Đỉnh Gió Hú 1
Nguyễn Tường Thiết giới thiệu
Tác giả Emily Bronte (1818-1848) và Wuthering Heights
Emily Bronte sinh năm 1818, con một vị mục sư nghèo và nghiêm khắc người Ái Nhĩ
Lan, mẹ là người Anh. Nữ sĩ là người thứ tư trong số sáu chị em, năm gái một
trai, trong đó chị là Charlotte và em gái là Anne đều là văn sĩ danh tiếng. Gia
đình ở Thornton, một làng xa xôi khuất nẻo thuộc tỉnh Yorkshire, Anh quốc. Mấy
chị em sinh trưởng ở đấy như những cô gái cấm cung ít được tiếp xúc với đời.
Emily Bronte rất ít có cơ hội đi học, và tuy sự học chẳng đi đến đâu, cô cũng
có thời gian đi dậy học tại Halifax năm lên 18 tuổi. Nhưng sáu tháng sau cô trở
về vì cảm thấy nghề làm cô giáo vất vả quá. Không kể một vài lần đi thăm viếng
những thành phố lân cận, Emily suốt đời quanh quẩn ở nhà, kéo dài những ngày
tháng nghèo nàn bệnh hoạn giữa khung cảnh thê lương của miền hoang dã. Năm ba
mươi tuổi, nữ sĩ chết vì bệnh lao sau khi đã tận tụy làm việc để cứu giúp người
em trai nghiện rượu và thuốc phiện. Để đền bù lại, người em trai này đã chết
trước Emily ba tháng.
Thoạt tiên ba chị em chung nhau xuất bản một tập thơ nhưng không thành công, và
xoay sang viết tiểu thuyết. Charlotte viết cuốn Jane Eyre (Kiều
Giang) và được hoan nghênh ngay. Emily viết cuốn Wuthering Heights tức Đỉnh
Gió Hú này dưới bút hiệu là Ellis Bell và xuất bản vào cuối năm 1847, một
năm trước khi nữ sĩ qua đời tại Haworth vào ngày 19 tháng chạp năm 1848.
Mới đầu ít người biết thưởng thức tác phẩm này. Đối với thời cổ xưa ấy người ta
cho là thô lỗ, tục tằn. Nhưng rồi càng ngày người ta càng nhận thấy chân giá trị
của nó và hoan nghênh nhiệt liệt. Chua chát thay, Emily đã không còn sống để biết
mình nổi tiếng.
Nhà văn W. Somerset Maugham đã chọn Đỉnh Gió Hú là một trong mười cuốn
tiểu thuyết ông cho là hay nhất thế giới.
Ông viết: "Đỉnh Gió Hú không phải là một cuốn sách để chúng ta đàm luận,
nó là một cuốn sách để chúng ta đọc... Nó chứa đựng một thứ mà rất ít tiểu thuyết
gia có thể cho chúng ta, ấy là Năng lực. Tôi chưa thấy một cuốn tiểu thuyết nào
mà nỗi buồn rầu thống khổ, niềm vui sướng điên cuồng, tính độc ác vô tình, sự
ám ảnh của ái tình được diễn tả một cách kỳ diệu như trong Đỉnh Gió Hú."
Dịch giả Nhất Linh (1906-1963) và Đỉnh Gió Hú
Đỉnh Gió Hú là tác phẩm dịch thuật duy nhất của văn hào Nhất Linh.
Ông đã dành những giờ rảnh hiếm hoi trong cuộc đời rất bận rộn của ông để dịch
cuốn Wuthering Heights này từ nguyên tác Anh ngữ phối hợp với bản
Pháp ngữ Les Hauts de Hurle-Vent của dịch giả Frédéric Delebecque. Đầu
tiên ông dịch nhan truyện là Mỏm Gió Hú, sau mới sửa thành Đỉnh Gió
Hú trước khi đăng một phần trên Nguyệt san Tân Phong (Sài Gòn,
Việt Nam) vào năm 1960.
Trong bản thảo viết tay mà chúng tôi hiện giữ có ghi những mốc thời gian từ lúc
khởi dịch cho đến khi kết thúc: 19-12-1952, 21-8-1953, 27-6-1960 và 18-1-1962.
Như vậy, sau khi viết xong cuốn tiểu thuyết sau cùng Giòng sông
Thanh Thủy vào năm 1961, Nhất Linh đã cố gắng mà không dịch xong Đỉnh
Gió Hú trước khi ông qua đời vào ngày 7-7-1963.
Năm 1974 chúng tôi phụ trách nhà xuất bản Phượng Giang có nhờ nhà văn Bảo Sơn dịch
tiếp và Đỉnh Gió Hú được xuất bản lần đầu tiên năm 1974 tại Sài Gòn,
Việt Nam.
Hiện nay vì không có trong tay ấn bản của nhà Phượng Giang để in lại, nên chúng
tôi quyết định đánh máy từ bản thảo của Nhất Linh và tự dịch tiếp một số chương
cuối để hoàn tất và tái bản cuốn truyện giá trị này. Chúng tôi cố gắng theo sát
tinh thần dịch thuật của văn hào Nhất Linh để giữ cho hơi văn toàn tác phẩm được
thuần nhất.
Về phương diện khả năng ngoại ngữ, có thể văn hào Nhất Linh không phải là trội
bật so với nhiều dịch giả khác, nhưng về mặt thận trọng và nhất là qua tâm hồn
tinh tế của một nhà văn sâu sắc như Nhất Linh, chúng tôi có thể đoan chắc ông
đã diễn đạt được, qua bản Việt ngữ, những ngõ nhách thâm sâu nơi tâm hồn những
nhân vật trong tác phẩm kỳ lạ này của nữ văn hào Anh quốc Emily Bronte.
Dịch giả Nhất Linh đã ca tụng Đỉnh Gió Hú như là một trong những cuốn
truyện hay nhất thế giới. Trong cuốn biên khảo của ông Viết và đọc tiểu
thuyết, Nhất Linh đã xếp Đỉnh Gió hú vào "những sách hay của
nhân loại, đời đời công nhận, có giá trị bền mãi với thời gian, như những cuốn Chiến
tranh và Hòa bình, An-Na Kha-Lệ-Ninh, Tình nghĩa vợ chồng, Một bản đàn của
Tolstoĩ, cuốn Những linh hồn chết của Gogol, cuốn Mấy anh em
Karamazov, Những người bị ám ảnh của Dostoievsky..."
Cũng trong cuốn biên khảo đó, Nhất Linh còn viết: "Trong cuốn sách lạ lùng
của nữ văn hào Anh quốc Emily Bronte, cuốn Đỉnh Gió Hú, xuất bản năm 1847,
tác giả đã để một người vú già kể chuyện lại. Một vú già kể chuyện thì còn làm
gì có những chỗ giảng giải về tâm hồn, ý nghĩ nhân vật nữa, tuyệt nhiên không
có, tuyệt nhiên vú già chỉ là người đứng ngoài thôi. Thế mà chỉ bằng một giọng
kể chuyện rất thường, bằng những chi tiết, vú già đó đã cho người ta thấy tất cả
cái sâu xa của tâm hồn người trong truyện."
Dẫn vào Gió Hú
Nơi một chiếc bàn tròn nhỏ sát cửa kính nhìn ra hồ Green Lake... tôi đã tìm được
một nơi lý tưởng để "viết".
Bàn thật nhỏ. Tôi phải thu xếp gọn để có thể đặt được mọi thứ trên đó. Chiếc
"laptop" đã chiếm gần hết mặt bàn. Phần còn lại dành cho ly cà phê Starbucks,
chiếc bánh croissant bơ, nhật báo Seattles Times. Còn tập bản thảo dịch Đỉnh
Gió Hú của Nhất Linh tôi chưa biết đặt ở đâu đành để chồng lên trên tờ
báo.
Đầu mùa hạ, tôi về hưu. Tôi tự đặt cho mình những công việc phải làm. Ví dụ như
phải vận động để giữ sức khỏe tốt, phải đánh máy bản thảo của ông cụ, bản thảo
dịch cuốn tiểu thuyết Wuthering Heights của Emily Bronte, phải tiếp tục
việc làm của ông cụ là dịch nốt một số chương cuối của cuốn tiểu thuyết, công
việc ông cụ chưa hoàn tất khi qua đời.
Tôi tìm được một nơi có thể thực hiện cả hai thứ một lúc. Hồ Green Lake và quán
cà phê Starbucks. Buổi sáng tôi thức dậy sớm lái xe đến hồ, đậu xe ở parking,
chạy bộ một vòng quanh hồ chu vi 5 cây số, rồi tay xách cặp laptop, tôi đi
ngang vườn hoa băng qua đường vào quán cà phê.
Nơi đó nếu phía trong quán khách không ngồi đông lắm như hôm nay, tôi có một chỗ
ngồi lý tưởng có thể vừa đánh máy vừa nhìn được cảnh bên ngoài.
Qua cửa kính bên kia đường là khu vườn cây rậm rạp. Những hàng cây phong thẳng
tắp. Ở cuối hàng cây hồ Green Lake lấp loáng trong ánh nắng. Thứ nắng lăn tăn
trên nước tôi thoáng thấy trong trí nhớ từ thương xá Tràng Tiền Plaza Hà Nội
nhìn sang bên kia đường khu vườn cây, sau những hàng cây xà-cừ đậm màu lá xanh
có nắng nhấp nháy trên mặt Hồ Gươm.
Trên vỉa hè dưới hàng hiên rất đông người uống cà phê. Hôm nay hình như khách uống
đều dồn cả ra ngoài vỉa hè để ngồi phơi mình dưới con nắng tươi mát hiếm hoi của
miền Tây Bắc. Những chiếc bàn tròn, ghế sắt, sơn màu xanh mạ, màu Starbucks của
những vòng tròn xanh trên cốc giấy cà phê, trên tạp dề những cô con gái tóc
vàng đứng sau quầy.
Tôi cúi xuống cầm tập bản thảo. Tôi đã giữ tập bản thảo này từ hồi nào nhỉ?
Không nhớ. Một quyển tập bìa cứng, khổ lớn, 20x27cm, gồm 200 trang giấy ca-rô,
trang đầu ông cụ viết nắn nót bằng màu mực xanh lá cây.
EMILY BRONTE
MỎM GIÓ HÚ
NHẤT LINH dịch
PHƯỢNG GIANG
1952
Chữ MỎM xóa đi bằng bút chì, thay bằng chữ ĐỈNH, viết bằng mực đen, ngay phía
trên. Lật sang trang ba tôi dò đọc những hàng chữ rất nhỏ của ông cụ và bắt đầu
đánh máy:
"Năm 1801 - Tôi vừa đi thăm ông chủ nhà về. Vùng này đối với tôi thực là
tuyệt, có lẽ trong toàn cõi nước Anh tôi không thể tìm được một nơi nào xa cách
sự huyên náo như ở đây. Thật là cõi thiên đường của những kẻ chán đời: Ông Hy đối
với tôi là hai người hoàn toàn hợp với vùng hiu quạnh. Ông Hy chắc không ngờ
tôi có thiện cảm với ông ngay, mặc dầu lúc tôi cho ngựa tiến lên, hai con mắt
đen của ông sâu hoắm nhìn tôi một cách nghi hoặc và lúc tôi xưng danh, các ngón
tay của ông lại thọc sâu một cách rất quả quyết vào túi áo.
Tôi hỏi: ‘Thưa ông, ông có phải là ông Hy 1 không?’
Ông ấy chỉ gật đầu, không trả lời."
Tôi ngừng tay trên phím chữ. Ông cụ viết bằng mực xanh, những chỗ sửa chữa viết
bằng mực đen. Như vậy là ông cụ không sửa ngay khi vừa viết xong một đoạn, như
thói quen viết văn của tôi. Câu: Thật là một cõi thiên đường của những người
chán đời đầu tiên ông cụ viết là thiên đường của những người yếm thế. Còn
câu: Ông ấy chỉ lẳng lặng gật đầu được sửa thành Ông ấy chỉ gật
đầu, không trả lời.
Bên cạnh niên hiệu 1801, có ghi một hàng nhỏ 19-12-52. Đây là ngày Nhất Linh khởi
dịch Đỉnh Gió Hú.
Những dòng chữ đó thật xa. Ông cụ ở đâu vào ngày 19 tháng 12 năm 1952, khi viết
những dòng chữ này?
Sát gần tôi, bên kia cửa kính, là phía sau đầu của một cô gái Mỹ. Cô ngồi ngửa
trên chiếc ghế sắt ở ngoài hiên, đầu ngả sát cửa, chăm chú đọc một quyển tiểu
thuyết. Bàn tay cô đưa lên sau gáy lùa nghịch mái tóc. Những ngón tay cử động
chậm rãi, lơ là. Một ngón tay xoay xoay cuốn tròn lọn tóc xung quanh ngón rồi
bàn tay cô nắm vuốt từ từ kéo xuống phía dưới, lọn tóc tơ óng ả căng như thỏi kẹo
kéo màu bạc trắng một thuở nào ông bán hàng kéo dài trong tuổi thơ tôi. Năm đó
tôi 12 tuổi.
Tôi mở cửa vào phòng ông cụ, một gian buồng nhỏ trong căn nhà của bác Thụy tôi
số 12P đường Chasseloup Laubat Sài Gòn. Ông cụ viết những dòng đó trên chiếc ghế
vải trong tư thế nửa nằm nửa ngồi. Thảo nào bản thảo Đỉnh Gió Hú là một
tập sách bìa cứng.
Tôi lật xem từng tờ của quyển bản thảo. Bên lề cứ cách mấy trang lại có ghi những
dấu thời gian. 24-12-52, 1-1-53 (10 giờ tối). Bên dưới ngày 5-1-53 lại ghi thêm
hàng chữ nhỏ: Thiếu thuốc lá văn vô vị, 4 giờ sáng mua ở đâu ra, hỡi trời?
Dưới đó lại viết: 5 giờ sáng mua được hai điếu của người phu xe, lại có cà phê
ngon của anh Trí. Mấy phút tuyệt hảo.
Thú vị quá! Ông cụ chắc không thể ngờ rằng thằng con ông hơn nửa thế kỷ sau đã
khám phá một cách hứng thú những dòng chữ chua bên lề bản thảo.
|
|
Những hàng chữ này ông cụ viết ở nơi nào? Chắc chắn không phải
ở nhà bác Thụy, vì bác Nguyễn Gia Trí không bao giờ ngủ qua đêm ở đó. Đúng rồi!
Thời gian này ông cụ đã thuê một căn nhà riêng để lấy chỗ làm việc. Tôi chưa
bao giờ đến đó nhưng các anh tôi nói đó là chỗ làm việc chung của ba người: Nhất
Linh, Nguyễn Gia Trí, Trương Bảo Sơn. Gian nhà nhỏ nằm trong một con hẻm, hẻm
đình Phú Thạnh; đầu hẻm đâm ra đường Lê Văn Duyệt, khúc ngã tư Phan Đình Phùng,
gần Tòa Đại Sứ Miên.
Tôi đánh máy tiếp. Trong lúc tay tôi lua đi trên phím chữ, mắt theo dõi những
hàng chữ nhỏ li ti trên bản thảo thì trí tôi lại trôi ngược về quá khứ.
Đà Lạt một nửa thế kỷ trước.
Năm 1956 - Ông cụ dịch được non nửa cuốn truyện của Bronte và tôi lần đầu tiên
đọc Đỉnh Gió Hú. Quyển truyện này cuốn hút tôi mãnh liệt ngay từ chương đầu.
Một đoạn văn ma quái của Emily Bronte để dấu ấn rất mạnh trong óc tôi.
Năm ấy ông cụ ở căn nhà số 19 đường Đặng Thái Thân Đà Lạt. Trên đỉnh đèo Prenn
con đường Nguyễn Tri Phương dẫn vào thành phố. Tại một khúc cong, cạnh tòa nhà
số 17, một con đường nhỏ, cụt, trải đá vụn dẫn vào tòa nhà "Gió Hú" của
chúng tôi. Đó là một căn nhà bằng đá, tường dầy, cửa sổ thụt sâu, mái nhọn, đứng
một mình, chênh vênh nhìn xuống một triền đồi thông trùng điệp, một biệt thự duy
nhất còn đứng vững trong một khu vực toàn những căn nhà bỏ hoang xây cất từ thời
Pháp thuộc.
Tuy là nơi cư trú của cả hai gia đình, gia đình chúng tôi và gia đình ông bà Lê
Đình Gioãn, nhưng vì hồi đó phần lớn những người của hai gia đình đều sinh sống
ở Sài Gòn, thỉnh thoảng mới kéo nhau lên Đà Lạt, nên trên thực tế "Gió
Hú" của chúng tôi rất ít người ở. Thường xuyên chỉ có mặt ba người sống lặng
lẽ ở đó là ông cụ, chị Thoa và tôi.
"Would you like to try some?"
Tôi ngửng lên. Cô gái Starbucks chìa khay trước mặt tôi. Trên khay có những miếng
bánh được cắt thành hình hộp nhỏ vuông vắn, mỗi miếng có gắn que tăm. Tôi kẹp
tăm giữa hai ngón tay, ngước nhìn cô gái nói cám ơn rồi tôi cúi xuống tiếp tục
đánh máy:
"Tòa nhà của ông Hy lấy tên là Đỉnh Gió Hú: sở dĩ gọi Gió Hú vì những khi
trời bão, gió lồng lộng hú lên trong tòa nhà đó. Trên mỏm cao ấy chắc quanh năm
không khí trong lành. Người ta biết ngay gió bấc trên đó thổi rất mạnh vì những
cây thông cằn mọc ở đầu nhà nghiêng hẳn về một phía và một dẫy cây gai chĩa
cành về một bên như muốn dướn ra đớp lấy ánh sáng mặt trời. Cũng may tòa nhà
xây cất chắc chắn, cửa sổ hẹp thụt sâu vào tường và có viền đá nhô ra để chắn
gió."
Đoạn văn trên đây của Emily Bronte khiến tôi liên tưởng đến căn nhà "Gió
Hú" của chúng tôi. Ngoài nhìn vào thì trông như nhà một tầng, nhưng thật
ra là ba. Từ cửa tò vò đi vào là gian chính, gồm một phòng khách thật lớn và
hai buồng ngủ. Ngay sau cửa vào có hai cầu thang, một đi lên, một đi xuống. Đi
lên là gác xép. Đi xuống là nhà bếp. Gác xép là nơi ngủ của bọn con trai chúng
tôi. Khi các anh tôi và các anh con bác Gioãn từ Sài Gòn kéo lên thì chúng tôi
chen chúc nhau ngủ trên đó. Đến khi các anh ấy về lại Sài Gòn thì tôi ngủ ở đấy
một mình.
Những đêm mưa nằm ngửa nhìn lên những cây đà gỗ bắc xiên xuống, tai nghe rõ từng
tiếng mưa đập trên mái ngói và cảm nhận khí lạnh ẩm ướt của miền cao nguyên
theo gió len vào phòng qua các khe hổng nhỏ giữa những xà ngang. Qua những khe
đó vào đêm giông bão tôi nghe cây thông sau nhà quằn quại đập cành vào cửa sổ
gác xép, nơi đó thỉnh thoảng lóe lên một ánh chớp làm sáng hiện những giọt nước
mưa trượt đi chạy ngoằn ngoèo trên mặt kính.
Dưới nhà căn phòng khách là giang sơn của ông cụ. Phòng có rất nhiều cửa kính
nhìn xuống triền núi. Màu lá cây của rừng thông trải dài xuống cuối thung lũng
sâu. Rừng thông nối nhau nhấp nhô trên những quả đồi thấp đến tận chân trời,
nơi đó màu xanh mạ chuyển dần sang màu xanh lam. Trong phòng khách ông cụ treo
rất nhiều hoa phong lan trên tường. Trên sàn nhà cũng đặt nhiều chậu lan đất,
phần lớn là lan Thanh Ngọc. Chúng ôi được lệnh phải cởi giầy khi bước vào phòng
này, vì sàn nhà lúc nào cũng sạch bóng được lát bằng những miếng gỗ đặt chéo
nhau. Mỗi tháng một lần tôi thấy ông cụ bò trên sàn nhà lấy giẻ bôi xi-ra đánh
bóng từng phiến gỗ một. Giữa phòng có bộ xa-lông, trên chiếc bàn tròn, tôi thấy
hai tập bản thảo của ông cụ, tập Xóm Cầu Mới gồm 4 quyển và một tập Đỉnh
Gió Hú. Những hôm ông cụ vắng nhà tôi thường vào phòng khách tẩn mẩn giở những
tập này ra xem. Tôi không đọc mà chỉ nhìn những hình ông cụ vẽ trong hai tập bản
thảo. Tôi nghiệm ra rằng thời gian này ông cụ chỉ đụng đến tập Xóm Cầu Mới,
còn truyện dịch Đỉnh Gió Hú ông cụ không ngó ngàng tới. Chính vì thế
mà tôi nghĩ nếu mình có "mượn tạm" mấy ngày cuốn truyện dịch mang lên
gác xép đọc thì chắc là ông cụ cũng chẳng hay biết.
Chị Thoa là người đầu tiên đặt nghi vấn căn nhà này có ma. Tuy trong bụng không
tin nhưng tôi bắt đầu cảm thấy rờn rợn. Tôi bắt đầu sợ bóng tối. Tôi sợ những
đêm mưa gió. Mà Đà Lạt trong trí tưởng tôi thì hầu như quanh năm lúc nào cũng
mưa gió. Những đêm nằm trong bóng tối tôi nghe những giọt mưa rỉ rả rơi trên
mái ngói, tiếng mưa miên man rền rĩ trôi vào trong giấc ngủ tôi. Kể từ ngày chị
Thoa nói nhà có ma tôi chong đèn suốt đêm, cái ngọn đèn điện nhỏ ở đầu giường
trước đây tôi thường tắt trước khi ngủ.
Cho đến một đêm kia thì tôi tin là nhà có ma thật. Bởi vì chính tôi nhìn thấy
"nó" tận mắt. "Nó" hiện ra sau cái cửa sổ kính kia vào một
đêm mưa bão. Đêm ấy nơi cửa sổ kính lóe lên một lằn chớp. Tôi thấy sau những giọt
nước mưa chạy ngoằn ngoèo trên mặt kính là khuôn mặt ướt át tái nhợt của một cô
con gái ở ngoài nhìn trừng trừng vào trong.
Chỉ một thoáng thôi. Nhưng tôi đã bừng dậy. Hoảng sợ tôi hấp tấp bước xuống cầu
thang. Qua cánh cửa mở buồng ngủ nhà dưới ông cụ vẫn còn ngồi viết dưới ánh
sáng một ngọn đèn chụp. Tôi hấp tấp quá thành thử gây tiếng động mạnh. Ông cụ
quay đầu về phía sau nói: "Con chưa đi ngủ à?" Không biết trả lời ra
sao tôi lẳng lặng đi vào buồng tắm giả vờ như đi tiểu.
Lát sau tôi lên gác. Tôi ngồi bên cạnh giường, mắt không rời ngọn đèn con. Tôi
tránh nhìn bóng tối. Tôi tránh nhìn cửa sổ.
"... tôi bắt đầu díu mắt lại nằm dài trên giường ngủ thiếp đi. Từ lúc tôi
biết đau khổ đến giờ chưa có một kỷ niệm nào ghê gớm bằng đêm ấy."
"I'm sorry...."
Tôi ngước lên. Người đàn ông cầm cốc cà phê Starbucks lách qua dẫy ghế, hông của
ông ta đụng vào làm xô lệch quyển bản thảo Đỉnh Gió Hú tôi đặt hơi
lòi ra ngoài bàn.
Bên ngoài cửa kính mái tóc vàng của cô gái Mỹ không còn nữa. Thay vào đó là một
mái tóc đen, dài, mượt. Không nhìn phía trước tôi không đoán được cô gái có mái
tóc đen là người Tàu, người Nhật hay người Việt Nam. Chỉ đoán là cô rất trẻ.
Trên bàn của cô, giống như bàn tôi, có một cái laptop để mở, tôi không nhìn thấy
màn chữ vì ánh phản quang. Bên cạnh laptop là một quyển sách Calculus dầy cộm.
Nhưng cô ta không có vẻ như một sinh viên chăm học. Cô đang cho chim ăn.
Bầy chim sẻ bay túa lên cao. Một thanh niên và một thiếu nữ vừa kéo ghế ngồi cạnh
bàn cô gái tóc đen. Lát sau đàn sẻ lại xà xuống. Chúng nhẩy lích chích những bước
ngắn trên hè. Cô tóc đen giở bao giấy véo một mẩu bánh ngọt vứt xuống. Lập tức
cả chục chiếc cánh đập rối lên xà vào chân ghế. Một con mỏ ngậm mẩu bánh bay vụt
lên, cả bầy bay quấn theo sau.
Tôi cúi xuống đánh máy tiếp. Tôi đánh máy đoạn văn sau đây trong chương III của
tập bản thảo. Chính đoạn văn này đã để lại dấu ấn rất mạnh trong óc tôi, cậu bé
16 tuổi:
"… tôi bắt đầu díu mắt lại nằm dài trên giường ngủ thiếp đi. Từ lúc tôi biết
đau khổ đến giờ chưa có một kỷ niệm nào ghê gớm bằng đêm ấy.
Tôi nằm mơ cùng đi với bác Dọi đến nhà thờ, có rất đông người nghe giảng đạo.
Tôi thì tôi mệt lắm! Tôi vặn người, tôi ngáp, ngủ gật rồi tỉnh dậy. Tôi lấy tay
thích bác Dọi để bác cho tôi biết bao giờ thì giảng xong. Rồi bỗng nhiên tất cả
mọi người xúm quanh tôi, giơ gậy định đánh tôi. Trong lúc hỗn loạn những chiếc
gậy định đập vào đầu tôi lại đập lầm vào sọ người khác. Nhà thờ vang lên chí
chát những đòn tấn công và phản công. Rồi người giảng đạo đập tới tấp như mưa
rào trên bàn giảng đạo, tiếng đập dữ dội làm tôi choàng dậy và cảm thấy người
nhẹ nhõm hẳn.
Tại sao tôi lại mơ thấy chuyện đánh lộn nhau và người giảng đạo đập bàn? Thì ra
chỉ tại một cành thông mỗi lần gió thổi lại chạm vào cửa sổ, quả thông cứng đập
vào mặt kính!
Tôi lắng nghe một lúc, trong lòng ngờ ngờ vực vực, rồi tôi trở người, chập chờn
ngủ tiếp và lại mơ, lần này còn tệ hại hơn.
Tôi nhớ ra mình đang nằm trong cái buồng bé tí bằng gỗ sồi và tôi nghe rõ ràng
tiếng ào ào của gió tuyết cùng tiếng đập tới tấp của quả thông, tiếng động làm
tôi bực mình quá và nhất định tìm cách làm cho nó im đi... tôi trở dậy định mở
cửa sổ. Cái quả nắm lại gắn chặt vào ổ khoá.
‘Nhất định phải mở...’ tôi lẩm bẩm thế. Tôi đấm mạnh cho cửa kính vỡ rồi thò
tay ra ngoài tìm cái cành thông khó chịu kia. Nhưng đáng lẽ nắm lấy cành thông
thì ngón tay tôi lại nắm vào những ngón của một bàn tay nhỏ, lạnh như nước
đá. Cả cái ghê sợ cực điểm của giấc mơ chiếm lấy người tôi: tôi cố kéo tay về
nhưng bàn tay kia cứ bám chặt lấy và một tiếng nói giọng buồn thương vô hạn thổn
thức: ‘Cho em vào! Cho em vào!’ Tôi vừa gỡ cánh tay ra vừa hỏi: ‘Cô
là ai?’ Tiếng đáp lại run run: ‘Tôn Liên đây. Em đã tìm về nhà được. Em vừa
bị lạc trong rừng cỏ.’ Tiếng ấy tiếp tục nói và tôi thấy mơ hồ nét mặt của
một người trẻ tuổi nhìn vào cửa sổ. Sự kinh hoàng khiến tôi trở nên độc ác. Biết
là mình không thể gỡ tay ra nổi, tôi kéo cổ tay cô ta để lên miếng kính vỡ rồi
cứa đi cứa lại cho đến khi máu chẩy ra đẫm ướt cả khăn giường. Tiếng nói vẫn
rên rỉ: ‘Cho em vào’ và bàn tay vẫn nắm chặt lấy tay tôi khiến tôi gần
như điên lên vì kinh sợ. Sau cùng tôi bảo: ‘Tôi mở thế nào được nếu cô muốn vào
cô phải bỏ tay tôi ra đã.’ Các ngón tay thả lỏng ra, tôi vội rụt tay tôi vào, lấy
sách chất đầy lên che lỗ hổng, rồi bịt tai lại để khỏi nghe thấy tiếng kêu than
rên rỉ. Tôi đứng yên như thế độ mười lăm phút, song mỗi khi để ý nghe, lại thấy
tiếng rên rỉ đau thương ấy tiếp tục. Tôi kêu lên: ‘Đi ngay đi, cô có van xin
tôi trong hai mươi năm tôi cũng không cho cô vào.’
Tiếng nói lại rên rỉ: Đã hai mươi năm rồi, hai mươi năm, đã hai mươi năm
em đi lang thang. Rồi tôi nghe như có tiếng cạo cạo ở ngoài và chồng sách động
đậy như bị đẩy vào phía trong. Tôi định đứng lên, nhưng không sao cử động được
tay chân: tôi hoảng sợ đến điên dại rồi gào thét ầm lên.
Tôi ngạc nhiên nhận thấy tiếng gào thét của tôi là có thực chứ không phải là tiếng
trong một giấc mơ..."
° ° °
Tôi choàng dậy. Cơn bão khiến đèn điện trong nhà tắt hết. Có
tiếng bước nhanh lên cầu thang. Ông cụ đứng ở cửa, tay cầm ngọn nến. Ánh nến hắt
từ dưới lên lõm những bóng sâu trên gương mặt khiến ông cụ trông khắc khổ như một
pho tượng đồng.
Ông khom người lại gần giường đưa cây nến lại gần mặt tôi, nói dịu dàng:
"Con lại mơ ngủ rồi!"
Nói xong ông cụ cúi xuống nhặt lên một tập bìa cứng cầm trên tay rồi ông quay
người lẳng lặng bước xuống cầu thang.
Đó là tập bản thảo dịch Đỉnh Gió Hú của Nhất Linh tôi đang đánh máy
50 năm sau tại một quán cà phê Starbucks thành phố Seattle ngày 23 tháng 8 năm
2006.
Nơi một chiếc bàn tròn nhỏ sát cửa kính nhìn ra hồ Green Lake...
Nguyễn Tường Thiết
Chương I
Năm 1801 - Tôi vừa đi thăm ông chủ nhà về. Vùng này đối với
tôi thực là tuyệt, có lẽ trong toàn cõi nước Anh tôi không thể tìm được một nơi
nào xa cách sự huyên náo như ở đây. Thật là cõi thiên đường của những kẻ chán đời:
Ông Hy đối với tôi là hai người hoàn toàn hợp với vùng hiu quạnh. Ông Hy chắc
không ngờ tôi có thiện cảm với ông ngay, mặc dầu lúc tôi cho ngựa tiến lên, hai
con mắt đen của ông sâu hoắm nhìn tôi một cách nghi hoặc và lúc tôi xưng danh,
các ngón tay của ông lại thọc sâu một cách rất quả quyết vào túi áo.
Tôi hỏi:
"Thưa ông, ông có phải là ông Hy 2 không?"
Ông ấy chỉ gật đầu, không trả lời. Tôi tiếp theo:
"Thưa ông tôi là Lộc 3 người mới thuê Họa Mi Trang của ông. Tôi
phải vội vàng đến thăm ông ngay, vì tôi sợ đã làm phiền ông vì tôi đã quá ư khẩn
khoản đòi thuê cho bằng được Họa Mi Trang, còn ông thì hình như..."
Ông Hy ngắt lời tôi có vẻ hậm hực:
"Họa Mi Trang, thưa ông, hoàn toàn thuộc về tôi. Tôi không để ai làm phiền
tôi nếu tôi tránh được... Mời ông vào!"
Lúc nói hai tiếng "ông vào" răng ông nghiến lại như có vẻ bảo tôi:
giá anh cút đi thì hơn! Ông Hy mời tôi vào nhưng ông không nhúc nhích cánh cổng.
Có lẽ chính vì thế mà tôi nhận lời vào: Tôi thấy ông ta hay hay vì chính ông lại
có vẻ "kệ xác đời" hơn cả tôi nữa.
Khi ông Hy thấy con ngựa của tôi ấn ngực vào cánh cổng, ông mới chịu rút tay ở
túi áo ra, tháo dây xích buộc cổng rồi đi vào một cách miễn cưỡng. Vào đến sân
ông Hy gọi to:
"Dọi 4 ơi, ra dẫn ngựa của ông Lộc, và đem rượu
vang lên đây."
Câu ấy làm tôi hiểu ngay cả nhà ông ta chỉ có một người đầy tớ. Thảo nào mà cỏ
mọc đầy kẽ gạch, và súc vật tự do sửa dậu cây. Bác Dọi là người đã có tuổi
nhưng vẫn còn cứng cáp khỏe mạnh. Trong lúc dẫn ngựa tôi đi, bác ta lẩm bẩm một
mình, giọng tức bực cầu nhầu:
"Chúa Trời, phù hộ cho chúng ta."
Bác ta vừa nói vừa nhìn soi mói vào mặt tôi một cách hằn học đến nỗi tôi đoán
ngay bác ta kêu trời phù hộ là chỉ cốt trời giúp bác ta dễ tiêu bữa cơm chiều,
chứ câu khẩn nguyện ấy không có liên can gì tới việc tôi đến đột ngột.
Tòa nhà của ông Hy lấy tên là "Đỉnh Gió Hú": sở dĩ gọi "gió
hú" vì những khi trời bão, gió lồng lộng hú lên trong tòa nhà đó. Trên mỏm
cao ấy chắc quanh năm không khí trong lành. Người ta biết ngay gió bấc trên đó
thổi rất mạnh vì những cây thông cằn mọc ở đầu nhà nghiêng hẳn về một phía và một
dẫy cây gai chĩa cành về một bên như muốn dướn ra đớp lấy ánh sáng mặt trời.
Cũng may tòa nhà xây cất chắc chắn, cửa sổ hẹp thụt sâu vào tường và có viền đá
nhô ra để chắn gió.
Ở ngay trên cửa chánh của tòa nhà đó có đề tên "Yên Hạ" kèm theo niên
hiệu "1500" 5. Tôi cũng muốn hỏi ông chủ nhà cảu nhảu càu
nhàu về lai lịch vắn tắt của cái nhà đó, nhưng thái độ của ông ở ngoài cổng như
tỏ cho tôi biết hoặc phải vào ngay, hoặc phải đi không bao giờ trở lại nữa.
Chúng tôi đi thẳng vào một gian phòng tựa như những gian vừa dùng làm bếp vừa
dùng làm nơi tiếp khách. Nhưng ở tòa nhà "Gió Hú" này bếp không biết
chạy đi đâu: cạnh cái lò sưởi rộng lớn không có một thứ gì có thể dùng để quay,
để luộc, để nướng bánh. Nền nhà làm bằng đá trắng, ghế ngồi sơn xanh và kiểu cổ,
lưng tựa cao, bên cạnh tủ đựng chén đĩa có một con chó to béo màu vàng đang nằm
nghỉ, chung quanh lúc nhúc một lũ chó con, lại có rất nhiều chó khác mỗi con ngủ
một xó.
Ông Hy trông không ăn nhập gì mấy với nhà cửa và lối sống của ông. Hình thù ông
ta trông y như một tay giang hồ da sạm nắng, nhưng quần áo và cử chỉ của ông lại
có vẻ một người quý phái. Ông Hy ăn mặc có lẽ hơi cẩu thả nhưng cái vẻ cẩu thả ấy
không tai hại mấy, vì ông ta đi đứng thẳng thắn, ung dung và có vẻ người rất lịch
sự. Vẻ mặt thì đăm chiêu. Nhiều người có thể cho rằng ông có nhiều tự kiêu vô lối,
tôi thì có gì ngầm bảo tôi ông không thế, linh tính báo cho tôi hiểu là ông lầm
lỳ như vậy chỉ vì tính ghét phô trương cảm tình, ghét bộc lộ những sự thân thiện
xã giao.
Ông ta yêu cũng như ghét, không biểu lộ ra ngoài, ai yêu lại, ai ghét lại ông
ta, ông ta cũng coi đó như là một sự vô nghĩa lý. Nhưng không, có lẽ tôi đã đi
quá, tôi cứ bắt buộc ông ta có những tính tình của tôi. Ông Hy có những lý lẽ
có thể khác hẳn tôi khi ông ta không muốn bắt tay một người chỉ muốn bắt tay
ông ta.
Mẹ tôi vẫn thường bảo rằng tôi già đời cũng không lập được gia đình; ngay vụ hè
năm ngoái tôi đã tỏ ra không xứng đáng là một người có gia đình. Tôi đến bãi biển
nghỉ mát thì làm quen ngay với một cô gái có vẻ đẹp quyến rũ tuyệt trần: thật
là một tiên nữ đối với tôi trong cả cái thời kỳ mà cô ta chưa để ý gì đến tôi.
Tôi không bao giờ ngỏ lòng yêu bằng lời nói, nhưng vẻ mắt nhìn còn
"nói" nhiều hơn là lời nói, người óc đơn giản cũng biết ngay là tôi
yêu. Về sau cô ta cũng hiểu và nhìn lại tôi bằng một vẻ êm ái hơn tất cả các lối
nhìn trên đời. Nhưng lúc đó tôi đã làm gì hỡi trời! Tôi lấy làm xấu hổ mà tự
thú rằng lúc đó tôi lạnh lùng co rụt người tôi lại và mỗi lần cô ta nhìn, tôi lại
nuôi cho lòng mình lạnh lẽo hơn, lại chui sâu mãi vào cái vỏ của mình, đến nỗi
cô ả khốn khổ đó đâm ra nghi ngờ, tưởng mình đã hiểu lầm và lấy làm hổ thẹn rồi
xúi mẹ rời đi nơi khác. Cái tính kỳ quặc ấy làm tôi mang tiếng là một anh chàng
có định tâm ác, nhưng thực ra thì tôi oan, song chỉ có tôi biết tôi oan thôi.
Tôi ngồi xuống một chiếc ghế bên cạnh lò sưởi và cố tìm cách vuốt ve con chó
cái lúc đó đã rời lũ chó con đến lượn vòng quanh chân tôi như một con chó sói,
môi ưỡn cong lên, răng trắng muốt nhe ra để cắn. Tôi vuốt ve khiến con chó gầm
gừ trong cổ họng. Ông Hy cũng gầm gừ theo con chó, giơ chân đỡ những miếng thị
oai nguy hiểm của nó:
"Tôi khuyên ông nên để con chó yên. Nó không muốn làm thân với ai, mà tôi
nuôi nó không phải nuôi để làm cảnh."
Rồi ông Hy lại gọi bác Dọi. Bác Dọi gầm gừ mấy tiếng ở đâu dưới hầm rượu nhưng
mãi cũng không thấy dấu hiệu là bác đi lên thành thử ông Hy phải chạy xuống
tìm, để lại một mình tôi với con chó cái độc địa nham hiểm và hai con chó nữa,
cả ba con đều thi nhau dò la từng cử chỉ của tôi. Không muốn đụng chạm đến những
răng nanh nhọn của chúng, tôi đành cố ngồi im, nhưng tưởng chúng không hiểu nổi
được những câu chửi ngầm của tôi, tôi nháy mắt nhăn mặt với chúng; không may một
vẻ mặt của tôi đã làm cho "bà" chó cái tức tối điên cuồng,
"bà" nhẩy ngay lên đùi tôi. Tôi phải đẩy "bà ta" ra và đệm
một cái bàn giữa hai bên. Cuộc khiêu khích ấy làm náo loạn tất cả đàn. Đến gần
chục quỷ sứ bốn chân, già có, trẻ có, vừa lớn vừa bé, ở các só chạy xổ ra và tập
trung lại. Tôi cầm cái gạt than cố sức đối đầu với những chiến sĩ nào hăng máu
nhất, và lại thấy cần phải kêu gọi một người nào trong nhà để lập lại nền hoà
bình.
Ông Hy và tên đầy tớ ở hầm rượu đi lên, thản nhiên như không: mặc dầu chung
quanh tôi chó sủa như vũ như bão, họ vẫn đi thong thả như thường không nhanh
không chậm một giây.
Ông Hy nhìn tôi có một vẻ riêng khiến tôi không thể chịu được sau một cuộc đối
đãi khinh miệt ấy, rồi ông hỏi:
"Cái quỷ gì vậy?"
Tôi càu nhàu:
"Đúng đấy, thật là quỷ. Quỷ sứ nhà trời cũng không tệ hại như đàn chó này,
thưa ngài, giá để khách ngồi với đàn hổ đói còn hơn."
Ông ta đặt chai rượu xuống trước mặt tôi, nhấc lại cái bàn đặt vào chỗ cũ, rồi
nói trống không:
"Kẻ nào vào nhà này mà không đụng chạm đến vật gì thì không bao giờ bị chó
chạm đến. Chó thì phải săn sóc nhà cửa, đó là việc của chúng. Một cốc rượu
vang?"
"Không, cám ơn."
"Không bị con nào cắn phải?"
"À, nếu tôi bị cắn thì con nào cắn tôi cũng dừ thần xác với tôi rồi."
Trên nét mặt ông Hy nở ra một nụ cười nhăn nhó:
"Thôi, thôi, tôi sợ ông quá nóng. Nào uống tí, tôi cũng xin thực thà thưa
rằng vì nhà cũng ít khi có khách lắm nên cả chó lẫn chủ đều không thạo cách tiếp
khách. Nào, mời ông chạm cốc."
Tôi cũng dịu lòng, chạm lại cốc ông ta. Tôi bắt đầu nhận ra mình giận dỗi vì một
đàn chó điên rồ là vô lý. Vả lại tôi cũng không muốn cho anh chàng cái cớ để
trêu chọc mình, xem chừng anh chàng lấy thế làm khoái trí lắm. Có lẽ anh chàng
về sau cũng đã cố giữ gìn lắm đấy, vì sợ làm mất lòng một người thuê nhà tốt
như tôi. Chắc anh chàng cũng đã cố dùng những tiếng "ông", tiếng
"mời ông", tiếng "nào" để cho dịu bớt cái lối nói cộc lốc,
nhát gừng của ông ta, chắc anh chàng cũng đã muốn nói về một việc có liên can đến
cái trại tôi thuê.
Tôi thấy ông Hy rất thành thạo về những việc đem ra bàn, vì vậy trước khi ra về,
tôi quả quyết yêu cầu ông ta để ngày mai tôi lại thăm lần nữa. Chắc anh chàng
không muốn thế tí nào. Chính vì vậy mà ngày mai tôi sẽ đến. Tôi lấy làm lạ thấy
mình còn xã giao hơn cả anh chàng này.
--------------------------------
|
Heathcliff |
|
|
Heathcliff |
|
|
Lockwood |
|
|
Joseph |
|
|
Cách hồi xảy ra chuyện này 300 năm (tất cả các chú thích
trong truyện này đều của dịch giả) |
Chương II
Quá trưa trời rất nhiều sương mù và lạnh lắm. Tôi định tâm ngồi
sưởi lửa ở buồng làm việc không tội gì mà lội bùn, vượt đồng cỏ hoang đến tận
trại Gió Hú. Nhưng khi vào buồng làm việc thấy có chị đầy tớ quỳ trước lò sưởi
chung quanh đầy bàn chải và thùng súc than, chị ta đổ tro vào than để dập tắt lửa
làm bụi bay mù thiên địa. Thấy vậy tôi lùi ra, lấy mũ đội rồi đi thẳng một mạch
hơn sáu cây số 1 đến
trước cổng trại Gió Hú. Cũng may vừa tới cổng thì trời bắt đầu đổ mưa tuyết.
Trên cái mỏm Gió Hú trơ trọi ấy, đất cứng lại như nước đá đen và gió thổi lạnh
buốt tới sống lưng. Không tháo được giây xích cổng, tôi nhẩy qua hàng rào, chạy
vội vào nhà đập cửa, đập hoài đập hủy, đau rát cả các ngón tay, nhưng vô hiệu,
chỉ nghe có đàn chó sủa rống lên
Tôi rủa thầm:
"Lũ người ở cái nhà này là một lũ khốn nạn! Chúng bay khinh thường khách
quá lắm, chẳng trách suốt đời ở cô độc. Cái gì mà ban ngày cũng đóng cửa nhà lại.
Mặc kệ! Ông cứ vào!"
Nghĩ thế, tôi cầm quả nắm, lay giựt thật mạnh. Cái đầu và mặt chua như dấm của
bác Dọi thò ra ở một cửa sổ tròn của nhà chứa cỏ.
"Ông muốn gì? Ông chủ tôi đi thăm trại cừu. Ông đi vòng quanh ra sau nếu
ông muốn nói chuyện với ông ta."
Tôi hỏi to tiếng:
"Thế không có người nào trong nhà để mở cửa à?"
"Không có ai cả, chỉ có cô chủ thôi. Nhưng cô chủ không mở được, cho dẫu
ông cứ lay cửa thình thình đến tối."
"Bác Dọi. Tại sao vậy? Sao bác không bảo là có tôi đến?"
"Tôi bảo? Đời nào thế! Tôi chịu thôi, không muốn dính."
Cái đầu bác Dọi hầm hừ nói thế xong, rồi thụt vào.
Tuyết đã bắt đầu rơi nặng. Tôi cầm lấy quả nắm lay thử một lần nữa. Bỗng một
chàng trẻ tuổi mặc sơ mi trần, vác một cái đinh ba gạt cỏ từ phía sân sau nhà gọi
tôi rồi làm hiệu bảo tôi đi theo. Qua một cái buồng giặt, một cái sân, đến chỗ
nuôi chim thì vào đến buồng lớn, ấm áp và vui vẻ, nơi mà ông Hy tiếp tôi hôm
trước. Trong lò sưởi ánh lửa than và củi chiếu sáng rực cả căn phòng: gần một
cái bàn ăn đã bầy biện sẵn sàng, tôi lấy làm vui sướng được thấy mặt "cô
chủ" người mà tôi không ngờ là có ở trong nhà này. Tôi cúi chào rồi đợi, bụng
nghĩ thế nào nàng cũng mời mình ngồi. Nàng nhìn tôi, dựa lưng vào thành ghế, ngồi
không nhúc nhích, không nói một lời.
Tôi nói bâng quơ:
"Hôm nay trời xấu quá! Thưa bà, tôi sợ đã làm hư hại cửa nhà bà đôi chút
vì đầy tớ lơ đễnh, tôi gọi mãi mà không có đứa nào ra mở."
Nàng vẫn không hé môi. Tôi mở to mắt...nàng cũng mở to mắt, nói cho đúng nàng
nhìn tôi một cách lạnh lùng thản nhiên, rất khó chịu.
Chàng trai nói giọng càu nhàu:
"Mời ông ngồi, ông ấy sắp về."
Tôi nghe lời ngồi xuống, hắng giọng rồi gọi con chó cái vàng, lần này thì nó chịu
vẫy đuôi đáp lại.
Tôi nói với cô chủ:
"Con chó đẹp quá. Còn lũ con mới đẻ, bà định giữ nuôi cả?"
"Cô chủ" đáp lại bằng một giọng cũng "dịu dàng" như anh
chàng Hy.
"Những con chó ấy không phải của tôi."
"À, thưa bà chắc đây mới là lũ con cưng của bà!"
Tôi vừa nói vừa nhìn vào một cái đệm ghế trong bóng tối, trên nệm có những con
gì trông na ná những con mèo.
Nàng nói lại ngay giọng khinh bỉ:
"Lũ con cưng kỳ cục nhỉ!"
Thật là không may cho tôi, đó chỉ là mấy con thỏ chết. Tôi lại hắng giọng một lần
nữa rồi ngồi sát vào lò sưởi, nhắc lại câu chuyện trời xấu.
"Đáng lẽ ông không nên ra khỏi nhà."
Nàng nói, đứng dậy, với tay lấy ở trên lò sưởi hai hộp đựng trà.
Từ nẫy nàng vẫn ngồi lẩn trong bóng tối, bây giờ thì tôi trông rõ dáng người và
nét mặt. Người nàng mảnh khảnh cao, trông bề ngoài như người mới nhớn lên. Thân
hình nàng thật đẹp, vẻ mặt thật trang nhã, trong đời tôi chưa được ngắm một người
thứ hai như vậy. Tóc nàng như có ánh vàng rủ lung tung xuống hai bên cổ nét
thanh thanh. Hai mắt nàng nếu nhìn không cau có chắc sẽ có một vẻ đẹp quyến rũ
mê hồn. Cũng may cho tôi, hai mắt ấy chỉ lộ ra một tính tình nửa khinh khỉnh nửa
chán nản.
Các hộp trà ở xa tầm tay với của nàng. Tôi xoay người định giúp đỡ nàng thì
nàng quay phắt nhìn tôi khó chịu như kiểu một anh chàng hà tiện bị người khác
đòi đếm vàng của mình. Nàng nói giọng khô khan:
"Tôi không cần ông giúp... Tôi với tới."
Tôi vội vàng đáp:
"Tôi xin lỗi bà."
"Cô chủ" buộc một chiếc khăn quàng ngực lên trên tấm áo đen rất sạch
sẽ rồi hỏi tôi:
"Đã có người mời ông uống nước trà chưa?"
Nàng đưa đi đưa lại cái thìa trên ấm trà. Tôi đáp:
"Tôi xin vui lòng uống một chén."
Nàng nhắc lại:
"Đã có người mời ông chưa?"
Tôi mỉm cười nửa miệng:
"Chưa. Nhưng người ấy là bà chứ còn ai?"
Nàng đặt cả cốc trà và thìa rồi ngồi xuống ghế có vẻ hờn dỗi, trán nhăn lại,
làn môi dưới bĩu ra, đỏ lên như môi đứa trẻ sắp khóc.
Anh chàng đưa tôi vào thì đứng cạnh lò sưởi. Anh ta liếc nhìn tôi vẻ mặt như tỏ
ra giữa anh ta và tôi có một mối thù không đợi trời chung. Tôi bắt đầu tự hỏi
có phải anh chàng này là một người đầy tớ hay không... Áo mặc và lời nói thì
thô kệch, hoàn toàn không có phong dáng "ông chủ" như ông bà Hy, hai
tay thì sạm nắng như tay thợ cầy, nhưng dáng điệu lại tự nhiên, hơi nghênh
ngang, không có vẻ gì tỏ ý muốn hầu hạ "cô chủ." Không có chứng cớ rõ
ràng về địa vị anh ta, tôi thấy tốt nhất là đừng chú ý đến thái độ kỳ cục của
anh ta.
Năm phút sau, ông Hy về, tôi nhẹ người đôi chút, đỡ luống cuống. Tôi vờ lấy giọng
vui vẻ, nói to:
"Đấy ông xem, tôi đến đúng theo lời hẹn với ông. Nhưng tôi sợ mưa tuyết bắt
buộc tôi phải ở lại đây độ nửa giờ."
Ông Hy rũ bớt tuyết trên áo:
"Nửa giờ? Tôi không hiểu sao ông chọn ngay cái lúc bão tuyết mù trời này
mà đi chơi mát tới đây. Ông có thể rất dễ dàng chìm nghỉm trong các đầm ao. Những
người rất thuộc vùng này cũng bị lạc như thường. Tôi lại còn có thể báo cho ông
biết trước rằng không có hy vọng gì ngớt bão trong lúc này."
"Ông có thể cho tôi mượn một người đầy tớ nào thạo đường đưa tôi về Họa Mi
Trang rồi ở luôn đấy cho đến ngày mai."
"Không, không thể được."
"À, thật vậy à? Thế thì tôi đành chịu dò đường một mình."
"Hừ hứ!"
Chàng trai không nhìn tôi nữa, quay về phía "cô chủ" hỏi:
"Cô có pha trà không?"
Cô chủ hỏi ông chủ:
"Có phải pha cho cả ông kia không?"
Ông chủ đáp lại một cách giận dữ quá khiến tôi rùng mình:
"Có pha."
Giọng thốt ra mấy tiếng đó tỏ rõ người nói có một bản chất rất xấu. Tôi không
coi ông Hy như một người đáng phục nữa.
Lúc mọi người bắt đầu dùng trà, cả anh chàng nhà quê cũng đến uống. Một sự im lặng
nghiêm trọng như đè nặng quanh bàn ăn 2.
Tôi nghĩ bụng nếu mình đã gây nên không khí căng thẳng ấy thì mình có bổn phận
phải đánh tan nó. Không lẽ ngày nào họ cũng sầm sì nét mặt và lì lì như thế
kia; cho họ xấu tính đến thế nào đi nữa cũng không lẽ cả bọn ngày nào cũng cau
cau có có như lúc này. Tôi khởi chuyện:
"Thật không ngờ... Thật không ngờ thói quen lại có thể biến đổi tính tình
và tư tưởng của mình. Rất nhiều người không thể tưởng tượng được rằng người ta
lại tìm thấy được hạnh phúc trong một cuộc sống xa cách sự đời như ông. Thế mà
như ông đây, sống giữa gia đình, lại bên cạnh một bà vợ quý như một nữ thần
giúp ông trong việc tề gia nội trợ..."
Ông Hy ngắt lời tôi bằng một tiếng cười gằn nghe rợn như tiếng quỷ sứ:
"Bà vợ quý của tôi. Bà ấy ở đâu, bà vợ quý của tôi?"
"Tôi muốn nói tới bà Hy."
" À, vâng. Chắc ông muốn nói linh hồn bà ấy, đã biến thành thiên thần và
phù hộ cho trại Gió Hú này, mặc dù hồn bà đã rời khỏi thân xác. Có phải thế
không?"
Biết là mình đã hớ, tôi cố gỡ lại. Ông chủ và bà chủ chênh lệch về tuổi nhiều
quá khó lòng là vợ chồng được. Một người vào độ bốn mươi, người kia hình như
chưa đến mười bẩy tuổi.
Tôi vụt nghĩ ra: "cái anh chàng quê kệch ngồi cạnh tôi có hai bàn tay bẩn
thỉu kia có thể là chồng "cô chủ". Anh chàng hẳn là con ông Hy,
"cậu chủ". Đấy khi người ta sống chôn vùi ở nơi biệt lập thì xẩy ra
như vậy: cô ả cảm anh chàng cục mịch kia chỉ vì không biết có ai lịch sự hơn!
Đáng phiền.... Mình phải cố làm cho cô ả phải hối đã kén chọn lầm!" Ý nghĩ
sau cùng có vẻ tỏ ra tôi là một anh chàng tự cao tự đại. Nhưng không thật thế
đâu. Anh chàng ngồi cạnh tôi trông quê kệch, còn tôi, dựa theo kinh nghiệm tôi
biết mình không phải là không có một thứ duyên riêng.
Ông Hy nói như chứng thực ý đoán của tôi:
"Người này là con dâu tôi."
Ông ta vừa nói vừa nhìn nàng, nhìn một cách lạ lùng, có nhiễm thù hằn... trừ
khi vẻ mặt ông ta vì một sự trái ngược bất thường không diễn đúng tâm hồn ông
ta.
Tôi quay về phía anh chàng ngồi cạnh tôi:
"À, chắc thế... bây giờ tôi hiểu rồi. Chính cậu là bạn của nàng tiên
này."
Lại càng tệ hơn, anh chàng đỏ mặt tía tai, tay nắm tròn quả đấm có vẻ sừng sộ của
người muốn xung phong. Nhưng anh ta cố nhịn ngay, đè nén tức giận bằng một câu
rủa độc, rõ ràng là rủa tôi nhưng mà tôi - cố nhiên - tôi vờ như không biết.
Ông Hy nói:
"Ông dự đoán không tinh. Không một người nào trong chúng tôi may mắn có được
nàng tiên ông nói. Chồng cô tiên đó đã qua đời. Lúc nẫy tôi có nói cô ấy là con
dâu tôi, vậy chắc chắn cô ấy lấy con trai tôi."
"Thế cậu này là..."
"Chắc chắn không phải con tôi."
Rồi ông Hy lại mỉm cười cho việc tôi có ý gán ông ta làm bố "con trâu
chương" là một sự pha trò hơi quá đáng.
Anh chàng làu nhàu tự giới thiệu:
"Tên tôi là Yên Hạ 3 và
tôi khuyên ông nên kính trọng cái tên đó.
Tôi cười thầm vì cái vẻ trịnh trọng của chàng trai lúc tự giới thiệu mình, tôi
nói:
"Nhưng tôi có nói điều gì khiếm lễ đâu."
Tôi vội quay mặt không muốn nhìn anh ta sợ mình hoặc muốn bạt tai anh ta một
cái hoặc bật cười chế nhạo. Tôi thấy mình lạc lõng trong cái gia đình thú vị
này. Ngồi đây thì có ấm áp trong người thật nhưng cái không khí tinh thần lại
quá ư thảm đạm. Tôi định bụng nếu có đến đây lần thứ ba thì cần phải khảo lự cẩn
thận.
Ăn xong tôi ra cửa sổ nhìn trời, đêm tới sớm, hòa với núi đồi mờ mịt lẫn lộn
trong gió bão và tuyết bay dầy đặc. Tôi nói lớn tiếng:
"Về nhà lúc này mà không có người dẫn đường thì về sao được. Đường đi chắc
tuyết đã phủ kín, mà không phủ kín thì cũng chẳng nhìn thấy chỗ đặt chân."
Ông Hy nói:
"Hạ, dắt cừu xuống nhà chứa cỏ, nếu để ở ngoài một đêm chắc chúng nó bị
chôn sống. Nhớ chặn phía trước chúng một tấm ván."
Tôi kêu tiếp theo, mỗi lúc một tức thêm:
"Làm thế nào bây giờ? "
Không một ai trả lời tôi. Bác Dọi cho chó ăn, cô con dâu ông Hy thì ngồi cúi
mình gần lửa, nghịch đốt những bó diêm ở trên lò sưởi rơi xuống khi cô nàng đặt
lại hộp trà về chỗ cũ. Bác Dọi nói, giọng rít lên:
"Sao cứ ngồi đây, không làm việc gì cả, sưởi ấm trong lúc mọi người đều ra
ngoài làm việc. Thật là đồ vô tích sự mà nói thì như nước đổ đầu vịt. Thói nào
vẫn tật ấy. Rồi cũng ma dẫn lối quỷ đưa đường như bà nhà khi xưa."
Trong một lúc, tôi đã tưởng những lời hùng hồn ấy nói về tôi. Khá tức tôi định
tống cổ bác ra ngoài, nhưng lời nói của cô nàng dâu hãm tôi lại:
"Bác nói quỷ đưa đường mà bác không sợ quỷ nó đưa bác đi à? Này, tôi bảo
cho bác biết."
Nàng lấy xuống một cuốn sách bìa đen:
"Tôi đã biết nhiều trò phù thủy. Bác cút đi ngay lập tức kẻo nguy đến tính
mạng. Ai đi quá sẽ bị tôi trừng phạt... trừng phạt gì tôi không nói ra vội...
nhưng rồi bác xem. Bác coi chừng đó."
Cô phù thủy vờ lộ một vẻ quái ác trong hai con mắt đen và bác Dọi sợ hãi một
cách thành thực vừa chạy đi vừa cầu kinh. Tôi cho là nàng vừa đùa nghịch quái
ác chơi; bây giờ chỉ còn lại hai người. Tôi nghiêm trang nói với nàng về hiện
tình khó xử của tôi.
"Thưa cô, tôi xin lỗi cô. Tôi không sợ đường đột vì trông cô tôi biết chắc
cô là người rất tử tế, xin cô chỉ lối cho tôi tìm được đường về tới nhà. Tôi đi
ở vùng này chắc cũng khó khăn như nếu cô phải tìm đường đi Luân Đôn."
Nàng ngồi xuống ghế bên một cây nến thắp sáng và một cuốn sách mở để trước mặt:
"Ông đến do đường nào thì ông cứ lối ấy đi về. Lời chỉ bảo tuy vắn tắt
nhưng hay nhất."
"Thưa cô, nếu vậy khi nghe người ta tìm thấy tôi chết cứng trong một cái lạch,
thì lương tâm cô liệu có bị ray rứt vì cô mà tôi chết không?"
"Tại sao? Tôi không thể đi cùng ông được. Họ không cho tôi đi xa hơn cái
góc tường ở ngoài vườn kia."
"Cô à! Có đời nào tôi dám nhờ cô đi ra khỏi cái nhà này trong một đêm như
đêm nay chỉ để tiện việc cho tôi. Tôi chỉ nhờ cô chỉ cách thức đi, hoặc bảo ông
Hy cho tôi một người dẫn đường."
"Sao được! Nhà chỉ có ông Hy, Yên Hạ, bác Dọi, chị Dị và tôi. Ông muốn ai
dẫn?"
"Không có thằng nhỏ giúp việc nào sao?"
"Không, không còn ai nữa."
"Vậy thì bắt buộc tôi phải ở lại."
"Việc đó ông bàn với ông chủ, không can dự gì đến tôi."
Tiếng ông Hy nói ở bếp vọng vào:
"Đây là một bài học hay cho ông, đừng có liều lĩnh đi xa trong vùng núi
này. Còn như ở lại đây, tôi không có chỗ tiếp khách. Hoặc ông phải ngủ với Hạ
hoặc ngủ với bác Dọi."
Tôi đề nghị:
"Tôi ngủ trên một cái ghế trong phòng này cũng được."
Anh chàng xỏ lá và thô lỗ nói ngay:
"Không được. Một người ngoài là một người ngoài, bất kể họ giầu hay nghèo.
Tôi không tiện để cho ai xử dụng cái buồng này trong khi tôi không có đó để
canh chừng."
Lời hỗn xược đó làm tôi cáu đến tột bực. Tôi thốt ra một tiếng khinh bỉ, đâm sầm
qua ông ta để chạy ra sân. Trong lúc hấp tấp tôi xô phải Yên Hạ. Trong lúc đi
vòng quanh nhà tìm lối ra tôi chứng kiến thêm một lối họ ứng xử với nhau. Lúc đầu
anh chàng Hạ hình như thương hại tôi:
"Tôi sẽ đi với ông ta đến cổng rừng."
Ông chủ Hy (nếu quả thực ông này là chủ anh chàng kia) quát to:
"Mày sẽ đi với ông ấy xuống cõi âm ty. Thử hỏi, thế ai săn sóc đám ngựa, hử?"
Cô nàng dâu lại nói một câu tử tế không ngờ:
"Đời một người còn quan trọng hơn sự săn sóc mấy con ngựa. Phải có ai đi với
ông ta."
Chàng Hạ đốp lại liền:
"Tôi không thèm làm theo lệnh cô! Nếu cô nghĩ đến số phận ông ta thì cô
nên im cái miệng."
"Thế thì hồn ma của ông ta sẽ nhập vào anh và nhà của ông Hy cho đến lúc đổ
nát cũng không đời nào có người thuê."
Tôi tiến đến phía bác Dọi. Bác ta đương ngồi vắt sữa bò dưới ánh sáng của cây
đèn xách, miệng làu bàu:
"Ông xem. Cô ả đang nguyền rủa họ."
Tôi giằng lấy cây đèn của bác Dọi, chạy ra cổng, nói với sẽ trả lại đèn vào
ngày mai. Lão già vừa đuổi theo tôi vừa kêu:
"Này, ông chủ ông chủ, họ giựt mất đèn. Sịt sịt! Con vện con xồm đâu, ra
giữ chặt lấy người này!"
Hai con chó xồm nhẩy lên cổ tôi, đè ngửa tôi xuống đất, đèn phụt tắt, và tiếng
cười của ông Hy và anh chàng Hạ làm tôi tức lộn ruột. Cũng may mà hai con chó
không muốn nuốt sống tôi, nhưng chúng cũng không muốn tôi hồi sinh, thành thử
tôi cứ phải nằm ở đất mãi cho đến khi bọn người nhà chịu ra đánh tháo cho tôi.
Lúc đó người tôi run lên vì tức, tôi quát họ phải để tôi đi, nếu họ giữ tôi lại
một phút nữa thì xẩy ra chuyện gì họ phải chịu trách nhiệm.
Tôi vùng vằng mạnh quá thành thử bị chẩy máu mũi. Ông Hy lại càng cười, tôi lại
càng nguyền rủa. May có chị Dị 4,
mụ quản gia lực lưỡng, chạy ra xem việc gì. Chị tưởng ai đánh tôi chẩy máu.
Không dám nói động đến ông chủ, mụ quay lại anh chàng Hạ:
"Này, cậu Hạ. Cậu định giết người ngay ở trước cửa nhà à?"
Mụ bảo tôi vào nhà để mụ chữa cho. Mụ té nước lạnh vào cổ tôi rồi đưa tôi vào
trong bếp. Ông Hy theo sau, vẻ vui cười chốc lát biến ngay, và nét mặt ông lại
trở lại đăm chiêu như thường.
Tôi thấy khó chịu, đầu choáng váng. Thành thử tôi bó buộc phải ở lại. Ông Hy bảo
chị Dị cho tôi một cốc rượu mạnh rồi đi sang buồng khác. Chị Dị lấy làm thương
hại cho cảnh ngộ tôi, chị đi lấy rượu đưa tôi uống cho tỉnh rồi dẫn tôi đến
phòng ngủ.
--------------------------------
|
4 miles (1 dặm Anh) trong nguyên tác, đổi ra cây số để tiện
cho độc giả (1 mile = 1,6 km) |
|
|
Ở Anh bữa trà thường là một bữa ăn nhẹ |
|
|
Hareton Earnshaw (Cổng nhà Gió Hú như trên kia đã nói có
treo biển Yên Hạ năm 1500. Người con trai này sống 300 năm sau cùng thuộc họ ấy
và cũng một tên với ông Yên Hạ. Việc trùng tên với những người trong một họ
là một sự rất thường ở nước Anh) |
|
|
Zillah |
Chương III
Trong khi dẫn tôi lên cầu thang, chị Dị dặn tôi nên che nến
và đừng có làm ồn, vì ông chủ có những ý tưởng rất kỳ quặc về căn buồng mà chị
ta sắp đưa tôi vào. Ông ta không bao giờ muốn để một người nào ngủ ở đây. Tôi hỏi
vì cớ gì? Chị nói chị không biết, chị mới đến làm công ở đây có một hai năm, và
họ có rất nhiều những cử chỉ kỳ lạ, nếu chị tò mò thì tò mò đến già đời.
Tôi bị choáng váng quá nên không muốn tò mò hỏi thêm, tôi cài cửa lại rồi đưa mắt
nhìn quanh xem giường nằm ở đâu. Toàn bộ đồ đạc gồm một chiếc ghế tựa, một tủ đựng
quần áo và một cái hòm lớn bằng gỗ sồi có những ô vuông khoét ở mép trên nom tựa
như những cửa sổ của một cỗ xe ngựa. Tôi lại gần nhìn vào trong, thì ra đó là một
thứ giường nằm kỳ lạ kiểu cổ, rất tiện dụng, vì nó được thiết kế như một cái
phòng tí hon; ở thành cửa sổ lại có một cái gờ có thể dùng làm bàn. Tôi đẩy hai
cánh cửa lùa, cầm đèn nến chui vào, kéo khít cửa lại, và cảm thấy an toàn.
Tôi đặt cây đèn nến trên thành cửa sổ. Trên thành cửa ấy có mấy quyển sách mốc
meo để ở một góc, và trên mặt thành có những chữ đủ các lối chạm bằng dao, mà
chữ nào cũng viết toàn một tên người: Yên Liên 1 thỉnh
thoảng đổi ra Hy Liên hoặc Tôn Liên.
Trong lúc người đương ngây ngất, tôi dựa đầu vào cửa sổ tiếp tục nhắc lại Liên,
Liên, Liên Hy, Liên Tôn... mắt tôi từ từ nhắm lại... được độ dăm phút các chữ
hiện ra lòe ánh sáng, sáng rực rỡ như những thây ma... đâu đâu cũng thấy hoa
lên những chữ Liên... Liên... Tôi đứng thẳng lên để cho những chữ ám ảnh ấy biến
đi. Tôi thấy bấc của ngọn nến cong về một bên làm cháy xém bìa một cuốn sách
cũ, sực lên mùi da bê cháy. Vừa khó chịu vì lạnh, vừa rạo rực buồn nôn, tôi ngồi
xuống giường mở cuốn sách đặt lên đùi. Đó là quyển Kinh Thánh, trang đầu có
biên: "Sách này của Yên Liên" và dưới đề niên hiệu cách đây độ 25
năm. Tôi mở một cuốn khác và lại một cuốn khác nữa và ngắm nghía. Cuốn nào ở những
chỗ trống cũng có lời chua bằng mực hay bút chì, có vẻ những lời nhật ký, nét
còn non đặc như trẻ con viết. Tôi bắt đầu để ý ngay đến cô Liên không quen ấy
và cố tìm đọc những dòng nhật ký viết tháu.
"Một chủ nhật chán lạ. Anh Hạnh 2 thực
tệ với Hy quá. Hy với mình nhất định chống lại... Hạnh nói: Chúng bay không biết
nể tao à? A! Thằng Hy 3 mày
đã dám thế à? Lan mình, đi qua rứt tóc nó cho tôi một cái."
"... Lan rứt tóc Hy rồi về ngồi trên đùi chồng, như hai đứa trẻ, rồi hôn
hít nhau và hàng giờ nói với nhau những chuyện chả ra đâu vào đâu. Hy với mình
chui xuống dưới ngăn tủ bát, ngồi sát vào nhau. Mình vừa treo khăn quàng ngực của
hai người làm màn che thì bác Dọi vào. Bác ta rứt màn, tát mình một cái và kêu
lên như quạ rống: ‘Bố vừa mới chết mà đã chửng rỡn rồi! Không biết xấu hổ. Có
nhiều sách đấy sao không lấy mà đọc đi.’
Rồi bác ta xoay người chúng tôi lại để có chút ánh sáng từ lò sưởi chiếu tới, rồi
vất một đống sách bắt chúng tôi đọc. Mình không còn chịu nổi nữa, quẳng cuốn
sách vào cũi chó, nói mình rất ghê tởm những cuốn sách hay. Hy cũng lấy chân hất
một cuốn vào cũi chó...
... Anh Hạnh nắm lấy cổ chúng tôi ẩy cả hai đứa vào bếp. Bác Dọi dọa chúng tôi:
‘Ngoáo ộp sẽ đến bắt đem đi.’ Hy rủ mình lấy cái áo tơi treo ở bếp, cả hai núp
vào đấy rồi chuồn ra ngoài rừng cỏ chơi. Ý kiến hay đấy... rồi lão Dọi có đến lại
tưởng là ma bắt đi thật. Ở ngoài rừng có mưa cũng không sợ bị ướt hay bị lạnh
hơn ở đây...
Tôi đoán Liên đã thực hành việc đi trốn ấy vì trong một đoạn sau có tính cách
than thở:
"Thực mình không ngờ anh Hạnh làm mình khóc nhiều đến thế. Mình rức đầu, đặt
lên gối cũng đau nhưng nhất quyết không xin lỗi. Anh Hy ơi, anh bị người ta cho
là thằng ma cà bông, người ta không cho anh ở gần hoặc ăn chung, anh với mình
không đươc chơi với nhau nữa, họ bảo thế và dọa sẽ đuổi anh đi ra khỏi nhà này
nếu chúng mình trái lệnh. Anh Hạnh lại còn mắng cả bố (sao anh ấy dám hỗn thế),
mắng bố đã đối đãi với anh H. quá ư tử tế..."
Tôi bắt đầu díu mắt lại nằm dài trên giường ngủ thiếp đi. Từ lúc tôi biết đau
khổ đến giờ chưa có một kỷ niệm nào ghê gớm bằng đêm ấy.
Tôi nằm mơ cùng đi với bác Dọi đến nhà thờ, có rất đông người nghe giảng đạo.
Tôi thì tôi mệt lắm! Tôi vặn người, tôi ngáp, ngủ gật rồi tỉnh dậy. Tôi lấy tay
thích bác Dọi để bác cho tôi biết bao giờ thì giảng xong. Rồi bỗng nhiên tất cả
mọi người xúm quanh tôi, giơ gậy định đánh tôi. Trong lúc hỗn loạn những chiếc
gậy định đập vào đầu tôi lại đập lầm vào sọ người khác. Nhà thờ vang lên chí
chát những đòn tấn công và phản công. Rồi người giảng đạo đập tới tấp như mưa
rào trên bàn giảng đạo, tiếng đập dữ dội làm tôi choàng dậy và cảm thấy người
nhẹ nhõm hẳn.
Tại sao tôi lại mơ thấy chuyện đánh lộn nhau và người giảng đạo đập bàn? Thì ra
chỉ tại một cành thông mỗi lần gió thổi lại chạm vào cửa sổ, quả thông cứng đập
vào mặt kính!
Tôi lắng nghe một lúc, trong lòng ngờ ngờ vực vực, rồi tôi trở người, chập chờn
ngủ tiếp và lại mơ, lần này còn tệ hại hơn.
Tôi nhớ ra mình đang nằm trong cái buồng bé tí bằng gỗ sồi và tôi nghe rõ ràng
tiếng ào ào của gió tuyết cùng tiếng đập tới tấp của quả thông, tiếng động làm
tôi bực mình quá và nhất định tìm cách làm cho nó im đi...tôi trở dậy định mở cửa
sổ. Cái quả nắm lại gắn chặt vào ổ khoá.
"Nhất định phải mở..." tôi lẩm bẩm thế. Tôi đấm mạnh cho cửa kính vỡ
rồi thò tay ra ngoài tìm cái cành thông khó chịu kia. Nhưng đáng lẽ nắm lấy
cành thông thì ngón tay tôi lại nắm vào những ngón của một bàn tay nhỏ, lạnh
như nước đá. Cả cái ghê sợ cực điểm của giấc mơ chiếm lấy người tôi: tôi cố kéo
tay về nhưng bàn tay kia cứ bám chặt lấy và một tiếng nói giọng buồn thương vô
hạn thổn thức: "Cho em vào! Cho em vào!" Tôi vừa gỡ cánh tay ra vừa hỏi:
"Cô là ai?" Tiếng đáp lại run run: "Tôn Liên đây. Em đã tìm về
nhà được. Em vừa bị lạc trong rừng cỏ." Tiếng ấy tiếp tục nói và tôi thấy
mơ hồ nét mặt của một người trẻ tuổi nhìn vào cửa sổ. Sự kinh hoàng khiến tôi
trở nên độc ác. Biết là mình không thể gỡ tay ra nổi, tôi kéo cổ tay cô ta để
lên miếng kính vỡ rồi cứa đi cứa lại cho đến khi máu chẩy ra đẫm ướt cả khăn
giường. Tiếng nói vẫn rên rỉ: "Cho em vào" và bàn tay vẫn nắm chặt lấy
tay tôi khiến tôi gần như điên lên vì kinh sợ. Sau cùng tôi bảo: "Tôi mở
thế nào được nếu cô muốn vào cô phải bỏ tay tôi ra đã." Các ngón tay thả lỏng
ra, tôi vội rụt tay tôi vào, lấy sách chất đầy lên che lỗ hổng, rồi bịt tai lại
để khỏi nghe thấy tiếng kêu than rên rỉ. Tôi đứng yên như thế độ mười lăm phút,
song mỗi khi để ý nghe, lại thấy tiếng rên rỉ đau thương ấy tiếp tục. Tôi kêu
lên: "Đi ngay đi, cô có van xin tôi trong hai mươi năm tôi cũng không cho
cô vào."
Tiếng nói lại rên rỉ: "Đã hai mươi năm rồi, hai mươi năm, đã hai mươi năm
em đi lang thang." Rồi tôi nghe như có tiếng cạo cạo ở ngoài và chồng sách
động đậy như bị đẩy vào phía trong. Tôi định đứng lên, nhưng không sao cử động
được tay chân: tôi hoảng sợ đến điên dại rồi gào thét ầm lên.
Tôi ngạc nhiên nhận thấy tiếng gào thét của tôi là có thực chứ không
phải là tiếng trong một giấc mơ. Có tiếng bước nhanh về phía cửa phòng tôi; có
ai đẩy mạnh cánh cửa rồi có ánh sáng lọt qua các lỗ vuông phía trên đầu giường.
Tôi vẫn ngồi run lẩy bẩy, lau mồ hôi chảy trên trán. Người mới ở ngoài vào như
lưỡng lự và tự nói với mình những tiếng rất nhỏ. Sau cùng người đó thì thầm hỏi
nhưng có vẻ hỏi mà không đợi câu trả lời: "Có ai ở đây không?"
Tôi nhận ra tiếng đó là tiếng ông Hy, cần phải tỏ ra có mình ở đây, tôi vội
quay người lại, mở hai cánh cửa lùa. Tôi khó quên được cảnh tượng lúc bấy giờ...
Ông Hy đứng ở gần cửa vào, một cây nến đương cháy rỏ giọt trên tay ông và mặt
ông cũng trắng nhợt như bức tường phía sau. Tiếng động của cánh cửa làm ông
choáng người như có điện giật 4.
Cây đèn nến tuột khỏi tay ông rơi xuống cách chân ông vài bước. Ông ta luống cuống
đến nỗi khó khăn lắm mới nhặt được cây nến.
Muốn ông khỏi xấu hổ để lộ cho tôi biết quá lâu về tính rút rát của ông, tôi vội
nói:
"Tôi đây ông ạ. Tôi mê sảng quá thành kêu ầm lên. Xin lỗi ông, đã làm phiền
tới ông."
Ông Hy đặt cây đèn cầy xuống ghế vì ông ta biết khó lòng cầm nó vững:
"Trời hại ông! Tôi muốn ông sa ngay xuống..."
Ông ta nắm chặt hai bàn tay, nghiến răng lại để quai hàm khỏi cựa quậy:
"Thế ai đưa ông vào buồng này. Ai? Tôi muốn tống cổ nó đi ngay lập tức."
Tôi vơ quần áo vừa mặc vội vàng vừa đáp:
"Chị Dị, tôi cũng không áy náy nếu ông đuổi chị ấy đi. Đáng đời lắm. Chắc
chị ta muốn dùng tôi để thử một lần nữa xem cái buồng này có ma không. Thế mà
có ma thật, vô số là ma. Ông khóa cửa là phải lắm. Ai mà ngủ được trong cái ổ
quỷ này."
"Ông định nói gì. Nếu ông đã vào đây thì ông cứ đi ngủ cho hết đêm nhưng
xin ông đừng làm rầm lên như thế nữa; tôi không thể tha thứ ông được nữa, chỉ
trừ khi nào ông đương bị người ta cắt cổ."
Tôi cự lại:
"Nếu con ma ấy vào lọt cửa sổ thì chắc chắn nó sẽ bóp cổ tôi. Tôi không chịu
được những sự hành hạ của ông bà ông vải nhà ông nữa. Còn cái cô lắm nhời, Tôn
Liên, Yên Liên gì đó... thì ngớ ngẩn và linh hồn chưa thoát: cô ấy bảo tôi cô ấy
đi lang thang đã hai mươi năm nay. Tôi chắc lúc còn sinh thời đã phạm nhiều tội
lỗi nên bây giờ mới bị trừng phạt như vậy. Thật là đáng kiếp!"
Tôi vừa nói xong miệng mới chợt nhớ là trong một cuốn sách có đoạn nói lẫn lộn
hai tên Hy và Liên. Câu chuyện đó tôi đã quên hẳn nay bỗng vụt nhớ ra. Tôi lấy
làm xấu hổ là mình đã hớ. Nhưng tôi nói tiếp theo luôn, làm như mình không biết
đã làm ông ta mất lòng.
"Sự thực ra, tôi đã đọc rất lâu..."
Tôi ngừng lại. Thật ra tôi định nói: "đọc rất lâu các cuốn sách cũ
này", nhưng nếu nói thế thì tỏ ra ngay là tôi đã đọc những đoạn viết tay
chua trong sách. Tôi nói xoay ra:
"Đọc rất lâu những chữ chạm trên thành cửa."
Ông Hy nói bằng một giọng to như sấm và hết sức hung hăng:
"Ông nghĩ gì mà nói với tôi như thế. Tại sao... tại sao ông dám... mà lại
ngay ở nhà tôi...? Trời ơi, phải là điên rồ mới nói như vậy."
Rồi ông ta tự đấm vào trán mình như cuồng dại.
Tôi tiếp tục kể lại giấc mơ, rồi quả quyết rằng trước kia chưa từng nghe tên
Tôn Liên, song chỉ vì đọc nhiều quá, đọc đi đọc lại mãi nên tên đó biến thành
người thật. Trong lúc tôi kể ông Hy lùi dần mãi vào náu trong góc phòng có cái
giường, ông ta ngồi xuống gần như khuất trong đó. Nhưng nghe hơi thở hổn hển
tôi đoán ông ta đang cố sức chống lại một sự cảm động mãnh liệt. Không muốn cho
ông ta biết là tôi hiểu thấu sự rối loạn trong tâm hồn ông, tôi mặc quần áo
nhìn đồng hồ rồi nói một mình:
"Chưa đến ba giờ, thế mà mình tưởng là sáu giờ. Thời gian ở đây sao mà dài
thế. À chắc là tối hôm qua mới tám giờ chúng mình đã đi ngủ."
Ông Hy cố nén cho khỏi rên lên và cất tiếng nói:
"Về mùa đông bao giờ cũng đi ngủ tám giờ tối và bốn giờ sáng đã dậy."
Nhìn cái bóng tay cử động tôi đoán ông ta đương gạt nước mắt.
Ông Hy nói tiếp:
"Tiếng kêu của ông đã làm tôi mất cả buồn ngủ, ông cầm đèn rồi ông đi về
phòng tôi hay ông muốn đi đâu thì đi, lát nữa tôi sẽ xuống. Ông nên tránh đi ra
sân vì lũ chó, còn buồng khách thì có con chó vàng, còn... nhưng thôi ông đi
quanh ở cầu thang... ông đi ra ngay! Độ hai phút tôi sẽ ra tìm ông."
Tôi nghe theo bước ra khỏi buồng, rồi không biết đường lối đi về đâu, tôi ngừng
lại và vô tình được chứng kiến một cảnh mê tín rất mâu thuẫn ở một người có
lương tri như ông. Ông ta trèo lên giường, dùng sức mở cửa sổ và trong lúc kéo
cánh cửa, ông không tự nén được, oà lên khóc nức nở: "Vào! Vào đây! Liên
ơi! Vào đi! Em, vào đi... chỉ một lần này thôi, em yêu dấu của anh! Lần
này nghe anh đi, em Liên!"
Nhưng hồn ma không thấy hiện. Chỉ có tuyết có gió lồng lộng ùa vào dữ dội, thổi
vào tận chỗ tôi đứng và làm nến phụt tắt. Trong cơn mê sảng của ông Hy, tôi thấy
có cái gì đau đớn não nuột quá, khiến tôi thương cảm ông và quên cả sự cuồng dại
của ông. Tôi đi ra xa, hơi hối là đã trót nghe, dẫu nghe rất ít, và tiếc rằng
đã kể giấc mộng vô lý của mình ra. Chính cái giấc mộng đó đã làm ông ta bị mê sảng
nhưng vì cớ gì thì tôi không rõ. Tôi mò mẫm đi xuống dưới nhà, và đi
vào một căn bếp. Một vài cây củi vẫn còn than hồng tôi liền lấy lửa thắp nến
lên. Một con mèo xám từ đống tro bò ra, kêu "meo" một tiếng cáu kỉnh.
Tôi nằm xuống ghế dài vừa bắt đầu thiu thiu thì có bác Dọi vào. Bác nhìn vào ngọn
lửa tôi vừa nhóm, đôi mắt trông rất ác. Bác đuổi con mèo đi ngồi vào chỗ của nó
và lấy ống điếu ra nhồi thuốc. Bác ta yên lặng đặt đầu điếu vào môi, khoanh hai
cánh tay lại và thở khói lên trời. Tôi để mặc bác ta yên ổn hưởng cái thú vị
khoái trá ấy. Sau khi thở phì xong hơi khói cuối cùng, bác thở dài một cái rồi
đi ra cũng đĩnh đạc như khi bước vào.
Sau lại có tiếng chân bước rảo hơn, tôi định mở miệng chào, nhưng rồi ngăn lại
vì thấy Hạ đương "cầu kinh" bằng cách lẩm bẩm hàng tràng tiếng chửi rủa
những vật mà anh ta sờ vào. Anh ta nhìn vào chỗ tôi nằm, chắc anh ta chẳng nghĩ
đến chào tôi, cũng như chẳng bao giờ anh ta nghĩ đến chào một con mèo cả. Anh
ta lấy cái thuổng cầm tay gõ vào một cánh cửa và chỉ cho tôi bằng một tiếng gầm
gừ rằng nếu tôi muốn sang phòng khác thì phải đi về phía ấy.
Cửa đó đi vào phòng lớn, chị Dị đương thổi bễ cho ngọn lửa to lên. Cô nàng dâu
ông Hy thì ngồi cạnh lửa, chăm chú đọc sách, chỉ thỉnh thoảng ngừng lại mắng chị
Dị đã làm bắn tia than vào đầy người nàng, hoặc đẩy con chó chốc chốc lại chọc
mũi vào mặt nàng. Tôi lấy làm ngạc nhiên thấy ông Hy cũng có đó, đứng quay lưng
về phía tôi: ông vừa mới mắng chị Dị một trận dữ dội vì chị ta chốc chốc lại
ngưng làm việc, nhấc một góc khăn quàng ngực quyệt nước mắt và khóc than rền
rĩ.
Trong lúc tôi đi vào thì ông Hy quay lại phía nàng dâu và thốt ra một tiếng rủa
không lấy gì tệ hại lắm, nhưng nếu hạ bút viết thì phải thay vào bằng mấy cái
chấm...
"Còn cô ả này, cô ả khốn nạn này nữa...cô cứ ngồi khểnh ra đó mà vớ vẩn. Ở
nhà này ai cũng làm việc cả; có làm thì mới có ăn chứ... Còn cô, thì cô chỉ ăn
bám vào tôi thôi. Quẳng những cái nhảm nhí ấy đi rồi tìm việc mà làm đỡ người
khác, nghe rõ chưa, đồ mặt dầy!"
Cô nàng dâu gấp sách lại quẳng trên ghế:
"Tôi sẽ ném những sách nhảm nhí này đi, nếu không thì ông lại áp chế tôi,
nhưng nếu ông cứ còn quen miệng nguyền rủa mãi thì tôi thích làm cái gì tôi sẽ
làm cái ấy."
Ông Hy giơ tay lên; nàng vội chạy ra xa, rõ ràng là nàng đã biết rõ sức mạnh của
bàn tay ấy. Không muốn chứng kiến một cuộc đối chọi giữa chó và mèo, tôi vội
vàng tiến lên làm như chỉ muốn đến sưởi ấm, chứ không biết gì đến cuộc cãi nhau
vừa ngừng. Mọi người đều có đủ lịch sự để ngừng cuộc xung đột. Ông Hy đút nắm
tay vào túi để khỏi bị quyến rũ dùng đến nó. Cô nàng dâu thì bĩu môi rồi đến ngồi
ở cái ghế xa, giữ đúng lời hứa và ngồi yên như tượng, trong lúc tôi còn ở lại.
Cũng không lâu la gì cho lắm: tôi từ chối lời họ mời ăn điểm tâm và khi trời bắt
đầu hửng sáng, tôi vội vàng tìm dịp đi ra ngoài; trời bây giờ sáng, yên tĩnh và
lạnh như nước đá.
Tôi gần đi đến cuối vườn thì ông Hy gọi tôi dừng lại rồi đề nghị dẫn đường cho
tôi qua rừng cỏ.
Chúng tôi nói chuyện rất ít, và khi đi đến trước cửa rừng cỏ trại Họa Mi Trang,
ông ta ngừng lại nói là bây giờ thì tôi không thể lạc đường được nữa. Chúng tôi
chào nhau bằng mấy lời vắn tắt. Từ ở cửa rừng đến trại có hơn ba cây số, tôi đi
mất gần bẩy cây, luôn luôn lạc lối ở ngoài đám cây, và có khi thụt vào trong
tuyết ngập đến cổ. Mãi tới trưa tôi mới về tới nhà, thành thử mỗi cây số rưỡi
tôi phải đi mất một tiếng đồng hồ.
Mọi người ở nhà đã tưởng tôi chết từ đêm trước và họ đương bối rối không biết
làm thế nào để đi tìm đem được xác tôi về.
--------------------------------
|
Catherine Earnshaw (ỏ Anh nếu lấy chồng thì tên con gái vẫn
giữ nhưng tên họ mình đổi ra họ nhà chồng. Liên là tên người con gái này, Tôn
Liên là tên khi đã lấy chồng nhà họ Tôn. Còn Hy Liên chỉ là tên hai người
ghép lại) |
|
|
Hindley Earnshaw |
|
|
Frances |
|
|
Hồi đó người ta đã phát minh ra điện |
Chương IV
Chúng mình thực thay đổi như chong chóng. Tôi không ưa sự thù
tiếp xã giao, tự lấy làm mãn nguyện tìm được một nơi hầu như không thể có được,
thế mà khi mụ Diễn 1 coi
nhà đem cơm chiều lên tôi mời mụ ngồi lại trong khi tôi ăn. Tôi thực tình mong
mụ ta là một mụ lắm nhời lắm miệng. Tôi bắt đầu hỏi:
"Bác ở đây lâu lắm rồi, có phải không? Hình như bác nói đã mười sáu năm rồi..."
"Thưa ông, mười tám năm rồi. Tôi đến lúc bà chủ đi lấy chồng. Sau khi bà
ta mất, ông ta giữ tôi lại làm người quản gia."
"Thật vậy à?"
Bác ta yên lặng. Có lẽ mụ không thuộc loại người lẻo mép. Nhưng sau đó một lúc,
hai nắm tay chống đầu gối, vẻ mặt đỏ ửng, nhiễm vẻ suy nghĩ mơ màng, bác ta
nói:
"A! từ lúc đó đến bây giờ biết bao nhiêu là thay đổi."
Tôi nói thêm vào:
"Chắc bác đã chứng kiến những sự thay đổi, có phải thế không?"
"Vâng, chính thế. Lại bao nhiêu đau khổ nữa."
Tôi nghĩ thầm: "Mình phải gợi cho mụ ta nói chuyện về gia đình ông Hy,
mình mới biết cô nàng dâu góa trẻ và đẹp ấy."
Nghĩ thế tôi hỏi bác Diễn tại sao ông Hy lại cho thuê Họa Mi Trang và chịu sống
ở một địa vị và trong một căn nhà kém cỏi như thế. Hay ông ta không giàu có lắm
để giữ gìn sản nghiệp cho được đàng hoàng. Bác Diễn đáp lời:
"Thưa ông Hy giàu lắm chứ! Không ai biết ông ấy có bao nhiêu tiền và mỗi
năm tài sản lại tăng lên đến mức nào; ông ấy thừa sức sống trong cái nhà sang
trọng hơn căn nhà này nhiều; nhưng ông ấy phải cái tính keo kiệt, cho dẫu ông
ta có ý dọn sang ở Họa-Mi Trang đi nữa mà nếu có người muốn thuê và trả giá
cao, ông ấy cũng không bỏ qua dịp kiếm thêm tiền. Chỉ có một thân một mình trên
đời này mà còn tham lam như vậy nghĩ cũng kỳ thật."
"Tôi tưởng ông ta có cậu con trai?"
"Có, ông ta có một cậu nhưng chết rồi."
"Còn cái người đàn bà trẻ ấy là vợ góa của con ông ta?"
"Vâng."
"Cô ấy ở đâu đến?"
"Cô ấy là con gái ông chủ tôi. Cô ấy là cô Liên, Tôn Liên 2 tên
riêng cô ta từ thuở nhỏ. Chính tôi là vú nuôi cô ấy. Tội nghiệp con bé. Tôi chỉ
mong ông Hy về đây ở để tôi với cô Liên được đoàn tụ với nhau."
Tôi kinh ngạc kêu lên:
"Ai? Cô Tôn Liên?"
Nhưng suy nghĩ một lát tôi biết cô này không phải cô Tôn Liên ở trong giấc mộng
của tôi. Tôi tiếp theo:
"Thế ra ông Tôn là người ở Họa Mi Trang này trước tôi?"
"Vâng, đúng thế."
"Thế còn anh chàng họ Yên... Yên Hạ, cùng ở với ông Hy là ai? Có họ với
ông Hy không?"
"Không, đấy là cháu của bà Tôn Kha."
"Nghĩa là anh em con cô con bác với cô goá trẻ?"
"Vâng, và chồng cô Liên với cô Liên cũng là anh em con cô con bác với
nhau: chồng về phía mẹ, vợ về phía bố. Còn ông Hy lấy em gái ông Tôn 3."
"Tôi thấy ở Gió Hú có tên họ Yên khắc trên cổng chính. Có phải là một họ
gia thế không?"
"Thưa vâng, cậu Hạ là con trai nối dõi sau cùng của họ Yên, cũng như cô
Liên là dòng dõi cuối cùng của họ Tôn. Thưa ông, ông đã đến thăm trại Gió Hú?
Xin lỗi ông tôi hỏi như vậy thực là tò mò, nhưng tôi muốn hỏi thăm ông xem cô
Liên có được mạnh khỏe không?"
"Cô Tôn Liên ấy à? Cô ấy có vẻ khỏe mạnh lắm và trông cô ấy cũng xinh đẹp;
song hình như không được sung sướng lắm thì phải."
"Trời! Cái đó cũng không có gì lạ. Còn về ông Hy? Ông nghĩ sao?"
"Một người hơi thô tục. Có phải tính nết ông ta thế không, bác Diễn?"
"Vâng, thưa ông, đúng thế. Ông Hy thô tục và đanh đá. Ông càng ít giao thiệp
với ông ta càng hơn."
"Chắc ông Hy trong đời nhiều lúc lên voi xuống chó nên bản tính mới thế.
Bác có biết chuyện gì về ông ta không?"
"Tôi biết hết chuyện ông ta, nhưng còn ông ta sinh đẻ ở đâu, bố mẹ là ai,
lúc đầu ông ta làm giầu cách nào thì tôi không biết gì hết. Anh chàng Hạ bị người
ta vứt ra khỏi tổ như một con chim sẻ non. Chỉ có mình anh ta là không ngờ rằng
mình bị sang đoạt."
"Bác Diễn, thế thì bác hãy làm phúc kể cho tôi nghe ít nhiều về đời những
người láng giềng của tôi. Tôi biết là nếu tôi có ngủ bây giờ cũng không thể nào
ngủ được. Vì vậy bác ngồi chơi thong thả một lát rồi nói chuyện gẫu cho tôi
nghe đi."
"Thưa ông tôi rất vui lòng. Để tôi đi lấy đồ đan rồi ngồi cho tới khi nào
ông không muốn nghe nữa."
Bác Diễn bắt đầu kể chuyện không đợi tôi mời thêm lần nữa.
° ° °
Trước khi đến đây, tôi vẫn ở trại Gió Hú. Bà cụ thân sinh ra
tôi trước kia là vú nuôi ông Yên Hạnh tức là cha đẻ ra Yên Hạ bây giờ. Tôi thường
chơi với lũ trẻ con. Một buổi sáng mùa hè, cụ Yên ông (bố đẻ của ông Yên Hạnh
và cô Yên Liên) mặc bộ quần áo kiểu du lịch đi xuống dưới nhà. Sau khi chỉ bảo
công việc cho bác Dọi làm, cụ Yên quay về phía Hạnh, Liên và tôi rồi hỏi con
trai:
"Ngày hôm nay ba đi Li-vơ-pun 4 con
có thích cái gì không? Con muốn chọn cái gì tùy ý miễn là đừng to lớn quá vì ba
phải đi bộ suốt cả lượt đi lẫn lượt về ngót hai trăm cây số, xa lắm đấy."
Hạnh muốn có một cây đàn vĩ cầm. Rồi cụ lại hỏi Yên Liên (tức là Liên mẹ) hồi
đó mới lên sáu, nhưng đã cưỡi được tất cả ngựa ở chuồng nên cô ta chọn cái roi
quất ngựa.
Trước khi hôn các con, chào từ biệt và lên đường, cụ Yên không cũng quên tôi, cụ
hứa sẽ mang về cho tôi một bịch lê táo.
Ba ngày cụ Yên đi vắng đối với chúng tôi thực là đằng đẵng. Cô bé Liên cứ luôn
miệng hỏi bao giờ bố về. Chiều hôm thứ ba, cụ bà cứ hoãn mãi giờ cơm, hết giờ
này sang giờ khác mà cụ ông vẫn chưa về. Bà cụ muốn các con đi ngủ nhưng chúng
kêu van ở lại đợi. Mãi đến mười một giờ đêm, ông cụ mới về. Cụ ném mình xuống một
cái ghế và nửa cười nửa gắt bảo vợ con đừng đến gần vì cụ mệt gần chết.
Ông cụ mở cái áo tơi cuộn tròn trong tay ra rồi nói:
"Đã thế lại phải mang một thứ nặng chết người. Này mình xem. Trong đời tôi
chưa bao giờ thấy mệt như bây giờ, nhưng mình phải nhận lấy cái gánh nặng này
trời gán cho đấy, mặc dù nó đen như quỷ sứ."
Chúng tôi đứng xúm lại. Tôi nhìn qua đầu cô Liên thấy một đứa trẻ bẩn thỉu, quần
áo tả tơi, tóc đen bù xù, nhưng người đã đủ lớn để có thể đi lại và nói năng được.
Trông nét mặt nó có vẻ nhiều tuổi hơn Liên. Nhưng đến lúc nó đứng dậy, nó chỉ
biết nhìn quanh một cách ngơ ngác và nói lí nhí mãi không ai hiểu gì cả. Tôi sợ
quá và cụ bà thì muốn đem quẳng nó ra cửa ngay lập tức. Bà giận dữ không hiểu cụ
ông đem cái đứa trẻ cầu bơ cầu bất ấy về làm gì, trong lúc nhà có lũ con cần
nuôi dậy. Chồng mình định làm gì? Ông có điên không chứ? Cụ ông cố sức giảng giải.
Cụ gặp nó đương nằm đói ở ngoài phố, định thăm hỏi nhưng không ai biết nó. Ít
tiền lại ít thì giờ cụ nghĩ không gì tốt hơn là đem nó về nhà, không thể để nó
trong tình trạng đó được. Sau cùng cụ bà cũng dịu và cụ ông bảo tôi tắm cho nó,
mặc quần áo sạch sẽ cho nó, rồi cho nó đi ngủ với bọn trẻ con.
Hạnh và Liên đứng yên nhìn và nghe cho đến khi mọi việc ổn thỏa và hai đứa trẻ
khám hết các túi cha để tìm quà. Hạnh là một cậu bé đã mười bốn tuổi nhưng khi
cậu lôi ra một cây đàn bị đè nát từng mảnh trong áo bành tô của cha, cậu cũng
khóc nức nở. Còn Liên khi biết cha vì săn sóc thằng bé đã để mất cái roi ngựa,
cô nhăn mặt tỏ ý khó chịu và nhổ về phía đứa bé đứng, khiến ông cụ tát cho một
cái để dậy cho cô có những cử chỉ lịch sự hơn. Cả hai cô cậu đều quyết liệt
không chịu ngủ chung giường với đứa bé, ngay cả chung buồng cũng vậy. Tôi cũng
chẳng khôn gì hơn bọn chúng, đem đặt đứa bé ở cầu thang, mong sáng hôm sau dậy
nó cút thẳng. Không may ông cụ ở buồng đi ra trông thấy nó nằm đấy liền điều
tra: tôi đành phải thú nhận, và vì tội hèn nhát và vô nhân đạo ấy, tôi bị đuổi.
Đấy, Hy nhập gia đình cụ Yên như thế đấy. Mấy ngày sau khi tôi trở về (vì tôi
biết chỉ là sự đuổi tạm thời) thì tôi thấy nhà đã đặt tên đứa bé là Hy (tên một
đứa con của cụ Yên chết). Hy vừa là tên vừa là tên họ. Lúc đó Liên và Hy đã ăn
ý với nhau lắm. Hạnh thì ghét Hy và thú thực tôi cũng ghét Hy. Chúng tôi trêu
chọc Hy và đối đãi với nó một cách bất công; bà chủ Yên giá có thấy nó bị oan ức
cũng không bao giờ bênh vực nó.
Hy có vẻ một đức bé rầu rĩ và nhẫn nhục, đã quen chịu đựng những cách đối đãi cục
cằn. Hạnh đấm đá nó, nó không hề cau mày, không hề giỏ nước mắt; tôi có véo nó
thì nó chỉ thở dài và giương to hai mắt ra, hình như bị đau chỉ vì rủi ro và
không có ai đáng trách cả. Cụ Yên thấy nó có tính gan dạ thế nên mỗi khi thấy
con mình hành hạ nó, cụ cáu vô cùng; cụ gọi nó là thằng bé mồ côi khù khờ. Cụ
yêu nó một cách lạ lùng; nó nói gì, cụ cũng nghe (nó nói rất ít nhưng thường
nói sự thực); và nuông nó còn hơn cả bé Liên nhiều vì bé Liên có tính cứng đầu
cứng cổ không tuân lời.
Vì vậy, ngay từ lúc đầu, Hy đã gây nên bao nhiêu sự bất hòa ở trong nhà. Hai năm
sau... cụ Yên bà qua đời, Hạnh coi cha như một người áp chế chứ không phải một
người bạn, và coi Hy như một người đã cướp tình yêu và quyền thế của cha mình.
Mới đầu tôi cũng về hùa với Hạnh, nhưng về sau, khi các trẻ bị lên sởi, tôi phải
săn sóc chúng thì ý nghĩ của tôi đổi khác. Hy bị bệnh nguy hiểm nhất; lúc cơn bệnh
lên tột độ, nó muốn tôi luôn luôn ngồi ở đầu giường: tôi đoán nó thấy tôi đã hết
lòng với nó, nhưng nó chưa đủ trí để hiểu rằng tôi phải làm thế chỉ vì bổn phận
mà thôi. Dầu sao tôi cần phải nói rõ nó là một đứa trẻ ngoan ngoãn nhất. Sự
khác biệt giữa Hy với Liên và Hạnh khiến cho tôi bớt tư vị. Liên, Hạnh làm tôi
mệt nhoãi mệt nhoài, còn Hy thì yên lặng như con cừu non; nó làm tôi bớt lo
nghĩ không phải vì tính nó hiền lành, nhưng chỉ vì nó chịu đựng được đau đớn.
Về sau Hy khỏi; bác sĩ nói quyết rằng một phần lớn nhờ tôi, rồi khen tôi chịu
khó săn sóc nó. Tôi hài lòng về những lời khen đó và trở nên rộng lượng đối với
Hy, người đã làm cho mình được tiếng khen. Thế là Hạnh không còn ai là bạn nữa.
Tuy vậy tôi cũng không ưa gì Hy cho lắm; tôi vẫn tự hỏi không biết đứa trẻ lầm
lỳ ấy có thứ gì khiến cụ Yên thích nó đến thế. Theo chỗ tôi biết, không có một
lần nào nó tỏ ý biết ơn ông cụ. Nó không hỗn sược với người làm ơn cho mình, nó
cứ thản nhiên vô tình, mặc dầu nó biết đã chiếm được tình yêu của người ấy. Nó
chỉ khẽ tỏ ý ra là tất cả nhà ai cũng phải chiều ý nó. Chẳng hạn, tôi nhớ lại một
ngày cụ Yên mua một đôi ngựa cho Hy và Hạnh mỗi cậu một con. Hy lấy con đẹp nhất,
không bao lâu con này què chân. Thấy vậy nó bảo Hạnh:
"Anh cần phải đổi ngựa cho tôi. Tôi không thích con ngựa của tôi nữa. Nếu
anh không bằng lòng tôi sẽ mách ba rằng trong tuần lễ này anh đã đánh tôi ba lần
rồi. Tôi sẽ giơ cánh tay bầm tím đến tận vai để ba xem."
Hạnh thè lưỡi ra chế nhạo, và bợp tai nó một cái. Nó lùi ra cửa chuồng ngựa và
dằn giọng nói:
"Anh biết điều thì đổi ngay đi, nếu không tôi giơ những chỗ bị đánh này
thì anh bị ốm đòn."
Hạnh giơ quả tạ dùng để cân khoai và kêu lên:
"Cút đi, đồ chó!"
Hy không động đậy:
"Anh cứ ném đi. Rồi tôi sẽ mách ba rằng anh đã dọa tống cổ tôi ra khỏi nhà
này khi ba mất. Chắc chắn anh sẽ bị đuổi ngay lập tức bây giờ."
Hạnh ném quả tạ trúng giữa ngực Hy; Hy ngã nhưng lại đứng dậy ngay, mặt tái
mét, người lảo đảo và thở hổn hển. Nếu tôi không ngăn cản thì nó đi thẳng tìm cụ
Yên và không cần nói gì, chỉ để cụ Yên thấy tình trạng nó là tự cụ đã đoán ngay
ai là thủ phạm.
Hạnh nói:
"Ừ thì mày lấy con ngựa của tao đi, thằng chết đường. Tao cầu trời cho nó
quật gẫy cổ mày, thử xem nó lại không đá cho một cái vỡ sọ ra à."
Trong lúc Hy tiến lên để tháo yên ngựa đổi chuồng, Hạnh đẩy nó ngã dưới chân ngựa
rồi cắm cổ chạy thẳng không kịp nhìn xem ngựa có đá không. Tôi lấy làm ngạc
nhiên thấy thằng bé Hy đứng dậy thản nhiên như không, tiếp tục tháo yên cương.
Rồi nó ngồi xuống bó cỏ cho đỡ mệt, trước khi vào nhà. Tôi bảo nó để tôi nói rằng
nó bị bầm tím mình mẩy là tại con ngựa, nó chịu ngay: muốn nói gì thì nói nó
cũng không cần, vì nó đổi được con ngựa là đủ rồi. Vả lại, sau những cuộc đánh
nhau như vậy, ít khi nó than phiền, nên tôi tưởng nó không để bụng thù. Nhưng
tôi hoàn toàn lầm. Để rồi tôi kể ông nghe.
--------------------------------
|
Dean |
|
|
Tức là con gái cũa Yên Liên, Tôn Liên, người đã hiện ra
trong giấc mơ của ông Lộc. Ở bên Anh mẹ con trùng tên họ nhau là chuyện thường. |
|
|
Xem "bản truyền hệ" ở đầu quyển truyện này. |
|
|
Liverpool, một bến đò lớn ở Anh. |
Chương V
Cụ Yên ngày một kém sức. Khi cụ yếu quá, chỉ ngồi cạnh lò sưởi,
cụ đâm ra dễ cáu. Một tí gì cũng làm ông cụ giận dữ nhất là có ai bắt nạt Hy hoặc
sai bảo Hy một cách sỗ sàng. Chỉ mới nghĩ rằng người ta có thể nói một câu bất
nhã khó chịu với Hy, cụ cũng lo lắng tức bực. Hình như ông cụ tự nhồi vào óc
cái ý nghĩ rằng chỉ vì cụ yêu Hy, nên mọi người đều ghét và muốn trêu chọc cụ.
Nhưng việc này hại cho Hy vì những người tốt bụng trong bọn chúng tôi đều không
muốn làm trái ý cụ, thành thử chúng tôi phải phờ phỉnh tính tư vị của cụ, và sự
phờ phỉnh đó như nuôi cái tính kiêu ngạo và hung hãn của Hy. Một vài lần, Hạnh
để lộ vẻ khinh bỉ, cụ nhận thấy, cáu lắm, vác gậy định đánh, nhưng tức run cả
người lên khi thấy mình không còn đủ sức để đánh nữa.
Sau vị mục sư của chúng tôi khuyên cụ Yên nên cho Hạnh đi học xa, cụ đồng ý tuy
chẳng vui gì, vì cụ bảo:
"Thằng Hạnh muốn đi đâu thì đi, nó chẳng được tích sự gì mà cũng chẳng bao
giờ làm nên công chuyện gì."
Tôi thực tình mong mỏi là từ nay trong nhà sẽ yên ổn... Nhưng lại có hai người:
cô Liên và bác Dọi. Ông đã gặp bác ta, trên Đỉnh. Bác ta khéo thuyết đạo, khéo
nói những lời sùng tín, nên có ảnh hưởng đến cụ Yên, và cụ Yên càng yếu, ảnh hưởng
bác ta càng tăng. Bác ta ray rứt tàn nhẫn cụ Yên để nhắc đến việc cứu vớt linh
hồn cụ, và lưu tâm dậy con cái một cách nghiêm nghị; bác khuyên cụ Yên nên coi
Hạnh như một đứa trời đánh và chẳng chiều nào là bác không tuôn ra một chuỗi
dài các chuyện xẩy ra không hay cho Hy và Liên; bác ta bao giờ cũng khéo đánh
vào chỗ yếu của ông cụ là đổ tội lên đầu Liên nhiều hơn.
Còn Liên, cô ấy có những thói riêng tôi chưa từng thấy ở đứa trẻ nào... Cô quấy
rầy chúng tôi mỗi ngày có hàng năm chục lần: từ lúc xuống đến lúc đi ngủ, không
có một phút nào mà chúng tôi không lo sợ xẩy ra một chuyện ma quái. Liên bao giờ
cũng háo ha háo hức, láu táu luôn miệng...nào hát, nào cười, châm chọc bất kỳ
ai không làm theo như cô. Thật là một con ranh con bất trị, nhưng khắp vùng này
lại không có ai có con mắt vui hơn, nụ cười vuốt ve hơn, dáng đi nhẹ nhàng hơn
cô bé ấy. Nghĩ cho kỹ, tôi chắc cô ấy không phải là người có tâm địa xấu, vì mỗi
lần làm cho chúng tôi bực mình, cô ấy thường ở bên chúng tôi, van xin chúng tôi
nín khóc để cho cô ấy khỏi buồn lòng. Cô ấy cứ quấn quýt lấy cậu Hy. Chúng tôi
đã nghĩ ra được một cách phạt Liên nặng nhất là bắt Liên phải xa Hy. Thế mà
trong bọn chúng tôi không ai bị mắng vì Hy như Liên.
Còn cụ Yên thì không chịu nổi những lời bông đùa của trẻ con; đối với con bao
giờ cụ cũng khắc nghiệt, nghiêm nghị; về phần Liên, cô không hiểu sao cha mình
trong khi đau yếu thường hay nóng tính, gắt gỏng không như thời còn tráng kiện.
Chính vì cụ hay gắt gỏng càu nhàu mắng mỏ nên Liên mói thấy việc trêu cha là một
cái thú. Mỗi khi thấy tất cả mọi người đều mắng cự cô, cô lấy làm khoái trí lắm,
cô như thách tất cả mọi người bằng hai con mắt nhìn ngạo nghễ, hỗn sược và những
câu đối đáp sẵn sàng. Cô ta nhạo những câu nguyền rủa độc địa của bác Dọi, cô
ta trêu tôi, làm chính những việc mà ông bố ghét nhất, và tỏ cho ông bố biết tại
sao sự khinh miệt giả tạo vờ vĩnh của cô - mà ông bố tưởng là thật - lại có ảnh
hưởng đến Hy hơn là lòng tốt của ông bố đối với Hy; cô ấy lại còn tỏ ra tại sao
bất cứ việc gì cô bảo, Hy cũng nghe cô, còn đối với ông bố thì Hy chỉ nghe theo
khi nào chính Hy thấy việc ấy hợp với ý thích của Hy thôi. Suốt ngày hỗn sược với
bố như thế, chiều đến thỉnh thoảng Liên lại đến vuốt ve bố làm lành. Cụ Yên
nói:
"Thôi Liên ơi, ba không yêu con đâu. Con còn tệ hơn cả thằng Hạnh. Đi cầu
kinh đi, con ơi, rồi thú tội với Chúa. Mẹ mày và tao nữa thẩy đều lấy làm xấu hổ
đã sinh ra mày."
Mới đầu những lời đó làm cho Liên khóc, nhưng bị ông bố ruồng rẫy mãi, Liên
quen đi và mỗi khi tôi khuyên cô nên xin lỗi và tỏ ý hối tiếc những lầm lỗi đã
qua thì cô lại bật cười.
Rồi một hôm cụ Yên chết, chết yên lặng trong khi đương ngồi trước lò sưởi, một
buổi chiều tháng mười, gió mạnh thổi quanh nhà, rít lên trong lò sưởi; hình như
có bão nhưng trời lại không rét lắm. Chúng tôi đều quây quần quanh lò sưởi; tôi
ngồi ở một chỗ hơi xa đương bận đan còn bác Dọi thì ngồi đọc Thánh Kinh ở gần
bàn. Cô Liên hơi mệt, vì thế cô ngồi yên, dựa đầu vào chân cha, còn Hy thì nằm
dài ở dưới đất, đầu đặt lên đùi Liên. Tôi nhớ cụ Yên trước khi thiu thiu ngủ
còn vuốt ve làn tóc xinh đẹp của con gái. Ông cụ ít khi có được cái thú thấy
con gái mình ngoan. Cụ nói:
"Liên ơi, tại sao con không bất cứ lúc nào, cũng là một đứa bé
ngoan?"
Liên ngửng đầu về phía bố rồi đáp:
"Ba ơi, tại sao ba không bất cứ lúc nào, cũng là một người bố ngoan?"
Nhưng khi Liên thấy cha giận, cô hôn bàn tay cha và nói sẽ hát một bài để ru
cha ngủ. Tôi bảo Liên đừng hát nữa và đừng động đậy người sợ đánh thức cụ Yên dậy.
Chúng tôi ngồi yên không nói như thế trong nửa giờ; sau cùng bác Dọi đứng lên
nói sẽ đánh thức ông chủ để ông chủ đọc kinh và đi nghỉ. Bác Dọi đến gần gọi
tên ông chủ và sờ vào vai. Thấy cụ Yên không nhúc nhích bác Dọi cầm cây nến soi
vào mặt. Tôi đoán có sự gì không hay xẩy ra khi tôi thấy bác Dọi đặt cây đèn rồi
mỗi tay dắt một đứa trẻ bảo chúng rất khẽ: "Lên gác đừng có làm rầm cầu
kinh lấy với nhau cũng được, còn tôi, tôi có việc."
Liên nói: "Tôi muốn hôn ba một cái" và giơ tay lên quàng lấy cổ bố
trước khi chúng tôi có thể ngăn cản. Cô bé khốn nạn hiểu ngay và kêu lên:
"Ba chết rồi. Hy, Hy, ba chết rồi!"
Và cả hai đứa trẻ cùng kêu khóc thảm thiết. Tôi cũng khóc ầm ỹ theo chúng.
Nhưng bác Dọi bảo có một người đã hiển thánh sống trên thiên đường, việc gì mà
chúng tôi phải kêu rống lên như thế. Bác ta bảo tôi đi ra Diên-mễ-Tôn 1 tìm
bác sĩ và mục sư. Tôi không hiểu hai người đó giúp được gì, tuy nhiên tôi vẫn lặn
lội nửa giờ đi đem ông đốc tờ về, còn ông mục sư thì nội sáng ngày hôm sau sẽ đến...
Để mặc bác Dọi giảng giải, tôi chạy lên buồng hai đứa bé. Cửa buồng chúng hé mở,
tôi thấy chúng chưa đi ngủ, mặc dù lúc đó đã quá nửa đêm; nhưng chúng đã bình
tĩnh, tôi không cần an ủi. Hai đứa nhỏ tự an ủi lẫn nhau bằng những câu mà tôi
không thể nào nghĩ ra. Không có một mục sư nào có thể tả cảnh thiên đường đẹp
hơn là chúng tả trong khi chúng ngây thơ thỏ thẻ cùng nhau. Trong lúc tôi vừa
thổn thức vừa nghe chúng nói chuyện, lòng tôi không thể nào không ao ước rằng
chúng tôi... tất cả chúng tôi... sẽ được xum họp yên lành ở trên đó.
--------------------------------
|
Gimmerton |
Chương VI
Hạnh trở về để đưa đám và trở về với một người vợ khiến chúng
tôi kinh ngạc, và người chung quanh vùng bàn tán. Bà vợ là ai, quê quán ở đâu,
không bao giờ Hạnh cho chúng tôi hay. Chắc bà ta không có của hồi môn, không phải
là con nhà gia thế vì vậy Hạnh phải giấu cuộc hôn nhân ấy, không cho cha biết...
Sau ba năm vắng nhà, Hạnh thay đổi rất nhiều, người gầy đi, kém hồng hào, lời
nói và cách ăn mặc khác hẳn trước. Ngay hôm mới về, cậu ấy ra lệnh bắt bác Dọi
và tôi từ nay phải ở luôn trong bếp và căn phòng lớn cho cậu dùng. Còn mợ Hạnh
tỏ ý thích muốn làm chị làm em với người trong họ chồng; lúc đầu mợ ta chuyện
trò thân mật với Liên, hôn hít Liên, đi chơi khắp nơi với em chồng và mua cho rất
nhiều quà bánh. Nhưng về sau, sự thân yêu ấy nhạt dần và khi mợ ta trở nên cau
có thì Hạnh trở thành độc đoán. Chỉ một vài câu mợ nói tỏ ý không ưa Hy cũng đủ
làm nổi dậy trong lòng Hạnh tất cả mối thù hận xưa. Hạnh bắt Hy sống với bọn
tôi tớ, không cho đi học nữa, bắt làm lụng ở ngoài đồng và cũng làm vất vả như
một tên thợ cầy.
Lúc đầu Hy cũng chịu đựng được sự khổ nhục ấy, vì Liên học được đến đâu thì dậy
lại Hy, cùng Hy làm việc và chơi đùa ở ngoài đồng. Cả hai đứa thực tình hứa hẹn
với nhau sẽ cố trở thành thô bạo như lũ mán mọi; Hạnh không ngó ngàng gì đến
cách ăn ở của hai đứa trẻ và mọi việc chúng làm, miễn là chàng không gặp mặt
chúng. Hạnh cũng chẳng cần biết tới việc chúng có đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật
không, nếu không có lời bác Dọi và ông mục sư trách móc về sự vắng mặt của Hy
và Liên; thế là Hạnh bảo đem Hy đi đánh đòn và phạt Liên nhịn cơm trưa hay chiều.
Nhưng hai đứa không lấy gì làm thích hơn là cùng nhau chạy trốn vào rừng cỏ, từ
sáng sớm và ở đấy suốt ngay; sự trừng phạt chắc sẽ có nhưng chúng chỉ coi đó là
một thứ để đùa giễu. Ông mục sư muốn bắt Liên học thuộc lòng bao nhiên chương
sách đó là tùy ý ông, bác Dọi muốn cầm roi vụt Hy cho đến khi tê dại cả cánh
tay, đó là tùy ý bác ta; hễ Hy và Liên gặp nhau là chúng quên hết mọi sự, nhất
là khi chúng mưu mô được một cách trả thù ranh quái. Nhiều lần tôi đã phải khóc
thầm thấy hai đứa trẻ ngày một trâng tráo quá, nhưng tôi không dám ngỏ một lời
nào hết sợ mất hết một chút oai quyền còn lại đối với hai đứa trẻ thiếu thốn
thương yêu ấy.
Một buổi chiều chủ nhật, chúng bị đuổi ra khỏi buồng vì làm rầm rĩ hay vì một lỗi
nhỏ gì đấy. Khi tôi đi gọi chúng về ăn cơm thì tìm hết nơi cũng không thấy
chúng đâu cả. Sau cùng Hạnh cáu tiết ra lệnh đóng hết các cửa và cấm bất kỳ ai
cho chúng vào nhà đêm nay. Mọi người đã đi ngủ. Riêng tôi, vì lo lắng không sao
ngủ được, tôi mở cửa sổ, thò đầu ra ngoài nghe ngóng, mặc dầu lúc đó trời mưa:
nếu chúng về, tôi nhất quyết sẽ mở cửa cho chúng bất chấp lệnh cấm. Sau một lúc
lâu có tiếng chân đi trên đường và có ánh sáng một ngọn đèn lấp loáng sau hàng
rào ngăn. Tôi choàng khăn, chạy vội ra sợ chúng gõ cửa làm Hạnh tỉnh giấc. Chỉ
có Hy về, tôi giựt mình:
"Còn Liên đâu? Không xẩy ra tai nạn gì chứ?"
"Ở Họa Mi Trang; còn tôi, tôi cũng ngủ lại đấy, nếu họ có đôi chút lễ độ mời
tôi ở lại.
"Thế cậu làm gì ở Họa Mi Trang?"
"Để tôi thay quần áo ướt rồi tôi sẽ kể hết vú nghe."
Tôi bảo Hy cẩn thận đừng làm Hạnh thức giấc và trong lúc thay quần áo Hy nói tiếp:
"Chúng tôi trốn khỏi nhà giặt để chạy rông cho thỏa thích. Thấy có ánh
sáng ở Họa Mi Trang, chúng tôi nẩy ra ý kiến đến xem hai đứa bé nhà họ Tôn chiều
chủ nhật có ngồi rét run ở một só không, trong khi bố mẹ ăn no, uống say cười
hát cạnh lò sưởi; hoặc xem chúng có bị bắt đọc sách thuyết giáo, bị một tên đầy
tớ già giảng đạo hoặc bị phạt học thuộc lòng cả một cột tên trong Thánh Kinh nếu
chúng trả lời sai.
Chắc là không rồi. Vì đó là những đứa trẻ ngoan; người ta không bao giờ đối đãi
chúng như đối đãi hai cô cậu xấu tính xấu nết nhà này.
Thôi đi vú. Đừng giảng đạo đức nữa. Láo, láo tuốt. Chúng tôi chạy một mạch từ Đỉnh
Gió Hú đến Họa Mi Trang… Liên bị tôi bỏ xa vì nó chạy chân không. Chúng tôi
chui qua một lỗ hổng ở hàng rào, lần mò theo con đường nhỏ, rồi leo lên một cái
bồn hoa nhìn qua cửa sổ vào trong... thật là tuyệt: một gian phòng sang trọng
có thảm đỏ, bàn ghế đều phủ nhung đỏ, trần nhà trắng toát viền kim nhũ và ở
ngay giữa, các ngọn nến chiếu sáng long lanh một chùm mảnh thủy tinh treo bằng
những sợi giây bạc. Ông bà Tôn không có đấy, chắc là hai đứa trẻ sung sướng như
tiên. Chúng tôi thì tưởng mình đã lên tiên rồi! Thế mà, vú có biết hai đứa bé
ngoan của vú làm gì không? Con Sa 1 nó
độ mười một tuổi nghĩa là kém Liên một tuổi - con Sa nằm lăn xuống nền nhà, kêu
la như đương bị lũ quỷ sứ tùng sẻo, thằng Kha 2 thì
ngồi ở cạnh lò sưởi khóc ri rỉ. Ở giữa bàn có một con chó con chân run rẩy, kêu
ăng ẳng. Thấy đứa nọ đổ lỗi cho đứa kia, chúng tôi hiểu ngay là hai đứa đã suýt
kéo đứt đôi con chó! Đấy vú xem chúng nó nghịch như thế đấy. Đánh nhau chí chết,
tranh nhau một con chó, rồi sau lại hờn khóc vì cả hai đều không ai muốn lấy
con chó nữa. Thấy hai đứa trẻ hư thân mất nết ấy, chúng tôi cười vỡ bụng; thực
là lũ đáng khinh. Vú xem, có bao giờ vú thấy tôi đòi một thứ gì mà Liên thích
không, có bao giờ vú thấy hai chúng tôi một mình với nhau mà người thì khóc nức
nở, người thì nằm lăn ra đất, mỗi người ở một phía buồng không? Ở đời không có
thứ gì có thể khiến tôi đổi địa vị tôi lấy địa vị thằng Kha ở Họa-Mi Trang. Tôi
không bao giờ làm thế cho dẫu người ta cho tôi cái quyền ném lão già Dọi từ đỉnh
nóc nhà cao nhất hoặc sơn cái cửa nhà này bằng máu của thằng Hạnh."
Tôi ngắt lời:
‘Im miệng ngay! Cậu Hy, cậu vẫn chưa kể cho tôi nghe vì sao cậu về để cô ấy ở lại.’
Tôi đã bảo vú là chúng tôi cười nôn ruột. Hai đứa nhà họ Tôn nghe thấy, cùng một
loạt chạy vụt ra cửa nhanh như tên bắn. Im lặng một lúc rồi chúng cùng kêu:
"Mợ ơi mợ! Cậu ơi! Mợ ơi mợ vào mau. Cậu ơi!" Chúng tôi lại đập cửa
thình thình để làm chúng sợ hơn; sau nghe có tiếng người kéo then cổng chúng
tôi thấy là nên chuồn ngay. Tôi cầm tay Liên, kéo đi, bỗng nhiên Liên ngã xuống
đất. Liên thầm thì bảo tôi: ‘Anh Hy, anh trốn đi, trốn đi ngay! Em đã bị con chó
chúng nó thả ra...’ Con chó quỷ đã ngoạm vào mắt cá chân Liên, vú ạ. Liên không
kêu một tiếng nào, nó cho kêu là xấu hổ; cho dẫu là bị một con bò điên húc thủng
bụng, nó cũng chẳng kêu. Nhưng tôi, tôi kêu rầm lên, tôi nguyền rủa độc địa để
diệt trừ mọi yêu quái ở trên đời. Vớ lấy một hòn đá, tôi tọng vào giữa hàm răng
con chó rồi ráng lấy hết sức ấn hòn đá vào trong cổ họng nó. Sau cùng một thằng
đầy tớ chạy ra tay cầm một cái đèn lồng bảo con chó cứ "ngoạm chắc lấy",
nhưng khi thấy chó mình cắn một cô bé gái, hắn đổi giọng và bảo chó nhả ra. Hắn
đỡ Liên dậy, Liên tỏ vẻ khó chịu, không phải vì sợ - tôi chắc thế - mà vì đau.
Hắn mang Liên vào trong nhà. Ông Tôn đứng ở cửa, hỏi:
‘Con chó bắt được cái gì?’
‘Thưa cậu nó bắt được một con bé.’
Người đầy tớ trả lời như vậy rồi giơ quả đấm vào mặt tôi, nói tiếp:
‘Còn thằng này có vẻ là một tên dẫn đường. Chắc là bọn cướp định cho hai đứa
này trèo qua cửa sổ rồi mở cửa cho bọn cướp vào giết sạch cả nhà. Ông Tôn, xin
ông đừng rời cây súng ra.’
Ông Tôn nói:
‘Bọn bợm này biết hôm nay là ngày thu tiền nhà, chúng định làm một mẻ.’
Rồi quay lại phía bà Tôn:
‘Này mình xem. Đừng sợ, nó chỉ là một đứa bé nhưng trông gian ra mặt.’
Ông Tôn đẩy tôi ra đứng dưới ánh sáng đèn sáng treo trên trần. Bà Tôn lấy kính
đeo rồi giơ hai tay lên tỏ vẻ ghê tởm. Hai đứa trẻ rút rát cũng mon men lại gần.
Con Sa nói: "Người gì mà ghê thế này. Nhốt nó xuống hầm rượu, cậu ạ. Nó giống
hệt đứa con trai mụ thầy bói nó ăn cắp con chim da-da nuôi của con."
Trong lúc họ ngắm xét tôi thì Liên vào; nghe thấy mấy câu nói sau cùng nó bật
lên cười. Thằng Kha sau khi nhìn Liên soi mói, nhận ra ngay, và nói tiếng rất
nhỏ với bà Tôn:
‘Liên đấy, mợ ạ. Yên Liên ấy mà. Mợ xem con vện nó cắn... chân ra bao nhiêu là
máu.’
Bà Tôn cất tiếng nói to:
‘Yên Liên à? Con Liên đi cầu bơ cầu bất với một thằng vô loại. Sao lạ lùng thế?
Ừ mà thật, nó ăn mặc tang phục, đích Liên rồi... khổ con bé có thể què suốt đời.’
Ông Tôn quay về phía Liên, kêu lên:
‘Cậu Hạnh không săn sóc gì đến em gái cả. Tôi thấy ông mục sư nói cậu Hạnh để
em gái sao lãng cả việc đi nhà thờ. Thế còn thằng bé kia, ở đâu ra? à, à, thôi
đích thị là thằng con nuôi mà ông Yên đã nhặt được hồi ông đi Li-vơ-pun...một
thằng nhãi Ấn Độ, một đứa ở Y-pha-nho hay ở Mỹ lạc loài đến.’
Bà Tôn điểm thêm:
‘Dầu sao cũng là một đứa bé hung tợn, không đáng được ở trong một gia đình
lương thiện. Ông có để ý đến cách nó ăn nói không? Thế mà mình để các con mình
nghe nó nói, có chết người không?’
Tôi lại bắt đầu văng tục, vú ạ. Vú đừng giận nhé! Lũ đầy tớ được lệnh tống cổ
tôi ra ngoài. Tôi kháng cự, không chịu đi một mình để Liên ở lại đó. Lão kéo
tôi ra vườn, bảo tôi cầm cây đèn lồng, ra lệnh bảo tôi đi, rồi đóng cửa lại.
Nhưng màn treo vẫn còn hé mở, tôi đứng nhìn vào; nếu Liên muốn về mà bọn họ
không cho về thì tôi sẽ đập tan cửa kính ra làm trăm nghìn mảnh. Liên ngồi im ở
ghế nệm dài. Bà Tôn lắc đầu vừa nói những câu mà tôi đoán chắc là những câu nửa
khuyên nửa cự gì đó. Liên là con gái nhà gia thế cho nên bọn họ đối đãi với
Liên khác hẳn với tôi. Người hầu gái đem vào một thau nước nóng và rửa chân cho
Liên. Ông Tôn đi pha một cốc rượu chát, trộn nước chanh đường. Con sa trút cả một
đĩa bánh vào lòng Liên, trong khi đó, thằng Kha tự xa nhìn Liên miệng há hốc, rồi
họ hong và trải mớ tóc đẹp của Liên, xỏ vào chân Liên một đôi giầy
"păng-túp" và đẩy ghế lại gần lò sưởi. Lúc tôi bỏ đi thì Liên vui vẻ
hết sức, nó chia bánh cho chó ăn và véo cả mũi con vện đã cắn nó. Liên đã làm
cho những con mắt xanh mờ xạm của người nhà họ Tôn long lanh sáng lên một tia sống,
và ánh vẻ đẹp thần tiên của Liên đã phản chiếu sang nét mặt họ một phần nào.
Tôi thấy bọn họ ngắm Liên ngây dại vì cảm phục. Liên ở một bực trên họ cao lắm...
cao xa hơn bất kỳ ai trên trái đất này... có đúng thế không, vú?"
Tôi vừa dọn giường cho Hy ngủ vừa trả lời:
"Việc này còn lôi thôi chán, không như cậu tưởng đâu, cậu thật là bất trị.
Rồi cậu Hạnh bắt buộc phải dùng những phương pháp cực đoan để trừng tri cậu."
Quả nhiên việc này làm cho Hạnh cáu dữ. Hôm sau ông Tôn thân hành đến thăm
chúng tôi; ông lên lớp cho cậu chủ chúng tôi một bài về việc quản trị gia đình,
khiến Hạnh quyết định sẽ săn sóc cẩn thận mọi việc trong nhà. Hy không bị đòn nữa,
nhưng bị cảnh cáo hễ nói với Liên một tiếng là bị đuổi liền. Một mặt thì Lan
(nhũ danh của vợ Hạnh) phải kềm chế cô em chồng khi cô này về nhà. Cô vợ Hạnh sẽ
dùng khéo léo chứ không dùng sức mạnh, dùng sức mạnh thì không bao giờ có kết
quả gì.
--------------------------------
|
Isabelle Linton |
|
|
Edgar Linton |
Chương VII
Liên ở lại Họa Mi Trang hơn một tháng, cho đến gần lễ Giáng
Sinh. Trong thời gian đó chân Liên đã khỏi hẳn và cách cư xử của cô cũng tiến bộ
nhiều; vợ Hạnh thường thường sang thăm và bắt đầu thực hành chương trình sửa nết
Liên. Cô ta gợi lòng tự ái của Liên bằng cách phỉnh nịnh Liên và cho Liên mặc
áo đẹp. Thành thử đáng lẽ là một con mãnh con đầu trần đi băng băng vào nhà, chạy
bổ đến ôm lấy chúng tôi đến ngạt hơi ngạt thở, thì chúng tôi thấy Liên, từ trên
lưng một con ngựa đen kháu khỉnh bước xuống chững chạc, tóc quấn thành bím dưới
một cái mũ bằng lông con hải lý, mặc bộ đồ kỵ sĩ dài lượt thượt mà cô phải hai
tay nhấc lên để đi cho dễ.
Hạnh bế bổng em gái lên, hớn hở nói:
"Bây giờ em tôi đẹp đẹp là! Anh khó lòng nhận ra được nữa; Liên bây giờ có
vẻ người lớn lắm rồi. Cô Sa cũng phải thua xa, có phải không, Lan?"
Vợ Hạnh đáp:
"Sa không có những vẻ đẹp cốt cách tự nhiên như Liên. Nhưng Liên phải giữ
gìn, đừng trở lại những thói man mọi cũ. Diễn ơi! Ra cởi áo cho cô. Ấy Liên chớ
động đậy làm rối cả tóc... để chị bỏ hộ mũ ra cho."
Tôi cởi áo cưỡi ngựa của Liên, một chiếc áo lụa đẹp hiện ra với chiếc quần trắng
rủ xuống đôi giầy bóng loáng. Khi đàn chó chạy đến nhẩy chồm lên mừng rỡ, thì mắt
Liên vui sáng long lanh, nhưng Liên không dám vuốt ve chúng, sợ chúng đặt chân
lên y phục tráng lệ của mình. Liên hôn tôi một cái rất nhẹ vì tôi đương làm
bánh lễ Giáng Sinh, người đầy bột không phải lúc ôm lấy nhau. Rồi Liên nhìn
quanh mình tìm Hy. Hai vợ chồng cậu Hạnh lo lắng chờ đợi cuộc gặp gỡ của hai
người xem mưu kế chia rẽ đôi bạn trẻ ấy có thể thành đạt không.
Tìm mãi mới thấy Hy. Nếu trước khi xẩy ra vụ chó cắn, Hy không chú ý đến thân
thể, quần áo mình mà cũng không ai chú ý đến nó thì sau này lại tệ bằng mười.
Ngoài tôi ta, không một ai có lòng tốt bảo cho nó biết là nó bẩn quá và bắt nó
tắm ít ra tuần lễ một lần, mà những đứa trẻ vào trạc tuổi nó lại chả mấy khi
thích xà-phòng và nước. Vì vậy ngoài bộ quần áo mà Hy mặc ba tháng ròng, lê la
trong bụi, trong bùn, ngoài mớ tóc bờm sờm, mặt và hai bàn tay Hy đen xạm vì
cáu ghét. Khi thấy Liên vào phòng, Hy ngồi lánh đi sau chiếc ghế dài cũng là phải.
Liên bây giờ là một cô gái sáng sủa thanh tú, không phải là một người đầu bù
tóc rối giống Hy như Hy vẫn chờ đợi trong bao lâu.
Liên tháo găng, để lộ những ngón tay trắng trẻo khác hẳn trước, vì không phải
làm việc gì nặng nhọc, không phải dạn nắng gió.
Hạnh khoái trí vì thấy Hy bối rối và bị bắt buộc ra trình diện giữa lúc mọi người
ghê tởm Hy như một thằng ma lem.
"Hy ơi, mày cứ ra. Mày cứ ra mà chào cô như mọi đứa đầy tớ khác."
Liên trông thấy bạn ở chỗ ẩn, vội chạy đến hôn má Hy và trong mỗi phút đồng hồ
cô ta đặt luôn bẩy tám cái hôn rồi ngừng lại, lùi ra sau và bật cười nói:
"Trông anh khiếp quá, mặt gì mà giận dữ thế kia, trông anh buồn cười ghê gớm
tệ. Có lẽ tại em quen nhìn anh Kha và chị Sa. Anh Hy, hay anh đã quên em rồi?"
Câu hỏi sau cùng của Liên không phải không có lý do vì Hy đứng yên, mặt sa sầm
xuống nửa thẹn nửa tức.
Hạnh nói giọng trịch thượng:
"Mày bắt tay cô đi, một lần như lần này thì tao cho phép."
Hy như hết câm, đáp lại liền:
"Tôi không thèm! Tôi không ở lại đây để người ta chế giễu, không thể chịu
được."
Và Hy chắc bỏ đi nếu Liên không giữ lại:
"Em có ý định chế giễu anh đâu, nhưng em không thể nhịn cười được. Anh Hy,
thôi bắt tay em đi. Sao anh lại giỗi... chỉ tại vì anh có vẻ lạ lùng quá! Giá
anh rửa mặt, chải tóc, thì thực tuyệt nhưng trông anh bẩn thỉu quá!"
Liên nhìn một cách lo lắng những ngón tay đen thui nó đương cầm trong tay và
nhìn cả tấm áo mà nó sợ bị quần áo của Hy làm bẩn lây. Hy đưa mắt nhìn theo
phía Liên nhìn, giựt mạnh tay ra:
"Ai bảo cô chạm vào người tôi, tôi bẩn kệ xác tôi, tôi thích bẩn, tôi muốn
bẩn."
Rồi Hy cúi đầu cắm cổ chạy ra ngoài phòng, giữa tiếng cười của cô cậu Hạnh và sự
hoảng hốt của Liên không hiểu tại sao lời nói của mình lại gây nên cơn giận dữ
dội đó. Vợ chồng cậu Hạnh mời Kha, Sa lại chơi ngày hôm sau. Ông bà Tôn nhận lời
nhưng với điều kiện là không để lũ con ông bà gặp mặt "đứa trẻ văng tục mất
dậy ấy."
Tôi ngồi trong bếp một mình hát các bài thánh ca, tôi nhớ cụ Yên mỗi năm vào bếp
cho tôi tiền làm quà lễ Giáng Sinh. Tôi lại nghĩ đến sự thương yêu của cụ đối với
Hy và sự lo sợ đứa con nuôi của cụ sẽ bị ruồng bỏ khi cụ mất đi. Lân la tôi
nghĩ đến số phận hiện thời của Hy và ngừng hát, ứa nước mắt khóc. Tôi nghĩ tốt
hơn là cố giảm bớt những điều oan uổng của Hy hơn là ngồi khóc xuông. Tôi đứng
ngay dậy ra sân tìm Hy. Hắn ngồi ở chuồng ngựa, đương cho ngựa ăn. Tôi bảo:
"Mau lên, Hy, trong bếp ấm lắm, bác Dọi ở trên gác. Mau lên, tôi sửa sang
cậu cho thật diện, trước khi cô Liên xuống, hai người có thể ngồi gần nhau; lò
sưởi về phần hai cô cậu. Hai người có thể trò chuyện thả cửa cho đến lúc đi ngủ."
Hy cứ tiếp tục làm việc không ngoái cổ lại. Tôi giục:
"Đi, vào đi. Mỗi người có một cái bánh, sắp chín rồi."
Tôi đợi năm phút không thấy Hy trả lời, tôi bỏ đi. Liên ăn cơm chiều với anh và
chị dâu. Bác Dọi và tôi thì cùng chia sẻ một bữa cơm rất ít thân thiện vì điểm
nhiều gia vị trách móc và hỗn sược qua lại giữa hai bên.
Bánh ngọt và miếng phó-mát của Hy để nguyên ở trên bàn suốt đêm. Hy tìm cớ nọ cớ
kia làm việc cho đến chín giờ, rồi về buồng lầm lầm lỳ lỳ và câm như hến. Cô
Liên thức rất khuya vì có nhiều việc phải trù liệu để hôm sau tiếp rước các bạn
mới. Có một lần Liên xuống bếp để tìm bạn cũ, nhưng Hy không có đấy; Liên chỉ hỏi
tôi xem Hy làm sao rồi lui ra.
Sáng hôm sau, Hy dậy thật sớm và vì là ngày lễ nên Hy ra rừng cỏ để giải sầu.
Khi mọi người đã đi dự lễ nhà thờ, Hy mới trở về... Hắn đi quanh quẩn bên tôi một
lúc rồi như thu hết can đảm, tự nhiên nói:
"Vú Diễn. Vú tắm rửa cho tôi thật sạch sẽ. Từ nay tôi sẽ ngoan
ngoãn."
"Kể cũng khá chậm rồi, cậu Hy ạ. Cậu đã làm phiền cô Liên, cô ấy lấy làm hối
đã trở về nhà, tôi chắc thế. Người ta sẽ cho cậu là ghen tị vì ai cũng chỉ săn
sóc đến Liên mà bỏ rơi cậu."
Ghen tị với Liên thì Hy không có ý ấy, nhưng cái ý tưởng đã làm Liên đau khổ
thì thực là rõ ràng trong óc Hy. Hắn nói một cách nghiêm trang:
"Liên có nói là Liên đau buồn không?"
"Cô ấy khóc khi tôi bảo là sáng nay cậu lại bỏ đi rồi."
"Thế còn tôi! Tôi đã khóc cả đêm qua. Mà tôi lại có nhiều lý do để khóc
hơn cả Liên."
"Phải! Cậu đi nằm, lòng trống rỗng nhưng đầy ứ kiêu căng. Phải, duyên cớ đấy!
Những kẻ kiêu căng thường hay tự rầy vò minh, nhưng nếu cậu biết xấu hổ vì tính
hay hờn dỗi của cậu thì khi nào Liên về, cậu nên xin lỗi Liên. Chính cậu phải
đi tìm Liên, cần tỏ ý muốn hôn Liên một cái rồi cậu nói... nói gì thì cậu biết
hơn tôi nhiều! Nhưng cần nhất là phải thành thực vui vẻ làm vậy chứ đừng nghĩ rằng
Liên đã bị cái áo đẹp biến thành một người xa lạ. Nào bây giờ tôi đi trang điểm
cho cậu. Rồi cậu xem, cậu Kha bên cạnh cậu chỉ là một con búp bê, mà quả vậy cậu
Kha cũng giống một con búp bê lắm. Cậu ít tuổi hơn nhưng người cao nhớn vai rộng
gấp đôi. Trong nháy mắt cậu có thể quật ngã cậu ấy như chơi. Cậu có thấy thế
không?"
Nét mặt Hy tươi lên một lúc rồi lại sa sầm xuống; cậu thở dài:
"Nhưng vú này, tôi có thể quật ngã nó cả vài chục lần, nhưng nó cũng không
vì thế mà xấu đi, tôi cũng không vì thế mà đẹp hơn. Tôi thích có mái tóc hung
vàng như nó, da trắng trẻo, ăn mặc và điệu bộ lịch sự như nó và sau này cũng giầu
như nó."
Tôi tiếp lời Hy:
"Rồi cậu cũng như nó động tí thì kêu mẹ; có đứa trẻ nào mới giơ quả đấm dọa
cũng run như cầy sấy, hoặc co ro cả ngày ở trong nhà không dám ra ngoài chỉ vì
một trận mưa bóng mây. Này cậu Hy, lại đứng trước gương rồi tôi chỉ bảo cho cậu
biết phải làm gì. Cậu trông hai cái nét nhăn ở giữa mắt, đôi lông mày rậm đáng
lẽ phải vòng lên thì lại thụt xuống ở giữa, và hai con mắt đen quái quỷ sâu hoắm
này không bao giờ dám mạnh dạn mở to ra, chỉ nhìn trộm từ dưới lên như mắt rình
mò của một thằng quỷ. Cố làm cho những nét nhăn ghê sợ kia biến mất đi, mở mắt
nhìn thẳng thắn, không chút nghi ngờ, nhìn ai cũng như bạn mình nếu mình không
chắc người ấy là kẻ thù mình. Đừng làm như một con chó biết người ta đá mình là
đích đáng nhưng vì đau quá nên ghét lây tất cả mọi người cũng như ghét người đá
mình."
Hy đáp lại:
"Nói một cách khác, nghĩa là tôi phải mong có hai con mắt cũng xanh to như
Kha, cũng có cái trán phẳng nhẵn ấy. Tôi mong lắm...nhưng không phải là cứ mong
là có thể có được."
"Này, cậu Hy, lòng dạ tốt thì nét mặt dễ đẹp, cho dẫu mình là thằng mọi
đen; còn bụng dạ xấu thì nét mặt dẫu đẹp đến đâu trông cũng tệ hơn là xấu nhiều.
Nào bây giờ, rửa ráy xong, chải đầu xong, trông cậu có phải xinh trai không
nào. Tôi thì tôi trông cậu đỏm lắm rồi. Người ta có thể tưởng cậu là một hoàng
tử trá hình. Biết đâu ông thân sinh ra cậu không là hoàng đế nước Tàu, bà thân
cậu không phải là nữ hoàng Ấn-Độ, mỗi người có thể mua cả Gió-Hú lẫn Họa-Mi
Trang bằng hoa lợi trong một tuần lễ. Rồi cậu bị tụi lính thủy độc ác đem sang
nước Anh. Tôi như cậu, tôi lấy làm tự hào vì giòng giõi nhà mình, và mình sẽ
thêm can đảm thêm tự hào để không đếm xỉa đến sự bắt nạt của một anh chủ trại
quèn."
Hy dần dần đỡ hầm hầm, nét mặt trở nên bắt đầu rất tươi tỉnh. Bỗng câu chuyện
giữa chúng tôi bị ngắt bởi tiếng xe ngựa leo lên dốc rồi vào trong sân. Hy chạy
ra cửa sổ, tôi thì chạy ra cửa chính vừa đúng lúc hai anh em họ Tôn xuống xe,
thân hình xù xụ vì mặc nhiều măng tô cùng khăn quàng bằng lông thú. Còn hai vợ
chồng Hạnh và Liên thì xuống ngựa. Liên cầm hai tay Kha và Sa giắt vào nhà, đặt
ngồi trước lửa. Nét mặt xanh xao của hai anh em họ Tôn chỉ một lúc đã trở nên hồng
hào.
Tôi giục Hy mau mau lên và cần tỏ vẻ tươi tỉnh; Hy sẵn sàng nghe theo lời tôi,
nhưng một sự không may làm cho vừa đúng lúc Hy mở cửa ở phía bếp để ra, thì Hạnh
lại mở ở phía kia để vào. Hai người chạm trán nhau. Hạnh hoặc vì khó chịu thấy
Hy sạch sẽ và vui vẻ, hoặc muốn giữ lời hứa không cho Hy gặp anh em họ Tôn, nên
đẩy mạnh Hy một cái và ra lệnh cho bác Dọi bằng một giọng gắt gỏng:
"Cấm không cho thằng nhãi này vào phòng khách, giam nó lên buồng trên mái
nhà cho đến khi xong bữa cơm chiều. Để nó thả lỏng một mình, nó sẽ sục tay vào
bánh ngọt và ăn cắp hoa quả đấy."
Tôi không tự ngăn nổi vội đáp:
"Tôi dám chắc cậu Hy không táy máy vào thức ăn đâu, tôi tưởng cậu Hy cũng
phải có phần quà như chúng tôi chứ."
Cậu Hạnh lớn tiếng:
"Nếu tôi bắt gặp nó ở dưới này, nó sẽ nhận phần quà ở bàn tay này này!
Thôi cút ngay, thằng ma cà bông. Hừ! Quân này lại muốn diện bảnh hả? À, nếu mà
tao vớ được lọn tóc quăn kia, mày xem! tao sẽ kéo cho chúng chẩy dài xuống."
Kha, lúc đó đứng ở bực cửa, nhìn trộm vào rồi lên tiếng:
"Tóc tai ấy cũng chẩy khá dài rồi đấy. Tôi cũng lấy làm lạ là anh chàng
không rức đầu. Trông cứ y như cái bờm ngựa."
Khi nói thêm vào câu nhận xét ấy, Kha không có ý lăng mạ gì nhưng tâm tính hung
bạo của Hy không sao chịu nổi một lời hỗn xược hơi chạm đến Hy, nhất là lời đó
lại ở một người mà Hy đã thù ghét như một kẻ tình địch. Hy cầm ngay lấy một cái
liễn xốt táo nóng (vì cái liễn đó ở ngay cạnh cậu ta) và hắt toẹt vào mặt, vào
cổ Kha. Cậu Kha thốt ra một tiếng kêu rên khiến Sa và Liên chạy ngay đến. Hạnh
nắm ngay lấy Hy kéo vào trong buồng và ở trong đó chắc đã cho Hy một trận nên
thân để hả giận...vì lúc đi ra mặt cậu đỏ bừng và thở không ra hơi. Tôi cầm lấy
chiếc khăn, xoa không lấy gì làm nhẹ tay lắm vào mặt vào cổ Kha, bụng nghĩ đáng
đời nó, ai bảo thích nói leo. Cô Sa khóc sụt sịt tỏ ý muốn về nhà ngay, còn
Liên thì đứng sững, mặt thẹn đỏ lên vì cái cảnh vừa xẩy ra. Cô nói giọng cự
Kha:
"Anh không nên nói với Hy. Hy đương tức bực trong người. Thế là bữa tiệc
hôm nay mất cả vui, còn Hy sẽ bị đòn. Tôi không muốn Hy bị đòn. Tôi cũng không
lòng dạ nào mà ăn tiệc nữa. Tại sao anh lại nói chọc Hy."
Anh chàng Kha rời khỏi tay tôi, lấy ra chiếc mù xoa mỏng để làm nốt cái việc
"lau chùi" tôi đương bỏ dở, rồi thút thít khóc và đáp lại Liên:
"Tôi có nói gì đâu. Tôi đã hứa với mẹ tôi là không nói một câu nào với nó,
và tôi có nói với nó câu nào đâu!"
Liên trả lời khinh bỉ:
"Thôi đừng khóc nữa, anh đã chết đâu cơ chứ! Đừng có dại dột như vậy nữa....
Kìa, anh tôi ra, im đi. Còn cô Sa nữa, im nào, có ai đụng đến cô đâu?"
Hạnh đi vào vội vã:
"Thôi, các em, ngồi vào ăn đi. Thằng ngợm ấy thật đã làm tôi lộn tiết. Lần
sau, cậu Kha phải tự bảo vệ mình bằng những quả đấm."
Trông thấy bữa tiệc và ngửi mùi các món ăn, hai cô cậu Tôn lại trở lại bình
tĩnh. Sau cuộc đi lễ nhà thờ về ai cũng đói, vả lại cũng không ai việc gì, nên
họ tự an ủi ngay. Cậu Hạnh thì cắt đồ ăn thành những miếng to, còn mợ Hạnh thì
nói chuyện luôn miệng cho vui bữa ăn. Tôi đứng sau ghế mợ Hạnh ngồi và lấy làm
rầu lòng thấy Liên, mắt khô khan, vẻ mặt thản nhiên cầm dao cắt miếng cánh ngỗng.
Tôi tự nhủ: "Con bé thực vô tình. Bạn chơi bời của nó đau khổ thế nào nó
cũng mặc xác. Không ngờ nó lại ích kỷ đến thế!." Liên đưa một miếng ăn lên
môi, lại đặt xuống đĩa, má đỏ lên và nước mắt bắt đầu chẩy. Cô bỏ rơi cái nĩa rồi
vội vàng cúi xuống dưới khăn bàn để dấu sự cảm động của mình. Tôi không cho
Liên là vô tình nữa.
Cả ngày hôm ấy Liên như người sống ở địa ngục, lúc nào cũng muốn tìm dịp để ẩn
lánh một mình hay để đi gặp Hy. Chiều đến có khiêu vũ Liên thoái thác không nhẩy.
Sau đó có băng nhạc ở Diên Mễ Tôn đến. Họ cho chúng tôi nghe rất nhiều bài.
Liên cũng thích âm nhạc, nhưng cô nói phải đứng ở trên đầu thang gác nghe mới
hay và trèo lên đứng trên thang tối. Tôi trèo theo sau Liên. Vì đông người nên
không ai chú ý đến sự vắng mặt của chúng tôi. Liên trèo thẳng tuột lên gần gian
buồng sát mái chỗ Hy bị giam rồi cất tiếng gọi. Trong một lúc lâu, Hy định
không trả lời, Liên gọi gằn mãi rồi sau cũng cũng khiến Hy bằng lòng nói chuyện
qua các bức ván. Tôi để yên hai trẻ nói chuyện cho đến khi tôi phỏng đoán ban
nhạc sắp thôi ca hát vì đến giờ các nhạc sĩ đi uống nước giải khát. Tôi trèo
lên cầu thang để bảo Liên xuống. Đáng lẽ thấy Liên ở cửa , tôi nghe tiếng Liên ở
trong. Con khỉ con ấy đã trèo lên mái nhà qua một cái cửa sổ nhỏ rồi chui tọt
qua cái cửa sổ ở mái, vào trong buồng Hy, thành thử tôi phải khó nhọc lắm mới
làm cho cô ả chịu ra. Lúc Liên đi ra, Hy cũng ra theo và Liên năn nỉ tôi bảo
đưa Hy vào bếp vì bác Dọi đi vắng. Tôi bảo không muốn chiều hai cô cậu về những
trò nghịch ấy, nhưng vì Hy nhịn đói từ chiều hôm qua nên lần này tôi ngơ cho về
cái tội đối với cậu Hạnh. Hy xuống bếp. Tôi bảo Hy ngồi xuống chiếc ghế đẩu gần
lửa và đưa cho thực nhiều thức ăn ngon. Nhưng Hy trong người khó chịu chỉ ăn được
có một tí. Cậu ngồi, khuỷu tay chống lên đầu gối, cằm tựa vào hai bàn tay, đăm
đăm yên lặng suy nghĩ. Tôi hỏi cậu ta nghĩ gì thì cậu đáp một cách trang
nghiêm:
"Tôi đương tìm cách nào để ăn miếng trả miếng với thằng Hạnh, đợi bao lâu
tôi cũng không cần miễn là sau cùng tôi báo thù được nó. Tôi mong nó đừng chết
trước khi tôi ra tay."
"Cậu Hy, cậu không sợ xấu à? Ai ăn ở ác đã có trời trị, còn chúng ta chỉ
biết tha thứ."
"Không! Trời sẽ không có cái khoan khoái mà tôi sẽ có. Tôi chỉ muốn biết
cách nào ác nhất. Vú để mặc tôi ở đây một mình. Tôi sẽ tìm mưu mẹo. Cứ nghĩ đến
điều đó là tôi cảm thấy đỡ khổ sở."
Nhưng những chuyện này, ông Lộc ạ, tôi chỉ sợ làm phiền ông. Sao tôi lại lẩn thẩn
ngồi nói thao thao bất tuyệt như thế. Nói cho đủ những điều ông muốn biết về
chuyện ông Hy, tôi chỉ cần nói dăm ba câu.
Bác Diễn ngừng nói, đứng lên thu dọn các đồ đan. Nhưng tôi thì tôi không muốn rời
lò sưởi, vả lại tôi cũng không mảy may buồn ngủ.
"Bác Diễn à, bác cứ ngồi đấy. Ngồi độ nửa giờ nữa. Bác kể chuyện từng li từng
tí thế là phải lắm. Tôi thích lối đó. Bác phải kể hết theo lối ấy. Tất cả những
nhân vật ấy, tôi thẩy đều chú ý không nhiều thì ít..."
"Thưa ông, ông cho tôi nhẩy cách quãng ba năm. Trong ba năm đó, ông
Hy..."
"Không, không được... Bác cứ kể tiếp không bỏ một chi tiết nào. Có điều
tôi nhận thấy là những người ở đây họ sống nghiêm trọng trầm ngâm chứ không hời
hợt bề ngoài, nay thế này mai thế khác như những người ở chốn thành thị. Chỉ ở
đây tôi mới tin rằng người ta có thể yêu nhau trọn một đời; thế mà từ trước đến
nay tôi cứ yên trí là không có tình yêu nào có thể bền hơn một năm."
"Thưa ông, chúng tôi ở đây cũng như mọi người ở nơi khác."
Tôi đáp:
"Xin lỗi bác, như bác chẳng hạn, tôi thấy bác trái ngược hẳn với những lời
bác nói trên, chỉ trừ một vài cử chỉ hơi quê không đáng kể, tôi không thấy bác
có những dấu vết về cách cư xử thường thấy ở những người cùng vào hạng bác. Tôi
thấy bác đã suy nghĩ nhiều không như những người đi ở khác. Bác tự bắt buộc phải
vun trồng trí tuệ của bác vì không có dịp hư phí đời mình đi trong những vui
thú nhỏ nhặt, tầm thường."
Bác Diễn cười:

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét