Trong một vài cuộc trao đổi
về Thơ, chúng tôi thấy có hiện tượng: phái này cho mình là cách tân, phái kia
khẳng định mình là truyền thống, rồi qua đó để khẳng định chất lượng và giá
trị của thơ, xem các phẩm chất trên chính là chuẩn của thơ hay. Và cuộc tranh
luận chẳng có kết thúc…Muốn Thơ có chất lượng cao trước hết phải có một “cái
chuẩn” về Thơ hay. Thơ hôm nay khá đa dạng trong tìm tòi đổi mới,
nhưng theo chúng tôi nhìn chung chưa có một “cái chuẩn” về chất lượng thơ hay
để góp phần định hướng phấn đấu trong sáng tạo cũng như phê bình thơ.
Cái chuẩn đó như thế
nào?
Một số chủ trương
làm mới Thơ, nâng cao chất lượng Thơ chủ yếu là đổi mới về kỹ thuật, là trau
chuốt ngôn ngữ, dụng công nhuận sắc các con chữ, các con âm theo
kịp các trào lưu hiện đại phương Tây. Số khác kiên trì đi về phía truyền
thống, cố gắng dân gian hóa thơ ca của mình theo một lối dân dã mới, gắn
với cuộc sống thời mở cửa. Đa phần quan niệm phấn đấu đạt chất lượng
cao chủ yếu là ở cách nhìn cuộc đời, cách cảm nhận mới mẻ về đời. Cái mới về
cách nhìn cuộc đời sẽ kéo theo sự đổi thay về nghệ thuật (thi pháp).
Các phương cách sáng tạo đó không phủ định nhau mà chỉ góp phần
làm phong phú Thơ. Tuy nhiên để không sa vào cái chân, giả lẫn
lộn mà thời nào cũng có và người đời hay mắc phải có điều cần
lưu ý.
Nhà thơ lớn nào cũng là bậc thầy về ngôn ngữ, về kỹ thuật thơ ca, nhưng cái
người ta suy tôn trựớc hết là ở cái nội dung lớn lao, cao cả mà nhà
thơ làm rung động tâm can nguời đọc chứ không phải ở cái phép “phù thủy” của
kỹ thuật. Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… sống mãi trong lòng mọi
người là ở tấm lòng nhân mênh mông của các vị. Độc giả muốn
tìm một ý nghĩa gì đó về thân phận con người về thế giới đa sắc đa hương được
các tác giả thể hiện làm cho tâm hồn mình thêm giàu có chứ không phải để
ngạc nhiên trước các thủ thuật thơ ca.
Ở Phương Đông
và Việt Nam nói riêng thời nào cũng có những nhà thơ coi trọng hình thức, những
nhà thơ duy mỹ ưa chuộng sự kỳ dị hiểm tích trong việc dùng chữ, gieo
vần. Vào cuối thế kỷ trước bên Âu Mỹ có các trường phái Thơ Ngôn Ngữ, Thơ Tân
Hình thức, cũng với khuynh hướng trau chuốt hình thức, tuyệt đối hóa ngôn ngữ,
nó lan nhanh sang các nước và thịnh hành trong một số nhà thơ Việt Nam
hải ngoại cũng như quốc nội và không phải không có những thành công
nhất định, nhưng cũng có không ít những vấn đề khiến người đọc băn
khoăn, suy nghĩ khi những đặc tính của nó được áp dụng vội vã. Một điều
cần lưu ý: tuy cùng là một biểu tượng nghệ thuật, nhưng Rồng
ở Phương Tây là con ngựa có cánh - biểu trưng cho đời sống du mục
của các quốc gia cổ hình thành xung quanh Địa Trung Hải , Rồng Phương Đông
lại là con rắn có móng - đặc trưng cho châu Á nơi nông
nghiệp với nghề lúa nước là ngành sàn xuất chính. Do đặc thù đời sống
mà biểu trưng nghệ thuật trong cùng một phạm vi vẫn chẳng giống
nhau. Tuy cùng hướng đến Chân, Thiện, Mỹ nhưng màu sắc đậm nhạt, nặng nhẹ ở
Đông, Tây các thời kỳ không hoàn toàn giống nhau. Việt Nam trong trường kỳ lịch
sử do cuộc đấu tranh sinh tồn giữ vững bờ cõi, giữ nền văn hóa, do ảnh hưởng
mạnh của Tam Giáo, truyền thống trong văn chương chức năng giáo dục,
Cái Thiện có phần nặng hơn. Các yêu cầu “tải đạo”, “ngôn chí”,
“tâm linh” là kim chỉ nam cho văn học một thời (nổi bật đó là cái đạo
làm người, cái chí cứu nước, cái tâm linh tưởng vọng tổ tiên của người
dân bản địa); ngày nay có khía cạnh nào đó vẫn còn khả dụng và
theo thiển ý chúng tôi chính nó góp phần làm nên cái bản sắc Việt
Nam đương đại trong nghệ thuật.
Các khuynh hướng đổi mới của nghệ thuật hiện đại nói chung và thơ
ca nói riêng đa phần đều nghiêng về phương Tây, khác với các cụ ta
ngày xưa hướng về phương Bắc. Các cụ trong những thành tựu cuả
mình đã biết chọn lọc hấp thụ cái phần tinh hoa của xứ người, không
vội vã chạy theo cái là lạ về hình thức khi chưa có sự thấu
đáo về cái cơ sở, cái nền móng xã hội, cái tâm lý dân tộc có tương
đồng hay không! Triết học duy lý đưa phương Tây phát triển thần kỳ về
nhiều mặt, đặc biệt là kinh tế, và Phương Tây có thế mạnh
trong nhiều trạng thái tư duy của nhiều thế hệ trí thức trong đó có
tư duy nghệ thuật. Nhưng càng gần đến thế giới hiện đại thì tư duy
phương Đông (chủ toàn) lại tìm được thế cân bằng với phương Tây và
bổ sung nhiều khiếm khuyết mà chính bởi cái chất duy lý
(chủ biệt) một thời nảy sinh.
Xã hội Phương Tây, có thể vào những thời điểm nhất định các vấn đề nội dung
xã hội, nội dung nhân đaọ, dân chủ của nghệ thuật nói chung và thơ ca nói
riêng coi như đã rõ ràng, thống nhất, đã tạo một đường “pit ” cho nghệ thuật.
Cái mới chủ yếu là sự tìm tòi phương thức biểu hiện, cho nên họ
hướng mạnh vào hình thức, vào các phương thức biểu hiện, còn ở phương
Đông, đặc biệt ở các nước từ chiến tranh bước ra, từ nghèo nàn lạc hậu đi
lên, nhiều cải cách về nội dung xã hội về đời sống tinh thần đang ở giai đoạn
phân tranh. Cái phần “ngoại vi“ mà văn chương Việt đứng vào trong nền
văn chương thế giới hình thành và phát triển ắt có một quy luật riêng,
cái riêng này tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam trên con đường độc
đáo để xây dựng kinh tế cũng như văn hóa của mình.
Vấn đề chính nổi cộm trong thơ và phê bình thơ hiện nay theo ý chúng
tôi cái chính là sự chưa thống nhất giữa quan niệm về cái mới và cái
đẹp hay nói một cách khác chưa thống nhất một “cái chuẩn về
Thơ hay”
Sự phát triển của VH - NT đương đại hướng đến hai tính chất thoáng
nhìn như “trái ngược” nhưng thực ra có một quan hệ biện chứng,
là đồ thị một hệ phương trình mà trục tung là tính dân tộc (truyền
thống) trục hoành là tính hiện đại (cái mới), tuy có hai tham số
nhưng tích hợp lại cùng một phương. Cái khó là tìm ra phương tích
hợp của đồ thị, cũng tức là tìm ra chân giá trị của tác phẩm, sự
thống nhất hai phẩm tính đó trong một hình tượng nghệ thuật thơ. Vì giữa
các khái niệm Mới, Đẹp, Hay của thơ ca không phải lúc nào
cũng chồng khít lên nhau. Có người nặng về cái mới, cái lạ, có người
thiên về cái truyền thống và cho đó chính là cái đẹp - mục tiêu của
Thơ. Sự bộn bề của Thơ bắt nguồn từ đó. Thơ hiện nay quả thật đang trong “cuộc
kiếm tìm” và phê bình thơ cũng vậy, trước mắt là những câu hỏi lớn về truyền
thống và cách tân, về sự hội nhập và bản sắc dân tộc, về cái đẹp chân chính của
thơ. Con đường gập ghềnh của sự đi tìm “cái khác lạ” đã thành vệt tự ngàn
xưa, phê bình giúp thơ và cũng tự giúp mình khỏi vấp ngã trên con đường đó,
tìm ra được cái chuẩn của thơ hay. Theo chúng tôi, đó chính là vấn
đề của Thơ và sự đọc cũng như phê bình thơ hiện nay và quả thật chưa có công
trình nào giải quyết tạo được sự đồng thuận trong các giới. Để thực sự còn lại
với thời gian, thơ và phê bình thơ không nên xa rời cái chuẩn mà đời sống yêu
cầu trong cuộc phối sinh cùng với những khả thể của thơ. Dẫu rằng Thơ có những
đặc tính và sức mạnh riêng nhưng Thơ không tự đặt ra một cái chuẩn “tự mình”.
Trong những tiêu chí tạo nên cái chuẩn chất lượng cao này chúng tôi
cho rằng tính lý tưởng toát lên từ cuộc sống hiện tại vẫn là hàng đầu,
thứ mới đến những vấn đề của thi pháp. Để chiếm lĩnh tình cảm người đọc
không nên dừng lại nơi thói quen cảm thụ đã thành nếp nhưng cũng không phải bằng
sự hướng chú ý của họ vào cái mới của phong cách thể hiện qua ngôn ngữ
kỳ khu hoặc qua những hình thái tổng hợp bí hiểm vô thức, siêu thực; cái
chính ở lý tưởng nhân văn mà tác giả trình bày trung thực. Sự tác động thiết
thực vào tâm tư tình cảm của người đọc hiện tại không thể bỏ qua để hướng đến
một thế giới mơ hồ nào đó. Đối chiếu các chặng đường phát triển nghệ thuật thời
gian qua cho thấy thể loại nào mà phát triển có tiếng vang, nhiều độc giả tìm
đến, đều có gốc rễ từ việc luôn đề cập đến những vấn đề độc giả quan tâm, với
một hình thức độc giả ưa thích. Mấy mươi năm qua có một thời kỳ văn xuôi nổi
trội, rồi thời sôi nổi của kịch, cũng có lúc thơ nổi lên như một hiện tượng đều
không ngoài quy luật đó.
Nói về ý nghĩa, sự ảnh hưởng của cái “mới”, “cái lạ” của ngôn ngữ nói riêng
và các hình thức nghệ thuật nói chung, chúng tôi rất tâm đắc với câu nói cuả
B. Barain được J.P. Sartre trích dẫn trong tác phẩm của mình: “Các từ
là những khẩu súng đã nạp đạn. Nếu ông nói nó sẽ nổ. Ông có thể nín lặng,
song bởi vì ông đã quyết định bắn cho nên đấy phải là một con người nhắm đích mà bắn chứ không phải là một đứa bé hú họa nhắm mắt mà bắn và chỉ để
thích thú vì nghe tiếng nổ .” (*)
Cách tân hay truyền thống,
suy cho cùng đó không nên là mục đích tự thân của thơ, đó chỉ là phương tiện,
cái mục đích, cái cuối cùng của thơ, cái đích bắn là sự tác động vào tâm hồn
người đọc, còn tiếng nổ - các kiểu ngôn từ - có thể làm thích thú ai đó
nhưng đó không phải là cái đích của thơ ca.
(*) J.P.Sartre - Văn
học là gì - NXB Hội Nhà văn 1999- Tr31- Nguyên Ngọc dịch.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét