôi xin thành thật cảm ơn cô giáo có thiện chí rất tốt đẹp.
- Nhưng vì tôi bận dạy học suốt cả tuần lễ ở Mỹ tho, tôi chỉ có thể về Sàigòn chiều thứ bảy. Vậy tôi xin đến đây dạy giúp về môn vũ cho các học sinh buổi sáng Chúa nhật. Tôi có thể dạy đến 4 giờ chiều, rồi còn phải đi xe đò về Mỹ tho, để sáng thứ hai có mặt ở trường tôi.
- Nếu cô sắp đặt cho chúng tôi mỗi tuần được một Chúa nhật như thế, cũng đã quý lắm rồi. Về vấn đề đài thọ các...
- Dạ, xin thưa trước rằng riêng về phần tôi, tôi xin giúp không, không dám nhận món tiền nào cả. Mong ông Hiệu trưởng cho phép tôi có dịp giúp đỡ chút ít các em học sinh Mù, và được vinh hạnh cộng tác với quý trường vì một phương diện rất hợp với sỡ trường của tôi là môn văn nghệ.
- Cô giáo tử tế quá... Cô làm cho tôi vô cùng cảm động..,
- Xin ông cho tôi biết bao giờ thì ông cần đến tôi?.. Chúa nhật tuần tới chăng?
- Dạ vâng... Nếu thuận tiện cho cô. Chúng tôi cũng đang gắp rút tổ chức, vì chỉ còn hai tháng nữa là đến Tết.
- Ông Hiệu trưởng định tổ chức trình diễn trong Tết hay ngoài Tết?
- Chúng tôi chưa nhất định. Xin thú thật với cô rằng vì thiếu ‘‘nghệsĩ’’ chuyên môn, thiếu cả ‘‘tài-tử’’, nên trước đây chúng tôi định tổ chức một cuộc trình diễn tàm tạm thôi, và chúng tôi cũng không mấy hăng hái. Chúng tôi đã cho dọ hỏi ý kiến vài bạn nam nữ danh ca, nhờ họ giúp sức, nhưng một vài người đòi hỏi tiền thù lao qua nhiều, một vài người không nỡ đòi tiền thì lại tìm cách tư chối. Thành thử chúng tôi cũng bị mất ít nhiều nhiệt hứng, tự thấy mình là bọn người Mù, ít ai thương xót tới, xã hội ruồng bỏ... Lâm lúc nghĩ mà tủi nhục lắm, cô Giáo à!
- Bây giờ chúng tôi sẽ cố gắng hoạt động để tỏ cho xã hội thấy rằng người Mù cũng là người, và cũng có đủ khả năng, có lẽ còn hơn những ngươi không Mù nữa.
- Nếu ai cũng nghĩ như cô thì an ủi cho chúng tôi biết bao!
- Thưa ông Hiệu trưởng, bây giờ tôi xin phép tạm biệt ông để về Mỹ tho. Ngày mai tôi bận dạy ở trường nhưng chỉ dạy vài hôm là nghỉ lễ Tết, vậy chiều ngày 1 tháng giêng tôi sẽ đưa người bạn tôi ở Mỹ tho lên trình diện ông Hiệu trưởng.
- Dạ. Cảm ơn cô.

Ông Hiệu trưởng tuy mù nhưng chắc đã quen thuộc đường lối trong văn phòng, nên ông đứng dậy ung dung tiễn cô giáo Phạm thị Toàn ra đến cửa không vấp các bàn ghế và đồ đạc để chật văn phòng.
‘‘Chàng nghệ sĩ mù’’ mà ở đây người ta gọi là thầy Năm Mỹ tho đã trở thành một giáo viên thực thụ ở trường Mù Chợ lớn. Chỉ một tháng đầu, năm ngón tay của chàng đã quen rờ trên các bảng chữ nổi, chàng đã đọc được các sách giáo khoa sử địa, và Việt văn làm riêng cho giáo viên và học sinh Mù với những tấm bảng đúc bằng chữ nổi. Chàng lại được ông Hiệu trưởng đề cử làm trưởng ban Văn nghệ, coi cả về ba bộ môn Ca Vũ Nhạc. Trong những giờ phút tĩnh mịch âm u, nhớ cô Toàn, người ân nhân trung thành, tận tụy, mà chàng không thấy mặt, chàng sáng tác vài bản nhạc u sầu gợi lên những tiếng tơ lòng lâm ly áo não. Hầu hết các bài chàng ca dạy cho học sinh Mù, do tự chàng đặt và tự chàng phổ nhạc, đều là những lời ai bi thống thiết, hoặc reo vang hy vọng tưng bừng, ông hiệu trưởng, các giáo viên, tất cả nhân viên và học sinh đều mê giọng đờn của chàng, nhất là chiếc đờn Hạ uy di. Ông hiệu trưởng đã phải nhiệt thành khen tặng: ‘‘Anh là một thiên tài’’, Chàng điều khiển cả hai bộ môn Ca Nhạc, trong hai tháng trời ròng rã đã hoàn thành một chương trình nghệ thuật dồi dào, với 8 nghệ sĩ Mù, Giáo viên và học sinh.
Cô Toàn, về bộ vũ, cũng đã thành công trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy với hai vũ điệu mới, rất hấp dẫn và vô cùng cảm động. Với 16 học sinh được lựa chọn, ở đây toàn là Nam học sinh Mù từ 10 đến 18 tuổi, cô cải trang thành 8 nàng thôn nữ và 8 nông dân trai trẻ cùng nhau múa hát mừng ngày lúa chín, và một vũ điệu Cendrillon. Tập dượt mấy lần chắc chắn có kết quả tốt đẹp không ngờ, ông Hiệu trưởng và toàn thể giáo viên đã quyết định ngày mồng 4 Tết ban văn nghệ trường Mù sẽ trình diễn công khai trên sân khấu Đô thành. Cô giáo Toàn tình nguyện phụ trách việc cổ động trên các báo và bán vé trước bắt đầu từ Rằm tháng Chạp ta.
Chương 5
Ánh dọn dẹp trên bàn giấy, sắp sửa ra về, bỗng có chuông điện thoại reo. Ánh nhắc ống máy lên nghe, liền mỉm cười đáp:
- Dạ, em đây... Dạ... Dạ...cám ơn ông, em đã dọn nhà rồi ạ... Dạ.. Dạ... Dạ, mẹ em đã về ở đấy rồi... Dạ.
Luôn luôn trên môi Ánh nở một nụ cười duyên dáng, hiền từ, trong lúc Ánh chăm chú nghe trong máy nói. Ánh hơi do dự một tí rồi tiếp tục trả lời:
- Dạ... Dạ, em xin tán thành... Ồ!... Thế thì chắc sẽ thích thú lắm!... Dạ... 5 giờ chiều về thì vừa... Em hoàn toàn đồng ý... Dạ. Em cám ơn ông... Dạ.
Giọng nói của Ánh trở lại rất khẽ, hơi bẽn lẽn và thân mật hơn.
- À demain! (xin hẹn đến ngày mai)
Ánh đặt nhẹ ống nói xuống máy, với nụ cười vui vẻ.
Câu cuối cùng, Ánh trả lời bằng tiếng Pháp của ông Ngọc Minh. Vì người nói trong điện thoại chính là ông giáo sư mà bây giờ là bạn thân của Ánh.
Ông Ngọc Minh mời Ánh sáng ngày mai, chủ nhật, đi bãi biển Vũng Tàu hóng gió. Ông đề nghị đi thật sớm, 5 giờ sáng ông sẽ lái xe đến đón Ánh rồi đi thẳng ra Cấp, và đến Cấp trước lúc mặt trời mọc để ngắm cảnh bình minh trên mặt biển, Tắm biển và dạo chơi trên núi đến 5 giờ chiều sẽ trở về Sàigòn.
Lúc đầu Ánh hơi do dự vì là lần thứ nhất Ánh nhận lời đi chơi xa với ông Ngọc Minh, cả một ngày chủ nhật. Nhưng rồi Ánh bằng lòng ngay, vì với ông Ngọc Minh Ánh chẳng có gì lo ngại cả.
Hai người đã hiểu nhiều quá rồi. Tuy tuổi tác, địa vị, hoàn cảnh khác biệt nhau, nhưng cả một dĩ vãng năm sáu năm đã liên kết hai tâm hồn cảm thông mật thiết với nhau thành một tình bạn đầy thân ái và hoàn toàn tin tưởng.
Sáu năm qua, họ đã cùng nhau sống biết bao nhiêu kỷ niệm êm đềm, mỗi ngày mỗi ràng buộc thêm bao nhiêu lưu luyến. Họ đã cùng nhau chịu đau khổ, chịu nhục nhã nữa, vì luân lý, xã hội, vì trở lực gia đình, vì thành kiến giai cấp, nhưng, mặc, họ vẫn giữ nguyên vẹn mối tình lý tưởng, hoàn toàn trong trắng, thanh cao.
Đã đành tâm sự hai người có hơi khác nhau. Ông giáo sư Ngọc Minh đã hoàn toàn yêu Ánh, chỉ có Ánh là người yêu duy nhất của ông. Ông sẽ cưới Ánh khi nào Ánh ưng thuận. Ông không đếm xỉa đến những thành kiến gia đình và xã hội, nhưng ông sẽ khôn khéo sắp đặt cho mọi việc đều vui vẻ tốt đẹp, cho Ánh được chính thức là vợ của ông, người yêu của ông, được hết thảy mọi người quý mến, không còn ai dám khinh khi rẻ rúng. Ông tin rằng ông sẽ thành công, đối với cả Minh Tú là em gái của ông nữa. Ông cho rằng tình ông yêu Ánh là mối tình đẹp nhất trên đời.
Nhưng Ánh thì dè dặt hơn. Bởi hoàn cảnh của Ánh rất khó khăn. Tâm sự của Ánh rất phức tạp. Ánh yêu ông Ngọc Minh cũng tha thiết chân thành không kém. Ánh tự thú nhận rằng càng ngày Ánh càng yêu ông nhiều hơn. Ái tình mạnh hơn Ánh, chi phối Ánh, ngự trị trong tâm hồn Ánh như một vị Thần linh. Nhưng, nếu bây giờ Hoàng từ đâu hiện về, âu yếm đưa hai tay ra đón Ánh, chắc chắn là Ánh sẽ ngã liền trong tay Hoàng, không bao giờ buông ra nữa. Không phải là Ánh yêu Hoàng nhiều hơn. Nhưng trên con đường phiêu lưu vô định, giả sử Ánh gặp một lâu đài đồ sộ nguy nga và một túp nhà tranh cũ kỹ, chắc chắn Ánh sể không do dự bước vào tủp □hà tranh cũ kỹ, nơi đây hợp tình hợp cảnh hơn. Ánh thích phạm vi bé nhỏ, nghèo nàn. Ánh ưa sự êm đềm của đơn sơ, yên tĩnh...
Ánh do dự sáu năm nay, không bồng bột nhận lĩnh hạnh phúc cao siêu diễm tuyệt mà ông giáo sư triết học thiết tha tặng Ánh, chính vì bẩm tính từ tốn khiêm nhượng của Ánh, cô gái nhà nghèo, và mối tình thương nhớ bóng người xưa còn vương vấn trong tim bao nhiêu khổ hận..
Sáu năm qua, thực ra Ánh không còn hy vọng gặp lại Hoàng. Có lẽ Hoàng đã phiêu bạt nơi nào. Có lẽ Hoàng sống một cuộc đời khác với một người đàn bà nào khác. Ánh vẫn chờ mong, mặc dầu biệt vô âm tín.
Ánh không vì xa mà quên hẳn, không vì tuyệt vọng mà bỏ hẳn, Ánh nhẫn nại ỉo tự sức mình xây dựng đời sống thực tẽ hằng ngày. Ánh cố gắng dành dụm tiền sang một căn nhà ở riêng, để Ánh khỏi trọ nhà bà Cô nữa, để Ánh mời mẹ về ở với Ánh. Ánh không muốn để mẹ ở trong tay một kẻ vũ phu ghê tởm. Ánh muốn nuôi mẹ, ở bên cạnh mẹ, săn sóc mẹ trong những ngày già yếu.
Và Ánh đã thực hiện ý muốn ấy, nhờ tiện tặn và kiên nhẫn trong sáu năm trời với số lương thư ký.
Ông Ngọc Minh cũng đã biết rõ từ lâu ý định tốt đẹp của cô bạn thân yêu. Ông đã thành thật trao Ánh một món tiền lớn để Ánh sang một căn nhà rộng rãi, trang hoàng để Anh ở với mẹ, nhưng Ánh từ chối. Ba lần ông tha thiết yêu cầu Ánh vui lòng nhận món tiền ấy cho ông mừng. Ba lần Ánh cảm ơn tấm thịnh tình chân thật của ông, nhưng nhất thiết Ánh từ chối. Lần cuối cùng ông Ngọc Minh cầu khẩn mãi, Ánh bảo:
- Cử chỉ của ông cao thượng vô cùng, lòng ông yêu em thật là vô lượng vô biên. Em cảm động và biết ơn ông, không thể nào nói hết được. Nhưng chính em lại muốn được một niềm vui trọn vẹn của em, là tự sức mình đã thành công được một việc gì. Ông có lòng chân thành giúp đỡ một kẻ nghèo và tỏ ý muốn săn sóc chu đáo đến việc nhà cửa và gia đình của mẹ em và em, chỉ một ý nghĩ ấy cũng đã quý giá biết ngần nào rồi, Nhưng em muốn có một chút thỏa mãn riêng trong tâm hồn em, là em đã cứu được mẹ em ra khỏi bàn tay kẻ ác phu, và từ nay được nuôi dưỡng mẹ em với chính đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình. Đấy, em thưa thành thật với ông như thế, ông thông cảm với em, ấy là ông yêu em.
Ánh nói thế, bảo ông Ngọc Minh không yêu say mê Ánh sao được? Ông rưng rưng nước mắt, âu yếm nhìn Ánh:
- Ánh không phải một cô gái tầm thường. Ánh là một Thần nữ rất diệu lành.
Những người quen biết ông Ngọc Minh bảo ông là một thi sĩ, một nhà triết học, một chàng mơ mộng, Không phải, Ngọc Minh chẳng phải là gì như thế cả. Tại Thượng đế sinh ra ông là một tâm hồn đa cảm đa sầu. Tại ông gặp Ánh cũng là một tâm hồn đa sầu đa cảm. Ông có bao giờ nghe một thiếu nữ nói những lời như Ánh nói, làm những việc như Ánh làm, đẹp như Ánh, hiền lành như Ánh, đau khổ như Ánh, và thanh cao trong trắng như Ánh đâu! Không ngờ ở trên đời, một cô gái nhà nghèo trước kia đi ở mướn, và một ông giáo sư Văn chương Triết học có thể có hai tâm hồn cùng chung với nhau một rung cảm sâu đậm, cùng gặp nhau trong một ngấn lệ!
Gần 5 giờ sáng, thành phố Sàigòn còn ngủ say sưa, ông Ngọc Minh đã lái xe đến cạnh một ngõ hẻm dường Lê văn Duyệt, cách xa chợ Hòa Hưng độ vài ba trăm mét.. Ông bước ra xe, vào trong ngõ định đi tìm nhà Ánh. Nhưng Ánh đã từ trong đường hẻm tối tăm, chật hẹp, lanh lẹ đi ra. Ánh tươi cười, khẽ bảo Ngọc Minh:
- Em sợ ngủ dậy trễ! Nhờ có má em gọi.
- Ánh đưa tôi vào thăm nhà một tí và thăm bác, rồi chúng ta hãy ra đi cũng không muộn.
Ánh dịu dàng đáp:
- Dạ, thôi, nhà em dọn dẹp chưa xong, còn bề bộn lắm. Chủ nhật sau, em sẽ mời ông đến khánh thành!
- Sẽ có tiệc khao tân gia chứ?
- Dạ, dĩ nhiên rồi.
Ông Ngọc Minh mở cửa xe mời Ánh vào ngồi cạnh ông. Ông rồ máy, lái xe chạy về hướng Gia định. Ông hỏi:
- Ánh đã ăn điểm tâm gì chưa?
- Dạ chưa. Còn ông?
- Tôi cũng chưa. Mà tôi cũng không đem theo bánh mì hay đồ ăn đồ uống gì cả.
- Em cũng thích thế. Chừng nào chúng ta đói, sẽ tìm quán ăn.
- Hai đứa mình đến cái ăn cũng giống nhau nhỉ. Gặp đâu ăn đấy, gặp gì ăn nấy. Không cần quan tâm đến chuyện đó. Phải không, Ánh?
- Hoàn toàn đồng ý.
Ông Ngọc Minh cười lớn lên như cậu hoc trò:
- Ha há! Cuộc du lịch của chúng mình hôm nay chắc vui đấy.
Ánh cũng cười:
- Bắt đầu đã vui rồi.
Một lát, Ánh hỏi:
- Có điều em ngạc nhiên, từ nãy đến giờ ông không hút thuốc.
- Cảm ơn Ánh nhắc... Tôi sợ Ánh vừa ngủ dậy còn cay mắt, tôi hút thuốc rồi khói vào mắt Ánh mặc sức Ánh khóc.
- Em quen khói thuốc Minty của ông rồi. Em không chảy nước mắt đâu.
- Nếu Ánh cho phép, thì tôi hút một điếu.
- Ông đưa gói thuốc và hộp quẹt em lấy đốt cho.
Ngọc Minh thò tay trong túi quần, tìm mãi không có. Suy nghĩ một lát ông sực nhớ, phì cười:
- Gói thuốc chắc đã giẹp lép rồi.
Ánh không hiểu:
- Ông để đâu?
- Ánh đang ngồi đè trên nó.
Ánh mắc cỡ, rối rít, vội vàng ngồi nhổm dậy, đưa tay sờ kiếm trên ghế da. Quả nhiên, lúc nãy ông Ngọc Minh đã để gói thuốc và quẹt đá ngay nơi chỗ ghế trống bên cạnh ông mà ông không nhớ. Trời tối, Ánh vào ngồi, không để ý. Gói thuốc đã giẹp lép. Ngọc Minh cười:
- Không hề gì. Hút thuốc điếu giẹp càng ngon.
Ánh lấy một điếu khẽ bóp cho tròn lại, rồi đánh quẹt châm, đưa ông Ngọc Minh.
Hai người còn cười mãi...
Khi hai người đã yêu nhau tha thiết, hoặc đã thông cảm với nhau khắn khít rồi, chính những câu chuyện lặt vặt vô nghĩa lý như thế lại ghi một kỷ niệm thích thú, sâu đậm, trong tâm trí của họ mà ba bốn chục năm sau, có khi suốt cả đời, họ không bao giờ quên được.

Người ngoài cuộc có thể phì cười chế nhạo họ, như họ có thể cho rằng phải chăng ông giáo sư Triết quá mê cô Ánh, đến đổi Ánh trao cho điếu thuốc bị đè giẹp như thế mà cũng hút, và cũng khen ngon! Hoặc họ cho rằng. Ánh thật kém lịch sự, đã vô ý ngồi đè lên gói thuốc Minty của ông giáo mà còn lấy thuốc ấy đưa cho ông hút. Nhưng họ không nghĩ rằng tâm lý của hai người yêu nhau là chỉ biết yêu nhau mà thôi, đâu còn câu nệ vì những chuyện khách sáo tầm thường, giả dối. Tình yêu nên thơ ở chỗ đó, ở những chỗ thân mật tự nhiên, không cần gìn giữ mà vẫn còn, không cần che đậy mà vẫn nguyên vẹn. Và khi họ dâng cho nhau, là họ dâng cho nhau tất cả.
Trên đường dài thăm thẳm hãy còn vắng bóng người,- chiếc xe của ông Ngọc Minh chạy êm ru, không mau không chậm. Ông muốn trời đừng sáng vội, - trên vòm trời còn đầy đặc ngôi sao, - để ông được hưởng với Ánh một cuộc du lịch ái tình trong tĩnh mịch cô liêu. Vì tình yêu chân chính chỉ nẩy nở trong im lặng và sống trong yên lặng. Những cặp tình nhân vĩ đại đều là những kẻ không muốn có thế giới nào khác hơn là thế giới riêng biệt của mình, không có một vũ trụ nào khác ngoài vũ trụ rạo rực say mê của mình. Chung quanh Ngọc Minh và Ánh, kế tiếp nhau là những cánh đồng mơ, những cánh rừng mơ, Trước mắt Ngọc Minh và Ánh là một chân trời rực rỡ các vì tinh tú.
Ngọc Minh nghe tiếng nói dịu dàng của Ánh:
- Ngôi sao gì sáng rực ở đằng xa kia nhỉ?
Ngón tay nõn nà của Ánh chỉ một ngôi sao đang lấp lánh phía Đông Nam. Ngọc Minh đáp:
- Sao Trinh Nữ... La Vierge... Ngôi sao nầy thường hiện trong khoảng tháng Chín, tháng Mười, trên vùng Xích đạo gần lúc mặt trời mọc. Bên Tây phương, theo truyền thuyết từ thời Thượng cổ, sao Trinh nữ là biểu hiệu cho cô gái hái nho, la Vendangeuse. Bên Đông phương nó là cô Thôn nữ đang cầm liềm gặt lúa. Kìa, Ánh xem kỹ, bên cạnh sao Trinh nữ xít xuống cạnh dưới một tí, một ngôi sao nhỏ hơn, màu vàng, đấy là sao L’Épi,ta gọi là sao Bông Lúa.
Chòm sao ấy có tất cả 110 ngôi sao, mà Trinh Nữ và Bông Lúa là sáng hơn cả. Trong Thần thoại Hy Lạp, sao Trinh Nữ là vị thần của mùa lúa chín, mùa gặt hái, là nhựa sống ngào ngạt men trinh. Chốc nữa, mặt trời rạng đông, tất cả các Tinh tú đều biến mất, Ánh sẽ còn thấy phía bên kia, gần sát chân trời, là sao Vệ Nữ (Vénus) phía bên nầy, cao hơn một tí, là sao Trinh Nữ.
- Sao Vệ Nữ ở đâu?
- Kia kìa, ngôi sao sáng ngời hơn cả. Màu xanh xanh, như bích ngọc, Ánh thấy không? Trong khoa học, gọi là Kim Tinh Thiên văn Tàu gọi là sao Thái Bạch. Ta gọi là Sao Mai. Vénus là ngôi sao của tình yêu.
Ánh mỉm cười:
- Của tình yêu nào?
- Của tình yêu mênh mông, không bờ không bến... Tình yêu vô tận, không có không gian, thời gian.
- Còn ngôi sao kia, ở xa tít đằng kia, bên tay phải, đặc biệt một màu tim tím?
- Đấy là La Crix du Sud, dịch theo danh từ Thiên văn Tây phương là chòm sao Thập tự, ta gọi là sao Nam Tào. Nó đối chiếu với chòm sao Bắc đẩu ở sau lưng chúng ta. Nó là ngôi sao của Hy vọng.
Ánh mơ màng nhìn các vì sao lấp lánh:
- Em yêu tất cả những vì sao ấy! Hình như mỗi một tinh tú đều ôm ấp trong thâm cung một chuyện tâm tình, và vũ trụ là một quyển sách vĩ đại của tình yêu. Bao nhiêu tia sáng đang rung động kia là bấy nhiêu trái tim đang hồi hộp. Ông có thấy đẹp không?
- Chính vì nó đẹp nên nó sáng ngời muôn thuở.
- Ồ!Ước gì em được biết tên tất cả những vì sao đẹp!
- Một ngày nào đó, Ánh nhắc tôi, tôi sẽ đưa Ánh đi du lịch trên khu vườn Tinh tú rực rỡ muôn màu muôn sắc kia. Tôi sẽ giới thiệu Ánh những hoa khôi kiều diễm nhất, và Ánh sẽ nghe những bâng khụâng hồi hộp trong mỗi lòng Hoa.
- Em yêu ánh sáng dịu huyền của những khung trời mộng ảo. Em yêu cảnh yên lặng rực rỡ muôn sao. Có lẽ chỉ có thế giới thực tại của chúng ta đang ở là đầy khổ hận. Em thường nghĩ rằng nếu quả thật trong vũ trụ có một Thiên đường và một Địa ngục thì có lẽ thế giới của chúng ta đang sống đây chính là Địa ngục chăng?
Ông Ngọc Minh mỉm cười, lái xe chầm chậm qua một chiếc cầu hư đang sửa chữa. Qua khỏi cầu, ông nhờ Ánh châm cho ông một điếu thuốc, ông nói:
- Mỗi cuộc du lịch ngắn ngủi như chúng mình đang đi đây, là một thoát ly. Địa ngục có lẽ là trần gian như Ánh nói, nhưng Thiên đường cũng không cần kiếm đâu xa.
Ánh vừa bóp nhè nhẹ điếu thuốc Minty cho tròn trong hai ngón tay mũm mỉm, vừa nói:
- Dạ, em cũng thấy thế. Thiên đường, tự mình tìm thấy nó trong hạnh phúc tuyệt vời của Tình yêu, Tình yêu khắn khít giữa hai tâm hồn cảm thông với nhau, và tình yêu rộng lớn khắn khít giữa ta và muôn loài.
Ánh quẹt lửa châm thuốc trao Ngọc Minh. Ông giáo sư cầm điếu thuốc:
- Cám ơn Ánh...
Xe đến tỉnh lỵ Bà rịa, dường phố đã lao xao đông người. Ngọc Minh quay ngó Ánh:
- Chúng mình ngừng đây ăn điểm tâm nhé.
- Dạ.
Ngọc Minh lái xe chậm chậm:
- Kiếm quán nào vắng vẻ một tí thì hơn.
- Dạ, nên ra xa xa, ngoài châu thành.
Xe đỗ trước quán cà phê cách tỉnh lỵ độ vài trăm thước. Hai người vào ăn tô hủ tiếu, và uống một ly cà phê sữa, như phần đông khách hàng, hầu hết là bình dân.
Mười lăm phút sau, hai người lên xe. Đến Vũng Tàu, trời vừa ửng sáng, ông Ngọc Minh ngừng xe nơi Bãi Sau.
Hai người xuống xe, ra ngồi kề nhau trên bãi cát, riêng biệt một nơi.
Ánh vui sướng nhìn mặt biển:
- Lần đầu tiên em đến đây!
Ngọc Minh châm điếu thuốc hút:
- Tôi là lần thứ mười, nhưng cũng là lần đầu tiên.
Ông đùa nghịch, hốt một bụm cát gieo nhẹ trên bàn chân trắng đẹp của Ánh. Ánh cười:
- Lần đầu tiên ông ngồi đây với em còn những lần trước?
- Tôi luôn luôn ngồi một mình, có một vài chuyến- tôi đi với Minh Tú và gia đình, nhưng ngồi đây cũng chỉ một mình thôi...
Ngọc Minh hỏi Ánh:
- Ánh muốn lên núi không? Leo lên ngồi trên sườn núi xem mặt trời mọc, đẹp hơn là ngồi ở đầy.
- Dạ, Đi
Ánh vui vẻ, tha thướt, bên cạnh Ngọc Minh, và lúc lên núi, Ánh hồi hộp sung sướng khẽ nắm bàn tay ông để leo lên, vừa nghe ông nói chuyện.
Nửa giờ sau, đôi bạn đã lên đến giữa sườn núi và tìm một nơi khoáng đạt, đứng kề nhau, cheo leo hai chiếc bóng. Ánh leo núi hơi mệt, đôi má ửng đỏ lên, càng đẹp hồng hào. Môi Ánh không đánh son vẫn đỏ tươi, vài sợi tóc mai buông lơ đểnh trên thái dương, phất phơ trong gió sớm. Tà áo hoa của Ánh nằm vất trên cánh tay Ngọc Minh, Ánh không để ý, đang mê mãi ngắm vừng chân trời nhuộm đỏ.
Không có cảnh nào tuyệt mỹ như trời mây non nước buổi rạng đông. Vừng thái dương vừa xuất hiện ngoài khơi, từ từ nhô lên trong khung cửa Đại dương, gieo một vùng kim tuyến long lanh trên mặt sóng.
Ánh reo lên:
- Ồ, đẹp quá Ị... Đẹp quá!...
Những tia nắng mới rực rỡ tung khắp bầu trời, nhuộm các áng mây, tràn ngập trên cỏ cây non nước. Ngọc Minh và Ánh đứng yên lặng trong ánh nhiệm mầu của Thượng đế, như muốn dâng trọn vẹn lên Ngài hai tâm hồn thanh khiết, và hai trái tim hòa nhịp với hơi thở thiêng liêng của vũ trụ.
Một lúc khá lâu, hai người say mê ngắm cảnh, không nói một lời.
Rồi Ngọc Minh bảo Ánh cùng ngồi xuống một tảng đả lớn gần đấy:
- Cứ mỗi lần ở Sàigòn tôi thấy chán nản, buồn phiền, đau khổ, tôi đến đây trong giây phút nầy, để chứng kiến mặt trời mọc trên sóng biển. Và lần nào tôi cũng có cảm giác như ánh vàng huyền diệu kia gội rửa hết cả cuộc đời đầy khổ lụy.,..
- Nếu đời người được sống trong lý tưởng nhiều hơn trong thực tế thì đẹp biết bao nhỉ!
- Chính vì thế nên khi người ta tìm được một lý tưởng, ta muốn giữ lấy nó, không muốn mất nó... Mất nó là mất tất cả... đời người sẽ rỗng không, vô hương, vô vị…
Ánh thấy nôn nao trong lòng quá. Mỗi lần nghe chuyện ông Ngọc Minh, Ánh đều có cảm giác êm đềm mạo hiểm như một cuộc phiêu lưu quyến rủ trong thế giới suy tư.
Ông Ngọc Minh dứng dậy:
- Chúng ta đi xuống bãi bể vọc nước chơi.
Ông đưa tay ra đỡ Ánh.
Đôi bạn vừa xuống núi, vừa nói chuyện.
- Ánh thích tắm biển không?
- Em chưa tắm biển lần nào, và hôm nay đi, em rất tiếc không có dự bị mua áo may-ô (maillot)... Chắc ông tắm biển thường lắm nhỉ?
- Vâng. Tắm nước biển và nắng biển là bồi bổ sức khỏe trong người. Chúng ta ở Sàigòn như nghẹt thở, mỗi lần ra biển là được tiếp tế nhiều thêm hồng huyết cầu.
- Ông biết bơi không?
- Thỉnh thoảng tôi thích bơi, không phải là để bơi, mà để ôm ấp nô đùa với sóng, giỡn với sóng, vui lắm, Ánh ạ. Những khi tôi lao mình vào Đại dương đang hồi hợp dâng lên, thì những cánh tay mềm mại đón tôi, ghì chặt lấy tôi, không muốn buông ra, Tôi say mê... say mê... thể xác và tâm hồn buông trôi theo nhạc sóng. Nhưng ở đây biển cạn, sóng... vỗ nhè nhẹ, êm êm, không như biển Nha Trang sóng mạnh lắm, tôi không dám bơi xa. Biển Đồ Sơn ở Bắc Việt, biển Sầm Sơn ở Thanh Hóa, cũng thế. Sóng mạnh, bơi xa hơi nguy hiểm.
Ánh cười:
- Ông thích đùa với sóng mà ông sợ sóng ư? ông ‘‘say mê’’ sóng biển. Biển là cô tình nhân của ông cơ mà!
- Biển là cô tình nhân hay ghen: Những lúc nàng ghen, nổi lên cơn thịnh nộ với người yêu.
- Biển muốn chiếm lấy một mình, giấu cất trong lòng biển những kẻ nào hụp lặn trong ái, đắm đuối, si mê...
- Ồ, thế thì Đại dương tàn nhẫn quá nhỉ! Biển rộng bao la, sao lòng biển lại hẹp thế?
Ánh và Ngọc-Minh ngồi xuống bãi cát. Ngọc Minh nhìn Ánh, hỏi:
- Ánh không biết ghen ư?
Ánh nhoẻn một nụ cười duyên dáng:
- Ghen?... Ghen là thế nào nhỉ? Em chưa hề biết ghen là gì.
- Để tôi chỉ cho Ánh cái ghen nhé.
Ngọc Minh đứng dậy, đi vài bước đến chỗ cát vừa bị sóng tạt vào, ngay trước mặt hai người. Ông cúi xuống lấy ngón tay viết trên mặt cát ướt bằng những nét đậm:
‘ÁNH - NGỌC MINH’’
Xong, ông trở lại ngồi bên Ánh. Một làn sóng từ ngoài biển tiến vào rất nhanh, tung lên một đám bọt trắng xóa, phủ ngập mặt cát, rồi rút lui ra biển. Hai cái tên do Ngọc Minh vừa viết, không còn dấu vết nữa. Sóng biển đã hốt lùa đi mất. Ngọc Minh cười bảo:
- Ghen là thế đấy!...
Ánh cũng cười:
- Ồ, cái ghen xấu xa quá nhỉ! Nếu em là ngọn sóng Đại dương...
- Thì sao?
- Thì,..
Nhưng Ánh mắc cở, cười không nói. Ngọc Minh tiếp lời:
- Tôi hiểu. Nếu Ánh là ngọn sóng Đại dương, chắc Ánh sẽ reo lên bản nhạc diễm huyền đón chào hai cái lên...đang...âu yếm kề nhau... có phải thế không, Ánh?
Ánh không trả lời, nhưng mỉm cười, gật đầu:
Bãi biển đã dông đặc những người đi tắm. Đủ các hạng người, Việt-Nam lẩn lộn với ngoại quốc, đàn ông, đàn bà, trai, gái, trẻ em, nô đùa vui vẻ, có đến vài trăm người. Hầu hết các thiếu phụ và thiếu nữ đều mặc may- dô, bơi tắm ngoài biển, hoặc vào ngồi trên các ghế nhà dù, hay nằm trên cát phơi nắng, cười đùa với bạn bè rất tự nhiên. Đàn ông và thanh niên cũng thế. Ánh mặc áo dài ngồi chơi đấy, tự thấy rnình không hợp thời, hợp cảnh.
Ánh không muốn thiên hạ để ý đến y phục của mình, và không lẽ từ Sàigòn ra Vũng Tàu hóng gió mà cử nịt mãi trong mình chiếc áo dài của đô thị? Ánh đánh bạo nói với Ngọc Minh:
- Eiu muốn cởi áo dài, mặc áo bà ba cho mát.
- Đúng lắm.
Ông Ngọc Minh hiểu ý đứng dậy đi ra xa, để Ánh bước ra sau mấy cụm đá lớn, không ai trông thấy. Ánh cởi áo ngoài ra chỉ còn đeo ‘’áo nịt’’ che bộ ngực nở vun, đầy đặn, rồi vội vàng mặc vào chiếc áo bà ba lụa màu hồng mà Ánh có đem theo trong chiếc giỏ mây. Ông Ngọc Minh cũng đã cởi sơ mi, và quần dài, mặc quần đùi để tắm như các người đàn ông khác. Ông trở lại gần Ánh, bỏ đống áo quần của ông cạnh chiếc giỏ mây.
Ông ngồi xuống chỗ cũ ngay bên Ánh. Lần đầu tiên, Ánh ngồi với một người đàn ông ở trần, mặc quần đùi. Trên bãi biển, đàn ông ai cũng phục sức như thế. Nhưng Ánh vẫn e thẹn. Tuy hai người chưa dám ngồi kề sát vào nhau lắm, không có sự đụng chạm vào thân thể, Ánh vẫn bẽn lẽn, còn muốn ngồi xít ra một tí nữa. Nhưng Ánh sợ làm như thế kém lịch sự với người bạn đàn ông luôn luôn nhã nhặn và lễ phép. Ánh vẫn giữ điệu bộ tự nhiên, không muốn để ông Ngọc Minh nhìn thấy sự bối rối của mình. Ngọc Minh hỏi:
- Ánh không tắm?
- Dạ, không. Em không có may dô. Ông cứ đi tắm. Em ngồi đây coi chừng đồ đạc.
- Ánh tha lỗi nhé.
Ông đứng dậy, chạy ra biển bơi lội, lẫn trong đám đông người. Ngồi một mình trên cát trắng. Ánh không ngờ ông giáo sư triết học có bộ ngực nở nang khỏe mạnh như thế.
Ánh mỉm cười trông thấy ông đôi lúc có những cử chỉ rất tự nhiên gần như ngây thơ, như cậu học trò. Ông bơi đùa với mấy chàng thanh niên chuyện trò với họ vui vẻ thân mật như bạn bè. Ông đùa với các em bé chín mười tuổi, để các em tát nước tung toé vào người ông, và ông lặn xuống nước để chúng đi tìm. Ông vào gần bờ với một đám năm sáu đứa, ngồi xuống nước đưa hai bàn tay ra thi đua hứng những con cá nhỏ bơi rất nhanh không bao giờ bắt được một con.
Ánh thấy ông Ngọc Minh chơi vui vẻ với đám con nít, cũng muốn xuống nước tham gia các trò chơi. Ánh đi chân không, vén ống quần lên đến đầu gối và reo lên:
- Cho em chơi bắt cá với nhé!
- Xuống đây, Ánh! Suýt nữa mình bắt được một con!
- Nhờ áo bà ba ngắn tay, Ánh tha hồ vọc nước, cũng không khác gì các em bé mười tuổi, Té ra ở đây không còn ai là người lớn nữa cả! Ai cũng chơi đùa như trẻ nít, quây quần nhau hăng hái, người đào cát, kẻ vát mương, đắp thành, xây nhà, dựng lên một nhà lầu, bằng cát để rồi nhìn ngọn sóng ùa vào phá tan hết cả! Ánh, Ngọc Minh và lũ trẻ nít đều cười vang lên, giọng cười hồn nhiên, trong trẻo, như một cặp vợ chồng Tiên với bầy Tiên con nô đùa trong bến Đào Nguyên. Dù giữ gìn thế nào, áo bà ba và quần lụa trắng của Ánh cũng bị nước bắn vào ướt nhẹp. Ánh cười hăng hắc, chạy lên nằm phơi nắng trên bãi cát khô. Ánh lấy một tờ nhật trình gấp làm đôi tủ lên trên mặt che mặt trời.
12 giờ, Ngọc Minh và Ánh vào mấy nhà dù, dùng món ăn trưa và giải khát. Xong, đôi bạn dắt nhau leo lên núi. Dưới bãi biển còn đông đặc những người, lô nhô lúc nhúc, cười nói ồn ào nhộn nhịp. Riêng nơi đây, chỉ có hai người cheo leo trên sườn núi. Tìm được một đám cỏ mát dưới bóng tàn cây xào xạc gió, Ngọc Minh và Ánh sắp đặt một nơi ngồi nghỉ trưa hoàn toàn tĩnh mịch. Ánh xem chừng đã mệt, vì nắng, vì leo núi, và có gió biển mát rượi, Ánh dựa vào gốc cây, lim dim buồn ngủ …
Ngọc Minh lấy chiếc khăn tắm của ông, phơi nắng đã khô, trải ra trên cỏ, vừa một người nằm. Ông khẽ bảo cô bạn gái:
- Ánh nằm tạm đây nghỉ một chút.
- Dạ.
Ngọc Minh đứng dậy đi xa xa để cho Ánh được tự đo khỏi ngượng. Ông chẳng biết mệt nhọc gì cả. Trái lại, ông ưa đi lang thang trên bìa núi, tìm những bông hoa rừng.
Ánh một mình, nằm xuống nghỉ. Gió biển mát và khỏe lạ thường, không như gió nóng nực ở Sàigòn. Ánh nằm nghe vài tiếng chim chi chít trên cây, rồi ngủ quên lúc nào không biết.
Mãi đến xế chiều, Ánh sực tỉnh dậy, thấy ông Ngọc Minh ngồi dựa gốc cây bên cạnh, đang xem một cuốn sách- Ánh vội ngồi dậy, đôi má thẹn thùng đỏ ửng:
- Ồ, em xin lỗi ông…
Ngọc Minh, hiền lành, cười:
- Ánh ngủ trưa ngon giấc không?
- Dạ... em chóng mặt, nằm ngủ lúc nào không hay.... Thưa ông, mấy giờ' rồi ạ?
- 3 giờ.
- Ồ, em đã ngủ hơn hai tiếng đồng hồ!...
Ngọc Minh làm bộ bí mật:
- Đố Ánh, biết tôi muốn tặng Ánh một món gì không?
Ánh khẽ lắc đầu cười:
- Dạ không.
Ngọc Minh đưa tay ra phía sau lưng, lấy một chùm hoa màu tím đẹp vô cùng. Ông trao Ánh:
- Trong lúc Ánh nghỉ, tôi đi hái được một cành hoa này trên đỉnh núi...
Ánh cảm động quá, hai gò má ửng hồng lên, đẹp làm sao... Ánh âu yếm nhìn ông Ngọc Minh:
- Em đem cành hoa nầy về Sàigòn, ép vào sách để giữ làm kỷ niệm cuộc đi chơi hôm nay.
Ánh lại hỏi:
- Ông xem quyển sách gì đấy?
Ông đưa Ánh xem bìa:
- ‘‘The Soviet spies’’ (các thám tử Nga sô). Tác giả Richard Hirsch, là Trung Tá phụ trách ban Trinh Thám của Bộ chiến tranh Mỹ. Nhiều tài liệu hay quá.
- Lúc nãy ông lên núi với em, sao em không thấy ông cầm sách theo?...
- Lúc Ánh nghỉ, tôi trèo xuống núi lấy sách trong xe... Để hôm nào tôi xem hết, sẽ kể chuyện cho Ánh nghe... Đây là những chuyện rất ly kỳ xảy ra trong kỳ đệ nhị thế chiến ở Âu châu... Bây giờ chúng ta xuống ngồi trên bãi biển một lúc 5 giờ về Sàigòn nhé...
- Dạ.
Ông Ngọc Minh nắm tay đỡ Ánh bước thong thả xuống sườn núi.
Chiều mát, ông Ngọc Minh lái xe chậm chậm về đến Sàigòn gần 8 giờ. Ông đề nghị với Ánh ghé lại dùng cơm tại một nhà hàng mát mẻ trên bờ sông trước khi ông đưa Ánh về Hòa Hưng. Ánh vui vẻ nhận lời. Giờ nầy nhà hàng rất đông khách, nhưng may mắn còn một bàn trống ở góc xa, Ngọc Minh và Ánh đến ngồi hai ghế đối diện, nhìn nhau tủm tỉm cười. Một người chiêu đãi viên cầm bút chì và sổ con đến lễ phép hỏi:
- Thưa ông bà dùng chi?
Ánh thẹn đỏ mặt, e lộ cúi xuống tấm thực đơn. Ông Ngọc Minh bảo chiêu đãi viên:
- Anh cho hai ly nước cam tươi trước đã.
Không phải lần đầu tiên Ánh ăn cơm ở nhà hàng, Ánh thuộc về hạng người không có nhiều tiền cho lắm, mỗi tháng chỉ lãnh được số lương thư ký khá nhất là ba nghìn đồng, lại còn phải tiện tặn để dành tiền sang một căn nhà nho nhỏ ở ngoại ô, nên không bao giờ dám xài hoang phí. Nhưng đã có nhiều cơ hội Ánh đi dự các tiệc cưới của các bạn đồng nghiệp, hoặc các buổi lễ liên hoan trong sở, anh chị em góp tiền nhau để tổ chức các bữa tiệc tại nhà hàng. Tuy nhiên, Ánh đâu có quen gọi các món ăn Tây, Tàu, và đây là lần đầu tiên Ánh đi ăn nhà hàng một mình với một người đàn ông, lại là một giáo sư sang trọng. Ánh bối rối, ngượng nghịu, không biết gọi thế nào, nhìn vào các món ăn ghi trong thực đơn, chẳng biết món nào ngon món nào dở.
Ánh hỏi lại ông Ngọc Minh:
- Ông dùng chi, để em gọi?
Nhưng Ánh không ngờ ông giáo sư Triết lại còn ngớ ngẩn hơn Ánh nữa. Đi ăn nhà hàng không biết mấy trăm lần mà ông tuyệt nhiên không để ý đến món ăn nào cả. Ngó vào thực đơn ông cũng mù tịt chỉ biết mỗi một món duy nhất ‘‘Chateaubriant’’ mà thôi. Ánh cười!
- Em gọi ‘‘Chateaubriant’’ nhé?
Ông Ngọc Minh mỉm cười gật đầu.
Người bồi bưng đến hai ly nước cam tươi rồi lại hỏi Ánh:
- Thưa ông bà kêu món chi?
Ánh cố làm ra vẻ tự nhiên:
- Anh cho hai cái Chateaubriant... 10 cái bì cuốn.
- Dạ, còn món chi nữa không?
- Thôi, cám ơn, chốc nữa cần gì sẽ gọi thêm.
- Dạ.
Ánh ngượng quá, vì chiêu đãi viên cứ gọi Ánh bằng ‘‘Bà’’, ngượng với ông Ngọc Minh, nhưng ông giáo sư nói chuyện với Ánh hình như không để ý đến chi tiết nhỏ nhặt kia.
- Ở đây gió mát lạnh nhỉ!
- Dạ, cũng gần như ở Vũng Tàu.
- Ánh uống nước cam đi.
Ánh nâng ly nước cam cùng một lúc với ông Ngọc Minh, uống vài hớp rồi đặt ly xuống cùng lúc với Ngọc Minh.
Ngọc Minh châm điếu thuốc hút rồi bảo:
- Cuộc chơi Vũng Tàu hôm nay là một cuộc du ngoạn hứng thú nhất trong đời tôi... Đẹp nhất trong đời tôi...
- Một ngày vừa qua, thoáng như một giấc mơ ấy nhỉ?
- Bao nhiêu kỷ niệm êm đềm...không thể nào quên được!
Ánh mở bóp lấy nhè nhẹ ra mấy cành hoa rừng của ông Ngọc Minh hái tặng lúc chiều, Ánh mơn trớn hoa với mấy ngón tay mủm mỉm, khẽ bảo:
- Hoa nầy màu tím đẹp quá,
- Hôm nay tôi muốn gọi cánh hoa nầy là cánh hoa Tim...cánh hoa Tim...tím?
Ánh mỉm cười:
- Thi sĩ lúc nào cũng có những chữ đầy thú vị,
- May là tôi không phải thi sĩ. Và tôi không mnốn làm thi sĩ,
- Tại sao ạ?
- Thi sĩ là một hạng người luôn luôn bị người đời chế nhạo. Đôi khi tôi nhìn thấy thi sĩ hình như lố bịch... Phải thế không, Ánh?
Ánh mỉm cười:
- Em thấy ông là một người rất vui vẻ và cũng rất đứng đắn... Ông như cành hoa tím nầy, càng thanh cao, càng khiêm nhượng.
Người bồi bưng lên một dĩa bì cuốn và nước mắm tỏi
ớt...
Ngay lúc ấy, ở một bàn cách xa, lẫn lộn trong các bàn khác đông nghẹt khách, có một gia đình cũng đang ăn. Một đứa nhỏ khẽ cúi xuống sát vào má nó và bảo thầm bên tai:
- Má ơi, ai ngồi bàn ngoài kia, ở mé sông, giống cậu Hai quá, với chị Ánh, má à.
Thiếu phụ, chính là Minh Tú. Bà quay mặt ra tìm kiếm qua các bàn nhỏ những người ngồi ăn dưới ánh điện sáng lờ mờ xanh dịu.
Minh Tú tái mặt, quay lại nói với chồng:
- Mình ngó ra phía mé sông, chỗ cái bàn nhỏ hai người, có phải anh Hai với con Ánh đấy không?
Người chồng trông thấy, gật đầu:
- Phải.
Minh Tú tức giận, toan đứng dậy đến nơi đó ‘‘chộ mặt’’ con đầy tớ cũ với người anh ruột của cô. Nhưng chồng cô kéo tay bảo ngồi xuống:
- Em đừng làm thế giữa nơi công cộng, Bất lịch sự.
- Em không muốn thấy mặt con đĩ ngựa đó. Em muốn đến đánh cho nó một tát tay!
- Em có quyền gì đánh người ta? Em định làm nhục anh Hai giữa nơi đông người hả?
- Cho nhục! Ai biểu ảnh mê con mặt thớt ấy chi?
- Im đi! Em không được hỗn với anh Hai.
Bị chồng ngăn cản và rầy, Minh Tú nói quạu:
- Em đi về đây.
Một đứa con của Minh Tú, đứa nhỏ nhất, muốn chạy đến mừng cậu Hai của nó, mà nó rất yêu mến, thường nhắc đến luôn, nhưng Minh Tú níu nó lại. Cô trừng mắt ngó con và la nó:
- Không có cậu cháu gì nữa hết... sửa soạn đi về con!
Bữa ăn chưa xong, còn dở dang, nhưng Minh Tú nhất định bỏ đi về một mình, lôi cả đứa nhỏ theo. Thầy Năm ngồi ăn một mình, với đứa con lớn. Thầy rất bất mãn về thái độ nóng nảy và vô lễ của vợ.
Ngọc Minh và Ánh không hay biết chuyện gì cả. Ăn xong, Ngọc Minh cùng Ánh ra về. Chỗ chật, phải len qua các hàng ghế, ông nhường Ánh đi trước, ông đi sau, không dè có người em rễ đang ngồi nơi bàn xa ngó ông với Ánh, trong đám đông khách ăn uống và trò chuyện vui vẻ náo nhiệt ấy.
Ngọc Minh và Ánh đã ra ngoài đường, thầy Năm còn nhìn theo, ra vẻ thông cảm và thích thú lắm. Đứa con thầy Năm hỏi:
- Sao cậu Hai đi với chị Ánh, hả ba?
Thầy Năm tủm tỉm cười:
- Không phải chị Ánh đâu. Mợ hai của con đấy.
Đứa bé trố mắt ngó ba nó, không hiểu gì hết.
- 2 -
Ngọc Minh lái xe đưa Ánh về đến gần chợ Hòa Hưng, đã quá 9 giờ. Ông đậu xe trước ngõ hẻm và mở cửa xe để Ánh xuống. Ánh niềm nở cám ơn ông và bảo:
- Nhà em mới dọn, cách đây chừng mười căn phố, bên trái. Trước sân hẹp có rào cây sơn xanh, cửa có treo màn dentelle. Hai bên cửa có trồng mấy bụi hoa. Vách tường mới quét vôi. Em mời ông 6 giờ chiều chú nhật tuần tới, đến dùng cơm tối với em ông nhận lời nhé?
- Cảm ơn Ánh, tôi sẽ đến.
Ánh có chơi cái hụi trong sở, hốt chót được hai chục ngàn đồng, và nhờ tiền dành dụm trong mấy năm làm thư ký nhà in, với đời sống cần kiệm và giản.dị, Ánh sang được một căn phố năm chục ngàn đồng, đầy đủ tiện nghi. Tiền thuê mỗi tháng bảy trăm đồng, kẻ cả điện nước vào khoảng chín trăm. Món tiền ấy chiếm hết một phần tư số lương của Ánh. Mẹ Ánh sợ tốn kém quá nhiều, muốn Ánh mướn một căn nhà rẻ tiền hơn, nhưng Ánh cho là tiền mồ hôi nước mắt mình kiếm ra được là để cải thiện đời sống của mình một phần nào, chứ đâu phải làm ra tiền để nô lệ đồng tiền và tự đày đọa tấm thân mình trong cảnh bần cùng, thiếu thốn rnãi? Không những thế, Ánh còn để 1 phần 4 số lương vào các công tác từ thiện giúp người nghèo khổ.
Một căn nhà xinh xắn tuy hơi chật nhưng cũng được ba phòng, thêm một nhà bếp và một phòng tắm. Ánh sắp đặt để mẹ ở riêng một phòng, Ánh một phòng, mỗi phòng kê một chiếc giường nhỏ vừa một người nằm, và một tủ đựng quần áo. Ánh bài trí căn nhà ngoài rộng rãi hơn. Trong cùng là bàn thờ Ba của Ánh, với bức ảnh lồng kiếng của người. Như chúng ta còn nhớ, lúc sinh thời ông làm thợ máy trong nhà máy đìện Chợ quán và chết vì tai nạn lao động. Trước bàn thờ, ngay giữa nhà Ánh kê mội bộ xa lông đơn giản, nhưng xinh xắn, gồm một bàn vuông nhỏ, một ghế nệm dài và hai ghế phô tơi. Bên phải, một bàn viết đặt sát vào song sắt che một tấm màn xanh mỏng. Cạnh bàn viết có một tủ sách đựng hơn một trăm quyển, phần nhiều là các tác phẩm Văn học và sử học Việt nam, vài chục quyển tiểu thuyết và thơ của các nhà văn hiện đại mà Ánh yêu chuộng nhất.
Có cả bốn năm quyển sách Pháp ngữ về văn học và khoa học thường thức, hai quyển sách học Anh ngữ và ba quyển Tự điến Việt Pháp Anh, Pháp Việt, và Anh Việt. Ánh đã hy sinh gần hai tháng lương cứ mỗi tháng mỗi ít, lâu ngày thành nhiều - để tạo ra được tủ sách quý ấy mà Ánh rất hãnh diện. Bên cạnh tủ sách có một tủ kiếng đựng các tạp chí văn hóa mà Ánh mua đều đều mỗi kỳ để trau dồi trí thức.
Nền nhà lót gạch vuông, đỏ và trắng, chủ nhà trước để bẩn thỉu, Ánh đã phải lấy bột ‘‘Nab’’ chùi lau sạch sẽ, mất cả một buổi trưa. Bây giờ thì nền gạch láng bóng như còn mới tinh. Trên các bức tường, mà Ánh thuê quét màu xanh nhạt, Ánh không thích treo bừa bãi nhiều thứ như trong đa số các nhà Việt nam. Chỉ mỗi một tấm lịch lớn có đủ ngày Việt ngày Tây treo cạnh bàn viết, một bức ảnh rọi lớn của Ánh, bức ảnh đẹp nhất lúc còn đi học, treo trên tủ sách; một bức họa truyền thần má của Ánh, treo trên cửa thông vào nhà trong ; và trên tủ kiếng một bức tranh thôn quê Việt,nam rộng lớn, đóng khung gỗ, do một người bạn họa sĩ làm việc trong nhà in vẽ tặng Ánh.
Má Ánh muốn dán lên tường một phụ bản Cô gái đẹp, - một nữ ca sĩ của một số báo xuân in ở nhà in nơi Ánh làm việc do một ký giả báo ấy tặng Ánh hôm Tết. Ký giả có nhã ý đề mấy dòng chữ trên phụ bản: ‘‘Thân tặng cô Lê thị Ánh, người đẹp muôn thuở’’. Ánh cảm ơn họa sĩ với tất cả lòng thành thật, nhưng khi má Ánh muốn dán phụ bản lên giường phòng khách, Ánh hỏi:
- Má định dán hình đó, chi vậy má?
- Má thấy đẹp,
- Cái đẹp ấy không có ý nghĩa gì cả. Bây giờ Má dán lên, rồi sang năm má lại gỡ xuống, thêm bẩn vách tường,.
Bà già thấy Ánh không thích, cũng vứt phụ bản trong đống nhật trình cũ để gói đồ.
Trong một tuần lễ mới dọn nhà, các buổi trưa và buổi tối một mình Ánh với bà mẹ già sắp đặt nhà cửa có ngăn nắp đâu vào đấy, có trật tự và sạch sẽ.
Ánh dọn nhà mới, không muốn cho bạn bè hay biết, Ánh chỉ mời một mình ông Ngọc Minh đến dùng cơm tối chủ nhật với Ánh.
Ánh không sửa soạn gì thật đặc biệt để đón tiếp ông, ngoại trừ một bình hoa lay dơn trắng mịn, toàn những búp hoa hàm tiếu tỏa ra trên bàn khách giữa nhà.
Ánh đã đẹp tự nhiên, Ánh càng tự nhiên càng đẹp, đôi môi thắm tươi và đôi má đào tơ không cần son phấn. Ánh mặc áo dài hoa màu tím,- màu Ánh thích nhất – quần lụa trắng, và mang dép. Nói là diện thì Ánh không diện bằng ai, nhưng nói là đẹp thì có lẽ Ánh đẹp hơn tất cả các cô gái đẹp. Ồ, xin các bạn gái hãy tha thứ cho tôi! Khi tôi nói rằng Ánh đẹp hơn tất cả các cô gái đẹp, là tôi nói những cô gái đẹp mà ông Ngọc Minh quen biết...
Vả lại, các bạn đã biết rằng ông Ngọc Minh yêu Ánh đâu phải chỉ vì Ánh đẹp mà thôi.
Ánh xem đồng hồ thấy 6 giờ 5 phút thì ông Ngọc Minh vừa đến trước cửa. Ông nở nụ cười thân mật, tự nhiên. Ánh niềm nở đón chào, nhưng không thể nhịn cười thấy ông ôm hai tay một cái gói gì thật to, kềnh càng, coi bộ nặng nề. Ông bước cẩn thận lên hè, Ánh vội vàng đưa hai tay ra:
- Ồ, ông ôm cái gói gì nặng thế? Xin phép ông cho em đỡ tay...
- Ánh cứ để tôi...
Bước vào nhà, ông đặt nhè nhẹ cái gói nặng ấy trên bàn viết của Ánh nơi cửa sổ. Một gói vuông vức, bọc giấy vàng, và ràng bốn dải xanh thắt phía trên mặt thành cái nơ rất mỹ thuật. Ông tươi cười quay lại bảo Ánh:
- Một món quà nhỏ để kỷ niệm tình bạn rất tốt đẹp của chúng ta...
Quá cảm động, Ánh chưa nói được một lời, hồi hộp tháo nhè nhẹ cái nơ xanh, rút dải xanh, và mở hẳn lớp giấy gói ra: Ồ, đẹp quá! Cái Radio Philip! Ánh không chế ngự được nỗi cảm xúc quá mạnh, ngồi gục đầu xuống bàn, rưng rưng hai ngấn lệ...
Ông Ngọc Minh biết phép lịch sự, khẽ bước tránh ra. Ông đến bàn khách ngắm mấy cành hoa lay dơn. Năm phút sau, Ánh lau nước mắt, đứng dậy lại gần ông Ngọc Minh:
- Em xin cảm ơn ông có mỹ ý cho em món quà tuyệt đẹp. Em xin phép ông em vào thưa với Má em.
Ánh chạy vào nhà trong. Liền sau đó, Ánh đưa mẹ ra phòng khách, giới thiệu:
- Má em... ông Ngọc Minh, giáo sư Đại học.
Ông Ngọc Minh chắp hai tay trước ngực, khẽ cúi đầu:
- Thưa bác..cháu đến mừng bác và Ánh dọn nhà mới.
Bà già cũng chắp tay trước ngực, cúi đầu đáp lễ. Ánh vui vẻ dắt mẹ đến trước máy Radio:
- Của ông Giáo sư cho con đấy, má ạ.
Bà già quay lại ông Ngọc Minh mà bà đã nghe con gái bà nói đến nhiều lần rồi nhưng lần đầu tiên bà mới được biết mặt. Bà nói giọng rất nhỏ nhẹ:
- Ông cho Ánh món đồ quý giá quá... Xin cảm ơn ông... Mời ông ngồi.
Bà bảo Ánh:
- Con ngồi đây tiếp ông giáo để mẹ vô coi dọn cơm.
- Để thong thả má. Má ngồi đây nói chuyện chơi một chút đã. Cơm, chút nữa con dọn.
Bữa cơm khách thường thôi. Nói đúng ra, tuy là nghèo nhưng Ánh cũng có thể sắm sửa một bữa tiệc sang trọng hơn để đãi ông Ngọc Minh, nhưng Ánh không muốn thế. Ánh tự bảo: Ở địa vị của Ánh, phô trương rền rang làm gì những lộng lẫy bề ngoài không thích hợp với hoàn cảnh của mình? Ông Ngọc Minh lại là người rất bình dân, khiêm tốn, chính ông ở địa vì cao sang hơn nhiều mà ông còn thích giản dị, tự nhiên. Ông đâu có ưa cầu kỳ. Ấy mới thế là chân thanh, cao quý.
Má Ánh viện lẽ dạo nầy ăn chay trường nên xin miễn thứ, để một mình Ánh ngồi tiếp ông. Bữa cơm đạm bạc nhưng thân mật, ngon lành, rất vui vẻ. Cả hai người đều tự nhiên, không khách sáo, không e lệ, và trao đổi những câu chuyện bông đùa tao nhã đầy ý nhị. Chủ và khách ngồi đối diện vẫn coi là đôi bạn thân yêu, nhìn nhau âu yếm, chia sớt cho nhau những món ăn, trao đổi cùng nhau những câu tâm tình mỗi lúc mỗi nồng nàn, càng nói chuyện càng say mê, càng khắng khít...
Nhưng xong bữa cơm, lúc dùng trái cây tráng miệng và uống trà, ông Ngọc Minh bỗng dưng tỏ vẻ bối rối, ngượng ngùng... Những tiếng cười vui vẻ không còn nữa. Giờ phút trở nên nghiêm trọng. Ánh cũng im lặng, hồi hộp, đoán chừng ông Ngọc Minh sắp sửa nói gì... Ánh chỉ sợ ông Ngọc Minh nói ra câu ấy, câu rất cảm động, rất đê mê, nhưng đối với Ánh... rất ghê sợ...câu nói mà Ánh đã từ chối hai lần cách đây đã năm năm, mà Ánh biết rằng thế nào Ngọc Minh cũng sẽ hỏi lại Ánh một lần nữa, hỏi mãi và đợi mãi câu trả lời... Ánh sợ câu trả lời, cũng như câu hỏi. Ánh thầm mong rằng tình bạn thân yêu trong trắng giữa Ánh và Ngọc Minh sẽ cứ được giữ nguyên vẹn như thế nầy trong một thời gian, đừng có câu hỏi ấy vội... để Ánh đừng có câu trả lời ấy vội,
Ánh bồi hồi, cúi mặt. Tâm lý của Ánh bây giờ sao đầy mâu thuẫn thế? Đầy xáo trộn bâng khuâng...
Tiếng của ông Ngọc-Minh khẽ gọi:
- Ánh?
Ánh ngước mắt nhìn ông:
- Dạ.
- Nếu ngày nay tôi... nhắc lại câu tôi đã hỏi Ánh hôm đầu tiên... cách đây 5 năm... thì Ánh nghĩ sao?
Ánh lại cúi đầu làm thinh. Một lúc lâu Ánh mới đáp:
- Dạ, em chưa dám trả lời.
- Có chi trở ngại không, em?
Ánh trả lời rất nhỏ:
- Dạ, có...
- Má của Ánh?
- Má em không ngăn cản em một việc gì cả. Em làm chi, má em cũng tán thành.
- Gia đình của tôi cũng không ngăn cản tôi được.
- Nếu ông kết hôn với em, thì em gái của ông, bà Minh Tú, sẽ nghĩ sao?
- Minh Tú không có quyền gì.
- Chính vì Minh Tú không có quyền cản trở cuộc hôn nhân của ông, nên bà ấy sẽ tìm mọi cách để phá.
- Tôi sẽ có cách giải quyết vấn đề ấy... Tôi nhất định bảo vệ tình yêu của chúng mình,
- Em lo cho ông hơn là lo cho em. Minh Tú sẽ cương quyết dùng đủ mọi cách để không cho ông thực hiện ý muốn. Bà ấy có thể vận dụng tất cả tình cảm gia đình để phá tan ý định của ông. Ấy là điều em lo ngại, nhưng lo ngại cho ông, chứ phần em thì...
- Phần Ánh thì sao?
- Nếu em quyết định, thì em sẽ chịu đựng tất cả mọi thử thách.. Em sẽ vượt qua các trở ngại.
- Tôi chờ Ánh quyết định, còn tôi, tôi tin rằng tôi sẽ dàn xếp cho mọi việc được ổn thỏa. Tôi sẽ thuyết phục được em gái của tôi.
- Em biết Minh Tú nhiều quá. Bà ấy rất kính nể ông và quý mến ông. Nhưng chắc chắn bà ấy sẽ không bao giờ chịu khuất phục ông trong vấn đề nầy. Cho nên mặc dầu tình bạn của ông với em rất là sâu đậm, - đã gắn bó lắm rồi, - em vẫn nghĩ rằng thà em hy sinh hạnh phúc riêng của em, để cho đời ông được yên ổn và để tránh được sự xích mích đau lòng giữa ông và Minh Tú, có lẽ cả giữa ông và họ hàng thân quyến của ông nữa, còn hơn là...
Ông Ngọc Minh buồn bã ngó Ánh:
- Ánh không yêu tôi...?
- Em không yêu ông?..Ông còn hỏi em thế ư?Ông chưa hiểu lòng em ư?
Thấy Ánh rưng rưng nước mắt, Ngọc Minh hối hận, vội vàng xin lỗi:
- Ánh tha thứ cho tôi... Tôi hỏi Ánh như thế vì tôi đau khổ lắm.
Ánh lặng lẽ khóc...
Ánh lấy khăn lay thấm những dòng lệ chảy tràn xuống đôi má, nhưng càng thấm nước mắt càng tuôn ra. Ngọc Minh cúi mặt không dám nhìn người yêu. Ông lấy một điếu thuốc, quẹt lửa châm hút, trầm ngâm một lúc lâu.
Ông gạt tàn thuốc, hỏi:
- Từ nay đến Tết còn vài tháng nữa, tôi mong rằng chúng ta sẽ kết thúc bi kịch nầy. Tình yêu đối với chúng ta không phải chỉ là một vấn đề tình cảm. Nó sẽ giúp, chúng ta thành đạt một cái gì khác, một hành vi vĩ đại. Không có tình yêu của Ánh, tôi sẽ không làm gì được cả, nhưng với Ánh, chúng mình hai đứa sẽ cùng nhau thực hiện một lý tưởng tuyệt vời... Chúng ta sẽ có đủ can đảm và khôn khéo để san bằng mọi trở ngại..
- San bằng cách nào? Em thấy khó khăn lắm. Tình bạn của chúng ta mặc dầu trong trắng và tốt đẹp vô ngần, cũng đã chạm phải một thành kiến ghê gớm. Minh Tú là một người đàn bà ngoan cố và kiêu hãnh. Bà ấy không thể nào chịu để cho ông kết hôn với một kẻ tỳ tiện như em...
- Nhưng Ánh đâu phải là một người tỳ tiện? Về học thức, về tư cách, về nhan sắc, cả về địa vị nữa, đã mấy ai hơn Ánh?
- Ông yêu em, ông quá khen em, nhưng trước mắt bà Minh Tú, em chỉ là ‘‘con Ánh, đầy tớ’’ cũ của bà,
- Năm năm đã qua, chắc em tôi cũng đã nhìn rõ thực tế hơn, Trải bao nhiêu biến đổi, Ánh đâu còn như ngày trước. Dù cho Minh Tú đã có thành kiến giai cấp ngoan cố chăng nữa, ngày nay chắc nó phải thấy rằng thành kiến ấy đã sai lầm.
Ánh khẽ hỏi, với một giọng hết sức từ tốn và chân thật:
- Nhưng tại sao ông nhất định muốn kết hôn với em?... Năm năm qua, em đã do dự... Hạnh phúc diễm tuyệt với một lòng yêu thương bền bĩ vô cùng cảm động, em đã không dám nhận bởi vì em có đôi chút tin tưởng rằng thời gian sẽ xóa nhòa được hình ảnh của em...
Em vẫn kính phục ông hoàn toàn, quý mến ông khôn xiết... và yêu ông... tha thiết yêu ông... nhưng em thấy nếu là tình bạn thì là một tình bạn thiêng liêng, cao quý và xinh đẹp vô ngần, mà nếu là tình yêu, thì...
Ánh buồn bã cúi mặt xuống, nói rất khẽ;
- …Một tình duyên vô vọng!
- Với tôi, Ánh ạ, đây là tình yêu duy nhất, đẹp hơn tất cả các tình yêu... Và tôi không thất vọng. Năm năm qua, tôi chờ đợi... Tôi chờ đợi một câu của Ánh, một câu thôi. Và tôi tin tưởng luôn luôn rằng Ánh sẽ không nỡ để tôi đau khổ đến cùng, nếu tôi biết Ánh yêu tôi...
- Em làm phiền lòng ông nhiều lắm. Ông tha lỗi cho em...
Ánh ngã đầu xuống thành ghế, khóc nức nở. Ngọc Minh cũng không cầm được ngấn lệ. Nhưng ông muốn tỏ ra can đảm trước mọi thử thách, vì dù sao ông cũng là đàn ông và ông tin chắc nơi lý tưởng tốt đẹp của ông. Ông lấy khăn lau mắt rồi châm thuốc hút.
Ông khẽ gọi:
- Ánh ạ.
- Dạ.
- Tôi cảm ơn Ánh đã cho tôi đến thăm Ánh lần thứ nhứt trong căn nhà mới và xinh xắn nầy. Chúng ta gặp nhau hôm nay ở đây, đáng lẽ phải vui. Lúc nãy hai đứa mình vui lắm cơ mà. Việc gì khởi đầu vui, sẽ kết thúc vui, phải không em?... Thôi, khuya rồi, tôi về để Ánh nghỉ...
Ngọc Minh đứng dậy, Ánh cũng đứng dậy:
- Em cũng hy vọng thời gian sẽ giải quyết hết thảy các vấn đề. Chúng ta đã bỏ qua nhiều thì giờ vì những thắc mắc... Định mệnh sẽ thanh toán tất cả. Dù hạnh phúc, hay đau khổ, em cũng sẵn sàng đón nhận.
- Một tình yêu tốt đẹp chỉ có thể đem lại hạnh phúc mà thôi... Ánh có tin như thế không?
- Dạ, em cũng tin như thế.
Ánh không ngủ được, Bốn giờ sáng rồi, Ánh hãy còn thao thức trên giường.
Ông Ngọc Minh chưa biết được rõ những suy tư của Ánh. Tất cả những câu chuyện của Ánh nói với ông từ trước đến giờ đều chân thật, và tình yêu thanh cao trong trắng của Ánh đối với ông thật là mênh mông, không bờ bến. Nhưng làm sao Ánh quên được Hoàng, tình yêu thứ nhứt, và âm thầm đau đớn nhất?
Lạ quá! Mỗi lần gặp ông Ngọc Minh, hầu như Ánh bị hoàn toàn chi phối bởi lý tưởng say mê tuyệt vời của ông, nhưng trong đau khổ một mình giữa đêm khuya thanh vắng, hình ảnh của Hoàng lại hiện ra như một trường hận liên miên. Hình ảnh một thanh niên nghèo không có lý tưởng nào khác hơn là một hạnh phúc giản dị trong diệu hoà và yên tĩnh, không cần ai ghét, không sợ ai chê.
Ngọc Minh như một thần tượng rực rỡ từ trên cao lộng lẫy đã bước xuống đến Ánh, cạnh Ánh. Nếu Ánh trao bàn tay cho ông, Ánh sẽ không còn ở địa vị nầy nữa. Ánh sẽ được nâng lên một hạnh phúc huy hoàng, tuyệt diễm làm sao tránh khỏi ganh ghét, gièm pha, hận thù?
Nơi chân trời rạng rỡ sắp hừng lên vừng thái dương của diễm phúc, Ánh sợ sẽ hiện ra những cuộn mây đen tối của hung thần ác quỷ!
Tội nghiệp ông Ngọc Minh! Nhưng càng tội nghiệp Hoàng! Ánh đơn độc, âm thầm đau khổ, tìm kiếm Hoàng khắp trời mơ tưởng, khôhg thấy Hoàng đâu!
- 2 -
Trong dưỡng đường của Bác sĩ Toại, Ánh nằm trên chiếc giường nệm trắng, đắp ba mền len. Ông Ngọc Minh xem đồng hồ đeo tay ; đã 1 gìờ khuya, ông khẽ nói với với Bác-sĩ:
- May sao đêm nay có anh ở nhà!... Thật là may!...
Bác sĩ bảo:
- Vâng, kể cũng may đấy. Vì nếu sáng nay tôi nghe theo nhà tôi đi Đàlạt chơi thì chủnhật cô Ánh tới, tôi hơi lo vì Ánh đã yếu tim sẵn. Nhưng bây giờ thì Ánh có thể ngủ được rồi... Anh nên về nghỉ, kẻo mệt. Tôi sẽ gọi một cô nữ y tá thức thường trực nơi đây để canh chừng Ánh.
- Không, tôi không thể đi được một khi Ánh còn mê sảng luôn như thế. Nhưng anh đi nghỉ đi. Anh đã khó nhọc nhiều rồi, từ lúc 10 giờ đến giờ. Bây giờ tôi phải chạy đi một lúc, xuống Hòa Hưng báo tin cho Má của Ánh biết để bà già đừng lo sợ. Rồi tôi trở lại đây ngay.
- Thôi, anh đi đi. Để tôi gọi cô Nguyệt vào đây. Tôi cũng cần đi nghỉ một chút. Khi nào cần, anh cứ gọi tôi nhé.
- Vâng.
Một lúc sau trở về, ông Ngọc Minh cảm ơn cô y tá và bảo cô đi nghĩ, ông kéo ghế ngồi cạnh giường bệnh nhân, rờ tay lên trán Ánh đã thấy hơi ấm, nhưng bắt thử mạch thấy mạch chạy còn yếu và không đều, Ánh cứ nói mê sảng luôn, những câu đứt khoảng và những tiếng gọi tên ngươi. Gần 3 giờ sáng, Ánh lại nóng hực, ông Ngọc Minh phải bỏ hết các lớp mền ra và lấy khăn lông của bệnh viện để lau mồ hôi cho cô, từ trên trán, trên mặt, trên cổ, xuống đến hai bàn chân. Ánh vẫn mê man, chẳng biết gì cả. Thỉnh thoảng Ngọc Minh khẽ gọi:
- Ánh! Ánh!... Ánh!...
Ông nắm bàn tay Ánh, khẽ lắc ba lần Ánh mới sực tỉnh, mở mắt ngơ ngác nhìn ông, và trả lời bằng giọng yếu ớt:
- Dạ.
- Ánh khát nước không?
Ánh gật đầu nói rất nhỏ:
- Dạ, khát.
Ông Ngọc Minh đi rót một ly nước đem đến, Ông đỡ Ánh ngồi dậy, cầm ly nước trao Ánh, Ánh uống cạn ly và cảm ơn ông. Ánh lại nằm xuống ngủ. Nhưng Ánh cứ trằn trọc mãi, lăn qua lăn lại trên giường, thỉnh thoảng vẫn còn nói những câu mê sảng.
Ông Ngọc Minh rất hối tiếc vì đã đưa Ánh đi dạ hội đêm nay, ông ôn lại những sự kiện đã xảy ra từ 9 giờ lúc ông đến nhà Ánh, tới lúc Ánh té xỉu trong rạp hát, vào khoảng 10 giờ ông nghĩ rằng Ánh bị cảm nặng là do mấy chiếc quạt máy đã gây ra những luồng gió mạnh mà trái tim hơi yếu của Ánh chắc không chịu được, ông cho rằng có lẽ mấy hôm Tết, Ánh đã mệt sẵn vì lo sắm sửa Tết, một mình Ánh tự làm lấy bánh mứt và dọn dẹp nhà cửa, mẹ Ánh đã già yếu chỉ làm những việc lặt vặt thôi. Có lẽ Ánh đã thức khuya nhiều đêm và mấy hôm Tết, Ánh không được nghĩ ngơi vì khách khứa đông, bạn hữu nhiều, rồi kế tiếp đêm nay... có lẽ Ánh đã đi đạ hội với ông chỉ vì đã lỡ nhận lời với ông từ hôm trước Tết, và muốn giữ lời hứa để khỏi phụ lòng ông đó thôi...
Đoán chừng những nguyên do mà ông cho là có lý, Ngọc Minh rất ăn năn, và ông hối tiếc rằng nếu ông không đưa Ánh đi dạ hội, để Ánh ở nhà nghỉ ngơi thì đêm nay Ánh đâu bị mệt lả và đau trầm trọng như thế nầy. Nhìn Ánh nằm ngủ trên giường bệnh với vẻ uể oải, Ngỏa Minh thương Ánh quá, thương Ánh hơn bao giờ hết. Ông nâng bàn tay Ánh, âu yếm đưa lên môi hôn. Nhưng bắt mạch Ánh một lần nữa, ông vui mừng thấy mạch chạy đã đều, rờ trên trán, trên cổ, thấy hơi nóng đã dịu bớt Ánh đã ngủ ngon, hết mê sảng, hơi thở đều hòa, nét mặt đã hồng hào tươi đẹp lại. Ngọc Minh xem đồng hồ, đã 5 giờ sáng. Yên trí là bịnh tình của Ánh được giảm nhiều, không có gì đáng lo ngại, ông dựa lưng vào ghế fauteuil, ngủ lúc nào không biết...
Đến khi ông chợp mắt tỉnh dậy, đã 8 giờ sáng... Ánh hãy còn ngủ. Ông đi rửa mặt, chải tóc, vừa trở về phòng Ánh thì bà vợ của Bác sĩ Toại, tươi cười, diễm lệ với bộ đồ Pyjama duyên dáng, chạy vào.
- Mời anh sang dùng điểm tâm với nhà tôi.
- Dạ.
- Đêm nay chắc anh chả nghĩ ngơi gì được cả nhỉ?
- Tôi có ngủ được mấy tiếng đồng hồ trong ghế Fauteuil, chị ạ.
- Khổ quá! Cô Ánh đã bớt nóng chưa anh?
- Đã bớt rồi chị. Nhờ anh đã chích cho hai mũỉ thuốc, và cho uống một Potion.
Bà vợ ông Bác sĩ cũng là nữ y tá, đến gần Ánh, sờ tay lên trán cô, bắt mạch cô, rồi quay lại Ngọc Minh:
- Đã đỡ nhiều rồi đó anh.
Ngọc Minh theo sau bà, sang phòng ăn. Ngồi dùng điểm tâm với hai vợ chồng Bác sĩ, Ngọc Minh nói về căn bịnh đau tim của Ánh và những lý do Ánh bị xỉu đêm hôm qua, theo như ông đã ức đoán. Nhưng Bác sĩ Toại bảo:
- Đúng một phần nào. Nhưng dù mệt nhọc và bị courant d’air (gió luồng) của quạt máy thổi mạnh cũng không khiến người yếu tim phải té xỉu đến gần chết giấc như thế được. Ánh đau tim, nhưng đã khá nhiều... Theo tôi có lẽ Ánh bị ngoại cảnh kích thích mạnh vào tình thần...
- Cũng có lẽ... Đêm qua, bài hát của anh Nghệ sĩ Mù hay quá, và giọng hát của anh cảm động quá, đã khiến cho rất nhiều thính giả, nhất là phụ nữ, xúc động đến rưng rưng lệ. Tôi thấy Ánh bị cảm xúc mạnh, nhưng có lẽ vì Ánh yếu tim sẵn nên bị xỉu luôn...
Bà Toại bảo:
- Tôi có bảo chị bếp nấu riêng một tô cháo tapioca (cháo bột báng) để Ánh dùng cho khỏe... Chốc nữa Ánh dậy, nhà tôi sẽ chích thuốc cho Ánh, rồi tôi sẽ bảo chị bếp bưng cháo lên.
- Chị tử tế quá. Chắc Ánh sẽ cảm động lắm.
Bà Toại lại cười hỏm hỉnh:
- Tụi tôi phải săn sóc cho Ánh để chừng nào anh cưới Ánh anh nên nhớ cho tụi tôi uống rượu chứ!
Bác sĩ Toại cũng ngó Ngọc Minh, cười tủm tỉm:
- Anh định chừng nào đấy, anh?
Nhưng Ngọc Minh buồn bã không đáp. Một lúc khá lâu, uống hết ly cà phê sữa, ông mới nói:
- Chỉ có thượng đế sắp đặt mọi việc...
Đã 10 giờ. Sau khi bác sĩ Toại chích thuốc, và Ánh dùng cháo tapioca, Ánh thấy trong người bớt mệt, muốn xin về nhà. Nhưng bác sĩ bảo Ánh nên ở lại bịnh viện để tránh cảnh bận rộn ở gia đình, và để còn chích thuốc. Ông bảo:
- Ánh chưa bình phục hẳn đâu. Cần phải ở đây tĩnh dưỡng vài hôm.
Ngọc Minh lấy chiếc gối lớn dựng xiên sát vào đầu giường để Ánh ngồi dựa lưng vào gối cho khỏe.
Ngọc Minh ngồi ghế âu yếm nắm bàn tay Ánh. Ánh nhìn ông với đôi mắt rất dịu dàng, cảm động. Ánh khẽ hỏi:
- Đêm qua, ông không ngủ sao?
- Sao Ánh biết?
- Lúc nãy cô y tá bảo em thế... Cô bảo ông thức suốt đêm săn sóc cho em.
Ánh rưng rưng nước mắt, nhưng Ngọc Minh nói cười cho vui:
- Đêm qua, tôi thức nghe Ánh nói chuyện!..
Ánh ngạc nhiên:
- Em nói chnyện gì? Em mê man có biết gì đâu!
- Ánh mê sảng nói chuyện... trời mưa... nóng lạnh,., tóc trôi xuống đất... gì gì nữa nhiều lắm. và Ánh cứ gọi: ‘‘Anh Hoàng!’’
Anh Hoàng... Anh Hoàng!’’
Ánh trố mắt, lại ngơ ngác nhìn Ngọc Minh:
- Em có gọi tên... anh Hoàng sao?
Ngọc Minh mỉm cười, gật đầu.
Ánh trầm ngâm một lúc. Rồi Ánh ngó đăm đăm ông Ngọc-Minh:
- Em muốn nói với ông một sự thật... Một sự thật đau đớn... Một sự thật mà em không thể tiết lộ với ông trước kia. Năm năm nay, em vẫn ôm ấp hình ảnh người ấy trong lòng em. Người ấy là anh Hoàng, Vâng, Anh Hoàng.
Bỗng Ánh gục đầu xuống gối khóc nức nở, vừa khóc vừa nói:
-... Anh Hoàng mà em không ngờ hôm nay em gặp lại đã thành người mù lòa!... Trời ơi!... có thể như thế được ư?... Tại sao Hoàng lại mù lòa như thế?
Ánh khóc ấm ức một lúc lâu. Ngọc Minh lấy khăn tay trao Ánh lau nước mắt, và dịu dàng hỏi:
- Có phải Hoàng, giáo sư mù... khi hôm...
- Dạ...
- Lúc Ánh biết Hoàng! Hoàng chưa mù?
- Dạ, chưa... Hoàng thương em từ lúc chúng em còn học trường Chợ quán cho đến lúc anh thi đỗ Trung học đệ nhất cấp. Kể mấy năm trời...! Một hôm em đau thương hàn nằm mê man bất tỉnh như đêm qua, nhưng trong một gian nhà rách nát, nghèo hèn, nhà của má em... Hoàng đến thăm em. Hoàng bán cả chiếc đồng hồ để lấy tiền mua thuốc cho em... Vì Hoàng nghèo lắm, nghèo cũng như em lúc ấy vậy. Thế rồi, em không hiểu do hoàn cảnh nào mà Hoàng xa em, biệt tăm biệt tích cho đến đêm qua em mới trông thấy mặt Hoàng... Nhưng sao Hoàng mù? Trời ơi! Hoàng làm gì mà bị đui mù tội nghiệp như thế?.. Hoàng bị mù đui từ hồi nào?
Ánh lại khóc, hai dòng lệ cứ chảy tuôn xuống đôi má. Ánh lau nước mắt đã ướt cả chiếc khăn tay của Ngọc Minh.
Ánh nói tiếp:
- Nghe bài ‘‘Nhớ bóng người xưa” mà Hoàng hát đêm qua, em hiểu ngay rằng Hoàng nhắc đến em. ‘‘Người xưa’’ ấy là em, cả bài hát để gợi lại những kỷ niệm đau khổ của chúng em hồi còn mến nhau, hồi Hoàng chưa mù...
Ngọc-Minh nắm tay Ánh, an ũi:
- Ánh muốn gặp Hoàng không?
Ánh ngơ ngác:
- Dạ?
- Ánh muốn gặp lại Hoàng không?...
- Dạ, làm sao em gặp Hoàng?.. Gặp Hoàng ở đâu?
- Chúng ta đã biết Hoàng làm giáo sư âm nhạc ở trường Mù Chợ lớn. Bây giờ tôi đem xe vào Chợ lớn rước Hoàng ra đây, để Hoàng gặp Ánh.
- Thật ư, thưa ông? Ông cho em được gặp anh ấy ư?
- Nếu em muốn gặp,
- Em muốn. Dạ, em muốn. Gặp để biết tại sao Hoàng bị mù? Và Hoàng mù từ bao giờ? Nhưng thưa ông, em có làm phiền ông không? Em sợ mất công ông...
Ngọc Minh mỉm cười với nụ cười lúc nào cũng hiền lành, chân thật:
- Không có phiền gì cả. Làm việc gì cho Ánh vui lòng là tôi thích lắm chứ.
Ánh cảm động nhìn ông:
- Ông tốt với em quá...
Ánh lại gục đầu xuống nức nở.
Ngọc Minh đứng dậy, nắm bàn tay Ánh, âu yếm bảo:
- Ánh đừng khóc nữa. Ánh nằm nghĩ cho khỏe. Tôi sẽ trở lại trong vài chục phút,
Ngọc Minh lái xe thẳng vào trường mù Chợ lớn. Nhà trường vắng vẻ vì nghỉ Tết, trước sân trường còn đầy những xác pháo, Ngọc Minh đi qua đi lại trên sân, đợi có ai để hỏi thăm.
Một cậu học trò mù vừa từ trong đi ra. Ông bước lên hè, tiến đến cậu:
- Xin lỗi em, có thầy giáo Hoàng ở đây không?
Cậu học trò mù lễ phép đáp:
- Dạ thưa, có. Anh Hoàng đang nhớm với Ủy ban Tổ chức trong Văn phòng ông Hiệu trưởng.
- Nhóm gần xong chưa?
- Dạ, em không biết... Thầy hỏi anh Hoàng có chuyện chi, để em vào nói lại với anh ấy?
- Cảm ơn em. Chừng nào nhóm xong, tôi sẽ gặp cũng được.
Ngọc Minh lấy gói thuốc, châm một điếu hút, định đứng đấy chờ Hoàng. Nhưng cậu học trò đi thẳng vào Văn phòng Ủy ban. Vài phút sau, cậu với Hoàng cùng ra. Ngọc Minh tiến đến gần, tươi cười đưa tay ra vỗ vai người nghệ sĩ mù.
- À, anh Hoàng!... Tôi là Ngọc Minh đây. Ành còn nhớ tôi chứ?... Hôm đám cưới của anh với cô giáo Toàn...
- Dạ, thưa ông giáo sư, em làm sao quên được ông. Năm mới em xin chúc ông được nhiều hạnh phúc...
- Cám ơn anh, và tôi cũng thành thật khen anh đêm qua đã hát bài? ‘‘Nhớ Bóng người xưa’’ rất hay, rất cảm động..
- Dạ thưa đêm qua, ông có đi?
- Có. Nhân tiện, có một người quen muốn gặp anh. Anh có rảnh không?
- Dạ, rảnh... Thưa ông giáo sư, ai muốn gặp em?
- Một người quen. Nhưng nói chuyện ở đây không tiện, sẵn xe, tôi mời anh ra đi với tôi. Rồi tôi sẽ đưa anh về, Anh đi được không?
- Dạ, thưa đi được... Nhưng, thưa ông, đi đâu ạ?
- Đến nhà một ông bạn thân của tôi. Người quen của anh đang chờ anh ở đấy... À, cô Toàn đâu? có cô ấy ở đây không?
- Dạ thưa, vì dạ hội đêm qua Toàn thức khuya quá, và lo bận nhiều công việc nên hơi mệt. Sáng nay Toàn ở nhà nghỉ, em phải đến dự phiên nhóm của Ủy ban để xem kết quả...
- Nhóm xong chưa?
- Dạ, xong rồi.
- Bây giờ anh đi với tôi được chứ? Rồi tôi sẽ đưa anh về.
- Dạ...
Hoàng vẫn còn do dự, muốn hỏi cho rõ ràng:
- Dạ, xin ông giáo sư tha lỗi cho em, nhưng em có thể biết được người muốn gặp em là ai không?
Ngọc Minh cười, lại thân ái đặt bàn tay lên vai chàng nghệ sĩ mù:
- Một trong những người cảm phục bài ca và giọng hát lâm ly diễm tuyệt của anh... Nhưng đến đấy rồi anh sẽ biết... Năm mới tôi muốn để dành cho anh một ngạc nhiên tốt đẹp... Dù sao cũng là một tin vui của ngày xuân. Anh cứ đi chơi với tôi, đừng ngại.
- Dạ.
Ngọc Minh nắm tay Hoàng, hai người cùng bước thong thả xuống tam cấp, ra sân... ông Ngọc Minh mở cửa xe và đỡ Hoàng vào ngồi ghế trước, cạnh ông.
Trên đường về Sàigòn, Hoàng cứ băn khoăn, muốn biết rõ người nào muốn gặp mình. Hoàng lại muốn hỏi ông Ngọc Minh để gỡ thắc mắc, nhưng chỉ sợ hỏi nhiều lần thành ra vô lễ, Hoàng tin theo lời ông giáo sư, hoàn toàn tin nơi ông, không e ngại điều gì. Vả lại, ông Ngọc Minh cứ nói chuyện liên tiếp, hỏi Hoàng về kết quả của đêm dạ hội thâu hoạch được bao nhiêu, và các chuyện khác về đời sống của Hoàng ở trường Mù.
Đến bệnh viện Bác sĩ Toại, đường Hồng Thập Tự, ông Ngọc Minh đỡ Hoàng xuống xe và đưa Hoàng vào phòng Ánh. Trên giường bệnh, Ánh đang nằm đắp mền có vẻ còn mệt nhọc lắm. Ánh vội vàng ngồi dậy Ngọc Minh vừa đở Hoàng ngồi xuống chiếc ghế fauteuil sát bên giường Ánh, vừa bảo Hoàng:
- Người muốn gặp anh hiện đang ngồi trên giường bịnh, là một bạn cũ của anh, cô Lê thị Ánh.
Rồi nhìn sang Ánh, ông nói tiếp:
- Vào khoảng 2 giờ tôi sẽ trở lại đưa Hoàng về Chợ lớn nhé!
Ngọc Minh khẽ chào Ánh, thân mật bắt tay Hoàng, rồi đi ra, khép kín cửa phòng lại.
Ánh nghẹn ngào một phút, đôi mắt rơm rớm lệ đăm đăm nhìn Hoàng mà không nói được lời nào. Hoàng cũng ngồi yên, chưa hiểu ra sao cả. Bỗng Ánh khóc òa ra, chụp nắm lấy tay Hoàng và hét to lên:
- Anh Hoàng!... Anh Hoàng!...
Hoàng vẫn yên lặng. Ánh ôm mặt vào hai tay, khóc nức nở.
- Anh Hoàng!
- Ánh đấy hả?
Giọng Hoàng run run như không nghe tiếng. Ánh lại cúi xuống âu yếm nắm tay Hoàng:
- Vâng, em đây... Ánh đây...
- Chỗ nầy là chỗ nào?
- Một bệnh viện.
- Sao Ánh ở đây?
- Em bị đau tim. Em mới vào đây đêm qua, sau khi trông thấy anh trên sân khấu rạp Văn Hoa. Năm năm nay, em chờ đợi anh, em tìm kiếm anh... Bây giờ em được gặp anh thật là một may mắn bất ngờ, nhưng tại sao cặp mắt anh như thế?... Trời ơi! Tại sao thế, anh?
- Tôi xin lỗi Ánh, đã từ biệt Ánh năm xưa mà không cho Ánh biết tin. Tôi cũng đâu có ngờ tôi phải trở thành con người mù lòa.
- Nhưng tại sao? Tại sao thế, anh? Anh bị tật từ bao giờ?
Ánh xót xa đau đớn nhìn đôi mắt của Hoàng, đôi mắt kín mít ngăn cách bịt bùng hai thế giới. Ánh lau nước mắt nhưng hai dòng lệ cứ âm thầm trào ra. Hoàng im lặng một lúc rồi nói:
- Ánh còn nhớ không, cách đây 6 năm, một hôm Ánh bị thương hàn nặng, và tôi đến thăm thấy Ánh nằm mê man bất tỉnh trên giường?...
- Em không bao giờ quên được hôm ấy..., vì khi em tỉnh dậy, mẹ em có nói lại cho em nghe rằng anh có đến thăm em.
- Người Ánh nóng hực, nhưng Ánh nằm yên tĩnh, mặc áo bà ba trắng, bỏ làn tóc huyền buông trôi xuống đất, Ánh đẹp như trong truyện thần tiên... Thế rồi hôm sau tôi định trở lại thăm Ánh nữa, xem Ánh đã khỏe mạnh chưa, thì bỗng dưng, có tiếng người kêu cứu, lửa cháy một căn nhà trong xóm đình Tân kiển của tôi ở. Ngọn lửa bốc lên cao, truyền sang các nhà kế cận, và phút chốc hỏa hoạn tràn lan khắp xóm. Trên một trăm nóc nhà, hầu hết là nhà gỗ và nhà lá của dân lao động làn lượt làm mồi cho Thần Lửa đang hoành hành kinh khủng. Nhà tôi cũng bị cháy tiêu, không kịp cứu chữa. Cách hai gian kế cận, có một gia đình tư chức đông con. Ông chồng đi vắng, một mình bà vợ ở nhà cứ lo dọn các đồ đạc ra ngoài, không để ý đến đứa con 6 tháng nằm ngủ trên gác. Khi nghe tiếng em bé khóc thét lên thì lửa đã bao trùm cả căn nhà, một mái ngói đã sụp xuống, lửa đã cháy vào trong. Mẹ nó hoảng hốt la khóc ầm ĩ nhưng bà không dám chạy vào nhà vì lửa đang phực cháy cả bốn vách tường. Thiên hạ lúc bấy giờ ai lo phận nấy. Nghe tiếng đứa bé trên gác khóc điếng lên rất là thê thảm, tôi liều xông vào đám lửa, leo thật nhanh cầu thang lên gác, vựt đứa bé lên ngực tôi. Một tay tôi ghì giữ đứa bé, một tay tôi vớ lấy một chiếc bao bố, nhúng nhẹ vào Iu nước bên góc tường. Tôi bọc kín đứa bé với bao ướt ấy rồi nhảy xuống cầu thang. Lửa đã cháy sém vào các bực thang vừa sụp, sàn gác cũng sụp, kêu răn rắc. Lửa chảy ngùn ngụt, khói bay mịt mù, chung quanh không còn lối nào ra được nữa. Tôi qúynh lên, tưởng tôi với đứa bé thế nào cũng chết thiêu trong hầm lửa. Nhưng nhờ có bao bố ướt nhẹp cả nước bọc kín đứa bé, tôi liền ôm nó chạy ra gần cửa, ném mạnh nó ra ngoài, nơi đấy đã có mẹ nó và ba bốn người nhà đang chực sẵn, đưa tay ra chụp được nó và chạy thoát được. Còn tôi sắp sửa liều mình phóng qua cuộn lửa đang ào ạt thì một miếng ván cháy trên trần nhà rơi trúng ngay xuống mặt tôi, đập vào mắt tôi... Một sống một chết, tôi nhắm mắt lao mình qua bức màn khói lửa đang vây bủa bịt bùng. Tôi vừa thoát ra được ngoài thì bốn vách tường đổ ầm xuống sau lưng tôi... Đôi mắt tôi bị khói và lửa, không sao mở ra được. Nước mắt cứ chảy túa ra, tôi bị sẫm cả mặt mày, ngã gục bên lề đường, như một khúc cây bị cháy sém. Người ta chở tôi đi nhà thương.
Một tháng sau từ giã bệnh viện, tôi là một thằng mù. Tôi không muốn nhắn tin cho gia đình bạn hữu hay, vì tôi tự biết thân tôi tàn phế chẳng còn ích lợi gì. Đời tôi chẳng còn ý nghĩa gì. Một bác sĩ Pháp, người đã săn sóc cho tôi trong bịnh viện, đem lòng thương xót, nhét trong túi áo cho tôi năm tờ giấy bạc một trăm đồng. Ông tiễn tôi ra đi với mấy câu sau đây: ‘‘Anh đừng thất vọng. Trong lịch sử thế giới, biết bao nhiêu người mù đã làm nên những việc tốt đẹp lớn lao. Tôi thấy anh không kém thông minh, và có thừa can đảm. Nếu anh kiên nhẫn, thì anh sẽ thành công như họ’’. Nói thật với Ánh, nhờ câu khuyên lơn ấy của một người ngoại quốc có tấm lòng cao cả, tôi mới sống đến ngày nay.
- Sau khi từ giã bịnh viện, anh đi đâu?
- Tôi không ở Sàigòn nữa, vì tôi không muốn gia đình và bạn hữu thương hại tôi. Tôi lần mò đến một tiệm đờn, mua một cây đờn, rồi đi Mỹ tho. Tôi ở trọ nơi một ngôi Chùa, nhờ lòng từ bi của một vị tăng già. Thầy dạy kinh Phật cho tôi, và cho tôi quy y làm đệ tử của Thầy.
Nhưng tôi không muốn ăn hại nhà Chùa, nên bao ngày tôi tự tìm kế sinh nhai bằng nghề Ca nhạc nơi đầu đường xó chợ.. Vì tôi không sao đọc được các bản nhạc đã có sẵn và được công chúng yêu chuộng, nên tôi tự đặt ra những bài của tôi, những nốt nhạc xuất từ trong tâm - để hòa nhịp với tơ lòng... Tối về Chùa, tôi học Kinh... Tôi đui mù, nhưng tôi nhờ có ánh sáng của Phật dìu dắt tôi trong đêm thẳm của trần gian...
- Trong trường hợp nào anh trở về Sàigòn, dạy ở trường Mù?
Hoàng im lặng một lúc lâu. Nét mặt chàng vẫn điềm tĩnh và hiền từ, như đã thấm nhuần Ánh Đạo vàng Hoàng chậm rãi nói tiếp:
- Một hôm tôi băng qua một ngã ba gần chợ, bị xe Nhà binh đụng. Tôi té bên lề đường. Tôi bị gãy một ống xương nơi chân. Người ta lại đem tôi vào nhà thưong để cứu chữa... Tôi nằm mê man trên giường bịnh. Thế rồi bỗng dưng có một thiếu nữ đến thăm tôi và săn sóc cho tôi...
- Thiếu nữ nào thế, anh?
- Hồi đó, tôi không quen biết cô ấy.
- Sao tự nhiên lại đến thăm anh? Con gái gì vô duyên thế? Người ta không quen biết mà dám đến thăm?
Hoàng vẫn điềm nhiên, nói tiếp:
- Cô ấy có lòng nhân đạo giúp kẻ tật nguyền, thương người đơn độc. Chiều nào cô cũng đến thăm, đem lời an ủi. Cô chăm nom cho tôi, hết lòng tận tụy. Bác sĩ giám đốc bịnh viện cũng cảm động bởi hành vi nhân đạo của cô.
- Tên là gì, anh?
- Tên ai?
- Tên...cái cô đó.
- Tên cô là Phạm thị Toàn.
- Mấy tuổi?
- 21 tuổi.
- Anh bảo anh không quen biết người ta, sao anh biết tên tuổi rõ thế?
- Mãi mấy tháng sau tôi mới biết,
- Cô ấy làm nghề nghiệp gì?
- Giáo viên.
- Giáo viên?
- Toàn đã đỗ Trung học Đệ nhứt cấp, và sư phạm quốc gia. Dạy trường Nữ trung học Mỹ tho.
- Đẹp không?
- Tôi không thể nào biết được cô ấy đẹp hay xấu như thế nào.
- Bây giờ cô ấy ở đâu?
- Toàn vẫn dạy ở Mỹ tho. Chính Toàn giới thiệu tôi dạy trường Mù Chợ lớn sau khi tôi lành bịnh.
- Rồi sao nữa, anh Hoàng?
- Rồi...
Hoàng ngưng nói, im một lúc thật lâu. Ánh mỉm cười, gượng gạo:
- Rồi sao nữa, anh Hoàng? Sao Hoàng không nói nữa? Hoàng cứ nói tất cả sự thật cho em nghe.
- Toàn cứ nói với tôi Toàn muốn hy sinh cuộc đời cho một lý tưởng nhân đạo. Lý tưởng mà chính Toàn đã hấp thụ được nơi ông Giáo sư Ngọc Minh. Thấm nhuần tư tưởng bác ái của ông Giáo sư, là ân nhân của Toàn, Toàn nhất định gạt bỏ cuộc sống vị kỷ, không lo lợi ích riêng mình. Tôi rất phục Toàn có can đảm khinh thường các thành kiến sai lầm của xã hội, để tự tạo cho mình một lẽ sống thanh cao, đeo đuổi một mục đích tốt đẹp, cho đời có một ý nghĩa chính đáng. Sự ngẫu nhiên đã xui khiến tôi gặp Toàn, và quen nhau mấy tháng ở bịnh viện do tôi bị một tai nạn bất ngờ, chúng tôi cảm thông nhau trong một hoàn cảnh đầy tình thương bác ái. Chúng tôi đã thành thật tỏ bày tâm sự và cùng nguyện đem hết tâm trí và thiện chí của chúng tôi để thực hiện lý tưởng nhân đạo, lý tưởng bình đẳng xã hội, san bằng giai cấp, nâng đỡ kẻ nghèo, người khổ, theo gương ông Giáo sư Ngọc Minh. Ông giáo sư Ngọc Minh là vị Anh cả hiền từ đã đỡ đầu cho chúng tôi, đã tác thành hạnh phúc của chúng tôi và đồng thời ông đã vạch cho chúng tôi con đường nhiệm vụ thiêng liêng, xán lạn. Tôi đui mù, nhưng ngày nay tôi không thấy tôi đui mù nữa...
Ánh ngạc nhiên hỏi:
- Anh Hoàng cũng biết ông Giáo sư Ngọc Minh sao?
- Trước kia tôi chỉ nghe tiếng ông, như nhiều người khác. Trong thời kỳ tôi ở bịnh viện Mỹ tho, Toàn cũng đã nói nhiều về ông cho tôi nghe vì ông giáo Ngọc Minh chính là ân nhân của Toàn. Nhưng tôi không được vinh hạnh gặp ông lần nào. Nhân dịp hôn lễ của chúng tôi mà chúng tôi được vinh dự ông nhận làm chủ tọa, tôi mới được Toàn giới thiệu Và được ông niềm nở tiếp chuyện, dạy bảo, khuyến khích, hứa hẹn giúp đỡ về mọi phương diện trong các công tác cứu trợ bệnh tật nghèo hèn mà chúng tôi định cố gắng thực hành. Tôi vui mừng thấy Toàn rất sốt sắng noi theo gương ông Ngọc Minh mà phụng sự lý tưởng nhân đạo... Ánh có biết Toàn không nhỉ?
- Không. Em chưa được hân hạnh biết Toàn. Em cũng không nghe ông Ngọc Minh nói đến Toàn bao giờ cả.
- Ánh có muốn tôi giới thiệu Toàn cho Ánh không?
- Muốn lắm chứ. Em sẽ sung sướng được làm bạn với Toàn.
- Toàn sẽ nói về ông giáo sư Ngọc Minh cho Ánh nghe… ờ...mà có lẽ Ánh đã biết ông giáo sư Ngọc Minh rồi chứ?. Nếu không thì tại sao ông Ngọc Minh lại vào Chợ lớn đón tôi ra đây để gặp Ánh? Tôi vẫn chưa hiểu những trường hợp khiến tôi gặp được Ánh tại đây hôm nay.
- Câu chuyện của em dài lắm anh Hoàng ạ. Em được biết ông Ngọc Minh trong những trường hợp đặc biệt lạ lùng. Để rồi hôm nào rảnh em sẽ kể cho anh và Toàn nghe.
- Đây giờ Ánh làm gì?
Ánh nói đùa:
- Hiện nay?.. Như Hoàng đã biết, hiện nay Ánh đang làm... một bệnh nhân nằm tại dưỡng đường một bác sĩ!
- Hoàng muốn hỏi bây giờ Ánh làm việc gì, ở đâu?
- Ánh làm thư ký nhà in.
- Tôi hỏi có hơi tò mò...xin Ánh tha lỗi. Vì xa cách lâu ngày, nay gặp lại vui mừng, nên muốn hỏi cho biết... Đời sống của Ánh hiện nay có khá không?
- Khá hơn trước.
Hoàng trầm ngâm một lúc, hỏi tiếp:
- Xin lỗi Ánh... Ánh đã lập gia thất chưa?
Ánh mỉm cười!
- Chưa.
- Tại sao Ánh vào bệnh viện?
- Tại Hoàng đấy!
- Sao lại tại Hoàng?
- Hoàng đoán hiểu chứ! Nếu đêm qua Ánh không trông thấy trên sân khấu Hoàng mù lòa và hát bài ‘’Nhớ bóng người xưa’’ thì đâu đến nỗi Ánh bị...
- Xin Ánh tha lỗi, đêm qua thật Hoàng không ngờ có Ánh trong phòng thính giả.
- Dạ, Ánh cũng đâu có ngờ trên sân khấu có Hoàng?
Hai người im lặng. Một lúc Hoàng bảo:
- Nếu Hoàng biết có Ánh trong đêm dạ hội của trường Mù, Hoàng sẽ không có can đảm hát bài ‘‘Nhớ bóng người xưa’’
- Người thiếu nữ dìu Hoàng ra sân khấu, là ai vậy? Có phải...
- Toàn đấy.
Ánh suy nghĩ gì một lúc rồi tự nhiên gục đầu xuống gối khóc nức nở. Ánh khóc thật lâu, và chỉ khóc thôi, không nói gì cả. Hoàng ngồi im lặng.
Có tiếng gõ cửa. Ánh vẫn khóc... Tiếng gõ cửa lần thứ hai..
Hoàng khẽ bảo:
- Ánh ạ, chúng ta nói chuyện đã lâu... có lẽ bây giờ đã 2 hay 3 giờ rồi... ông giáo sư Ngọc Minh trở lại đây chăng? Hoàng ra mở cửa nhé!
- Dạ.
Ánh trả lời nhưng vẫn nằm khóc thút thít, không ngửng đầu dậy.
Hoàng đứng dậy mò mẫm từng bước ra đến cửa... sờ soạng cánh cửa... tìm chỗ ổ khóa. Cửa không khóa chỉ khép kín. Hoàng mở cửa nhưng không nghe tiếng ai.
Hoàng lên tiếng hỏi:
- Thưa có phải giáo sư không ạ?
Không có tiếng trả lời. Người gõ cửa đã đi. Hoàng lại ngồi ghế, 15 phút sau, ông Ngọc Minh trở lại, cánh cửa đã mở sẵn, ông vẫn gỗ 3 tiếng.
Hoàng đứng dậy, hỏi:
- Thưa, có phải giáo sư không ạ?
- Vâng, tôi đây... Tôi vào được chứ?
- Dạ, xin mời giáo sư vào.
Ngọc Minh bắt tay Hoàng, Hoàng bảo:
- Thưa giáo sư, em ở đây đã lâu rồi, em xin phép giáo sư, em về Chợ lớn.
- Vâng, để tôi đưa anh về.
Ông tiến đến gần giường, nói dịu dàng:
- Ánh đau ốm, cứ khóc thế biết chừng nào lành bịnh?... Thôi, Ánh đừng khóc nữa... Năm mới phải vui vẻ lên chứ!... Tôi đưa anh Hoàng về Chợ lớn nhé?
Ánh ngồi dậy, lau nước mắt:
- Dạ... Tụi em làm phiền ông quá...
Ngọc Minh luôn luôn vui tươi, nhã nhặn:
- Ồ, có gì phiền đâu.
Hoàng quay lại Ánh:
- Chào Ánh!
Ánh đáp:
- Chào anh và cám ơn anh đã đến... À quên, em gởi lời chào chị nhé.
Ánh ngồi trên giường bịnh, nhìn theo ông Ngọc Minh, một bàn tay thân thiện đặt trên vai Hoàng, thong thả cùng Hoàng ra khỏi phòng.
Không phút nào Ánh cảm động hơn phút nầy. Cảm động vì cử chỉ rất tự nhiên và rất thân ái của ông Ngọc Minh. Một cử chỉ lịch sự, tốt đẹp quá, cao thượng quá.
Ngọc Minh và Hoàng đã ra đến sân, mà Ánh còn nhìn theo, đôi mắt chìm trong suy tư, hai dòng lệ âm thầm tuôn ra trên má...
Ngọc Minh không hỏi Hoàng một câu nào về cuộc gặp gỡ giữa Hoàng và Ánh. Ông chỉ khen Hoàng về những hoạt động của trường Mù, và ông bàn tính, với Hoàng một chương trình phát triển mạnh mẽ để quy tụ tất cả những người mù có khả năng trí thức và thủ công nghệ để tự mình xây dựng một tương lai xán lạn cho đồng bào Mù Việt nam. Ông hứa Tết xong sẽ đến thăm ông Hiệu trưởng...
Lúc xuống xe, Hoàng còn bịn rịn, nắm lấy bàn tay ông Ngọc Minh, không muốn rời ra. Hoàng nghẹn ngào, chỉ lẩm bẩm mấy câu:
- Ông tốt quá... Em cầu nguyện Phật Trời phù hộ cho ông được luôn luôn khoẻ mạnh, để ông làm việc phước đức cho Quốc gia, Xã hội.
Trở về bịnh viện của bác sĩ Toại, ông Ngọc Minh đi ngay vào phòng Ánh.
Ông mỉm cười, hỏi:
- Ánh hết khóc rồi chứ?... À, Ánh ngoan lắm! Tôi có quà tặng thưởng Ánh đây...
Ông mở chiếc giỏ ny lông mà lúc ông trở lại có đem đến trên chiếc bàn nơi cửa sổ. Ông ngồi ghế fauteull lấy ra 3 trái pôm và một ký nho. Ông lấy dao gọt hai trái pôm để vào dĩa, vừa kể lại cho Ánh nghe những chuyện lý thú của ngày xuân mà ông vừa chứng kiến ngoài các đường phố Sàigòn. Ông mời Ánh ăn pôm, ăn nho...
6 giờ chiều, Ánh thấy trong người đã khỏe, xin về nhà. Hai vợ chồng bác sĩ Toại vui đùa tiễn Ánh ra xe ông Ngọc Minh.
Không ngờ đôi khi chuyện thực tế còn kỳ thú hơn chnyện tưởng tượng nữa. Thí dụ như ông Ngọc Minh đâu có dè Hoàng là người yêu cũ của Ánh, và bây giờ do Ánh nói hết sự thật cho ông nghe, ông mới hiểu rõ vì sao mấy năm qua Ánh vẫn yêu ông nhưng vẫn còn tưởng nhớ đến Hoàng và còn mong đợi Hoàng, ông càng phục Ánh đã trung kiên với mối tình đầu tha thiết, mặc dầu là một mối tình của đôi bạn trẻ còn ngây thơ.
Giả sử Ánh lại gặp Hoàng trong trường hợp cảm động, vừa xảy ra mà Hoàng chưa có vợ và Ánh sẵn sàng nối duyên lại với người yêu cũ, chắc chắn ông Ngọc Minh sẽ không làm gì để ngăn cản hạnh phúc của đôi uyên ương. Trái lại, ông sẽ biết giá trị của hy sinh, dầu là một hy sinh vô cùng đau đớn, mà ông cam chịu, và sẽ làm đủ mọi cách để giúp cho Ánh được thực hiện giấc mộng diễm tuyệt của nàng, Từ trước đến giờ, ông Ngọc Minh đã chẳng âm thầm hy sinh nhiều như thế rồi ư?
Ngọc Minh đã thường nói: ‘‘Không có hy sinh nào tuyệt vời bằng hy sinh hạnh phúc của mình cho hạnh phúc của người khác.’’
Bây giờ Ánh đã biết sự thật phũ phàng, sự thật tàn nhẫn đã làm tan vỡ hy vọng của nàng. Nhưng cũng chính thất vọng ấy sẽ là an ủi thanh cao nhất. Vì Ánh sẽ được biết Hoàng vì duyên cớ nào bỗng dưng thành ra người tàn tật và đã có Toàn tận tụy, săn sóc, cùng Hoàng xây dựng một cuộc đời tươi đẹp hơn.
Ánh không có lý do nào để ghen với Toàn, nếu thí dụ Ánh còn yêu Hoàng như trước, cũng như ông Ngọc Minh không ghen ghét người bạn trẻ mù lòa tuy bây giờ ông đã biết là người yêu cũ của Ánh, vì Hoàng vừa mới cưới vợ.
Chẳng qua là một thử thách ly kỳ của duyên nợ đối với Ánh cũng như với Ngọc Minh, và kết cuộc là hai người càng hiểu nhau thắm thía, càng tha thiết yêu nhau hơn.
9 giờ sáng mồng 7 Tết. Ánh đang tưới nước mấy chậu hoa trước hè, thì Ngọc Minh vui vẻ từ ngoài bước vào. Ánh đùa bỡn:
- Năm mới...xin chúc...
Ngọc Minh cũng cười:
- Dạ, năm hãy còn mới... Chúng ta cứ chúc cho năm còn mới mãi, cho chúng ta mới mãi...
Ngọc Minh đứng lại nhìn Ánh:
- Sáng nay Ánh đẹp hơn bao giờ hết. Mỗi ngày Ánh mỗi đẹp thêm, Ánh đã khỏe hẳn?
- Dạ.
- Ánh muốn đi chơi với tôi không?
Ánh dịu dàng gật đầu:
- Dạ di.
Ngọc Minh mỉm cười, hồi tiếp:
- Đi đâu, Ánh cũng đi chứ?
- Dạ, đi đâu em cũng đi.
- Đi vòng quanh thế giới?
- Vòng quanh thế giới cũng đi.
Ánh cười, nói tiếp:
- Nhưng em phải mặc áo dài đã chứ…
- Tôi chờ.
Mười phút sau, Ánh từ trong bước ra. Ngọc Minh rất ngạc nhiên . Ánh mặc thế nào cũng đẹp cả, không trang điểm, không diện, dù là ngày Xuân: chiếc áo màu hoa cà, quần đen, dép đen, thế thôi. Ánh có sắc đẹp tự nhlên, đẹp hoàn toàn, vô cùng duyên dáng, phục sức qua loa cũng cứ đẹp mê hồn.
Ánh nhoẽn một nụ cười:
- Thưa ông giáo sư, em đã sẵn sàng.
- Chúng ta đi!
Ra đến đường lớn, Ngọc Minh mở cửa xe phía trước để Ánh vào ngồi cạnh ông. Xe vừa rồ máy chạy, ông mỉm cười hỏi Ánh:
- Chúng ta đi đâu bây giờ?
- Đi vòng quanh thế giới.
- Không, đầu năm tôi muốn dành cho Ánh một ngạc nhiên...
- Với ông, em không có gì ngạc nhiên nữa cả.
- Có. Chúng ta sẽ đi vòng quanh thế giới... của người nghèo.
Ánh ngó Ngọc Minh, Ngọc Minh mỉm cười ngó Ánh. Ông thích thú vì quả thật Ánh không ngờ. Ông điềm nhiên lái xe, đôi mắt ngó thẳng phía trước, chậm rãi nói:
- Chỉ có thế giới người nghèo là đáng cho chúng ta thăm viếng mà thôi. Nhất là trong mấy ngày Tết. Tôi có nhiều bạn thân, từ 2, 3 tuổi đến 6, 7 tuổi, trong các túp nhà lá ở rải rác các ngoại ô Sàigòn, đang mong chờ tôi. Tôi muốn hôm nay giới thiệu với Ánh các trẻ em nghèo ấy.
Ánh cảm động nhìn Ngọc Minh:
- Thật ư, ông? Thế mà em chưa bao giờ được nghe ông nói đến những trẻ em nghèo đói. Hôm nay thật hân hạnh cho em... em không có gì vui sướng cho bằng.
- Tôi biết Ánh sẽ yêu chúng nó lắm, như tôi yêu chúng nó
- Làm sao ông đã quen biết các trẻ em ấy?
- Khi người ta muốn có những bạn tốt, người ta đi tìm, thì phải gặp. Tôi đã biết các em ba năm nay, từ ngày gặp lần đầu tiên trên vỉa hè đường Phú thọ một anh phu xe cyclo đang lúc vợ anh nóng lạnh trùm chiếc bao bố nằm bên gốc cây. Tôi cho tiền hỏi chỗ ở, bảo anh dắt tôi về nhà, rồi từ đó mỗi tuần tôi đến thăm gia đình anh một lần, giúp đỡ chút ít và cho tiền nuôi đứa con. Nay thằng nhỏ đã được 5 tuổi, khỏe mạnh, béo tốt, xinh đẹp, và rất thông minh. Nó cũng mến tôi lắm. Sang năm nó sẽ đi học lớp mẫu giáo trong xóm.
- Bây giờ ông đến thăm nó?
Ngọc Minh gật đầu:
- Cha mẹ nó và nó đến thăm tôi hôm trước Tết, nay tôi đến mừng năm mới. Tôi có đem theo các món quà đầu năm.
- Cha nó vẫn làm phu xe?
- Vâng, và mẹ nó bán trái cây. Mỗi ngày hai vợ chồng không kiếm đủ tiền mua gạo. Tôi cố giúp thêm chút ít. Thằng Thọ, tên đứa bé, thì tôi cấp dưỡng. Chút nữa Ánh sẽ thấy nó. Nó dễ thương lắm. Mới có 5 tuổi mà rất lễ phép... Rất thông minh... Nếu hoàn cảnh thuận tiện cho nó đì học mãi, nó sẽ trở nên một công dân có nhiều tài năng và triển vọng... Biết bao nhi đồng và thiếu niên bị bỏ rơi vì hoàn cảnh!...
Suốt cả buổi sáng mãi đến 1 giờ trưa, Ngọc Minh đưa Ánh đi thăm lần lượt 5 đứa bé nhà nghèo trong các xóm lao động, ở năm nơi, Phú thọ, Chợ Thiết, Nguyễn tri Phương, Bàn cờ, Thị Nghè.
Sau cùng, từ trong hẻm chợ Thị Nghè ra, Ngọc Minh hỏi Ánh:
- Ánh muốn đến nhà tôi không?
Ánh âu yếm đáp:
- Ông muốn đưa em đi đâu hôm nay em cũng đi... Hôm nay là ngày đẹp nhất trong đời em. Trái tim em hồi hộp những rung cảm êm đềm quá, đê mê quá, đầy những xúc động dịu dàng, thiêng liêng quá...
- Chiền nay, ở nhà tôi có cuộc liên hoan. Tôi sung sướng được Ánh tham gia.
- Ông sẽ đãi tiệc các quan khách, các giáo sư, đúng hơn là các bạn thân như năm người bạn nghèo mà chúng ta vừa đến viếng.
Ngọc Minh lái xe thẳng đường Thị Nghè về nhà. Trên xe, ông nói tiếp:
- Hầu hết các nhà nghèo trong xóm sẽ là quan khách của chúng ta chiều nay. Các em có chừng 70 đứa, con cháu của 50 gia đình lao động, ở rải rác trong xóm nhà lá chung quanh. Ngày thường, tất cả đều là bạn của tôi, và các em quyến luyến tôi lắm. Buồn cười nhất là đứa nào cũng muốn làm con tôi và muốn ở với tôi! Hôm mồng một, họ lần lượt đến thăm tôi đông đủ, và tôi cũng đã đến chúc năm mới từng gia đình. Tôi mời họ sẽ đưa các em đến nhà tôi chiều mồng 7, là chiều nay để ‘‘ăn Tết’’ chung với nhau một bữa cho vui. Họ đã hẹn chiều sẽ đến tất cả... Ánh muốn chung vui với họ không?
- Em chắc rằng không có cuộc vui nào cảm động hơn, và thích thú hơn. Hôm nay ông đưa em đi du lịch trong Thế giới người nghèo, bây giờ chúng ta lại trở về với thế giới người nghèo, mà chỉ có tình bác ái và lòng nhân đạo là có thể biến thành một thế giới quang đãng thanh cao, mỹ lệ nhất.
Gần đến cổng nhà, Ngọc Minh lái xe chậm chậm, và cũng chậm rãi nói:
- Ánh là nàng Tiên của tình yêu và tình thương, Ánh có biết không?
Ánh nhìn Ngọc Minh cách trìu mến và mỉm cười không đáp.
Xe vào cổng, quanh sang tay phải, đậu nơi góc sân, Ngọc Minh và Ánh mở cửa bước ra. Cùng một lúc bầy chim bồ câu, một bầy gà con, gà cồ, gà mái, bay tới quanh Ngọc Minh và Ánh, mừng rỡ, xôn xao, rộn rịp.
Ánh bất ngờ, đứng nép sát vào Ngọc Minh, nét mặt Ánh hân hoan, đôi mắt huyền mơ, ngó ông giáo sư im lặng, với nụ cười sung sướng.
Ngọc Minh đặt tay trên vai Ánh, nàng âu yếm tựa đầu vào ngực chàng.
Ngọc Minh ôm Ánh vào lòng, Ánh cảm động nhìn chàng đôi mắt chan hòa hạnh phúc, Ngọc Minh khẽ gọi:
- Em...
Nàng khẽ đáp:
-... của anh.
Một cặp bồ câu trắng bay đậu trên đôi vai kề nhau, trong hơi ấm say mê của tình yêu diễm tuyệt...
Nguyễn Vỹ
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...