Thứ Tư, 3 tháng 12, 2025

Mồ hôi nước mắt 1

Mồ hôi nước mắt 1

Chương 1
Ánh đang ủi đồ, một đống quần áo của người lớn lẫn trẻ con để bên cạnh. Lúc ông giáo sư Ngọc Minh nắm bàn tay Ánh, Ánh khẽ hất ra. Ánh biết rằng ông Ngọc Minh không toan tính điều gì bất lương. Nhưng một chút cử chỉ thân thiện đó cũng đã làm cho Ánh hoảng sợ rồi. Ánh vùng đứng dạy chạy xuống bếp. Ông Ngọc Minh thong thả bước theo.
Ánh ngồi trầm ngâm trên ngạch cửa không ngó ông. Ông Ngọc Minh đứng trước mặt nàng. Ông thò tay vào túi áo lấy ra gói thuốc, đánh lửa châm một điếu hút, rồi nói với con ở:
- Xin lỗi Ánh, lúc nãy tôi đã làm phiền lòng Ánh.
Ánh cúi đầu làm thinh, ông giáo sư nói tiếp:
- Tôi rất mến Ánh. Tôi để ý đến Ánh lâu rồi, chắc Ánh cũng đã cảm thấy. Ngay từ ngày Ánh vô giúp việc trong nhà này nghĩa là cách đây sáu tháng, tôi đã hiểu Ánh nên tôi yêu Ánh. Nhưng chỉ yêu âm thầm mà thôi. Nay nhân cơ hội gia đình đi vắng, tôi muốn thú thực với Ánh cảm tình thiết tha chân thật của tôi. Nếu Ánh tin tôi, tôi sẽ thuê phòng riêng để ở với Ánh.
Con ở điềm nhiên, không đáp. Ông Ngọc Minh ngồi xuống ngạch cửa, gần Ánh. Ông âu yếm nhìn vào khuôn mặt hồng hào tuyệt đẹp, khẽ hỏi:
- Ánh có yêu tôi không?
Ánh ngẩng mặt lên nghiêm nghị ngó ông:
- Tôi không thể yêu ông được,
- Tại sao không thể?
- Tại hoàn cảnh.
- Tôi không thấy hoàn cảnh nào cản trở tình yêu của tôi với Ánh. Ánh biết rằng tôi góa vợ đã hai năm nay và không có con?
- Dạ tôi biết.
- Vậy thì tôi được tự do yêu Ánh và lấy Ánh làm vợ, có gì ngăn cản đâu?
- Ông được tự do, nhưng tôi không được tự do.
- Nếu tôi không lầm thì Ánh chưa có chồng.
- Dạ, tôi chưa có chồng.
- Vậy sao Ánh nói là không tự do?
Con ở làm thinh.
Ông Ngọc Minh hơi ngạc nhiên vì những câu trả lời cứng rắn của người tớ gái mười chín tuổi. Rất đẹp và rất hiền lành, thường ngày Ánh ít nói. Lần đầu tiên ông thấy Ánh có cử chỉ và ngôn ngữ khôn ngoan cương quyết không ngờ. Ông gặng hỏi:
- Ánh! Tại sao Ánh không được yêu tôi? Hay là Ánh đã có người yêu rồi?
Con ở vẫn nghiêm nét mặt:
- Dạ không phải.
- Thế thì tại sao?
- Ông là người trí thức, chắc ông hiểu nhiều.
- Tôi thực không hiểu.
- Xin ông tha lỗi tôi phải đi ủi đồ, khuya rồi, ông Năm bà Năm sắp về...
- Hai em tôi dẫn các cháu đi xem xinê, 12 giờ khuya mới về.
Nhưng Ánh không muốn nói chuyện nữa. Ánh đi thẳng lên phòng giữa, ngồi lặng lẽ tiếp tục ủi đồ, làm công việc bỏ dở ban nãy.
Ông Ngọc Minh đến ngồi cạnh Ánh:
- Ánh à, tôi muốn biết rõ tại sao Ánh không được tự do yêu tôi, trong lúc tôi thiết tha yêu Ánh?
- Thưa ông, tôi chỉ là đứa đầy tớ, tôi đâu có quyền được yêu một người ở giai cấp giàu sang, một bậc trí thức thượng lưu.
- Tôi không cần giai cấp. Tôi không phân biệt giai cấp. Tôi chỉ biết Ánh là một thiếu nữ như tất cả các thiếu nữ khác. Ánh lại có tư cách đứng đắn, ngôn ngữ đoan trang, nết na hiền lành, và Ánh có đi học, đã ở Đệ-Tứ. Ánh có học thức, chỉ tại vì số phận quá hẩm hiu cực khổ nên Ánh phải đi ở mướn tạm một thời gian thôi. Tôi biết rõ hoàn cảnh của Ánh lắm chớ!
Ánh ngạc nhiên ;
- Tại sao ông biết?
- Tháng bảy vừa rồi, bà cô của Ánh đến thăm Ánh trong lúc Ánh đi chợ, Ánh có nhớ không? Nhân vui miệng với em tôi, bà đã kể hết chuyện của Ánh cho em tôi nghe. Ngồi ở phòng khách tôi được nghe rõ cả. Do đó, tôi được biết rằng ba má của Ánh là người lao động ở một ngõ hẻm xóm An Bình. Hồi nhỏ Ánh đi học đã được thầy thương bạn mến, vì Ánh học giỏi và hạnh kiểm tốt nhất trong lớp. Ánh đã đổ bằng tiểu học và học đến lớp Đệ Tứ thì ba của Ánh chết vi tai nạn lao động trong xưởng máy. Ánh phải thôi học, kiếm việc làm ở đâu cũng chưa được nên phải ở nhà giúp đỡ mẹ Sau, Ánh đi bán hàng ở cầu Muối. Mẹ Ánh thì làm công trong một hãng thuốc lá. Rồi hai năm sau mẹ Ánh tái giá, gặp phải người chồng lưu manh, chỉ cờ bạc rượu chè, và giao du với bọn đàng điếm. Nhiều lần cha ghẻ bắt ép Ánh đi làm nghề mãi dâm do y kiếm mối. Ánh cự tuyệt và hai lần phải bỏ nhà trốn đi đến nhà bà cô.
Ánh muốn học đánh máy chữ để dễ kiếm việc làm, nhưng không có tiền. Ánh phải gánh nước thuê ở xórn Bàn Cờ. Rồi có lần Ánh nhớ mẹ, về thăm mẹ thi mẹ Ánh đi vắng, người cha ghẻ khốn nạn lại ép buộc Ánh làm nghề mãi dâm. Ánh cương quyết không chịu liền bị y đánh đập tàn nhẫn đến đỗi lổ đầu sưng mặt. Người cha ghẻ vũ phu, vô lương tâm, đạp Ánh té nhào xuống cạnh, chum nước, Ánh nằm bất tỉnh, tưởng như chết rồi. May nhờ hai bà hàng xóm kêu xe chở Ánh vào nhà thương. Ở bệnh viện ra, Ánh không về nhà cha ghẻ nữa, trốn đến nhà bà cô ở ngõ hẻm Bàn Cờ. Từ đó Ánh đi ở mướn để kiếm tiền độ thân. Ánh xem, tôi biết rõ hoàn cảnh rất đau khổ của Ánh như thế đấy. Vì lẽ đó mà tôi đem lòng thương Ánh và yêu Ánh.
Ánh ngồi ủi đồ, hai dòng nước mắt lặng lẽ trào ra trên đôi má hồng, âm thầm rơi xuống áo.
Ông Ngọc Minh khẽ hỏi:
- Những điều bà cô của Ánh kể lại như thế có đúng không, Ánh?
Ánh ngưng bàn ũi, gục đầu vào tường, khóc nức nở. Ông giáo sư bảo:
- Ánh à, với tôi Ánh không phải một kẻ ty tiện đâu. Tôi coi Ánh như một người bạn gái đau khổ, vì nghèo, phải, chỉ vì NGHÈO, mà chịu cảnh lầm than cực nhọc! Tôi không có quan niệm giai cấp. Tôi chỉ có quan niệm LÀM NGƯỜI. Cho nên tôi thành thật đem lòng yêu Ánh, và tôi muốn giúp đỡ Ánh tìm hạnh phúc mà mọi người đều có quyền được hưởng, mọi người đều phải có, không phân biệt ở từng lớp nào, không chia ranh giới một giai cấp nào. Ánh có tin lời nói của tôi không?
Ánh càng khóc, nước mắt càng chảy ràn rụa.
Ông Ngọc Minh xúc động, âu yếm hỏi:
- Ánh à, nếu tôi thành thật muốn cưới Ánh, thì Ánh nghĩ sao?
Ông Ngọc Minh hỏi đi hỏi lại ba lần, Ánh chỉ khóc mà không trả lời. Ông hỏi nữa, Ánh lau nước mắt, khẽ nói:
- Thưa ông, ông có lòng tốt nói vậy, nhưng tôi đâu dám nhận.
- Tại sao?
- Tại vì tội là một đứa ở. Tôi là hạng người hèn hạ như ông thấy.
- Tôi đã nói với Ánh rằng tôi không nghĩ như thói thường nhiều người đã nghĩ. Quả thật trong xã hội có những thành kiến giai cấp quá vô lý, nhưng tôi sẽ tỏ cho mọi người thấy rằng, không giai cấp nghèo và giàu, không có giai cấp tư bản và vô sản, mà chỉ có giai cấp lương thiện và bất lương, chỉ có giai cấp quân tử và tiểu nhân, chỉ có giai cấp cao thượng và đê tiện, chỉ có giai cấp ở phẩm giá của con người mà thôi. Trước mắt tôi, một thiếu nữ nghèo nàn mà tính tình cao đẹp như Ánh, có tư cách đứng đắn, đoan trang như Ánh, là đáng quí, đáng trọng hơn một tiểu thơ khuê các Ở nhà cao cửa rộng, đi xe hơi Mỹ, mà tính tình bất hảo, tư cách đê tiện, phẩm giả hèn hạ. Tôi đánh giá trị con người không phải với những hào nháng bề ngoài của vật chất, mà với giá trị tinh thần và đạo đức.
- Thưa ông, ông nói thế chớ làm sao xóa bỏ những thành kiến giai cấp cho được? Tôi đã nói, tôi không được tự do, bởi tôi bị ràng buộc trong thành kiến giai cấp. Tôi ít học, tôi chỉ thấy thực tế đời người trong xã hội, cho nên tôi đâu dám mơ tưởng đến danh vọng cao xa.
- Nhưng tôi yêu Ánh, tôi muốn chánh thức cưới Ánh làm vợ, tức là tôi muốn phá tan những thành kiến bất công.
- Tôi xin lỗi ông, dù ông thực lòng thương tôi chăng nữa, tôi cũng xin thành thật cảm ơn tấm lòng quá tốt của ông, nhưng thật tình tôi không dám nhận. Bởi lẽ gia đình của ông và xã hội thượng lưu của ông, vẫn khinh bỉ tôi, vì họ chì thấy tôi là một đứa đầy tớ, con gái của một người cu li đi làm thuê ở mướn. Thưa ông, tôi hiểu như thế cho nên tôi phải giữ giá trị của tôi. Thà rằng tôi cam phận tôi đòi, một ngày kia tôi có lấy người chồng cu li chăng nữa, cũng không ai khinh tôi được. Tôi tuy là ít học nhưng tôi cũng biết gìn giữ danh giá của một người con gái. Tôi vẫn thường nghe người ta nói rằng tình yêu không có giai cấp, nhưng tôi phải tự biết thân phận tôi ở một địa vị hèn hạ, thấp kém mọi bề, tôi đâu có tham vọng lớn lao.
- Nhưng một khi tôi yêu Ánh, thì Ánh có quyền yêu tôi chớ. Ánh có quyền tỏ cho mọi người thấy rằng một cô gái nghèo cũng có thể là một người vợ tốt, một người mẹ hiền, một phụ nữ xứng đáng trong xã hội.,. Tôi đã nói những ý nghĩ của tôi cho Ánh nghe, tôi mong Ánh suy nghĩ, và hiểu lòng tôi. Tôi mong Ánh sẽ đồng ý với tôi, và Ánh đừng tưởng rằng tôi muốn ve vãn Ánh để làm trò chơi, hoặc lừa gạt Ánh như một kẻ trưởng giả bất lương. Không phải vậy đâu Ánh à. Tôi thật lòng yêu Ánh và muốn lấy Ánh làm vợ, công khai trước gia đình và xã hội. Thôi tôi lên lầu... Ánh suy nghĩ, và mai mốt Ánh trả lời cho tôi biết nhé. Tôi tha thiết chờ đợi câu trả lời của Ánh.
Ông Ngọc Minh chúc Ánh ngủ ngon đêm nay, rồi ông thong thả bước lên lầu. Ánh điềm nhiên ngồi ủi đồ. Một đống áo quần của gia đình bà Năm, Ánh giặt từ lúc sáng sớm, phơi cả ngày, rồi bắt đầu ủi từ lúc chín giờ tối sau khi dọn rửa chén bát, đến bây giờ mới gần hết. Đồng hò treo trên tường điểm mười một tiếng đã lâu. Một cây đèn nê ông gắn trên trần nhà chiếu một ánh sáng xanh dịu xuống căn phòng khá rộng, nơi đây dựng một tủ lạnh, một tủ chứa đồ vặt, và một bao gạo, một xe mô tô, một bàn máy may, một tủ đựng đồ chơi cho hai đứa con của ông Năm, bà Năm, là em rể và em gái của ông giáo sư Ngọc Minh. Ông Năm làm chủ sự trong một văn phòng Bộ trưởng với ông giáo Minh đều là công chức vào hàng thượng lưu và trung lưu, bậc ‘‘ông’’ chớ không phải là bậc ‘‘thầy’’ theo thủ tục giai cấp ở miền Nam.
Đây là căn nhà giữa, thông qua phòng ăn và phòng khách ở phía trước và nhà bếp ở phía sau. Nơi đây, con ở thường ủi đồ hoặc may vá, làm các việc lặt vặt.
Vợ chồng bà Năm kêu con ở bằng ‘‘nó’’, gọi nó là ‘‘Con Ánh’’. Hai đứa con bà gọi bằng ‘‘Chị Ánh’’. Riêng ông Ngọc Minh thì gọi thân mật bằng tên: ‘‘Ánh’’. Phòng ngủ của Ánh ở kế bếp, có cửa nhưng chật, vừa đủ kê một chõng tre, một bàn con và treo một ngọn đèn mười lăm nến mù mờ, Ánh tuy là đứa đầy tớ đi ở mướn cho gia đình bà Năm mỗi tháng sáu trăm đồng bạc lương, nhưng với tuổi mười chín, Ánh có thân hình nở nang tuyệt đẹp và sạch sẽ, lễ phép, nhu mì. Ông Ngọc Minh góa vợ đã cảm mến Ánh và yêu Ánh thành thật, hay là chỉ mê sắc đẹp ‘‘con nhỏ ở’’ rồi tìm cách lợi dụng, quyến rủ nỏ, như trăm nghìn ông chủ nhà khác đã tư tình với con ở, lừa gạt lấy con ở cho có chửa rồi tống cổ nó ra khỏi nhà? Ông giáo sư Ngọc Minh có thật yêu Ánh hay không, chỉ có lương tâm ông biết mà thôi. Nhưng có điều chắc chắn là làm vinh dự cho ông, là ông không bao giờ khinh khi người nghèo. Thật sự, ông không hề có thành kiến giai cấp và giả sử ông có thật lòng yêu Ánh thì chắc vì hoàn cảnh xót xa đau khổ của Ánh, vì tư cách đứng đắn của Ánh, chứ không phải hoàn toàn vì nhan sắc diễm kiều của cô gái đang tuổi dậy thì. Ông đã lén lút nhiều lần tìm cơ hội để chuyện trò với con ở. Nhưng không có dịp nào ông được toại nguyện cả, vì Ánh cứ tìm cách thối thoát và trốn tránh ông hoài. Ánh không tàn nhẫn đâu, trái lại Ánh rất lễ phép, dịu dàng nhưng Ánh cũng rất cương quyết và khéo léo chối từ. Đã nhiều lần ông muốn tặng Ánh một vài món tiền khi hai trăm đồng khi năm trăm đồng, nhưng không lần nào Ánh nhận. Ánh nhã nhặn cám ơn ông mà không bao giờ Ánh cầm lấy những tờ giấy bạc mới tinh của ông âu yếm trao tặng Ánh.
Một hôm đầu tháng lương ông Ngọc Minh có mua một chiếc đồng hồ đeo tay của phụ nữ đáng giá gần ba ngàn đồng. Thừa lúc cơm trưa xong, vợ chồng ông chủ sự đã lên lầu, ông Ngọc Minh lẻn xuống bếp đưa cho con ở và nói thầm với nó:
- Tôi tặng Ánh chiếc đồng hồ này làm kỷ niệm.
Nhưng Ánh khẽ bảo ;
- Thưa ông, ông thật có lòng cao quí, tôi xin đa tạ ơn ông. Nhưng tôi không dám nhận.
- Tại sao Ánh không nhận? Tôi thành thật tặng Ánh đây mà.
- Dạ, xin cám ơn ông. Nhưng tôi ít có dịp dùng đến đồng hồ.
- Tôi đã mua nó để tặng Ánh, có hóa đơn đề tên của Ánh đấy. Ánh nhận món quà kỷ niệm nầy cho tôi vui lòng.
- Dạ thưa ông, tôi không dám. Nhưng tôi rất cảm ơn lòng tốt của ông.
Ánh đi rửa chén bát. ông Ngọc Minh khẽ nắm lấy cánh tay con ở, cánh tay trắng nõn nà, xinh xắn làm sao! Nhưng Ánh nghiêm nghị ngó ông:
- Thưa ông, xin ông buông cháu ra!
Ông Ngọc Minh vội buông tay Ánh:
- Tôi chỉ muốn đeo chiếc đồng hồ vào cổ tay của Ánh.
Ánh rưng rưng nước mắt, không trả lời, vội vàng ngồi xuống rửa bát đĩa. Vừa có tiếng guốc lóc cóc của bé Ân từ trên lầu đi xuống, đứa con trai đầu lòng sáu tuổi của bà Năm. Ông Ngọc Minh vội vàng bỏ chiếc đồng hồ vô duyên vào túi áo, với tấm giấy hóa đơn đề tên Lê thị Ánh. Ông bước lẹ lên nhà giữa. Bé Ân vừa xuống đến nơi, hỏi:
- Cậu Hai không lên nghỉ, cậu Hai? Cậu Hai làm gì dưới này, cậu Hai?
Ông Ngọc-Minh bẽn lẽn, hỏi lại nó:
- Con chưa ngủ trưa à?
- Thưa cậu Hai, má con bảo con xuống mời cậu Hai lên nghỉ.
- Ờ, cậu Hai lên đây. Nãy giờ cậu Hai còn uống nước.
Chú bé âu yếm nắm ngón tay ông Ngọc Minh:
- Sao cậu Hai uống nước lâu vậy cậu Hai?
Ông Ngọc Minh kề tai khẽ bão cháu:
- Cậu hai đau bụng, chưa muốn lên lầu con à.
Lên đến lầu, bé Ân chạy lật đật lại má:
- Má ơi, cậu Hai đau bụng, má à.
Bà Năm tưởng thật, hỏi anh:
- Anh đau bụng hả, anh Hai?
Ông Ngọc Minh không biết nói sao, chỉ đáp thon lỏn một tiếng:
- Ừ.
Rồi ông sang phòng riêng của ông, đóng kín cửa lại.
Mặc dầu ông đã bị Ánh từ chối không nhận đồng hồ, tiền bạc và tình yêu của ông. Ông Ngọc Minh vẫn cứ đeo đuổi mãi cái bóng mơ thấp thoáng của cô nữ sinh nghèo nàn đau khổ, vì hoàn cảnh khắt khe phải đi làm con ở...
Ánh yêu kiều duyên dáng trong bộ quần áo bà ba sạch sẽ gọn gàng, ẩn hiện những đường cong tuyệt mỹ, những nét mơ uyển chuyển đào tơ.
Đêm nay, vợ chồng ông Năm dẫn hai đứa con đi xem chớp bóng.
Đáng lẽ, ông Ngọc Minh cũng đi, nhưng sau bữa cơm tối ông khước từ, viện lẽ hôm nay đau bụng. Bà Năm định bảo chồng ở nhà để tối mai anh hết đau bụng sẽ cùng đi đông đủ cho vui.
Nhưng lúc sáng sợ hết chỗ ông Năm vào sở đưa tiền nhờ người tùy phái đi mua trước ba vé. Bà Năm ra đi với chồng mà trong lòng không vui. Bà khẽ bảo chồng.
- Dạo nầy, sao anh Hai cứ đau bụng hoài, mình nhỉ?
Ông Năm cũng vô tình đáp:
- Ừ, phải bảo anh Hai ngày mai đi bác sĩ, để họ khám xem, lỡ ảnh có đau bao tử chăng?
Vợ chồng ông Năm ra đi được ba mươi phút, Ánh đang ủi đồ, thì ông Ngọc Minh đủng đỉnh mang dép từ trên lầu xuống, đến ngồi cạnh con ở để tỏ niềm tâm sự như các bạn đã thấy...
Ánh vừa ủi đồ, vừa khóc. Hai dòng lệ âm thầm rơi xuống áo, Ánh đã lau hai ba lần nhưng vẫn trào ra,, như tràn ngập cả trong tim. Ánh thầm trách người cô của Ánh sao đem chuyện đời tư đau đớn nhục nhã của Ánh nói cho gia đình bà chủ nghe làm chi? Ánh đã muốn quên dĩ vãng đầy nước mắt, và lo công việc đầy đủ cho người ta để rán dành dụm chút ít tiền làm vốn. Công việc trong nhà rất nhiều, một mình Ánh làm hết, cả ngày lui cui làm mãi, tối đến có khi 12 giờ mới được đi ngủ, Ánh mệt nhoài người, không còn rãnh trí để nhớ mẩu đời rất buồn thảm đã qua. Ánh còn muốn thời gian làm xóa nhòa mau hết những kỷ niệm chua xót ấy. Còn hiện tại và tương lai của Ánh, một nữ sinh nghèo khổ bơ vơ đem thân đi làm tôi mọi cho người hơi đâu mà nghĩ đến! Nghĩ đến làm chi cho tủi phận buồn duyên!
Nhưng tối nay, bỗng dưng ông Ngọc Minh vô tình nhắc lại quãng đời của Ánh đầy gian truân sầu hận, khiến Ánh càng đau khổ xót xa hơn, Ông giáo sư chỉ nghe người cô của Ánh mách lẻo một câu chuyện làm quà, ngờ đâu vì câu chuyện ấy mà ông giáo lại đem lòng yêu quí Ánh, không kể Ánh là kẻ tôi tớ ở thành phần hạ cấp.
Nhưng Ánh không tin rằng ông Ngọc Minh thực lòng yêu Ánh như ông đã nói. Đã nhiều lần ông lén lút gia đình em gái ông, tìm Ánh để tỏ tình thiết tha với Ánh lắm. Thường ngày Ánh cũng nhận thấy ông giáo sư là người rất đàng hoàng hiền lành, lịch sự và có lẽ ông thương hại hoàn cảnh của Ánh chăng. Nhưng nói rằng ông yêu Ánh bằng một tình yêu chân thật đậm đà thì làm sao Ánh dám nhận lãnh một mối tình ngang trái giữa một ông chủ với một con ở, giữa một bậc trí thức giàu sang với một thiếu nữ ty tiện con nhà lao động, đi ở làm thuê? Ánh cho rằng chẳng qua ông Ngọc Minh trông thấy Ánh có khuôn mặt trái xoan đều đặn, cặp mắt huyền ảo lạnh lùng mà Ánh đã từng nghe nhiều bạn gái trầm trò khen ngợi lúc Ánh hãy còn đi học trường Gia Long, cặp mắt mà nhiều lần chính ông Ngọc Minh cứ nhìn đê mê khiến Ánh ngượng ngùng khó chịu. Phải chăng ông Ngọc Minh đã say mê đôi má ửng hồng của Ánh mơn mơn đào tơ và thân hình của Ánh nở nang uyển chuyển, cho nên cứ theo rủ rỉ những lời tình tự với Ánh? Ánh nghĩ rằng có thể ông Ngọc Minh cảm sắc đẹp của Ánh mà dùng lời đường mật để quyến rũ Ánh như bao nhiêu người đàn ông khác, thế thôi.
Nhưng tại sao tối nay ông Ngọc Minh, và lần này Ánh nhớ là lần thứ ba từ khi Ánh mới đến làm công ở nhà ông, ông lại nói đến vấn đề tình yêu không giai cấp? Đành rằng tình yêu không phân chia giai cấp, nhưng ông có địa vị cao sang thì ông yêu ai mà chả được? Hiếm gì các cô gái trẻ đẹp, học giỏi, nhà giàu, sao ông không yêu, ông lại yêu một đứa ở tồi tàn? Nghe ông nói thật là hay như trong tiểu thuyết vậy, nhưng ngoài đời thực tế làm gì có một tình yêu chân chính giữa hai cấp bậc trong xã hội hoàn toàn trái ngược nhau như thế?
Không! Nên tránh ông Ngọc Minh thì hơn.
Ánh nghĩ thế. Ánh không nên để cho ông giáo sư đeo đuổi mãi một mối tình vô lý. Ánh đã từ chối nhiều lần những món quà cũa ông cho. Ánh đã cự tuyệt nhiều lần những cử chỉ bồng bột của ông. Ánh nhất định phải cương quyết giữ vững thái độ ấy, để tự ông sẽ có ngày chán nãn và đì tìm tình yêu khác hợp cảnh, hợp tình, hợp lý hơn.
Ánh ủi gần hết đống đồ thì có tiếng gia đình bà Năm đã về. Cửa ngoài không khóa. Hai đứa nhỏ xô cửa vào trước. Bà Năm và ông Năm vào sau.
Ánh vẫn ngồỉ yên ủi đồ. Bé Ân dắt em leo cầu thang lên thẳng lầu. Ông Năm đóng cửa nhà ngoài xong cũng đi lên lầu. Bà Năm còn vào căn nhà giữa. Ánh lễ phép chào:
- Thưa ông bà đi coi hát đã về.
Bà Năm ngỏ bốn đống quần áo đã ủi và sắp xếp tử tế, để riêng từng đống đồ của bà, của ông Năm, của ông Ngọc Minh, và của hai chú bé. Còn năm sáu cái áo sơ mi và quần của bé Ân chưa ủi hết. Bà hỏi Ánh;
- Khuya rồi mà mầy ủi chưa xong à?
- Thưa bà gần xong rồi.
Ngó đầu tóc con ở hình như bị bù rối, cặp mắt như muốn sưng, và nét mặt có vẻ buồn rầu, không được tự nhiên và không vui như mọi khi, bà hỏi:
- Ông Hai đã đi ngủ chưa?
Ánh điềm nhiên đáp:
- Dạ, thưa bà, em ủi đồ dưới nầy, em không được biết ạ?
Bà Năm làm thinh quày trở ra phòng ăn, lên lầu. Ánh ủi vội vàng, không suy nghĩ gì nữa. Nhưng Ánh đâu có biết rằng bà Năm đã nghi ngờ ông anh cả bà hình như có tình tự gì với Ánh. Bà nghi đã lâu rồi, do thái độ của ông anh từ mấy tháng nay có hơi thay đổi bí mật đối với ông, nhưng đâu có bí mật được với cặp mắt tinh ranh của cô em gái ông.
Bà Năm chỉ hoài nghi thôi, chứ thật ra, bà không có lần nào bắt gặp anh bà tình tự với con ở. Thỉnh thoảng, bà rầy la với những câu tàn nhẫn, hoặc bất công, thì đợi khi vắng Ánh, ông Ngọc Minh khẽ bảo em nên cư xử dịu dàng với đứa ở. Bà Năm đã không chịu nghe lời phải và còn giận anh sao lại bênh con ở. Tối nay ông Ngọc Minh không đi xem chớp bóng, bà cũng giận và nghi ngờ ông muốn ở nhà một mình với Ánh. Kể ra thì bà Năm nghi cũng đúng thật đấy, nhưng vì đó mà bà lại hay kiếm cớ gắt gỏng với con ở của bà.
Ánh thức khuya ủi đồ, bà Năm đã không thương Ánh làm mệt nhọc suốt ngày cho đến 12 giờ đêm, bà lại còn rầy Ánh sao khuya rồi mà chưa ủi đồ xong. Ánh sực nhớ quãng đời đau khổ vừa qua, mà ông Ngọc Minh nhắc lại lúc ban nãy. Ánh còn thấy bao nhiêu mỉa mai chua xót của số kiếp một nữ sinh nhà nghèo đi ở mướn!
Ánh ủi đồ xong, tắt đèn phòng giữa, đi xuống buồng riêng của Ánh ở cạnh bếp, để ngũ. Đồng hồ đã điểm một giờ khuya.
Nhưng Ánh nghe tiếng bà Năm từ trên lầu gọi vọng xuống:
- Ánh! Đun nước sôi pha cà-phê!
Trong buồng ngủ tối om, Ánh vừa đặt lưng trên chõng tre chưa được năm phút, đã ngồi dậy, đáp:
- Dạ.
Ánh bật đèn bếp, thổi lửa bếp để đun nước. Trong khi đợi cho nước sôi, Ánh đứng chụm thêm mấy que củi, đầu óc nghĩ vẩn vơ đến thân phận của mình... Tự dưng Ánh nhớ lại một vài kỷ niệm của thời nữ sinh ngây thơ vô tư lự.
Ánh trở vào buồng, lấy gói vải xanh trong đó có đựng tất cả gia tài của Ánh ; ba bộ áo quần bà ba và ít đồ lặt vặt. Ánh ôm gói ra bếp, lấy tờ nhật trình cũ lót trên bàn, để cái gói lên và mở gói soạn đồ đạc ra coi lại. Ánh rút một quyển học bạ bìa xanh đã cũ của Ánh học ở trường Gia-Long. Học bạ ghi rõ từ lớp Đệ-Thất lên lớp Đệ-Tứ, mỗi năm mỗi lớp. Lớp nào Ánh cũng được đứng hạng nhì, hạng ba, và được các cô giáo- và bà Hiệu-trưởng khen:
- Rất chăm chỉ.
- Siêng năng và rất thông minh.
- Hạnh kiểm tốt.
- Có biệt khiếu về môn vẽ, và thêu,
- Học mau tấn tới. Rất chuyên cần. Nhiều triển vọng- về Việt-văn, Sinh ngữ.
- Nhiều cố gắng, và tiến bộ vê tất cả các môn.
- Rất ngoan.
Và sau cùng, cuối năm Đệ-Ngũ được bà Hiệu-trưởng khen:
- Người nữ sinh giỏi nhất trong lớp về học lực cũng như về hạnh kiểm. Cô thiếu nữ này sẽ có tương lai rực rỡ, đầy hứa hẹn, nếu cô có điều kiện tiếp tục sự học đến nơi đến chốn.
Riêng lớp Đệ-Tứ, Ánh chỉ học được mấy tháng rồi phải thôi, má Ánh không cho học nữa.
Ánh mỉm cười chua chát, nghĩ thầm: ‘‘Tội nghiệp cho cựu nữ sinh Gia-Long! Đứng trước bếp lửa sáng bừng nầy, nó thấy cái tương lai của nó quả thật ‘‘rực rỡ’’ làm sao! Bà Hiệu-trưởng và mấy cô giáo, mấy thầy giáo của Ánh, có biết đâu ngày giờ này đứa nữ sinh ‘‘rất ngoan’’ rất ‘‘thông minh’’, ‘‘đầy hứa hẹn’’ của họ chỉ làm một con đầy tớ, một giờ khuya còn nấu nước sôi để pha cà-phê cho chủ!
Ánh tủi hổ, từ từ gấp học bạ cất lại dưới mấy chiếc áo quần cũ. Ánh coi đến một quyển ‘‘lưu bút ngày xanh’’ của bạn gái cùng học một trường với Ánh, viết một bài với một tấm ảnh dán nơi đầu trang... Đây là Trần-thị- Huệ... chị nầy đã đỗ lấy hai bằng Tú-Tài, bây giờ đang học Đại - học Sư - phạm, nhờ cha mẹ làm công chức có tiền. Đây là Lan-Phương, bây giờ làm thư ký đánh máy trong một tư sở. Đàv là Ngọc- Quỳnh, con nhà xuất nhập cảng, được cha mẹ cho đi học ở ngoại quốc.
Đây là con Minh, học dở nhứt trong lớp, lười biếng nhứt, lại lẳng lơ trơ trẽn, nhưng nhà nó giàu. Nghe nói nó đã có chồng làm chủ nhà máy cưa ở Biên-hòa...và Túy-Phượng, bạn thân nhất của Ánh, nhưng ba má nó có thế lực, nó được xin phép vào học trường Marie Curie.,.
Mấy chị ấy học kém hơn Ánh, nhưng nhờ hoàn cảnh, mấy chị đã tiến thân được vẻ vang, nhiều ‘‘hứa hẹn’’ và ‘‘tương lai rực rỡ’’ thật sự. Còn Ánh! Ánh nay là đứa đầy tớ! Chỉ vì cha mẹ Ánh là dân lao động, vì cha Ánh chết, mẹ Ánh đi bán hàng rong, cha ghẻ Ánh là tên vô loại! Ánh trơ vơ một thân trơ trọi, nghèo xác xơ không bạc tiền, không nơi nương tựa, sống khổ cực, sống nhục nhã, sống tuyệt vọng, không có ngày mai!
Từ trên lầu lại có tiếng bà Năm gọi:
- Nước đã sôi chưa, Ánh? Sao lâu vậy mậy?
- Dạ, thưa bà, nước vừa mới sôi ạ.
Ánh cất tập ‘‘lưu bút ngày xanh’’ vào trong gói quần áo, vội vàng xách ấm nước sôi lên lầu.
Một lúc sau, Ánh trở xuống bếp, cột cái gói lại định đem cất để đi ngủ. Ánh vừa chợt thấy một mảnh giấy rơi dưới chân bàn. Ánh cúi xuống lượm: bức thư của người bạn trai đã gởi cho Ánh từ lâu. Ánh mở ra coi lại. Đây là thư của Hoàng, người bạn cùng lớp, hồi còn học chung dưới mái trường tiểu học Chợ Quán.
Hoàng cũng con nhà lao động, cha làm tùy phải ở một sở nhà nước, lượng tháng không quá một ngàn đồng. Khi Ánh xin được vào trường Gia Long thì Hoàng đi học trường tư, và đỗ Trung học Đệ Nhất Cấp.
Sáu năm qua, dữ không! Để kỷ niệm khối tình ngây thơ và đầm ấm giữa Hoàng và Ánh chỉ mỗi trang thư nhầu nát nầy mà Ánh còn cất mãi!
Ánh mĩm cười, nhớ đến lúc Ánh với Hoàng cùng học trường Tiểu-học. Hai người thân nhau lắm. Nói rằng hai người đã ‘‘yêu’’ nhau thì không phải, vì hồi đó Ánh mới mười sáu tuổi, Hoàng mười bảy tuổi, cả hai đều chăm chỉ học hành chẳng hề nghĩ đến tình yêu như các bạn trẻ đồng lứa và chưa biết yêu là gì. Cặp thiếu niên ấy cùng con nhà nghèo, cùng học giỏi và cả hai đều tính nết đoan trang, đã cảm thấy mến nhau, và tự nhiên quyến luyến nhau. Bức thư độc nhất của người bạn trai mà Ánh còn cất trong gói áo quần rách rưới đêm nay rớt bên chân Ánh, là bức thư không dài quá một trang, của Hoàng gởi cho Ánh hồi còn đi học, một hôm gần thi Ánh đau nặng phải xin phép nghỉ ở nhà ba ngày.
Ánh nhớ lại rõ ràng hôm ấy là chiều thứ Tư. Ánh nóng lạnh nằm trùm mền trong nhà. Tan học một hồi lâu thì Hoàng đến, thập thò trước cửa nhà Ánh mà không dám vào. Như thường lệ, giờ ấy má Ánh đi bán hàng rong ở chợ cầu Ông Lãnh chưa về. Trong nhà Ánh không có ai, Hoàng có thể vào thăm Ánh tự do. Nhưng ngày thường Hoàng cũng ít dám vào vì sợ gặp ba của Ánh. Hôm ấy, bà Ánh đi làm chưa về, nhưng Hoàng vẫn cứ lấp ló ngoài cửa một lúc mới chạy đại vào. Hoàng đến cạnh giường nơi Ánh đang nằm trùm mền, nhưng Hoàng không dám gọi Ánh. Hoàng lấy trong túi áo bức thư đã viết sẵn, khẽ nhét cạnh đầu nằm của Ánh, rồi vội vàng đi ra. Ánh nằm mê man, không hay biết gì cả. Mãi đến sáu giờ má Ánh về nấu cơm, Ánh đã bớt nóng, lóp ngóp ngồi dậy và gượng xuống bếp để giúp mẹ. Không ngờ Ánh trông thấy một mảnh giấy gấp làm tư nằm bên gối. Ánh ngạc nhiên mở ra coi, thấy một trang chữ đều đặn, nét chữ dễ thương của Hoàng.
Bức thư đầu tiên và cũng là bức thư độc nhất của người bạn trai hồi còn đi học lớp Nhứt trường Chợ Quán.
Đêm nay Ánh đọc lại, tủm tỉm cười vì giọng ngây thơ thành thật của người bạn trai mười bảy tuổi.
Ánh thân mến,
Sao ba ngày nay Ánh không đi học? Hoàng không dám đến nhà thăm Ánh, nhưng nghe chị Ngọc nói là Ánh đau, Hoàng buồn quá Ánh à. Trong trường mình, vắng bóng Ánh thì thấy buồn buồn làm sao! Tối hôm qua không học để đến thăm Ánh mà không dám vô, vì có ba Ánh ở nhà, Hoàng đi qua lại trước nhà Ánh ba bốn lần, ngó vô cứ thấy ông ngồi ghế coi nhựt trình hoài. Ánh đau sao mà lâu khỏi vậy? Hoàng cầu mong Ánh mau lành bịnh để đi học, chớ gần thi rồi! Ánh thì chắc đỗ, rán uống thuốc cho mau mạnh rồi đi học, Ánh nhé, trường vắng Ánh sao tôi không muốn học gì hết...
Chúc Ánh mau lành bệnh.
HOÀNG.
Đọc xong thư đã cũ nhèo từ sáu năm về trước, Ánh suy nghĩ, nét mặt buồn rầu, cúi xuống hôn bức thư.
Ánh rưng rưng nước mắt, nhớ lại người bạn học nghèo năm xưa. Hoàng thi đỗ Trung học Đệ Nhất-Cấp rồi đi học đánh máy chữ, tìm một chỗ để yên phần sinh kế. Cuộc đời người thiếu niên nghèo đâu còn có tham vọng nào cao xa hơn nữa được! Bao nhiêu cố gắng phấn khởi của tuổi thơ trong thời kỳ học tập đến đây là chấm dứt, để phải lăn mình vào đời sống thực tế, cam khổ lầm than của con nhà lao động.
Hoàng học khá nhất trong lớp, thi đỗ cũng đứng cao. Nhưng học giỏi mà làm gì? Đỗ cao mà chi? Ánh cũng thông minh, chăm chỉ, học đến Đệ-Tứ rồi ngày nay đi làm đầy tớ cho người ta để kiếm tiền độ thân, thì còn mong gì ‘‘tương lai’’ đầy hứa hẹn’’ như lời của bà Đốc trường ghi trong học bạ?
Hoàng còn xin được chút ít tiền của cha mẹ để học đánh máy. Ba tháng sau ra trường cũng bơ vơ thất nghiệp như bao nhiêu kẻ thanh niên nhà nghèo, lang thang trên vỉa hè đi tìm đường sinh kế! Ánh còn nhớ một buổi tối, Ánh đang ngồi bán hột vịt lộn và mực nướng trước rạp hát cầu Muối, bỗng Hoàng đi phất phơ qua đấy, nét mặt tiều tụy, nhưng đôi mắt thông minh sáng ngời, như lúc còn ở nhà trường với miệng cười chân thật, dễ thương, biểu lộ một tinh thần đầy lạc quan vui vẻ.
Hoàng dừng bước trước hai cái mẹt hàng của cô bạn cũ, bỡ ngỡ, chào:
- Ánh!
Ánh cũng bẽn lẽn chào lại, nhưng vui mừng lộ ra trên mặt;
- Anh Hoàng!...
- Ánh bán hàng, khá không?
- Khá gì đâu anh! Ngày lời được vài chục đồng... chán lắm, anh à,.. Còn anh, anh kiếm được chỗ làm chưa?
- Có bằng đánh máy, nhưng xin việc làm chưa được đâu hết.
Ánh chỉ một chiếc ghế trệt cạnh lò lửa than nướng khô mực, mời bạn:
- Anh Hoàng ngồi chơi.
Hoàng kéo ghế ngồi gần Ánh ;
- Ánh bán hàng như vầy có đủ sống không?
- Có bữa vừa đủ nuôi hai mẹ con, có bữa thiếu. Nhiều hôm ế lắm anh ơi! Em chán lắm!
- Còn hơn Hoàng ngày hai buổi vẫn ăn nhờ cha mẹ.
- Anh lo gì, có sẵn bằng cấp trong tay không sớm thì muộn anh cũng tìm được chỗ làm. Phần em thì có lẽ già đời phải ngồi bán hột vịt lộn với khô mực! Hai đêm nay bị mưa, ế hàng quá.
Hai người khách đến, hai anh phu xe cyclo đạp, để xe lên lề đường, kéo nhau lại chỗ Ánh và ngồi xuống chiếc ghế dài thấp, trước mặt cô;
- Bán hai đồng khô nướng với hai ly rượu đế cô Hai!
- Dạ.
Ánh niềm nở tiếp hai chú phu xe cyclo. Họ nâng ly uống một hớp rượu trắng, rồi xé một miếng mực nướng đưa vào miệng, nhai nhỏm nhẻm. Họ nói chuyện oang oang, giữa đám đông người toàn là bình dân ăn nhậu và cười nói ồn ào trước cổng rạp cầu Muổi.
Hoàng lặng lẽ ngồi ngỏ Ánh nướng mực. Hoàng không ngờ mới xa cách nhau chưa bao lâu mà người bạn cũ đã lớn hơn nhiều. Ánh đã mười chín tuổi, một cô gái đang tuổi dậy thì, sắc đẹp mặn mà, duyên dáng gấp mấy lần hồi còn xách cặp da đi học.
Ánh mặc áo bà ba trắng, quần đen, làn tóc huyền, chảy mướt xuống đến giữa lưng. Ánh đèn điện làm nỗi bật khuôn mặt trái xoan của Ánh với đôi mắt sầu mơ, tròng con ngươi đen lóng lánh, đôi má ửng đào tơ, bộ ngực nở nang vun vén, hai bàn tay mủm mỉm nỏn nà, trông Ánh thật là diễm lệ và trong trắng dịu dàng làm sao!
Hoàng ngồi lặng lẽ ngắm cô bạn học cũ nhà nghẻo mà cậu quý mến nhất. Ánh vẫn còn là người bạn thân yêu từ khi Ánh học trường Gia Long, Hoàng học một trường tư thục. Dù ít gặp nhau vì hoàn cảnh gia đinh, vì chăm lo học, đôi bạn trẻ vẫn nặng tình lưu luyến, âm thầm thương nhớ, chưa dám thố lộ cùng nhau.
Cho đến bây giờ, người đi bán hàng rong, kẻ lang thang thất nghiệp.
Hoàng nghĩ rằng nếu Ánh sinh trưởng trong gia đình giàu có, đời sống xa hoa, thì Ánh còn hơn xa gấp mấy lần các cô tiểu thư khuê các?
Ánh cũng nghĩ rằng nếu cha mẹ Hoàng có tiền của, Hoàng được đi học đến nơi đến chốn, thì Hoàng đâu có kém gì các bậc trí thức thượng lưu? Chỉ vi cảnh nghèo khổ đã giam hãm một trang thanh niên tuấn tú trọng vọng lẩn quẩn của sinh kế, nên bây giờ chàng mới bị cảnh thất nghiệp, lang thang ngày tháng đi kiếm không ra một việc làm!
Còn Ánh thì cũng chả hơn gì! Cả vốn liếng chỉ có một rổ hột vịt lộn với một mớ rau răm, vài chục con mực nướng. Bán từ trưa đến khuya Ánh kiếm giỏi lắm là ba chục đồng bạc lời, tạm đủ nuôi sống thân gái nghèo, và giúp đỡ mẹ già.
Hai anh phu xe cyclo ăn hết hai con khô mực và uống cạn hai ly nhỏ rượu trắng, vừa nói chuyện lè nhè - trong hai mươi phút đồng hồ, rồi móc túi lấy ra 5 đồng bạc nhèo nát đưa cho Ánh. Ánh nhét dưới thúng không cần đếm lại. Trời sắp đổ mưa. Lúc đầu còn lác đác rơi vài hột, nhưng Hoàng nhìn lên trời thấy một vòm mây đen nghịt. Gió ào ạt thình lình thổi mạnh, lay chuyển các ngọn cây hai bên đường. Lá rụng tơi bời, bay xào xạc dưới ánh đèn. Hoàng giúp Ánh vội vả thu dọn hết gánh hàng vào núp tạm trong hè rạp hát. Mưa xối xuống như nước lũ. Trong chốc lát hai bên đường nước ngập tràn không kịp chảy xuống cống. Mưa ào ào không ngớt. Đường phố vắng teo không một bóng người. Bao nhiêu khách bộ hành bị mắc mưa thình lình đưa nhau chạy núp mưa, đông nghẹt hai bên hè phố.
Hoàng và Ánh bị đám đông dồn ép hai bên, phải đứng sát vào nhau. Ánh bẽn lẽn, lần đầu tiên đứng sát vào cạnh một người con trai, người ấy lại là Hoàng, Hoàng cũng mắc cở, muốn đứng xê ra một tý. Nhưng đám người đụt mưa cứ lấn áp mãi không còn chỗ quậy cựa được nữa. Ánh thẹn thùng cảm thấy vai Hoàng và vai Ánh dựa kề nhau như thể truyền cho nhau một hơi ấm dịu dàng êm ái làm sao ấy...
Ngẫu nhiên bàn tay của Hoàng chạm vào bàn tay của người bạn gái, hai ngón tay của Hoàng hình như nắm lấy ngón tay út của Ánh. Ánh thấy tự nhiên rung động toàn thân thể. Vô tình, Ánh xoay ngó Hoàng, Hoàng cũng vừa quay lại... Hai làn điện chan hòa cùng nhau trong hai nụ cười và hai tia mắt. Cả hai đều im lặng
Rạp hát Cầu Muối đêm ấy diễn tuồng hát bội đặc sắc của bầu Thắng, bà con cô bác đi coi thật là đông. Trong rạp đã chật nứt khán giả, tại cơn mưa rào mà một số đông người thừa cơ hội lộn xộn ùa vào rạp không cần mua vé. Vì vậy, người ta đã phải đóng cửa rạp, không bán vé nữa. Số người say mê hát bội, đã dầm mưa từ nhà đến rạp để coi hát, đến đây họ thất vọng đành phải ở ngoài, chen lấn với đám đông người mỗi lúc mỗi chật thêm. Trong rạp, tiếng trống kèn inh ỏi, hòa lẫn tiếng mưa thành một cuộc hòa tấu lào xào, ào ạt lạ lùng.

Hai bà mập ù, mà Ánh nhớ mặt một bà là một tay đầu thảo chuyên sống về nghề góp hụi ngày ở chợ Ông Lãnh, bà thứ hai miệng nhai trầu nhỏm nhẻm, cười nói oang oang, vừa từ trong xe xích lô chui ra, bước lẹ xuống trước mặt Ánh, nhảy đại qua gánh hàng của Ánh và đứng chen vào giữa Ánh và Hoàng. Sự xâm lấn đột ngột và bất lịch sự của hai bà mập nầy làm nổi sóng trong đám đông người đụt mưa trên vỉa hè chật chội. Người đầu tiên bị lấn ra mưa là Ánh, Ánh bị ướt cả đầu tóc và áo quần, tức giận kêu lên:
- Bà nầy kỳ quá, sao bà xô tôi?
Hoàng liền nhảy ra mưa, nắm tay Ánh đỡ lên chỗ cũ.
Hoàng lấy cùi chỏ hất mạnh bà mập ra một bên để giành cho nàng. Nếu không bị vướng gánh hàng của Ánh, thì Hoàng xô bà mập ra ngoài mưa rồi. Nhưng bà mập bị cùi chỏ của Hoàng thúc mạnh vào hông, ngã vào bà bên cạnh, và những người đứng kế cận đều bị xô đẩy ngả nghiêng.
Tiếng phản đối và cãi nhau nhao nhao nổi lên, mọi người đều gây gỗ với hai bà mập vừa mới chen vào. Bà mập quay lại sừng sộ với Hoàng và tỏ vẻ hung hăng muốn đánh lộn với cậu. Hoàng chỏi lại không kém, nhưng Ánh nắm tay Hoàng khẽ bảo:
- Thôi anh! Nhịn là hơn, đừng nói gì hết.
Hoàng còn đang tức giận, bảo:
- Để tôi cho họ một bài học, kẻo họ làm tàng!
Ánh kề miệng vào tai Hoàng bảo nhỏ:
- Chỗ này chật quá, nếu đánh nhau với mẽ thì đổ hết gánh hàng của em. Một chút bớt mưa em về.
Hoàng nghe lời Ánh, không nói lại một câu trong khi mụ mập cứ cheo chéo cái mồm.
Trời Sàigòn không giống như trời ở các nơi khác. Lúc nắng thì nắng chang chang như thiêu, như cháy, lúc mưa thì ào ào trút đại hồng thủy xuống trần gian. Thành phố đang khô ráo, thiên hạ đang đi tấp nập ngoài đường, không có một báo hiệu gì là trận mưa sắp đổ. Bỗng dưng ông trời động cởn thổi một cơn gió, trút một trận mưa rào rào như muốn lùa trôi cả Sàigòn ra sông. Nhưng không lâu. Chỉ mười lăm phút hay nửa giờ sau cơn điên rồ tràn ngập, rồi trời tạnh mưa, không còn rơi rớt một hột nhỏ.
Hoàng ngó lên trời đã thấy lác đác năm ba ngôi sao. Đám người đục mưa đã lần lượt kéo ra đường, ung dung đi chơi, hoặc bu lại các gánh hàng quà. Ánh kề vai vào đòn gánh, mỉm cười bảo Hoàng:
- Em bán hết rổ hột vịt lộn và mấy con khô mực rồi em về.
- 2 -
Hoàng theo Ánh ra ngồi dưới trụ đèn, vi chỗ bán hàng lúc nãy đã bị nước mưa đọng lại thành vũng.
Câu chuyện thân mật lại tiếp tục giữa đôi bạn tâm tình. Có khách đến ăn, Ánh rối rít bán hàng, Hoàng đến giúp Ánh trong vài việc nhỏ, rót rượu mời khách, nướng khô mực, rửa ly rửa đĩa trong một chậu nước. Khách đi rồi, hai người lại rù rì trò chuyên. Hoàng hỏi:
- Má không đi bán với Ánh?
- Dạ, má em bán ngoài bến tàu. Em rầu cho má em lắm anh ạ, dạo nầy bả mèo với một ông nào đó mà em ghét quá!
- Sao Ánh ghét người ta?
- Người gì mà tướng mạo như du côn! Nghe nói chú ấy làm cai ở Bến Tàu, không biết cai gì, mà coi bộ có nhiều ‘‘em út’’ làm phu khiêng vác. Anh biết không, bữa nọ ổng đến nhà em nói với má em rằng ổng sẽ giới thiệu cho em một người đàn ông có nhiều tiền!
Ánh cười nói tiếp:
- Ổng làm đâu như em thích những người đàn ông có nhiều tiền!
Hoàng cũng cười:
- Thời buổi kim tiền, đa số con gái đều muốn lấy chồng giàu, chớ có ai ngu dại gì mà đi lấy chồng nghèo.
- Phải, em cũng đồng ý với anh. Nhưng mà...
Có bốn người khách kéo đến ngồi xuống ghế, bảo Ánh dọn ra một chục hột vịt lộn. Ánh đếm lại trong rổ còn đúng mười hai hột, liền mời khách:
- Cháu còn mười hai hột, mời mấy bác dùng hết nhé?
- Ừ, thì cô nương cho hết mười hai hột đi.
- Các bác uống rượu không?
- Có chớ! Cô nương cho tụi tui bốn ly.
Hoàng sốt sắng gìúp Ánh, lấy bốn ly nhỏ trong thúng ra để trên ghế dài, lấy chai rượu đế rót ra ly.
Ánh thì dọn ra hai dĩa hột vịt lộn, một dĩa rau rămr một dĩa muối tiêu. Trong lúc bốn người khách ăn nhậu và trò chuyện om sòm, Ánh lo thu dọn gánh hàng để sửa soạn đi về.
Nửa giờ sau, mấy người khách mới ăn xong. Ánh bảo Hoàng
- Thôi em đi về đây, anh Hoàng. Em cảm ơn anh và chúc anh kiếm được việc làm thì em mừng cho anh.
- Hoàng đưa Ánh về nhé.
Ánh tủm tỉm cười:
- Cảm ơn anh Hoàng, em về một mình được mà,
- Hoàng đưa Ánh về, chúng ta cùng đi cho vui.
- Dạ cũng được, nhưng sợ mất công anh đi xa.
- Đây về An bình mà xa gì.
- Dạ... tùy anh.
Ánh kề vai vào đòn gánh bước đi nhẹ nhàng, uyển chuyển... Hoàng vui vẻ đi bên cạnh.
Dọc đường, Hoàng hỏi tiếp câu chuyện dở dang lúc nãy:
- Má dạo nầy có chồng khác rồi hả?
Ánh cười rất tự nhiên:
- Hai ông bà lấy nhau thật sự rồi, anh ơi!
- Ổng về ở nhà Ánh sao?
- Chưa ở hẳn, nhưng đi đi về về luôn. Em ghét lắm
- Sao Ánh ghét?
- Coi bộ ông ta lưu manh lắm. Nhậu nhẹt tối ngày, ăn nói thì tục tĩu!
- Ổng có thương Ánh bằng ba lúc trước không?
- Thương cái nổi gì chớ? Hạng người ấy mà biết thương ai? Mà em đâu có cần ổng thương? Cái thứ cha ghẻ mà ăn thua gì, anh!
- Cha ghẻ cũng tùy theo hạng chớ. Cha ghẻ của thằng Bông sao vẫn cưng thằng Bông như con ruột đó thì sao?
- Người ta có học thì khác chớ. Với lại cũng tùy theo hoàn cảnh. Cái ông nầy thì em thấy mặt là em ghét, không hiểu tại sao! Ai đời ổng cứ xúi má em bắt em đi làm chuyện tồi bại để kiếm tiền.
Hoàng ngơ ngác thực thà không hiểu:
- Chuyện gì tồi bại để kiếm tiền hở Ánh?
- Hoàng không hiểu sao? Nhưng em đâu có chịu. Nhiều khi chán nản, em muốn xin phép má cho em đi về ở quê của ngoại dưới Cần thơ, nhưng má không cho.
- Tại sao?
- Tại bả có một mình em là gái nên bả không muốn xa em. Em xin bả cho em đi học nữa, bả cũng không cho.
- Sao thế?
- Bả nói tiền đâu mà tiếp tục học? Bả hỏi em học nữa để làm gì, ai ở nhà lo cơm nước cho mà học?
- Hay là Ánh kiếm công việc gì làm miễn đủ tiền nuôi sống để có thì giờ học thêm? Tụi mình phải xây dựng một cuộc đời có ý nghĩa, chớ chẳng lẽ cứ như thế nầy mãi sao?
- Anh Hoàng tưởng em không biết nghĩ đến việc đó hay sao? Em cũng đã nhờ bạn bè kiếm giùm cho em một chỗ làm, như đứng bán hàng ban ngày để ban đêm tiếp tục đi học, nhưng kiếm chưa ra chỗ.
- Sao Ánh không tự mình đi kiếm việc? Con gái dễ tìm việc hơn con trai. Nhứt là Ánh có sắc đẹp nữa.
Ánh bẽn lẽn ngỏ Hoàng:
- Em mà đẹp gì, anh!
- Ánh đẹp lắm chớ, Hoàng nói thật đấy, không phải nói nịnh đâu. Ánh đi xin việc làm chắc được liền.
- Thời buổi nầy thất nghiệp hàng đống, xin việc làm đâu phải dễ, anh! Em đăng vào mục ‘‘Tìm việc’’ trong báo, một tuần rồi mà chẳng có ai kêu hết. Mấy con bạn của em, đỗ T. H. Đ. N. C. rồi, có đứa đỗ Tú tài I, cũng nằm nhà một năm nay đó! Em thấy em đi bán hàng rong thế nầy cũng tạm đủ sống được rồi, không cần phải đi làm đâu cả.
Câu chuyện đến đây thì đôi bạn đã gần đến nhà Ánh. Còn cách nhà độ mươi thước Ánh dừng bước, mỉm cười ngó Hoàng:
- Cảm ơn Hoàng đã đưa em đi một quãng đường xa.
Hoàng muốn đưa Ánh đến tận nhà nhưng Ánh bảo:
- Thôi, Hoàng à. Em không muốn hàng xóm trông thấy em đi với Hoàng, sợ họ hiểu lầm chúng mình. Cảm ơn Hoàng, và chúc Hoàng về ngủ ngon nhé!
Ánh bước đi một mình, duyên dáng với gánh hàng nhẹ nhỏm. Hoàng đứng lặng lẽ nhìn theo cho đến khi Ánh quẹo vào ngõ hẻm còn quay lại mỉm cười...
Gần một giờ khuya. Hoàng đủng đỉnh đi về, đầu óc liên miên nghĩ ngợi.
Chín giờ sáng hôm sau, Hoàng trở lại nhà Ánh. Ánh nóng lạnh, nằm mê man trên giường trùm mền kín mít. Hoàng vừa lấp ló toan bước vô cửa thì gặp má Ánh trong nhà đi ra:
- Cậu hỏi ai?
Hoàng ngượng nghịu đáp ;
- Dạ, thưa bác, cháu hỏi... Ánh.
Bà Tư Rỗ (bà con hàng xóm thường gọi má Ánh như thế vì hồi nhỏ bà đau trái rạ bị rỗ mặt), đăm đăm ngó cậu con trai lạ mà bà chưa gặp lần nào, coi bộ cũng nghèo nhưng mặt mày hiền lành dễ thương. Bà hỏi tiếp:
- Cậu là ai?
- Dạ thưa bác, cháu là bạn học cũ của Ánh ở trường Chợ quán.
- Mời cậu vô nhà. Con Ánh nó đau, nó nằm kia. Cậu hỏi nó có việc chi?
Hoàng thấy Ánh trùm mền trên chõng tre, không quậy cựa. Hoàng buồn bả, xót thương, nhưng không dám đến gần hỏi thăm cô bạn gái. Cậu chỉ hỏi bà Tư Rỗ:
- Thưa bác, Ánh đau sao?
- Tại nó đó! Hôm qua đã nóng lạnh, tôi biểu nó ở nhà đừng đi bán, mà nó không nghe lời tôi. Nó sợ nghỉ bán hàng một bữa thì không có tiền, cứ đòi đi rồi bị mắc mưa, khuya về nóng lạnh, nằm miết tới bây giờ đó.
- Thưa bác, Ánh có uống thuốc không?
- Hồi nãy tôi thấy nó rên quá, rờ đầu nóng hực, tôi lấy dầu Nhị thiên Đường cho nó uống vài giọt.
- Thưa bác, ở nhà có thuốc tây không?
- Làm gì có. Phần thì tôi cũng muốn đau, tôi cũng nóng lạnh hai ba bữa rày mà phải cố gắng dậy để đi chợ mua đồ về bán, chớ không lẽ hai mẹ con nằm mẹp hết!
- Bác cho phép cháu hỏi thăm Ánh một chút.
Bà Tư Rỗ không muốn thế, nhưng thấy cậu học trò nói năng lễ phép bà cũng gật đầu:
- Ừ.
Hoàng bước đến gần giường Ánh, bà Tư ngó theo cử chỉ của cậu. Ánh nằm quay lưng ra ngoài, trùm mền kín đến cổ, làn tóc dài đen nhánh bỏ xõa xuống giường, Ánh đang mê man bất tỉnh, Hoàng khẽ sờ lên trán, thấy nóng như lửa. Ánh thở mệt nhọc, đôi mắt nhắm riết dưới đôi mi dịu dàng. Khuôn mặt hồng hào xinh đẹp lạ thường, xinh đẹp hơn lúc Ánh khoẻ mạnh. Hoàng thương Ánh quá... Nhưng cậu vội vàng quay ra, chào bà Tư:
- Thưa bác, cháu về.
- Cậu ngồi chơi đã. Cậu tên chi, hỏi con Ánh có chuyện chi không, nói cho tôi biết để chừng nào nó khoẻ dậy tôi nói lại.
- Dạ thưa bác, cháu là Hoàng. Cháu đến thăm Ánh chớ không có chuyện chi hết. Thôi cháu xin phép bác.
Hoàng lễ phép chắp hai tay trước ngực chào bà Tư rồi bước ra cửa. Bà Tư vô nhà dọn dẹp sơ sài vài nơi, rồi cầm cái thúng đến gần giường con gái. Bà khẽ đập vai con:
- Ánh! Ánh!
Ánh mê man, không trả lời. Bà lại nói tiếp. Ánh quậy cựa, bà bảo:
- Má đi chợ đây nghen con?
Ánh chỉ rên một tiếng, rồi nằm yên trở lại, coi bộ uể oải lắm. Bà Tư ra đi, sau khi khép cánh cửa ván.
Cánh cửa làm bằng mươi tấm ván thùng sữa ghép lại, và bồi giấy nhựt trình phía trong.
Vào khoảng mười hai giờ trưa, Hoàng lại đến. Cánh cửa ván còn khép, Hoàng đánh bạo gõ hai tiếng. Một lúc cửa hé mở, để lọt vào tia nắng trong căn nhà tối om và ẩm thấp. Người mở cửa là bà Tư. Hoàng ngó vào nhưng vẫn thấy Ánh còn trùm mền nằm trên chõng tre.
Bà Tư tỏ vẻ không bằng lòng thấy cậu học trò trở lại. Bà thoáng nghi ngờ cậu nầy có tình ý gì với con gái bà. Bà bảo:
- Con Ánh nó còn đau.
Hoàng móc trong túi áo sơ mi lấy ra một trăm năm chục đồng bạc, với cử chỉ ngượng ngịu và sợ sệt, đưa bà Tư:
- Thưa bác, cháu xin gởi bác số tiền này nhờ bác trao lại Ánh.
Bà Tư chưa cầm xấp giấy bạc, nhưng nét mặt bà tươi tắn hơn một chút, bà hỏi:
- Tiền gì đây?
- Thưa bác, tiền nầy là tiền...
Hoàng ấp úng vài câu bịa đặt:
- Dạ... tiền của cháu mượn Ánh hồi trước, nay cháu đem trả Ánh.
- Bà Tư không hiểu, vì bà biết rằng con gái bà làm gì có tiền cho ai mượn? Cho cậu học trò mượn đến một trăm năm chục đồng là một món tiền lớn đối với gia đình bà là chuyện hơi lạ, bà hỏi:
- Tiền gì, nó cho cậu mượn hồi nào?
- Thưa bác hồi năm ngoái.
Hoàng bỗng thấy mình không thể đặt chuyện nói láo với má Ánh hơn nữa, và thấy má Ánh đã nghi ngờ, cậu liền trao tiền cho bà, và nói vội vàng để từ giã:
- Thưa bác, nhờ bác đưa lại Ánh.
Cậu lại móc trong túi áo lấy ra một ống thuốc viên:
- Thưa bác, đây là thuốc thương hàn, cháu xin gởi bác để bác và Ánh uống. Cháu xin phép bác cháu về.
Hoàng vội vàng ra đi, sau khi đã đưa bà Tư cầm số bạc và ống thuốc viên trừ bịnh nóng lạnh
Bà Tư Rỗ mừng thầm tình cờ được số bạc một trăm năm mươi đồng, tuy bà chưa biết là tiền gì của cậu học trò lạ gởi đưa con gái bà. Bà vào bếp nấu nồi lá xông cho Ánh. Tuy bà tin rằng xông là hết cảm sốt vì đó là môn chữa bịnh rẻ tiền nhất của nhà nghèo và thường là hiệu nghiệm nhất, nhưng khi xông rồi bà cũng lấy thuốc đưa cho Ánh:
- Con coi có phải là thuốc nóng lạnh không?
Ánh cầm xem nhản hiệu:
- Phải rồi, má.
- Phải thì con lấy uống đi cho mau hết bịnh.
- Thuốc ở đâu đây má? Má mua hả?
- Của cậu học trò gì quen với mầy đó.
- Ai hả má?
- Cậu gì, tao quên tên rồi. Nó còn gởi tao đưa trả lại mầy một trăm năm chục đồng bạc đây. Tiền gì mà mầy cho nó muợn hồi nào, tao cũng không biết nữa.
Ánh ngạc nhiên trố mắt nhìn mẹ. Vừa mới tỉnh cơn mê sảng, Ánh ngơ ngác không hiểu mẹ nói gì, nhưng bỗng dưng hình ảnh của Hoàng thoáng hiện ra trong trí nhớ. Ánh hỏi mẹ ;
- Anh học trò nào má? Có phải cái anh có nút ruồi son ở nơi màng tang đó không?
- Tao đâu có biết nó có nút ruồi hay không? Tao chỉ nhớ nó nói tên nó là thằng... Thằng gì bạn học cũ của mầy ở trường Chợ Quán ấy.
- Phải anh Hoàng không, má?
- Ờ, thằng Hoàng.
Ánh yên lặng một lúc rồi hỏi:
- Anh Hoàng đưa má một trăm năm chục đồng mà ảnh nói sao?
- Tiền mày cho nó mượn hồi nào, ai biết! Nó nói nó gởi trả lại mầy đó.
- Con đâu có tiền cho ảnh mượn hồi nào?
- Tao biết đâu.
- Anh gởi ống thuốc này cho con nữa hả, má?
- Ừ.
- ảnh đến đây hồi nào hả, má?
Bà Tư lại nói đầu đuôi cho con gái nghe, xong Ánh bảo:
- Chắc là ảnh đến thăm con, thấy con đau ảnh đi mua thuốc và gởi tiền cho con mượn để uống thuốc. Chớ con làm gì có tiền cho ảnh mượn!
- Nó làm nghề nghiệp gì?
- Hoàng học giỏi lắm, nhưng cũng nhà nghèo. Thi đỗ Trung học Đệ Nhất cấp rồi bây giờ thất nghiệp.
- Sao nó có tiền cho mầy mượn?
- Chắc là ảnh vay mượn của ai, chớ ảnh làm gì có tiền.
Cảm động vì cử chỉ tốt đẹp của người bạn trai quá thương yêu mình, Ánh nằm lại xuống giường, thút thít khóc, bà Tư xuống bếp, múc một tô cháo nóng đem lên gọi Ánh dậy ăn. Nhưng Ánh không dậy.
Ánh không dè một người bạn trai cũng nghèo khổ như Ánh, đang thất nghiệp, bơ vơ trên đường đời, mà có lòng thiết tha lo lắng cho Ánh trong lúc Ánh đau, thật là một cử chỉ cao quý. Một tấm lòng vàng.
Lần đầu tiên trái tim của Ánh hồi hộp rung động. Nếu Ánh biết rõ số tiền một trăm năm chục đồng kia, Ánh sẽ càng thương Hoàng biết bao nhiêu nữa! Ánh không biết rằng Hoàng có một chiếc đồng hồ đeo tay do một người chú họ thưởng cho Hoàng khi Hoàng thi đỗ, tuy nó là đồng hồ đã cũ nhưng Hoàng xem nó là kỷ niệm quý báu nhất của Hoàng mà sáng nay Hoàng đã phải đem bán để lấy một trăm năm chục đồng bạc, đưa cho Ánh và mua thuốc cho Ánh. Ánh đâu có dè? Chỉ tưởng rằng Hoàng vay mượn tiền của ai để giúp Ánh trong lúc bệnh hoạn, cũng đã đủ khiến Ánh cảm phục hảo tâm của người bạn trai kia rồi. Đối với những kẻ nghèo như Hoàng và Ánh, 150 đồng bạc không phải là một món tiền nhỏ, và Hoàng giúp Ánh trong lúc này chứng tỏ rằng tình yêu của Hoàng rất thành thật và cảm động. Rồi đây Ánh biết lấy gì đền đáp lại ơn chàng?
Nghĩ quanh quẩn bấy nhiêu đó, Ánh không sao cầm
được giọt lệ. Ánh vừa vui sướng vừa buồn bã liên miên.... Vui bởi Ánh được một người bạn trai ân cần chiếu cố đến, âm thầm săn sóc cho mình và tha thiết thương yêu mình. Buồn, bởi số phận hẩm hiu, cuộc đời vất vưởng, Ánh cũng như Hoàng, sống một hiện tại tối tăm, một tương lai mù mịt, bao nhiêu nghị lực và hy vọng của tuổi trả đều như bị chôn vùi trong đau khổ, nghèo nàn.
Nếu Hoàng biết rõ câu chuyện xảy ra đêm hôm qua thì Hoàng sẽ còn xót xa cho Ánh biết bao! Sáng nay má Ánh chỉ cho Hoàng hay rằng tại khi hôm Ánh đi bán bị mắc mưa, về nhà nàng lạnh nên bị cảm thương hàn đó thôi. Nhưng thực ra Ánh nằm vùi cả ngày hôm nay, mê man bất tỉnh, đâu có phải vi mắc mưa đêm qua lúc bán hàng ở rạp bát cầu Muối!
Sự thực, là sau khi Hoàng đưa Ánh về gần đến nhà, và Hoàng đã đi rồi. Ánh gánh hàng vào nhà thì ngạc nhiên thấy chú Cai Mão, ‘‘cha ghẽ’’ của Ánh, làm Cai thầu khuân vác ở bến tàu, đang ngồi uống rượu với một thầy nào lạ, Má Ánh đang dọn đồ nhậu trên bàn. Ánh đã thấy khó chịu rồi. Nhưng nàng vẫn lấy bộ mặt nghiêm nghị và thản nhiên quảy gánh vô nhà, Chú Cai Mão cất tiếng hỏi Ánh với giọng dịu ngọt bất thường:
- Cô gái cưng đi bán hàng bây giờ mới về đó hả con? Tối nay bán được khá không con?
Ánh không thích nghe tiếng ‘‘cưng’’ và tiếng ‘‘con’’ trong câu nói của người cha ghẻ. Nàng làm thinh không trả lời.
Người khách lạ cũng cười hỏm hỉnh, khen ngợi Ánh:
- Chà, cô Hai giỏi quá xá? Cô Hai duyên dáng xinh đẹp như vậy chắc là bán hàng đông khách lắm.
Ánh đã quảy gánh biến vào sau bếp, không trả lời người khách lạ. Ánh rất ghét cái giọng đùa bỡn lố lăng như thế. Ánh đang dọn dẹp gánh hàng, thì Cai Mão lại gọi:
- Hai ơi, còn khô mực đem ra đây con!
Ánh hết sức bực mình, tuy trong thúng vẫn còn mấy con khô mực, nhưng nàng không thích đem ra nhà ngoài để đãi người khách lạ, nàng đã ghét ngay người ấy vì câu nói vừa rồi, và nàng vẫn không ưa người cha ghẻ tục tĩu mọi lần hay gấm ghé nàng và xúi má nàng ép nàng làm nghề mãi dâm lậu thuế, để y rước khách kiếm tiền. Vì ác cảm, nên nàng trả lời vắn tắt:
- Hết khô mực rồi.
Cai Mão làm thinh. Y rót thêm rượu mời người khách lạ, rồi nói thì thầm với người nầy:
- Sao? Thầy Hai thấy con nhỏ được không?
Người khách lạ nhoẻn một nụ cười khoái trá, gật đầu lia lịa:
- Ngộ lắm.
- Thầy ngồi đây chơi, cứ việc nhậu đi. Để tôi ra sau kêu nó ra.
Khách lạ tủm tỉm, gật đầu. Cai Mão đứng dậy ra sau bếp. Ánh đang dọn dẹp đi ngủ. Nàng có một chiếc ghế bố riêng, kê cạnh chái bếp. Nàng đang cột dây treo mùng, chiếc mùng cũ kỹ đã rách vá nhiều nơi mà vẫn còn nhiều lỗ hở. Má Ánh đun nước sôi để pha trà. Cai Mão đến gần Ánh:
- Hai ơi, có Ông Chủ sự Thương chánh quen lớn với tao, ổng muốn nói chuyện với mầy. Coi bộ ổng thương mầy lắm đó. Mầy đem bình trà ra pha một chén mời ổng đi.
Hiều ý người cha ghẻ, Ánh lắc đầu từ chối:
- Tôi không ra đâu.
Cai Mao nổi quạu liền:
- Sao? Mầy không ra hả?
Ánh làm thinh, lui cui cột dây mùng. Ánh sợ người cha ghẻ du côn lắm, Ánh đã biết y là một tay vũ phu lợi hại, đến má Ánh mà cũng còn sợ y nữa là Ánh! Nhưng Ánh tức lắm.
Cai Mão lại khẽ dò Ánh, nói rầm rì bên tai:
- Hai à, tao quen với Thầy Hai Còm mi, thầy là người tử tế. Thầy thương mầy, thầy cho mầy nhiều tiền, thầy may áo may quần cho, thầy sắm vòng vàng, cà rá hột xoàn cho. Thầy muốn đưa mầy đi coi hát trong Chợ Lớn với thầy, tao với má mầy cho phép mầy đi với thầy đó.
Ánh ngồi xuống ghế bố, khóc. Ánh không dám khóc lớn, sợ cha ghẻ đánh.
Cai Mão liền bảo vợ. Sự thật, bà Tư Rỗ không phải là vợ mà chỉ là tình nhân của y, vì sợ y mà phải lấy y luôn. Cai Mão bảo bà Tư:
- Bà phải rầy con Ánh chớ! Coi bộ con nhỏ cứng đầu đa!
Bà Tư trả lời:
- Ông rầy nó cũng được chớ. Nó còn nhỏ nó biết gì!
- Mười chín đôi mươi rồi còn nhỏ gì nữa? Con gái đã lớn mà không nghe lời cha mẹ. Mầy có đi học, mầy thi đỗ, sao mầy không biết câu tục ngữ nói: ‘‘Cá không ăn muối cá ươn, con không nghe lời cha mẹ trăm đường con hư?’’
Ánh càng khóc sướt mướt. Cai Mão nói tiếp, giọng nói lè nhè say rượu:
- Ánh! Mầy... mầy... lớn rồi, mầy không biết làm ăn giúp đỡ cho... má mầy sao? Má mầy nghèo... nghèo cho đến nỗi có bữa không có gạo nấu, tao phải đưa tiền cho má mầy đi chợ. vậy mà mầy... mầy không kiếm nghề gì làm cho có tiền để nuôi má mầy sao?... Không lẽ mầy cứ đi bán... mấy... mấy cái hột vịt lộn... với... mấy con khô mực đó mà đủ... nuôi hai má con mầy sao? Mầy ngó lại cái thân mầy coi! Một cái áo nylon để mặc cho le lói với người ta, mầy cũng không có. Vậy mà tao biểu mầy mấy lần mầy...mầy cũng không nghe tao, vậy thì mầy muốn gì Ánh? Mầy nói cho tao nghe coi!? Mầy không nghe lời tao phải không? Ba...ba mầy chết rồi thì tao...tao không phải ba mầy đây sao...hả Ánh?
Ánh lặng lẽ ngồi khóc, nước mắt ràn rụa.
Cai Mão đã say quá rồi. Y đứng không vững nữa, thở ra toàn hơi rượu, y chụp tay Ánh, bàn tay vũ phu của y nắm đau điếng, Ánh đẩy ra không được, bị y giựt mạnh, miệng khè khà bặp bẹ:
- Ánh, tao cấm mầy...tao cấm mầy...không được khóc nữa, nghe? Mầy lau nước mắt, đi ra đây với tao...để...để tao giới thiệu mầy cho Thầy Hai Còm - mi...đi!...đi!...Ánh!...
Ánh vùng vằng la lên, vừa la và khóc nức nở ;
- Ba ơi!... Ba ơi!... Ba chết làm chi để cho thân con côi cút đau khổ thế nầy, hỡ Ba! … Ba ơi! Ba ơi!... Con khổ lắm, Ba ơi!
Cai Mão đánh Ánh một tát tay thật mạnh:
- À, con nhỏ nầy...mầy la hả? Mày réo cái thằng cha mầy... sống dậy...để...làm...gì...tao hả?
Y thoi mạnh vào Ánh một thoi:
- Mầy giỏi réo nữa đi, tao coi!
Ánh té sụm xuống đất, một tay vẫn bị cha ghẽ nắm chặt. Má Ánh thì ngồi yên bên bếp lửa, làm thinh không dám nói gì. Người khách lạ từ ngoài đủng đỉnh bước vào, vỗ vai Cai Mão:
- Thôi, chú Cai! Chú đừng đánh Cô Hai, tội nghiệp cổ... Tôi can...
Thầy Hai Còm-mi gỡ tay Cai Mão ra, và ngồi chồm hổm xuống cạnh Ánh, để tay lên vai Ánh:
- Cô Hai đừng khóc nữa.
Ánh hất tay người khách lạ, vụt đứng dậy chạy ra sau, khóc ấm ức.
Cai Mão đứng trong nhà bếp chửi ra:
- Con đĩ mẹ mầy! Mầy giỏi làm bộ cái mặt chó mầy! mầy coi tao!
Chị Tư Rỗ, nghe Cai Mão nói động đến chị, liền lên tiếng hỏi:
- Ông chửi con đĩ mẹ ai đó?... Ông ghét nó thì ông làm gì nó ông làm đi, ông giết nó đi, chớ sao ông chửi tôi?
Cai Mão sặc mùi rượu, lè nhè:
- Bà không dạy được con kia, bà còn binh nó hả? Bà muốn binh nó thiệt không? Bà nói đi! Hứ! Con gái bà hay lắm đó? Đồ chó đẻ không biết thân lại còn... còn... Nè, tui nói cho biết, nghe hôn! Liệu hồn con Ánh đa!
Thầy hai Còm-mi thấy chuyện lộn xộn trong nhà Cai Mão và nghe tiếng bà con hàng xóm thì thầm to nhỏ ở ngoài đường và ở hàng rào sau, y bảo nhỏ Cai Mão ;
- Thôi, chú Cai. Đừng chửi bới om sòm, hàng xóm họ cười. Cô ấy không chịu thì thôi, để khi khác. Chú nên dịu ngọt dỗ dành cổ chớ dừng ép buộc cổ bực trí, không xong chuyện gì đâu. Tôi về đây.
- Mời thầy Hai ở lại chơi đã, về chi lật đật? Mai Chúa nhựt mà?
- Khuya rồi.
- Mấy giờ mà khuya?
- Gần hai giờ sáng, chủ tưởng còn sớm lắm sao? tôi về, thím Tư.
- Dạ.
Thầy Hai Còm-mi vội vàng bước ra. Thấy ba bốn chị đàn bà và vài cô gái kẹp tóc đứng xúm xích ngoài cửa dòm vô nhà để rình nghe, Thầy Hai mắc cỡ cúi đầu bước thật lẹ ra đường, đi thẳng. Mấy người đàn bà con gái ngó theo, xầm xì bàn tán.
Trong nhà, Cai Mão vẫn chửi bới om sòm, không sợ ai nghe. Chị Tư Rỗ ngồi trong bếp làm thinh. Ánh còn khóc thút thít ngoài sân sau, đứng dựa chum nước cạnh hàng rào phên
Trời lại đổ mưa. Sau một trận gió lớn lá cây rụng xào xạc, mưa trút xuống ào ào đen đặc cả vòm trời. Bà con hàng xóm ai chạy về nhà nấy, nhưng về nhà họ vẫn lắng tai nghe. Cai Mão bước lại đóng cửa bếp, bỏ mặc Ánh đứng dầm mưa ngoài sân sau. Quay vào, y còn ngó hầm hầm vào mặt chị Tư:
- Tôi cấm bà không được mở cửa, nghe? Để trời hành nó cho đáng đời!
Xong, y đi lảo đảo ra nhà trước, ngồi ghế rót rượu uống nữa. Cai Mão uống chưa cạn ly, gục đầu xuống bàn nói lảm nhảm như đứa điên. Rồi y đứng dậy, qua giường tre của chị Tư kê gần vách, nằm phịch xuống giường, miệng lảm nhảm vài tiếng rồi ngủ khì.
Chị Tơ coi bộ sợ sệt lắm. Tuy chị công khai ‘‘lấy’’ Cai Mão đã bảy tám tháng trời, nhưng chị biết Cai Mão là một tay (anh chị) ở Bến Tàu, một tay du côn có tiếng đã từng đánh đập chị nhiều lần. Chị đã lỡ lấy y rồi nên bây giờ chị ít dám cãi lời y. Chị còn chiều chuộng y nữa là khác, bởi lẽ thỉnh thoảng y cho tiền bạc và đưa cho chị bán chợ đen vài thứ hàng hóa ngoại quốc do bọn em út của y cắp được ở dưới các chiếc tàu cập bến. Dốt nát và thật thà, chị Tư cũng phục người ‘‘chồng’’ mới của chị là một tay ‘‘yêng hùng mã thượng’’ chính lời nói của Cai Mão thường khoe khoang với chị như thế. Chị không cho nghề ‘‘ma cô’’ là bần tiện đâu, vì đã nhiều lần chị biết chồng chị dắt gái cho khách để ‘‘ăn huê-hồng’’. Lâu lâu, được ‘‘mối’’ nào bở, y khoe với chị và nếu chị xin tiền thì y cũng móc ví lấy cho.
Chị nghèo lắm, nghèo quá cho nên thỉnh thoảng được Cai Mão cho vài trăm, chị mừng quýnh. Quen cách làm tiền dễ dãi như thế, chị cho rằng ‘‘ma cô’’ của chồng chị là một nghề nuôi sống được, chớ cũng không gì hèn hạ.
Đối với Ánh, con gái riêng độc nhất của chị, hồi còn đời chồng trước, và Ánh còn được đi học, thì chị cưng lắm, hồi Ánh thi đỗ bằng tiểu học hai vợ chồng mừng rối rít, mua một con gà về làm gỏi cúng ông bà cha mẹ, và mời cô ruột của Ánh với vài người bà con hàng xóm đến ăn uống rượu chè để mừng con gái thi đỗ. Anh Tư cố gắng cho Ánh đi học trường Gia Long. Kế đó Ba của Ánh bị chết oan uổng vì tai nạn lao động. Ánh đành ở nhà giúp mẹ. Dần dần cửa nhà suy sụp, đã nghèo lại nghèo thêm, chị Tư làm công ở hãng thuốc Bastos nhưng bị đau ốm, cứ nghỉ hoài nên không đủ tiền nuôi sống hai mẹ con. Ánh tìm không được việc làm, đành phải đi bán hàng rong kiếm tiền độ nhựt. Rồi chị Tư gặp Cai Mão, lúc đầu được y giúp ít tiền, tưởng đâu là người tử tế. Sau khi mèo chuột lén lút đã đời, chị Tư công khai ‘‘ăn ở’’ với Cai Mão, giới thiệu họ hàng làng xóm là ‘‘chồng’’ của chị, rồi về ở luôn trong nhà chị. Từ đấy Ánh bắt đầu đau khổ vì người cha ghẻ.
Ánh đã lớn. Nhờ có học, tiêm nhiễm được phong độ lành mạnh của học đường. Ánh bắt đầu ghê tởm người ‘‘cha’’ vũ phu, thỉnh thoảng đánh đập chửi bới mẹ Ánh. Ánh rùng mình lo sợ. Đã hai lần, Cai Mão lấy lời đường mật dụ dỗ Ánh làm nghề mãi dâm, Ánh đã cự tuyệt, Ánh khóc lóc với mẹ, nhưng chị Tư Rỗ quá sợ ‘‘chồng’’, chỉ trả lời một câu bơ thờ với con gái:
- Kệ mầy, mầy muốn sao mầy cứ nói với ổng. Tao không biết đâu.
Đã hai lần như vậy rồi, tuy Cai Mão chưa ép buộc gì Ánh, nhưng Ánh đã lo sợ, buồn rầu, cố gìn giữ lễ phép nhu mì với người cha ghẻ để mong y “thương hại’’, khỏi làm hư hỏng cuộc đời thiếu nữ.
Đêm nay, thình lình cái chuyện mà Ánh sợ nhất lại xảy ra một cách vô cùng tủi nhục. Má Ánh vì quá kiêng nể người chồng mới, không dám bênh vực con gái bị y ép buộc và đối xử quá tàn nhẩn như thế.
Tình nghĩa mẹ con và lương tâm của chị đã bị thái độ dã man của ‘‘chồng’’ chà nát dưới chưn. Chị cũng đành chịu, không dám hé răng.
Nói đúng ra, chị Tư không phải theo bè với Cai Mão mà ghét bỏ con. Trong lòng chị vẫn thương Ánh và đau xót cho hoàn cảnh của đứa con độc nhất của chị, nhưng chị sợ Cai Mão quá đổi, định dần dần để lúc nào y vui vẻ, sẽ năn nỉ y để cho con gái của chị trong sạch, hòng kiếm được người chồng tử tế đàng hoàng, cho nên chị làm thinh, âm thầm thương xót mà ngồi nhìn cảnh con gái của mình bị cha ghẻ của nó dày vò đay nghiến. Nghe Cai Mão đã nằm ngáy khò khò trên giường nhà ngoài, chị đứng dậy khẻ mở then cửa bếp kêu Ánh. Trời mưa tầm tã, chị vừa hé mở cửa phên thì mưa gió tạt vào. Chị đứng một bên, thò đầu ra ngoài trời, không dám gọi to:
- Ánh ơi!...
Ánh không trả lời.
Trời tối đen như mực. Mưa xối ào ào. Chị Tư lại gọi:
- Ánh ơi! đi vô, con!
Ánh vẫn lặng thinh, không đáp. Chị chưa trông thấy Ánh đứng chỗ nào. Một lúc chị dòm kỹ mới thấy bóng của Ánh đứng yên lặng bên lu nước, sát hàng rào phên. Ánh đứng đấy tự nãy giờ dầm mưa, không nhúc nhích. Gọi tiếp ba lần Ánh không trả lời, chị Tư mới chạy ra mưa nắm tay con gái kéo vô, Ánh dằng lại, không đi:
- Má để mặc kệ con!
- Đi vô! Ba mầy ngủ rồi.
- Con không vô.
- Đứng dầm mưa ngoài trời rồi đau đấy, con ơi!
- Chết con cũng không cần nữa là đau! Con còn mong chết nữa đó!
- Đừng có nói dại. Con nghe lời má vô thay đồ đi ngủ.
- Đêm nay con ngủ ngoài mưa.
Chị Tư nắm hai tay Ánh, kéo vào nhà, Ánh cố trì lại, hai mẹ con níu lại níu qua dưới trận mưa rào trong đêm tối. Nhưng có tiếng chị Năm Béo, nhà ở sát bên cạnh, từ trong căn nhà tối thui nói ra dõng dạc:
- Cô Ánh, cô đứng dầm mưa tự nãy giờ, cảm thương hàn đa cô. Đi vô nhà ngủ đi!
Nghe tiếng nói của chị Năm Béo mỉa mai làm sao! Đó là chị mỉa mai chị Tư Rỗ mà thương xót cho Ánh. Tiếng nói của chị Năm Béo hiền từ nhưng chua chát ; cố ý để cho chị Tư Rỗ biết rằng cả xóm trong ngõ hẻm An Bình nầy đều đã nghe hết những chuyện xẩy ra trong gia đình chị Tư đêm nay.
Chị Tư nói thầm với con gái:
- Đi vô con, để hàng xóm người ta cười...
Ánh suy nghĩ một lúc rồi lặng lẽ bước vô nhà.
Ánh thay đồ, lên ghế nằm. Ánh bắt đầu thấy ơn ớn lạnh mà rờ lên trán lại nóng hổi, Ánh lấy mền đắp, một hồi lâu rồi run cầm cập rồi Ánh mê man bất tỉnh cho đến sáng.
Chiều Ánh dậy được, nghe mẹ nói có cậu học trò đến thăm. Ánh đoán biết là Hoàng, và từ hôm ấy trong tim nàng nẩy ra một mối tình man mác. Một mối tình? Cũng chưa phải hẳn là thế, vì lòng Ánh còn trong sạch, quá bình thản tự nhiên, đã biết yêu đương là gì đâu! Nhưng Ánh cứ thấy xao xuyến mỗi lần nhớ đến người bạn học cũ nghèo khổ như mình, đã lo lắng, săn sóc cho mình khi ốm đau bất ngờ. Và cũng từ hôm ấy Ánh nẩy ra ý nghĩ muốn bỏ nhà ra đi. Ánh ghê sợ người cha ghẻ vô lương tâm muốn lợi dụng sắc đẹp của nàng để làm nghề buôn hương bán phấn...
Ánh mong cho cơn nóng lạnh mau khỏi để Ánh ra đi phứt cho rồi! Ánh lo sợ người cha ghẻ dã man, và nghĩ thầm rằng, nếu mình còn ở nhà thì thế nào cũng có ngày y đánh mình chết! Đã hai lần rồi y đã dụ dỗ mình, và xúi mẹ mình bắt ép mình phải bán thân vào cảnh sa đọa để y làm tiền. Lần nầy y đã cư xử khốn nạn với mình như thế biết đâu mai mốt y sẽ tái diễn cái trò tàn bạo kia nữa thì mình sẽ chịu đựng được nữa khôrg? Ánh rất đau khổ thấy mẹ Ánh quá sợ người ‘‘chồng’’ vũ phu, không dám lấy lời lẽ can gián y để binh vực cho Ánh. Lẽ nào mẹ Ánh mê tình nhân đến nỗi ghẻ lạnh với con gái, để mặc cho y chà đạp lên tấm thân côi cút bơ vơ, mà bà lặng lẽ ngồi nhìn! Ánh buồn hết sức, nhứt định, nhứt định lần nầy phải bỏ nhà, bỏ mẹ ra đi, tìm một nơi nương náu để bảo vệ tấm thân thiếu nữ gặp cảnh đa đoan.
Ánh băn khoăn một khi ra đi lưu lạc, làm sao gặp lại Hoàng? Không ngờ ngày nay đời Ánh lẻ loi hiu quạnh, chỉ còn có người bạn trai hiền làrh nghèo khổ kia là xót xa thương Ánh, yêu Ánh mà thôi! Ánh cố nén lòng, ở lại rán chờ Hoàng đến, để hẹn với Hoàng một cuộc gặp gỡ, nói hết chuyện Ánh cho Hoàng nghe. Nhưng Ánh chờ cả ngày hôm sau, Hoàng không đến.
Tối hôm ấy, vào khoảng 10 giở, Cai Mão về nhà, mặt đỏ như gấc, sặc sụa hai men. Vừa bước vô nhà, y lè nhè hỏi:
- Con Ánh làm gì ở trong nhà he?
Ánh còn mệt, đang nằm trên ghế bố, tay chân bủn rủn. Nhưng nghe tiếng cha ghẻ, Ánh ngồi vùng dậy, lặng lẽ chạy ra sân sau, vội vàng leo hàng rào phên trốn bên nhà Bà Năm Béo.
Má Ánh đã đi bán hàng đêm, trong nhà không có ai, Một ngọn đèn leo lét treo trên vách tường, Cai Mão vào nhà lục lọi sau bếp tìm không thấy Ánh. Y chửi thề ầm ĩ, hăm he Ánh, rồi chửi đến chị Tư là ‘‘vợ’’ của y nữa. Một lát sau người đàn ông lạ đêm hôm trước, đủng đỉnh bước vô nhà. Cai Mão vồn vã tiếp đón:
- Thày hai Còm Mi! Mời Thầy ngồi chơi.
Hai người nói thì thầm một chập thật lâu.
Ở bên nhà chị Năm Béo, Ánh ngồi lặng lẽ một mình,. Chồng chị Năm đã đi chơi vắng. Chị Năm và hai đứa gái nhỏ của chị đứng nơi hàng rào dòm qua nhà Ánh, thì thầm mét lại Ánh những điều chúng nó nghe thấy bên nhà nàng.
Hồi lâu Cai Mão ra đi, để thầy Hai ngồi ở nhà một mình. Một lúc im lặng, Ánh khẽ leo hàng rào về nhà, bước nhè nhẹ vào bếp, soạn áo quần của Ánh bỏ vào một cái giỏ xách mây. Hình như người đàn ông ngồi nhà ngoài nghe tiếng động trong bếp. Y nhón gót giày bước vô. Vừa trông thấy Ánh, y nhếch mép cười rất lẳng lơ:
- Cô Hai làm gì đó, cô Hai?
Ánh làm thinh, lật đật nhét đại vào giỏ mấy những quyển tập, sách và đồ vặt của Ánh hồi đi học còn cất làm kỷ niệm. Thấy Hai Còm mi bước sắn tới:
- Cô Hai! Cô đừng buồn nghe! Tôi thương cô lắm...
Ánh không thèm trả lời, xách giỏ mây quay ra, đi chưn không. Nhưng người đàn ông chận lại!
- Cô Hai đi đâu? Bữa nay tôi tới đây để tặng cô Hai một ghim bạc còn tinh hảo đây nè, và một chiếc cà rá.
Nói xong, y thò vào túi quần rút bóp tiền ra. Ánh đi giật lùi đến chiếc bàn cạnh bếp, trên bàn có một con dao phay. Ánh đứng yên đó, ngó chòng chọc vào mặt người đàn ông.
Thầy Còm mi cầm một ghim bạc và cái hộp giấy nho nhỏ, xinh xinh, đựng chiếc cà rá. Miệng cười tình tứ, thầy bước đến gần Ánh, Ánh la lên:
- Lại gần tôi, tôi đâm đấy!
Ánh chụp con dao phay trên bàn. Người đàn ông nhút nhát, thấy bộ tịch của Ánh hung dữ và nét mặt quả quyết, y không dám lại gần.
Ánh tay cầm con dao, tay xách giỏ mây, bước lẹ qua mặt người khách lạ, ra nhà ngoài đi thẳng luôn ra ngõ.
Ba mẹ con chị Năm Béo và mấy người hàng xóm đã đứng nấp bên ngoài, đợi coi Ánh đi đâu. Ánh còn quay lại vứt dao phay vô cửa, rồi đi luôn một mạch ra đường lộ. Những người ngó Ánh ra đi đều thấy đôi mắt Ánh tràn trề giọt lệ.
Không ai biết Ánh đi đâu. Họ chỉ thở dài thương xót.
Tay xách giỏ quần áo, Ánh đi ra đường Trần hưng Đạo, tới ngã tư Nancy, thẳng đến xóm Bàn cờ. Ánh quẹo vào hai ba ngõ hẻm, tới trước một căn nhà lụp xụp, gõ cửa gọi:
- Cô Sáu!
Trong nhà có tiếng một đứa nhỏ vọng ra:
- Ai đó?
- Em Nhung ơi, mở cửa cho chị.
- Chị Ánh hả?
- Ừ, có má ở nhà không em?
- Dạ, má em ngủ.
Cánh cửa mở, Ánh vào căn nhà tối om. Một ngọn đèn dầu hôi liu hiu, điểm một chấm đỏ trên bàn thờ Quan Công.
Em bé trạc 12 tuổi, hỏi Ánh:
- Chị Hai đến giờ nầy có chnyện chi không, chị Hai?
- Chị đến ngủ với Nhung, chớ không có chuyện chi Nhung à.
- Sao bữa nay chị Hai không ngủ ở nhà?
- Chị trốn nhà đến đây với Nhung.
- Sao chị Hai trốn?
- Sáng dậy chị nói chuyện cho cô và Nhung nghe. Bây giờ chị buồn ngủ quá.
Trong căn nhà chật hẹp chỉ kê chiếc giường gỗ chỗ hai mẹ con em Nhung nằm. Bên cạnh, treo một chiếc võng đã rách. Ánh để giỏ mây quần áo xuống đất, leo nằm vô võng. Nhung bảo:
- Nằm võng muỗi nó thiêu chết, chị Hai! Chị Hai lên giường nằm với em.
- Giường chật lắm, để chị nằm võng được, có muỗi thì chị đắp mền.
Căn nhà yên tĩnh lại như trước, nhưng có tiếng võng đưa kẽo cà, kẽo-kẹt đều đều. Tiếng võng đưa như kết thúc tấm thảm kịch riêng của Ánh, như diễn tả nỗi niềm xót xa nghiền ngấm trong tim nàng.
- 3 -
Ánh không ngủ được, thao thức suốt đêm, phần bị muỗi cứ vo ve bên tai và bu lên mặt nàng, phần đau khổ cho những chuyện đã qua, lo ngại cho những ngày sắp tới.
Sáng dậy sớm, Ánh thuật lại hết những điều đã xẩy ra đêm rồi cho cô của Ánh rõ. Em Nhung ngồi nghe, cứ chắt lưỡi, thương hại cho số phận của người chị thân yêu con cậu. Thím Sáu Tường là cô ruột của Ánh, tức giận chị Tư Rỗ, thím chửi rủa không tiếc lời rồi bảo Ánh:
- Thôi, con ở đây với cô. Con gánh nước mướn ngoài phong tên, cũng có tiền nuôi sống, đừng về với đồ quạ mổ đó nữa!

Từ hôm ấy, Ánh ở nhà trọ bà cô ruột ở xóm Bàn cờ, và nghe lời cô, để kiếm tiền đủ sống tạm trong một thời gian. Ánh phải làm nghề đi gánh nước mướn, ở đây lúc mới đến Anh không có bạn bè, nhưng dần dần vì sự gặp mặt hằng ngày, Ánh bắt đầu làm quen với vài thiếu nữ, cùng lứa với Ánh, và toàn là bọn làm thuê ở mướn trong xóm. Không cho ai biết nàng là một cựu nữ sinh Gia Long, Ánh làm bộ mặt khờ khạo, ngây thơ, không biết gì. Nhưng tại em Nhung, con bà cô hay đi khoe với trẻ nít trong xóm: ‘‘Chị Ánh học giỏi lắm đó! Chỉ đã học lớp Đệ Tứ trường Gia Long, chớ đừng tưởng!’’ Thành thử nhiều thiếu nữ ở mướn không được đi học đâm ra ghen ghét Ánh và những cô nữ sinh trong xóm lại khinh khi Ánh. Họ trề môi bĩu miệng tìm lời chua ngoa khích bác cô ‘‘nữ sinh Gia Long’’ đi gánh nước thuê. Nhan sắc thùy mị và yêu kiều của Ánh càng gây bao nhiêu dèm pha đố kỵ, Ánh vẫn thản nhiên, tuy trong thâm tâm buồn chán cho cuộc đời xuân xanh đìu hiu ảm đạm, và không thích giao du với những người cùng lứa nhưng cùng một cảnh ngộ. Ánh làm nghề gánh nước mướn nầy, kiếm được chút ít tiền, đủ sống tạm qua ngày, không phải nhờ vã bà cô và không làm bận đến bà. Chung chạ với bọn gánh nước mướn giành giựt ở phong tên, Ánh tập được tánh mềm dẻo, khôn ngoan lanh lợi, nhưng không bị nhiễm bởi những thói côn đồ mất dạy, không bao giờ bắt chước ‘‘chửi thề’’, tục tĩu như các bạn ‘‘đồng nghiệp’’, hoặc nói năng đanh đá như họ.
Dần dần, ba tháng sau, Ánh quên những chuyện của người cha ghẻ, nhưng vẫn thương xót bà mẹ hiền bị tên lưu manh đè nén và đôi khi đánh đập chửi bới tàn nhẫn. Má của Ánh thuộc về loại đàn bà Việt nam ‘‘an thường thủ phận’’, tuy nghèo nhưng cam chịu phận nghèo tuy bị người chồng vô lại đối xử tàn ác, nhưng không bỏ được chồng, và còn lui cui làm lụng để phụng dưỡng cho hắn nữa.
Người duy nhất hiểu được hoàn cảnh tâm sự của Ánh là Hoàng, và cũng là người duy nhất mà Ánh băn khoăn thương nhớ. Nhiều lần Ánh muốn tìm đến thăm Hoàng nhưng không biết Hoàng ở đâu. Người bạn học cũ có lòng thiết tha với Ánh cũng không biết Ánh ở đâu.
Sau khi Ánh bỏ nhà ra đi, Hoàng có đến một lần để thăm Ánh. Hoàng thấy nhà đóng cửa. Hoàng có trở lại hai lần nữa. Lần sau chót, Hoàng gặp chị Tư Rỗ đang ngồi trong bếp nấu cơm. Hoàng hỏi:
- Thưa Bác, có Ánh ở nhà không ạ?
Bà Tư trả lời lạnh lẽo:
- Nó đi đâu rồi.
Má Ánh không nói gì nữa. Hoàng đứng yên lặng một lúc lâu, hơi ngạc nhiên về thái độ bà Tư. Sau cùng cậu hỏi:
- Thưa bác, Ánh đi đâu?
Bà Tư gắt gỏng:
- Nó đi đâu ai mà biết được. Cậu hỏi làm chi?
Hoàng không dám hỏi nữa, chào Bà Tư ra về.
Đêm sau, đúng vào lúc Bà Tư Rỗ đi bán hàng, Hoàng trở lại lảng vảng trong ngõ An Bình, hỏi người lối xóm, Bà Năm Béo bảo:
- Cô Ánh bỏ nhà ra đi lâu rồi. Tại người cha ghẻ hành hạ cổ, ép cổ làm nghề bậy bạ, rước khách kiếm tiền, cổ hổng chịu.
- Thưa thím, thím có biết Ánh đi đâu không?
- Tui thấy đi mà hổng biết đi đâu.
Bà Năm Béo kể tlể sự tình đầu đuôi các việc xẩy ra tại nhà Bà Tư Rỗ khiến Ánh phải bỏ nhà trốn đi.
Xong bà hỏi Hoàng:
- Cậu có quen với cô Ánh ha?
- Dạ, cháu là bạn học cũ của Ánh.
- Tội nghiệp con nhỏ quá! Chắc là nó trốn đi lục tỉnh! Từ khi chị Tư lấy cái thằng Cai Mão khốn nạn, con Ánh thì nó cực khổ vàng trời, ai thấy nó vậy mà hổng thương! Trong xóm nầy ai cũng thương con Ánh hết.
Hoàng ra về, hoang mang trong trí óc, chẳng biết số phận Ánh hiện giờ ra sao? Hoàng càng thương Ánh, nhớ Ánh, và nghĩ thầm rằng bao giờ cậu kiếm được việc làm, cậu sẽ dành dụm tiền, để đi tìm Ánh, lấy Ánh làm vợ. Hằng ngày những khi đi xin việc ở Sàigòn, Hoàng thường quanh quẩn các đường phố tìm xem may ra có trông thấy Ánh không?
Ánh cũng thế, gánh đôi thùng ra máy nước, để sắp hàng với các đôi thùng khác, Ánh cầm đòn gánh đứng dựa gốc cây, buồn bã không nói năng. Thoáng thấy trong đám người qua lại trên đường phố có chàng trai nào dáng điệu hơi giống Hoàng, mắt đăm đăm ngó theo xem có phải Hoàng không. Ánh bùi ngùi nhớ lại số tiền một trăm năm chục đồng của Hoàng gởi mẹ Ánh đưa cho Ánh hôm Ánh bị cảm thương hàn. Nàng nhớ lại tất cả những câu chuyện của Hoàng với Ánh trước rạp hát cầu Muối đêm trời mưa to. Nàng nhớ lại tỷ mỷ những cử chỉ quý mến cảm động của người bạn trai đối với nàng hồi còn cắp sách đến trường. Nhớ bao nhiêu lại thương bấy nhiêu! Ánh nghĩ rằng nếu trong lúc nầy Ánh gặp Hoàng và Hoàng rủ nàng đi, bất cứ đi nơi nào, miễn là được đi với Hoàng, sống với Hoàng là Ánh bằng lòng ngay.
Đi đi thôi! Đi cho thật xa! Đến nơi đất khách quê người, hai đứa bạn tâm tình cùng chung cảnh ngộ, chỉ biết yêu nhau và đùm bọc lấy nhau! Ánh đâu có mơ tưởng gì hơn!
Gánh đôi thùng nước đầy trở về ngõ hẻm, đổ mướn cho các nhà trong xóm, hai vai nặng trĩu, Ánh còn phải bước mau, để kịp ra phong tên hứng một đôi nữa. Sáng dậy thật sớm, từ lúc 5 giờ, Ánh gánh nước cho đến 11 giờ về nhà cho cô, Ánh còn lo cơm nước đỡ đần cho cô các việc gia đình, 2 giờ lại gánh nước cho đến 6 giờ chiều. Ánh làm bếp, dọn cơm để sẵn đấy cho cô và cho em Nhung ăn trước, 7 giờ ruỡi Ánh đã phải quảy đôi thùng ra phong tên gánh nước cho đến 9 giờ đêm. Các nhà hàng xóm phần nhiều đã khép cửa dọn dẹp đi ngủ. Bấy giờ Ánh mới quảy đôi thùng nước cuối cùng trong ngày đem về đổ lu nước ở nhà. Xong rồi mới ăn cơm, dọn dẹp, rửa ráy rồi đi ngủ. Biết bao nhiêu đêm, Ánh đặt lưng lên giường, trằn trọc không ngủ được. Nghĩ chuyện này chuyện nọ, buồn bã cho thân phận nghèo nàn côi cút, còn mẹ mà cũng như không, Ánh rưng rưng hai hàng nước mắt. Có khi Ánh gục mặt vào gối, khóc thút thít trong đêm khuya.
Một hôm nhớ mẹ quá, Ánh nói với bà cô:
- Thưa cô, con xin phép cô con về thăm má con một ngày.
- Ừ, con cũng nên về thăm chị Tư, rồi dạo nầy nhà cửa ra sao. Chắc con đi lâu, chị cũng nhớ con chờ.
Ánh định 7 giờ sáng về An bình, ở đấy một ngày với mẹ, đến 5 giờ chiều lại đi.
Vừa bước chân vô nhà, Ánh thấy mẹ đang dọn dẹp sau bếp, Ánh mừng rỡ chạy đến nắm tay mẹ:
- Má ơi, má có nhớ con không, má?
Nhưng chị Tư sầm mặt xuống liền, giận dỗi bảo:
- Mẹ con gì nữa, mầy!
Rồi chị làm thinh tiếp tục dọn dẹp, không hỏi han gì. Ánh ngồi xuống ngạch cửa, khóc.
Chị Tư Rỗ động lòng, và có lẽ ăn năn lời nói vô tình vừa thốt ra, chị dịu dàng bảo:
- Nếu mày biết thương tao, thì mầy đâu có bỏ tao ở nhà một mình. Ba mầy chết rồi, Thì còn có hai mẹ con mà mầy đành đoạn dứt ra đi, mầy nghĩ coi, vậy có phải là con có hiếu không?
Ánh khóc ấm ức:
- Con không có hiếu mà bữa nay con nhớ má quá, con về thăm má.
Chị Tư cũng ngồi xuống ghế bố khóc. Ánh nói tiếp:
- Con vô phước vô phần cho nên ba con mới chết sớm! Trong lúc gia đình tuy là nghèo, nhưng vẫn được đoàn tụ vui vầy, con được ba má chiều chuộng cho ăn học. Bây giờ con phải đành đoạn ra đi, xa mẹ xa con, đem thân ra làm tôi mọi cho người, bưng thuê gánh mướn, đó là cái số của con bạc phận, chớ đâu phải lỗi tại con?
Chị Tư Rỗ lau nước mắt, dịu dàng với con gái:
- Má có đuổi con đi sao?
- Má không đuổi con đi, nhưng má nghĩ coi, con có ở nhà này thì chỉ tủi nhục cho má chớ hay ho gì!
- Má làm gì mà tủi nhục?
- Má còn hỏi nữa!
Hai mẹ con làm thinh, rồi chị Tư Rỗ hỏi:
- Từ hồi con đi, con ở nhà ai?
- Con ở trọ nhà người quen.
- Ở đâu?
- Ở Gò-vấp.
- Con làm gì?
- Con đi ở mướn cho người ta.
Chị Tư Rỗ đứng dậy, lại gần Ánh:
- Thôi con đừng đi đâu nữa. Con ở nhà với má.
Ánh khẽ đáp:
- Thưa má, con thương Má lắm, nhưng con không ở đây được nữa đâu, má à.
- Dạo nầy má hay đau ốm luôn, không làm ăn gì được. Con ở nhà đỡ đần vơi má. Nói thiệt con nghe, từ ngày con đi má buồn hết sức vậy đó. Má nhớ con, má cứ khóc hoài. Nay con về, má giận con mà má cũng mừng chớ đâu phải má ghét bỏ gì con.
Ánh hỏi:
- Ông Cai Mão còn ở đây với má không?
Chị Tư lặng thinh một lúc mới trả lời:
- Còn.
- Con nói thiệt với má, con thương má lắm. Nhưng ngày nào cái ông ấy còn ở trong nhà nầy, thì con không bao giờ về ở chung với má được.
- Con đừng có nói vậy. Tuy ổng là ba ghẻ của con...
- Con xin lỗi má, chớ con không có bà con gì với ông đó hết.
- Ông cũng thương con, chớ có gì đâu. Tại gặp hồi ổng say rượu, ổng hay nói bậy bạ đó thôi. Con ở lâu mới biết tánh ổng tốt.
Ánh nhoẻn một nụ cười chua chát:
- Trời ơi!..
Rồi Ánh nghiêm nét mặt nói tiếp:
- Thưa má, vì con nhớ má quá nên con mới về thăm má, chớ con không ở nhà nầy nữa đâu. Má cho con ở với má một ngày rồi con lại đi. Con đi làm, chừng nào dành dụm được chút ít tiền, con sẽ đem về giúp má. Bữa nay má có mệt thì con đi chợ về nấu cơm cho má. Con có tiền đây rồi.
Ánh đứng dậy đi quét nhà, lau dọn bàn ghế và làm công việc y như còn hồi ở nhà. Nàng coi ngó lại các vật dụng còn y nguyên từ lúc nàng ra đi, mỗi vật là bao nhiêu kỷ niệm! Nàng sắp đặt lại những đồ đạc mà má nàng để bừa bãi trên bàn hay các xó kẹt. Nàng lấy chổi lông gà quét bụi trên bàn thờ ông Tư, ba của nàng, và chạy ra chợ mua một bó bông huệ đem về cắm trong bình và một nãi chuối chín đặt trên dĩa, bên cạnh bát nhang. Nàng đốt đèn cầy, thắp nén hương, đứng cung kính trước bàn thờ, vừa vái vừa lẩm bẩm:
- Con lạy vong linh ba phù hộ cho má con bình yên mạnh giỏi và con gái của ba đừng gặp cảnh đau khổ. Ba thương con đừng để con bơ vơ, tội nghiệp con...
Nàng lau một ngấn lệ rưng rưng trên mi mắt, rồi xuống bếp đun nước, pha một bình trà, rót vào một chén đặt trên bàn thờ. Ánh đứng dựa vào cột nhà, ngước mắt lên chăm chú nhìn bức ảnh của ba và khóc nức nở. Nàng quỳ xuống lạy bốn lạy.
Bà Tư ngồi lặt rau, nói:
- Ổng biểu tao dẹp cái bàn thờ của ba mầy, tao không dẹp mới còn đó.
Ánh tức giận ngó mẹ:
- Dẹp cái bàn thờ của ba con thì con về con đốt nhà! Con nói trước cho biết.
Khói trà bay thoang thỏang một mùi thơm dịu. Ánh cúi lạy một lần nữa. Xong nàng xuống bếp lấy cái rỗ, và bảo mẹ:
- Thưa má, con đi chợ đây, má. Bữa nay má thích ăn gì, má nói con mua.
- Con muốn mua gì thì mua.
- Con biết má ưa ăn canh chua cá lóc, con mua cá lóc về nấu canh, nghe má?
- Ừ, lâu quá má không ăn canh chua cá lóc.
Ánh đội nón xách rỗ bước ra đường.
Chị Tư đứng trong bếp nhìn theo đứa con gái, yêu kiều, duyên dáng, mà chị đã vắng bóng lâu ngày. Tuy là lâu ngày, nhưng tính lại cũng mới có bảy tám tháng thôi; thế mà bây giờ trông thấy Ánh như lớn hơn trước nhiều. Chị Tư không dè đứa con gái của chị mới hồi nào hãy còn như con nít mà bây giờ đã có điệu bộ thướt tha dịu dàng, coi thiệt dễ ưa.
10 giờ Ánh đi chợ về, ngạc nhiên thấy má đi vắng, cửa khép không có ai coi nhà. Ánh ra sau bếp, đứng trong hàng rào phên hỏi qua hàng xóm:
- Thím Năm ơi, má cháu đi đâu thím có biết không?
Chị Năm Béo ở trong nhà nghe tiếng Ánh, liền cất lời hỏi:
- Cô Ánh về hồi nào đó?
Chị lật đật chạy ra sân, vui mừng hỏi han:
- Cô Anh mới về hả cô? Bà Tư đi chợ Ông Lãnh có dặn tôi khi nào cô về thì cô nấu cơm rồi trưa Bà Tư về.
- Dạ, cám ơn thím Năm!
Ánh nói chuyện vui vẻ với chị Năm bên hàng rào, nhưng vẫn giấu không cho chị biết Ánh ở đâu và làm gì trong thời gian qua. Một lúc, Ánh vào bếp lo cơm nước.
Bỗng có tiếng người cha ghẻ về. Không ngờ gặp Ánh, Cai Mão trông thấy cô đã niềm nở:
- Ủa, Ánh về đó hả?
Ánh chau mày làm thinh, cúi đầu làm cá. Cai Mão đến gần hỏi:
- Ánh đi đâu lâu quá vậy con?
Ánh nhất định không trả lời. Người cha ghẻ tiếp tục hỏi dồn, giọng nói thân mật đểu giả:
- Ánh ở đâu, ở nhà ai, tôi biết rồi, nhưng tôi muốn chờ Ánh về đây tôi nói chuyện cho Ánh nghe. Ánh đừng tưởng rằng tôi ghét Ánh đâu nghe. Tôi thấy Ánh cực khổ tôi có lòng thương, tôi muốn giúp đỡ cho Ánh đó chớ!
Ánh vẫn làm thinh. Cai Mão ngồi thụp xuống bên cạnh để tay lên vai nàng:
- Ánh ơi I
Ánh hất tay người cha ghẻ ra. Cai Mão lì lợm, càng ngồi sát vào Ánh:
- Ánh ở nhà đừng đi đâu nữa nhé. Dạo nầy tôi nhảy dù được mấy món đem bán được bộn tiền, Ánh muốn đồ nữ trang gì tôi sắm cho, quần áo đẹp muốn may mấy cái tôi may cho,
Ánh chừ bự cái mặt không thèm trả lời một câu, nhưng Cai Mão cứ dỗ dành:
- Ánh muốn đi ở riêng không, tôi mướn một căn nhà lá ở bên Khánh hội cho Ánh ở?...
Người cha ghẻ khốn nạn bỗng dưng đưa tay ôm choàng lấy Ánh. Ánh đẩy mạnh ra, đứng dậy la lớn:
- Cái ông nầy làm gì kỳ cục vậy?
Ánh chạy ra cửa bếp, nhưng Cai Mão chạy theo chụp lấy nàng, một tay khép cửa, một tay lôi nàng lại ghế bố, Ánh giẫy giụa la lớn:
- Ối làng xóm ơi! ối làng xóm ơi!
Cai Mão rút khăn tay toan bịt miệng nàng, nhưng Ánt đã cắn được một vết đau điếng trên bàn tay vũ phu, Cai Mão phải buông ra, Ánh thoát được, nhưng liền bị y kéo lại và đánh một bạt tay nẩy lửa. Ánh chạy lảo đảo ra đến sau bếp, vừa khóc vừa la: ‘‘Ối làng xóm ơi!’’ Cai Mão chạy theo tay cầm một thanh củi đập túi bụi lên đầu Ánh đổ máu, Ánh ngã gục xuống sân, cạnh lu nước, còn bị Cai Mão sấn lại đạp vào hông.
Bên hàng xóm có chị Năm Béo và bốn năm thiếu nữ kẹp tóc, đổ xô ra coi, thấy Cai Mão đã bỏ đi ra khỏi nhà và cô Ánh nằm bất tỉnh trên sân, máu chảy một dòng trên trán, mấy người liền leo rào nhảy qua, chị Năm Béo bảo một thiếu nữ kẹp tóc chạy đi kêu xe rồi chị với mấy người khác xốc cô Ánh ra xe để chị đưa Ánh đi nhà thương.
Gần 12 giờ trưa, chị Tư Rỗ về nhà không biết chuyện chi hết. Chị không thấy con gái đâu, đã hấm hứ:
- Cái con nầy thiệt... Lại đi nữa rồi!
Nhưng chị thấy trên bếp đã bắc nồi cơm, lửa tắt mà cơm chưa chín. Trên thớt còn con cá lóc làm dở dang mới cạo sạch vảy. Chị ngó quanh quất không thấy gì lạ bước ra cửa bếp ngó ngoài sân sau, cũng không thấy Ánh. Chị Tư liền kêu vói, sang nhà chị Năm Béo:
- Ánh ơi, có ở bên nhà chị Năm Béo hông?
Không nghe Ánh đáp. Chỉ có cô Lộc, một thiếu nữ kẹp tóc ở cạnh nhà chị Năm, kéo guốc lẹp xẹp ra hè, đứng sau hàng rào phên, nói vọng qua:
- Chị Ánh đi nhà thương rồi, bà Tư à.
Chị Tư hốt hoảng:
- Ủa, nó sao mà đi nhà thương?
- Chị bị ông Cai Mão đánh lỗ đầu chảy máu, chỉ nằm chết giấc, bà Năm phải khiêng chỉ ra xe đem đi nhà thương.
Cô Lộc kể đầu đuôi tự sự cho bà Tư nghe những chuyện đã xẩy ra mà cô với bà Năm Béo và mấy người khác đã nghe thấy từ khi Cai Mão bước vô nhà. Chị Tư Rỗ ngồi xuống đất khóc nức nở. Tiếng chị khóc rất thảm thiết, tưởng như Ánh đã chết rồi!...
Hỏi cô Lộc chị Năm đưa Ánh đi nhà thương nào, Lộc không biết, chị Tư lại khóc than kể lể rùm beng cả xóm. Một lát sau chị Năm Béo về. Chị đi thẳng vô nhà chị Tư, chưa thấy chị nầy, chị Năm nói bô bô lên một mình:
- Cũng thiệt là may! Gặp cái ông Đốc tơ nhơn đức, chớ không có thì con nhỏ cũng bỏ mạng tám mươi đời.
Chị Năm đi chưn không, bước thùi thụi, vừa hỏi trống rỗng:
- Có đôi guốc cùn của tôi để trong nầy hông nè? May đủ thứ may! Cái anh tài xế tác xi cũng tử tế, mình kêu xe chở đại cô Ánh tới nhà thương, mà trong túi hổng có tiền trả tiền xe, ảnh thấy cô Ánh bị đổ máu ướt nhẹp cái đầu, ảnh cũng hổng nỡ đòi tiền... ủa đôi guốc của tôi đâu cà?
Chị vừa kiếm đôi guốc, vừa ra đến cửa bếp, thấy chị Tư ngồi khóc sướt mướt, chị la lên ;
- Chị Tư biết hông? Tui hỏng đem con Ánh vô nhà thương kịp sáng nay thì đừng nói nó sống! Trời ơi, chị biết hông máu chảy tua tủa ra dễ sợ quá, tưởng nó chết trên xe rồi chớ! Ông nội ơi, nó sưng vù trên đầu trên trán ba bốn cục vầy nè! Chị biết hông, tới nhà thương thì ông Đốc tơ đã ra xe hơi đi về, tụi tui phải năn nĩ ổng, nói con Ánh bị chảy máu nhiều quá sá, sợ nó chết lịm mất..
Tội nghiệp ông, chị biết hông, ông thấy con Ánh như vậy, ổng lật đật biểu đem vô buồng thuốc, ông băng bó cho nó, rồi ổng chích cho nó hai mũi thuốc, hổng biết thuốc gì... Nghe ông Đốc tơ nói hổng sao đâu, tui mới hết lo, chớ chị biết hông, hồi chở nó đi trên xe, tui cứ sợ nó chết lịm trên xe thì thấy mồ tổ! Chèng đéc ông nội ơi, từ hồi khai thiên lập địa tới giờ, tui mới thấy ông Cai Mão đó là một đa, chị Tư ơi! Chị biết hông, chị mà thấy ổng cầm cây cũi to bằng cổ tay tui đây nè.., kia cà, cây củi ổng đánh con Ánh ổng quăng ra kìa, chị mà thấy ông đánh con nhỏ, chị cũng đứt từng đoạn ruột chớ đừng nói là lũ tui... Đàn ông gì mà dữ quá xá là dữ!... Coi có đôi guốc tao ở bền hông Thẹo?
Chị Năm hỏi con Thẹo, là cháu kêu bằng dì mà chị vừa thấy đứng bên hàng rào phên, với cô Lộc và ba bốn thiếu nữ ở hàng xóm. Con Thẹo chạy kiếm một lát, trả lời:
- Hổng thấy đôi guốc của dì đâu hết.
- Vậy chớ tao bỏ quên nó ở trên tắc xi rồi sao, mầy? Ủa mà có một chiềc đây rồi nè! Phải guốc của tao hông?
Chị Năm chợt thấy một chiếc guốc ở cạnh lu nước, trong kẹt hàng rào. Chị chạy lại lấy, đúng là của chị. Chị đập chiếc guốc cùn xuống gạch kêu một cái ‘‘đốp’’, hình như chị tức giận nó lắm:
- Mẹ cha mày, nằm đây mà để tao kiếm ứ hơi!
Chị ngó quanh quẩn trong sân:
- Còn một chiếc nữa đâu
Một tay cầm chiếc guốc, chị Năm còn quay lại chị Tư:
- Chị Tư biết hông, con Ánh có dặn tôi đừng nói cho chị biết là nó nằm nhà thương! Tui đỡ nó nằm xong xuôi rồi hết tui mới đi bộ về đây nè. Người ta băng bó cho nó kín hết trọi cái đầu, còn chừa một cái mặt thôi hè!

Chị Năm Béo kêu con Thẹo qua tìm một chiếc guốc nữa của chị, rồi chị ngồi bệt xuống đất, đối diện chị Tư Rỗ. Chị kể hết đầu đuôi câu chuyện vừa xẩy ra trong lúc chị Tư đi vắng. Chị kể đi kể lại hai ba lần một đoạn, và bình phẩm hành động của Cai Mão với những lời tục tĩu, thô kịch nhưng rất là nghiêm khắc. Nếu có một máy thu thanh đặt gần đó để ghi lại tất cả những lời nói của chị không sót một tiếng nào, thì chúng ta sẽ có một áng văn bình dân kiệt tác, thú vị đặc biệt, với tất cả các danh từ tả chân mà một nhà đại văn sĩ có tài đến đâu cũng không thế nào viết được. Chị Năm Béo thuộc về hạng môm loa mép đải ở các xóm lao động, chuyên môn ngồi lê đôi mách, và rất hay tọc mạch những chuyện riêng của người ta, nhưng lại rất vui vẻ, thành thật, ngay thẳng và công bình, không thiên vị bên nào. Chị bình phẩm gắt gao mỗi hành vi của Cai Mão mà chị không sợ mích lòng chị Tư Rỗ. Chị bênh vực Ánh. Chị rất thương hại cho Ánh và khen ngợi Ánh từng một cử chỉ nhỏ mọn. Chị tỏ cho chị Tư thấy Cai Mão là một tên vô lại khả ố, khả bỉ, còn Ánh là một cô gái rất đáng khen, đáng phục, đáng thương. Chị Tư Rỗ ngồi nghe, khóc ròng rã, không dám binh chồng mà cũng không dám hùa theo chửi chồng. Chửi Cai Mão thì sợ anh ta nghe được sẽ đánh chị nhừ thây. Còn binh Cai Mão thì chắc là chị Năm Béo và bà con hàng xóm sẽ cười chị là sợ ‘‘thằng chả’’ và không biết thương con. Chị Tư làm thinh không hề có lời cám ơn chị Năm Béo đã đưa Ánh đi nhà thương. Trong thâm tâm của chị vẫn thương con gái lắm, nhưng vì chị nghèo quá, và thấy câu chuyện đã lỡ ra như thế rồi, chị không biết làm cách gì để cứu vớt đứa con gái độc nhất thân yêu của chị. Chị tức giận người ‘‘chồng’’ tàn nhẫn và vô liêm sĩ, mà không dám nói ra, sợ chị Năm cười. Chị định đợi chiều tối hắn về chị sẽ hỏi chuyện.
Ánh nằm nhà thương gần một tháng trời, chẳng có ai thăm viếng cả. Ánh buồn tủi cho thân phạn mình và oán trách mẹ.
Nàng không thèm nghĩ đến người cha ghẻ khốn nạn. Nghĩ đến làm chi cho thêm nhục, cho thêm hận? Ánh chỉ thề với mình rằng từ nay nhất định không bước chân về nhà mẹ nữa. Ánh tự coi mình như một đứa con hoang, và tự an ủi: ‘‘Trên đời còn có biết bao nhiêu những con mồ côi không mẹ không cha đó thì sao? Mình đã lớn rồi, lo tự lập lấy thân là hơn.’’
Ra khỏi nhà thương, Ánh về thẳng nhà bà cô ở Bàn cờ, rồi viết một bức thơ cho mẹ:
Thưa má,
Con đau đớn lắm mới phải viết mấy lời thơ nầy về kính thăm má và thưa với má rằng từ nay má không còn thấy mặt con nữa đâu. Con xin chịu làm đứa con bất hiếu, nhưng trong lòng con vẫn yêu thương má và kinh má vì con không quên được công lao má đã nuôi con và tình má thương con hồi ba của con còn sống. Con chỉ thương cho ba con thiệt là vô phước! Thôi con lạy má ba lạy và từ giã má vĩnh viễn.
Con bất hiếu của má
Lê thị Ánh
Ánh xé một tờ giấy trắng trong một quyển tập cũ hồi còn đi học mà Ánh vẫn cất âu yếm trong giỏ áo quần của Ánh, Ánh lấy kéo cắt giấy làm một phong bì bỏ thơ vào trong rồi lấy cơm dán lại,
Ánh đề ngoài bao thơ: ‘‘Kính gởi Má’’. Sáng thật sớm, Ánh đi với em Nhung, con của bà cô, đến An bình, Ánh đứng ngoài đầu đườrg, bảo Nhung chạy vô ngõ đưa cho Năm Béo, nhờ chị trao cho má Ánh.
Vài hôm sau, Ánh sực nhớ Cai Mão có bảo với Ánh rằng y đã biết chỗ ở của Ánh rồi. Chẳng biết là y nói thật hay nói dóc, nhưng muốn đề phòng cho chắc chắn, Ánh nhờ bà cô kiếm cho Ánh một chỗ làm tạm, để xa lánh xóm Bàn cờ.

Chính Ánh cũng đã thân hành đến nhờ ba tờ báo hằng ngày đăng giùm trong mục ‘‘tìm việc’’ mấy dòng sau đây:
‘‘Thiếu nữ học lực Đệ Tứ T. H. Đ. N. C. Hiền lành, tận tụy với công việc. Muốn kiếm việc làm không cần lương nhiều, có thể đi xa, Xin biên thư cho cô Nhàn, 216/7/2A, Phan đình Phùng, nhờ chuyển giao.’’
Nhà báo có hảo tâm đăng giùm, nhưng Ánh buồn bã thấy mấy dòng của Ánh được đăng lên lẫn lộn vào một cột đầy nghẹt những lời rao khác cũng tìm việc như Ánh, cũng toàn là những thanh niên thiếu nữ đỗ T. H. Đ. N, C, Tú Tài phần I, phần II, sinh viên Đại Học Văn Khoa, Luật Khoa,.. v. v... Ánh thất vọng, không tin tưởng nhiều vào sự may mắn quá hão huyền, Tờ báo chỉ đăng cho được một kỳ, Trong số báo hôm sau, nơi mục ‘‘tìm việc’’ Ánh không còn thấy lời rao của nàng nữa, nhưng vẫn đầy nghẹt những lời rao khác, kế tiếp nhau của những bạn trẻ thất nghiệp, hầu hết là học sinh và sinh viên. Ba hôm sau khi đăng báo, Ánh có nhận được bức thư của một nhà buôn ở Biên Hòa gọi Ánh làm thư ký. Nhưng phải có bằng cấp đánh máy chữ. Ánh không biết đánh máy vì không có tiền để học nghề này, đành bỏ qua cơ hội.
Một buổi trưa, Ánh sửa soạn đi gánh nước, thì người cô của Ánh đi chợ Bến Thành về, hỏi Ánh có bằng lòng làm thuê cho một nhà ở đường Hiền Vương không? Chủ nhà là một công chức sarg trọng, công việc là đi chợ, làm bếp, giặt đồ, ủi đồ, rảnh thì giữ em, một đứa con trai 5 tưổi. Lương mỗi tháng 600$.
Ánh buồn bã hỏi:
- Nghĩa là đầy tớ, phải không cô?
- Ừ, cũng như làm thuê vậy.
Ánh suy nghĩ một lúc rồi cương quyết trả lời:
- Dạ, con bằng lòng.
Nhưng vừa dứt lời, Ánh chạy đến ghế bố, gục đầu xuống gối khóc nức nở...
Ánh than van một mình:
- Ba ơi. Ba!... Đứa con gái của Ba ngày nay phải đi ở mướn để độ thân, Ba ơi! Nhục nhã con quá, Ba ơi! Má ơi!...
Ánh nằm ghế bố, khóc cả buổi trưa, không ăn cơm, Đến 2 giờ chiều. Ánh sửa soạn ra đi, bỏ giỏ mây lại cho em Nhung, chỉ ôm một gói áo quần, đi theo người cô đến một biệt thự xinh đẹp rộng lớn, ở đường Hiền Vương.
Đấy là nhà của ông giáo sư Ngọc Minh ở chung với vợ chồng người em gái của ổng.
Chương 2
Bạn đọc đã biết ông Ngọc Minh rất yêu cô đầy tớ gái đứng đắn và thùy mị mà ổng muốn cưới làm vợ chính thức. Bạn đã biết vì lẽ gì Ánh cương quyết từ chối, và ông Ngọc Minh lại càng say mê ‘‘con nhỏ’’ đến đỗi em gái của ông là bà Năm và người em rể đã phải để ý và nghi ngờ.
Nhưng bạn chưa biết rõ ông giáo sư Ngọc Minh là thế nào, ông có thật lòng yêu Ánh không? Và tình yêu chênh lệch ấy giữa chủ nhà là một bậc trí thức giàu sang với đứa đầy tớ hèn hạ kia sẽ đi đến đâu?
Phải nói ngay rằng ông Ngọc Minh quả thật là yêu Ánh một mối tình thiết tha duy nhất, còn Ánh thì không yêu ông, nói đúng hơn là không dám yêu ông.
- Vì Ánh cho rằng ông chủ nhà thấy Ánh có nhan sắc ‘‘mùi mẫn’’ và tính nết nhu mì thật thà, nên ông lợi dụng địa vị để quyến rủ đứa gái nghèo, chứ một người đàn ông giàu sang và làm chức lớn, có lý nào lại hạ mình xuống để yêu một con đầy tớ? Ánh nghĩ như thế và cương quyết từ chối tình yêu của ông Ngọc Minh, ấy là Ánh giữ giá trị của một thiếu nữ biết tự trọng. Điều đó, thật đáng khen Ánh vậy. Nhưng Ánh đâu có dò được lòng dạ của ông Ngọc Minh và đâu có hiểu được lý tưởng khác thường của ông?
Ông Ngọc Minh dạy văn chương Việt và Pháp tại các trường Trung học lớn ở Sàigòn. Ông đã 30 tuổi, góa vợ. Em gái độc nhứt của ông là Minh Tú, 25 tuổi, lấy chồng làm công chức cao cấp ở Bộ Kinh tế và đã có hai con. Ngôi nhà ở đường Hiền Vương là của ba má ông Ngọc Minh để lại cho hai anh em ông, một biệt thự lớn, trên lầu chia ra hai căn rộng, một căn ông Ngọc Minh ở, một căn để hai vợ chồng cô Minh Tú mà bà con quen thuộc thường gọi là cô Năm.
Dưới nhà là một phòng khách, một phòng ăn, một phòng chơi cho trẻ con, kho, nhà bếp, ga-ra.
Ánh, con đầy tớ, ở một phòng riêng kế nhà bếp. Ánh đến ở thay thế cho chị bếp trước đã bị bà Năm đuổi vì tội ăn cắp vặt trong nhà.
Ông Ngọc Minh thuộc vào hạng trí thức đã tiêm nhiễm nhiều các môn triết học Đông Tây, xa đời sống thực tế của hiện tại. Ông ham đọc sách từ thuở nhỏ, cho đến khi thi đỗ ra trường đại học ông vẫn không hề biết chơi bời, trai gái, hay cờ bạc, rượu chè. Ông không có lần nào thí nghiệm các thú vui vật chất thường lệ của người đàn ông đã quá tuổi trưởng thành.
Ông sống toàn bằng lý tưởng, ông xây dựng quan niệm đời sống của ông trên những nguyên tắc triết học mà ông đã cho là xác đáng. Trong những môn triết lý mà ông thường đem ra giảng giải cho sinh viên và học sinh của ông, có một lý tưởng mà ông bênh vực hăng hái nhất, và ông tuyên bố sẽ thực hiện cho kỳ được, là ‘‘loài người bình đẳng’’ và ‘‘ái tình không có giai cấp’’ ông chưa thí nghiệm xem thuyết ấy có thật đứng vững hay không, vì ông chưa có cơ hội nào đem ra thí nghiệm. Nhưng ông thấy rằng quan điểm triết lý của ông nhất định phải đúng, và ông cứ tự hỏi tại sao loài người phân chia giai cấp làm chi? Ông thường giảng giải cho học sinh của ông, gồm toàn các thanh niên nam nữ 18,19 tuổi, rằng nghèo với giàu không khác nhau gì cả về phương diện giá trị tinh thần và luân lý, và nên đánh đổ thành kiến hủ lậu rằng một người giàu sang không thể lấy một có gái nghèo hèn làm vợ. Thỉnh thoảng, một học sinh tinh nghịch hỏi ông:
- Thưa Thầy, thí dụ như một ông giáo sư có địa vị giàu sang như thầy, có thể lấy con gái một anh phu xe về làm vợ được không ạ?
Ông Ngọc-Minh trả lời liền:
- Sao lại không? Tại sao tôi phải khinh người con gái của một anh phu xe? cô ấy không phải là một người con gái như muôn vạn các cô gái khác hay sao?
Chỉ ngay một cô nữ sinh ngồi ở bàn đầu, mà ông biết là con một trạng sư danh tiếng ở Sàigòn, ông giáo Ngọc Minh hỏi:
- Cô Vân, con gái của một anh phu xe với cô có khác gì nhau không, xin cô cho tôi biết?
Cô Vân đứng dậy đáp:
- Thưa Thầy khác ạ.
Cả lớp nhôn nhao cười rồ lên. Ông Ngọc Minh nghiêm nghị ‘‘xuỵt’’ một tiếng để học sinh im lặng, rồi ông hỏi tiếp cô Vân:
- Khác ở chỗ nào?
- Thưa Thầy khác ở chỗ một anh cu li xe không phải là một ông Trạng sư, thì con gái của anh cu li không thể như con gái một ông Trạng sư được.
Lớp học xôn xao trở lại.
Vài ba cậu con nhà giàu la lớn lên: ‘‘Hoan hô!’’. nhưng nhiều trò khác, nhất là nữ sinh lại trề môi ‘‘Xí! Xí’’ ông, Ngọc Minh đập thước xuống bàn:
- Im! Mọi người phải im lặng! Ai có ý kiến gì muốn trình bày, tôi cho phép trình bày, nhưng phải có lễ độ và trật tự, không được ồn ào náo động.
Cô Vân vừa ngồi xuống, ông Ngọc Minh nói tiếp:
- Câu trả lời của cô Vân chưa phải là một câu trả lời, mà chỉ là một nhận xét, không dựa trên một chân lý nào cả. Muốn thấu triệt vấn đề, tôi sẽ hỏi các em một vài câu về chi tiết, Tôi không biết mấy chị em mà tôi đang được hân hạnh dạy bài triết lý xã hội hôm nay là con nhà giàu hay nhà nghèo, nhưng tôi biết một điều chắc chắn là chị em đều duyên dáng và diễm kiều, không ai kém ai. ‘‘Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười’’...
Học trò trai cười rộ lên, các cô gái thì cô nào cũng ửng đỏ đôi má. Ông Ngọc Minh nói tiếp:
- Bây giờ tôi thí dụ, con gái một anh phu xe, hay là đứa con gái đi ở mướn chẳng hạn, cũng có nhan sắc diễm kiều và duyên dáng như các em, thì cô ấy có khác gì các em VỀ PHƯƠNG DIỆN SẮC ĐẸP không?
Một cậu học trò ngồi tận cuối lớp đứng dậy đáp:
- Dạ thưa thầy, không khác gì cả ạ!
Ông Ngọc Minh hỏi:
- Mọi người đều đồng ý với cậu Mẫn?
Cả Iớp tủm tỉm cười: ‘‘Dạ, đồng ý’’. Ông giáo hỏi các cô nữ sinh:
- Các cô không phản đối chứ?
Cô Vân cũng như các chị em khác đều mỉm cười:
- Thưa thầy chúng em đồng ý về điểm đó.
- Được rồi. Bây giờ tôi hỏi câu thứ hai.
Nếu cô con gái của anh phu xe, hay cô đầy tớ kia cũng có tính nết thùy mị như chị em, và có tư cách đàng hoàng như chị em, thì có khác gì nhau về PHƯƠNG DIỆN HẠNH KIỂM không?

Mấy cô nữ sinh cuối đầu xuống, có vẻ thắc mắc trước một câu hỏi hơi bất ngờ như thế, nhưng một cậu nam sinh đứng dậy đáp, cậu nầy có tiếng là mồm mép nhất trong lớp:
- Thưa thầy, con gái nhà nghèo mà có hạnh kiểm tốt, có tư cách đàng hoàng, thì còn hơn là con gái nhà giàu mà mất dạy ạ!
Cả lớp cười rộ lên một loạt, ông Ngọc Minh đập thước xuống bàn:
- Yêu cầu các em đừng làm ơn.
Ông Ngọc Minh thấy trong đám nữ sinh có cô Phi Điệp cứ cúi xuống bàn, vì có lẽ cô này thường bị học trò trai gán cho cái tiếng là ‘‘dữ nhất lớp’’ và cô tưởng cậu học trò kia ám chỉ cô.
Ông Ngọc Minh liền gọi cô:
- Cô Phi Điệp cho biết ý kiến.
- Thưa thầy, cái đó còn tùy theo trường hợp ạ!
- Thí dụ?
- Dạ, thí dụ, với người nào tử tế đứng đắn, thì mình tử tế đứng đắn với người ta, còn với tụi du côn, cao bồi, thì cũng phải cho chúng ăn thoi ạ.
Cả lớp xôn xao. Một tiếng nói ở dãy bàn giữa, không biết do miệng nào thốt ra!
- Nữ Chúa đảng Đầu lâu!
Ông Ngọc Minh nghiêm nét mặt, ngó xuống dãy bàn giữa:
- Phải nói đứng đắn một chút chứ!
Ông hỏi tiếp:
- Cô Phi Điệp nói rất đúng. Nhưng cô ra ngoài đề. Tôi có ý muốn nói chung rằng một thiếu nữ giàu và một thiếu nữ nghèo mà tính tình và tư cách cũng đường hoàng, có gia giáo, có nhiều đức tính tốt của phụ nữ, thì cả hai đều như nhau, không khác gì nhau cả. Có phải không các em?
Toàn thể nam nữ học sinh đều vui vẻ đáp:
- Thưa Thầy, phải ạ!
- Được rồi. Nếu thế thì con gái nhà giàu và con gái nhà nghèo có khác nhau chỗ nào nữa đâu? Như thế thì chủ trương giai cấp giàu nghèo, nhất là trong phạm vi tình ái và hôn nhân, có phải là một chủ trương sai lầm không?
Một cậu học sinh có mái tóc chấm xuống ngang tai, có lẽ hai tháng chưa hớt, nhưng cặp mắt ranh mãnh, nhấp nháy hoài không ngớt, là cậu Bình, đứng dậy nói:
- Thưa Thầy giàu với nghèo khác nhau lắm ạ! Giàu có tiền rừng bạc bể, còn nghèo không có xu ten dính túi ạ. Giàu có dư phương tiện học làm Đốc tờ, Luật sư, còn nghèo như con chỉ học đến kỳ nghỉ hè nầy thi đậu hay rớt gì rồi cũng phải ở nhà đi làm mướn!
Cô Trâm mà bạn bè thường gán cho biệt danh ‘‘Cô kiếng trắng’’, vì cô đeo đôi kính cận thị, và luôn luôn chỉ mặt một màu trắng không hề thay đổi đứng dậy, thỏ thẻ:
- Thưa Thầy, chúng em công nhận rằng về nữ dung và nữ hạnh nghèo hay giàu không có phân biệt được, nhưng về tiền tài thì hai đàng xa cách nhau như một trời một vực. Nhứt là thời buổi kim tiền nầy, người nghèo nói chung, người con gái nghèo nói riêng, bao giờ cũng bị khinh khi rẻ rúng. Chúng em thiết tưởng đó là điểm quan trọng nhứt, và cũng do đó mà sinh ra giai cấp giàu nghèo cách biệt nhau rất rõ ràng trong thực tế.
Ông giáo sư Ngọc Minh gật đầu tủm tỉm cười, như được đi sát vào trung tâm vấn đề. Ông nói:
- Tôi khen hai anh em Trâm và Bình đã nêu ra quan điểm thực tế của xã hội. Lúc nãy tôi đã đặt vài câu hỏi chi tiết chính là để đưa các em đến khía cạnh tế nhị này, đó là điểm trọng yếu của vấn đề giai cấp. Tạo Hóa sinh chúng ta ra trên đời không có giai cấp. Ai ai cũng bình đẳng với nhau cả, mọi người đều như nhau cả: ấy là luật thiên nhiên không thể chối cãi được. Giai cấp, chỉ là một sự kiện giả tạo do tổ chức xã hội của loài người chủ trương. Mà chủ trương như thế là sai lầm vì nó ích kỷ, bất công, nó không hợp với lương tâm của loài người. Nó ích kỷ bởi vì một số ít người muốn sống đầy đủ, dư dã, riêng biệt, trong lúc đại đa số người khác phải sống thiếu thốn. Nó bất công bởi vì đại đa số người nghèo khổ có đủ khả năng và đức tính thông minh mà bị bức tường giai cấp của xã hội ngăn cản không cho phát triển được. Vậy thì bổn phận của chúng ta là phá bỏ giai cấp, để cho toàn thể loài người được bình đẳng theo luật thiên nhiên, để cho những kẻ nghèo khổ được có phương tiện phát triển khả năng và đức thông minh, hầu xây dựng một xã hội loài người tốt đẹp hơn, công bằng hơn, hợp với thiên nhiên hơn. Tôi mong muốn các em ngày sau ra khỏi ngưỡng cửa học đường, góp phần sống với xã hội, mỗi người áp dụng lý tưởng nhân loại bình đẳng của chúng ta. Được như thế, là mỗi người trong chúng ta đã đặt đuợc nền móng căn bản của xã hội tương lai, xã hội của tự do, công bình, tiến bộ xã hội không có người giàu người nghèo, xã hội mà những người nào tài hoa đức hạnh đều có điều kiện phát triển được.
Ông giáo sư Ngọc Minh ngó đồng hồ thấy còn hai phút nữa mãn lớp. Ông đứng dậy bỏ sách vở vào cặp da, và đưa cặp mắt hiền từ của ông nhìn khắp lớp học, nói tiếp:
- Các em, tôi không khuyên các em áp dụng chủ trương giai cấp đấu tranh. Không! Một cuộc đấu tranh như thế gây ra hỗn loạn trong xã hội, có thể đưa đến những cuộc quá khích ghê tởm và căm hờn không thích hợp với tinh thần nhân đạo. Tôi chỉ khuyên các em mỗi người trong lĩnh vực sinh hoạt của mình, thực hiện lý tưởng tự do, dân chủ, tiến bộ. Các em tin chắc rằng trên con đường tiến thủ mai sau, cùng chung chí hướng ấy, các em và tôi, chúng ta không những sẽ là bạn đồng chí, mà còn là anh em như ruột thịt nữa vậy.
Toàn thể lớp học vỗ tay hoan nghênh bài giảng của ông giáo sư Ngọc Minh, ông mỉm cười: ‘‘Chào các em!’’ Rồi ôm cặp ra về. Ông còn nghe vang dội bên tay những tiếng: ‘‘Chào thầy ạ!’’ của một lớp thanh niên nam nữ đã có óc suy xét mà ông vừa truyền bá những tư tưởng bình đẳng nhân đạo của ông.
Ngồi trong chiếc Traction đen mà ông tự lái lấy, ông Ngọc Minh vui vẻ về nhà, nhưng cứ tư tưởng đến mối tình của ôug với Ánh.
Ông quyết giữ mối tình xinh đẹp và cao quý của người đầy tớ gái, mặc dầu Ánh vì thành kiến giai cấp và lự ti mặc cảm, không dám nhận lời và còn cương quyết từ chối. Ánh tưởng lầm ông có thể là một ông chủ nhà lợi dụng quyến rủ gái nghèo rồi khinh bỏ sau khi thỏa mãn nhục dục đê hèn. Ông nhất địah sẽ thuyết phục Ánh cho Ánh hiểu rõ lòng ông.
Ông Ngọc Minh không phải muốn lập dị đâu. Càng không phải ông yêu mù quáng một con ở. Ông đâu có điên rồ, nhắm mắt mê bừa một đứa con gái nghèo khó, hiện ở một địa vị thấp hèn, mà ông biết trước rằng Minh Tú, em gái của ông, chủ sự, em rễ của ông, và bạn bè quen thuộc của ông, đều sẽ đồng thanh phản đối hay chê cười. Nhưng ông quả quyết đi ngược lại thành kiến sai lầm mà ông đã nhiều phen đánh đổ trong các bài giảng dạy về triết lý xã hội cho học trò của ông, và trong các câu chuyện ông thường trao đổi với bạn bè của giới trưởng giả và quý phái ở Sàigòn, giáo sư, công chức cao cấp, trí thức gọi là thượng lưu… v.v... đã gán cho ông biệt danh mai mỉa là ‘‘Xừ chiết’’! Trước mặt vì kính nể ông là người đức hạnh và tài cao học rộng, ông nói sao cũng gật đầu khen phải cả. Vả lại, nói đúng ra, những lý lẽ của ông, họ không bắt bẻ vào đâu được. Nhưng sau lưng ông, mỗi khi nhắc đến giáo sư Ngọc Minh thì họ tủm tỉm cười bảo nhau: ‘‘À, xừ chiết đấy hả’’ hay là ‘‘xừ gàn đấy mà’’.
Mặc kệ! ông Ngọc Minh khăng khăng giữ chủ trương bình đẳng nhân đạo. Ông quyết thực hành lý tưởng ‘‘vô giai cấp’’ và ông càng say mê Ánh, ông càng quyết định cưới cho được cô đầy tớ làm bạn trăm năm của ông.
Một hôm Minh Tú, em gái của ông, nói với ông:
- Anh Hai à, anh có biết hiện giờ có một cô thiếu nữ đang chết mê chết mệt vì anh không?
Ông Ngọc Minh cười:
- Cái gì lạ vậy, em?
- Thiệt mà anh Hai.
- Cô nào mà kỳ cục vậy?
Minh Tú bật cười vì những câu hỏi khôi hài của anh, cô hỏi:
- Nội đất Sàigòn nầy, em không thấy có ai đẹp bằng cố ấy. Tên cũng đẹp, người cũng đẹp, nết cũng đẹp, không có cái gì ở cô ấy mà không đẹp!
- Rồi sao nữa?
- Tên cô ấy là Thanh Kiều năm nay 20 tuổi.
- Cô Thanh Kiều, con ông Bộ trưởng gì đó phải không?
- Té ra anh cũng đã để cặp mắt xanh vào cô Thanh Kiều rồi sao? Thế mà em không biết chớ. Anh Hai của em ghê thật!
- Anh đâu có để ý đến người ta. Cái tên ấy, và con người ấy, đối với anh chẳng có nghĩa lý gì cả.
Minh Tú ngạc nhiên:
- Sao lạ vậy anh Hai?
- Có chi lạ đâu em. Riêng gì ông Bộ trưởng ấy mới có một cô gái đẹp tên là Thanh Kiều! Ở Sàigòn nầy có biết bao nhiêu là cô Thanh Kiều. Cứ chiều thứ bảy hay sáng chủ nhật, đi dạo đường Bô na mà xem: nhan nhãn cô Thanh Kiều đấy! Hết thảy đều đẹp. Mỗi người một vẻ đẹp, muôn nghìn người có muôn nghìn vẻ đẹp như nhau. Nhưng ngày nay thì đẹp như thế đấy, rồi vài mươi năm sau hết thảy đều lan dần úa héo, chẳng sắc đẹp nào còn. Cho nên đối với anh, cô Thanh Kiều của em cũng như muôn nghìn cô Thanh Kiều khác, dù cô là con gái ông Vua, ông Quốc trưởng, ông Bộ trưởng, ông Luật sư, ông Bác sĩ, hay con gái của ông phu xe, anh thợ nề, cô gái bán rong, con đầy tớ, có khác gì nhau về sắc đẹp? Sắc đẹp đâu có giai cấp!
Minh Tú cười:
- Anh chỉ ưa triết lý thôi! Nhưng em nhớ câu tục ngữ La tinh mà anh giảng cho nhà em với em hôm nọ: Primo Vivere: đời sống trước đã!... Như anh Hai, anh nên lo đời sống thực tế trước, anh phải có vợ có con, rồi thong thả hãy triết lý sau cũng được vậy chứ!

- Không phải anh triết lý. Nhưng anh muốn đời sống thực tế của anh phải dựa lên trên một căn bản lý tưởng. Lý tưởng của anh, như anh thường nói với em, là phải sống công bình, nhân đức, bình đẳng, không ham người giàu, không khinh người nghèo, và xây dựng hạnh phúc của mình trên một ý nghĩa cao rộng của cuộc đời.
- Thì anh cưới cô Thanh Kiều, anh sẽ có hạnh phúc. Anh sẽ thấy cuộc đời có ý nghĩa cao rộng.
- Em tin tưởng vào đâu mà nói thế?
- Cô Thanh Kiều đẹp.
Ông Ngọc Minh tủm tỉm cười ngắt lời:
- Đẹp bằng Ánh không?
Minh Tú trố mắt ngó anh:
- Ánh nào đó, anh hai?
- Ánh giúp việc cho nhà mình, đó.
- Con ở đó hả?
- Coi bộ em ngạc nhiên lắm sao?
Nhưng Minh Tú chau mày:
- Anh Hai cứ nói chuyện tào lao, em của anh không bằng lòng đâu đấy. Em đang nói chuyện cô Thanh Kiều cho anh nghe. Cô ấy xứng đáng làm vợ anh, sao anh không chịu? Cổ đẹp lộng lẫy ít người bằng, cổ lại yêu anh, cổ là con gái một ông Bộ trưởng, cổ lái xe hơi Huê Kỳ, cổ đánh đàn Piano hay, cổ khiêu vũ giỏi, cổ …
- Thôi, thôi! Bấy nhiêu đó đủ rồi!
- Nhưng anh chưa nghe cô Thanh Kiều ca tụng tài năng và tính nết của anh. Cổ là học trò cũ của anh hồi năm kia đó...
- Anh biết.
- Anh biết cổ thường đến chơi với em, và tỏ ý yêu anh lắm không? Em thấy cổ mê anh lắm đó.
Minh Tú mở bóp:
- Nè, em cho anh Hai coi cái này...
Minh Tú rút ra tấm ảnh, khen lấy khen để: ‘‘mặc áo may dô tối tân, rất khêu gợi, đứng trên bờ biển Vũng Tàu, nhoẻn nụ cười tình. Cặp mắt cổ hấp dẫn như mắt của Liz Taylor. Ngực nở không thua ngực của MariLyn Monroe. Hai cặp đùi tròn trịa, đều đặn, trắng nõn nà, như bộ giò của Brigitte Bardot. Tóc loăn quăn trước trán giống kiểu tóc của Gina Lollobrigida. Thanh Kiều rất ăn ảnh, toàn thân rất ‘‘Sexy’’ ‘‘exciting’’ không chê được. Ngọc Minh nhìn tấm ảnh với một nụ cười hỏm hỉnh:
- Thật xứng đáng là con gái ông Bộ trưởng nhỉ!
Rồi ông trả ảnh lại cho Minh Tú. Cô em gái của ông lấy trong bóp ra một tấm ảnh khác cũng của Thanh Kiều tặng cô, nhưng chiếc ảnh nầy tình tự một lối khác: Thanh Kiều mặc áo hoa đứng cạnh chiếc xe hơi Huê kỳ, với nụ cười duyên dáng. Ông Ngọc Minh vẫn khôi hài với em:
- Anh nhớ có thấy ảnh nầy trong một trang quảng cáo xe hơi đăng trong một tạp báo hình ảnh của Pháp... hình như là tập ‘‘Revue du Sud- Est’’ thì phải.
Minh Tú cải chính:
- Làm gì có. Thanh Kiều mới chụp hôm chúa nhựt tuần rồi ở Cấp đây mà.
- Anh biết, ảnh quảng cáo xe hơi trong ‘‘Revue Sud- Est’’ không phải là cô Thanh Kiều, nhưng cũng như cô Thanh Kiều, có gì lạ!
- Anh Hai sao mà... khó chịu quá!
- Nhưng anh Hai nói thiệt với em phứt cho rồi để em cứ làm quảng cáo cho cô Thanh Kiều hoài. Nè, anh Hai không mê Thanh Kiều của em đâu nhé! Nếu em là đàn ông, em không mê ai hơn là Thanh Kiều.
Minh Tú đứng dậy, lại gần kề miệng vào tai anh, nói nhỏ:
- Anh Hai à, Thanh Kiều hứa ‘‘ca đô’’ cho em một chiếc xe hơi Huê kỳ, anh biết không?
Minh Tú cười khoái trá lắm, rồi nói tiếp:
- Ba của mấy đứa nhỏ cũng muốn anh Hai cưới Thanh Kiều. Ông bà Bộ trưởng chỉ có cô là con gái cho nên cưng cổ lắm. Nè, em hỏi anh, nghe: Anh muốn làm ông Tổng Giám đốc không? Hay là ông Đổng lý văn phòng không? Anh Hai nghe lời em: lấy Thanh Kiều đi! Rồi anh Hai sẽ thấy công danh phú quý lên vùn vụt trên mây xanh! Anh Hai sẽ không còn đi chiếc xe traction lỗi thời kia nữa. Anh Hai sẽ ở riêng một biệt thự của nhà nước...
- Chừng nào anh Hai muốn lấy vợ, anh Hai sẽ lấy một người con gái nghèo.
- Thôi đi ông, ông cứ triết lý hoài!
Minh Tú tức mình rầy anh, rồi vùng vằng giận dỗi, bỏ hai tấm ảnh thiệt lẹ vào bóp, quăng bóp trên bàn, nét mặt quạu cọ muốn cãi lộn với anh!
- Anh tưởng đâu anh nói như vậy là hay lắm đó! Anh đừng để chúng bạn của anh, và các nhà tri thức ở Sàigòn này họ ngạo anh là ‘‘Xừ Triết’’ chớ! Người như anh mà đi lấy con gái nhà nghèo sao! Anh tưởng đâu em để cho anh lấy một con ở hả?
Minh Tú giận đỏ mặt, liền gọi con ở, cố tình làm nhục nó trước mặt anh, xem anh có dám làm gì không, cô gọi thật to:
- Ánh!
Không nghe tiếng trả lời, Minh Tú chạy ra cửa sổ phía sau ngó xuống sân bếp thấy con ở đang ngồi giặt đồ. Cô gọi
- Ánh lên tao biểu.
- Dạ.
Ông Ngọc Minh ngồi lặng lẽ, nghe tiếng Ánh: ‘‘Dạ’’ thật nhỏ nhẹ dễ thương. Minh Tú đã trở vào phòng khách. Đây là trên lầu. phòng giấy ở giữa là nơi để dành riêng cho Minh Tú tiếp các bạn gái thân nhất của cô và cũng là nơi vợ chồng cô và ông Ngọc Minh thường ngồi chuyện vãn những lúc nhàn rỗi. Phòng này tuy hẹp, nhưng bày trí xinh xắn, gọn gàng, ngăn cách phòng ông Ngọc Minh và phòng của vợ chồng Minh Tú.
Minh Tú vào ngồi lại trên ghế, đối diện anh và nét mặt hầm hầm, làm thinh. Ông Ngọc Minh cũng làm thinh, châm điếu thuốc hút. Ánh từ dưới nhà, đi chân không nhẹ nhàng bước lên cầu thang, vào phòng:
- Thưa bà kêu con?
- Ừ. Mầy làm gì dưới mà tao gọi mầy không nghe?
- Dạ, thưa bà, con giặt đồ.
- Ai biểu mầy giặt đồ? Tao dặn mầy xay cà phê, mầy đã xay chưa?
- Dạ thưa bà, con giặt đồ rồi con xay cà phê.
- Tại sao mầy không xay cà phê trước rồi hãy giặt đồ?
- Thưa bà, đồ dơ nhiều quá, con giặt cho kịp phơi để chiều khô, tối con ủi, Con giặt cũng gần xong, Con định giặt xong, con đi nấu cơm, rồi trưa con xay cà phê cũng kịp, vì cà phê còn đủ pha buổi trưa,
- Nhưng tao muốn mầy xay cà phê trước, sao mầy cãi lời tao? Mầy là đầy tớ, mầy đi ở mướn cho tao, chớ mầy là chủ tao hả? Đồ khốn nạn! Mầy coi chừng tao, nghe hông mầy! Bộ nầy, tao thấy mầy muốn sanh tật rồi đó! Mầy liệu hồn! Thôi đi xuống! Giặt gì thì giặt lẹ đi, rồi làm cơm. Giặt từ sáng giờ chưa rồi mấy cái đồ!
- Thưa bà, con vừa đi chợ về,
- Câm đi. Còn cãi nữa hả? Đi xuống cho rồi. Đồ mắc dịch!
Ánh lặng lẽ đi xuống. Trong phòng im phăng phắc. Ông Ngọc Minh ngồi điềm nhiên, hút thuốc. Ánh xuống một lát, rồi Minh Tú ngó anh:
- Anh Hai coi con ở nó hỗn không?
Ngọc Minh nhìn chòng chọc vào em:
- Anh Hai có thấy nó hỗn gì với em đâu?
- Chớ anh Hai không thấy nó cứng đầu muốn cãi lại em đó sao?
- Anh thấy em rầy nó một cách vô lý.
- Em vô lý cái gì? Sao anh lại binh con ở, anh mắng em?
- Anh đâu có mắng em? Anh chỉ thấy rằng công việc nó làm không đáng để em rầy la. Nó siêng năng, chăm làm, và nó biết xếp đặt chia công việc của nó, cái nào làm trước, cái nào làm sau, cho kịp thời giờ. Như vậy em mắng nó là oan cho nó.
- Anh Hai binh nó hả? Trời, em không ngờ, anh binh con đầy tớ khốn nạn, mà anh hất hủi em của anh!
Minh Tú chạy vô buồng riêng của cô, nằm lăn trên giường khóc nức nở.
Ông Ngọc Minh vẫn điềm nhiên ngồi hút thuốc. Nhưng
ông trầm ngâm nghĩ ngợi.
Tối thứ bảy, Hội Chống Nạn Mù Chữ tổ chức một buổi ca nhạc kịch để lấy tiền lập cây mùa Xuân cho các em học sinh nghèo của Hội. Hai vợ chồng cô Minh Tú đều đã mua vé trước, còn ông Ngọc Minh là một cố vấn của Hội, có giấy mời riêng. Tuy có giấy mời nhưng chính ông đã tặng riêng Hội một số tiền năm ngàn đồng để mua quà bánh và đồ chơi cho các em nghèo. Theo chương trình khai diễn đúng 9 giờ tối cho đến 12 giờ khuya.
Tám giờ rưỡi, cơm nước xong, gia đình ông Ngọc Minh đã sẵn sàng. Ông lái xe cho vợ chồng Minh Tú và hai đứa con đến rạp. Mấy người nầy tuy là mua vé hạng nhứt, nhưng được xếp chỗ ngồi dãy ghế chữ C, vì mấy dãy ghế danh dự đã đầy chật các quan khách có giấy mời riêng, ông Ngọc Minh nhường chỗ của ông ở dãy ghế chữ A cho một người nhà báo ngoại quốc đến thình lình. Ông vào buồng riêng của tài tử, toàn là nhân viên của hội, để giúp đỡ anh chị em một phần trong việc sửa soạn các màn kịch.
Đúng 9 giờ mở màn, ông giáo sư Ngọc Minh, đại diện Hội, ra trước máy micro ứng khẩu mấy lời khai mạc.
Thính giả nhiệt liệt vỗ tay hoan hô ông, vì ông là một vị giáo sư, vừa là một văn sĩ, có nhiều uy tín với các giới đồng bào nghèo. Ông cũng được hầu hết các giới lao động thanh niên và trí thức mến phục, vì ông đã có tài, lại có đức.
Nhưng nửa giờ sau khi khai diễn, ông Ngọc Minh đi đâu mất.
Mọi người chăm chú vào buổi ca nhạc kịch tưng bừng rộn rịp, không ai để ý đến sự vắng mặt bất ngờ của ông. Ông đi đâu? Các bạn đã theo dõi bộ chuyện này chắc đoán được. Phải rồi, ông Ngọc Minh chỉ có lén về nhà để nói chuyện với Ánh chứ không đi đâu cả.
Ánh đang ủi đồ, nghe tiếng gõ cửa, còn do dự chưa dám mở. Nghe gõ cửa lần thứ hai, Ánh bật đèn phòng khách, và đứng trong cửa, hỏi:
- Ai đó?
Tiếng phía ngoài đáp:
- Ánh mở cửa cho tôi.
Ánh rất ngạc nhiên, và sợ sệt khi nghe rõ tiếng ông Ngọc Minh. Nhưng Ánh không thể không mở.
Ông Ngọc Minh bước vào, tự đóng cửa lại. Ánh đã đi lẹ vào nhà trong, ông kéo một chiếc ghế mây nhỏ của con nít, để ngồi gần Ánh. Ánh lặng lẽ cúi mặt xuống, làm công việc, ông Ngọc Minh khẽ nói:
- Ánh à ; Ánh đã suy nghĩ về những lời tôi đã nói với Ánh hôm trước chứ?
- Thưa ông có gì mà suy nghĩ?
- Tôi đã thú thật với Ánh rằng tôi đã yêu Ánh, và tôi nhứt định cưới Ánh làm vợ.
Ánh thẹn đỏ mặt, không trả lời được, ông Ngọc Minh hỏi tiếp:
- Ánh cho tôi biết ý nghĩ của Ánh như thế nào? Đây là tôi nói thiệt, câu chuyện đứng đắn, chớ không phải tôi kiếm cách chọc ghẹo Ánh đâu. Tôi nói ý nguyện của tôi với Ánh từ lâu rồi, nay tôi mong Ánh hiểu rõ lòng tôi, và nhận lời tôi.
- Thưa ông, về chuyện ông nói đó, tôi đã trả lời ông bữa trước rồi. Nay ông hỏi lại thì tôi cũng trả lời như bữa trước thôi.
- Tại sao vậy, Ánh?
- Dạ, thưa ông, tại vì tôi không xứng đáng một chút nào hết.
- Tôi nghĩ khác. Tôi nhận thấy Ánh có đủ hai đức tánh quý nhứt của người thiếu nữ: nhan sắc và tính hạnh. Ánh còn đẹp hơn nhiều cô gái khác nữa. Nói về sắc đẹp thì tôi yêu nhan sắc lộng lẫy, duyên dáng và thùy mị của Ánh. Nói về nữ hạnh thì tôi yêu tính nết dịu hiền, đoan trang, và chân thật của Ánh. Tôi chỉ cần một người vợ có bấy nhiêu đó thôi, về mặt trí thức, Ánh ở gần tôi sẽ học hỏi thêm chút ít có thể trở thành một phụ nữ trí thức có trình độ văn hóa tạm đầy đủ được. Tôi tin rằng với thiện chí và bẩm chất thông minh đã sẵn có, Ánh sẽ là người vợ rất xứng đáng của tôi, rất hợp với lý tưởng đời sống của tôi.
- Thưa ông, ông tử tế, ông khen quá lời, tôi xin cảm ơn ông. Nhưng hoàn cảnh không cho phép tôi nhìn lên cao xa như thế. Tôi chỉ là một con ở. Tôi chỉ làm kẻ tôi tớ cho ông được mà thôi.
- Không, Ánh sẽ không phải là kẻ tôi tớ nữa.
- Thưa ông, đã biết qua đời thiếu nữ hèn hạ của tôi. Ông đã biết tôi đau khổ như thế nào rồi. Ông nên thương hại tôi nếu ông không khinh tôi.
- Không, Ánh à, Ánh sẽ không đau khổ nữa đâu. Nếu tôi khinh Ánh thì tôi đã không yêu Ánh.
Hình như ông Ngọc Minh xúc động vì những lời chân thật của Ánh, nên ông xích ghế lại gần sát cạnh Ánh, và nắm tay Ánh, Ánh đăm đăm nhìn ông Ngọc Minh, như cầu khẩn van lơn:
- Ông nên buông tôi ra. Ông đừng làm như thế, tội nghiệp tôi lắm!
Giọng nói run run, chân thành, đau khổ, và đôi mắt sầu mơ, hiền dịu của Ánh gần như muốn rưng rưng lên, khiến ông Ngọc Minh xao xuyến, rạo rực cả tâm hồn. Ông bị tia mắt khổ não của Ánh như rọi thắm vào tận đáy lòng, ông bỏ ghế mây, ngồi xuống đất, ngay bên chân Ánh. Ông ôm lấy Ánh vào lòng và lẩm bẩm, như say mê cuồng loạn:
- Ánh tha lỗi cho tôi!... Tôi yêu Ánh!... tôi yêu Ánh lắm...
Ánh khẽ xô ông ra, trừng mắt ngó ông, nhưng yếu đuối quá, Ánh không làm sao chống cự nổi. Ông Ngọc Minh kề mặt sát mặt Ánh, áp môi vào môi Ánh, và tặng Ánh một nụ hôn say đắm đê mê. Ánh nhận lãnh nụ hôn nồng cháy, như một nhiệt độ mê ly chạy khắp trong cơ thể rung động của nàng bị xáo loạn.
Nhưng Ánh đẩy mạnh ông Ngọc Minh ra, nàng chạy lẹ xuống buồng ngủ của nàng, khóa chặt cửa, rồi lăn lên giường khóc nức nở.
Ông Ngọc Minh ngồi cúi mặt xuống gạch hoa, có vẻ hối hận.
Ông cố tự chủ, bước xuống bếp, đứng ngoài cửa buồng của Ánh, nói:
- Ánh tha lỗi cho tôi nhé...
Đứng yên một lát, nghe Ánh vẫn khóc thổn thức, ông khẽ bảo:
- Ánh đừng khóc nữa nhé. Tôi đi đây. Ánh ra đóng giùm cửa nhà ngoài,
Ngọc Minh đi thẳng ra phòng khách, mở cửa ra đường; Đi một quãng xa, ông quay lại thấy cánh cửa từ từ đóng, và đèn phòng khách tắt.
Ông trở lại rạp hát. Ngó đồng hồ, kém 15 phút đầy 11 giờ. Ông ở nhà với Ánh gần hai tiếng đồng hồ. Ông không vào rạp. Đến chiếc xe Citroën của ông đậu bên kia đường, trong bóng tối, ông mở cửa xe, vào ngồi chỗ tay lái, châm điếu thuốc hút. Ông ngồi yên lặng, ôn lại trong ý nghĩ những lời nói thành thật đau khổ của Ánh những cử chỉ rất hiền lành và nhã nhặn của nàng, tư cách nghiêm trang và cao quý của nàng, và ông ăn năn hành động quá bồng bột của ông. Nhưng ông tự nhũ; ‘‘Ta nhứt định cưới Ánh làm vợ. Ta có thể cưới một người thiếu nữ nghèo nàn, đau khổ và dịu hiền đoan trang như Ánh! Ta yêu Ánh lắm. Ánh là tình yêu đầu tiên của ta rất say mê, chân thật. Đây là một tình yêu lý tưởng, xinh đẹp, cao cả. Ta sẽ giẫm trên dư luận, để thực hiện tư tưởng nhơn đạo, công bằng và tiến bộ của ta.
Vừa tan rạp. Sóng người ồ ạt từ trong hi viện chay ra, tràn lan trên lề đường, ông Ngọc Minh ngỏ lơ đễnh, không lưu tâm đến họ. Ông đang say sưa với lý tưởng triết học bình đẳng, vô giai cắp của ông.
Vợ chồng cô Minh Tú và 2 đứa nhỏ cũng vừa băng qua đường, đi vội vàng đến chiếc xe Citroën. Minh Tú ngạc nhiên hỏi:
- Anh Hai ra hồi nào mà sớm thế vậy, anh Hai?
Ông Ngọc Minh nhếch một nụ cười:
- Anh ra từ lâu.
Gia đình cô Minh Tú lên xe xong, ông Ngọc Minh lái về nhà.
Hai đứa nhỏ đập cửa gọi:
- Chị Ánh mở cửa!
Tiếng Ánh trong nhà đáp:
- Dạ
Cửa mở, cô Minh Tú thấy đầu tóc Ánn rối bù và đôi mắt đỏ hoe, liền hỏi:
- Mầy làm sao vậy Ánh?
Ánh cúi mặt không dám ngó cô chủ, bẻn lẻn:
- Dạ, có sao đâu!
Ánh đợi cho mọi người vào hết để đóng cửa. Ông Ngọc Minh bước vô sau cùng, nét mặt ngượng ngịu, cũng như Ánh. Hai người không ngó nhau.
Nhưng Minh Tú hình như có linh tính rằng ở nhà vừa xẩy ra một việc gì làm cho Ánh xáo động tinh thần, và cô thắc mắc về sự vắng mặt của anh cô trong buổi dạ hội. Sau khi anh nói mấy lời cảm ơn khán giả. Im lặng cô đi thẳng xuống bếp, ngó qua nhà cửa xem có gì thay đổi không, rồi đi lên lầu, vẻ mặt hằm hằm khó chịu.
Sáng hôm sau là chúa nhật, lại có Thanh Kiều đến chơi. Cô gái của ông Bộ trưởng đi xồng xộc vào phòng khách, rất tự nhiên. Gặp Ánh từ trong bếp ra chào, Thanh Kiều bảo với giọng kiêu hãnh:
- Nói với bà chủ có tôi đến chơi.
- Dạ.
Ánh lên lầu, một lúc xuống liền:
- Thưa có bà chủ mời cô ngồi chơi, bà chủ xuống ngay.
Thanh Kiều đã ngồi trên ghế phòng khách, chỉ gật đầu không đáp. Minh Tú xuống. Hai người cười dòn dã, nắm tay rất thân mặt. Thanh Kiều vui vẻ nói:
- Mình đã hẹn với Tú thì mình đến, chớ tụi con Lộc, con Chung, rủ minh đi Cấp sáng nay đấy.
- Sao không đi với tụi nó?
- Thôi, thích chơi với Tú hơn. Tú đi Cấp không! Hôm nay chúng mình đi Cấp chơi, đi!
Nói thầm vào tai Tú, Thanh Kiều tiếp:
- Rủ anh Năm và anh Ngọc Minh cùng đi cho vui nhé!
Hai người cười toe toét. Minh Tú bảo:
- Thanh Kiều ngồi chơi một chút xíu, anh của Tú đi có chút việc sắp về bây gìờ.
Một lát sau, Ngọc Minh về. Ông đi Charner mua hoa lê đơn trắng, là thứ hoa ông thích nhất, đem về chưng phòng khách. Minh Tú khen:
- Chà! Anh Hai mua hoa đẹp quá xá!
Trông thấy Thanh Kiều ông rất tự nhiên:
- Chào cô.
Con gái ông Bộ trưởng mà cũng là học trò cũ của ông. Ngọc Minh, nhoẻn một nụ cười rất là tình tứ:
- Ông giáo yêu hoa Glaïeul lắm nhỉ?
Ngọc Minh chỉ mỉm cười nhã nhặn, không đáp.
Minh Tú kéo tay bảo anh ngồi xuống ghế, gần cô Thanh Kiều. Xong cô gọi xuống bếp:
- Ánh ơi!
- Dạ.
- Đem nước sôi lên pha trà.
- Dạ.
Ánh đủng đỉnh lên phòng khách, bưng một mâm chén dĩa và bình trà, đặt trên bàn. Xong Ánh trở xuống bếp. Một lát sau Minh Tú lại gọi:
- Ánh!
- Dạ.
Ánh trở lên. Minh Tú nhìn chòng chọc Ánh:
- Mầy để cái ấm đó chớ không châm trà hả?
- Dạ thưa bà, con để cho ra trà,
- Bây giờ châm được rồi.
- Dạ
Ánh rót trà ra ba chén nhỏ, xong nàng xuống bếp. Ánh đi chưn không, dịu dàng lễ phép. Toàn thân của nàng thướt tha yêu kiều tuy là giản dị, nghèo nàn, không một chút điểm trang nào. Thanh Kiều ngó theo nàng và khẽ hỏi Minh Tú:
- Con ở này hồi trước làm gì? Tú thuê nó ở đâu?
Minh-Tú trề môi:
- Trước nó đi bán hàng rong và đi gánh nước mướn.
- Coi mùi đó chứ!
Thanh Kiều nói tiếp:
- Nè, đứa ở có nhiều đứa coi cũng ngộ đó chớ hả?
Minh Tú nghiêm nghị đáp:
- Ngộ thì cũng là đứa ở!
Thấy ông Ngọc Minh ngồi hút thuốc hình như không chú ý đến câu chuyện của hai cô, Thanh Kiều tủm tỉm cười hỏi ông:
- Ông giáo thấy con ở như thế nào ạ?
Ngọc Minh nhún vai đáp:
- Nó cũng là một cô gái đẹp như các cô gái đẹp khác.
Minh Tú châu mày làm thinh, nhưng Thanh Kiều cười rũ rượi:
- Hèn chi mấy có nữ sinh đồn rằng ông giáo ưa bênh vực tụi con ở có đôi chút nhan sắc!
Ngọc Minh không trả lời. Minh Tú vùng đứng dậy:
- Ối nói làm chi những chuyện ấy! Tụi em mời anh Hai đi Cấp chơi chiều về. Sửa soạn đi, anh Hai!
- Anh ở nhà.
- Ở nhà làm gì, anh Hai. Đi Cấp chơi có vui hơn không? Anh với nhà em đi bên xe anh, còn em với hai cháu đi xe Thanh Kiều. Em muốn coi Thanh Kiều lái xe có giỏi không. Xuống Cấp, tụi mình tắm biển và chụp hình chơi rồi 6 giờ về.
- Anh ở nhà.
- Anh Hai không chìu em chút nào hết! Chúa nhựt cứ cu rú ở nhà hoài! Em ghét quá!
- Thì em cứ đi với cô Thanh Kiều không được sao?
- Đi có anh mới vui chớ, nói gì tụi em!
- Đi với anh không vui đâu.
- Có cả nhà em với mấy cháu nữa mà!
- Có dượng Năm với hai cháu đi với em đủ rồi. Anh ở nhà coi nhà.
Minh Tú tức giận anh lắm. Nhưng không biết nói sao cô bèn gọi lên lầu:
- Mình ơi!
Chồng Minh Tú từ trên lầu mặc áo pyjama, tay cầm quyển sách, bước xuống mấy bực cầu thang, hỏi:
- Em gọi anh hả? À, cô Thanh Kiều, chào cô.
Thanh Kiều cười:
- Em đến mời anh chị và các cháu đi Cấp. Em mời ông giáo từ chối không đi, em buồn quá đây nè.
Minh Tú tiếp lời:
- Anh sửa soạn lẹ rồi xuống đi. Tụi em chờ.
Chồng cô Minh Tú lại hỏi:
- Anh Hai đi không, anh Hai? Ở nhà buồn chết!
Ngọc Minh cười:
- Buồn thì chắc là buồn rồi đấy, nhưng chết thì chưa chắc! Dượng cứ đi đi, để tôi ở nhà coi nhà cho.
- Ồ, coi nhà thì đã có con Ánh.
Hai tiếng ‘‘con Ánh’’ do chồng cô Minh Tú vô tình quăng xuống phòng khách trong lúc này, chẳng khác nào một hòn đá quăng xuống mặt nước ao hồ còn đang dợn sóng. Ai nấy đều im lặng, khó chịu.
Ngọc Minh đứng dậy, nói một mình:
- Tôi đi dạo phố... Chào cô Thanh Kiều nhé.
Ông ra khỏi phòng khách, đi thẳng. Ông đi một lát thì Minh Tú cùng đứng dậy, ngó lên cầu thang, chồng cô đã lên lầu. Cô gọi:
- Rồi chưa anh? Xuống đi.
Cô lại gọi xuống bếp:
- Ánh! Lên tao biểu.
Từ dưới bếp, Ánh: ‘‘Dạ’’
Ánh vẫn đi chân không, điềm nhiên và dịu dàng, lên phòng khách. Minh Tú với giọng cáu kỉnh, bảo:
- Hôm nay cả nhà đi vắng, mầy ở nhà phải lau nhà, lau bàn ghế, tủ, giường, rửa bếp, lau sạch cầu thang, rồi giặt, ủi, soạn hết các đồ đạc của mấy đứa nhỏ, coi cái nào đứt khuy và rách thì khâu vá lại, nghe chưa?
- Dạ.
- Với lại chùi hết các đồ đồng đồ sứ ở phòng khách và trên lầu. Lau sạch các cửa kiếng trên lầu và dưới nhà nghe hông?
- Dạ.
- Nhớ xay càphê, nghe hông?
- Dạ.
- Mầy đã cọ sạch bể nước chưa?
- Dạ thưa bà, con đã cọ hôm qua rồi.
- Bữa nay có thì giờ rảnh nhiều đó, thì tháo lù ra, ‘‘cọ’’ lại cho thiệt sạch nghe hông? Mầy nói cọ sạch rồi sao sáng nay tao còn thấy có mấy con bọ quăng?
- Dạ thưa bà...
- Thôi đừng có chối bây bẩy! Mầy làm biếng lắm! Dạo này tao thấy mầy mê tiểu thuyết lắm đa! Liệu hồn mày!
- Thưa bà, con có bao giờ coi tiểu thuyết đâu.
- Thôi, câm cái miệng đi mầy. Không coi tiểu thuyết sao coi bộ mầy mơ mộng quá xá vậy? Tao gặp mầy mấy lần ngồi mơ mộng ở dưới bếp, mày còn chối gì! Hay bây gìờ mầy muốn theo phong trào làm tài tử xi nê, vũ nữ, ca sĩ, chớ không muốn rửa bát nữa?
Chồng cô vừa bước xuống cầu thang, hai tay dắt hai đứa con:
- Đi chưa?
Thanh Kiều nắm tay Minh Tú
- Thôi anh và hai cháu đã xuống kìa.
Minh Tú lấy bóp trên bàn khách, còn ngó chòng chọc vào mắt Ánh:
- Chiều tao về nhà mầy không làm hết những công việc tao đã dặn, thì mầy đừng có trách tao, nghe hông? Làm cơm sẵn, 7 giờ tao về hẳn dọn cơm.
Quay lại Thanh Kiều, Minh Tú bảo:
- Chiều về thẳng đây, Thanh Kiều dùng cơm với Tú nhé? Có anh Hai của Tú tụi mình ăn cơm nói chuyện cho vui.
Thanh Kiều gật đầu:
- Cũng được.
Quay lại Ánh, Minh Tú bảo:
- Chiều nay có cô Thanh Kiều dùng cơm nữa đó? Nè tao đưa tiền chợ, chút nữa đi chợ mua 1 ký thịt filet,1 bắp cải choux fleur, nửa ký đậu petit pois, 1 con gà về làm gỏi, với lại bún tàu, mộc nhỉ, nấm, để nấu canh, nhớ hông?
- Thưa bà...
- Mua một ký củ cái trắng và một trái đu đủ về rửa sạch sẽ, gọt ra phơi để mai mốt tao làm dưa. À quên, nhớ mua cà rốt và củ hành nữa nghe?
- Dạ.
Chồng có vỗ vai, bảo:
- Thôi, đi kẻo trưa, 10 giờ hơn rồi.
Minh Tú còn bảo thêm Ánh:
- Tao đi vắng, mầy ở nhà không làm hết các công việc tao dặn, mà ngồi ở bếp mơ mộng, thì chiều tao về, mầy biết tao. Chút trưa ông Hai đi chơi về, mầy phải dọn cơm đàng hoàng, lễ phép nghe hông? Mầy mà nhí nha nhí nhảnh, tao đánh bề mặt! Coi chừng tao đa!
Hình như cô Minh Tú còn muốn nói nữa với Ánh nhưng chồng cô và Thanh Kiều nắm kéo cô. Hai đứa nhỏ đã hí hởn ra chiếc xe Huê Kỳ từ trước, ngồi trong xe gọi ầm ĩ:
- Đi má! Đi cho rồi, má! Ra xe, ông Năm ngồi sau với 2 con, Minh Tú ngồi trước, cạnh Thanh Kiều. Con gái của ông Bộ Trưởng có vẻ hãnh diện, mở contact, kéo démarreur, rồi đưa cánh tay mềm mại ra làm dấu hiệu cho xe từ lăn bánh ra đường...
- 2 -
Ánh đi chợ về làm cơm, xong lui cui làm các việc bà chủ đã dặn.
Ánh vừa làm vừa khóc.
Ánh buồn vì thân phận cô gái nghèo phải đi ở mướn, bị chủ nhà đay nghiến và hạch sách đủ điều. Ánh càng buồn vì chuyện ông giáo muốn dan díu với nàng, sanh ra nhiều chuyện nghi ngờ lôi thôi trong nhà, mà chính nàng không muốn. Bây giờ Ánh biết chắc rằng ông giáo không phải là người xảo trá điếm đàng cố ý lợi dụng hoàn cảnh, nghèo khổ cô đơn của Ánh. Những lời lẽ ông nói với Ánh, nhiều lần đã để cho Ánh tin tưởng nơi ông, Ánh nhận thấy ông có ý nghĩ đứng đắn, cao thượng và quả quyết muốn cưới Ánh làm vợ, chứ không phải chọc ghẹo vẩn vơ như nhiều người đàn ông háo sắc. Ông không có thành kiến phân chia giai cấp, ông thật lòng yêu Ánh và tha thiết với Ánh lắm. Đã nhiều lần, ông tỏ ra thái độ thành thật, rất lịch sự, khiêm tốn, không bao giờ có ý khinh khi Ánh, hoặc đùa bỡn cợt nhả, hời hợt bề ngoài. Ánh đã nghe được những mẫu chuyện cãi lẫy giữa cô em gái của ông và ông, và do đó Ánh càng thấy rõ mối tình đậm đà của ông Ngọc Minh đối với Ánh. Nhưng Ánh vẫn thấy mối tình mai mỉa làm sao! Chua chát làm sao! Vô lý làm sao! Ánh không ngờ ông giáo có thể yêu Ánh đến như thế và Ánh không thể nào tin tưởng rằng cuộc tình duyên chênh lệch ấy có thể thực hiện được. Dù thực hiện được cũng chưa chắc sẽ lâu bền!
Ánh không có tham vọng cao xa. Ánh không ham danh lợi, tiền tài. Con nhà lao động, quen sống bằng mồ hôi nước mắt từ thuở bé đến giờ, đã chịu bao nhiêu cam khổ, cực nhọc, Ánh có bao giờ mơ màng đến cảnh xa hoa tráng lệ đâu. Biết thân phận nghèo, và côi cút nhưng cố giữ lấy tiết hạnh trong trắng của người con gái Việt Nam, Ánh đã thoát được những cám dỗ bỉ ổi của người cha ghẻ tồi bại. Nay Ánh mong sao làm thuê ở mướn dành dụm chút ít tiền để đi học lớp đánh máy chữ, và sau nầy sẽ tìm việc làm, một chức vụ thư ký tầm thường. Tất cả ước vọng của Ánh chỉ có thế thôi.
Lấy chồng? Ánh chỉ mong được người chồng nghèo và tử tế như Hoàng, hiền lành như Hoàng, và thành thật yêu Ánh, Ánh nhớ Hoàng, muốn gặp lại Hoàng, muốn đáp lại mối tình thầm kín từ lâu, e dè nhưng tha thiết của chàng trai thông minh tuấn tú với Ánh cùng chung một cảnh ngộ. Nhưng Ánh không biết Hoàng ở đâu? Và hiện đang làm gì? Ánh nán chờ người bạn tâm phúc ấy, tin tưởng rằng ngày tái ngộ sẽ không xa. Hoàn cảnh xui khiến nàng, gặp ông giáo sư Ngọc Minh, nhưng than ôi, cả một mối tình cao thượng tốt đẹp của người đàn ông ấy đã thố lộ với nàngtrong một trường hợp éo le, biết bao nhiêu ngang trái!
Nàng không dám nhận. Nàng không muốn nhận. Nhưng dù sao nàng không thể không thấy lòng nàng rung động trước cử chỉ chân thật, đắm say của một bậc trí thức thượng lưu, giàu sang, danh giá, đã vì yêu nàng mà gây ra trong gia đình có em gái một không khí bất hòa, tẻ lạnh. Cũng vì tình yêu chênh lệcn ấy, mà nàng phải chịu bao nhiêu dày vò đay nghiến của cô chủ nhà mỗi ngày càng ghét nàng. Nàng thấy ông Ngọc Minh dạo nầy hay buồn bã, ít nói, ít cười, thường lén lút kiếm cơ hội để tỏ riêng cùng nàng tình yêu xót xa, thầm vụng của ông. Ánh thành thật cảm động và thương mến ông Ngọc Minh nhiều lắm.
Nhưng Ánh tự cho rằng chẳng qua số phận của nàng phải cam chịu hẩm hiu đau đớn. Ánh không thể nhận lãnh tình yêu quá tốt đẹp của ông Ngọc Minh. Địa vị và hoàn cảnh của Ánh không cho phép Ánh được hưởng hạnh phúc tuyệt vời mà ông Ngọc Minh đã muốn tặng Ánh. Ánh phải cương quyết từ chối ngay để khỏi phải đi sâu vào một con đường tình duyên muôn phần trắc trở. Tốt hơn là Ánh nên ra khỏi gia đình nầy. Ánh chờ ông giáo về dùng cơm trưa để thưa rõ câu chuyện với ông. Hôm nay gia đình cô Năm đi Vũng Tàu là một cơ hội tốt để Ánh được thố lộ hết tâm sự của mình để ông Ngọc Minh thông cảm. Nếu ông khẩn khoản thiết tha với Ánh nữa, Ánh sẽ thú thật với ông ý nghĩ của Ánh và cho ông biết quyết định của Ánh đợi đến cuối tháng sẽ xin thôi việc.
Ánh vừa giặt đồ, vừa suy nghĩ, buồn tủi cho thân phận mình. Hai dòng lệ cứ chảy ràn rụa trên đôi gò má hồng mơn mởn. Quá đau khổ, Ánh bỏ chạy vào buồng, nằm gục đầu xuống gối khóc nức nở…
Mãi đến 1 giờ, ông Ngọc Minh mới về. Nghe tiếng gõ cửa, Ánh vội vàng lau nước mắt, lấy khăn ướt lau mặt, đợi ông gọi cửa ba lần Ánh mới ra mở. Ánh tưởng ông Giáo không trông thấy những vết lệ trên mắt nàng. Nhưng vừa buớc vào, ngó Ánh, ông hỏi ngay với giọng hiền lành và xúc cảm của ông:
- Sao Ánh khóc vậy, Ánh?
Mắc cỡ, Ánh không trả lời, đi thẳng xuống bếp, sửa soạn dọn cơm, Nhưng ông Ngọc Minh đi theo sau. Đến bếp ông bảo:
- Tôi ăn cơm ngoài tiệm rồi, Ánh ạ. Tôi chỉ về nhà lấy một quyển sách rồi tôi đến nhà một người bạn ở Thủ Thiêm, sáng sớm mai tôi mới về. Chiều nay tôi cũng không ăn cơm nhà. Cô Năm và gia đình đã đi Vũng Tàu rồi hả Ánh?
- Dạ,
Ông Ngọc Minh do dự một phút rồi tiếp:
- Ánh khóc vì Ánh buồn phiền lắm phải không? Đầu tháng này tôi đi ở riêng nhà khác, Ánh à. Tôi thấy tôi ở trong nhà nầy chỉ thêm đau khổ cho Ánh thôi, Tôi cũng không vui gì. Nếu từ trước đến giờ tôi đã làm phiền lòng Ánh, thì tôi mong Ánh quên hết đi, đừng nghĩ tới nữa. Ánh nên coi như không có chnyện gì xẩy ra.
Ánh rưng rưng nước mắt, không nói lại được một lời. Ông Ngọc Minh bảo:
- Tôi xin lỗi Ánh nhé.
Ông đi lên lầu. Ánh đứng một mình dưới bếp, lấy khăn ướt lau mặt một lần nữa, cố nén lòng và giữ điềm tĩnh không để ông giáo thấy sự xúc động của nàng,
Ông Ngọc Minh trở xuống, tay cầm một quyển sách. Nét mặt buồn, ông đứng nơi phòng khách gọi Ánh:
- Tôi đi đây! Ánh ra đóng cửa giùm.
Ông đi thẳng ra cửa. Ánh chạy theo gọi:
- Thưa ông...
Ông giáo quay lại, thì Ánh đã đứng trước mặt ông. Ánh lau nước mắt, bẽn lẽn cúi mặt xuống, ông Ngọc Minh bảo:
- Ánh nói đi. Tôi biết tôi đã làm cho Ánh buồn nhiều lắm, và tôi rất hối hận. Tôi xin lỗi Ánh.
- Thưa ông cuối tháng này, tôi xin thôi việc... Chắc ông cũng hiểu tôi không thể ở đây được nữa.
- Ánh sẽ ở đâu? Đi đâu? Làm gì?
-... Dạ, tôi cũng vẫn đi ở mướn... cho một chủ khác nhưng chưa biết ở đâu.
Ông Ngọc Minh muốn nói chuyện nhiều, nhưng ông bối rối trước quyết định bất ngờ của Ánh. Ông không biết nói sao? Suy nghĩ một lát, ông bảo:
- Tôi mong rằng chúng ta sẽ còn gặp nhau lại, và Ánh sẽ hiểu tôi nhiều hơn. Tôi luôn luôn yêu Ánh và sẽ không bao giờ không yêu Ánh... Chào Ánh nhé!
Ông bước ra xe lái đi.
Ánh tần ngần ngó theo, một lúc lâu mới đóng cửa trở vào bếp. Thái độ của ông giáo sư hôm nay khiến Ánh thật hoang mang. Tại sao ông giáo quyết định dọn ở chỗ khác? Biệt thự này là của ông, sao ông không ở, lại đi thuê nhà riêng? Ánh đoán chừng có lẽ tại vì mấy lúc sau nầy ông thường bị cô em gái công kích về thành kiến vô giai cấp của ông, và hai anh em không còn hòa thuận với nhau như trước nữa. Minh Tú đã nghi ngờ ông Ngọc Minh đem lòng yêu Ánh cho nên Minh Tú thường cãi lẫy với ông, giận dỗi ông, và đồng thời nàng dày vò đay nghiến Ánh, chửi bới khinh miệt Ánh hằng ngày, làm nhục Ánh trước mặt cô Thanh Kiều. Ánh cũng biết Minh Tú tìm cách gán con gái ông Bộ trưởng cho anh nàng nhưng ông Ngọc Minh không ưng thuận. Thái độ của ông Ngọc Minh sáng hôm nay từ chối đi Vũng Tàu với Thanh Kiều cũng đã chứng tỏ rằng ông không có mảy may cảm tình với cô nầy. Dù sao, đối với ông Ngọc Minh, Ánh rất cảm phục nhưng không thể yêu được. Ánh không thể nào xen vào gia đình của ông, không những vì địa vị hèn hạ của Ánh mà còn vì lý do Ánh không muốn gây chia rẽ giữa hai anh em cô Minh Tú.
Ánh nhất định đến cuối tháng lấy tiền lương 600 đồng rồi thôi việc luôn. Ánh sẽ nói trước cho cô Minh Tú biết, và sẽ không vì một lẽ gì Ánh ở lại trong nhà nầy lâu nữa.
Ánh đi làm các công việc theo lời cô Năm đã dặn. Ánh thấy cô chủ nhà thật là tàn nhẫn và độc ác. Trước khi đi nghỉ mát ngày chủ nhật cô đã giao Ánh một lô công việc không thể nào làm hết được trong một ngày. Cũng có lẽ vì cô Năm sợ Ánh ở nhà giỡn cợt với anh cô nên cô đã sai Ánh làm những công việc mà ít nhất cũng hai ba người mới làm hết được trong một buổi chúa nhật.
Cô Năm không muốn để cho Ánh một phút thì giờ nhàn rỗi, là có thâm ý ngăn cản con đầy tớ không cho nó trò chuyện vẩn vơ với anh cô. Ánh không ngần ngại, rán làm tận tâm tận lực được việc nào hay việc ấy. Đến 4 giờ, Ánh lại phải đi làm cơm cho kịp 6 giờ cô Minh Tú về.
Lau nhà lau cửa xong, Ánh mệt lả người, lên giường nằm nghỉ tạm một lúc. Nàng gác tay lên trán, suy nghĩ.
Ánh không dè cuộc đời một nữ sinh có ‘‘tương lai đầy hứa hẹn’’ như các thầy giáo đã ghi trong học bạ, lại gặp nhiều cảnh éo le, đau khổ. Chỉ vì tội nghèo! Phải, chỉ vì Ánh nghèo thôi! Thí dụ Ánh là con nhà khá giả, như một số đông bạn gái khác cùng lứa và cùng lớp với Ánh, thì Ánh đâu phải đi làm con ở bị trái ngược chua xót như ngày nay! Chỉ vì Ánh là đầy tớ, cho nên một thiếu phụ mà chưa chắc học lực đã giỏi gì hơn Ánh, sắc đẹp đã chẳng hơn gì nhờ hoàn cảnh được làm địa vị bà chủ, có quyền khinh khi ngược đãi Ánh! Chỉ vì Ánh là đầy tớ cho nên gặp một ông giáo sư danh giá, giàu sang, tỏ tình yêu Ánh mà Ánh không dám đáp lại mối tình tha thiết và chân thành của ông. Ánh nghĩ buồn duyên phận bẽ bàng và số kiếp hẩm hiu tủi nhục của mình. Ánh nhớ lại một hôm, tay xách giỏ, chưn mang đôi guốc cùn Ánh đi chợ với Minh Tú giữa đường ngẫu nhiên gặp Túy Phượng... Túy Phượng là bạn gái thân nhứt của Ánh hồi còn học Gia Long, học kém thua Ánh nhiều, nhưng ngày nay hãnh diện được vào Đại Học Văn Khoa. Túy Phượng mặc đồ đầm, cỡi xe Vélosolex bóng loáng. Chợt trông thấy Phượng, Ánh vội vàng tìm cách lánh mặt, nhưng không kịp. Túy Phượng đã trông thấy Ánh, trân trân nhìn Ánh, Ánh phải gượng cười xã giao gọi:
- Chị Phượng.
Túy Phượng ngó ngơ chỗ khác không thèm chào lại.
Ánh mắc cỡ quá. Một hôm khác, sáng chúa nhựt, Ánh đi chợ về một mình, tay ôm một cái chổi tàu cau để đem về quét dọn sân bếp. Tay khác xách một giỏ vật thực, còn đèo thêm một hủ mắm. Hôm ấy Ánh mặc đồ bà ba bằng vải đen, đi chưn không. Bỗng dưng một chiếc xe hơi Huê kỳ ghé đậu bên lề đường, trước mặt Ánh. Ánh ngó vào xe ngạc nhiên trông thấy một thiếu nữ đang mở cửa xe bước ra, giống hệt ‘‘con Minh Thẹo’’. Mà ‘‘con Minh Thẹo’’ thật. Nó trông thấy Ánh vừa bước tới thì Ánh cúi mặt xuống đi luôn nhưng Minh Thẹo cất tiếng gọi:
- Ánh!
Ánh thẹn đỏ mặt, đành ngó lên chào:
- Chị Minh phải không?
Minh Thẹo chỉ gật đầu, rồi hỏi với giọng nghiêm trang không còn thân mật vồn vã như hồi còn học trò:
- Ánh bây giờ làm gì?
- Tôi không làm gì hết chị Minh à.
Vừa lúc đó, người đàn ông cũng đã từ trong xe mở cửa bước ra đến nắm tay Minh Thẹo, dắt vào tiệm kem ngay đấy. Minh bước theo chàng, không chào Ánh, Ánh còn nghe rõ tiếng Minh nói với chàng:
- Con Ánh hồi trước học ở Chợ Quán với em đó.
Người đàn ông nói:
- Con này, anh thấy nó hình như là...con ở...ừ phải rồi, con ở của chị Minh Tú đó mà!
- Vậy hả? Thế sao em đến Minh Tú hai lần không thấy?
- Nó làm ở dưới bếp, em làm sao thấy được.
Ánh xấu hổ đi thật mau. Ánh còn lạ gi Minh Thẹo! Tên thật của cô ả là Nguyễn thị Minh. Bạn cùng lớp đặt cho nó cái biệt danh là Minh Thẹo, vì nó có cái thẹo ở mép tai, Minh là con nhà thầu khoán có biệt thự lớn ở xóm Nancy, học dở nhất lớp nhưng diện thì không ai bằng. Ngay hồi còn đi học, cô ả đã thích bôi móng tay và móng chân đỏ chói. Thi tiểu học một lượt với Ánh, Ánh đậu nhì, còn Minh trượt vỏ chuối. Lúc bấy giờ Minh 16 tuổi, mà làm giấy khai sanh chỉ có 14. Năm sau, Ánh đã nghe tin Minh lấy chồng làm chủ nhà máy cưa ở Biên Hòa.
Ánh còn nhớ lại thời kỳ đi học ở Chợ Quán mới năm sáu năm nay chớ lâu lắc gì! Minh Thẹo vừa dốt toán, vừa dốt cả chính tả. Ngồi cùng bàn với Ánh và cạnh Ánh nó cứ theo hỏi lải nhải:
- Chị Ánh ơi, chị Ánh, chữ ‘‘dĩ vãng’’ viết d-đ phải hôn Chị Ánh ơi, 1250 đồng bạc viết mấy con số không?... Chị Ánh ơi chị vẽ giùm em cái bán đồ xứ Việt nam Cộng hòa đi chị, em vẽ hoài mà nó cứ trật lất đây nè, hong giống chút nào hết!
Ấy thế mà bây giờ nó có chồng làm chủ nhà máy cưa, nó có xe hơi Huê kỳ coi bộ tịch như bà Hoàng, đố ai biết là nó dốt đặc cán mai! Còn Ánh... Than ôi! Ánh học giỏi thi đỗ cao thì nay lại đi ở, đầy tớ rửa chén rửa bát cho người ta! Đôi guốc cùn đã gần đứt quai hai hôm nay, Ánh chưa có tiền mua đôi guốc mới!
Ánh thở than cho những cảnh đời trái ngược, mỉa mai chua chát làm sao! Tủi nhục làm sao! Ánh dè đâu ở xã hội ngày nay số kiếp đứa gái nghèo có thể tàn nhẫn đến thế được?
6 giờ, vợ chồng Minh Tú, cô Thanh Kiều và hai đứa nhỏ đi Cấp đã về. Ánh đã sửa soạn dọn cơm nước đàng hoàng tươm tất cả. Nhưng Ánh cũng bị Mính Tú tìm đủ cách để rầy la mắng nhiếc, trước mặt Thanh Kiều.
Cô gái ông Bộ Trưởng thì cứ ngồi làm thinh, trân trân nhìn con ở bận đồ bà ba đen, đi chưn không, cúi đầu không đáp lại một lời, mặc dầu Minh Tú mắng xối xả vào mặt nó. Thanh Kiều cũng nhận thấy Ánh hiền lành và tuyệt đẹp. Khuôn mặt trái xoan, hình vóc đều dặn, uyển chuyển, tay Ánh phục sức rất đơn sơ nghèo nàn, nhưng Thanh Kiều phải nhận thấy Ánh đẹp hơn cô nhiều và gương mặt của Ánh hiền từ thùy mị rất hấp dẫn. Nhưng cô vẫn khinh Ánh là con gái nghèo đi ở mướn! Cô nhìn Ánh với đôi mắt tự cao tự đại. Còn Minh Tú thì rõ ràng là ghen ghét ‘‘con nhỏ ở’’ ghét cay ghét độc, như một kẻ thù. Sắc đẹp của Minh Tú đối với Ánh không khác nào ngọn đèn sánh với ngôi sao,
Minh Tú ngạc nhiên không thấy Ngọc Minh ở nhà. Nàng rất bực mình vì ‘‘Anh Hai’’ không chìu theo những dự tính tham lam của nàng. Không rủ được anh đi vũng Tàu với Thanh Kiều, thì nàng định tối nay nơi bàn cơm nàng sẽ sắp đặt chỗ ngồi gần con gái ông Bộ Trưởng. Nàng sẽ tìm cách để cho Ngọc Minh và Thanh Kiều chuyện trò thân mật và hy vọng Thanh Kiều có đủ sức cám dỗ được người anh ‘‘triết học’’ và mơ mộng của nàng.
Cơm đã dọn lên bàn, nhưng ông giáo sư Ngọc Minh vẫn chưa về. Minh Tú gọi con ở:
- Ánh!
- Dạ.
- Cả ngày nay, ông Hai ở nhà hay đi đâu?
- Dạ thưa bà, ông Hai đi từ lúc sáng, đến trưa ông về độ 15 phút rồi lại đi liền. Ông Hai có dặn con thưa với bà rằng tối nay ông không dùng cơm. Ông sang bên Thủ Thiêm.
Minh Tú tức giận, trợn mắt khảo Ánh:
- Ông Hai đi Thủ Thiêm làm gì?
- Dạ thưa bà, con không biết.
- Ông Hai ở nhà đến mấy giờ ông mới đi?
- Thưa bà, ông Hai về lấy một quyển sách rồi đi ngay, ông Hai cũng không dùng cơm trưa.
- Sau mầy không dọn cơm mời ông Hai?
- Thưa bà con có dọn cơm trên bàn, nhưng ông Hai đi liền. Ông Hai có nói ông Hai đã ăn cơm tiệm rồi.
Minh Tú lớn tiếng mắng Ánh:
- Mầy nói láo chớ sao ông Hai không ăn cơm nhà, lại đi ăn tiệm?
Ánh làm thinh. Minh Tú quát nó:
- Thôi đi xuống bếp! Chút nữa, mầy coi tao!
Ánh lặng lẽ đi xuống bếp.
Bữa cơm tối ấy không vui chút nào. Mặc dầu ông Năm, chồng cô Minh Tú, tìm cách pha trò và nhắc lại những chuyện vui vui trong cuộc đi nghỉ mát ở Vũng Tàu, Minh Tú vẫn không cười, và không chuyện trò giỡn cợt như thường lệ. Con gái ông Bộ trưởng cũng không còn nhí nha nhí nhảnh như mọi khi. Thấy vợ và Thanh Kiều ngậm câm như hến, ông Năm quay lại cười giỡn với hai đứa con.
Cơm xong, Thanh Kiều vặn radio nghe âm nhạc có ý chờ ông Ngọc Minh về, Nhưng 9 giờ, thấy không khi chán nản, cô đứng dậy cầm xắc:
- Thôi, moa về!
Minh Tú còn mời gượng:
- Ô chơi chút nữa đã, toa.
- Thôi
Thanh Kiều bắt tay Minh Tú, bắt tay ông Năm, cúi hôn hai đứa bé và nói với chúng:
- Tata về nhé.
Con gái ông Bộ trưởng đi thật lẹ ra xe, bộ mặt buồn hiu.
Minh Tú bảo chồng đi ngủ và dắt hai con lên lầu. Sau một ngày đi chơi mệt mỏi, ông Năm thay đồ xong, đặt lưng lên giường một lúc là ngủ ngay.
Đồng hồ đã điểm 10 giờ. Ông Năm ngáy khò khò. Tiếng gáy cao lên rồi hạ xuống, hai đứa nhỏ cũng nằm ngủ say sưa trong hai chiếc giường con kê nơi góc tường.
Duy có Minh Tú hãy còn thức. Nàng lắng tai nghe.
Trong ý nàng nghi rằng có lẽ anh nàng chờ đến khuya cho gia đình ngủ cả, ông sẽ về gõ cửa nhè nhẹ, hoặc là ông đã dặn Ánh khép cửa để lúc về ông khẽ đẩy cửa bước vào, không làm tiếng động. Rồi ông sẽ đi nhè nhẹ xuống buồng con ở, để tình tự với nó.
Minh Tú đoán chừng như thế, nên nàng lắng tai nghe để rình. Nếu chuyện sẽ xẩy ra đúng như nàng nghi ngờ, thì nàng sẽ... thế nầy.. nàng sẽ... thế kia... Nàng đã sắp đặt cả một chương trình trinh thám tỉ mỉ, kín đáo, không để cho ai biết. Rồi sáng ngày, chờ anh và chồng nàng đi làm việc và hai đứa nhỏ đến trường Mẫu giáo,ở nhà một mình nàng sẽ đánh cho con ở một trận nên thân! Nàng tự nhủ thầm: ‘‘Có thế nó mới chừa!... Giỏi nó mét với anh Hai thử coi anh Hai làm gì mình?. Hử! Dám mét!... Nhưng đây rồi con nhỏ có chửa mới khổ cho mình chứ! Thật là tức mình cho anh Hai quá! Sao ảnh mê con nhỏ dữ vậy kìa? Con Ánh mà có chửa thì… thì... thì làm sao nhỉ? Ối, kệ nó, hơi đâu mình lo cho mệt xác. Nhưng để con nhỏ nầy mang bầu ở trong gia đình mình, thì nhứt thiết là không được! Mình sẽ đập cho nó một trận rồi tống cổ ra khỏi nhà. Vậy là êm! Còn anh Hai, thì mình phải làm sao gán lẹ Thanh Kiều cho ảnh, chớ cứ để ảnh bông lông mãi, thế nào cũng có ngày lộn xộn!’’.
Minh Tú vừa nghĩ đến đó thì nàng nghe có tiếng động. Ủa lạ, sao từ nãy giờ nàng không nghe tiếng mở cửa ngoài phòng khách?... Nàng lắng tai nghe thật kỹ, rõ ràng là có tiếng chưn bước dưới nhà bếp... Nàng đoán: ‘‘Chắc anh Hai đã lẻn về từ nãy giờ. Anh ấy đang vô buồng con Ánh... Cái anh nầy thiệt quá chừng!...’’
Minh Tú khẽ đứng dậy, đi chưn không, nhón gót bước nhè nhẹ. Nhưng nàng chưa dám bước xuống cầu thang. Sợ có tiếng động sẽ hỏng việc rình mò của nàng. Nàng nghĩ thầm: ‘‘Chắc là anh Hai đang ở trong buồng con Ánh, nhưng chưa làm gì... Hai người còn đang thầm thì tình tứ... mình xuống bếp nghe thử...’’
Nàng rón rén bước xuống mấy bực cầu thang... Bỗng nàng nghe tiếng một vật gì ở dưới bếp như cái ly nước rớt xuống đất kêu ‘‘choảng!’’ Nàng lại tự nhủ ‘‘ Thôi đích thị rồi, chắc là anh Hai đã mò vô buồng Ánh, làm gì đây rồi khát nước. Nó rót nước vào ly cho ảnh uống, vì phòng tối nên hai người mò mẫm làm rớt cái ly xuống đất... chắc chắn như thế chứ không sai..’’
Nhưng Minh Tú không thực hành đúng kế hoạch trinh thám mà nàng đã sắp đặt. Lúc nằm trên lầu, thì nàng tính khác. Nàng định lén rình bí mật, đừng cho anh nàng và con ở biết... Nhưng bây giờ, nghe chiếc ly rớt vỡ, nghi chắc là nàng sẽ bắt được tại trận anh nàng ở trong buồng Ánh, nàng mất hết bình tĩnh và khôn ngoan, máu tức nổi dậy sùng sục, nàng liền sờ trên vách tường tìm nút điện, bật đèn lên sáng choang cả nhà.
Tuy vậy nàng cũng sợ rằng nếu đi thẳng xuống buồng con ở thì thế nào cũng chạm mặt anh cô, nên đứng nơi cửa nhà giữa gọi xuống bếp:
- Ánh!
Không có tiếng trả lời, Minh Tú run hẳn cả người gọi to:
- Ánh Ánh!...
Vẫn không có tiếng đáp. Nàng la lên:
- Ánh! mầy làm gì ở dưới?
Bây giờ mới nghe Ánh khẽ đáp:
- Dạ
- Mầy làm cái gì ở dưới?
- Dạ.
Minh Tú tức mình hét lên:
- Tao hỏi mày làm gì ở trong buồng mầy?
- Thưa bà, con ngủ.
Minh Tú cho rằng con ở sợ quýnh nên nói dối.
Nàng lại hỏi dằn từng tiếng:
- Hứ! mầy ngủ à? Mầy ngủ sao mầy làm rớt cái ly nước?
- Thưa bà, không có.
- Thật không có không? Tao biết mà mầy còn dám chối hả? Tao đang ngủ trên lầu nghe tiếng cái ly rớt ‘‘choảng’’ trong buồng mầy, tao giựt mình xuống coi, mà mầy nói không có hả?
- Thưa bà, con ngủ con không hay gì cả. Con không có làm rớt ly.
Minh Tú càng tức gìận:
- Mầy còn dám che mắt tao hả?
Chưn không, nàng đi thùi thụi xuống bếp. Ánh ở trong buồng cũng vừa mở cửa bước ra. Một con mèo vá đứng trên nắp lu nước ở ngoài sân bếp, trố hai con mắt sáng ngời nhìn Ánh kêu ‘‘ngoao... ngoao»... Ba bốn mảnh chén vỡ tan nát trên nền gạch. Ánh trông thấy hiểu ngay.
- Thưa bà, chắc là con mèo đuổi chuột, nhảy làm rớt cái chén...
Con mèo uống cong mình, nhẹ nhàng phóng xuống sân gạch, bước đủng đỉnh đến bên chưn Ánh cọ sát vào ống quần của Ánh và khẽ kêu: ‘‘ngoao...’’
Minh Tú mắc cỡ. Nhưng nàng cũng mắng Ánh:
- Mầy ngủ gì mà như chết vậy? Cái chén rớt, mầy không nghe?
Nàng giả vờ đi xuống bếp, mở toang cửa buồng của Ánh để ngó vào. Không thấy bóng dáng của giáo sư Ngọc Minh nàng quay lưng ra, hỏi Ánh:
- Cái chén gì rớt đó?
- Thưa bà, lúc nãy con nhức đầu và nóng lạnh, con giã gừng trong cái chén mẻ để con thoa. Xong rồi, con để chén trên bàn nầy, định sáng con rửa. Chắc là con mèo nhảy làm rớt đó.
Minh Tú còn la Ánh:
- Mầy cứ đập bể chén dĩa của tao đi! Rồi không còn một cái để ăn cơm nữa đó.
- Dạ con dùng cái chén mẻ đã bỏ, chứ không phải chén lành.
Minh Tú làm thinh, một lần nữa ngó kỹ trong buồng Ánh trong bếp, trong sân, không thấy gì lạ. Nàng quay ra, ngó khắp nhà giữa, phòng khách, cũng không co gì đáng nghi. Nàng ra xem cửa, thì cửa vẫn khóa chặt. Nàng nói lẩm bẩm một mình:
- Lạ nhỉ! Anh Hai đi chơi đâu mà đêm nay không về nhà ngủ?
8 giờ sáng hôm sau, ông Ngọc Minh lái xe traction về thay áo quần để đi làm.
Minh Tú chưa dậy. Tại đêm qua nàng thức khuya để rình gần ba giờ mới nhắm mắt, nên sáng nay 8 giờ nàng còn ngủ.
Cuối tháng, Ánh lãnh tiền lương rồi xin nghỉ việc, Ánh đã bảo trước cho Minh Tú biết, nhưng Minh Tú không ngờ. Nàng tưởng Ánh nói lẫy, không dè Ánh thôi thật.
Minh Tú bảo Ánh ở lại, vì dù sao Minh Tú cũng nhận thấy Ánh làm việc giỏi dắn, siêng năng, và tính nết thật hiền lành. Tuy nàng giận và ghét Ánh về vụ anh nàng cứ hay binh Ánh và nàng nghi là ông có tình tự lén lút với Ánh, nhưng nàng vẫn sợ rằng sẽ khó tìm được một đứa đầy tớ hiền lành và tận tụy như con nhỏ nầy. Nhờ nó trước kia là nữ sinh, nên tính nết và tư cách có hơn những đứa ở thất học. Nàng cố dụ dỗ Ánh ở lại, nàng sẳn sàng tăng lương nếu Ánh đòi hỏi, nhưng Ánh lễ phép từ chối.
Tám giờ tối cơm nước xong, ông Ngọc Minh đã đi chơi.
Chín giờ, Ánh dọn dẹp bếp núc đâu vào đấy, rồi ôm một gói quần áo cũ và các đồ dùng vặt vạnh của Ánh, tay xách chiếc nón lá, ra đi chưn không. Ánh buồn bã chào từ giã bà Năm, ông Năm, và hun trên má hai đứa nhỏ đang ngồi chơi ở phòng khách.
Bé Ái ngó Ánh, hỏi:
- Chị Ánh đi đâu đó, chị Ánh?
Ánh rưng rưng hai hàng châu lệ. Bây giờ Minh Tú mới thương tiếc Ánh, ông Năm cũng muốn giữ Ánh ở lại, nhưng Ánh nhất định ra đi.
- 3 -
Ánh ra đi thật, ông Ngọc Minh cũng không ngờ. Mặc dầu Ánh đã cho ông biết trước ý định ấy, ông vẫn tưởng Ánh chưa cần phải đi vội. Chính ông cũng đã cho Ánh biết ông sẽ dọn nhà đi ở riêng, chắc sẽ không phiền hà gì cho Ánh nữa. Vả lại, suốt tuần lễ vừa qua, trong gia đình được êm ấm, không nghe Minh Tú nói gì về việc Ánh xin thôi việc.
12 giờ khuya đi coi chớp bóng về,- Ông Ngọc Minh thích đi chơi một mình, không muốn rủ ai - ông bấm chuông gọi cửa, ngạc nhiên thấy một đứa ở khác ra mở. Cũng lại là một đứa ở gái! Con nhỏ nào đây mới lạ, có lẽ đã được Minh Tú dặn trước rồi, nên lễ phép cúi đầu chào lúc ông Giáo bước vào: ‘‘ Thưa ông!’’. Nó cũng chạc 19, 20 tuổi. Ông Giáo ngạc nhiên, nhưng không hỏi han gì cả, đi thẳng lên lầu. Sự thay đổi bất ngờ xẩy ra tối nay trong lúc ông đi coi xi nê, khiến ông buồn rầu, hoang mang. Té ra Ánh đã đi thật rồi ư? Sao Ánh không đợi sáng ngày mai có mặt ông ở nhà, để từ giã ông? Hay là lúc nãy Ánh có bị Minh Tú chửi mắng sao đó chăng? Ánh đi đâu? Ánh sẽ ở đâu? Ánh sẽ làm gì? Đời Ánh sẽ ra sao? Ông Ngọc Minh cứ tự hỏi lần vần mấy câu thắc mắc ấy, và tự trách mình sao mấy hôm nay không hỏi Ánh, lại thằm trách Ánh sao không nói gì cho ông biết trước rõ ràng.
Minh Tú cũng tuyệt nhiên không nói gì cho ông biết.
Sáng dậy, lúc ăn điểm tâm và uống cà phê có đông đủ cả nhà, Ngọc Minh hỏi cô em gái:
- Ánh xin thôi rồi hả, em?
- Dạ,
Minh Tú chỉ trả lời gọn lỏn có bấy nhiêu, Ngọc Minh cũng không hỏi gì hơn.
Chúa nhựt tuần ấy, ông dọn đi ở riêng. Trước đó mấy hôm, ông đã bảo với vợ chồng Minh Tú về ý định của ông và có cho biết ông đã sang một căn nhà mát mẻ, xinh xắn, có tiện nghi ở một khu phố yên tĩnh ngoài châu thành Sàigòn, có sân ở vườn khá rộng, có cả ga ra để xe. Ông bảo Minh Tú:
- Ánh để chiếc xe hơi của anh cho em và dượng Năm dùng.
- Còn anh Hai?
- Anh mua chiếc xe khác. Cũng một chiếc traction của một người quen bán lại. Tất cả đồ đạc trong nhà, anh để lại hết cho vợ chồng em. Anh chỉ đem đi vài ba món cần thiết thôi.
- Nhưng tại sao anh Hai cứ nhứt định dọn đi ở riêng? Nhà này là nhà của anh, sao anh không ở?
Vợ chồng em có điều gì khiến anh bất mãn chăng? Các cháu làm ồn ào hay phá phách chăng? Hay anh Hai giận em về chuyện chi?
- Không. Tại tính anh thích ở riêng biệt một mình, em cũng biết.
- Em biết tính anh. Nhưng anh cứ ở đây có được không? Để chúng em dọn đi vậy.
- Anh muốn ở một nơi mát mẻ yên tịnh hơn.
Mặc dù vợ chồng Minh Tú năn nỉ hết lời, Ngọc Minh cũng nhất định dọn đi, và sáng chủ nhật ấy vợ chồng Minh Tú và hai đứa con cùng đi với ông Ngọc Minh đến nhà mới của ông, ở tận bên Thị Nghè.
Tại đây, ông Giáo Sư Văn chương và Triết học tự sắp đặt một cuộc đời giản dị hợp theo sở thích của ông. Ngày hai buổi ông đi dạy học, và ăn cơm tiệm tại một nhà hàng lớn ở Đakao. Ông nuôi một đứa con trai chạc 14 tuổi con nhà nghèo, bà con xa gọi ông bằng anh. Thằng bé coi bộ rất hiền lành, sạch sẽ, lễ phép, do ông xuống tận quê nó ở Bến Tre đem về nuôi để giữ nhà cho ông. Mỗi tháng ông cho nó 800 đồng, tự nó nấu cơm lấy ăn một mình và tiêu xài gì tùy thích. Ông may sắm áo quần cho nó. Công việc của nó là giữ nhà, quét dọn, làm các việc lặt vặt, nhẹ nhàng, tưới nước cho mấy bồn hoa trước sân và trong vườn với một ống cao su. Thỉnh thoảng ông sai đi chỗ nầy chỗ nọ.
Ông nuôi chim bồ câu, một bầy gà năm sáu con, một cặp ngỗng và một con chó Nhật rất dễ thương.
Mỗi tuần lễ, ông để dành một buổi chiều thứ bảy tiếp các bạn hữu. Ngoài ra, ông thích sống yên tĩnh một mình, ông xem sách báo Việt nam và ngoại ngữ, và ông viết văn.
Nhưng ông không quên Ánh. Thật thế, ông đã yêu, yêu rất nhiều cô nữ sinh nghèo khổ kia vì hoàn cảnh gia đình mà phải đi ở mướn, làm thuê. Ông yêu rất nhiều cô nữ sinh thủy mị diễm kiều của ‘‘giai cấp’’ lao động, thông minh không kém một thiếu nữ nào khác, hiền dịu và đứng đắn hơn nhiều cô tiểu thư trưởng giả, quý phái của tầng lớp được gọi là thượng lưu. Ông yêu rất nhiều cô gái ‘‘hèn hạ’’ nhưng tính tình trong trắng thanh cao, đã không may sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó, đem tấm thân côi cút đi làm tôi tớ cho người, chịu số kiếp đày đọa, ôm duyên phận hẩm hiu, bị mọi người khinh rẽ.
Ông muốn gặp Ánh, ông muốn Ánh về chung sống với ông, để ông đem hết cả mối tình tha thiết an ủi tâm hồn đau khổ ấy. Hơn nữa, ông muốn giúp Ánh đủ phương tiện để phát triển và trở nên một bậc nữ lưu gương mẫu của Việt Nam.
Trong số trăm nghìn cô thiếu nữ mà ông đã quen biết, ông muốn lựa chọn một người nào vừa đẹp, vừa dịu hiền, vừa đã đau khổ nhiều, để làm bạn trăm năm với ông. Vì ông cho rằng chỉ có người nào đã đau khổ mới biết đánh giá được tình yêu và cuộc đời đúng theo giá trị của nó. Chỉ có người bị hất hủi khinh khi, mới có lòng thương sâu rộng đối với người và vạn vật. Chỉ có hạng người ấy mới hiểu đời với tấm lòng nhân đạo chân chính và lòng bác ái vô biên, với những đức tính quý báu nhất của tâm hồn cao thượng.
Ngọc Minh thuộc vào hạng đàn ông coi thường những lòe loẹt bên ngoài, có lẽ vì ông đã giao thiệp rộng rãi, thường tiếp xúc với đủ hạng người và đã nhận xét chân giá trị đáng khinh hay đáng trọng của mọi từng lớp, và mọi cả nhân.
Cho nên sánh với một thiếu nữ nghèo nàn như Ánh cùng một tiểu thư khuê các, như Thanh Kiều, con gái ông Bộ trưởng, ông nhận thấy đứng về cấp bậc gỉa tạo của thành kiến sai lầm thì có phân biệt người sang kẻ hèn, nhưng đứng về phương diện chân giá trị của cá nhân thì Ánh cao quý hơn Thanh Kiều nhiều lắm.
Bỏ lớp vỏ lòe loẹt sơn quét bên ngoài, chỉ nhìn vào bẩm chất tinh thần và tâm trạng của người thiếu nữ, thì Ánh đáng được chú ý hơn Thanh Kiều, và đáng yêu hơn.
Không phải ông giáo sư Ngọc Minh có thành kiến không tốt đối với các thiếu nữ quý phái đâu, vì chính ông cũng là người của giai cấp quý phái, ông là con một vị cựu Đốc Phủ Sứ có uy danh lừng lẫy ở Lục tỉnh, có nhiều vàng bạc ruộng đất, nhà lầu, xe hơi. Chính ông lại là bậc trí thức thượng lưu ở Sàigòn, đã sống trong giới trưởng giả giàu sang hơn là các giới cần lao hạ cấp.
Nhưng có lẽ vì ông đã có sẵn một tâm hồn thanh cao, lại được hấp thụ nhiều các tư tưởng hiền triết nhân đạo của Đông Tây kim cổ, đã mục kích bao nhiêu trò giả dối bất công của xã hội, nên chi ông Giáo sư văn chương và triết học của chúng ta đã tìm thấy được lý tưởng tốt đẹp của nhân sinh mà ông muốn áp dụng trong đời sống của ông.
Trong khi ông đang tìm một thiếu nữ hợp với lý tưởng hạnh phúc và quan niệm ái tình của ông, ông đã gặp cô Thanh Kiều, con gái ông Bộ trưởng, loè loẹt xa hoa nhưng tính nết không đẹp, tâm hồn rỗng không rồi ông lại gặp Ánh, một nữ sinh nghèo đi làm thuê ở mướn, con gái một gia đình lao động, tự nhiên ông so sánh hai người...
Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi thấy giáo sư Trần ngọc Minh thương xót cô Ánh rồi dần dần yêu cô, không quản ngại đến địa vị hèn hạ thấp kém của người thiếu nữ ấy.
Dọn về căn nhà riêng biệt nầy, và tự do thong thả sống theo lý tưởng của ông, ông giáo sư Ngọc Minh muốn có Ánh ở bên cạnh. Ông muốn dắt dẫn Ánh lên một địa vị xã hội xứng đáng hơn đối với tư cách và chân giá trị của cô. Ông muốn huấn luyện Ánh đến một trình độ văn hóa thích hợp hơn với phẩm giá tinh thần của cô. Ông muốn thử một cuộc luân lý và xã hội, thực hiện lý tưởng nhân đạo công bằng của ông, để nêu một gương sáng cho thế hệ thanh niên hiện đại, và đánh đổ thành kiến giai cấp, nguồn gốc của bao nhiêu bất công và bao nhiêu tranh đấu nguy hại hơn nữa.
Ông thành thật yêu Ánh, đối với ông là người đàn bà lý tưởng, ông cương quyết khinh thường mọi trở lực của xã hội, mọi phản đối của gia đình, nhất là của em gái ông.
Nhưng ông rất tiếc Ánh không hiểu như thế. Ánh vẫn có mặc cảm về giai cấp thấp hèn.
Ánh vẫn tự cho thân phận thấp kém của mình không xứng đáng với tình yêu quá tốt đẹp mà không bao giờ Ánh dám mơ tưởng đến. Sự Ánh âm thầm ra đi, càng khiến ông Ngọc Minh mến phục cô nữ sinh nghèo khổ, biết tự trọng và bùi ngùi thương nhớ cô.
Ông muốn gặp Ánh. Nhưng làm sao? ông không biết chỗ ở của Ánh. Hiện nay Ánh là một cô gái lạc loài, một, chiếc bóng đìu hiu đơn độc, không biết vất vưởng nơi nào... Một cánh bèo mong manh trôi giạt đi đâu trên biển đời giông tố.
Ông Ngọc Minh không ngờ tình yêu lý tưởng của ông đối với cô nữ sinh nghèo kia đã gây ra bao nhiêu sóng gió trong tâm hồn ông. Ông không ngờ nó có mãnh lực xáo động say mê đến thế. Ánh càng dè dặt xa cách, ông càng muốn gần Ánh. Ánh càng tự hạ xuống thấp hèn, ông càng muốn nâng đỡ Ánh lên cao. Ông nhớ Ánh, thương Ánh, buồn bã âu sầu vì không còn cách nào tìm Ánh lại được nữa. Ông đã tỏ với Ánh lòng mong ước sẽ còn gặp nhau, nhưng hình như cố tình Ánh muốn trốn tránh sự gặp gỡ ấy. Dù sao, ông đã nhất quyết, ông còn hy vọng...
Một hôm, ông Ngọc Minh ngồi trong văn phòng ông Hiệu trưởng một tư thục lớn ở Sàigòn, quen thân với ông, một nữ sinh ôm cặp bước vào. Ông Hiệu trưởng đang nói chuyện vui vẻ với ông Ngọc Minh, vừa trông thấy cô học trò, liền chau mày gắt gỏng:
- Cô muốn gì nữa cô Toàn?
Nữ sinh rưng rưng nước mắt, đáp:
- Thưa thầy em còn bốn tháng nữa đi thi, em xin thầy rộng lượng cho em được tiếp tục học cho đến kỳ thi. May ra em đỗ, em sẽ rán kiếm việc làm, em xin cam đoan sẽ trả tiền học phí, em mắc nợ nhà trường... Nay, thầy đuổi em, tội nghiệp em...
Ông Hiệu trưởng trừng mắt ngó cô:
- Cô thiếu nhà trường 3 tháng tiền học rồi, chưa trả được xu nào. Nay cô muốn học cho tới kỳ thi nữa sao? Hừ!... Đâu có được! Cô muốn tiếp tục học cho đến kỳ thi cô về nói với ba má cô phải đóng đủ 3 tháng tiền cũ cho nhà trường đã. Tôi đã tử tế cho cô thiếu ba tháng, nay tôi không thể nào cho cô thiếu được nữa. Nếu cô không có tiền thanh toán dứt khoát ba tháng nợ cũ, buộc lòng tôi phải đuỗi cô ra khỏi trường sáng nay, cho đến khi nào cô trả đủ sẽ được trở lại học. Chỉ có thế thôi.
- Thưa thầy, em xin thầy cứ cho em học, rồi cuối tháng nầy má em hốt được hụi, má em sẽ đến trả thầy.
- Không được. Cô thiếu ba tháng là 900đ. Chừng nào má cô hốt hụi trả đủ số tiền đó cho nhà trường thì tôi cho cô học lại. Nếu trò nào cũng không trả học phí như cô thì tiền đâu tôi trả lương cho các giáo sư?
Cô nữ sinh khóc lóc, van xin:
- Thưa thầy...
Ông Hiệu trưởng cắt ngang:
- Không có thưa gởi gì hết ráo. Cô đừng có năn nỉ khóc lóc vô ích. Cô không có tiền đóng tiền trường thì cô đừng đi học, chớ có gì mà khóc lóc? Thôi, đi về biểu ba má cô vay mượn làm sao cho có tiền trả học phí, thì tôi cho học lại. Còn không thì thôi!
Cô nữ sinh không còn biết năn nỉ cách nào được nữa, đành chào ông Hiệu trưởng và ông khách lạ, rồi xách nón ra về. Ông Hiệu trưởng quay lại ông Ngọc Minh:
- Đó, anh coi. Ba tháng nay không đóng học phí mà muốn trây cho đến kỳ thi nữa, để quịt cho dễ.
Ông Ngọc Minh bảo:
- Kể cũng tội nghiệp, tại nhà người ta nghèo.
- Nghèo thì ai biểu đi học? Trường mình có phải mở ra để dạy bố thí cho nhà nghèo đâu? Tháng nầy tôi đã đuổi ba đứa như thế rồi.
- Cô ấy học có khá không?
Hình như ông chủ trường nầy không có theo dõi tình hình học tập của học sinh, nên ông không trả lời được. Ông chỉ nhún vai:
- Tụi nó học khá hay không, cái đó không quan hệ gì đến nhà trường cả. Tôi chỉ cần đến tháng chúng nó đóng đủ tiền học cho tôi thôi. Đứa nào chăm học thì thi đỗ. Lười biếng thì thi rớt, mặc kệ chúng nó, hơi đâu mình quan tâm anh!
- Nhưng tôi tưởng mình cũng nên săn sóc và cổ võ sự học của các em học sinh. Nhà trường có nhiều em thi đậu thì mới có danh tiếng chớ. Đó là một quảng cáo có lợi cho anh.
- Tống cổ năm ba đứa cũng không hại gì đâu, anh à.
Ông Chủ trường gọi thầy thư ký:
- Con nhỏ đó học lớp nào?
Thầy ký lấy sổ ra coi:
- Dạ thưa Đệ tứ A, tháng 6 nầy thi.
- Tên là gì?
- Dạ, Phạm thị Toàn.
- Mấy tuổi?
- Dạ, mười tám tuổi.
- Nhà nó ở đâu?
- Dạ, ở 158/28/6D đường Nguyễn bĩnh Khiêm.
- Nó học có khá không?
Thầy ký lấy quyển sổ khác lật qua lật lại vài trang, dò các danh sách, rồi chậm rãi đáp:
- Dạ tháng chín cô ấy đứng thứ 4, tháng 12 tây đứng thứ 3, tháng 3 vừa rồi cũng đứng thứ 3... Pháp văn và Anh văn cô ấy giỏi, Toán, Lý hóa, cô cũng được vào hạng khá...
- Nó còn thiếu tiền học từ tháng nào?
- Dạ... từ tháng giêng.
Ông chủ trường lắc đầu ngó ông Ngọc Minh:
- Đó, anh coi!
Rồi ông đếm trên lóng tay: Janvier, Février, Mars... Avril... 4 tháng.
Quay lại thư ký, ông trợn mắt bảo:
- Thế là 4 tháng, sao nó bảo có 3 tháng?
- Dạ, tháng Avril mới bắt đầu.
- Anh này thật lẩm cẩm! Tiền học trả đầu tháng à? Nay là 10 Avril, phải tính cả tháng chớ? Nghĩa là nó còn thiếu 4 tháng học phí, 1200$. Phải không?
- Dạ, phải.
- Chiều nay cậu tìm đến nhà nó đòi món nợ đó cho tôi nghe? Biểu ba má nó phải trả đủ tiền nhà trường mới có thể để nó tiếp tục học cho đủ chương trình để đi thi: 1 tháng 300, là vị chi 1200 đồng!
- Dạ thưa ông, cháu đánh mấy cái thư để ông ký, rồi chiều nay cháu mang thư đến nhà cô ấy.
- Không cần thư từ gì cả cậu cầm 4 cái biên lai đến đòi tiền, là đủ rồi. Nghe?
- Dạ.
Ông Ngọc Minh đứng dậy, bắt tay ông Hiệu trưởng:
- Thôi xin phép anh nhé.
- Anh ngồi chơi đã.
- Hôm khác. Gần đến giờ tôi phải về trường Đại học kẻo trễ.
Ông Ngọc Minh ra xe, mở cửa xe vào ngồi chỗ tay lái. Nhưng trước khi lái xe đi, ông móc túi lấy một quyển sổ con và cây bút máy, chăm chỉ ghi mấy dòng sau đây:
Phạm thị Toàn
158/28/6D. Nguyễn bĩnh Khiêm.
Trưa về nhà, ông liền lấy giấy viết bức thư sau đây:
Thị Nghè, 10 – 4 -1965
Cô Phạm thị Toàn
Mời cô vui lòng quá bộ đến nhà tôi vào khoảng 2 giờ chiều nay về vụ tiền học phí cô thiếu trường Đạo Đức. Cô có thể đi với cậu nhỏ này để khỏi mất thì giờ kiếm nhà.
Thành thật chào cô
NGỌC MINH
Giáo sư Đại Học
T.B.- Giấy này xem xong yêu cầu cô xé đốt ngay đừng để ai coi, bất cứ ai.
Ông bỏ thư vào phong bì, đề tên và địa chỉ, xong gọi cậu em nuôi 14 tuổi:
- Chút ơi!
Chút đang ngồi giỡn với con chó Nhật ở ngoài sân, lên tiếng:
- Dạ.
Chút vào. Ông đưa thư:
- Em ra Dakao, tìm địa chỉ nầy, đưa thư cho cô nầy.
- Dạ.
- Cô sẽ hỏi em: ‘‘Ông Ngọc Minh là ai, mà tôi không
Biết’’, thì em nói sáng nay lúc cô vào Văn phòng ông Hiệu trưởng trường Đạo Đức, để nói về tiền học phí, thì có anh đang ngồi nói chuyện với ông Hiệu trưởng, Anh quen với ông Hiệu trưởng.
- Dạ,
- Cô xem thư xong, nếu cô muốn đến ngay thì em bảo cô đi với em.
- Dạ.
- Em đi lẹ, về kịp 2 giờ, để 2 giờ 30 anh còn đi dạy học nhé.
- Dạ.
Ông đưa 20 đồng cho Chút đi taxi hai chuyến.
Ông Ngọc Minh có tính quen buổi trưa không ngủ. Ông nằm võng - ông thích nằm võng lắm - hoặc nằm ghế xích đu bằng mây, đọc báo.
Đọc hết 3 tờ báo hằng ngày, Việt, Anh, Pháp, ông ngó lên đồng hồ vừa đúng 2 giờ. Như thường lệ, ông đi tắm 15 phút sau ông trở vào phòng thay đồ để sửa soạn đến trường. Ông sốt ruột vì Chút chưa về. Mãi đến gần 2 giờ rưỡi ông mới nghe tiếng xe taxi đổ trước ngõ, rồi Chút chạy vào:
- Thưa anh, em kiếm không được nhà cô ấy, Ern có tìm thấy đường Nguyễn bĩnh Khiêm. Nơi số nhà 158 có cái ngõ hẻm, em vô trong nhưng tìm hết một dãy nhà lụp xụp ở đó người ta để số lung tung beng, mà không có số 28. Rồi vô trong một khúc nữa lại có hai ba đường hẻm khác, có số nhà 28 là tiệm thợ giặt nhưng không có số 28/6D.
- Em đã đi hết các đường hẻm đó chưa?
- Dạ chưa, vì em ngó đồng hồ trong nhà người ta, thấy đã hai giờ em lật đật trở về.
- Thôi được. Đưa cái thư lại, anh sửa một chữ.
Chút rút thư trong túi ra đưa ông Ngọc Minh. Ông lấy bút sửa lại con số 2,(2 giờ chiều), thành ra 5 giờ, rồi bảo Chút:
- Anh đi dạy học, em khóa cửa ngõ thật kỹ, rồi đi tìm lại nhà cô Toàn; Mời cô 5 giờ đến. Thế nào em cũng phải tìm ra.
Gần 4 giờ, Chút tìm thấy trong một xó kẹt, sau một dẫy nhà không số, có một căn nhà thấp lè tè lợp tôn vách ván, trên vách có viết nguệch ngoạc bằng hắc ín mấy con số 158/28/6D. Nó dò từng con số, đúng y như trên bao thư. Nhưng nó còn do dự, không hiểu tại sao căn nhà nầy lại ghi con số dài lê thê và rắc rối như vậy?
Chút đi qua đi lại hai ba vòng, dòm vào nhà hơi tối tăm, không thấy ai. Chút đánh bạo bước vào, gõ trên bàn hai tiếng nho nhỏ. Không nghe ai trả lời. Sau bàn có treo một bức mành mành cũ rích lại còn che thêm một màn vãi, ngăn cách nhà sau.
Chút sợ sệt, rón rén bước vào nhà sau. Nó trông thấy hai đứa nhỏ, một đứa chị chừng 8 tuổi và một đứa em mới sanh chừng sáu bảy tháng, nằm ngủ ngon lành trong một chiếc võng treo giữa nhà.
Chiếc võng đã rách hai ba nơi, lại lót một mớ tả rớt lòng thòng và ướt nhẹp, cạnh một vũng nước đái ngay dưới đáy võng.
Chút bịt mũi vì mùi nước đái của con nít xông lên khai ngòm. Bên cạnh võng, sát vào vách ván hở những đường dài từ trên xuống dưới, và dán một lớp giấy nhựt trình cũ đã rách tét nhiều nơi, kê một chiếc giường và một cái bàn để đầy sách vở. Trên giường một cô thiếu nữ mặc áo cánh trắng, quần đen đang nằm xây mặt vô vách, khóc thút thít.
Chút đứng từ nãy giờ nơi cạnh đầu võng mà cô không hay biết gì cả. Chút không biết có phải cô học trò tên là Phạm thị Toàn đó không? Nghe tiếng cô khóc, Chút không dám gọi. Nhưng thấy lâu quá, Chút gọi đại:
- Chị ơi, chị!
Thiếu nữ giựt mình quay mặt ra. Thấy cậu nhỏ nào lại lật đật ngồi dậy lấy khăn lau nước mắt hỏi:
- Em là ai?
Chút ngượng nghịu đáp:
- Em tên là thằng Chút.
Thiếu nữ ngơ ngác, hỏi:
- Em hỏi ai?
- Dạ, chị có phải là chị Phạm thị Toàn không?
- Nhưng em ở đâu? Hỏi tôi có việc chi?
- Dạ có cái thư.
- Cái thư của ai?
Nhìn thấy cậu nhỏ cầm một cái thư trong tay, thiếu nữ liền đứng xuống đất, đi chưn không, đến gần cậu. Cậu đưa thư, những mắt ngó cô trân trân:
- Chị có phải là chị Phạm thị Toàn không?
- Phải.
Thiếu nữ cầm thư, xé ra coi. Coi xong, cô rất ngạc nhiên, hỏi:
- Ông Ngọc Minh nào đây?
- Anh của tui. Anh làm Giáo sư dạy trường Đại học.
- Tôi đâu có quen biết ông?
- Anh tui nói hồi sáng này chị vô trong văn phòng ông chủ trường Đạo Đức nói về tiền học phí, thì có anh tui ngồi với ông Đốc. Anh tui có thấy chị.
Cô Toàn đứng tần ngần một lúc lâu. Cô nhớ lại lúc sáng, trong văn phòng Hiệu trưởng cô có thấy ruột người khách lạ. Có phải đó là ông giáo sư Ngọc Minh, người viết bức thư này chăng? Nhưng ông giáo sư Ngọc Minh mời cô 5 giờ chiều nay đến nhà ông có chuyện chi? Sao lại nói về tiền học phí? Thật là một chuyện lạ, cô không hiểu. Cô hỏi cậu bé:
- Sao ông biết nhà tôi ở đây mà gửi thư?
- Em đâu có hiểu chuyện đó. Em cứ theo địa chỉ đi kiếm nhà chị từ hồi trưa đến giờ.
- Ông giáo có dặn gì em nữa không?
- Dạ không. Anh giáo em biểu nếu chị đi liền bây giờ thì em đưa chị đi.
Toàn suy nghĩ một lúc khá lâu. Xong, cô ngó đồng hồ, chiếc đồng hồ cũ kỹ để trên bàn, tiếng kêu cạch cạch thật to. Đã 4 giờ 25.
Cô hỏi cậu bé:
- Nhà ông Giáo sư ở xa không em?
- Dạ, ở Thị Nghè.
- Nhà ổng có ai không?
- Dạ không có một mình em.
- Chớ bà Giáo ở đâu?
Chút lắc đầu:
- Anh Giáo chưa có vợ mà.
Cô Toàn lại do dự, không muốn đi. Ai lại mình là con gái mà bỗng dưng đến nhà một người đàn ông lạ và chưa có vợ?
Cô thật không hiểu ông giáo sư Ngọc Minh này là ai và ông mời cô đến làm gì? Chắc là ông biết cô thiếu bốn tháng tiền học của trường Đạo Đức, vì nếu đích là ông ngồi trong văn phòng ông Đốc trường sáng nay thì ông đã nghe rõ hết câu chuyện rồi. Hay là... ông thấy mình khóc lóc năn nỉ ông Đốc, rồi ông thương hại, xin giùm cho mình được học đến kỳ thi? Có lẽ vậy chăng? Nhưng nếu ông có lòng tốt, sao hồi sáng ông không xin giùm, để bây giờ ông kêu mình tới nhà ông?
Toàn đọc đi đọc lại bức thư năm bảy lần. Cô nhận thấy lời thư rất là nhã nhặn, đứng đắn. Giọng nói thành thật, cô có thể tin được. Vả chăng ông là một ông giáo sư Đại học theo lời cậu em này nói, thì tức nhiên là một người đàng hoàng, cũng như bậc thầy của minh, chẳng lẽ ông phỉnh gạt mình điều chi?
Với tin tưởng ấy, và ở trong hoàn cảnh của cô, Phạm thị Toàn nhất định đi thử coi ông giáo sư Ngọc Minh nói chuyện chi. Biết đâu ông xin giùm cho cô được tiếp tục đi học cho đến kỳ thi Trung học Đệ nhất cấp thì may phước cho cô biết mấy! Cô bảo cậu bé:
- Em chờ tôi mặc áo rồi tôi đi với em.
- Dạ.
Cô Phạm thị Toàn ra sân sau rửa mặt, trở vào chải tóc lại đàng hoàng, kéo tấm màn che giữa bàn học và chiếc giường của cô, để thay áo xong. Một lúc, cô vén màn bước ra.
Cô mặc quần vải trắng, áo dài trắng, đơn sơ, sạch sẽ. Mái tóc huyền uốn gọn gàng, không kiểu cách, khuôn mặt trái xoan, diễm kiều thùy mị, đôi má ửng hồng và một làn sóng mũi dọc dừa đều đặn. Đôi mắt hơi buồn, đẹp lạ lùng. Ngực nở tròn trịa, vun vén, dưới làn áo tinh khiết ôm dịu dàng vào thân mình với những đường cong điều hòa tuyệt mỹ. Cô khẽ cúi xuống giường lấy ra đôi guốc mà cô cất riêng để mang đi học, vì ở nhà cô đi chưn không.
Cô xỏ vào đôi guốc hai bàn chân mũm mỉm. Cô đặt năm ngón tay búp măng nõn nà và dịu dàng trên đầu võng, gọi em:
- Mùi ơi! Mùi!
Em bé 8 tuổi giựt mình, tỉnh dậy. Cô bảo:
- Dậy coi nhà, chị đi đây, em. Chút nữa má vồ, em nói chị đến trường, nghe em?
- Dạ.
Cô Toàn lấy chiếc nón lá treo trên vách ván, nhưng thấy nắng ngoài đường đã dịu, cô treo nón lại, đi đầu trần.
Ra đường lớn vừa có taxi. Chút vẫy gọi Cô Toàn không ngờ từ nhà cô đến nhà ông Giáo ở Thị Nghè, chỉ có 6 đồng bạc xe không đầy 5 phút. Chút móc túi lấy ra chìa khóa mở ngõ, hai cánh cửa sắt quấn lại ba vòng, với một ổ khóa bự móc chặt vào mối dây. Cặp ngỗng đang đi đủng đỉnh kiếm ăn trong vườn, cất tiếng oác oác. Con chó Nhật bổn trong nhà cũng sủa lên gâu gấu, Chút đưa cô Toàn vào sân, rồi lấy chìa khóa khác mở cửa, mời cô vào phòng khách.
Cô Toàn do dự không vào. Cô khẽ hỏi nó:
- Ông Giáo đâu?
- Dạ, anh Giáo dạy họa, 5 giờ mới về,
Tò mò, cô Phạm thị Toàn đứng ngoài hè ngó vào nhà thấy bộ xa lông bằng mây kiểu tối tân, giản dị nhưng có mỹ thuật, trang hoàng. Vách tường phòng được quét vôi xanh nhạt, một màu xanh mát dịu, treo hai bức hình lớn lồng kiến, đóng khung vàng. Cô ngó dòng chữ để dưới mỗi bức là chân dung vua Duy Tân và cụ Phan Bội Châu.
Một bình hoa lay dơn trắng độ mười cành xoè ra trên mặt một chiếc tủ thấp kê sát vách tường trong. Một tấm màn nhung xanh, che cửa thông ra phòng sau.
Chút để cô Toàn đứng đấy. Nó đi tưới hoa. Đứng một lúc buồn, và lo lắng hoang mang, cô Toàn bước ra sân, lân la gần cậu bé tưới nước, coi bộ cậu ấy lanh lợi, và hiền lành dễ thương. Cô hỏi:
- Em có bà con gì với ông giáo sư không?
- Em là em của ảnh.
- Em ruột hay em thế nào?
- Em con bà cô.
- Sao em không đi học?
- Em ở Bến Tre lên ở nhà coi nhà cho ảnh.
- Em còn nhỏ tuổi, sao ông giáo sư không cho em đi học?
- Anh dạy em học ở nhà, em cũng biết chữ vậy chớ bộ!
- Ông Giáo sư ở đây một mình với em, hay có ai nữa không?
- Dạ, không.
- Ông không có gia đình sao?
- Ông có em gái lấy chồng ở trên Sàigòn,
- Ai nấu cơm cho ổng ăn?
- Anh giáo em ăn cơm tháng ngoài tiệm. Em cũng ăn với ảnh...
Một lúc sau, có tiếng xe hơi bóp còi. Chút bỏ ống cao su xuống, khóa vòi nước, chạy ra mở rộng hai cánh cửa ngỏ để xe ông Ngọc Minh lái vào thẳng ga ra. Cô Toàn thấy đúng là ông khách lạ ngồi trong văn phòng ông Đốc trường của cô ban sáng.
Ông Ngọc Minh cho xe vào ga-ra, tắt máy xong, mở cửa xe thong thả ra sân. Ông tiến đến cô nữ sinh đứng khép nép dưới dàn hoa antigone, cạnh một bụi hoa sim gần bực tam cấp lên cửa, Cô khẽ cúi đầu chào, bẽn lẽn, sợ sệt. Với giọng nói lúc nào cũng dịu dàng và chậm rãi, ông hỏi cô:
- Chào cô Toàn. Cô đến đấy đã lâu chưa?
Toàn ngượng nghịu:
- Dạ thưa ông, em mới đến.
- Mời cô vào.
Rất nhã nhặn, theo phép lịch sự Âu Mỹ, ông nhường bước để cô đi trước. Nhưng cô Toàn, một nữ sinh 18 tuổi ít giao thiệp với người lớn, nên chưa quen với phép xã giao ấy. Cô tưởng ông giáo đứng lại nhìn cô. Mắc cỡ, cô cúi mặt xuống. Ông Ngọc Minh bảo:
- Mời cô đi trước.
Toàn sợ mình đi trước như thế thì vô lễ. Ông Ngọc Minh đành nhã nhặn nói:
- Xin lỗi cô...
Ông bước lên bực tam cấp, vào phòng khách. Cô Toàn rụt rè đi theo sau. Ông mời cô ngồi ghế.
Ông vào ngay câu chuyện:
- Xin lỗi cô, tôi mời cô đến đây e làm phiền cô.. Nhưng vì sáng nay, ngẫu nhiên tôi thấy cô là một nữ sinh chăm học, lỡ thiếu mấy tháng tiền trường mà bị đuổi... Cô học ở trường Đạo Đức đã lâu chưa?
- Dạ thưa ông, em học từ lớp đệ thất đến năm nay là đệ tứ.
- Bốn năm, cô vẫn trả đủ tiền học phí?
- Dạ, thưa ông, nhà ba má em nghèo, nhưng ba má em cũng rán cho em đi học cho hết Đệ nhứt cấp. Nhưng bây giờ em phải thôi,
- Ba má cô làm nghề gì?
- Dạ thưa ông, Ba em làm phu xe cyclo máy. Má em bán cháo lòng ở chợ Đakao. Mấy tháng nay ba em hay đau ốm hoài, má em không đi làm được nên nhà em túng tiền.
- Bao nhiêu công lao đèn sách nay đã sắp đến kỳ thi không lẽ cô đành bỏ dở dang việc học?
Toàn cúi mặt làm thinh, hai ngón tay mân mê tà áo trắng,
Ông Ngọc Minh nói tiếp:
- Sáng nay, do sự ngẫu nhiên, tôi có dịp thấy rõ hoàn cảnh của cô như thế, tôi muốn nói với ông Hiệu trưởng để cô tiếp tục việc học cho đến ngày thi. Nhưng... rất tiếc, tôi không thể nói được, vì ông Hiệu trưởng với tôi chỉ là bạn sơ giao, chưa quen nhau nhiều. Vì thế nên tôi rất ái ngại cho cô... Tôi thấy cô chăm học lắm, và theo sổ sách nhà trường như tôi được biết sáng nay, thì cô rất thông minh, cô thuộc hạng học giỏi nhất trong lớp. Chỉ tại cô thiếu mấy tháng tiền học phí... Nay tôi mời cô đến để tôi giúp cô. Sáng ngày mai cô đến trả cho nhà trường 4 tháng tiền cô còn thiếu, và cô cứ tiếp tục học. Tôi giúp cô mỗi tháng các tiền phí tổn để cô yên trí mà đeo đuổi việc học cho đến ngày cô đi thi Trung học. Cô khỏi phải bận tâm đến chuyện tiền nong nữa.
Toàn ngồi lặng lẽ, cứ cúi mặt xuống, Nhưng cô không nén được cơn bùi ngùi xúc động, bỗng dưng hai ngấn lệ rưng rưng trên mi mắt cô, từ từ rơi xuống má.
Thấy thế ông Ngọc Minh đứng dậy, vào nhà trong, Ông muốn tránh đi, cho cô Toàn khỏi ngượng.
Toàn ngồi một mình, lấy khăn mu soa khẽ lau mấy dòng nước mắt. Nhưng cô không nén được lòng cô bâng khuâng xao xuyến. Cô không ngờ ông giáo sư Ngọc Minh mà cô chưa hề quen biết, có lòng nhân từ độ lượng, giúp đỡ cô như thế.
Cô trầm ngâm suy nghĩ. Thật trong thâm tâm cô rất vui mừng vì đã có người giúp cô ăn học đến nơi đến chốn, trong lúc sáng nay bị đuổi ở trường về, cô đã thối chí, tuyệt vọng rồi. Cô đã khóc gần suốt ngày hôm nay từ sáng đến chiều, buồn bực, chán nản, bỏ cả buổi cơm trưa! Bỗng dưng sao lại có một người tử tế, hiền lành, gọi cô đến để giúp cô! Nghe những lời nói thương xót thành thật, và xét cử chỉ khiêm tốn tao nhã của ông giáo sư Ngọc Minh, cô cảm động lắm. Nhớ lại thái độ của ông chủ
Trường Đạo Đức lúc sáng nầy, cô lại càng tủi nhục đau đớn.
Cô đã lau mấy ngấn lệ, nhưng ở đâu trong đôi mắt sầu mơ nọ lại trào ra, chảy trên đôi má, một giọt, hai giọt, lặng lẽ từng dòng rơi xuống áo.
Cô Phạm thị Toàn không còn ngượng nữa. Ông giáo sư Ngọc Minh tuy mới biết cô chưa đầy một tiếng đồng hồ, nhưng đã hiểu rõ nỗi lòng cô rồi. Cô còn che giấu sao đựợc nữa?
Bây giờ đây cô coi ông Ngọc Minh như một bậc ân nhân ngẫu nhiên mà gặp, cô không biết nói một lời gì để tỏ hết nỗi lòng biết ơn sâu xa thành kính của cô. Không nén được cơn xúc động quá mạnh, Toàn gục đầu xuống thành ghế, khóc nức nở...
Nghe tiếng giày của ông giáo sư từ nhà trong bước ra, cô Toàn lau nước mắt. Ông Ngọc Minh đến gần, trao cô một bức thư:
- Có cầm lấy, và sáng ngày mai cô cứ vui vẻ đi học lại như thường. Tôi chỉ yêu cầu cô có một điều thôi. Việc tôi giúp đỡ cô không cô gì lợi dụng cả, và tôi mong cô đừng cho một người nào hay biết. Số tiền trong bao thư nầy, đủ để cô trả hết 4 tháng học phí mà cô còn nợ nhà trường, thêm chút ít để cô mua sắm sách vở hoặc các món chi tiêu cần thiết hằng ngày. Từ nay cho đến kỳ thi, cứ mỗi tháng tôi sẽ gởi giúp cô đủ số tiền cô cần dùng để đi học. Nếu cô ngại đến đây, thì tôi gởi em nhỏ của tôi cầm đến nhà cô...
Cô nữ sinh Phạm thị Toàn không dám cầm bao thư. Cô ái ngại, vì sự giúp đỡ của ông Ngọc Minh là một việc cô thật không ngờ. Cô không biết cô có nên nhận lãnh, hay không, và nếu nhận lãnh thì sao?
Toàn cúi mặt xuống, suy nghĩ rất lâu. Ông Ngọc Minh, nói tiếp:
- Nếu cô có thắc mắc điều chi, cô cứ nói thiệt tôi nghe. Cô sợ tôi sẽ lợi dụng cô về phương diện nào chăng?
Toàn khẽ đáp:
- Dạ, thưa ông, không.
- Có ngại rằng tôi sẽ đòi lại số tiền nầy chăng?
- Dạ không.
- Hay là cô sợ mang ơn tôi, rồi sau nầy cô khó xử cách nào với tôi chăng?
Toàn làm thinh, ông Ngọc Minh nói tiếp:
- Số tiền nầy không có là bao. Cô đừng nghĩ rằng đây là một ân huệ. Chỉ là một sự giúp đỡ rất thường, không có chi đáng để cô phải ái ngại. Tôi không đòi hỏi hoặc bắt buộc cô phải hứa hẹn hay cam kết một điều chi. Sự giúp đỡ của tôi hoàn toàn vô điều kiện. Đến tháng sáu cô thi đỗ, ấy là tôi vui mừng. Cô thi đỗ ấy là cô sẽ trả ơn cho tôi đó. Nói cho cùng, dù cô sẽ thi rớt chăng nữa, tôi cũng không buồn, vì cô đã cố gắng học hành, đó là xứng đáng với sự giúp đỡ của tôi rồi. Cô nên tin rằng tôi không bao giờ tiếc sự giúp đỡ của tôi đâu.
Toàn ngửng mặt lên nhìn ông Ngọc Minh. Ông hơi bối rối, vì đôi mắt còn rớm lệ của cô trông như hai viên ngọc huyền lóng lánh. Nỗi buồn và đau đớn của cô càng làm tăng thêm vẻ đẹp thùy mị diễm kiều của cô nữ sinh 18 tuổi. Ông Ngọc Minh muốn tránh những cảm xúc mạnh trong phút hội kiến, ông quay lại bàn xa lông lấy gói thuốc, rút ra một điếu chăm hút. Ông quay lại cô nữ sinh đưa cô bao thư. Toàn vẫn chưa dám cầm và lễ phép nói:
- Thưa ông, ông có lòng cao thượng giúp đỡ em, em xin cảm tạ lòng ông... Nhưng em ngại...
- Cô ngại điều chi?
- Ông chưa biết em... Em cũng lần đầu tiên được hân hạnh đến đây, em không dám đường đột...làm phiền ông,
- Cô không làm phiền gì tôi cả. Miễn là cô đừng nghi ngờ lòng thành thật của tôi thôi.
- Dạ em dâu dám nghi ngờ... Ông quá tốt với em như thế nầy, em chỉ ngại là không xứng đáng với tấm lòng nhơn từ cao quý của ông thôi.
- Cô đừng ngại gì hết. Cô nghe lời tôi, cầm bao thư nầy, rồi cứ vui vẻ tiếp tục việc học.
Ông Ngọc Minh trao bao thư tận tay cô Toàn, cô không thể từ chối được nữa, Cô bẽn lẽn cầm lấy:
- Dạ thưa ông, em xin cảm tạ tấm lòng độ lượng của ông. Em tiếp tục đi học được là nhờ ơn của ông, em không bao giờ dám quên.
- Cô cố gắng học tập, thế là tôi mừng.
Phạm thị Toàn tay cầm bao thư, cúi đầu từ giã ông Ngọc Minh, ông nhã nhặn và vui vẻ đưa cô ra đến tận cổng.
Đi bộ từ Thị Nghè về, cô Phạm thị Toàn, suy nghĩ lung lắm. Lên cầu Thị Nghè, cô vừa đi vừa mở bao thư ra coi: hai ghim giấy hai ngàn đồng và một xấp lẻ năm trăm đồng. Cô cất lại trong bao thư, bỏ vào túi. Cô mừng như trúng số độc đắc. Từ trước đến giờ, chưa lần nào tự nhiên cô đuợc số tiền lớn lao như thế. Cô tính thầm: 4 tháng tiền học còn thiếu là 1.2008$ Dư 1300$, cô mua mấy quyển sách đang cần. Vẫn còn dư hơn 1000$. Cô may vài áo trắng để đi học vì áo cô đã cũ hết. Lòng thơ lai láng bồi hồi, cô nữ sinh mong về mau đến nhà để viết bức thư tỏ hết cả nỗi lòng tri ân sâu xa của cô mà lúc nãy trước mặt ông Ngọc Minh, cô quá xúc cảm nghẹn ngào không nói được nên lời. Cô vẫn miên man nghĩ ngợi không hiểu sao ông Ngọc Minh lại rất tử tế với cô như thế. Cô cho rằng trên đời không làm gì có được hai người như ông giáo sư Ngọc Minh. Thật ra, ông không biết cô là ai, gia đình của có, ông cũng hoàn toàn không biết một tí gì. Ông chỉ mới thấy cô lần đầu tiên trong văn phòng ông Hiệu trưởng trường Đạo Đức và cũng lần đầu tiên ông biết cô là con gái nhà nghèo thiếu trường bốn tháng tiền học. Thế thôi. Còn đối với ông cô cũng chẳng biết gì hơn!
Dù sao, cô không một chút nghi ngờ lòng thương người của ông. Tiếp xúc với ông đầu tiên, cô đã nhận thấy nơi cử chỉ của ông hoàn toàn là một người đứng đắn, và cao thượng. Nhớ lại đôi mắt của ông nhìn cô với một vẻ hiền lành và giọng nói của ông rất dịu dàng, chân thật, cô nữ sinh thấy lòng mình hồi hộp nao nao...
Cô tin rằng sự gặp gỡ ngẫu nhiên nầy là một may mắn, đẹp đẽ nhất đời cô... Không có gì khiến cô phải lo ngại nó bất ngờ quá, nên cô bồi hồi tấc dạ. Cô vui sướng không siết kể. Trong tuổi thiếu nữ bần hàn khổ nhục của cô, chưa có lần nào cô cảm thấy đời sống vui tươi tưng bừng như bây giờ, cô hân hoan lắm.
Về đến nhà, cô vội viết bức thư sau đây:
Đakao, ngày 10-5-1956,
Kính thưa ông Ngọc Minh,
Giáo sư Đại học, Saigon.
Em rất cảm động về sự giúp đỡ vô cùng quí báu của ông. Em xin nguyện với ông rằng em sẽ hết sức cố gắng học hỏi mong thi đậu T. H. Đ.N.C. kỳ nầy, để xứng đáng với lòng thương xót cao thượng của Ông. Sự nâng đỡ của Ông là một an ủi lớn lao không siết kể cho kẻ nữ sinh gần tuyệt vọng. Em không biết nói gì hơn để tỏ lòng tri ân sâu rộng của em đối với bậc ân nhân cao quí, nhưng em sẽ chăm lo trau dồi học vấn và tính nết, để không phụ lòng quảng đại của Ông.
Kính xin Ông nhận nơi đây chút lòng tôn kính chơn thành và, vô cùng cảm kíck của em.
Kính thư
Phạm Thị Toàn
Chương 3
Ánh thôi giúp việc cho gia đình em gái ông Ngọc Minh, về ở tạm nhà bà cô ở xóm Bàn cờ. Ngay buổi tối ấy thấy Ánh ôm gói về, bà rất ngạc nhiên. Ánh bảo:
- Ở đấy, người ta tử tế, nhưng công việc nhiều quá, con làm không nổi.
- Con đã kiếm được chỗ làm khác chưa?
- Thưa cô, chưa.
- Thời buổi bây giờ biết bao nhiêu thanh niên thiếu nữ thất nghiệp, đi xin làm đầy tớ cho người ta cũng khó chớ không dễ đâu, nghe con! Được chỗ làm giàu sang như vậy sao con không rán làm cho bền?
- Chuyện gì rồi cũng do số phận hết cô à. Không lẽ đời của con cứ đi làm đứa ở hoài sao?
- Không làm đứa ở thì làm đứa gì bây giờ? Thời buổi này ai mà không đi làm thuê làm mướn? Những con gái như con, ăn rồi nằm không cả đống đó, con không thấy hay sao?
- Con đâu có phải con nhà giàu mà ăn không ngồi rồi! Sáng mai con đi kiếm việc làm chớ.
- Cô biết. Nhưng mình là phận nghèo, làm ở đâu cũng phải rán chìu chuộng chủ, thì được lâu bền hơn. Con ở nhà nghỉ ít bữa, sáng mai cô ra chợ Bến thành kiếm việc cho con. Ở bùng binh, cô gặp nhiều mối quen.
Nằm gối đầu trên gói áo quần, Ánh nghĩ ngợi liên mlên, tới khuya chưa ngủ được. Làm ở nhà cô Minh Tú mấy tháng, Ánh dành dụm tiền lương được trên hai ngàn đồng Ánh giấu xấp bạc ấy trong một túi áo cánh nhét ở dưới đáy gối. Lần đầu tiên, Ánh đã đem mồ hôi nước mắt để đổi lấy chén cơm và dành dụm được ngần ấy tiền kể cũng đã nhiều lắm đối với Ánh. Ánh có hai quyết định về việc xử dụng món tiền trên: Trước hết Ánh sẽ học đánh máy. Muốn thành người đánh máy giỏi phải học ba tháng tốn vào khoảng 600 đồng tại một trường ở đường Phạm ngũ Lão.
Thứ hai là đi may hai áo dài trắng, hai quần trắng, và một bộ đồ đen để thay đổi. Ánh cho rằng hàng màu mà rẻ tiền mặc coi xấu lắm, thà mặc toàn màu trắng hay màu đen, thanh nhã hơn và thích hợp với Ánh hơn.
Nhớ đến Hoàng, Ánh buồn rười rượi trong lòng, ông Giáo sư Ngọc Minh thì Ánh muốn quên, và chắc Ánh sẽ quên được trong vài ba ngày. Chớ Hoàng, Ánh quên làm sao được? Hình ảnh của người bạn học cũ đã nghèo mà còn đến giúp cho Ánh được 150 đồng bạc trong lúc Ánh đau nằm li bì, không ai săn sóc thuốc men, hình ảnh của người bạn trai nết na hiền lành ấy làm sao phai mờ được trong trí nhớ? Ánh biết Hoàng yêu Ánh nhiều lắm mới lo lắng cho Ánh được như thế.
Tuy Hoàng chưa bao giờ nói ra, có lẽ vì tính nhút nhát, có lẽ vì sợ Ánh không bằng lòng, nhưng Ánh đã thấy rõ tình yêu âm thầm của người bạn nghèo trong đôi mắt âu yếm nhìn Ánh, trong giọng nói bỡ ngỡ vì cảm động, thiết tha vì chân thật, và trong từng cử chỉ săn đón ân cần. Ánh muốn biết số tiền 150 đồng trước kia Hoàng làm gì mà có? Hay Hoàng mượn của ai? Ánh muốn gặp Hoàng để tạ ơn tấm lòng thành của bạn. Hai năm xa cách Hoàng, từ hôm Ánh đau dậy và bỏ nhà ra đi, trốn người cha ghẻ khốn nạn, hai năm không được gặp Hoàng. Ánh buồn chen thương nhớ. Hai năm, bao nhiêu lần Ánh đi ngoài đường cố ý tìm xem có bóng chàng đâu không? Mỗi lần có dịp đi ra phố, bất cứ nơi nào, Ánh cũng đưa mắt ngó quanh quẩn, nhìn tận ra xa, kiếm cùng các ngả đường họa may có thấy Hoàng đi lang thang đâu đó không? Nhà lầu cao đồ sộ, cửa sổ tô điểm đủ màu, xe hơi bóng loáng chạy vùn vụt như thoi đưa, người ta đi qua lại đủ các hạng giàu sang, các đám người nghèo khổ, rộn rịp giữa Sàigòn hoạ lệ. Nhưng Ánh không quan tâm đến gì cả, không để ý đến ai cả. Chỉ có Hoàng thôi. Chỉ một bóng người thất thển mà nàng tìm khắp nơi, mỏi mòn con mắt, đau đớn tấc lòng.
Sáng nay, Ánh quyết về thăm xóm cũ nơi đây đôi bạn trẻ đã từng gặp nhau lúc nàng còn đi bán hàng rong: cầu Muối, cầu Ông Lãnh, Arras, Nancy, Tân Kiển...
Ánh đi rảo khắp các phố, các xóm mong gặp một người quen cũ, để dò hỏi tin tức. Bạn học chung trường ngày trước nay cũng biến đâu mất cả..,
Tìm lại Hoàng là cả một sự khó khăn. Ánh hối tiếc trước kia không hỏi địa chỉ của Hoàng, và bây giờ muốn gặp Hoàng để trả lại số tiền 150 đồng, không biết làm sao gặp được. Chiều thứ bảy, Ánh đến tiệm may để lấy áo, tình cờ gặp một người bạn cùng học một lớp, cậu Định. Trông thấy Ánh, Định đang đi vespa liền thắng xe, chào vồn vã:
- Ô cô Ánh! lâu quá bây giờ mới lại gặp!
Ánh cũng vui vẻ:
- Anh Định! Dạo nầy anh làm gì?
- Tôi làm ở nhà thuốc Tây.
- Hèn chi đi Vespa, sang quá xá!
- Còn Ánh bây giờ làm ở đâu?
- Tôi làm việc nhà.
Định nhìn Ánh với đôi mắt ranh mãnh:
- Nhà ở đâu? Mình đến thăm được không?
Ánh hiểu liền giọng nói và nụ cười có tình ý của người bạn học cũ, nên thản nhiên đáp:
- Tôi ở xa lắm,
Định nhìn Ánh ra chiều thân mật:
- Ánh đẹp hơn hồi đi học nhiều. Nhớ Ánh quá mà không biết Ánh ở đâu để tới thăm. Ánh có chồng chưa, nói cho mình mừng?
- Cảm ơn anh, nhưng tôi không nghĩ tới chuyện đó.. Còn nhỏ mà, lo làm ăn giúp đỡ cha mẹ đã chớ.
- Còn mình, nói thiệt với Ánh là mình chưa có vợ. Đời buồn lắm, Ánh à.
- Có chi mà buồn? Sao anh không cưới vợ?
- Đang kiếm đây. Bây giờ làm có lương tháng đủ xài nhưng được nhà ba má mình có tiền, ổng hứa hễ chừng nào mình có vợ thì ổng bả cho cái vốn để vợ chồng ở riêng, chồng đi làm, vợ buôn bán. Kể như vậy cũng sướng đó, nhưng mình muốn tự ý kiếm người nào thích thì mình cưới, chớ người ta làm mối hai ba đám rồi mình không ưng đứa nào hết.
- Sao vậy?
- Tại không thích chớ sao. Mình muốn kiếm người bạn gái nào thiệt đẹp và mình đã quen biết tính nết... À, Ánh à... Ánh ở nhà chớ không làm đâu thiệt hả?
- Thiệt.
- Ánh à.,. Ánh tuổi con gì nhỉ?
Ánh cười, bông lơn:
- Tuổi con Cọp!
- Thôi, giỡn hoài. Năm nay Ánh bao nhiêu tuổi, mình hỏi thiệt đó mà.
- Nói chơi, chớ tuổi con... con Gấu!
Hai người cùng cười. Nhưng Ánh hỏi:
- Anh em chị em học trường Chợ Quán hồi đó, bây giờ đi đâu mất cả sao tôi không gặp ai hết như Mai nè, Tuyết nè, Cúc nè. Hoàng nè.., Ờ anh Hoàng, bây giờ ảnh làm gì, anh Định?
- Thằng Hoàng hả... Ờ mà lâu lắm tôi không gặp nó. Coi bộ nhà cậu ấy nghèo xơ xác, cách đây lâu quá rồi, nó đem bán cho tôi cái đồng hồ tôi còn đeo đây nè...
Định chỉ chiếc đồng hồ đeo tay, nói tiếp:
- Nó thi đậu, chú nó cho nó chiếc đồng hồ, rồi nó túng tiền đem bán cho tôi có 200 đồng.
Ánh lặng thinh nghe. Định nói tiếp:
- Đáng lý mình không dám mua, sợ của nó ăn cắp thì bỏ mẹ! Nhưng rồi sao nó trở lại đưa hóa đơn cho mình, trong hóa đơn đề tên chú nó, giá mua 400$- Nó bán có 200$. Thấy rẻ mình mua chơi. Nó nói em gái nó đau nặng nó cần tiền, chớ của chú nó cho, nó sợ bán đi chú nó giận.
- Sao anh ấy điên thế! Cái đồng hồ của người chú cho làm kỷ niệm, có cô em đau nặng, lại đem bán để mua thuốc cho em!
- Mình cho là nói dóc.
- Bây giờ Hoàng làm gì?
- Ai mà biết! Ánh hỏi chi vậy?
- Tôi có mượn một quyển sách của Hoàng còn mới tinh. Tôi muốn trả lại Hoàng mà không biết nhà Hoàng ở đâu. Anh có biết nhà Hoàng ở đâu, chỉ giùm tôi.
- Thằng Hoàng ở xóm nhà lá Bầu Sen, Ánh muốn kiếm nhà nó thì lên xe vespa tôi chở đi... Ờ mà quên, xóm nhà của nó cháy mất tiêu rồi còn gì!
- Vậy hả? Nhà Hoàng cũng bị cháy sao?
- Cháy rụi cả xóm.
- Trời ơi! Vậy bây giờ Hoàng ở đâu?
- Lâu, mình không gặp nó. Còn nhà Ánh ở đâu, cho mình biết để sáng mai chúa nhựt mình đến thăm.
- Đã nói xa lắm, anh kiếm không được đâu.
- Ánh đi đâu bây giờ, đã về chưa tôi chở Ánh về?
- Cám ơn anh Định. Tôi mắc đi có việc.
- Ánh đi đâu, lên xe vespa mình chở đi.
- Khỏi! Tôi đến nhà người bà con gần đây. Thôi chào anh Định nhé.
Ánh đi thẳng. Định còn gọi vói:
- Ánh ơi, Ánh!... Mình hỏi câu nầy.
Ánh giả vờ không nghe, đi thẳng. Định lên xe vespa, đi chậm chậm theo kèm một bên, tán tỉnh:
- Ánh bây giờ lớn lên đẹp hơn hồi trước nhiều. Đẹp lộng lẫy... Sao Ánh chưa lấy chồng?
- Thôi đi anh ngạo tôi, tội chết! Tôi mà đẹp cái thá gì!
- Mình nói thiệt chớ không phải mình nịnh Ánh đâu nghe! Ánh cho mình biết nhà, để sáng mai mình đến thăm...
- Chắc không được đâu, anh ơi. Anh có lòng tốt, tôi xin cảm ơn, nhưng má tôi khó lắm chớ không phải như người ta đâu. Thôi chào anh nhé.
Ánh rẽ vào một đường hẻm để khỏi bị Định đi theo nữa. Ánh tủm tỉm cười vì đã bịa ra câu chuyện mượn quyển tự điển để hỏi cho biết địa chỉ của Hoàng. Nhưng nghe Định nói xóm nhà lá của Hoàng bị cháy, Ánh thất vọng và lo sợ cho Hoàng lắm, Ánh càng thương Hoàng và nhất định đi kiếm Hoàng cho kỳ được.
Sáng chúa nhựt, Ánh đi tìm Hoàng, Ánh mặc áo dài trắng mảnh khảnh thướt tha, đội nón lá ‘‘bài thơ’’, trông đẹp lạ! Y như hồi còn đi học. Bộ ngực nở vun vén, đều đặn, nổi bậc lên trên thân hình duyên dáng với những đường cong điều hòa tuyệt mỹ. Trước khi Ánh ra đi, cô của Ánh ngồi võng nhai trầu, ngắm nghía, và tủm tỉm cười bảo Ánh:
- Mới hồi nào mầy còn bằng con Nhung. Bây giờ đã lớn đại!
- 21 tuổi rồi còn nhỏ gì nữa, hả cô!
- Ừ liệu mà lấy chồng đi, để chồng nó nuôi chứ tội gì thân gái ngộ nghĩnh như vậy mà đi ở mướn hoài?
- Thưa cô xóm Bầu Sen ở đâu?
- Bầu Sen... ở về miệt Tân Kiển, chớ đâu.
- Đình Tân Kiển... có phải ở lối nhà thương Chợ Quán không cô?
- Ừ, con có quen ai ở đó?
- Dạ có. Một người bạn trai của con,
- Con đi, trưa con có về không?
- Dạ, về chớ.
Ánh đi bộ lên miệt làng Tân Kiển, hy vọng tìm đựợc Hoàng. Nếu nhà Hoàng bị cháy, thì chắc đã làm lại nhà mới.
Đến nơi, Ánh đi lang thang trên mấy con đường nhỏ hẹp và bẩn thỉu trong xóm nhà mới cất lại bằng ngói, hoặc lợp tôn, nhưng không biết nhà Hoàng ở đâu. Đi quanh quẩn hàng giờ, Ánh không dám hỏi thăm ai. Toàn là người lạ. Gặp một em nhỏ, Ánh hỏi đại:
- Em ơi em, nhà anh Hoàng ở đâu?
- Anh Hoàng nào?
- Anh Hoàng đã đỗ Trung học Đệ nhứt Cấp, con ông tùy phái ở Bộ Công chánh đó.
Đứa bé lắc đầu:
- Em hỏng biết.
Đã trưa, Ánh đói bụng, ghé lại xe mì của một chú Chệt, ngồi ăn một tô mì, nhân tiện ngồi chờ thử xem, Ánh nghĩ rằng sáng nay là chúa nhật, chắc thế nào Hoàng cũng đi chơi. Ánh ngồi nán lại may gặp Hoàng chăng? Vài ba chàng thanh niên trông thấy cô gái xinh đẹp, cứ lảng vảng, thầm thì, tới chọc ghẹo. Ánh mặc kệ không thèm để ý đến. Ánh bỏ đi tụi họ đi theo. Họ nghi ngờ cô gái xa lạ từ đâu đến đây, lang thang tìm ai, ngồi nơi xe mì đợi ai gần hai tiếng đồng hồ?
Nhưng ra đến đường lớn, Ánh biết có tụi cao bồi đi theo mình, liền đón cyclo máy về Bàn cờ.
Ánh thất vọng vô cùng, buồn rầu không muốn nói chuyện gì với bà cô nữa. Luôn mấy ngày Ánh lẩn quẩn trong rhà như nguời mất trí, chán nản bơ phờ, chẳng thích ăn làm gì cả.
Cô của Ánh muốn gả Ánh cho một người đàn ông quen, làm Trung úy trong quân đội. Chàng còn trẻ tuổi, ở cùng xóm, đã để ý đến Ánh từ lúc Ánh còn làm nghề gánh nước mướn. Chàng chưa có vợ, người ở miền Trung, coi bộ tính nết cũng hiền lành. Nhưng khi nghe cô nói chuyện ấy, Ánh thãn nhiên đáp:
- Con không lấy chồng cô ạ.
Bà cô cứ khen ngợi chàng Trung úy có nhiều đức tính tốt và hòan cảnh thuận tiện, có địa vị có tương lai, nhưng Anh ngắt lời:
- Vợ chồng là duyên tiền định. Một khi con không thích, ấy là tại con không có duyên nợ với người ta. Cô trả lời với người ta là con không chịu.
- Không lẽ con cứ ở vậy hoài không lấy chồng?
- Chừng nào con thích ai thì con lấy người ấy.
Bà cô ngồi nhai trầu lẻm bẻm, làm thinh tỏ vẻ không bằng lòng đứa cháu ương gàn. Bà chậm rãi bảo:
- Già kén kẹn hom, con à! Các cô gái ‘‘đợt sống mới’’ đời nay tranh đua nhau lấy chồng Trung úy, Thiếu úy, hoặc lấy người ngoại quốc, mà con thì kén chọn, cô không biết con kén chọn ai nữa?
Ánh không trả lời. Ánh chỉ nhớ lại câu chuyện của Định với Ánh chiều hôm qua về chiếc đồng hồ chàng đeo trên tay. Không dè đó là chiếc đồng hồ của Hoàng đã bán lại cho Định để lấy 200$. Hoàng năn nỉ Định mua dùm để Hoàng lấy tiền mua thuốc cho ‘‘cô em gái’’. Nhưng Ánh biết Hoàng không có em gái. Chắc chắn là số tiền 150 đồng của Hoàng đưa cho má Ánh với mấy gói thuốc nóng lạnh đáng giá gần 50 đồng nữa, là tiền của Hoàng đã bán rẻ chiếc đồng hồ cho Định. Bây giờ Anh đã hiểu số tiền 200 đồng Hoàng đã gởi cho Ánh hôm Ánh đau nặng, do ở đâu mà Hoàng có, Ánh nghĩ thầm: ‘‘Tội nghiệp Hoàng! Hoàng yêu Ánh lắm mới hy sinh cho Ánh như thế? Trong lúc Ánh bị gia đinh ruồng bỏ, trên đời Ánh cô đơn không còn ai thương xót mình, thì có Hoàng, một bạn nghèo, hoàn cảnh không khá gì hơn mình mà lại tận tụy lo cho mình, săn sóc sức khoẻ của mình, Hoàng bán chiếc đồng hồ mới tinh của ông chú cho, để lấy 200 đồng đem đến cho Ánh, trong lúc Ánh đau nằm liệt giường liệt chiếu, má Ánh cũng không có được vài chục bạc để mua thuốc cảm hàn cho Ánh! Mối tình sâu đậm của Hoàng thật là cảm động. Ánh phải làm sao tỏ lòng tri ân của Ánh với người bạn trai độc nhất của đời mình. Ánh quyết không yêu ai, Ánh đã từ chối ông giáo sư Ngọc Minh cũng vì Ánh yêu Hoàng, nhớ Hoàng, Ánh muốn gìn giữ tấm thân trong sạch nầy để dành riêng cho Hoàng, hiến cả cho Hoàng đến mãn đời mãn kiếp. Nếu Ánh không tìm lại được Hoàng, Ánh cũng nhứt định đợi chờ vài ba năm nữa. Ánh tin rằng Ánh sẽ gặp lại người bạn cũ, và
nếu Hoàng cũng đang tìm kiếm Ánh thì thế nào đôi bạn lòng cũng sẽ có ngày tái ngộ’’.
Thật ra Ánh và Hoàng chưa phải là một đôi tình nhân chánh thức, hoặc lén lút hồi nào. Cặp thanh niên nầy chưa hề cùng nhau trao đổi một lời thề nguyện, chưa có lần nào gắn bó với nhau trong một nụ hôn nồng nàn say đắm trên môi. Nhưng, hồn nhiên, chân thật họ đã cùng nhau thông cảm mối tình ngấm ngầm sâu xa, trong khóe mắt âu yếm của chàng, trong lời nói dịu dàng, mơn trớn của nàng đáp lại, nhưng đã tự thú nhận với nhau rồi, gần như dĩ nhiên rồi, như đã được sắp đặt trước từ lâu trong một kiếp xưa...
Thế mới biết tâm lý của phụ nữ khó hiểu thật! Một cô gái nghèo như Ánh, nghèo đến nỗi phải đi làm đầy tớ cho người ta mà gặp một người yêu như ông giáo sư Ngọc Minh, có nhà lầu xe hơi, có chức vị quan trọng, có tư cách đường hoàng đứng đắn, chưa chắc cô đã ham mê! Gặp một anh Trung úy trai trẻ, có tương lai đầy hứa hẹn, có bộ nhung phục bảnh bao hào nháng, chưa chắc gì cô đã yêu! Vậy mà cô lại bùi ngùi thương nhớ một người bạn học cũ nghèo xơ xác như cô, chỉ vì chàng đã bán chiếc đồng hồ 200 đồng để giúp cô trong lúc cô đau gần chết! Ánh chỉ quý tấm lòng hào hiệp của Hoàng mà yêu Hoàng, mà tự hứa sẽ gìn giữ tấm thân trong sạch, đợi một ngày kia đem hiến cả cho chàng để đền đáp ơn xưa, mặc dầu chỉ một chút ơn nhỏ mọn!
Với ý định đã cương quyết như thế. Ánh từ chối tất cả mọi cảm dỗ. Ánh chỉ lo đi tìm việc làm, để tự lập lấy thân. Ánh nghĩ rằng không lẽ một nữ sinh như Ánh có học đến bậc Trung học, nhan sắc không đến đỗi tệ lắm, lại không tìm được một chỗ làm đường hoàng đủ sống ngày hai bữa hay sao? Ấy thế mà gần một tháng trời, từ ngày thôi việc ở nhà cô Minh Tú, Ánh đã cố công tìm hỏi vẫn chưa được nơi nào.
Một buổi tối, Ánh đi gánh nước ngoài phong tên. Trong khi để đôi thùng chờ đợi đến phiên mình, Ánh đứng dựa cột đèn, băn khoăn nhớ Hoàng. Tình cờ một người bạn gái quen biết từ lâu đi ngang qua. Trông thấy Ánh, cô bạn vui mừng đến gần, nắm tay thân mật:
- Chị Ánh, chu cboa! Sao bây giờ chị đẹp quá vậy chị. Lâu quá xá bữa nay mới gặp chị!
Ánh cũng vồn vã, cười:
- Chớ Hoa không đẹp à? Hoa còn đẹp bằng mấy Ánh nữa đó! Dạo nầy Hoa còn làm nhà in không?
- Còn Ánh à, Ánh muốn làm không, Hoa giới thiệu cho vô làm?
- Làm công chuyện có khó không?
- Có gì đâu mà khó. Mình làm thợ đóng sách, chỉ có việc xếp sách và xép báo thôi.
- Xếp cách nào?
- Ở nhà in chỗ Hoa làm có in một tờ tạp chí, nguyên tờ giấy khổ lớn, thợ in xong hai mặt rồi thì mình gấp lại thành khổ tạp chí 32 trang.
- Có vậy thôi à?
- Ừ, xếp rồi vô bìa.
- Công việc có nhiều không?
- Nhiều chớ, nhà in lớn mà chị. Hiện bây giờ ngoài quyển tạp chí đó mỗi tháng ra hai kỳ, nhà in còn lãnh in bốn quyển sách và một tờ báo hằng tuần. Còn in đồ của chánh phủ thì không kể. Tụi mình làm ngập mặt!
- Họ trả lương khá không?
- Lương công nhựt, mỗi ngày 30$ làm việc 8 giớ. Bữa nào nghỉ ở nhà thì không có lương.
- Thợ làm có đông không?
- Đông lắm. Ê kíp đóng sách làm riêng một phòng, có 20 chị.
- Toàn phụ nữ à?
- Ừ. Tụi con gái như cỡ mình. Hiện giờ công việc dồn lại nhiều quá, ông Quản lý đang kêu thêm thợ. Nếu Ánh muốn làm thì sáng mai Ánh đến mình đưa vô giới thiệu với Thầy Tư, không khó gì đâu.
- Thầy Tư là ai?
- Là Quản lý, em ông chủ. Thầy tử tế lắm, có lúc cộc bỏ xừ, nhưng thường cũng thấy dễ chịu.
- Ừ, sáng mai Ánh đến nhờ Hoa giới thiệu giùm nghe? Có phải lo lót gì không, cứ nói thiệt đi?
Đôi bạn gái nói cười rất thân thiện, vui vẻ.
Hoa có cặp mắt lương, mỗi lúc cô cười cặp mắt híp lại, mà cái miệng thì rộng toe toét, xinh đáo để, Hoa kề vào tai Ánh nói nhỏ:
- Cái thầy Tư đó 35 lắm, nghen! Thầy có bốn vợ, 12 đứa con gái, hổng có đứa con trai nào. Mà ngộ quá, 12 đứa nhỏ cùng một khuôn mặt. Như một cái Cliché mà in ra 12 bản, vậy đó.
Ánh cười:
- Cliché là cái gì?
- Cái bản kẻm để in hình trong sách báo... Thôi, Hoa phải về, kẻo bà già ở nhà chờ. Bữa nay làm việc về trễ, sợ bả đợi.
- Sao làm việc về trễ vậy?
- Bữa nay có công việc gấp, phải làm súp lê măng, Sáng mai 1 giờ, Ánh tới sở nghen, Hoa chờ ngoài cửa nghen?
- Ừ, cám ơn Hoa nhé!
- 2 -
Sáng hôm sau Ánh đến nhà in Minh Tân, đường Thành Thái, Ánh mặc đồ bà ba đen, đi chưn không, tay cầm chiếc nón lá. Nhờ Hoa giới thiệu với thầy Tư, Ánh được nhận vào làm ngay trong phòng đóng sách. Thầy Tư ngó trân trân cô gái mới vô làm, đôi mắt thầy như bị thôi miên bởi sắc đẹp hồng hào diễm lệ của cô. Thầy tủm tĩrn cười bảo:
- Công việc đóng sách nhẹ nhàng thích hợp với đôi bàn tay mủm mỉm của cô lắm.
Ánh trả lời rất lễ phép:
- Dạ, cảm ơn thầy Tư.
Thầy Tư nhìn theo Ánh bẽn lẽn đi với Hoa vào phòng đóng sách...
Ánh theo phép lịch sự chào các bạn đồng nghiệp mới, nhưng cũng có vài ba cô trông thấy Ánh đẹp hơn mình, trẻ hơn mình, đã thầm thì với nhau trề môi bĩu miệng. Không biết họ xầm xì những gì, nhưng xem những cặp mắt họ liếc Ánh và những nét mặt lạnh lùng hay vênh váo, cũng biết là mấy cô ganh tị với cô ả mới vào. Thế là ngay từ buổi đầu nhận công việc làm chung với trên hai chục phụ nữ. Ánh đã có thêm được nhiều bạn mới, mà cũng có nhiều người chị em ghen ghét, Ánh chỉ lo làm phận sự, vui vẻ tử tế với hết thảy mọi người. Nhưng Ánh hết sức bực mình vì thái độ của thầy Tư thường ngày kiếm cơ hội lân la trò chuyện với Ánh. Và cứ mỗi lần thầy kề cà gạ gẫm, thì Ánh dù có đang vui vẻ với bạn gái cũng đổi sắc mặt nghiêm trang liền, không cười đùa tự nhiên nữa.
Làm việc ở nhà in MinhTân, lương trả đủ tiền cơm cho bà cô và giúp đỡ thêm cho bà chút ít, Ánh hết sức tần tiện còn để dành được một số tiền nhỏ. Buổi tối về nhà không mệt mỏi gì lắm và chơi không vô ich, thay vì đọc tiểu thuyết nhảm và đi coi cải lương, hoặc tụm năm tụm ba ngồi lê đôi mách như các bạn gái khác. Ánh tiếp tục đi học đánh máy lớp ban đêm, từ 7 giờ đến 9 giờ. Tối nào Ánh cũng đi học đúng giờ. Đi bộ về đến nhà 9 giờ rưỡi, Ánh thay đồ rồi quay đôi thùng đi gánh nước. Dạo nầy Ánh khỏi gánh nước thuê, nhưng mỗi tối từ 10 giờ đến 11 giờ cũng phải chầu chực ở phong tên để gánh cho được 3 đôi về đỗ lu nước ở nhà bà cô, để đủ dùng trong một ngày. Ấy là nhà chỉ có ba người: bà cô, Ánh và Nhung người con gái của bà cô, còn nhỏ tuổi. Đỗ nước xong, Ánh tắm, giặt, rồi đi ngũ, gần 12 giờ đêm.
Sáng, Ánh dậy bảy giờ, đi bộ đến sở làm, Ánh làm việc rất chăm chỉ, và tận tâm. Tính nết dịu hiền và đứng đắn của cô dần dần thu phục được hầu hết ê kip phụ nữ đóng sách, chỉ trừ có hai người, chị Ba Ngọ và cô Sáu Hà hình như không ưa Ánh. Chị Ba Ngọ ghét Ánh vì vấn đề tiền, do một hôm chị mượn Ánh một trăm đồng mà bốn kỳ lãnh lương chị không chịu trả, Ánh hỏi, thế là chị giận. Giận mà nợ vẫn không trả rồi Ánh cũng không muốn đòi nữa. Còn cô Sáu Hà vì không đẹp được như Ánh, lại thấy Ánh biết chữ nghĩa hơn mình, rồi nghe Ánh còn đi học đánh máy nữa, cho nên Hà ganh ghét và luôn luôn đặt chuyện nói xấu Ánh với các bạn đồng nghiệp.
Một hôm, lòng đố kỵ của Sáu Hà nổ tung ra, làm xôn xao dư luận của toàn thể nhà in Minh Tân, từ lao công đến các nhân viên văn phòng. Hôm ấy là chiều thứ bảy, không biết cô Sáu Hà đã nghe lõm câu chuyện của ai mách lẽo với cô từ hồi nào, mà trong lúc đang xếp báo, cô nói lớn cho tất cả chị em cùng nghe:
- Các bồ ơi, trong tụi mình có con sâu làm sầu nồi canh đó nghen!
Mọi người quây mắt ngó cô Sáu Hà. Cô Liên cất tiếng hỏi:
- Ai vậy?
- Em nói người nào thì người ấy biết, chớ vạch mặt chỉ tên nó ra làm chi?
Cô Thúy hỏi:
- Ờ, nhưng mà chị phải nói rõ ra chớ. Trong tụi mình đây có ai làm chuyện gì bậy sao mà chị nói con sâu làm sầu nồi canh?
Chị Tư Ngọ xen vô:
- Tôi không cần hỏi, tôi cũng biết Hà ám chỉ đứa nào rồi.,.
Mọi người im lặng, xầm xì... Bỗng chị Tư Ngọ lại lên tiếng:
- Con đĩ ngựa đó mà tụi bây hổng biết sao? Nó làm bộ phách chó vậy, chớ hồi trước nó đi ở đầy tớ cho người ta,
Sáu Hà trề cái môi dầy dịch ra, nói tiếp:
- Hồi nó ở xóm An Bình, nó có thằng cha ghẻ làm ma cô, mẹ nó chứa nhà thổ, chớ hay ho gì? Cái ngữ bán khu nuôi miệng, ai người ta còn lạ nữa mà giấu, hẻo!
Sáu Hà nói xong cười rồ lên, có vẻ đắc coi chí lắm.
Nhưng cô Hoa, bạn thân nhứt của Ánh, hỏi gắt gỏng:
- Mày nói ai thi nói rõ ra, nghe Hà?
Hà cự lại:
- Tao nói ai kệ tao, can gì may mà mầy binh?
- Tao không binh ai hết, nhưng mầy phải nói trắng ra trắng, đen ra đen, chớ nội đám nầy ai là đĩ ngựa? Ai là nhà thổ?
- Tao không nói mầy.
- Ừ,thì mầy nói ai, nói ra đi?
Liếc thấy Ánh ngồi cúi xuống làm thinh. Sáu Hà cười gằn, hậm hực bảo:
- Coi nội đây đứa nào mặt dạn mày dày, thì là biết.
Thấy hầu hết mọi người đều ngơ ngác nhìn Ánh. Ánh
chịu không được nữa gục đầu xuống bàn khóc nức nở
Hoa liền đứng dậy chạy đến đánh Hà một bạt tay:
- Đồ khốn nạn! Chỉ ngậm máu phun người!
Hà tức mình đập lại Hoa, thế là hai người lánh lộn. Tư Ngọc nhảy vô binh Hà, đập vào lưng Hoa thùi thụi. Liên và Thúy binh Hoa, thoi vào mặt Tư Ngọc và nắm tóc Hà dần xuống, Ánh tuy còn khóc - nhưng vội vàng chạy đến can gián đôi bên:
- Em lạy các chị… Thôi các chị...
Ánh gỡ tay Thúy và Liên không để cho đánh Hà, và kéo Hoa ra. Mấy cô khác cũng xúm lại can gián, làm náo động cả phòng. Anh em thợ sắp chữ, thợ máy, cũng hùa tới coi đông nghẹt. Mấy cô kia thuật lại cho mấy anh nghe, và nói đúng ra thì chưa ai biết rõ thực hư như thế nào. Bỗng thầy Tư quản lý đi vắng vừa về. Nghe ồn ào trong phòng đóng sách, thầy hoảng hốt chạy vô:
- Chuyện gì vậy?... Chuyện gì vậy?
Một lúc sau, nghe rõ đầu đuôi, và hỏi chứng cứ mọi người, thầy Tư nổi giận hầm hầm bảo Tư Ngọc và Sáu Hà ra văn phòng:
- Hai đứa mầy ra đây. Tao trả lương và đuổi luôn.
Thầy Tư Quản lý đâu có biết rõ đời tư của Ánh trước
khi Ánh vô làm thợ đóng sách ở nhà in của thầy, nhưng thầy mê sắc đẹp của Ánh, muốn lợi dụng cơ hội nầy để tỏ cho Ánh thấy rằng thầy binh vực Ánh, để mua chuộc trái tim của Ánh mà từ lâu thay chưa làm sao chiếm được. Một lẽ nữa, là theo lời khai của tất cả chị em đóng sách, quả thật là Sáu Hà và Tư Ngọc đã gây ra cuộc ấu đã trong giờ làm việc, phá rối kỷ luật và trật tự trong nhà in, cho nên thầy nhứt định đuổi cổ hai người nầy.
Đã 5 giờ rưỡi rồi, là giờ trả tiền lương cho thợ chiều thứ bảy! Nhân công nhà in đã nghĩ việc, chờ lãnh lương. Anh chị em đứng đông nghẹt trong văn phòng, bao chung quanh bàn giấy thầy Tư quản lý, để chứng kiến cảnh tượng xảy ra, chưa kết thúc. Chị Tư Ngọc và cô Sáu Hà khóc bù lu bù loa, năn nỉ thầy Tư cho họ làm lại, nhưng thầy Tư nhứt định đuổi. Thầy viện một lý lẽ không thể nào cải lại được, là hai người đã gây ra cuộc rối loạn trong nhà in giữa giờ làm việc. Thầy trả thêm cho mỗi người một tháng lương và cương quyết không nhận cho họ làm việc lại nữa. Mặc dầu cả hai đều xin lỗi thầy Tư, nhưng thầy cứ một mực không nghe, lại còn nổi giận la lên:
- Nhà in nầy từ trước đến giờ không hề có chuyện lộn xộn hết thảy. Nay hai người gây ra cuộc ấu đả, làm mất hết kỷ luật, thì nhất định là tôi cho nghỉ việc. Đừng có kêu nài vô ích, đi ra để tôi còn trả lương cho anh chị em khác.
Trong lúc Sáu Hà và chị Tơ Ngọ khóc lóc trước mặt chị em nhân công mà không một ai thương hại và can thiệp dùm cho, vì ai nấy đều công nhận là hai người kia có lỗi, thì bỗng dưng Ánh bước đến bàn giấy. Mọi người trố mắt nhìn cô. Cô dịu dàng nói với thầy Tư:
- Thưa thầy Tư, xin thầy tha lỗi cho hai chị ấy, và xin thầy Tư đừng đuổi hai chị. Tôi xin tự nhận rằng tôi cũng có một phần lỗi, và thà tôi tình nguyện xin thôi, để hai chị ở lại.
Thầy Tư cũng ngạc nhiên:
- Ánh có lỗi gì?
Cô Hoa tiếp lời:
- Nếu có lỗi thì tụi tui có lỗi, tôi với Liên và Thúy… vì tụi tôi phải binh vực cho Ánh, chớ từ đầu tới cuối Ánh không nói một tiếng, và không có đập lộn với ai. Nếu Ánh xin thôi thì mấy đứa tôi cũng xin thôi hết.
Ánh không oán gìận chị Ba Ngọ và cô Sáu Hà đã đặt chuyện bêu xấu mình, mà cô lại còn xin thầy Tư đừng đuổi hai bạn đồng nghiệp, cử chỉ ấy khiến toàn thể anh chị em thầy thợ ở nhà in cảm phục và quý mến Ánh. Chị Ba Ngọ và cô Sáu Hà đã ăn năn, Ánh mà họ thù ghét nhất từ mấy tháng nay bây giờ lại là ân nhân của họ. Họ thấy rõ là nếu không có Ánh năn nỉ xin thầy Tư thì họ không thể nào ở lại làm việc trong nhà in được nữa. Tuy nhiên, có lẽ vì lòng tự ái quá mạnh nên cả hai người không ai nói với Ánh được một tiếng cảm ơn. Họ cũng không vồn vã thân mật gì với Ánh. Khác một điều là sáng ngày thứ hai, chị Ba Ngọ đưa 100 đồng bạc trả Ánh, và nói cười giả lả:
- Xin lỗi cô Ánh, nghen! Mượn cô 100 đồng mà để lâu quá bây giờ mới trả được.
Ánh mỉm cười có vẻ thành thật:
- Cám ơn chị.
Còn cô Sáu Hà thì mãi ba ngày sau, bị các chị em chỉ trích, cô mới nói với Ánh một câu:
- Ánh đừng giận tôi, nghen Ánh. Bữa trước tôi nói chơi đó.
Ánh không giận, nhưng rồi Ánh nói với Sáu Hà và chị Ba Ngọ, cùng các chị em khác, biết rõ rằng quả thật Ánh có người cha ghẻ không lương thiện, nhưng chính vì vậy mà Ánh phải bỏ nhà ra đi làm đầy tớ, để giữ vẹn đời mình trong sạch và lo đi kiếm việc làm nuôi sống. Ánh bảo:
- Em thiết tưởng đi làm đầy tớ cho người ta, đâu có phải là một việc đê tiện? Chị em mình làm công cho nhà in thì cũng khác nào làm đầy tớ cho chủ? Miễn là mình lấy mồ hôi của mình mà đổi lấy chén cơm, chớ có khác gì nhau? Trong đời lao động đâu còn phân biệt nghề sang nghề hèn nửa, phải không các chị?
Ánh nói như vậy thì còn ai cãi vào đâu được nữa, cho nên, trong đám hai chục phụ nữ làm thợ xếp báo ở nhà in, tuy có chín mười chị đã có chồng hoặc lớn tuổi hơn Ánh, nhưng họ cũng đều mến phục Ánh và chơi rất thân với cô. Chỉ trừ có cô Sáu Hà và chị Ba Ngọ. Nhất là cô Sáu Hà trẻ tuỗi hơn, (Hà mới có 18 tuổi) nên thiếu kinh nghiệm ở đời, và ích kỷ, lại hay ganh ghét những bạn trẻ đẹp hơn mình và có khả năng hơn mình. Nhưng sau vụ lộn xộn vừa rồi, hai người này cũng hết kiếm chuyện nói xấu Ánh nữa.
Một hôm bỗng nhiên một tin sét đánh làm xôn xao cả ê-kíp phụ nữ. Ánh đang xếp báo vui vẻ với chị em, bỗng anh tùy phái ở trên văn phòng xuống bảo:
- Cô Ánh, thầy Tư kêu cô.
Ánh nghe đến hai tiếng ‘‘thầy Tư’’ liền chau mày, tỏ vẻ khó chịu.
Cô hỏi lại anh tùy phái:
- Có chuyện chi vậy anh?
- Ai mà biết.
Ánh do dự một lúc, xếp thêm vài ba tờ báo nữa rồi đứng dậy đi. Tất cả chị em trong phòng đều nhìn theo Ánh, không ai hiểu chuyện chi.
Ánh lên văn phòng, đã thấy thầy Tư quản lý ngồi chờ cô. Có cả ông Giám đốc, là anh ruột của thầy Tư, đứng dựa vào bàn giấy. Ánh lễ phép chào hai người. Thầy Tư hỏi:
- Nghe nói cô Ánh đánh máy giỏi lắm phải không?
- Dạ thưa thầy Tư, tôi đánh máy được, chớ không giỏi gì.
- Cô học đánh máy đã mấy tháng rồi?
- Dạ thưa thầy Tư, đã 6 tháng rồi.
- Cô có bằng cấp của nhà trường không?
- Dạ thưa thầy Tư, có.
- Cô ngồi bàn kia, đánh cái thư nầycho chúng tôi coi.
- Dạ.
Thầy Tư đưa Ánh một bản thảo bức thư bằng Pháp văn gởi một hãng buôn lớn bên Pháp.
Ánh ngạc nhiên thấy bàn thư ký vắng người. Cô Năm thư ký mọi ngày vẫn ngồi làm việc tại đây, sao sáng nay không đến? Thầy Tư bảo Ánh ngồi bàn ấy, cách bàn của thầy chừng ba thước, và chỉ máy đánh chữ, bảo:
- Cô đánh nhanh lên nhé.
- Dạ.
Ông Giám đốc và ông quản Iý đến gần xem cô làm việc
Máy bắt đần kêu tách...tách..tách..,đều đều... Mười ngón tay búp măng, tuy là ngón tay của con gái lao động nhưng sạch sẽ và nõn nà mềm mại, khẽ nhấn trên các phiếm chữ, lanh lẹ, dịu dàng.
Thầy Tư đê mê đứng nhìn cô thiếu nữ diễm kiều mà khiêm tốn, chiếc áo bà ba đen càng làm nổi bật gương mặt hiền lành, khuôn mặt trái xoan đều đặn với đôi má mơn mởn đào tơ, làn môi thắm tươi như nụ hoa hàm tiếu và đôi mắt huyền thơ ngây đượm nét sầu mơ.
Ba phút sau, Ánh đánh máy xong bức thư dài một trang, với một khoảng trắng chừa cuối tờ giấy để tên ký và con dấu của ông Giám đốc. Ánh rút giấy ra, đứng dậy lễ phép đưa thầy Tư. Hai anh em cùng xem. Thầy Tư muốn ‘‘lấy le’’ với Ánh, thầy lấy giọng đọc lớn bức thư bằng Pháp văn:
-...Monsieur le Directeur de la Nouvell Librairie de France... 61 rue de Vaugiard, Paris 6è...
Thầy Ba và thầy Tư, Giám đốc và Quản lý nhà in, không ngờ cô con gái nghèo làm thợ đóng sách và gấp báo, lại đánh máy được một bức thư dài bằng Pháp văn mà không sót một dấu chấm phết, không sai một chữ và mau lẹ gọn gàng được như thế. Xem cô xử dựng bàn máy chữ một cách thông thạo, nhẹ nhàng, thầy Tư rất bằng lòng.
Nhận thấy khả năng của Ánh, ông Giám đốc bảo cô:
- Chồng cô Năm bị đổi đi làm việc ở tỉnh xa, nên cô Năm cũng phải xin thôi việc ở đây để đi theo chồng. Vậy tôi muốn từ nay cô thay thế cho cô Năm, lên làm thư ký ở văn phòng. Lương hai ngàn đồng mỗi tháng. Cô làm việc ngay từ bây giờ.
Được dùng một cách quá đột ngột như thế Ánh vui mừng và bối rối không biết nói sao.. Cô lặng thinh một phút để trấn tỉnh tinh thần, rồi mới đáp:
- Dạ, xin cám ơn thầy Ba và thầy Tư.
Thấy mình mặc áo bà ba đen mà ngồi nơi bàn thư ký trong văn phòng lộng lẫy nghiêm trang có khách khứa ra vào, Ánh ngượng ngùng bẽn lẽn nói:
- Thưa thầy Ba và thầy Tư, chiều nay tôi nhận việc có được không?
- Tại sao lại để đến chiều?
- Thưa...
Ánh mắc cỡ không dám nói rõ, nhưng thầy Tư hiểu ý cô. Thầy tủm tỉm cười, bảo:
- Tại cô mặc bà ba hả? Cô không có áo dài sao?
- Dạ thưa thầy Tư, tôi có áo dài trắng nhưng để ở nhà.
- Thì tôi cho phép cô đi về nhà bây giờ để mặc áo dài rồi cô đến ngay. Vì công việc ở đây nhiều lắm. Có mấy việc gấp phải làm sáng nay.
Thầy hỏi tiếp:
- Cô đi bằng xe gì?
- Dạ tôi đi bộ.
- Cô có tiền lẻ để đi xe không?
- Dạ có.
- Nhà cô ở đâu?
- Dạ thưa thầy Tư, tôi ở Bàn Cờ.
Thầy Tư muốn cho Ánh tiền đi xe taxi về nhà rồi đến sở cho mau, nhưng thầy có tính hà tiện. Thầy bảo:
- Thế thì cô đi bộ lẹ lẹ, 9 giờ cô trở lại sở thì vừa.
- Dạ... Thưa thầy Tư tôi đi.., Thưa thầy Ba...
Ánh vội vàng ra cửa...
Ông Giám đốc và em của ông ngó theo Ánh... Nàng đi chân không, với bộ đồ bà ba đen rất giản dị, nhưng điệu bộ thướt tha đầy duyên dáng. Ông Giám đốc khẽ nói với người em:
- Còn nhỏ mà thông minh! Có nhiều khả năng hơn cô Năm.
Thầy Tư ngó anh:
- Très jolie, (xinh lắm) hả Anh Ba!
Ông Giám đốc cười:
- Chú thì cả đời chỉ hảo ngọt!
Nói xong, ông đi vào bàn giấy riêng của ông, trong gian phòng kế cận.
Chị em ở phòng đóng sách xôn xao không biết thầy Tư kêu Ánh lên văn phòng làm gì mà mãi không thấy Ánh xuống làm công việc. Đợi lâu quá sốt ruột, cô Hoa liền nói thầm với cô Thủy:
- Thúy ơi Thúy, mầy làm bộ đi ra ngoài uống nước đá, đi ngang cửa hỏi anh Sáu Tôn coi Ánh làm gì ở văn phòng mà lâu dữ vậy?
Thúy gật đầu:
- Ừ, để mình đi hỏi thử coi.
Thúy đi ra một lúc, trở vào nói thầm với Hoa:
- Mầy ơi, con Ánh lên làm việc trên văn phòng mầy à.
- Làm gì?
- Làm thư ký thay thế cho cô Năm.
- Thiệt hả?
- Anh Sáu Tôn nói với tui là cô Năm xin thôi rồi, thầy Ba với thầy Tư kêu Ánh đánh thử một bức thư, thấy Ánh đánh máy thạo nên cho Ánh làm thư ký lương hai ngàn đồng lận mầy ơi?
- Sướng quá há!
- Ánh mặc áo bà ba, thầy Tư biểu Ánh về thay áo dài đến làm việc. Nó về rồi.
- Con nhỏ được lên chức, vậy mà nó không xuống báo tin mừng cho tụi minh chớ!
- Chút nữa nó trở lại làm việc ở văn phòng.
Cái tin Ánh được kêu lên văn phònh làm thư ký thay cho cô Năm, liền được Thúy và Hoa rêu rao cho cả phòng đóng sách biết,
Sáu Hà liền trề mồi, nhíu mặt:
- Dốc!
Thúy xác nhận:
- Thiệt!
- Xí! Chữ nghĩa nó được bao nhiêu mà làm thư ký! Bộ thư ký ai cũng làm được sao?
- Mầy phải biết, Ánh gần có bằng Trung học Đệ nhứt cấp rồi đó. Đâu phải như tụi mình không có cái khỉ mốc gì hết!
Sáu Hà làm thinh. Chị Ba Ngọ đủng đỉnh nói:
- Tại thầy Tư muốn o con Ánh, thầy mới cất nhắc nó lên làm việc bên cạnh thầy, chớ bộ!
Sáu Hà được có chị Ba Ngọ theo phe mình mà dìm Ánh, cô ả nhe răng cười, thỏa mãn:
- Thời buổi này, hễ có đôi chút nhan sắc là ai cũng làm mạng phụ được hết. Tôi thấy nhiều rồi...
Thúy không thích Hà có giọng ganh tị, liền nguýt Hà, rồi bảo:
- Bộ hễ có nhan sắc là lên làm mạng phụ à? Đẹp thì đẹp nhưng phải có khả năng gì người ta mới dùng chớ. Ngu như con bò thì ai mà thèm rớ tới.
- Con Ánh cũng như tụi mình, chớ nó có tài nghệ gì?
- Sao không? Nó biết đánh máy. Nó có học chữ nghĩa. Nội bấy nhiêu đó là làm thư ký được rồi.
Chị Ba Ngọ xen vào với giọng mỉa mai:
- Thôi phận ai nấy lo! Ai được chủ thương thì người ấy nhờ. Tui thì không dám so sánh với ai hết. Biết đâu vài tháng nữa tụi mình phải kêu cô Ánh bằng bà chủ! Ở đời hễ có phước có phần thì không mấy lúc được mần bà nọ bà kia!
Sáu Hà có vẻ tức giận về cái tin Ánh được lên làm cô thư ký, tức giận lắm cho nên cô lại bĩu môi nói xấu Ánh, mà không dám kêu rõ tên:
- Thiên hạ người ta thúi như c...mà cũng có kẻ bê người bồng... kẻ bưng người nịnh... Xí!
Cô Hoa thấy Hà có ý ám chỉ hết thảy những chị em có cảm tinh với Ánh, liền đáp lại:
- Sao cô không học đánh máy cho giỏi như Ánh, coi nào! Cô không đi học Trung học để được làm thư ký như họ? Mình thua sút người ta về đủ phương diện, đáng lẽ mình biết mắc cỡ mới phải, hay là mình cố gắng trau dồi tính nết và học thức, chớ hễ thấy ai hơn mình là mình ghen ghét, thì đâu phải điệu. Liệu ghen ghét người ta thì có làm gì được người ta hông?
Thúy, Liên và mấy cô nữa cũng công kích thái độ của Hà. Cô Ngọc là người ít nói nhất cũng lên tiếng phê bình:
- Người ta vắng mặt ở đây, mà nói xấu sau lưng người ta, thế là hèn.
Hà thấy nhiều người phản đối, tức quá không biết nói sao được nữa liền quăng xấp báo xuống bàn đứng dậy ra dựa vào cửa kiếng, khóc.
Ai nấy đều làm thinh... Bỗng Ánh tươi cười bước vào. Ánh mặc áo dài trắng, mang đôi guốc.
Mới cách nhau có một tiếng đồng hồ mà trông thấy Ánh lạ hẳn. Vì thật là lần đầu tiên chị em đóng sách thấy Ánh mặc áo dài trắng, nổi bậc sắc đẹp lên. Tuy áo may bằng hàng trơn không có hoa hòe gì, nhưng chiếc áo ôm sát vào tấm thân đều đặn nở nang của thiếu nữ, trông thấy Ánh có vẻ đẹp khác thường và oai hơn lúc nàng mặc áo bà ba.
Nhưng Ánh không tỏ vẻ gì khác cả. Rất tự nhiên không vui mừng lăng xăng trước mấy chục con mắt của chị em đồng nghiệp tươi cười nhìn Ánh, Ánh đi lẹ đến gần Hoa, kề vào tai bảo nhỏ:
- Hoa ơi Hoa, thầy Ba và thầy Tư biểu Ánh phải lên đánh máy trên văn phòng.
Hoa cười, nói lớn:
- Chà! Bây giờ được làm thư ký rồi hé?
Thúy ngồi gần đấy, cũng reo lên:
- Sướng quá ta!
Tiếng ‘‘ta’’ kéo dài và lên giọng bông lơn rất thân mật và thú vị, khiến cho tất cả chị em trong phòng đều cười. Ai nấy đều ngưng việc để hỏi han và chúc mừng cô thư ký Lê thị Ánh... Duy có Sáu Hà đã khóc lỡ từ lúc nãy nơi cửa kiếng, nên vừa trông thấy Ánh mặc áo dài trắng bước vào là cô liền ngoảnh mặt ngó ra ngoài đường. Cô dựa sát vào cửa kiếng, không thèm dự vào cuộc vui chung của chị em. Cả Ba Ngọ làn nầy cũng niềm nở hỏi Ánh:
- Ủa, chớ sao cô Năm đi đâu mà thầy Tư bắt Ánh phải làm thư ký?
Câu hỏi của chị Ba Ngọ, tuy là vui vẻ thân thiện nhưng cũng còn ngụ ý mỉa mai và khinh khinh. Ánh vẫn điềm nhiên đáp:
- Cô Năm xin thôi rồi, chị Ba à.
- Bây giờ Ánh thay thế cho cô Năm sao?
- Dạ, thầy Ba với thầy Tư biểu.
Ánh lại kề tai nói nhỏ với Hoa:
- Hoa à, thôi Ánh đi nhé.
Hoa cười:
- Đi đâu bây giờ đó, bồ?
- Ánh xin phép thầy Tư cho Ánh xuống lấy cái nón rồi phải lên đánh máy gấp mấy cái hóa đơn.
- Ừ, thôi Ánh lên văn phòng đi. Tối nay, mình với Thúy tới nhà Ánh chơi được hông?
- Ồ, Ánh thích lắm chớ! Chắc nghen? 7 giờ mình ở nhà chờ Thúy với Hoa đó, nghen?
- Rồi.
Ánh đến lấy cái nón lá gác trên chồng giấy nhựt trình từ lúc vô làm việc. Nhưng Hoa bảo:
- Thôi để nón đó, chút mãn giờ mình cầm giùm ra cho.
- Thiệt hả, Hoa?
- Ừ, cứ để đó.
Ánh quay ngó tất cả chị em ngồi hai bên bàn đầy trước mấy chồng báo và sách bừa bãi trên bàn, và nói một câu dịu dàng, thân mật:
- Chào các chị nhá!
Mọi người đều tủm tỉm cười chào lại. Tiếng cô Ngọc vui vẻ bông lơn:
- Chào cô thư ký!
Tất cả chị em ai nấy cũng tươi cười, tỏ tình thân mến. Ánh bẽn lẽn, và có lẽ sung sướng cảm động, chạy lẹ lên văn phòng... Tà áo trắng của Anh phất phơ như bóng dáng một nàng Tiên...
Nguyễn Vỹ
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...