Ginkgo: Một cây hóa thạch sống
Bản thể cây phải chăng một cội
Tự mình chia chẻ làm thành đôi
Hay cây là hai tự tìm chọn
Để mọi người xem như một thôi.
Dịch ý thơ Johann Wolfgang von Goethe (1815)
Đi dạo mùa thu ngày nay, khách thường gặp trong các công viên
một cây cao, lá vàng, trái đỏ rất đẹp. Sự tích cây ginkgo khá ly kỳ: vết ấn lá
cây đã được tìm ra trong đá có 270 triệu năm tuổi, vào kỷ thứ hai, nghĩa là trước
cả những khủng long đã sống vào kỷ Jura (213 triệu năm). Có lẽ vào thời ấy có
nhiều loài ginkgo, chẳng hạn Ginkgo primigenia, nhưng qua nhiều tai biến địa
chất, tiếp theo sự tàn lụi của những khủng long là những động vật phân tán hột
cây, chỉ còn hai loài vào kỷ ba (65 triệu năm): Ginkgo adiantoides và Ginkgo
gardneri theo những di tích hóa thạch. Cách đây khoảng 7 triệu năm, ginkgo
không còn thấy ở châu Mỹ và 5 triệu năm sau đến lượt châu Âu cũng mất tích nó.
Cây chỉ còn mọc ở châu Á, không thay đổi vì lá cây ngày nay không mấy khác là cây
hóa thạch kỷ ba. Là cây độc nhất tồn tại từ thuở xa xưa, với những quả xem như
là cổ nhất, làm giây liên lạc giữa hiện tại và quá khứ trong số hàng vạn loài
cây, ginkgo là một kỳ quan trong ngành thảo mộc. Bên Trung Quốc cây đã được tìm
ra trước ở miền bắc nhưng sau cũng bắt gặp mọc hoang trong nhiều dãy núi miền
trung và miền nam. Từ thời nhà Hán (206 tCN- 220 sCN), quả hạt cây đã được dùng
làm thức ăn và được ghi chép vào sách Thần nông bản thảo kinh nhưng
phải đợi đến 1578 mới được Lý Thời Trân (1518-1593) kê vào cuốn Bản thảo
cương mục. Một bài thơ đã đề cao nó như những viên ngọc đem tặng cho một người
khách cực thân. Nhiều họa sĩ chiếu cố hình thức ngọn lá, còn các thi sĩ thì đua
nhau ca ngợi vừa quả vừa lá. Người ta trồng nó bắt đầu từ các triều đại Tống
(960-1280), Thanh (1280-1368), nhất là trong các sân chùa, sân miếu, những nơi
có nhiều Phật tử và đồ đệ Lão tử tuy không có liên hệ giữa cây và đạo giáo. Bên
Nhật Bản thì quả được dùng trong các buổi trà đạo, làm bánh, kẹo và được biết
qua sách từ 1492. Vào thời Edo (1600-1867), dân chúng ăn nó như rau, dùng nó
trong dấm đóng hộp. Đã từng được tôn vinh là kho tàng quốc gia vì sống lâu đời,
không hề bị môi trường ô nhiễm chi phối, lại vẫn còn tồn tại tươi tốt sau quả
bom nguyên tử ở Hiroshima, ngày nay cây còn được xem như một cổ thụ thần thoại,
hoang đường.
Châu Âu biết được ginkgo nhờ ông bác sĩ kiêm nhà thảo mộc người
Đức Engelbert Kaempfer (1651-1716). Được Công ty Hòa Lan Ấn Độ Đông phương gửi
đi công cán, ông sống ở Nhật Bản từ 1690 đến 1692. Năm 1691, lần đầu tiên ông
có dịp xem xét cây và tả nó trong cuốn Amoenitatum Exoticarum năm
1712. Ông viết: "Cây đạt kích thước một cây hồ đào: thân dài, thẳng,
dày, nhiều nhánh; vỏ trở nên xám, có nhiều kẽ nứt, lỗ hổng khi về già; gỗ cây
nhẹ, ít dày đặc, ít bền; lõi mềm, xốp... Cuối xuân, đầu mút nhánh mang cụm hoa
đuôi sóc chứa đầy một thứ bột mịn. Trái thịt, dày đặc, qua một cuốn dài bằng
ngón tay cái mắc vào cây ở chỗ lá mọc, từ hình dáng tròn và dài ngoằn qua kích
thước, vỏ ngoài sần sùi một màu vàng lạt, nó giống như một quả mận Damas: vỏ
thịt, giàu, trắng, mùi vị chát, dính chặt vào quả hạch trừ phi tách nó ra, để ủng
thối và khuấy trong nước như thường làm với Areca indica. Quả được gọi là
ginnau, giống như quả đào lạt nhưng lớn gấp đôi, có dáng một nhân quả mơ với một
vỏ gỗ mỏng, trong, mảnh dẻ; nhân trắng chứa một quả hạnh độc nhất có vị dịu, dễ
tách ra, thịt chắc. Ăn điểm tâm, những quả nầy giúp ích tiêu hóa, giảm hạ bụng
trướng do thức ăn gây ra: vì vậy, nó được dọn cho khách vào phần thứ hai của bữa
ăn. Những quả hạnh được dùng nhiều cách trong bếp từ khi người ta khám phá ra
có thể nấu hay nướng chúng..." Ông đem hột về trồng những cây đầu tiên ở
Utrech bên Hòa Lan trong vườn bách thảo. Sau đó cây mới được đem qua Anh
(Gordon 1754), Nga (Kew 1762), Pháp (Montpellier 1778). Hoa Kỳ chỉ biết nó từ
1784 trong vườn ông William Hamilton và qua 1900 thì cây được trồng suốt ven đường
những đô thị bờ biển miền đông.Cây ginkgo ở vườn Luxemboug tại Paris
Nguồn gốc tên cây ginkgo là từ danh từ tiếng Tàu yin hsing,
ta phiên âm ngân hạnh, người Tây phương dịch ra quả mơ bạc. Người Nhật phiên âm
gin kyo: có thể ông Kaempfer chép lầm chữ y ra chữ g, hay ở vùng Lempo quê ông
miền bắc nước Đức người ta không phân biệt y và g, hay chữ ông ta viết không rõ
nên xảy ra sự lầm lẫn biến ginkyo thành ra ginkgo. Những tự điển ngày nay cũng
sử dụng nhiều danh từ khác: gingko, ginko, ginkgo, gingo hay ginkyo. Người Tàu
còn gọi cây là it cho, ya chio (chân vịt), bai guo hay pei kuo. Từ danh từ nầy
mà ta có tên cây bạch quả, hay nôm na hơn ta gọi cây lá quạt vì hình dáng lá
cây (đừng lầm với cây rẻ quạt Daniella ensifolia DC hay Belamcanda
sinensis Lem). Năm 1771, bác sĩ kiêm nhà vạn vật học Thụy Điển Carl von
Linné (1707-1778) xác định tên cây là Ginkgo biloba L., biloba chỉ
loài cây vì lá có hai (bi) thùy (lobe). Sau nầy còn có hai tên Salisburia
adiantifolia (Smith 1797), Phterophyllus salisburiensis (Nelson
1866) được đề nghị nhưng không mấy ai hưởng ứng. Tác giả Loudon kể chuyện năm
1780, một người ở Paris tên là Pétigny qua London, gặp một người làm vườn chịu
bán cho ông 5 cây ginkgo với giá tiền 25 ghinê (đồng vàng Anh); hôm sau, người
làm vườn tiếc của, xin mua lại một cây thôi với cùng giá tiền; ông Pétigny
không chịu, đem 5 cây ginkgo về trồng ở Pháp. Vì 25 ghinê tương đương với 40
êcu (tiền Pháp) nên ngày nay ở Pháp có danh từ "cây 40 êcu". Tên nầy
nay rất được thông dụng và thường được gặp trong các vườn bách thảo trên bảng đặt
trước cây. Cũng còn có một tên ít thông dụng hơn là "cây 1000 êcu" vì
khi lá vàng rụng xuống gốc cây trông như một thảm êcu. Cây ginkgo có những tính
chất giữa những cây dương xỉ và những cây thuộc bộ thông nên rất khó xếp hạng
nó. Lúc đầu, người ta muốn xếp nó vào lớp Coniferopsidaea như dương xỉ,
nhưng sau thấy cần phải đặt cho nó một lớp riêng biệt Gingopsida hay Ginkgophyta.
Ngày nay loài Ginkgo biloba L. chính thức thuộc chi Ginkgo, họ Ginkgoaceae,
bộ Ginkgoales.
Ginkgo là một cây biệt chu (dioïque) nghĩa là chùy (cône) phấn
hoa (pollen) và tiểu noãn (ovule) nằm trên hai cây đực và cái khác nhau, tuy
cũng có ginkgo ngày xưa mang cả hai bộ phận nầy trên một cây. Đằng khác, ginkgo
là một loại cây khỏa tử hay hạt trần (gymnosperme) nghĩa là hạt không chứa
trong trái như ở những cây bí tử (angiosperme) thường thấy. Trên cây đực, chùy
phấn hoa màu vàng mọc từng nhóm 3-6 cái rủ thõng như những đuôi chồn, mỗi cái
dài 1-2 cm. Hạt phấn hoa thường mang hai bao phấn hoa gọi là tiểu bào tử nang
(microsporange) đằng mút có tinh dịch. Trên cây cái, tiểu noãn gồm có một cái
bì bao quanh một bộ mô gọi là noãn tâm (nucellus) chứa đựng bốn đại bào tử
(macrospore). Vào mùa xuân, những hạt phấn hoa rời cây đực được gió đưa lại cây
cái thì luồn qua lỗ noãn (micropyle) là một lỗ nhỏ trên bì tiểu noãn, để lọt vào
buồng thụ phấn rồi phát triển thành giao tử (gamétophyte). Tế bào giao tử phân
chia, cấu thành hai tinh trùng mang tiêm mao rung động (một đặc tính của cây
ginkgo và cây tuế cycas) rồi đợi thời kỳ thụ tinh vào mùa thu, từ lỗ noãn bên
dưới bơi lên, một tinh trùng phối hợp với noãn tâm. Khi phôi thai bắt đầu phát
triển, noãn tâm từ xanh thay màu phồng lớn bằng quả mận vàng và vẫn tiếp tục
ngay cả khi quả rơi xuống đất nhờ chất dinh dưỡng có sẵn. Khi ấy, thai là một
bì chất dinh dưỡng đùm bọc hai tử diệp (cotylédon); bì nầy gồm có một lớp trong
cứng (sclerotesta) và một lớp ngoài vàng cam (sarcotesta) dày khoảng 5 cm. Lớp
ngoài nầy trở dần nên vàng đỏ, mang nhiều vết và cho thoát ra một mùi thúi khi
thoái hóa vì chất butanoic acid. Bì cây còn có thể gây nôn mửa, mụn nhọt trên
cơ thể ta vì cơm quả chứa đựng urushiol là một chất gây dị ứng khi chạm vào da.
Vì những mô bên trong của hạt là giao tử và phôi thai có thể ăn được nên phải
dùng găng tay lượm hạch rồi phải rửa nước thật sạch để thải hết bì trước khi
dùng. Bì nầy trì hoãn cuộc nảy mầm, may nhờ trong bao tử các thú ăn hạt, bì bị
tiêu hủy và hạt hết còn bì khi được bài tiết ra ngoài.Hoa cây đực mùa xuân
Ngoài hạt, có thể phát tán cây ginkgo bằng các phương pháp
giâm cành hay tháp cành. Giâm cành là cách chắc chắn nhất để có được một cây
theo giới tính mong muốn. Người ta thường hay ghép cành cây đực lên thân cây
cái để cuộc thụ tinh được dễ dàng. Rất khó phân biệt được giới tính khi chưa đến
mùa cây trỗ hoa. Bên Nhật, trẻ con được nghe giảng khi lá hai thùy lá cây cách
nhau rõ rệt như hai ống quần thì đó là cây đực, còn nếu hai thùy gần như gắn liền
với nhau như một cái váy thì đó là một cây cái. Lắm người tin mùa xuân lá cây đực
mọc sớm hơn lá cây cái và qua mùa thu lá cây đực cũng rơi sớm hơn. Nhận xét nầy
nghe nói cũng diễn biến trong một cây ghép vừa đực vừa cái. Cây ginkgo cao
30-40 m nhưng cũng có lúc lên đến 50 m, choáng một khoảng càng rộng khi cây càng
già. Cũng vào lúc nầy, cây có thể cho mọc những rễ ngoài trời, rơi xuống dọc
thân cây và cành, chạm vào đất, nẩy rễ thành thân, mọc cành. Xem xét cặn kẽ gỗ
cây, người ta nhận thấy mộc bộ (xylème) không có mạch dẫn nhựa mà là những sợi
mạch (trachéide) gây ra những khoảng gian bào, chứa đựng những đám tinh thể
(druse) mà thành phần là calcium oxalat. Muối oxalat nầy còn nhiều hơn trong vỏ
cây. Đây là những đặc tính khác của cây ginkgo.
Quả hạch ginkgo có vị dịu, nấu chín ăn tựa như hạt dẻ. Người
ta có thể luộc, hấp hay nướng, ăn với cơm, nấm, rau, đậu phụ hay trộn vào cháo.
Chỉ chứa đựng 3% chất mỡ, nó cống hiến một nguồn tinh bột, protein, niacin. Ăn
nhiều hay ăn lâu ngày, đặc biệt ở con trẻ thiếu vitamin B6, thường có xảy ra sự
ngộ độc do chất methoxy pyridoxin gây ra. Bên Nhật Bản, từ thế kỷ 18, mang tên
ginnan, quả được đem nướng làm đố nhắm rượu saké. Ngày nay, quả được dùng làm
món nhúng nabe ryori hay đem nướng hoặc luộc, hấp với trứng trong món chawan
mushi. Ngoài chợ có bán quả hạch tươi hay đóng hộp qua những nhãn Pakewo,
Pakgor,... Dầu quả hạt đã được dùng làm nhiên liệu thắp đèn. Người ta cũng cho
trộn cơm quả hạt với dầu hay rượu làm xà phòng. Lá cây, trước khi được chiết để
nghiên cứu chất thuốc, thường đã được sắc uống, chế trà, dùng trong mỹ phẩm bảo
vệ da (20), điều hòa lưu thông máu trong da (28), thuốc rửa tóc, kích
thích tóc lại mọc (25). Nó cũng được dùng làm thuốc sát trùng hay làm phân
bón. Một sử dụng nghệ thuật là nhờ hình dáng lạ, màu vàng đẹp mùa thu, lá tự nó
là một dải đánh dấu trang vừa rẻ tiền vừa trang nhã; hơn nữa nhờ tính chất diệt
trùng, một phần nào nó bảo vệ sách! Có lẽ bên Nhật hình dáng lá cây được thấy
nhiều nhất, trên áo kimono, khăn quàng, khăn tay cũng như trên bia mộ, huy hiệu
các gia đình, trường học, tượng trưng cho thành phố Tokyo từ năm 1989. Nó được
dùng làm mẫu cho những búi tóc các nàng gheisa, các lực sĩ sumo. Trong các viện
bảo tàng, khách ngắm được những mảnh đốc kiếm sukashi tsuba bằng kim loại hình
lá cây rất thanh nhã, nay thành mẫu những đồ nữ trang lắc lư trên ngực các cô,
các bà. Sau cùng gỗ cây, nhẹ, trơn, dẻo, được dùng để chạm trổ, chế tạo bàn và
con cờ, những vật dụng trong buổi trà đạo, trên bàn thờ chùa miếu, thùng vận dụng
rượu saké, những tủ chống cự lại được sâu mối, gỗ cây cái trong kỹ nghệ làm giấy.Trái và lá mùa thu
Sách vở Tàu từ lâu đã bàn đến những vị thuốc trong cây
ginkgo. Quả nhuộm đỏ được sử dụng trong các buổi lễ, dọn ăn trong các đám cưới,
giúp tiêu hóa, giải rượu. Thường được dùng thay thế hột sen, quả là một thuốc lại
sức trong thời kỳ bổ dưỡng, thuốc yang quy tăng cường năng lực tính phái. Nó là
thành phần các liều thuốc chữa những bệnh tim, phổi, ho hen, viêm họng, ỉa chảy,
nóng sốt, điều hòa đường niệu, tương quan giữa thận và bóng đái. Người ta tin nấu
chín, nó ổn định tinh dịch, còn tươi thì nó có khả năng tác dụng chống ung thư,
độc trùng. Nhờ các chất ginkolic acid (16,22), ginnol, nó có tính chất ức
chế hoạt động vi khuẩn, nhiễm trùng do mốc meo gây ra. Quả hạch xay nhỏ đem sắc
uống có khả năng kích thích sự tuần hoàn. Lá cây trong thang thuốc bai guo ye
được dùng để chữa những chứng hô hấp như hen suyển, viêm phế quản, những chứng
thính giác, những bệnh ngoài da, khí hư, ho lao, tuần hoàn, huyết áp, bệnh lậu,
bao tử, kiết kỵ, trí nhớ, lo âu. Đem nghiền thành bột, lá cây được đem xông chữa
tai, mũi, họng cũng như viêm mũi hay phế quản. Lá cây còn được dùng làm thuốc
cao dán. Nó được xem là thuốc trị liệu khớp cắn (occlusion) động mạch ngoại
biên gây ra tật đi khập khiểng cách quảng (claudication intermittente)(1,29).
Chứa đựng nhiều flavonoid (14), nó có hoạt động phản oxy hóa, thu hồi những
gốc tự do ở mức não và võng mạc ở mắt nên có tác dụng ngăn ngừa những rối loạn
nguyên do từ tuổi già, rối loạn tuần hoàn óc não, chứng Alzheimer (12) và
làm chậm sự lão hóa võng mạc (10). Tác động lên sự lão suy của não, kích
thích sự tổng hợp dopamin, nó cải thiện trí nhớ, tâm trạng, cảnh giác, năng lực
nhận thức (22). Tăng máu vào não, nó giảm nhẹ sự sa sút trí tuệ thoái
hóa (7) tuy có khả năng tăng gia xuất huyết (18). Nó có thể giúp
ích cho những người không thoải mái ở núi cao (15) hay bị loạn năng
tình dục (27). Đặc biệt cho các bà, nó có khả năng giảm đau sau thời kỳ
mãn kinh (17,33).
Bắt đầu từ 1950, người Đức là những người Tây phương đầu tiên
muốn khảo cứu sâu rộng tiềm lực y học của ginkgo, đặc biệt phần chiết từ lá, tưởng
có phần phong phú hơn phần chiết từ quả hạch. Nói chung, ở Âu châu, những phần
chiết được xem có hiệu nghiệm không kém gì những phương thuốc cổ điển để kìm
hãm cuộc tiến triển của chứng Alzheimer cũng như để làm giảm bớt những hỗn loạn
có liên hệ đến sự suy đồi của trí nhớ và chức năng nhận thức. Chính bác sĩ kiêm
nhà thực vật học Willmar Schwabe ở Karlsruhe đầu tiên phân tích những thành phần
của phần chiết từ lá, nghiên cứu những hoạt động của chúng và năm 1965 cho sản
xuất thuốc Tebonin, nồng độ 10/1 (nghĩa là 1kg chiết từ 10 kg lá). Sau đó, hãng
Beaufour ở Pháp và nhiều hãng khác tiếp tay phát triển phần chiết, phần lớn với
nồng độ 50/1. Riêng ở Đức, phần chiết EGB 761 (ngoài Tebonin còn mang những tên
Kaveri, Tanakan, Rokan, Ginkgold) là một trong 5 vị được ghi nhiều nhất trong
các toa thuốc, theo sau là phần chiết Li 1370, chứa đựng 22-24% glucoflavonoid
(quercetin, kaempferol, isohamnetin,...) (32) và 5-7% terpenolacton
(những ginkgolid, bilobalid) (14,30). Flavonoid là những chất chống oxy
hóa, cũng đã tìm ra được trong rau quả. Còn những ginkgolid là những chất ức chế
sự đông tụ máu, có hiệu nghiệm nhất là ginkgolid B (16) trong toa thuốc
BN-52021 (9). Được Furakawa chiết xuất năm 1932, phải đợi đến 1966 mới thấy
Nakanishi khảo cứu tường tận cấu tạo, ginkgolid được Corey ở Viện Đại học
Harvard năm 1988 thành công nhân tạo tổng hợp để nghiên cứu các tính chất chống
sự hắt gạt những cơ quan vừa ghép và nhân đó hai năm sau được thưởng giải
Nobel. Hội đồng Liên bang Đức về Sức khỏe năm 1988 có kê khai một bảng những hoạt
chất của cây ginkgo đuợc Hội đồng thực vật học Hoa Kỳ in.
Nói chung, tính chất cốt yếu của ginkgo là chống oxy
hóa (19), đào thải những gốc tự do (3), được dùng trong cuộc trị liệu
chứng Alzheimer (12,26). Người ta dùng nó để điều trị bệnh trên nền tảng
cơ chế bệnh lý gây ra một cuộc thoái hóa thần kinh (6), những biến chứng
sau một cuộc nhồi máu não như những rối loạn nhận thức, trí giác, vận động, trí
nhớ, ngôn ngữ (22), những chứng ù tai, chóng mặt (2). Phần chiết với
ginkgolid có tính chất bảo vệ thần kinh, hoạt động tiết acetylcholin phụ thuộc
cơ chế chứng Alzheimer (5), bảo vệ màng ruột (4), giảm hạ bệnh phù và
tổn thương sau chứng tăng thân nhiệt (9). Bên phần chiết với flavonoid thì
có tác dụng chống đầu độc tế bào, bảo vệ những tế bào thần kinh, tất nhiên cũng
chống bệnh thiếu máu cục bộ não (11). Theo một văn bằng sáng chế Hàn Quốc,
phần chiết chứa đựng isoginkgetin thi giảm hạ nhựa và nicotin trong thuốc hút,
đồng thời làm tăng mùi hương (23), lá dùng quấn điếu thay thuốc lá (34).
Phần chiết ginkgo không chỉ là chống oxy hóa, nó còn là một thuốc có tiềm năng
chống viêm (13), giảm nhẹ bất an tâm thần (8,34), ngăn cản, kềm hãm,
giảm hạ thiệt hại động lực thần kinh, mất cân (24). Trái cây ginkgo được
dùng để làm dấm chữa các chứng tăng huyết áp, tăng lipid huyết, bệnh đái đường (36).
Một văn bằng Nhật Bản đề nghị một thức uống hạ huyết áp, điều hòa máu, tăng miễn
dịch, phòng ngừa các chứng mạch tim, mạch não (35), bổ sức gồm có ginkgo
và nga truật Curcuma zedoaria(21). Thuốc men thì đã sử dụng nhiều ginkgo.
Năm 1997, số tiền bán phần chiết lá ginkgo vượt quá 100 triệu USD. Những lá này
được sản xuất trong một đồn điền lớn 400 ha (25.000 cây mỗi ha) ở
South-Caroline (Hoa Kỳ) của một công ty Pháp-Đức và những đồn điền nhỏ hơn ở
Bordeaux (Pháp). Ở Á châu, Nhật Bản, Hàn Quốc và gần đây Trung Quốc đều có trồng
ginkgo. Năm 1990, một đồn điền ở tỉnh Shandong và nhất là ở tỉnh Jiangsu đạt đến
3000 ha. Khí hậu hai nơi gần giống nhau nên công ty Pháp-Đức đã kết hợp với người
Tàu, đem qua máy móc gặt hái vì đến nay người Tàu hái lá bằng tay: những cây
trồng nầy không cao quá con người và cứ 5 năm thì nhổ đi trồng lại.
Nếu cây ginkgo ngày nay đang trở thành một cây thuốc quan trọng
trong môn liệu pháp thực vật học, nó có thể ghi trong lịch sử một nạn nhân:
ông Sakugoro Hirase (1856-1925). Cán sự thực vật học ở Phân khoa Khoa học, Viện
Đại học Hoàng gia Tokyo, ông tự học kỹ thuật nuôi trồng. Từ năm 1894 ông khảo cứu
thời gian thụ trái và cấu tạo phôi thai cây ginkgo. Khảo sát noãn tâm qua kính
hiển vi, ông thấy được một cấu trúc tỏa tia đặc biệt, hai noãn cơ thực vật
(archegonia) trong tiền phôi nhũ (endosperme), sau đó những tiêm mao rung động
: ông đã khám phá ra những tinh trùng (1896) cây ginkgo. Sau những báo cáo ở Hội
Thực vật học Tokyo, ông cho đăng kết quả trong tờ Tạp chí của Hội (1898): ở
Tokyo, thời kỳ thụ phấn nằm giữa tháng 4 và tháng 5, còn thời kỳ thụ tinh thì
giữa tháng 9 và tháng 10. Cùng Seiichino Ikeno (1866-1943), giảng sư đại học, với
những khám phá về tinh trùng cây tuế Cycas revoluta, hai ông được tặng
thưởng giải Viện Hàn lâm Hoàng gia Tokyo năm 1912. Những khám phá của ông được
chính thức thừa nhận, nhưng không phải giảng viên hay giáo sư đại học, thành
công của ông có lẽ đã gây khó khăn cho ông trong giới khảo cứu, vì sau đó ông từ
chức và đi làm giáo viên. Năm 1925, khi ông từ trần, S. Ikeno trở thành giáo sư
ở Viện Đại học Tokyo, có viết bài ca tụng và năm 1967, Gs Y. Ogura cũng có bài
nhắc lại sự tích khám phá tinh trùng cây ginkgo. Bên phần S. Hirase, dù sao đã
để lại một tấm gương sáng không những cho những nhà thực vật học mà cho cả một
thế hệ thanh niên Nhật Bản.
Tham khảo:
www.xs4all.nl/~kwanten, www.passeportsante.net/fr, www.biologie.uni-hamburg.de/b-online
1- H. Letzel, W. Schoop, Gingko biloba extract EGB761
and pentoxifylline in intermittent claudication. Secondary analysis of the
clinical effectiveness, VASA (4) 21 (1992) 403-10
2- C.B. Cano, A.J. Marco, B. Perez del Valle, P.F.J.
Pellicer, The effect of Ginkgo biloba on cocheleovestibulary pathology of
vascular origin, A..Otorrinolaringologicos Iberoamericanos (6) 22 (1995)
619-29
3- M. Rosler, W. Retz, J. Thome, P. Riederer, Free
radicals in Alzheimer's dementia : currently available therapeutic
strategies, J. Neu. Trans. Supp. 54 (1998) 211-9
4- A. Onen, E. Deveci, S.S. Inaloz, B. Isik, M. Kilinc, Histopathological
assessement of the prophylactic effect of Gingko biloba extract on intestinal
ischemia-reperfusion injury, Acta Gastroenterologica Belgica (4) 62 (1999)
386-9
5- E.K. Perry, A.T. Pickering, W.W. Wang, P.J. Houghton,
N.S.L. Perry, Medicinal plants and Alzheimer's disease: from ethnobotany
to phytotherapy, J. Pharmacy and Pharmacology (5) 51 (1999)
527-34
6- S. Kieszek, Trials and perspectives in
pharmacotherapy of Alzheimer's disease, Psychiatria Polska (3) 33 (1999)
331-40
7- A. Gajewski, S.A. Hensch, Ginkgo biloba and memory
for a maze, Psychological Rep. (2) 84 (1999) 481-4
8- D. Pratico, N. Delanty, Oxidative injury in diseases of
the central nervous system : focus on Alzheimer's disease, Amer. J.
Med. (7) 109 (2000) 577-85
9- J. Westman, K. Drieu, H.S. Sharma, Antioxidant
compounds EGB-761 and BN-52021 attenuate heat shock protein (HSP 72 kD)
response, edema and cell changes following hyperthermic brain injury. An
experimental study using immunohistochemistry in the rat, Amino acids (1) 19 (2000)
339-50
10- C.P. Juarez, J.C. Muino, H. Guglielmone, R. Sambuelli,
J.R. Echenique, M. Hernadez, J.D. Luna, Experimental retinopathy of prematury :
angiostatic inhibition by nimodipine, Ginkgo biloba, and dipyridamole, and
response to different growth factors, Eur. J. Ophthalmology (1) 10 (2000)
51-9
11- M.S. Kobayashi, D. Han, L. Packer, Antioxidants and
herbal extracts protect HT-4 neuronal cells against glutamate-induced
cytotoxicity, Free Rad. Res. (2) 32 (2000) 115-24
12- H. Sienkiewicz-Jarosz, W. Kostowski, Perspectives of
therapy of Alzheimer's disease, Psychiatria Polska, (4) 34 (2000)
623-40
13- A. Wong, S. Dukic-Stefanovic, J. Gasic-Milenkovic, R.
Schinzel, H. Wiesinger, P. Riederer, G. Munch, Anti-inflammatory
antioxidants attenuate the expression of inducible nitric oxide synthase
mediated by advanced glycation endproducts in murine microglia, Eur. J.
Neurosci. (12) 14 (2001) 1961-7
14- K. Nakanishi, K. Stromgaard, D.R. Saito, Synthesis
of gingolide probes for neuromodulatory studies, Abs. Papers 223rd ACS
Nat. Meet. Orlando, FL, US 7-11(2002)
15- J.H. Gertsch, T.B. Seto, J. Mor, J. Onopa, Ginkgo
biloba for the prevention of severe acute mountain sickness (AMS) starting one
day before rapid ascent, High Alt. Med. Biol. (1) 3 (2002)
29-37
16- F. Drago, M.L. Floriddia, M. Cro, S. Giuffrida, Pharmacokineticks
and bioavailability of a Ginkgo biloba extract, J. Ocular Pharmacological
Therapeutics (2) 18 (2002) 197-202
17- H. Xu, D.S. Fabricant, C.E. Piersen, J.L. Bolton, J.M.
Pezzuto, H. Fong, S. Totura, N.R. Farnsworth, A.I. Constantinou, A
preliminary RAPD-PCR analysis of Cimicifuga species and other botanicals used
for women'health, Phytomedicine (8) 9 (2002) 757-62
18- B.J. Tesch, Herbs commonly used by women: an
evidence-based review, Amer. J. Obstetrics and Gynecology 188 (5
Suppl) (2003) S44-55
19- O. Lopez, D. Bonnefont-Rousselot, M. Edeas, J. Emerit, F.
Bricaire, Could antioxidant supplementation reduce antiretroviral
therapy-induced chronic stable hyperlactatemia? , Biomedicine and
Pharmacotherapy (3) 57 (2003) 113-6
20- M.M. Cals Grierson, A. Ormerod, Use with extracts
vegetaux to improve the function barrier of the skin, Fr. Demande FR
2831443 (2003)
21- S. Toyota, Health beverage preparation from Curcuma
rhizome juice, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003111581 (2003) 4 tr.
22- T. Morimasa, Gingko biloba extracts for treatment of
complications after brain infarction, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
2003095966 (2003) 7 tr.
23- C.W. Cho, C.Y. Jung, A filtering material for
cigarettes composed of ginkgo leaves starch, spices, and a zeolite, PCT
Int. Appl. WO 0313285 (2003) 22 tr.
24- M.F. Beal, R.J. Ferrante, J. Ribert, Use of gingko
biloba extracts to promote neuroprotection and reduce weight loss, PCT
Int. Appl. WO 0347511 (2003)
25- K.H. Lee, S.I. Han, G.H. Park, Y.E. Kwon, Evaluation
of the herbal extract or the effects of hair-regrowth compared to 3% minoxidil ;
elongation of anagen period on C3H mice, Yakhak Hoechi (1) 47 (2003)
14-9
26- B. Schmitt, T. Bernhardt, H.J. Moeller, I. Heuser, L.
Froelich, Combination therapy in Alzheimer's disease: a rewiev of
current evidence, CNS Drugs (13) 18 (2004) 827-44
27. D. Wheatley, Triple-blind, placebo-controlled trial
of Ginkgo biloba in sexual dysfunction d ue to antidepressant drugs, Hum.
Psychopharmacology (8) 19 (2004) 545-8
28- E. Boelsma, R.J.A.N. Lamers, H.F.J. Hendriks, J.H.J. van
Nesselrooij, L. Roza, Evidence of the regulatory effect of Ginkgo biloba
extract on skin blood flow and study of its effects on urinary metabolites in
healthy humans, Planta Med.(11) 70 (2004) 1052-7
29. M.H. Pittler, E. Ernst, Complementary therapies for
peripheral arterial disease : systematic review, Atherosclerosis (1) 181 (2005)
1-7
30- K. Nakanishi, Terpene trilactones from Gingko biloba:
from ancient times tothe 21 st century, Bioor. Med. Chem. (17) 13 (2005)
4987-5000
31- J. Liang, Cigarette-like product containing leaves
of Gingko biloba, Lycium chinense and Mentha haplocalyx, Faming Zhuanli
Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1559313 (2005) 8 tr.
32- G. Kostalova, D. Tekelova, Sz. Czigle, J. Toth, M.
Mrlianova, S. Lalkovic, Comparison of flavonoid contents in mass produced
drugs and diatery supplements containing Gingko bilola L., Farm. Obzor
(Slovakia) (5) 74 (2005) 119-23
33 S. Elsabagh, D.E. Hartley, S.E. File, Limited
cognitive benefits in stage+2 postmenopausal women after 6 weeks of treatment
with Ginkgo biloba, J. Psychophamacology. (2) 19 (2005)
173-81
34- M. Atmaca, E. Tezcan, M. Kuloglu, B. Ustundag, O.
Kirtas, The effect of extract of Ginkgo biloba addition to olanzapine on
therapeutic effect and and antioxidant enzyme levels in patients with
schizophrenia, Psychiatry and Clinical Neurosciences (6) 59 (2005)
652-6
35- X. Zhao, Vinegar manufactured from Gingko biloba and
Fagopyrum tataricum, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN
1721521 (2006) 5 tr.
36- L. Weng, Method for producing pure Gingko biloba
beverage, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1803032
(2006) 4 tr.
Võ Quang Yến
Theo http://chimviet.free.fr/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét