Cây nhà lá vườn 3
Tập 3 : Cây lá
24- Bèo hoa dâu, chất phân
xanh
Ghét cụm bèo trôi che bóng nước,
Giận chùm mây nối khuất vành trăng.
Ưng Bình Thúc Giạ Thị
Tục truyền vào thế kỷ XII,
thời nhà Lý, sư ông Khổng Minh Không một hôm gánh bèo dâu đi ngang qua sông
Hồng vô ý đánh rơi mấy bó. Những dân quanh vùng, ở các làng Búng, Bích Du, La
Vân, tỉnh Thái Bình, ngày nay được xem như là "quê hương" bèo dâu,
lượm về đem trồng làm phân bón ruộng, kết quả vô cùng mỹ mãn. Nhớ ơn nhà sư, từ
thế kỷ XVII họ lập đền thờ phụng, ngày nay ở làng La Vân vẫn còn (7).
Họ còn bán bèo qua các làng lân cận. Thấy vậy nhiều làng khác cũng muốn sản
xuất nhưng không làm được. Có người nông dân cuốc bộ hơn trăm cây số để mua cho
được một bó. Chủ nhân một nguồn lợi tức đem lại khá nhiều tiền, dân các làng
may mắn nầy kiếm đủ mọi cách để giữ độc quyền. Các cô gái làng khác về làm dâu
phải thề không tiết lộ cho bất cứ ai biết bí mật nuôi trồng. Còn các cô gái
trong làng, nay mai sẽ đi làm dâu làng khác, thì không được phép biết một chút
gì về kỹ thuật sản xuất. Hơn nữa, để tránh mọi hớ hên, hở chuyện, họ còn đặt
bày ra một thần bèo rất nghiêm khắc, có quyền lực vật chết bất cứ ai tiết lộ bí
mật nuôi trồng bèo (5).
Tuy nhiên, bí mật có giữ kín bao nhiêu rồi cũng có ngày bị phát
giác. Câu chuyện bắt đầu với một sinh viên nông học trẻ tuổi, anh Nguyễn Công
Tiễu, quê người Hưng Yên, cạnh Thái Bình. Năm 1921, anh lấy bèo dâu làm đề tài
khảo cứu. Mất nhiều công của, thì giờ, cuối cùng anh biết được nguyên tắc phân
bón của bèo dâu và qua năm 1929, đem trình bày kết quả ở Hội nghị Khoa học lần
thứ 4 vùng Thái Bình Dương ở Java. Hơn nữa, như là phần thưởng dành cho người
có chí, một nông dân làng La Vân, nơi có tiếng giữ gìn kín đáo bí mật nhất, lại
kể cho anh nghe những chi tiết kỹ thuật nuôi trồng bèo dâu. Anh liền cho đăng
ngay trên báo Khoa học (số 32,1932). Sách báo của nhà khoa học
Nguyễn Công Tiễu (1) trên những đề tài dân dụng như dầu cà
cuống, bèo hoa dâu ngày nay đã được phổ biến (5).
Cộng sinh bèo dâu - rong lam
Qua Nguyễn Công Tiễu, người ta biết được bèo dâu làm phân bón
ruộng tốt nhờ khả năng cố định chất đạm N2 mà tính chất nầy lại
do một vi khuẩn sống cộng sinh với nó thực hiện. Cộng sinh (symbiose,
ghép hai danh từ Hy Lạp sun: với, bios:
sống) là trạng thái hai sinh vật khác loại sống kết hợp chặt chẽ và thăng bằng
với nhau để đôi bên đều có lợi. Trong trường hợp nầy, rong đem lại chất đạm cho
bèo, trái lại bèo cung cấp chất dinh dưỡng nhu glucid cho rong. Nhỏ li ti,
trông giống hoa cây dâu, lá kết với nhau trên mặt nước thành hình tam giác, bèo
hoa dâu hay bèo dâu Azolla pinnata R. Brown gồm có hai
chi A. pinnata imbricata và A. pinnata pinnata.
Thuộc họ Bèo tai chuột Salviniaceae (Tự điển Larousse) hay họ
Bèo dâu Azollaceae (theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ), nó là loại
bèo được khảo cứu nhiều nhất trong những Azolla được biết: A.
africana, A. anabaena, A. caroliniana, A. filiculoides, A. imbricata, A.
japonica, A. mexicana, A. mycrophylla, A. nilotica, A. rubra. Công lao
của bèo là mang trong cục bướu ở rễ một loại rong lam (algue bleu-vert)
nửa vi khuẩn nửa thực vật, gọi là Anabaena azollae Strasb., vi
khuẩn vì cấu trúc, thực vật vì có khả năng quang học tổng hợp. Trong số hơn ba
chục Anabaena thường được miêu tả, A. variabilis là
loại được khảo cứu tường tận nhất.
Rong lam có khả năng cố định đạm khí, chế tạo protein từ khí
quyển, quang hợp thán khí CO2 và nước ra glucid. Dưới hình thức
những sợi nhỏ, dài, quấn quít nhau, nó là một dãy tế bào cá thể nằm trong một
cái bao mỏng, xung quanh bao bọc một lớp chất nhầy. Xen lẫn trong dãy nầy, ở
những khoảng cách đồng đều, là những tế bào có bao tương đối dày hơn, gọi là
những dị bóng (heterocyste). Chính ở trong các dị bóng nầy mà nhiệm vụ
cố định đạm khí được thực hiện. Nhờ những dẫn xuất của cuộc chuyển hóa các
glucid như pyruvat, isocitrat, glucose-6-phosphat,... rong lam có đủ khinh
khí H2 để chợp lấy đạm khí N2 ở thể tự do làm
thành khí ammoniac NH3 qua các tác dụng của một enzym gọi là
nitrogenase. Ở ngay trong dị bóng, khí ammoniac được biến hóa thành glutamin để
chuyển qua các tế bào thực vật dưới dạng glutamat và amin acid (6).
Một điều đáng chú ý là rong lam không thể nuôi trồng ở thể tự do. Nhiều phòng
thí nghiệm đã thành công tách chiết nhiều mẫu từ bèo dâu tán nghiền nhưng không
có mẫu nào thực hiện được công cuộc cộng sinh. Giả thuyết được nghĩ đến là mỗi
khi ra khỏi môi trường đặc biệt trong lòng bèo dâu, rong lam mất hết những tính
chất cộng sinh (9). Nói một cách khác, rong lam chỉ đạt đuợc
những tính chất ấy một khi xâm nhập vào lòng bèo dâu.
Hai câu hỏi làm bận lòng các nhà khảo cứu: Tại sao những vi
khuẩn chỉ cộng sinh với một loại cây nào đó thôi? Khảo xét cặp Rhizobium-rau
đậu, họ nhận ra một tác động qua lại giữa những glycoprotein phát tiết từ các
rễ rau đậu và những polysaccharid màng vi khuẩn. Chắc chắn những polysaccharid
ở Rhizobium tự do trong chất thừa nhận những glycoprotein ấy
(gọi là lectin) tuy người ta chưa biết cơ chế rõ ràng. Hướng khảo cứu những năm
gần đây là cặp đôi những vi khuẩn và rau đậu hay cây cối trong thiên nhiên chưa
hề cộng sinh với nhau. Câu hỏi thứ nhì là nitrogenase ở Rhizobium chẳng
hạn chỉ vận dụng ở môi trường nồng độ dưỡng khí CO2 kém, làm
sao có tác động trong bướu ấy là nơi tiêu thụ nhiều dưỡng khi? Người ta có thể
giải thích sự kiện kỳ lạ nầy khi tìm ra được trong bướu một hóa chất có nhiệm
vụ đem dưỡng khí lại cho vi khuẩn đồng thời điều hòa dưỡng khí làm sao cho có
áp lực nhỏ trong bướu. Vì cấu trúc và nhiệm vụ gần giống huyết bào tố trong
máu, người ta gọi nó là leghemoglobin (leg như légumineuse, rau đậu). Cũng mang
nguyên tố Fe trong mình như hemoglobin, nó nhuộm bướu màu hồng đỏ, nhưng cấu
trúc khác nhau tùy loại rau đậu (8).
Cuộc cộng sinh thao diễn theo chu kỳ phát triển bèo dâu và rong
lam. Khi lá bèo còn non, ở đỉnh lá đã thấy lơ thơ vài sợi rong tí hon nằm cạnh,
chưa có dị bóng. Khi lá bèo lớn dần lên, những hốc nhỏ cũng dần dần được tạo ra
trong lá để nắm giữ rong. Trong hốc, một số lông gồm có nhiều tế bào nhỏ, gây
nên một sự cọ xát liên gục giữa bèo và rong. Những sợi rong cuốn lại thành
cuộn, nhờ một màng chất dính bao bọc bên ngoài, bám vào thành hốc. Dị bóng
thành hình, tăng số và lớn lên. Khi lá bèo đến độ trưởng thành, dị bóng đạt 30%
(sau cùng có thể lên đến 45%) những tế bào ở sợi. Vào lúc nầy, rong lam chiếm
toàn diện tích hốc, nhưng cũng là lúc nó bắt đầu chấm dứt phận sự tổng hợp
quang học, không phát triển nữa và bước vào một trạng thái im lìm, bất động cho
đến ngày lá bèo vàng úa rơi xuống đáy ruộng, thoái hóa, phân hủy để cống hiến
chất đạm cho cây lúa.
Trong 20 năm gần đây, giới khoa học chú trọng nhiều đến bèo dâu
và rong lam. Về măt cấu trúc, amin acid, protein (23) đã
được xác định trong bèo, lectin trong rong, trong bèo. Trong số 18 amin acid
tìm thấy, nhiều nhất là glutamic và aspartic acid, theo sau là leucin, ít nhất
là methionin, tryptophan và cystein (19). Các amin acid giảm hạ
trong bóng tối và môi trường nitrat NO3, tăng gia với ánh sáng và
môi trường ammonium NH4. Rong chứa đựng chất sắc phycocyanin (12),
allophycocyanin, phycoerythrocyanin (17,22) tương quan với
hoạt động cố định chất đạm, caroten một nguồn provitamin A cho đồ ăn gia
súc (27). Ngoài ra, bèo biết tổng hợp gibberellin, cytokinin
như isopentenyl adenin, isopentenyl adenosine, cis- và trans-ribosyl zeatin,
polyphenol, ferredoxin. Người ta biết phân tử ferredoxin mang thêm nguyên tố Mo
là một trong hai protein cấu thành nitrogenase.
Từ lâu, ngay cả trước lúc người ta hiểu biết cơ chế cố định chất
đạm, bèo dâu đã được dùng làm phân bón, nhưng chỉ ở một địa hạt giới hạn là
Đông Nam Á, vùng ruộng lúa nước. Bên Trung Quốc, bèo dâu được trồng từ thế kỷ
17, đặc biệt ở các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông. Ở Việt Nam, người ta phỏng chừng
bèo dâu đã có mặt từ nhiều thế kỷ hay lâu hơn nữa nếu tin ở huyền thoại. Thường
người nông dân đi lượm bèo hoang ở ruộng, đem về trồng trong các ao sâu không
quá 1m, đã dọn sạch từ mùa xuân trước và chứa toàn nước mưa. Các bờ ao phải
được cào quét mọi rác rưới, lắm lúc có hàng rào tre chống gió và ánh nắng gao
gắt mùa hạ. Mẫu bèo được ươm trong các khuôn tre nhỏ, nới rộng dần theo cuộc
sinh trưởng của bèo. Thường bèo được nuôi với phân heo khô, tán bột, trộn với
tro rơm. Bèo lớn lên trong lúc người nông dân sửa soạn, cày bừa ruộng. Cấy xong
là bèo được thả vào ruộng. Bèo dâu là một loại cây mảnh dẻ, phải thận trọng khi
vận dụng để khỏi nát và cũng không nên để khô héo ngoài nước. Không được vứt nó
xuống ruộng bừa bãi mà phải nghiêng rổ trong nước rồi lấy tay khẻ quậy cho bèo
nhẹ nhàng rời rổ trôi vào ruộng (5).
Rong lam cố định chất đạm
Có nhiều cách rải bèo nhưng phương pháp chắc chắn nhất là đặt nó
ở trung tâm thửa ruộng, xung quanh dựng một cái đê nhỏ làm bằng rạ trộn với đất
để bèo khỏi phân tán trước khi bám vào nước. Những đê nhỏ nầy, như khuôn tre
truớc đây trong ao, được nới dần theo mức bành trướng của bèo. Ở Hải Dương, năm
1927, 120kg bèo (khoảng 6 triệu cây) phủ kín sau 46 ngày một diện tích lớn gấp
250 lần diện tích lúc đầu là 580 m2. Cuộc nảy nở theo chiều ngang
của bèo không quấy rầy chút nào sự phát triển thẳng đứng của cây lúa. Trái lại,
khi bao trùm mặt ruộng một lớp dày, bèo ngăn cản nước bốc hơi, đỡ mất công dẫn
thủy nhập điền, đồng thời làm trở ngại việc phát triển dòi muỗi cùng các loài
tảo có hại, từ đấy đỡ mất công nhặt tảo, diệt trùng. Cũng như ở mọi cuộc nuôi
trồng khác, ngoài chuyện bảo vệ lượng nước đầy đủ (rễ bèo phải chạm đáy ruộng
nhưng đừng quá nhiều để khỏi vướng vào bùn), nhiệt độ vừa phải (trung bình giữa
16 và 22°), còn cần phải tiêu diệt các loài sâu bọ như muỗi đỏ (chironome),
bướm ống (pyrale), ... Ở Thái Bình, vì thiếu những chất diệt trùng như
DDT, sau khi rải tro lên mặt bèo, người ta thường dùng lưới cho ngập bèo xuống
nước một đêm (5,6). Viện Sinh vật học Tp Hồ Chí Minh kiếm cách
dùng vi khuẩn sanh bệnh như Bacillus thuringensis để khử
trùng (4). Suốt mùa đông, bèo tiếp tục sinh trưởng. Qua xuân,
khi nhiệt độ lớn dần, bèo đổi từ màu xanh qua hồng, xám, đen rồi thối nát, phân
tán dưới đáy ruộng thành phân, lúc bông lúa bắt đầu chớm nở. Trung bình, năng
suất lúa tăng 53% mỗi ha, 27% nhờ phân chuồng, 26% nhờ bèo dâu. Tính trong một
năm, bèo dâu cống hiến 300-350 kg chất đạm/ ha (6), hay mỗi
ngày gần 1kg chất đạm / ha (2) tương đương với số lượng
chất đạm thu lượm được với các rau đậu khác như đậu tằm, đậu răng ngựa. Một ưu
điểm của bèo so với phân chuồng là qua vụ sau, lúa còn được hưởng chất đạm còn
lại của cuộc cộng sinh.
Trong những thập niên 60-70, phong trào làm bèo dâu ở Thái Bình,
phục vụ thâm canh năng suất lúa đã phát triển khá mạnh: trên 70% diện tích lúa
chiêm xuân, liên tục qua nhiều năm, đều được phủ kín một lượt bèo, 100% riêng ở
hai huyện Hưng Hà và Đông Hưng, đặc biệt được phủ hai lượt bèo ở hợp tác xã Vũ
Thắng, lá cờ đầu về thâm canh tăng năng suất lúa của tỉnh Thái Bình. Tuy nhiên,
theo tác giả bài báo (2) nhận thấy, nhìn chung phong trào
sản xuất bèo dâu các tỉnh miền Bắc nước ta tiến triển còn chậm chạp, mặc dù bèo
dâu là một giải pháp cần thiết trong vụ sản xuất đông-xuân. Một bài tính dễ
chứng minh: tỉnh Thái Bình với 175.000 ha trồng lúa nước, nếu không có bèo dâu
thì hằng năm phải dùng ít nhất 2 triệu tấn phân chuồng, tức phải có 2 triệu con
lợn mà ở thời điểm nầy chỉ đếm có 4 vạn con! Trong nhiều chủ trương kỹ thuật
đã được đề nghị để đáp ứng những đặc tính sinh vật của bèo dâu, đáng để ý là
một lực lượng lao động chuyên môn làm bèo vì thấy rõ bèo dâu làm dễ nhưng không
phải ai cũng làm được.
Đằng khác, tuy tỉnh Thái Bình hồi đó đã có 9 trại chuyên môn
nhân giống bèo ở 7 huyện và 60 trại ở các vùng trong huyện, miền Bắc vẫn thiếu
một trại giống, ruộng giống chuyên, lượng lao động chuyên, vật tư - kỹ thuật
chuyên phục vụ cho sản xuất bèo nên phong trào làm bèo dâu không khả quan. Môt
số kinh nghiệm kỹ thuật cũng đã được tổng kết và nâng cao. Vụ tốt nhất của bèo
dâu là tháng giêng, ít sâu bệnh, nhưng cũng là tháng có nhiệt độ thấp nhất, cần
áp dụng hai biện pháp để khắc phục tình trạng: "đổ ải đến đâu, thả bèo
dâu đến đó", nhờ thế bèo dâu có thể lợi dụng được chất màu dễ tiêu và một
nhiệt lượng lớn do đất ải tỏa ra; dùng tro mộc rắc phủ kín lên mặt bèo trong
những ngày có sương muối và gió bấc mạnh để tăng cường chống rét cho bèo (2).
Ngoài ra, những thời gian phơi ải, kế hoạch đổ ải, kỹ thuật nuôi bèo cũng đã
được học hỏi và áp dụng, góp phần nâng cao diện tích bèo dâu toàn tỉnh. Sau
nhiều năm, tiến bộ kỹ thuật nầy có được áp dụng rộng rãi trong cả nước như mong
muốn chưa? Vào lúc vấn đề môi trường sinh thái đang được đặt ra khắp nơi, phải
chăng nên nghĩ lại việc dùng bèo dâu làm phân bón thay cho hóa chất.
Phân xanh thay thế hóa chất
Trên mặt đất, rong lam không phải độc nhất có khả năng cố định
đạm khí. Từ lâu, người ta đã biết hàng chục vi khuẩn, nấm tia có tính chất ấy,
sống một mình trong đất hay cộng sinh với cây cỏ. Rhizobium là
vi khuẩn thuộc loại độc bào kết hợp với các cây rau đậu. Ở đậu nành, vi khuẩn
mang tên Rhizobium japonicum. Trong phòng thí nghiệm Sinh hóa
hữu cơ và Sinh học công nghệ ở Paris, một thời chúng tôi đã bỏ công thử tổng
hợp rhizobitoxin, một chất phytotoxin thiên nhiên hiện diện rất ít trong bướu
rẽ cây đậu nành, có khả năng ức chế enzym cystathionase, mở đường dẫn tới những
chất kháng sinh, chống nấm, trị ung thư. Bên cạnh Rhizobium, một vi
khuẩn khác cũng đã được nói đến là Frankia (8),
hình sợi, thuộc loại nấm tia, cộng sinh với những cây có hoa, trong những cục
bướu như Rhizoboium. Cách thức xâm nhập phát triển của vi
khuẩn nầy ở cây có phần khác hơn chút ít. Bên Rhizobium, tế
bào vi khuẩn theo đường dây hình ống xâm nhập vỏ rễ cây, dính vào các mô phân
sinh của rễ, biến hoá cả về mặt hình thái lẫn sinh lý thành một hình thể gọi
là bacteroid, nơi diễn biến cuộc cố định chất đạm. Với Frankia,
vi khuẩn tiến vào vỏ rễ cây dưới hình thức những sợi, có khi cấu tạo thành
bọng, túi hình cầu hay hình trứng là hình thể tương đương với bacteroid.
Đặc sắc những bướu của Frankia là có thể xuất
hiện ở rễ cũng như ở thân, ở các rau đậu như Sesbania rostrata, S.
grandiflora (cây so đủa), Pueraria phaseoloides (loại
có củ lớn), Aechynomene afraspera phần lớn bên châu Phi, cũng
như trên các cây lớn loại phi lao như Casuarina rumphiane, C.
curinghaminane bên Senegal, C. esquisetifolia, cây
dương bên nước ta. Ông Hoàng Gia Diêm, nghiên cứu sư ở cơ quan khảo cứu vi
khuẩn Frankia chiết xuất từ bướu cây C.
junghuniane gốc Thái Lan (8). Ngoài ra, các loại Leucaena,
Acacia, Prosopsis,... cũng đã được chú ý đến. Cuộc cộng sinh Frankia
- S. rostrata (9) cống hiến chất đạm chỉ kém chút ít
cặp A. pinnata - A. azollae, khoảng 50-150 kg/ ha một
mùa. Bên phần những cây phi lao Casuarina, qua lá rụng thành
phân, trồng 3.000 cây/ ha, mỗi năm cũng thu lượm được 150-200 kg chất đạm.
Chúng còn cống hiến một lợi ích khác là làm màn chắn gió và gắn chặt cồn đồi bị
xói mòn. Ở Senegal, nhiều cồn biển đã được cây nầy bảo vệ. Còn bên Trung Quốc,
dọc một bờ biển dài 3.000 km, rộng 0,5-5 km, cây trồng đã chiếm một triệu ha
cồn cát. Nhiều phòng thí nghiệm, đặc biệt của cơ quan khảo cứu Pháp ORSTOM bên
châu Phi đang xúc tiến cuộc khảo cứu về vi khuẩn Frankia (8).
Bên phần bèo dâu thì cuộc khảo cứu cũng được mở rộng. Một mặt,
các cây Azolla khác được đem thử nghiệm: A.
caroliniana, A. filiculoides, A. mexicana,… thường được xem như rau hoang vô
dụng, có khi nguy hại, bây giờ được đem ra thử không những với lúa mà còn với
nhiều cây khác như những khoai đậu (tarot) bên đạo Hawai chẳng hạn (6).
Mặt kia, nguời ta tìm những ứng dụng khác của bèo dâu và rong lam. Vì chứa đựng
protein trong lá, bèo dâu là một thức ăn tốt cho cá (24), gà
con (11,26), động vật nhai lại (23). Đem ủ kị
khí, bèo dâu cống hiến khí methan (21,14). Sinh khí có thể đạt
đến 189 l/ kg và xác bèo dùng làm phân bón. Trong số kim loại có mặt trong
bèo, nếu Fe và Mn không có ảnh hưởng đáng kể, Cd và Ni tăng gia năng suất khí
khi nồng độ không quá cao, Pb có tác dụng tai hại lên bèo ủ (28).
Những nhà khảo cứu Trung Quốc còn tìm ra vàng Aụ(III) trong nhân rong lam (26).
Bèo dâu là một nguyên liệu để sản xuất quang học khinh khí, dưỡng khí và khí
ethylen (25). Khinh khí cũng có thể chế tạo từ bèo dâu qua một
vi khuẩn tách chiết từ rễ, Rhodopseudomonas, nuôi cấy trong khoai
tây (20). Bên phần rong lam, đem cố định trên polyvinyl,
polyurethan, hay alginat thì không những ổn định được tác động nitrogenase mà
còn tăng cường tốc độ cố định đạm khí, tốc độ sản xuất khinh khí và khí
ammoniac (13,15). Rong lam tách chiết từ bèo còn có khả năng
kết dính máu nhờ các lectin nhưng tính chất nầy bị trypsin phá hủy và cũng có
thể bị fucose, rhamnose, fructose, galactose ức chế.
Năm 1980, trong chiếc tàu vũ trụ Soyouz 37, Phạm Tuân, nhà du
hành và nghiên cứu Việt Nam đến nay độc nhất, cùng Victor Gorbako, bạn đồng
hành Liên Xô, đem ra không gian một mớ bèo hoa dâu trong số nhiều loại thực vật
khác đã được chọn lựa như chlorella, spirulin, lúa mì, bắp cải, cà chua,… theo những
tiêu chuẩn: có cường độ quang hợp cao để bảo đảm nhu cầu khí của người, có hệ
số trao đổ khí phù hợp với hô hấp của người; có năng suất cao, có khả năng
sinh trưởng và sinh sản nhanh; có khối lượng cơ thể bé để tránh gây mất cân
bằng sinh thái lúc bị chết đi, có bộ phận sử dụng làm thức ăn chiếm tỷ lệ lớn;
có thành phần sinh hóa phù hợp với khẩu phần thức ăn của người và không quá
phức tạp về mức độ công nghệ chế biến thức ăn; và có khả năng thích nghi với
điều kiện sống trong con tàu vũ trụ, thích hợp với phương pháp trồng trong vũ
trụ như trồng trong nước theo phương pháp công nghiệp. Song song với những mục
tiêu khoa học, kinh tế, trong ấy tìm cách thực hiện một hệ thống sinh thái hoàn
toàn khép kín trong môi trường nhân tạo của con tàu vũ trụ là một điểm quan
trọng, đem bèo dâu ra không gian trong tầm mắt các nhà khoa học ta là một dịp
thuận lợi để thu lượm các dòng bèo có năng suất cao, cố định đạm tốt, chịu
nhiệt độ cao, chống chịu với sâu bệnh. Các nhà khảo cứu Việt Nam chắc đang tiếp
tục nghiên cứu về quang hợp, hô hấp, cố định đạm, thành phần sinh hóa môi
trường dinh dưỡng, hệ vi sinh vật, siêu cấu trúc dưới kính hiển vi điện tử,... của bèo dâu (3). Sách, báo đã thấy xuất hiện (14,18).
Như vậy ta cùng hòa mình với thế giới đang xúc tiến tìm kiếm những phân xanh
thay thế hóa chất trong một phong trào lớn mạnh được mệnh danh "cuộc cách
mạng xanh".
Thông tin Khoa học và
Công nghệ 4(26) 1999, vietsciences 11.2008
Tham
khảo:
1- Nguyễn Công Tiễu (theo thư tịch của Kim Phan) (5)
- Bèo hoa dâu dùng làm phân bón, Imp. Thần Nông Báo, Hà Nội (1930)
- Sách làm ruộng, Imp. Tonkinoise, Hà Nội (1928)
- Những điều bí mật về bèo hoa dâu, một thứ
cây dùng làm phân bón, Imp. Ngô Tử Hạ, Hà
Nội (1934)
- Khảo cứu về bèo hoa dâu, Khoa Học số 9, 13,
14, 20, 85, 86, 87, 88, 89
- L’azolle cultivée comme engrais verts, Bull. Econ.Indochine ,
Série B, th.4 (1930)
- Conservation de l’azolle en saison
chaude, Bull. Econ.Indochine (1934) 1318-20; th.1-2(1936)
2- Nguyễn Xuân Tuân, Mấy kinh nghiệm về phát triển bèo
dâu, phục vụ thâm canh lúa của tỉnh Thái Bình, Tạp chí Hoạt động
Khoa học 9 (1979) 6-7,19
3- Nguyễn Hữu Thước, Thí nghiệm bèo dâu trong vũ trụ, Đoàn
Kết trích báo N.D. 8 (1980)
4- V. Labeyrie, Azolla pinnata, Bull.Infor.Doc.
AAFV th.6 38 (1981) 11
5- Kim Phan, L’Azolla pinnata, plante miracle des
rizières du Vietnam, Biofurur th.5 (1982) 11-17
6- Pernette Langley-Danysz, Recherches sur l’azolla, Biofutur th.5
(1982) 19
7- Đào Thế Tuấn, Un engrais vert: l’azolle, Pour
la Science th.3 65 (1984) 22-3
8- Y. Dommergues, B. Dreyfus, Hoang Gia Diem, E. Duhoux, Fixation
de l’azota et agriculture tropicale, La Recherche th.1
(16) 162 (1985) 22
9- Catherine Allais, Sesbania rostrata, l’africaine à la
conquête du monde, La Recherche th.5 (19) 199 (1988)
672
10- Claudine Franche, Azolla, une orientale plusieurs
fois centenaire, La recherche, th.5 (19) 199 (1988)
674
11- B.P.R. Subudhi, P.K. Singh, Nutritive value of the
water fern Azolla pinnata for chicks, Poult. Sci. (2) 57 (1978)
378-80
12- J.H. Becking, M. Donze, Pigment distribution and
nitrogen fixation in Anabaena azollae, Plant Soil (1-2) 61 (1981)
203-26
13- M. Brouers, D.O. Hall, Hydrogen production, ammoniac
production and nitrogen fixation by free and immobilized cyanobacteria, Comm.
Eur. Communities [Pep.] EUR 10024, Energy Biomass (1985) 387-92
14- Vu Van Vu, W.F. Sang, Wong Fong, J.W. Kijne, K. Planque, R.
Kraayenhof, Effects of temperature, pH and bound nitrogen on
photosynthesis and nitrogen fixation of Azolla pinnata (Xanh, Vietnam) and
Azolla filiculoides Lam, Photosynthetica (1) 20 (1986)
67-73
15- M. Brouers, D.O. Hall, Ammonia and hydrogen
production by immobilized cyanobacteria, J. Biotechn.(5-6) 3 (1986)
307-21
16- L.J. Querubin, P.F. Alcantara, A.O. Princesa, Chemical
composition of three Azolla species (A. caroliniana, A. microphyllia, and A.
pinnata) and feeding value of azolla meal (A. microphyllia) in boiler ration
II. Philipp. Agric. (4A) 69 (1986) 479-90
17- O.D. Bekasova, A.A. Mutuskin, S.V. Zore, Content and
structural organization of phycobilin pigments in the nitrogen-fixing of
cyanobacterium, Anabaena azolla, Biofizika (2) 33 (1986)
270-4
18- Nguyen Huu Thuoc, Photosynthesis and nitrogen
fixation in the Azolla-Anabaena azollae symbosis, Nauka: Moscow, USSR
(1988) 152 tr.
19- H. El-A.Weam, A. Khogali, Protein amino acid
composition in six species of Azolla, Delta J. Sci. (4) 11 (1987)
2059-69
20- S.P. Singh, S.C. Srivastava, K.D. Pandey, Photoproduction
of hydrogen by a non-sulfur bactarium isolated from root zones of water fern
Azolla pinnata, Int. J. Hydrogen Energy (6) 15 (1990)
40-6
21- S.A. Abbasi, P.C. Nipaney, G.D. Schaumberg, Bioenergy
potental of eight common aquatic weeds, Biol. Wastes (4) 34 (1990)
35-66
22- L.G. Erokhina, Composition and content of
phycobiliproteins in the symbiotic nitrogen-fixing cyanobacterium Anabaena
azollae from various Azolla fern species, Fiziol.
Rast. (4) 38 (1991) 742-53
23- A. Dewanji, Amino acid composition of leaf proteins
extracted from some aquatic weeds, J. Agric. Food Chem. (8) 41 (1993)
1232
24- D. Das, K. Sikdar, A.K. Chatterjee, Potential of
Azolla pinnata as biogaz generator and as fish-feed, J. Environ.
Health (3) 36 (1994) 186-91
25- E. Tel-Or, A. Rozen, E. Bar, H. Arad. Hydrogen
photoproduction by Azolla and Anabaena azollae, J. Mar.
Biotechnol. (1) 34 (1996) 52-6
26- J. Zhao, D. Shi, Y. Zhang, Bioaccumulation of Au
(III) by cyanobacteria Anabaena azollae, Chin. Sci. Bull. (13) 43 (1998)
1119-24
27- A. Lejeune, J. Peng, E. Le Boulenge, Y. Larondelle, C. Van
Hove, Carotene content of Azolla ands its variations during drying and
storage treatments, Animal Feed Sci. Technol.(3-4) 84 (2000)
295-301
28- A. Arora, A. Pabby, P.K. Singh, Heavy metal
accumulation by Azolla spp., Contaminated Soils 8 (2003)
39-47.
25- Canh chua me đất
Canh rau cũng thể canh rau,
Để ai cậy thế ỷ giàu mặc ai.
Ca dao
Trong bữa cơm của ta, bát canh
rau không những ngon miệng mà còn là cần thiết. Mùa hè trời nóng, món canh chua
lại càng được chờ đợi, thưởng thức. Trong Nam, thường bạc hà được dùng để thêm
vị chua. Ở Huế, me đất là rau vừa dễ tìm vừa đem lại khẩu vị thích hợp. Cũng
như mọi nhà nội trợ đảm đang khác, vào mùa xuân cũng như mùa hè, khi gấp gáp,
đi ra vườn vài phút là mạ tôi hái đủ lá me để dùng. Cô Hoàng thị Kim Cúc đề
nghị món canh cá cơm nấu me đất vào thực đơn mùa xuân: "Cá cơm rửa sạch,
xé hai con cá, lấy tay tước xương và đầu vứt đi, rửa lại nước muối cho cá cứng,
vớt ra, dầm cá vào hành giã nhỏ, tiêu, nước mắm, ớt trộn lại để đó. Nấu nửa
soong nước sôi, đổ cá vào nấu, nếu có tôm xào thêm càng ngon. Sôi vài lần cá
chín, nhắc xuống bỏ me đất lặt rửa sạch vào, thêm lá hành ngò xắt nhỏ". Cô
cũng chỉ cách nấu me đất với tép: "Đổ mỡ quánh để nóng; bỏ hành giã nhỏ
xào chín, cho tép, ớt, tiêu, muối, nước mắm vào xào. Tép thấm, đổ một bát nước
nấu sôi, nếm vừa, nhắc xuống, bỏ me đất lặt rửa sạch vào, trộn me cho chín
đều" (1).
Ấn tượng bát canh me đất tồn tại lâu dài trong trí óc người Huế
sống xa quê. "Chan nước canh me chua vào cơm, bỏ thêm một nhúm rau sống
tươi xanh, va vào miệng, chưa chi các hạch nước miếng đều đổ ra, có thể mọi sự
phiền não, chán nản trên đời đều tan biết trên bát canh độc đáo đó" (2a).
Làm sao quên được cảnh tượng gia đình cả thời tuổi trẻ: "Đứa nào cũng thử
chan vào cơm và húp canh. Lũ nhỏ thì chê chua đắng. Tôi lớn hơn mấy tuổi, bắt
đầu biết thưởng thức mấy món cay nên thấy hay hay. Chan thêm canh và rắc thêm
một ít khuyết lùa cơm vào miệng. Ôi thấm thía!... Có lần mẹ tôi đố các con:
Xăm xăm cầm búa nhìn quanh
Thợ rèn thợ bạc thảy
đành ngồi không.
Là cây gì? - Cây me
đất (vì mất đe là me đất)" (2b).
Me đất thường dùng là chua me đất hoa vàng hay tím lạt, thường
gặp ở những nơi ẩm ướt, bờ ruộng, đồng cỏ hoang. Nó là một loại cỏ mọc lan bò
trên mặt đất, thân đỏ nhạt, lá cuống dài, gồm ba lá chét, mỗi lá chét có một
vết hõm trên đầu thành hình tim ngược. Hoa mọc thành tán, cuống gầy, nhị hai
vòng, nở vào các tháng 5-7. Tên khoa học của nó là Oxalis
corniculata L. hay O. repens Thunb., thuộc họ Chua me
đất Oxalidaceae như cây khế. Tên thông thường là me đất, chua
me đất, chua me hoa vàng, trong Nam có tên chua me ba chìa (LQN-TNñ), người Tày
gọi sỏm hèn, người Nam Dương semanggi. Từ Trung Hoa có thêm những tên thố tương
thảo, toan tương thảo, tạc tương thảo, toan vị thảo, toan vị vị, tam diệp toan.
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ (PHH) phân biệt me đất nhỏ O. corniculata L.
me đất hường là O. corymbosa D.C., me đất đỏ O. deppel,
me đất chua O. acetosella). Cây me còn mang tên O.
martiana Zucc., một loại cỏ không có thân, lá ở gốc, hoa màu hồng nên
còn được gọi hồng hoa tạc tương thảo. Cũng có hoa cùng màu hồng là cây chua me
đất đỏ O. deppei Sw., còn gọi rau bợ, thân ngầm, lá chét hình
tím ngược, hoa năm cánh, nhị hai vành, mọc hoang dại. Ngoài ra có một loại cỏ
mọc ở vùng khí hậu mát như Sapa, Hoàng Liên Sơn gọi là chua me núi O.
acetosella L. (tức la me đất chua) hay sơn tạc tương thảo, không có
thân, lá kép, hoa trắng hay hồng. Có bản báo cáo ghi tên chua me đất nầy là
wood sorrel (15). Ở báo chí khoa học, cây rau sorrel (hay
surelle, oseille, rau chút chít) thường được khảo cứu về dung lượng kim loại
trong cuộc tìm hiểu và đo lường ô nhiễm môi trường. Giáo sư Đỗ Tất Lợi (ñTL)
còn có ghi cây chua me đất hoa vàng O. corniculata L. khác với chua
me hoa đỏ O. corymbosa, tức là me đất hường, cũng cùng họ Chua me
đất, thân cao hơn, nhiều lá dài, hoa màu vàng, có vị chua mát, thường được nấu
với rau muống.
Rau có vị chua vì thân và lá chứa đựng vài acid hữu cơ. Sắc ký
giấy cho phát hiện tartric acid và chút ít citric acid trong lá me đất (4),
ascorbic acid tức vitamin C bên cạnh dehydroascorbic, pyruvic và glyoxalic acid
trong me núi (6). Số lượng ascorbic acid được xác định qua phép
so màu là 183 mg/100g trong me núi tươi (14). Trong toàn thân
cây me đất có một chất bảo vệ ascorbic acid khỏi bị oxi hóa (3).
Chất phylloquinon tức vitamin K1 đã được phát hiện qua phép đo
độ nhạy cảm so với 2,4-dichloro phenoxy acetic acid (15). Một
phần oxalic acid trong me đất (7,0%) hiện diện ở thể hòa tan (4,0%) (5).
Những flavonoid như vitexin, isovitexin có mặt trong me đất (8).
Dùng hexan chiết xuất, người ta đã phát hiện được octacosanal và
sitosterol (12) trong toàn thân cây. Trong số 17 hoá chất
tách từ me đất, heptanal-2, pentylfuran-2, phytol-tetramethyl-3,7,11,15
hexadecenol-2 đã được xác định (9). Phytol có tác dụng ức chế
enzym lipoxygenase đậu nành với chỉ số IC50 ở nồng độ 0,22
microM (11). Những lipid (1,47%) chiết xuất từ lá me đất với
một hỗn hợp CHCl3-MeOH phân tích qua cột sắc ký silicagel cho thấy
gồm có phần lớn lipid trung hòa cạnh những glycolipid và phospholipid (10).
Về mặt kim loại và khoáng chất, me núi chứ đựng Ca, Mg, Na (16),
còn vỏ tế bào me đất qua kính hiển vi điện tử cho thấy khối ferritin là nguồn
sắt ở phôi cây (7).
Theo Đông y, chua me có tính chất chua (toan), lạnh (hàn),
thường được dùng làm thuốc thanh nhiệt, khát nước, mát máu, an thần, điều kinh,
giảm huyết áp, thông tiểu tiện, chữa sốt lỵ, cảm ho, viêm gan, viêm ruột, viêm
niệu đạo, xích bạch đới, suy nhược thần kinh, bệnh đường tiết niệu. Thường khi
khát nước, người ta lấy một nắm giã nát chế nước nguội vào vắt lấy nước cốt
uống. Chữa đại tiểu tiện không thông thì hòa thêm một thìa đường vào nước cốt.
Để chữa hậu môn sưng đau hay lở nẻ, cho giã nhỏ me đất với rau săm, bồ kết, nấu
nước ngâm rửa. Bong gân sưng đau thì giã me đất chưng nóng xoa bóp hay giã vắt
lấy nước dội vào. Ở Ấn Độ, Philippines, nhân dân dùng nó chữa bệnh scorbut nhờ
có ascorbic acid. Một phấn chiết me đất có tính chất chống tăng đường huyết và
chống tăng huyết áp, được đề nghị cho vào thức ăn (13). Đằng
khác, một hỗn hợp gồm có oxalic acid rất hiệu nghiệm khi đem khử các
trùng Escherichia coli và Staphylococcus aureus (20). Oxalic
acid là một phân tử diacid (hai acid) nhỏ nhất HOCO-COOH (chỉ có hai nguyên tố
carbon), có phần độc, được nhà hóa học kiêm dược sư Carl Wilhelm Scheele
(1742-1786) người Thụy Điển khám phá ra năm 1776. Nó hiện diện trong thiên
nhiên ở thể muối. Ở Pháp, kali oxalat được gọi là "muối chút chít"
(sel d'oseille). Còn calci oxalat không tan hòa trong nước thì cấu thành những
thể kết trong cây cỏ, những sỏi sạn trong cơ thể. Vì vậy người có sỏi sạn trong
bàng quang không nên dùng me đất. Để chữa chứng thiếu máu vì thiếu sắt, người
ta dùng muối ferreux oxalat. Trong cơ thể sinh vật, khi oxalat -OCO-COO- được
enzym biến hóa ra format HOCO- để cấu thành khí CO2 thì
phát ra năng lượng cần thiết cho những phản ứng khác.
Trong kỹ nghệ, dựa lên tính chất có khả năng di chuyển những ion
kim loại và kiềm thổ (cấu thành oxalat), người ta dùng oxalic acid để xử lý mặt
kim loại, đánh sạch và mài nhẵn cẩm thạch, tẩy trắng bột giấy, sợi vải, da
thuộc, làm thuốc cắn màu trong ngành nhuộm lông len. Nó cũng được dùng trong
việc chế tạo các chất trùng hợp hay các chất dẻo. Trước kia, ở Âu châu, oxalic
acid được chiết xuất từ me núi. Ngày nay, nó được nhân tạo tổng hợp bằng phương
pháp oxi hóa với nitric acid những carbohydrat lấy từ bắp (Hoa Kỳ), đường (Ấn
Độ), sắn (Brazyl) hay những olefin như propylen (Pháp), ethylen glycol (Nhật
Bản). Trong dân gian, lá me đất thường được dùng để đánh bóng đồ đồng. Ở kỹ
nghệ, lá me đất hay phần chiết được pha lẫn với nhiều chất khác chiết xuất từ thực
vật như nhựa thông, hạt dẻ hay nguồn gốc khoáng vật như monmorilonit,
vermiculit để tẩm thấm những lớp nền xốp màng lọc có khả năng ngăn chặn
methylamin, methanthiol (17), hay những chất có mùi đạm như
ammoniac, ngay cả mùi khói thuốc lá (19). Nói chung vận dụng áp
suất thấm lọc một màng lọc tẩm me đất, người ta có thể phân ly nhiều chất lỏng
hay hơi khí như ammoniac, đạm khí từ khí trời, hay khinh khí từ hỗn hợp khí
phát xuất trong phản ứng khử lưu huỳnh (18). Loại màng lọc nầy
rất hiện đại và rồi đây sẽ phát triển mạnh.
Nhân đi dạo miền nam nước Pháp, một hôm lang thang trên một sườn
núi vùng Haute Provence, tôi gặp một cụ già lom khom đi tìm nhặt một cây rau có
ba lá chét hình tim ngược như me đất, gọi là anémone hépatique,
không phải để nấu canh chua vì trong thực đơn Pháp không có canh. Trả lời câu
hỏi của tôi, ông bảo mỗi buổi sáng, thay vì uống cà phê, ông sắc uống rau nầy
thì thấy con người thư thái ra. Tuy nhiên cây rau nầy không được phổ biến rộng
rãi như me đất của ta. Trong ký ức người Huế, me đất là cả một kỷ niệm êm đềm.
Vừa là món ăn quen thuộc, nó lại hiến một cảnh tượng quê nhà khó quên:
"Lá me đất màu xanh lục gồm có ba cánh hình trái tim, xếp châu đuôi lại
với nhau rất đều đặn. Tôi nhớ hồi còn bé, chúng tôi nhổ những cọng rau me đất
nầy, cầm trong hai ngón tay, xoay xoay như những chiếc dù xanh tí hon. Bây giờ
tôi lại phát hiện thêm hoa me đất rất đẹp. Màu hoa hồng tươi năm cánh, ở giữa
là nhị vàng cam. Hoa nở rộ lên khi ánh nắng chan hòa trong vườn. Búp hoa hình
bình hoa, máu trắng ngà, khi hàm tiếu chúm chím mà tím hồng ở giữa và khi nở
ra, màu tím hồng tươi của hoa xen lẫn giữa những đám lá màu xanh lục trông thật
đẹp" (1).
Nghiên cứu và Phát triển 3(37) 2002, vietsciences 12.2006
Tham
khảo:
1-Hoàng Thị Kim Cúc, Nghệ thuật nấu món ăn Huế, nxb, Đà Nẵng (1996) 31-32, 40-41
2a- Phong Sơn, Bát canh me đất, trong Hương Sen Huế
- Nhớ Huế 6, nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh (2000)
67-68
2b- Trương Văn Ngọc, Bát canh me đất, trong Người
Huế - Nhớ Huế 7, nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
(2000) 126-127
Oxalis corniculata
3- K. Ishimaru, Distribution of scorbic acid oxidase in
plants, Shokuyô no Kagaku 1 (1946) 77-8
4- V.S. Govindarajan, M. Sreenivasaya, Papyrographic
micromethod for the study of organic acids in plants, Current Sci.
(India) 20 (1951) 43-4
5- R.H. Mathams, A.K. Sutherland , The oxalat content of
some Queensland pasture plants, Queensland J. Agr. Sci. 9 (1952)
317-34
6- K.K. Patnaik, N. Samal, Identification of keto acids
in three different species of Oxalis, Pharmazie 30(3)
(1975) 194
7- Ferritin in the integumentary cells of Oxalis
corniculata, P.Gori, J. Ultrastrut. Res. 60(1)
(1977) 95-8
8- R. Gunasegaran, Flavonoids and anthocyanins of three
Oxalidaceae, Fitoterapia63(1) (1992) 89-90
9- B.B. Lin, Y.S. Lin, K.J. Chen, F.C. Chen, Constituents
of Oxalis corniculata L., Zhonghua Yaoxue Zazhi 44(3)
(1992) 265-7
10- R. Sridhar, G. Lakshminarayana, Lipid classes, fatty
acids, and tocopherols of leaves of six edible plant species, J.
Agric. Food Chem. 41(1) (1993) 61-3
11- B.B. Lin, Y.S. Lin, Selective inhibition activity on
15-lipoxygenase of trans-phytol isolated from Oxalis corniculata L., Chem.
Express8(1) (1993) 21-4
12- M.U. Ahmad, M.A. Hai, M. Sayeduzzaman, T.W. Sam, Chemical
constituents of Oxalis corniculata Linn., J. Bangladesh Chem. Soc. 9(1)
(1996) 13-7
13- Y. Kamata, T. Toyokawa, M. Teruya, T. Ichiba, K.
Kuniyoshi, Antihyperglycemia and antihypertensive agents containing
Okinawan plant products, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
200220821 (2004) 19tr.
Oxalis acetosella
14- E. Jorma, The colorimetric determination of vitamin
C with 2,6-dichlorophenolindophenol, Suomen Kemistilehti 19A (1946)
21-5
15- O.Jansson, Phylloquinone (vitamin K1)
levels in leaves plant species differing in susceptibility to
2,4-dichlorophenoxyacetic acid, Physiol. Plant. 31(4)
(1974) 323-5
16- J. Bednarova, V. Bednar, Calcium, magnesium and
sodium levels in the above ground biomass of some plant populations from the
Tatra National Park, Acta Univ. Palacki Normuc. Fac.
Rerum Nat. 63(Biol.19) (1979) 71-80
Công dụng
17- M. Mizobuchi, Y. Saihara, H. Date, Deodorants for
air conditioning, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 88 42857 (1989)
5tr.
18- M.J. Campbell, Process for flow control using
permeable wood sorrel membranes, Braz. Pedido PI BR 88
04,223 (1980) 30tr.
19- Y.Saihara, H. Date, T. Yamauchi, Deodorizing filters, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 62 45312 (1987) 4tr.
20- M.A. Chernyavskaya, A.S. Belova, Antibacterial
mechanism of hydrogen peroxide preparations, Z. Gesamte Hyg. Ihre
Grenzgeb. 36(2) (1990) 86-8.
26- Canh rau thập toàn
Thà rằng ăn bát cơm
rau,
Còn hơn thịt cá nói
nhau nặng lời.
Ca dao
Một trong những món ăn bình
dân mà cần thiết trong bửa cơm của ta, nhất là khi chưa có thói quen uống bia,
là món canh. Ở Huế có món canh rau thập toàn, các vùng khác ít nghe nói đến.
Món canh nầy đúng tên thập toàn, nói trạnh ra tập tàng, tương đương với thang
thuốc thập toàn đại bổ đã từng thấy trong sử sách. Trên nguyên tắc, món canh
nầy gồm có 10 loại rau: cải cúc, dâu tằm, khoai lang, lá lốt, lá sưng, mồng
tơi, rau má, rau ngót, rau sam, vông nem. Thật ra không khi nào cũng sẵn có tất
cả các rau nầy và bà mẹ Huế tháo vát chế biến với những cây mình có. Với lại
không nhất thiết phải có đủ 10 rau ấy canh mới ngon. Trong cuốn Những
món ăn nấu lối Huế, cô Hoàng Thị Kim Cúc, với lời văn địa phương biết
bao thú vị, chỉ nói đến lá sâng, lá lốt, lá bát lát, lá mồng tơi, thêm vào mướp
ngọt gọt vỏ, măng non xắt lát mỏng (luộc trước cho khỏi đắng) và chỉ cách làm
rất giản dị: "Tôm lột vỏ tao với ớt, hành, tiêu, nước mắm, muối cho vừa,
bỏ măng xào trước, đoạn thêm một muỗng nước ruốc, để sôi vài lần thấm thêm nước
cho nhiều, nấu sôi bỏ các thứ rau vào, bao giờ rau chín sẽ cho mướp ngọt vào
trộn đều nhắc xuống liền " (HTKC). Dễ dàng quá và cam đoan rất ngon miệng.
Mát dịu, giải nhiệt vào lúc hè nóng, nó lại là một môn thuốc bổ
dưỡng, tăng cường sức khỏe, phòng chống bệnh tật. Một món ăn ngon lành và bổ
ích như thế không thể để các nhà khảo cứu dửng dưng. Tuy nhiên, tài liệu về
những cây rau trong món canh rau thập toàn vô cùng phong phú, khó lòng kể hết
được. Trong phạm vi bài viết nầy, lắm khi chỉ xin giới hạn vài ba công tác khảo
cứu trong lãnh vực tác dụng và phải bỏ qua đoạn thành phần, cấu tạo cùng các
hoạt chất.
Cải cúc
Cải cúc hay rau cúc, còn gọi cúc tần ô, đồng hao, thường được trồng
để lấy rau ăn. Mang tên khoa học Chrysanthemum coronarium L.,
nó thuộc họ Cúc Compositae. Anh, Mỹ thường dùng danh từ garland để
chỉ cải cúc; Pháp có tên chrysanthème (des jardins, à
couronne) nhưng thường được hiểu là hoa cúc.
Cũng như tỏi, su, mồng tơi, cải cúc chứa sắt Fe và các ascorbic,
oxalic acid, oxalat còn folat thì nhiều hơn cả ở hành, tỏi, tiêu, cà rốt, dưa
chuột. Đặc biệt vitamin C tích trữ nhiều trong rau già. Rễ cây shungiku (cải
cúc bên Nhật) trao đổi cation, hấp thu Ca nhiều hơn tỏi, mì, cà chua, dưa
chuột. Nhiều hóa chất hữu cơ như hyratol ester đã được xác định, những
spiroacetal cùng các chất nhiều vòng như guaianolid, zuurbergenin đuợc chiết
xuất. Hoa cải cúc chúa glucosid của quercetin, quercetagetin, luteolin,
kaempferol cùng các chlorogenic, isochlorogenic acid, những sesquiterpen lacton
như cumambrin, hydrocumambrin. Đặc biệt, phần chiết từ cải cúc chứa rutin,
gingerol, hexahydrocurcumin, các dicaffeoyl quinic, dicaffeoyl succinyl quinic
acid là những chất phản oxi hóa, có khả năng ức chế những gốc tự do thường phá
hủy cơ thể làm ta chóng già.
Trong kỹ nghệ, nhiều văn bằng sáng chế đã dùng cây ngâm nước rồi
cho điện phân làm thuốc tẩy mùi tanh cá (1), lấy phần chiết hòa
với dầu cây bạch đàn làm thuốc đuổi muỗi (3), chiết xuất anthocyanin
dùng trong thực phẩm và mỹ nghệ (2). Bên ta, cải cúc có tác
dụng thanh nhiệt, đã được dùng để chữa ho cảm, mờ mắt, thổ huyết, chậm tiêu,
nhức đầu thần kinh, uống dưới dạng thuốc pha hay thuốc sắc (ĐTL, BKT).
Dâu tằm
Có khi chỉ gọi ngắn cây dâu, dâu tằm mang tên khoa học Morus
alba Linn. hay M. australis Poir. tức là M.
acidosa Griff, thuộc họ Dâu tằm Moracea, cung cấp nhiều vị
thuốc : lá dâu (tang diệp), cành dâu (tang chi), trái dâu (tang thầm), vỏ rễ
dâu (tang bạch bì), tầm gửi trên cây dâu (tang ký sinh), tổ bọ ngựa trên cây
dâu (tang phiêu tiêu), sâu nằm trong thân cây dâu (ấu trùng một loại xén tóc
gọi là tang đố). Bài nầy chỉ giới thiệu trong phạm vi tang diệp. Âu Mỹ thường
gọi cây dâu mulberry, murier.
Ngoài protein, amin acid, khoáng chất kim loại như Ca, Na, K, P,
Fe, Mg, những hóa chất hữu cơ như keton, aldehyd, amin acid, đường, flavanol,
polysaccharid,… lá dâu đặc biệt chứa các vitamin B, C đồng thời với caroten,
các hormon lột xác sâu bọ như ecysteron, inokosteron, các enzym như superoxid
dismutase kèm theo 4 coenzym. Chính nhờ ở caroten và tocopherol mà phần chiết
dâu vói methanol có tính chất phản oxi hóa. Từ lâu, người ta đã biết lá dâu có
khả năng chống bệnh đái đường. Cũng nhờ ở các chất đường chứa N như
deoxyojirimycin, methyl galacto pyranosyl fagomin, dideoxy imino arabinitol,
calystegin B2 mà phần chiết với nước có hiệu lực lên sự phát
tiết nước miếng và có tác dụng chống tăng đường ở chuột đã bị streptozocin gây
bệnh đái đường.
Đằng khác, phần chiết từ lá có hoạt động estrogenic lớn hơn
xoài, mít, ... Chất kuwanon-I chiết xuất từ lá với ethyl acetat là một thuốc
kháng sinh có tác dụng lên nhiều vi khuẩn, đặc biệt lên Staphylococcus
aureus (4). Còn chất kuwanon-H cũng như morusin hay
morusin-O-glucose thì lại có khả năng kháng : VIH1 in
vitro (5). Nhờ những hoạt chất như arginin, lysin,
histidin, lá dâu là một nguồn thuốc diệt khuẩn (6). Kỹ nghệ đã
có dùng phần chiết trộn với nhân sâm, vitamin E, superoxid dismutase,… làm
thuốc chống già, hay làm kem bảo vệ da chứa amin acid, acid béo không bảo hòa,
lipid phi cực như glycerid, squalen, cholesterol và các ester,... Ở nước ta,
lá dâu thường được sắc uống để chữa sốt, cảm mạo, trừ đờm, cao huyết áp, nôn ra
máu, làm sáng mắt, hay sao vàng tán nhỏ rắc vào mụn nhọt lâu ngày không liền miệng
(ĐTL), chữa ho hen, mất ngủ (VDL, ACCT).
Khoai lang
Khoai lang là một loại rau vô cùng quen thuộc ở nước ta vì giàu
nghèo ai cũng có ăn, lắm khi còn thích thú gặp khoai ngon, bở. Còn gọi phan
chư, cam thự, hồng thự, cam chư, khoai lang mang tên khoa học Ipomoea
batatas (L.) Poir., thuộc họ Bìm bìm Convulaceae. Âu Mỹ
thường gọi nó sweet potato, patate douce.
Đã lâu, người ta đã biết dùng nước hay methanol chiết xuất các
chất kháng sinh có hoạt động kích thích chống những vi khuẩn gram âm và gram
dương, biến khoai lang thành nguồn thuốc quý báu diệt trùng, diệt nấm. Nhiều
loại khoai (I. batatas, I. alba, I. muricata, I. fictulosa) đã đuợc đem
thử chống vi khuẩn gram dương Straphylococcus aureus ATCC
25923 và tuy tác dụng khác nhau, chúng đều có tính chất diệt trùng (7).
Một phần chiết với methanol 70% cho một hoạt động phản oxi hóa nhờ sự đồng vận
của các phenol (những chlorogenic, isochlorogenic, caffeic, caffeoyl quinic
acid) với các amin acid. Dùng một hỗn hợp nước-methanol-chloroform chiết xuất
thì được những glycolipid có khả năng ức chế cuộc tăng sinh những tế bào ung
thư. Dùng nước cũng lấy ra được từ lá một phần chiết có tính chất chống đột
biến. Một văn bằng sáng chế Nhật đề nghị dùng những chất sitosterol, ferulic
acid và các ester của nó, triterpenoid, octacosanol .... trong khoai lang để
làm một thuốc bổ điều hòa huyết áp, đề phòng viêm khớp (8).
Khoai lang cống hiến những chất nhuộm thiên nhiên đồ ăn, chủ yếu
là các caroten từ giống Yamkawa murasaki bên Nhật, chiết xuất
với hexan, hay anthocyanin chiếc xuất với nước. Khoai lang cũng đã được cho lên
men cùng sữa với vi khuẩn da ua làm thành một thức ăn giàu vitamin A và C (19).
Một ứng dụng khác của khoai lang là đem thân và lá ủ kỵ khí ở 370C
để sản xuất methan. Còn củ khoai lang lần lượt xử lý với NaOH và HCl, rồi cho
tác dụng với những enzym loại glucoamylase, amylase, pectinase hay cellulase
thì chế tạo ra ethanol. Cứ 400g khoai tươi thu được 41,6g rượu. Người ta cũng
đã kết hợp hai việc sản xuất methan và rượu, còn cặn bã lên men thì dùng làm phân
bón trồng khoai lang. Ở nước ta, lá khoai lang sắc uống thành thuốc nhuận tràng
khỏi táo bón (ĐTL), bổ tì vị, giúp đi đại tiện dễ dàng (VVC).
Lá lốt
Những sách thuốc Việt Nam thường cho tên khoa học của lá lốt
là Piper lolot C.DC., thuộc họ Hồ tiêu Piperaceae.
Còn gọi tất bát, có tên poivre lolot ở Pháp, bibo bên
Trung Quốc, danh từ P. lolot không tìm thấy trong các sách
thông tin khoa học loại Chemical Abstracts. Trong cuốn Cây
cỏ miền nam Việt Nam có kê P. lolot nhưng không thấy
tên tương đuơng Việt Nam ; trái lại, trước danh từ lốt thì có chua P.
sarmentosum Roxb. ex Hunter, trong khi dây lốt thì được cho là P.
saigonense, còn tiêu lốt là P. longum L. Theo sách Thực
hành dược khoa thì lá lốt là P. longum.
Sau đây là tính chất dược liệu của P. longum và P.
sarmentosum. Bên Ấn Độ, sách Ayurveda (Khoa học đời sống) từ lâu đã
dẫn P. longum trong một hỗn hợp ngừa thai. Ngành mô hóa học đã
chứng minh hoạt động alcalin phosphatase đặc biệt lên nội mạc tử cung thỏ, ngăn
chận không cho trứng đã thụ tinh dính vào (10). Mặt khác,
dầu P. longum có tác dụng lên giun sán, giảm hạ cholesterol ở
chuột, gây phù lên chân chuột trong một cuộc khảo cứu tính chất chống viêm. Nhờ
chất alcaloid piperin, P. longum gia tăng nồng độ các chất
vasicin, spatein trong máu (11). Chất piperin đã được chiết
xuất để dùng trong việc hấp thu đồ ăn vào hệ thống dạ dày-ruột (12).
Bên phần P. sarmentosum thì ngoài khoáng chất,
protein, amin acid, đường, lipid, nó còn chứa một số hóa chất như hydro
cinnamic acid, sitosterol ở lá hay ở trái, asaron, asaron aldehyd, pellitorin,
sammentin, sarmentosin ở trái, đặc biệt ba phenyl propanoid có tính chất diệt
trùng Escherichia coli và Bacillus subtilis :
allyl methoxy-, allyl dimethoxy methylen dioxybenzen và allyl trimethoxy
benzen. Ở nước ta, lá lốt xem có vị cay, mùi thơm, tính ấm, có công năng ôn
trung, tán hàn, hạ khí, chỉ thống (BKT). Người ta lấy nó làm gia vị hay làm
thuốc chống viêm, thấp khớp, tê thấp, đổ mồ hôi tay chân, bệnh đi ngoài lỏng,
dùng dưới dạng sắc uống hay cho ngâm chân tay (ĐTL).
Mồng tơi
Còn gọi lạc quỳ, đằng thái, mồng tơi là một loại dây leo mọc
hoang, thường được trồng vào hàng rào để lấy rau ăn. Nó mang tên khoa học Basella
rubra Linn., thuộc họ Mồng tơi Basellaceae. Trên thế giới,
nó được gọi malabar spinach, malabar nightshade theo danh pháp
Anh Mỹ, alugbati bên Phi Luật Tân hay pui sak ở
Bangladesh.
Toàn cây chứa đựng protein với 13 amin acid, đặc biệt với các
acid béo giàu oleic và linoleic acid ở hột cũng như ở lá. Ngoài polysaccharid,
khoáng chất kim loại như Ca, Fe, Zn(3), lá cống hiến các vitamin A, C, những
carotenoid mà các caroten là những chất tiền vitamin A. Một số hóa chất hữu cơ
khác cũng được tìm ra trong lá: violaxanthin, lutein, tunaxanthin, phytoen,
phytofluen, neoxanthin, cryptoxanthin, xanthoflavin, cùng một loạt acid:
ketoglutaric, levulinic, pyruvic, oxalacetic, succinic, lactic, malonic,
glycolic, oxalic, malic, citric, propionic, acetic, formic, pyroglutanmic acid.
Trái cây đem ép tiết ra những betanidin glycosid, mang những tên gomphrenin hay
isogomphrenin. Đặc biệt, mỗi sắc tố được lấy ra để nhuộm đỏ đồ ăn, thuốc men mỹ
phẩm có tính chất ổn định (14) ngay ở độ nóng (13.
Một văn bằng sánh chế Pháp mô tả hoá chất methoxy methyl phenyl benzo pyranon
cùng các dẫn xuất để dùng trong son môi, phấn xoa mặt, thuốc nhuộm tóc hay vec
ni đánh móng tay (15). Hương vị mồng tơi là do các hóa chất
methoxy propan, hexenol, methoxy phenyl acetat, acetophenon, vinyl guaiacol,
phytol, isophytol, cùng các chất dễ bốc hơi ethyl acetat, benzen heptanon,
hepten, ethyl benzen, xylen, limonen tạo thành.
Rau mồng tơi tuy nấu canh ăn mát, ít được dùng làm thuốc, mặc
dầu sách cổ ghi rau có vị chua, tính hàn, tán nhiệt, hoạt trường. Những người
mắc bệnh đái đường, dư thừa cholesterol-huyết hay bị chứng mập phì, nên ăn rau
mồng tơi (BKT). Có nơi dùng nó chữa trẻ con táo bón, phụ nữ đẻ khó, trái ép
nước chữa đau mắt, nơi khác giã đắp chữa vú sưng nứt, giải độc (ĐTL).
Rau má
Rau má là một cây thuốc thông thường ở nước ta, sách thuốc nào
cũng có nói tới. Còn gọi tích tuyết thảo, liên tiền thảo, nó mang hai tên khoa
học Centella asiatica (L.) Urb. hay Hydrocotyle
asiatica (L.) Urb., thuộc họ Hoa tán Umbelliferae hay Apiaceae.
Người Trung Quốc có tên sanjinpian, người Tích Lan gọi gotukola,
người Bangladesh dùng danh từ thankuni pata (nên sau nầy có
những tên chÃt thankunisid, thankuni acid).
Từ lâu, người ta biết rau má có tác dụng kháng khuẩn, đặc biệt
chống Staphylococcus aureus. Những triterpenoid như
asiaticosid, madecassosid, asiatic asid, madecassic acid là những hoạt chất có
khả năng giảm hạ u hạt. Đặc biệt asiaticosid rất hiệu nghiệm trong việc phòng
chữa phong hủi. Cùng với các glycosid khác như brahmosid, brahminosid, nó còn
có tính chất chống co thắt, chống căng thẳng. Những triterpenoid còn có khả
năng gây chồi trên các mạch trung phôi bì, từ đấy tăng cường sự kết sẹo, xúc
tiến cuộc biểu mô hóa. Còn thankunisid, một triterpenglosid, là một tác nhân
chống sinh sản rất công hiệu trên chuột cái. Với những saponin thì tác dụng
giảm đau có thể so sánh với chlopromazin hay meprobamat, theo cơ chế phát tiết
acetyl cholin trong thần kinh hệ. Hỗn hợp saponin-phospholipid có khả năng
chống viêm, chống phù, cho nên đuợc đưa vào các công thức dược học (18).
Nhờ những amin acid như glutamic, aspartic acid, rau má được dùng làm chất
truyền chuyển thần kinh, ổn định hay kích thích những hoạt động của óc não.
Nhiều văn bằng sáng chế đã lấy phần chiết từ rau má cho vào mỹ phẩm, ngăn ngừa
tóc rụng, kích thích tóc mọc, chữa bệnh ngoài da như loét, chàm, eczema, ngứa
lở hay phục hồi, tái sinh biểu bì (16,17).
Ở nước ta, nhờ tính chất giải nhiệt thông tiểu, rau má đã được
dùng để chữa thổ huyết, tả lỵ, khí hư, bạch đới, lợi sữa (ĐTL), chữa sốt, sởi,
táo bón, vàng da, dắc buốt, thống kinh (VDL), chữa viêm gan, viêm màng ngực,
viêm sinh mũ (LQN, TNĐ), chữa viêm họng, viêm hạch nhân, viêm khí quản (VVC).
Những người bị bệnh đái đường, sũng phù hay đau dạ dày cũng nên uống nước rau
má (BKT). Rau má, ngoài nước vắt, sắc uống, có thể ăn sống, hay phơi khô tán
nhỏ thành bột dễ dùng. Cũng có thể đâm nhuyễn đắp lên mụt nhọt, vết thương bên
ngoài.
Rau ngót
Tên khoa học của rau ngót là Sauropus androgynus (L.)
Merr., thuộc họ Thầu dầu Euphorbiaceae. Có sách cho tên Phyllanthus
elegans Wall., thuộc cùng họ. Còn được gọi chùm ngọt, bò ngót hay bù
ngót, nó thường mọc hoang, có nơi được trồng để hái lá tươi nấu canh.
Lá cây chứa một số khoáng chất kim loại: P, Ca, Mn, Na, Fe,
Cu (4), carbohydrat, protein, thiamin, riboflavin, lipid,
glycolipid mà nhiều nhất là linolenic acid. Trong lá tươi, nhiều sterol đã được
xác định như cholesterol, campesterol, sitostetrol, isofucosterol. Với lá phơi
khô, nghiền bột thì qua sắc ký trên giấy, một số amin acid đã được phát giác :
arginin, aspartic acid, cystein, glutamic acid, glycin, histidin-glycin-HCl,
isoleucin-leucin, methionin, phenyl alanin, serin, threonin, tyrosin,
valin (20) . Người ta cũng đã tìm ra được trong lá rau
ngót caroten, ascorbic acid (21), tocopherol (19),
nghĩa là có đủ các vitamin A, C, E. Các nhà khảo cứu Ấn Độ nhận ra trong lá
cây chekkurmenis (là rau ngót bên nước họ) những chất dinh
dưỡng tăng với tuổi cây và có nhiều ở các lá phía bên hơn là các lá mọc cuối
cành (21).
Tác dụng dược lý của rau ngót chưa được khảo cứu nhiều. Ở nước
ta, ngoài canh rau, lá ngót thường được dùng để chữa sót nhau, hóc xương, tưa
lưỡi (ĐTL), chữa ban sởi, viêm phổi, bí tiểu tiện ; rễ dùng để lợi tiểu, thông
huyết (VDL). Thường lá hay rễ tươi, giã nát, ép vắt lấy nước ngâm, uống. Còn
không thì canh rau ngót cũng có tính bổ dưỡng, mát, lành nên dùng cho người
bệnh mới khỏi, đàn bà mới sanh (BKT).
Rau sam
Còn gọi mã xĩ hiện (machixian của Trung Quốc), tức
là có hình răng ngựa, rau sam mang tên khoa học Portulaca oleraceae Linn.,
thuộc họ Rau sam Portulacaceae. Sách Âu Mỹ mô tả nó qua tên purslane,
poupier. Cây được trồng làm rau ở Âu châu, mọc hoang ở nước ta, quanh nơi
ẩm uớt.
Chứa các vitamin A, C, những chất phản oxi hóa, rau sam được xem
như một nguồn acid béo omega-3, tức là những chất làm giảm hạ cholesterol cũng
như để chữa xơ cứng động mạch. Cho gà ăn rau sam thì trứng đẻ ra cũng chứa
nhiều loại acid ấy. Một số phenol như scoletin, bergapten, isopimpinellin,
lonchocarpic acid, lonchocarpenin, robustin, genistein, genistin đã được chiết
xuất và đem thử về mặt sát trùng, chống viêm. Nhờ có những tính chất ấy mà
người ta dùng rau sam cũng như hành, tiêu, tỏi,… để bảo quản đồ ăn ướp muối,
chống nấm trên các loại cải, bảo vệ da người, chữa chứng hôi miệng, phòng ngừa
bệnh nấm và ỉa chảy ở gia súc, gia cầm.
Ngoài ra, phần chiết từ rau sam có khả năng kích thích sự phát
triển insulin ở tuyến tụy, cải tạo glycogen. Đem thử trên thú vật, nhờ những
chất alcaloid, coumarin, flavon, cardiac và anthroquinon glycosid, dù không có
ảnh hưởng lớn lên mức đường ở máu, phần chiết nầy đã kéo dài được đời sống của
chuột và thỏ bị bệnh đái đường, vì đã điều hòa được sự hỗn độn trong cuộc
chuyển hóa lipid (22). Từ rau sam, người ta đã chế ra được một
loại thuốc uống ức chế kết tụ tiểu cầu, giảm lipid máu (23), hạ
huyết đường, tăng insulin ở chuột (24). Đặc biệt, phần thấm
tách lại có khả năng gây kích thích thần kinh cơ hoành, co thắt trực tràng ở
chuột, dãn duỗi bắp thịt ở gà. Bên ta, rau sam có thể ăn sống hoặc nấu chín,
luộc chấm muối vừng hay trộn với cháo gạo (BKT). Người ta cũng có thể sắc uống
chữa trực trùng, giun kim, làm thuốc lợi tiểu, giã nát đắp mụn nhọt (ĐTL), trị
ung lở, sưng độc (LQL, TNĐ). Rau sam có tác dụng thanh nhiệt, tán huyết, sát
trùng, hoạt trường, chữa huyết nhiệt, đái, ho, kiết lỵ ra máu, táo bón (ĐTL),
đau vú, chốc đầu (VDL).
Cây sưng
Cây sưng (hay sâng, sang, sang láng), nôm na gọi hột sẻn, hay
văn hoa hơn : hoa tiêu (trái cây), hoàng lực (rễ cây), sơn tiêu, xuyên tiêu,
lưỡng diện trâm, lưỡng phử châm. Sưng mang tên khoa học Zanthoxylum
nitidum Roxb., thuộc họ Cam quít Rutaceae, là một cây mọc hoang
miền Bắc nước ta.
Ngoài kim loại như Mn, cây có nhiều alcaloid: nitidin, oxy-,
dihydro nitidin, nhất ở vỏ rễ, oxy- , ethoxy-, methoxy dihydro-, sesmethyl
chelerythrin, skimmianin, isofararidin, allocryptopin. Vỏ cây còn cống hiến
những alcaloid khác ngoài một số đã kể: arnottianamid, isoarnottinamid,
decarin, integriamid, ocyterihanin, magnoflorin; những lignan: asarinin,
sesanin, syringaresinol,; một coumarin: esculetin dimethylether; một sterol: sitosterol. Trong thân cây có hai phenyl propanoid: methyl nitinoat, dihydro
cuspidil và một ligan: nitadanin.
Những alcaloid như ethoxy chelerythrin có khả năng ức chế sự
phát triển tế bào khối u cổ trướng (26). Nếu cả ba nitidin,
chelerthrin, isofararidin ngăn cản topoisomerase phóng thích DNA, chỉ nitidin
ức chế mảnh liệt sự liên hiệp giữa enzym ấy với DNA. Dưới dạng thể chlorid,
nitidin rất hiệu nghiệm khi dùng để chữa bệnh bạch cầu tủy bào mạn tính; cũng
như methoxy dihydro chelerthrin, nó có khả năng gia tăng đời sống của chuột bị
khối u cổ trướng (25). Một văn bằng sáng chế Trung Quốc đã dùng
cây sưng trộn với nhiều cây khác làm thuốc kiêng khem chữa nghiện ngập (27).
Ở nước ta, cây sung được dùng để chữa bụng lạnh đau, thổ tả, giun sán, nhức
răng (ĐTL), nhức xương, phong thấp, cảm mạo, giải độc (LQN, TNĐ), ho hen, nôn
mửa, ỉa chảy, tê bại (VDL). Đặc biệt, rễ cây sắc uống hay ngâm rượu là một môn
thuốc chữa tê thấp, sốt rét kinh niên (ĐTL) ; trái cây cũng sắc hay ngâm rượu
chữa đau răng, giã nát bôi chỗ rắn cắn (VDL).
Vông nem
Còn gọi cây vông hay hải đồng, thích đồng, vông nem thường được
báo cáo qua hai tên khoa học Erythrina indica Lam., thuộc họ
Cánh bướm Papilionaceae, hay Erythrina variegata L.
var. orientalis (L.) Merr. thuộc họ Đậu Fabaceae.
Có những tác giả cho hai tên nầy chỉ định một cây. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ gọi
tắt Erythrina orientalis (L.) Merr. và liệt cây vào họ
Đậu Papilionaceae nhưng cũng có chua thêm tên Erythrina
indica Lamk.
Vông nem chứa anthoxanthin, isococcolin ở hoa, những alcaloid
như erythrin, erysodin, N-methyl orientalin ở lá, erythratidin,
epierythratidin, hydro epierythratidin ở vỏ, warangalon, erycristagallin,
erythrabyssin, phaseollin, phaseolidin, isobavachin ở rễ, erythralin, erysovin
cùng nhiều acid béo: oleic, linoleic, behenic, palmitic, eicosenoic,
arachidic, lignoceric, stearic, docosenoic, hacadecanoic acid ở hột. Phân tích
kỹ, bên cạnh quercetin, cellulose, lipid, sterol, có nhiều nhất là linoleic
acid trong số các acid béo. Vỏ cây cống hiến những sterol: sitosrerol,
campesterol, stigmasterol và citrostadienol, methylen lophenol cùng erysovin,
stachydrin. Rhizobium chiết xuất từ rễ vông nem đã được dùng để sản xuất indoleacetic
acid từ tryptophan.
Ở Á châu, từ Ấn Độ qua Trung Quốc, vỏ cây vông nem thường được
đem làm thuốc se da, tra mắt, chống sốt, sát trùng, chữa bệnh đau gan, làm dịu
bực nhọc, thần kinh căng thẳng. Lá cây được dùng làm thuốc lợi tiểu, làm tăng
hoạt động dạ dày, giảm nhẹ đau nhức khớp xương (30). Dầu chiết
từ cây có khả năng khử nấm, diệt trùng, mạnh hơn cả thuốc penicillin,
streptomicin, đặc biệt chống Echerichia coli (28).
Nhờ những alcaloid, phần chiết ức chế adenositriphosphatase trong màng não chuột (29).
Từ hột, chymotrypsin, chất có khả năng ức chế trypsin, cũng được chiết xuất. Ở
bên ta, lá vông nem được dùng làm thuốc an thần, gây ngủ, giã nhỏ để chữa vết
loét, hơ nóng đáp vào hậu môn chữa trĩ (ĐTL). Lá khô sắc hoặc nấu cao uống chữa
mất ngủ do hồi hộp, lo âu (VDL). Vỏ cây có tác dụng chữa sốt, sát trùng, thông
kinh lạc, dùng chữa lưng gối đau nhức, tê liệt, lở ngứa, thái nhỏ cho vào nước
thành bột nhão đắp lên chỗ rắn cắn hay tán nhỏ rắc vào nơi răng sâu (ĐTL), sắc,
cao thành rượu chữa phong thấp (VDL). Bài thuốc Hải đồng bì tán dùng
vỏ cây chữa chân tay co quắp (THDK).
Nói chung, tất cả các loại rau dùng trong món canh rau thập toàn
đã là những môn thuốc riêng biệt. Chưa thấy có một cuộc khảo cứu nào thực hiện
lên toàn bộ hỗn hợp nên chưa biết được tính chất dược liệu của toàn món canh,
nhất là hiệu ứng đồng vận giữa các thuốc. Dù sao, Đông y đã có một khái niệm
khá rõ ràng về phẩm lượng của nó, ta có thể yên tâm thưởng thức món canh ngon
mát và bổ ích nầy.
Thông tin Khoa học và
Công nghệ 2 1998, khoahoc.net 5.3.2009
Tham
khảo:
Chrysanthemum coronarium (Cải cúc)
1- K.K. Nishiyori, Y. Mori, Detergent compositions, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 60 28,498 (1985) 4 tr.
2- Y. Fuji, Manufacture of anthocyanin pigments by
tissue culture of Chrysanthemum coronarium, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
02 222,691 (1990) 3 tr.
3- J. Li, Y. Liu, Terpenoid-containing
mosquito-repellent cream, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai
Shuomingshu CN 1,059,657 (1995) 5 tr.
Morus alba (Dâu tằm)
4- Zenyaku Kogyo Co., Ltd, Kuwanone I, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 58 43,999 (1983) 5 tr. ; JP 58 150,538 (1985)
5tr.
5- S. Wan, Superoxide dismutase capsules containing
vitamin E and medicinal plant extracts, Faming Zhuanli Shenqing
Gongkai Shuomingshu CN 1,110,178 (1995) 5 tr.
6- A. Tsunemitsu, H. Suido, Antimicrobial compositions
containing arginine, lysine, histidine, bactericides and surfactants,
Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 08 151,324 (1996) 6 tr. ; JP 08 151,325
(1996) 5 tr. ; JP 08 151,326 (1996) 6 tr.
Ipomoea batatas (Khoai lang)
7- B.Q. Guevara et all., Comparative biological and
chemical investigation of locally grown varieties of Ipomoea Linn.
(Convulaceae), NRCP Res. Bull. (2) 38 (1983)
227-305
8- Y. Hashimoto, K. Kawanishi, Health food containing
sweet potato extracts, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 63 283,552
(1988) 3 tr.
9- J.L. Collins, C.B. Ebath, J.M. Mount, F.A. Draughon, B.J.
Demott, Proximate, nutritional and microbiological analysis of
milk-sweet potato mixtures fermented with jogurt bacteria – Production and
evaluation of milk-sweet potato mixtures fermented with yogurt bacteria,
J. Food Sci. (3) 56 (1991) 682-4 ; 685-8
Piper longum, P. sarmentosum (Lá lốt)
10- P.C. Das, Oral contraceptive (long-acting),
Brit. 1,445,599 (1976) 11tr.
11- C.K. Atal, U. Zutshi, P.C. Rao, Scientific evidence
on the role of Ayurvedic herbals on bioavailability of drugs, Ethnopharmacol. (2) 4 (1981)
229-32
12- M. Majeed, V. Badmaev, R. Rajendran, Use of piperine
as bioacailability enhancer, PCT. Int. Appl. WO 96 25,939
(1996) 42 tr.
Basella rubra (Mồng tơi)
13- T. Nishimoto, R. Hiroze, Red-coloring method using
Basella rubra fruit juice, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 03 146,775
(1991) 5tr.
14- Y. Cao, L. Hu, Z. Tang, Q. Ye, Stability of naturel
Basella red pigment, Tianran Chanwu Yanjiu Yu Kaifa (1) 1 (1989)
61-6
15- B. Belcour, R. Martin, G. Hussler, Cosmetic
compositions containing at least one derivative of 5-methoxy-8-methyl-2-phenyl
7H-1-benzopyran-7-one as a coloring material, PCT Int. Appl. WO
94 29,388 (1994) 28 tr.
Centella asiatica, Hydrocotyle asiatica (Rau má)
16- J.N. Thorel, Composition for skin regeneration and
stimulation, Fr Demande FR 2,594,690 (1987) 10 tr.
17- J.N. Thorel, Skin-rejuvenating cosmetic composition
for application around the eyes, Fr Demande FR 2,668,061 (1992)
11 tr.
18- E. Bombardelli, G. Patri, R. Pozzi, Complexes of
saponins and their aglycons with phospholipids and pharmaceutical and cosmetic
compositions containing them, U.S. US 5,166,139 (1992) 3 tr.
Sauropus androgynus (Rau ngót)
19- C. Engel, A.M. de Vries, The tocopherol (vitamin E)
contents of different foods from the Dutch East Indies, Z. Vitaminforsch 18 (1946)
89-90
20- N.N. Satyanarayana, G.R. Rao, Nutritive value of the
leaves of Sauropus androgynus, Food Sci (2) 6 (1957)
29
21- J. Giri, V. Bhuvaneswari, D. Rajeswari, Changes in
the nutritive value of chekkurmenis at different stages of growth,
Indian J. Nutr. Diet (11) 21 (1984) 419-23.
Portulaca oleracea (Rau sam)
22- Zh. Stefanov, I. Ilarionov , D. Kolev, Preliminary
photochemical and pharmacological studies of the relative wild prostrate form
of Portulaca oleracea species, Farmatsiya (3) 16 (1966)
27-32
23- J. Zhou, G. Tian, J. Fu, W. Giao, Y. Zhu, Preparation
of machixian oral liquid, Zhongcaoyao (5) 26 (1995)
239-41
24- E.F. Eskander, J.H. Won, Hypoglycemic and hyperindulinemic
effects of some Egyptian herbs used for the treatment of diabetes mellitus
(type II) in rats, Egypt. J. Pharm. Sci. (1-6) 36 (1995)
331-41
Zanthoxylumnitidum (Cây sưng)
25- Z.H. Huang, Z .H . Li, Studies on the antitumor
constituents of Zanthoxylum nitidum (Roxb.) DC, Hua Hsuen Pao (6) 38 (1980)
535-42
26- M.H. Wang, Isolation of antitumor alkaloids from
Zanthoxylum nitidum and structural study of its alkaloid C, Yao Hsueh
T’ung Bao (2) 16 (1981) 48
27- X. Pan, G. Zhang, C. Liu et all., Pharmaceutical
compositions for treating withdraw from drug additions, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,053,187 (1992) 13 tr.
Erythrina indica, E. variegata (Vông nem)
28- R. Bhale, P.K. Jain, M.M. Bokadia, The in vitro
antimicrobial activity of the fixed oil of Erythrina indica, Indian
Drugs Pharm. Ind. (3) 14 (1979) 39-40
29- Nguyen Xuan Thang, Nguyen Thi Hang, Dang Hanh Phuc, Inhibitory
effect of some traditional hypnotic drugs on adenosinetriphosphatase of rat
brain membranes, Rev. Pharm.(1983) 82-9
30- H. Telikepalli, D.R. Gollapudi, A. Keshavarz-Shokri, L.
Velasquez, R.A. Sandmann, E.A. Veliz, K.V.J. Rao, A.S. Madhavi, L.A.
Mitscher, Isoflavonoids and a cinnamyl phenol from root extracts of
Erythrina variegata, Phytochem. (6) 29 (1990)
2005-7.
27- Chè Huế, trà Tàu
Khát uống trà mai
hương ngọt ngọt,
Giấc nằm hiên nguyệt
gió hiu hiu.
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Tục truyền đức Bồ Đề Lạt Ma,
người Ấn Độ đã du nhập Phật giáo dyana vào Trung Hoa khoảng
520 qua trường phái chan (đầu tiên được gọi chan na),
sau nầy trở nên seon bên Hàn Quốc, zen bên
Nhật Bản, thiền ở Việt Nam, một hôm ngủ gật nhân lúc ngồi định
tâm. Thức giấc, hổ thẹn, ngài cắt hai mí mắt vứt xuống đất. Hai mí nầy mọc rễ,
đâm chồi lớn lên thành một cây lá hình mí mắt mà người đời hái về dùng để giữ
trí óc luôn được tỉnh táo. Mặt khác người ta tin tục uống trà được truyền lại
từ thuở Thần Nông! Sau một loại tên: tu, she, chuan, jia,
ming,... ngày nay nó được gọi cha bên Tàu, cha hay sa bên
Nhật, tchai bên Nga, tea bên Anh, tee bên
Đức, thé bên Pháp,... toàn những chữ đồng âm. Lúc ban đầu,
cách dùng trà có phần rắc rối: lá được ẩm hơi nước, cán nghiền nát, vo thành
viên rồi đem nấu với hành, gừng, cam, sửa và nhiều gia vị khác gọi là bánh
trà hay đoàn trà. Thêm vào bơ, kem sữa, lối ăn nầy hiện còn
được thông dụng bên Tây Tạng. Trên thế giới ngày nay ít thấy có nơi khác dùng
ăn trà như vậy.
Ở Á Châu, trà liên quan mật thiết với Phật giáo. Tăng lữ khi
ngồi thiền "cần tịnh tọa, điều tâm, quán chiếu tự tánh, tiêu từ tạp niệm,
để đạt trạnh thái khinh an, minh tịnh,... Trà lúc thức uống để thần tỉnh não,
xua đuổi ma ngủ..." Từ đấy trong tu viện sinh ra trà đường,
nơi thảo luận, trà cổ, nơi đánh trống chiêu tập tăng ni, trà
đầu, vị tăng coi việc nấu trà (Tảo chữ phàm phu, Triệu Châu:
"uống trà đi", Giác Ngộ số 31, 1999). Dần dần, thú uống trà
rời chùa chiền lan qua cung đình, quan lại, sĩ phu, thương gia. Song song với
Phật giáo, Lão giáo lấy trà làm thuốc trường sinh, góp phần phổ biến tục dùng
trà vào quần chúng.
Bên Trung Quốc, ở thời Khổng Tử đã thấy biết uống nước cây tu,
một loại trà đắng. Bắt đầu từ các thời đại Tam Quốc, Lục Đại, thuật dùng trà
dần dần trở nên thịnh hành. Qua đời Đường, nghệ thuật trà chiếm một chân quang
trọng trong giới uyên bác, bên cạnh văn thơ, hội họa, thư pháp, âm nhạc, võ
thuật,... Trà kinh, cuốn sách đầu tiên thảo luận về trà, đưa tác
giả Lục Vũ lên bậc trà sư đầu tiên, sau nầy còn được tôn
là trà thần (Đỗ Trọng Huề, Trà, lược sử và ý
nghĩa, Bách Khoa số 169, 1964). Cũng vào thời ấy, Lư Đồng viết
bài Trà ca cùng Lục Vũ để tên lại hậu thế trong thế giới trà.
Sau nầy còn ra đời nhiều cuốn khác mà có tiếng nhất là cuốn chuyên khảo xuất
bản đời Tống, Trà luận của vua Huy Tông, lúc nghệ thuật dùng
trà đạt đỉnh tối cao. Đồ gốm uống trà thời ấy còn giữ tiếng vang (John Blofekd, Thé
et Tao).
Nghệ thuật trà theo Phật giáo nhập vào Nhật Bản, từ một thức
uống trở thành một dụng cụ truyền bá trường phái zen. Cũng như ở
những nơi khác, trà đạo thoát khỏi nhà chùa, lấn vào địa hạt
văn hóa, tổng hợp những lý tưởng cao siêu thuộc về đạo giáo, luân lý, mỹ học,
cùng triết lý, kỷ luật, quan hệ xã hội. Tiếp tay các tu sĩ Ikkyu, Murata Shukô
(thế kỷ XV), Takeno Jô-ô (thế kỷ XVI) phát minh một phong cách mới, nghệ
thuật wabi, dùng trà trong một ngôi nhà nhỏ, vẻ khiêm nhường, không
phô trương, kết hợp thiền định và nguyên tắc bình quân của nền dân chủ. Đồ đệ
ông ta, Sen Rikyu, là người khai triển trọn vẹn nghệ thuật nầy, nhận diện trà
đạo với bốn nguyên tằc căn bản hòa hợp, tốn kính, thuần khiết và bình tâm. Hậu
duệ của ông 15 thế hệ sau còn là trà sư có tiếng. Ngày nay,
trong nghi lễ dùng trà Nhật Bản chanoyu, sự kiện cho là đơn giản
pha trà và uống trà chỉ nhắm một mục đích: đạt đến thanh thản tâm hồn, thông
cảm với đồng loại trên thế giới (Soshitu, Vie du thé, vie de l’esprit).
Rửa lòng tục, tỉnh mộng trần
Âu châu chỉ tiếp xúc với trà từ thế kỷ XVII qua Công ty Ấn Độ
thuộc Hòa Lan. Hảng buôn nầy chiếm độc quyền nhập cảng trà vào nước Anh và Mỹ
châu. Bửa dùng trà vào năm giờ chiều, thêm đường, thêm sữa là một tục lệ mà ít
người Anh có thể bỏ qua. Ấm trà samovar giữ nóng suốt ngày bên
Nga nhắc ta nhớ đến om chè luôn đặt trên bếp quê ta. Tuy nhiên ở phương Tây,
cạnh tranh cà phê khá mạnh nên, trừ ở những nước Đông Âu, tập quán dùng trà ít
được phát triển cho đến gần đây, bắt đầu thấy được kêu trong các tiệm cơm Tàu
Việt Thái sau hoặc ngay trong bữa ăn.
Ở Việt Nam, chúng ta thường phân biệt chè xanh và trà tàu. Tuy
nhiên, một hôm ở quận 13, Paris, khi tôi gọi ấm nước trà sau bửa ăn, anh dọn
bàn lễ phép hỏi lại: chè đậu hay hay chè khoai? Không có những đồn điền mênh
mông như ở các nước Ấn Độ, Tích Lan, Nam Dương, thường ở nước ta vườn nào cũng
có vài ba góc chè đủ dùng trong nhà. Lá chè tươi nấu nước sôi là thức uống bình
dân rẻ tiền. Tuy vậy, ngày nay nó đang bị những nước ngọt Pepsi, Cola nhập cảng
hay các các rượu bia đủ loại lấn át. Nhà văn Võ Phiến, cách đây gần 30 năm, đã
luyến tiếc cái om chè Huế ngày xưa: "Bỏ một vốc lá chè khô vào om, đổ
nước vào, nổi lửa lên. Nước sôi, sắp trào ra, thì lập tức chế thêm tí nước lã
vào để trấn nó xuống. Một chốc nó lại sôi lên lại tí nước lã nữa. Ba bốn bận
như thế... Cần phải kiên nhẫn: lửa không nên cháy hỗn quá, nước chế thêm
không nên nhiều quá, mỗi lần chút ít thôi. Có thế chè pha ra bát mới tắt bọt
được" (Hạt bọt trà trong Tùy bút). Bên các
xứ Ma rôc, Tunidi thì người ta cố ý rót thật cao cho có nhiều bọt một loại nước
chè thật nóng, thật ngọt lại rặt mùi bạc hà thơm ngát.
Trà tàu bên ta nếu không dùng theo kiểu Trung Quốc xưa: trảm
mã (trà ủ trong bụng ngựa), trùng diệp (trà ủ trong
ruột sâu chế với búp trà), bạch mai hầu (trà do khỉ lông trắng
hái),... thì các cụ lại ướp hoa (lài, sen, hồng, sói,...) không chỉ để có
trà thơm. "Nhưng đặc biệt nhất thì lại là lấy gạo sen dùng để ướp trà.
Những gia đình nền nếp, dù túng bấn cũng không thế nào dừng được việc này. Việc
này không còn là một sự a dua theo thời, mà đã là một cần dùng về lễ nghi tôn
giáo và cần dùng trong việc xã giao, ngoài cái thú thưởng thức hương vị đặc
biệt của trà sen" (Lê Văn Siêu, Trà ướp sen trong Văn
minh Việt Nam). Dọn trà lại là một nghệ thuật. "Pha cho mình cũng như
pha trà mời khách, cụ Ấm đã để vào đấy bao nhiêu công phu. Những công phu đó đã
trở nên lễ nghi, nếu trong ấm trà pha ngon, người ta chịu nhận thấy một chút
mùi thơ và một tị triết lý và tâm lý" (Nguyễn Tuân, Chén trà trong
sương sớm trong Vang bóng một thời). Thanh hương, hậu
vị, ấm chén chưa đủ để gây cái thú uống chè. "Chè tàu thú vị ở chỗ tính nó
sạch sẽ, hương nó thơm tho. Buổi sớm gió mát, buổi chiều trăng thanh, với bạn
rượu làng thơ cùng làm chủ khách mà ung dung pha ấm chè tàu ra thưởng thức thì
có thể tỉnh được mộng trần, rửa được lòng tục" (Phạm Đình Hỗ, Cách
uống chè trong Vũ trung tùy bút). Ôi, cả một quá khứ biết
bao thanh cao, thuần khiết!
Ngày nay, khi lại thăm nhà ai, vẫn còn có bình trà tiếp khách,
nhưng lễ nghi không quá điếu thuốc, miếng trầu. Thời đại kinh tế, khoa học, ít
thì giờ mà lại cần hiệu lực. Trên thế giới, bốn nước đặc biệt sản xuất số lớn.
Đứng xa hàng đầu là Ấn Độ (mỗi năm 870.000 tấn), theo gót là Trung Quốc
(665.000 tấn), sau đó mới đến Kenya (294.000 tấn), Tích Lan (281.000 tấn) rồi
Nam Dương, Pakistan, Đài Loan,... Số sản xuất thế giới hàng năm xấp xỉ 2
triệu tấn. Ở Ấn Độ, đồn điền trồng trà rải rác khắp nơi và chất lượng trà mỗi
vùng khác nhau, phụ thuộc vào loại đất và khí hậu. Ở Trung Quốc, phần lớn những
tỉnh trồng trà nằm ở miền nam. Bên Kenya, xứ mới trồng trà so với các nước Á
châu, trà có hương vị nồng đậm đặc biệt của miền núi. Tích Lan, nơi được mệnh
danh là "đảo trà", gồm có sáu vùng trà đều ở miền nam. Về mặt tiêu thụ,
ngoài các nước Á Đông dùng nhiều nhưng không có thống kê, nước Anh nhập cảng
nhiều nhất (trung bình mỗi người mỗi năm uống 5kg), theo sau là New Zeland, Gia
Nã Đại,... Được thưởng thức nhiều nhất là trà Ấn Độ, đặc biệt sản xuất ở các
vùng Darjeeling, Jalpaiguri, sau đến trà Tích Lan, Java, Trung Quốc,...
Quốc tế lúc đầu đặt tên cây trà là cây Thea, theo
Linn., thuộc họ Trà Theaceae. Dần dần danh từ Camellia lại
thế vì lá trà giống lá cây hoa trà camelia. Có nhiều loại Camellia
: C. assamica, C. macrophyllia, C. rosea, C. viridis, thông dụng nhất
là C. japonica và C. sinensis. Sách thuốc xưa
đã biết dùng trà để giảm đau, đở mệt, tăng sức, gia cố nghị lực, phục hồi thị
giác. Ngày nay, vì trà được dùng nhiều nơi trên thế giới lại là một nguyên liệu
dễ kiếm, rẻ tiền nên rất nhiều phòng thí nghiệm ở các viện Đại học cũng như ở
các xí nghiệp dược phẩm đổ xô vào khảo cứu và hàng ngàn bản báo cáo hàng năm
chiếm đầy các sách báo khoa học, trước để tìm hiểu tính chất, sau hầu mong phát
hiện được ứng dụng những hoạt chất tiềm tàng đoán biết trong một thức uống rất
thông thường.
Trên thị trường thế giới, trà xuất hiện dưới ba thể: chè tươi
hay trà xanh là trà không lên men, mạt trà (matcha) Nhật Bản, một loại
trà bột dùng trong nghi thức chanoyu, thuộc về thể chè nầy; trà
đen là trả ủ hay ngâm, nước trà màu đậm, hương nồng, nặng mùi tannin; trà ô
long là trà ủ lanh, đặc tính nằm giữa hai thể trà kia. Thường được hái là ngọn
đọt thêm một, hai hay ba lá tùy theo chất lượng trà muốn sản xuất. Cũng có khi
hái thêm bốn hay năm lá nhưng là để chế tạo trà hạng tồi. Lá đưa về được đem
phơi hay sấy khô rồi cho kẹp lăn để chiết xuất tinh dầu. Thao tác nấy bẻ gãy
một số lá, đem sàn chia làm ba loại: lá toàn vẹn dùng làm các trà Orange
Pekoe, Flowery Orange Pekoe, Golden Flowery Orange Pekoe,...; lá gãy một
phần dùng trong các trà Broken Orange Pekoe, Golden Broken Orange Pekoe,...;
và lá nghiền nát thành mụn dành cho các trà Dust, Fannings,... Để ủ, trà được
thêm nước đưa độ ẩm lên 90% và đặt trong môi trường không khí giữ giữa 22 và 280C.
Phản ứng hóa học làm tăng nhiệt độ khối lá. Khi nhiệt độ hạ xuống là lúc cuộc
lên men chấm dứt: chuyên viên có kinh nghiệm biết rõ lúc nào cần cho ngừng
thao tác. Ủ trà cần thiết để gây hương vị trong trà nhưng kéo dài phản ứng thì
có hại cho chất lượng trà. Sau đó, lá được đem sấy ở 800C để hạ độ
ẩm xuống 12%. Trà bây giờ có thể cho vào hộp kim loại chống ẩm, chống ánh sáng,
nhưng trước đó còn phải qua tay một viên giám định kiểm tra màu sắc, hương vị
và ngay cả tính đàn hồi của lá trà khô.
Tính chất, hương vị, chất lượng loại trà là do hơn 200 hóa chất
trong lá chỉ định, qua máy sắc ký, một phần lớn đã được chiết xuất và xác định
cấu trúc. Chúng thuộc đủ loại chức: từ alcan qua alcanal, alcenal, từ acid qua
ester, ceton, oxid, rượu,... đến những phân tử phức tạp hơn như ở trong nhóm
tanin. Hương trà thường được cho là từ các chất hexenal, octadienon, norleucin,... mà ra, mùi hoa hồng từ alanin, phenylalanin, glutamic acid, mùi trái từ
arginin, lysin, mùi rượu từ threonin, còn tyrosin, tryptophan thì cho phảng
phất một mùi thúi, trong khi dimethyl octatrienol cống hiến một hương hoa dịu
ngọt. Trà Darjeeling được thưởng thức nhờ các linalool, linalool oxid, geranol,
haxanoic acid, benzyl alcool, phenylethyl ethanol, geranic acid, hexanoic acid,
dimethyl octadiendiol,... Trà Trung Quốc, từ Vân Nam, Phú Kiến qua Quảng
Đông, Quảng Tây, khác với trà Ấn Độ nhờ có nhiều benzyl alcool, phenylethyl
ethanol. Trà Tích Lan cũng được hưởng ứng nhiều nhờ hai chất chính: methyl
jasmonat có mùi hoa lài, jasmin lacton có mùi trái mơ, trái đào, bên cạnh
dimethyl nonenolid, octanolid, nonanolid, decanolid, hai chất sau nầy có mùi
cần tây, thơm như trái hồ đào kèm theo mùi sữa dịu, phảng phất đằng sau hương
trái cây.
Diệt khuẩn, trị nấm, khử độc
Ở Việt Nam ta, trong số hơn một trăm chất đã được xác định trong
trà, nhiều nhất là pentanal, linalool, phenylcetat và ít nhất là benzaldehyd,
geraniol. Một công tác khảo cứu trên hai loại trà đen và trà sen thì lại tìm ra
được nhiều nhất linalool, linalool oxid, dimethyl octatrienol, dimethyl
pyrazin, ethylformyl pyrrol bên cạnh anethol và dimethoxy benzen. Chất sau nầy
có nhiều nhất trong trà sen. Các hóa chất trong trà thay đổi với tuổi cây trà,
vị trí lá trên cây, thời gian hái lá trong năm, .... cũng như cách xử lý, chế
biến, tích trử trà. Ví dụ khi giữ trà lâu ngày thì số lượng propanal tăng gia
trong khi hexanal giảm hạ. Đặc biệt, trong thời gian lên men, trừ những
aspartic, glutamic acid, glutamin, arginin, threonin, serin, theanin còn nguyên
vẹn, tất cả các amin acid dần dần biến hóa thành những aldehyd tương ứng, góp
phần nâng cao hương vị trà. Đáng để ý là nếu ascorbic acid ngăn chận cuộc biến
hoá nầy, dehydro ascorbic acid có phản ứng ngược lại. Đằng khác, khi đem trà
đốt nóng thì thường thấy hiện ra những chất pyrazin: methyl pyrazin, ba chất
đồng phân dimethyl pyrazin, trimethyl pyrazin.
Màu sắc trà là do những chất thuộc nhóm tannin mà ra. Những chất
sắc thường thấy là những xanthin, theaflavin, theaflagallin,... nhuộm trà đủ
màu hồng, đỏ, nâu,... Đặc biệt, những amin acid như arginin làm tăng màu nâu,
cystein cống hiến màu hồng. Tanin là một hỗn hợp có tính chất bảo vệ gỗ, da,
chống thối rữa, mục nát. Nó cũng có thể gây ung thư ở thực quản. Tỷ lệ trong lá
thường quanh 12-13%, khi lá hái cuối mùa có thể lên đến 18%. Tám chất
polyphenol nổi trội chiếm 40-60mg/g trà (có nhiều trong lá trà non hơn lá trà
già): catech in (C), epicatechin (EC), gallocatechin (GC), epigallocatechin
(EGC) và bốn dẫn xuất gallat của chúng: catechin gallat (CG), epicatechin
gallat (ECG), gallocatechin gallat (GCG) và epigallocatechin gallat (EGCG). Khi
trà lên men, các chất catechin giảm hạ. Khi trà bị đốt nóng, những polyphenol
cũng thay đổi: epicatechin biến thành catechin, epigallocatechin biến thành
gallocatechin,... còn epicatechin gallat, epigallocatechin gallat,... thì
phân hủy ra gallic acid cùng các mảnh hóa chất nhỏ khác. Một thành phần quan
trọng của tanin là tanic acid có tác dụng bóc vãy tế bào biểu mô ở ruột, thoái
hóa tế bào gan, thêm nhiễm ngoài tiểu cầu và ngoài mạch tế bào bạch cầu đơn
nhân thận. Tanic acid trong trà pha là (mg/ml) 55-59 từ lá, 80-95 từ mụn;
trong trà nấu, số lượng lên đến 85-95 từ lá, 102-118 từ bụi trà. Vì tanin có
tính chất hóa học và dược lý có ích nên cuộc chiết xuất nó đã được khảo cứu,
đặc biệt để phân tách các catechin.
Thường người không quen uống trà bị mất ngủ. Thật vậy, trong trà
có cafein, nhiều hơn cả trong cà phê. Nói chung, trà chứa đựng một số alcaloid
dẫn xuất của purin. Ba chất chính của nhóm nầy là ba dẫn xuất của xanthin:
cafein (trimethyl xanthin), theobromin, theophyllin (hai chất đồng phân
dimethyxanthin). Cafein có nhiều nhất (2-4%). Theobromin ít hơn (dưới 0,2%),
thường được chiết xuất từ hột cây Theobroma cacao. Theophyllin còn
ít hơn (khoảng 0,01%) chỉ có ở lá trà. Ngoài nhóm xanthin, còn có adenin,
(aminopurin), guanin (aminohydro purin), xanthin (dihydro purin),... đều dưới
0,01%. Cafein được chiết xuất từ năm 1820 từ hột cà phê (chứ đựng 1-2%) và qua
năm 1885 được nhà hóa học Fisher nhân tạo tổng hợp. Cả ba xanthin đều dược xem
như là những chất kích thích hệ thần kinh. Tác dụng của cafein mạnh nhất: nâng
cao hoạt động não, tăng gia ứng lực trí tuệ, nhưng thời gian hưng phấn thường
có kèm theo một trạng thái suy thoái.
Dùng ít, cafein có tính chất hạ huyết áp, dùng nhiều thì tác
dụng ngược lại. Trong hệ thống tim mạch, theophyllin hiệu nghiệm nhất: tăng
gia biên độ tần số tim đập và tác dụng lên sợi tim. Dùng nhiều, nó có thể thúc
tim đập lanh. Đằng khác, có tính chất thãi duỗi sợi cơ trơn nên nó được dùng để
chữa bệnh suyễn cũng như các chứng thông khí kinh niên, để tháo giải co thắt
phế quản, đồng thời cải tiến sự tuần hoàn động mạch vành. Cả hai theobromin và
theophyllin đều có tác dụng lợi tiểu lớn. Ba chất xanthin đều không độc dù dùng
liều lượng lớn. Tuy vậy, chúng có khả năng gây nôn mửa vì kích thích niêm mạc
dạ dày và nhất là gây mất ngủ. Chúng không gây ra thói quen, nhất là cafein,
thiếu thì sinh ra bực dọc, bồn chồn, nếu không là bị kích thích, nổi cáu. Vì
vậy ngày nay có bán nhiều loại trà bột, khuấy nước uống liền, được khử cafein
hoặc bằng phương pháp tinh lọc, hoặc bằng chiết xuất với dung dịch hữu cơ hay,
theo số lớn những văn bằng sáng chế, với thán khí tới hạn (super critic
carbonic gaz).
Người Âu Mỹ thường uống trà với đường. Thật ra trong trà đã có
fructose, glucose, arabinose, sucrose, maltose, raffinose, stachyose (từ 0,1
đến 0,7 %) dưới thể tự do hay kết thành glycosid với rhamnose, galactose,
xylose, galacturonic, mannuronic acid. Ít được biết là sinh tố trong trà. Bên
cạnh các vitamin C, E, cả một loạt vitamin B đã được xác định: B1,
B2, B3, B5, B8, (tức H), B9 (vài
mg% mỗi thứ) nên trà đã được dùng làm thuốc bổ sức, trương lực. Một tính chất
rất quang trọng của trà là nó có khả năng chống oxi hóa nhờ những chất như
ascorbic acid, tocopherol và nhất là những polyphenol, đặc biệt những catechin.
Một văn bằng dùng nước chiết xuất rồi phân tích qua máy sắc ký lỏng cao áp đã
xác định được phân suất các catechin ấy: trong 12g trà chiết có EC (rất ít),
GC (0,85), EGC(1,44), ECG (1,24), EGCG (4,87g) *. Tác dụng chống oxi hóa tăng
theo thứ tự EC<ECG<EGC<EGCG.
Tính chất dược liệu của trà được thấy rõ ràng nhất là diệt khuẩn
đủ loại, một số gây bệnh trong rau, trái, thức ăn : những Agrobacterium,
Bacillus, Clitidium, Clostridium, Escherichia, Plassiomonas, Porphyromonas,
Pseudomonas, Salmonella, Staphylococcus, Vibrio,…Nhờ vậy, trà chiết được
dùng làm thuốc khử nấm *, chữa dị ứng *, chống đau *, trị viêm *, làm bánh
chống tinh thần bại hoại *, chữa các chứng dương liễu *, tẩm khăn khử trùng *,
khử độc những trùng Vibrio paraha emolyticus, V. cholerae * hay
Clostridium botulinum *. Trà chiết chứa đựng polyphenol được dùng để
chống những loại trùng như Staphylococcus aureus, Clostridium
botulinum kháng cự lại methycillin *, có khi đồng vận với bêta-lactam.
Bên phần thảo mộc, polyphenol xúc tiến cây cỏ chóng mọc *, xua đẩy tạp trùng *,
chống bệnh trùng cầu *, với liều lượng rất nhỏ <100ppm *. Saponin * cũng như
polyphenol còn có tác dụng lên các virus gây cúm *, ỉa chảy *, viêm vị tràng *.
Khử hơi mồm, thơm hơi thở
Trong số các vi khuẩn bị polyphenol diệt có những loại Streptoccocus
mutans là sâu răng, Bacteroides gingigalis gây bệnh
tạo keo, Porphyromonas gingivalis gây viêm khớp răng.
Polyphenol còn tác dụng lên enzym chuyển đường glucotransferase, tăng sức chống
đở acid của men răng đồng thời chống sự cấu tạo mảng răng. Vì vậy trà chiết đã
được cho vào thuốc đánh răng *, chống mảng răng *, hay vào các hỗn hợp làm nước
súc miệng ngừa sâu răng *, chữa răng hư *, chống viêm khớp răng *, khử hơi mồm,
thơm hơi thở *, có khi cho ngay vào thức ăn để phòng ngừa răng hư *. Polyphenol
cũng như saponin có tính chất chống dị ứng, ức chế hyaluronidase, phản vệ trên
da, phóng thích histamin trên tế bào màng ngoài bụng chuột.
Đi vào trong máu, polyphenol, nhất là EGCG cũng như theaflavin
galat, flavol, flavonol, saponin có tính chất chống đông tụ, ức chế sự kết tụ
tiểu cầu * do collagen *, adrenalin hay arachidonic acid * gây ra. Tiềm lực EGC
có thể so sánh với tác dụng của aspirin, còn saponin thì có hiệu lực từ
50mg/kg, kết quả giữa 2 và 24 giờ. Bên phần huyết áp, polyphenol cùng saponin,
apigenin, camellianin có khả năng giảm hạ *, đồng thời ảnh hưởng lên cuộc
chuyển hóa lipid khi thử trên chuột. Những catechin, polysaccharid,
diphenylamin thì lại giảm hạ cholesterol ở dịch tương. Polysaccharid, trọng
lượng phân tử giữa 20.000 và 200.000, gồm có ribose, arabinose, glucose được
phân tách qua phương pháp sắc ký *. Những catechin như C, ECG, EGCG được cho
vào thức ăn, nước uống hay thuốc men *, có thể trộn thêm với linolenic và
eicosapentaenoic acid *. Polyphenol, polysaccharid còn có tính chất ức chế
những enzym loại amylase, lipase *, ức chế tinh bột thoái hóa ra đường *, từ
đấy có khả năng điều hòa đường trong máu *, chống béo *, phòng ngừa bệnh đái
đường *. Một hỗn hợp tan>in-kim loại cũng đã được chế tạo và đem thử chữa
bệnh đái đường trên chuột *.
Một tính chất dược liệu vô cùng quan trọng nữa của trà chiết là
khả năng chống lại ung thư, nhờ những flavanoid như quercetin, kaempferol,
myricetin, các chất thơm như nerolidol, ionon, cadinon, carophyllin, các
polyphenol *. Nhiều cơ quan trong cơ thể súc vật và người đã được đem thử
nghiệm : u khối đã được hoặc tia tử ngoại mặt trời, tia phóng xạ xuất phát từ
các cuộc chữa bệnh hoặc các hoá chất gây ra. Trong số nầy, đứng hàng đầu là
benzopyren đã có sẵn trong trà tuy rất ít trong trà khô (51,5-70,7 µg/kg), còn
ít hơn trong nước trà (<0,01 microg/l). Ngoài ra còn có chất độc đủ loại,
đáng kể là aflatoxin B1, các chất amin (nitroso methyl, nitroso
methyl benzyl, nitroso diethyl), dimethyl hydrazin, methyl dinitro guanidin,…
Kết quả là trà chiết đã ức chế được cuộc phát triển ung thư ở da, phổi**, thực
quản, dạ dày, ruột tá, ruột kết,… Song song với một cuộc khảo cứu về dịch tể
học dễ thực hiện ở vùng có nhiều người uống nước trà, dùng trà chữa bệnh còn
cống hiến nhiều tiện lợi : an toàn, không độc, rẻ tiền, dễ chế biến… Trong lãnh
vực nầy, tuy còn ít, đã thấy vài văn bằng sáng chế * dùng nước * và dung dịch
hữu cơ chiết xuất *, tinh lọc các hoạt chất qua lignocellulose gỗ * gồm có
theaflavin, theaflavin monogalat, theaflavin digalat và các catechin galat vì
thấy ra hoạt động mạnh lớn của polyphenol là do nhóm galat mà lại.
Bên ta có thường lệ đi đôi mời uống trà, hút thuốc lá, có thể
hiểu như không phải là một chuyện tình cờ. Trong thuốc lá đặc biệt có methyl
nitroso amino pyridyl butanon là một chất có khả năng gây ung thư ở phổi mà trà
lại có tính chất khử được chất độc nầy. Vì vật có văn bằng cho trộn trà * hay
cafein * vào thuốc lá. Khói thuốc cũng độc vì có tác dụng oxi hóa trong
microsom gan, tế bào phổi, tăng gia tính lưu tế bào phổi. Polyphenol trong trà
cũng chống được phản ứng nầy nhờ có khả năng ức chế cấu tạo gốc lipid. Bên cạnh
ung thư cũng thấy có vài bản báo cáo dùng polyphenol hay những chất
camelliatanin ngăn cản cuộc sinh sản VIH trong bạch huyết bào.
Bên lề dược phẩm, trà còn được dùng để làm thuốc khử mùi * phun
trong phòng *, giữ được lâu trong bếp *, phòng vệ sinh *, khử mùi tỏi, mùi
thuốc lá *, mùi thối các chất có lưu huỳnh, ammoniac, amin *, formaldehyd *,
làm thơm nước *, dung dịch hữu cơ dầu đốt *, thuốc chùi nhà *, thuốc tẩy da *
dùng cho con trẻ, thuốc nhuộm đồ ăn. Cùng trong lãnh vực, trà được
dùng trong các thuốc gội đầu *, chống ngứa, kích thích tóc mọc, phòng ngừa tóc
bạc *, thuốc nhuộm tóc râm, thay sắc bạc *, thuốc tắm *, thêm enzym loại
pectinase, hemicellulase, amylase chữa viêm da *, xà phòng rữa sạch mùi cá *,
chất tẩy vật liệu bằng gỗ, da, đồ gốm, chất dẻo *. Hơn nữa, nhờ khả năng trừ
khử những gốc tự do tác hại lên tế bào làm cho cơ thể mau hư, chóng già, trà
được dùng trong các mỹ phẩm bảo vệ da **, chống các tia tử ngoại mặt trời *,
các gốc tự do *, thêm vitamin E * ức chế tia tử ngoại oxi hóa dầu mỡ *, ức chế
tyrosnase * của collagen *, bảo vệ mỹ phẩm *, thêm vitamin C làm ổn định dược
phẩm * giữ lâu không hư màu sắc, tính chất *...
Mấy ai trong chúng ta ngày nay uống trà mà ý thức được những ứng
dụng phong phú và lợi ích của một loại cây thường thấy trong vườn, một thức
uống biết bao bình dân ở nước ta cũng như ỏ một phần lớn các nước châu Á. Các
cụ ngày xưa chắc còn kém ta hơn ta trong kiến thức khoa học về cây trà, lá trà,
nhưng các cụ lại biết hơn ta nhiều trong cách thưởng thức trà. Có ai chịu khó
sai người nhà đi xa để xin cho được chút nước giếng chùa về pha nước?
"Biết đâu trong bốn đại dương nước mắt chúng sinh của thế giới ba nghìn,
sau đây lại chẳng có một phần to nước mắt của một ông già năng lên chùa xin
nước ngọt về để uống trà tàu. Mô Phật!" (Nguyễn Tuân, Những
chiếc ấm đất trong Vang bóng một thời). Mà không phải chỉ
vào lúc trà dư tửu hậu!
Thông tin khoa học và
Công nghệ 1(27) 2000, vietsciences Tết Bính
Tuất 2006
Tham khảo:
Tài liệu khảo cứu về cây chè, lá chè về mặt phân tích, cấu tạo
các thành phần cũng như bên phía tính chất, ứng dụng trong dược liệu, mỹ phẩm rất
phong phú. Trong số hàng ngàn bài bao, 500 bản bảo cáo đã được sử dụng làm căn
bản cho bài viết thô sơ nầy, trong số ấy dấu (*) trong bài dẫn 100 văn bằng
sáng chế tiêu biểu trong lĩnh vực ứng dụng: bổ sức, tương lực (4), diệt khuẩn,
khử trùng (21), đánh răng, súc miệng (14), chống béo, đái đường (11), ung thư,
u khối (6), trà trộn thuốc lá (3), gội đầu, nhuộm tóc (25), mỹ phẩm, chống già
(16).
28- Cỏ ngọt thế đường
Vào thời đại này, nhiều thức
ăn đem lại khẩu vị, nhiều chất thuốc gây ra khoái cảm đang bị lên án, hoặc vì
liều dùng quá độ, hoặc vì sử dụng lâu ngày nên phát sinh lệ thuộc, phá hủy sức
khoẻ, lắm khi thật sự chúng đã có tác dụng phần nào lên thần kinh hệ hay các cơ
quan khác trong cơ thể : thuốc lá, cà phê, rượu, muối , và .... đường ! Thật
ra, bốn ngàn năm trước đây người Ai Cập đã thích ăn đồ ngọt trong mật ong, trái
chà là. Trong lăng mộ vua Toutankhamon đã có thấy chất ngọt glycerrhizin phát
xuất từ cây cam thảo. Ngày nay phỏng chừng trên thế giới hàng năm khoảng 100
triệu tấn đường được tiêu thụ. Rẽ tiền, bùi miệng, đường lại rất cần thiết cho
việc phát dục cơ thể. Tuy nhiên, nó cũng có mặt trái. Vì cống hiến nhiều năng
lượng, nó có thể làm cho cơ thể béo phì, lắm khi chẳng phải vì do dùng quá độ.
Trong miệng, các vi khuẩn có thể dùng nó chế tạo ra acid tác dụng lên răng. Vì
vậy, để tránh lên cân, hư răng, cũng như ở các bệnh nhân mắt chứng đái đường,
người ta buộc lòng phải kiêng cử hoặc dùng đường ít lại, kiêng kẹo, kiêng kem,
bỏ chè, bỏ nước ngọt, .... hay tốt hơn, tìm kiếm một chất thay thế. Chất nầy
cốt yếu phải cống hiến năng lượng ít hơn hoặc có độ ngọt lớn để dùng số lượng
nhỏ lại. Dù sao, nó phải thỏa mãn những điều kiện không được phân hủy trong
miệng khi có nước miếng tác dụng vào và nhất là không được biến hóa trong môi
trường acid của dạ dày như đường.
Được chiết xuất từ mía hay củ cải đường, đường là một hóa chất
gọi là saccharose hay sucrose, do hai phân tử glucose và fructose liên kết với
nhau mà tạo thành. Glucose phát xuất từ danh từ Hy Lạp glukos (mềm,
dịu), còn saccharose nguyên gốc là từ chữ phạn çarkara (hột).
Khi Alexandre le Grand đi đánh giặc bên Ba Tư về, ông đã nói đến một "một
cây lau làm mật mà không cần ong !" Thời Trung cổ, mía được trồng ở các
nước Ả Rập, sau mới dần lan qua các nước nhiệt đới. Năm 1747, ông A.S. Markgraf
ở Đức tìm ra saccharose trong củ cải đường, nhưng phải đợi đến lúc lục địa bị
Napoléon I phong tỏa, kỹ nghệ đường từ củ cải mới được phát triển. Nếu fructose
có nhiều trong trái cây (Âu Mỹ gọi trái cây là fruit), glucose hiện
diện trong nhiều thảo mộc, từ trái qua lá, từ nhựa cây qua nhụy hoa, nhiều khi
trùng hợp thành dãy dài như cellulose, chitin, .... đặc biệt trong tinh bột mà
đem thủy phân ở môi trường acid thì phân hủy ra glucose. Vì vậy, muốn tránh
saccharose thì theo nguyên tắc phải tránh nhiều thảo mộc, ngay cả đường chiết
xuất từ các các cây thích (érable) (Gia Nã Đại), dừa cọ (palmier) (Thái Lan),
chà là (datte) (Pakistan), bắp (Hoa Kỳ).
Vì vậy, nhiều phòng thí nghiệp kiếm cách chế tạo những phân tử
không biến hoá trong cơ thể từ nguyên liệu saccharose hay glucide sẵn có. Biết
được cho thêm chlor vào phân tử thì hoá chất càng ngọt hơn, hãng Tate and Lyle
đã cho đăng ký hai văn bằng sáng chế hai chất chloro desoxy saccharose và
trichloro galacto saccharose, ngọt hơn saccharose 650 lần, rất ổn định. Những
phân tử như thio fructose cũng đã được nói đến. Mặt khác, công ty Boise Cascade
Corp. cho tổng hợp các L-glucid (fructose, arabinose, galactose) không biến hóa
trong cơ thể. Họ dùng enzym cho tác dụng lên các đồng vị D-glucid của thú vật.
Phương pháp nầy tương đối đắt tiền nên L-glucid chưa thành thương phẩm mặc dầu
hãng Biospherics đã ghi văn bằng khai thác dưới nhãn hiệu Lev-O-Cal. Cũng dùng
enzym như Streptomyces phaechromogenes, Bracillus coegulans, người
ta chế biến fructose từ glucose. Từ 1963, ở Viện Khảo cứu Bộ Canh nông Nhật
Bản, nhờ dùng một amylase mà fructose được chế tạo từ tinh bột gạo, bắp, mì hay
lúa miến (sorgho). Sau nầy, các enzym của Trichoderma vivide, T.
longibrachiatum, G. Geotrichum candidum còn tác dụng lên cả cellulose
vải bông đem lại fructose. Đặc biệt từ saccharose, những enzym của Strepmyces
phaechromogenes, Bacillus coagulans, Pummularia pullulans đã được dùng
để biến hóa glucose ra fructose và điều chế một xirô fructose, còn gọi là
isoglucose. Các nhà khảo cứu ở Viện Nghiên cứu Canh nông Pháp INRA dùng các
inulase phát xuất từ nấm men như Pichia polymorpha, Debaryomyces
phaffii cho tác dụng lên các chất trùng hợp fructose, gọi là inulin, ở
trong các cây actisô, rau diếp xoăn (chicorée), cúc vú (topinambour), cũng sản
xuất được fructose (3).
Từ chế biến đường với các chất thiên nhiên, các phòng thí nghiệm
mạnh bước qua phương pháp tổng hợp nhân tạo các chất ngọt không biến hóa trong
cơ thể. Chất được điều chế đầu tiên năm 1897 và hiện nay đang còn được dùng là
saccharin. Ngọt gấp 300-400 lần saccharose, ổn định ở môi trường acid nên dùng
được trong nước ngọt, thường dưới thể natri hay calci. Nhược điểm của nó là có
vị chát và kim loại nên ở Hoa Kỳ nó được trộn lẫn với cyclamat trong nước ngọt.
Người ta nghi saccharin có thể gây ung thư vì đã thấy ở bóng đái chuột. Chất
cyclamat nầy, người ta tình cờ phát hiện ra vị ngọt năm 1937; nó chỉ ngọt hơn
saccharose có 30 lần nhưng rất dễ hòa tan trong nước và nhất là không để lại dư
vị trong miệng như saccharin. Nhưng cyclamat lại có thể bị phân hủy ra
cyclohexamin đã từng gây ung thư trong cơ thể chuột nên năm 1969 cơ quan kiểm
ba thức ăn và thuốc men Hoa Kỳ Food and Drug Administration FAD cấm dùng nó, để
cho saccharin mặc sức phát triển trên thị trường với nhiều tỷ USD mỗi năm. Tuy
vậy, qua năm 1977, vì có khả năng gây ung thư trên chuột, đến lượt saccharin
cũng bị đe dọa cấm dùng.
Trong bối cảnh nầy, aspartam ra đời năm 1965, cũng tình cờ khi
J.M. Schlatter tổng hợp chất gastrin ở hãng Searle. Ngày nay người ta chế tạo
nó bằng phương pháp hóa học hay sinh học (dùng enzym của Pseudomonas
putida, Alcaligenes faecalis hay nấm Sporobomyces odorus) ghép
nối phenylalanin vào aspartic acid, nhưng năng suất kém và còn rất
đắc (55 USD/kg) so với saccharin (10 USD/kg). Là một dipeptide, nó ngọt hơn
saccharose 200 lần, lại không để lại chút dư vị nào, nhưng không ổn định ở
nhiệt độ cao, nghĩa là không nấu được với đồ ăn, cũng như phân hủy dần trong
nước, nghĩa là nước ngọt có aspartam không giữ được lâu. Cho trộn aspartam với
saccharin thì hỗn hợp ngọt hơn và ổn định hơn khi hai chất đứng riêng một mình.
Khi aspartam bị phân hủy, nó tách ra làm hai phân tử nguyên gốc aspartic acid
và phenylalanin. Chất sau nầy rất độc cho ai không có một enzym gọi là phenyl
hydroxylase để chuyển hóa nó ra tyrosin (chứng phenylketonuria) cho nên bên Hoa
Kỳ trên nhãn những thức ăn có chứa aspartam bắt buộc phải có ghi rõ (3).
Vừa rồi, cơ quan Ramazzini bên Ý đưa tin aspartam có khả năng gây ung thư nhưng
nhìn kỹ thì chỉ là mới có kết quả trên chuột cái với liều lượng tương đối lớn.
Thị trường aspartam hiện nay lên tới nhiều tỷ USD mỗi năm. Chất ngọt khám phá
sau cùng và có nhiều triển vọng là kali acesulfam, cũng tình cờ mà Clauss và
Jensen ở hãng Hoechst bên Đức tìm ra được năm 1973. Ngọt gấp 200 lần
saccharose, ổn định hơn aspartam ở nhiệt độ cao và môi trường acid, lại cũng rẽ
tiền, nay mai nó sẽ cạnh tranh với cả sacharin lẫn aspartam. Hỗn hợp acesulfam
aspartam vừa nâng cao khẩu vị vừa rất ổn định, chắc rồi đây sẽ được dùng nhiều
khi biết acesulfam chỉ giá có 50 USD/kg.
Ngoài hai lối biến chế từ chất thiên nhiên và nhân tạo tổng hợp,
phương cách thứ ba là tìm kiếm các loài thảo mộc chứa sẵn chất ngọt khác với
saccharose. Chất ngọt thiên nhiên đầu tiên được nói đến năm 1855 nằm trong trái
cây Thaumatococus daniellii (vì người miêu tả đầu tiên là một
bác sĩ phẫu thuật người Anh tên là M.W.F. Daniell), mọc bên xứ Soudan, nhưng
mãi đến 1968 mới thấy xuất hiện trong bản thống kê của Sở Canh nông Hoa Kỳ
trong loại các cây nhiệt đới có khẩu vị bất thường. Năm 1973, Van der Wel (Công
ty Unilever) chiết xuất 5 dạng chất thaumatin, ngọt hơn 5000 lần saccharose và
hãng Tate and Lyle đem bán dưới nhãn hiệu Talin (16.500 USD/kg). Rất ổn định,
các protein nầy để lại vị ngọt hơi lâu trong miệng. Đằng khác vì năng suất sản
xuất kém nên nó không được đưa ra kỹ nghệ. Ngày nay nó chỉ được dùng nhiều bên
Nhật Bản trong đồ ăn, canh cháo qua tên Sun Sweet T1. Để rút ngắn
thời gian vị ngọt lưu lại, người ta thường trộn nó với các amin acid hay acid
hữu cơ (2). Đồng thời với thaumatin, trái của cây Dioscorophyllum
cunminsii cũng cống hiến một protein ngọt, gọi là monellin vì được
hãng Monell Chemical Sences Centre bên Hoa Kỳ chiết xuất năm 1972 song song với
phòng Unilever Research bên Hòa Lan. Ngọt gấp 2500 lần saccharose, chất nầy
không có tương lai vì chất ngọt khó chiết xuất, ít ổn định, cây lại khó trồng,
trái khó trữ (3).
Trước các chất ngọt đủ thứ, thiên nhiên cũng như nhân tạo, cạnh
tranh kinh tế thấy ra không dễ dàng, cây cỏ ngọt trồng ở Việt Nam, còn g†i cÕ
mÆt hay cúc ng†t, sẽ chiếm địa vị nào ? Thật ra, nó không phải là một cây mới
được khám phá, chất ngọt chiết xuất cũng không phải mới được bán ra thị trường.
Ở Paraguay, người ta gọi nó là cây Caá-êhê, Azucá-caá hay Kaá-hê-e. Tên khoa
học của nó lúc ban đầu là Eupatorium rebaudianum vì O. Rebaudi
là người đầu tiên đã nói đến nó. Năm 1899, một nhà thảo mộc người Paraguay,
M.C. Bertoni, xác định nó là cỏ thuộc loại stevia, qua năm 1905 miêu tả rành
mạch và đổi tên nó thành Stevia rebaudiana Bertoni (Hemsl ở
Việt Nam) (11) thuộc họ Cúc Compositae (còn
có tên Asteraceae). Sau đó, P. Rasenack (1908), rồi đến lượt K.
Dieterich (1909) chiết xuất hai chất trong cỏ ngọt : eupatorin (từ chi Eupatorium),
một chất rắn kết tinh tan hòa trong nước và rượu, và ribaudin, một chất khoáng
vô định hình không tan vào dung dịch nào cả (1). Năm 1915, R.
Robert tìm ra được trong cỏ hai chất saponin, một chất trung hòa là eupatorin,
chất kia có tính chất acid. Sau khi Bertoni đề nghị sửa tên eupatorin thành
estevina hay stevin (từ stevia). Liên hiệp Quốc tế Hóa học nhóm ở Copenhague
năm 1924 chỉ định tên steviosid cho chất nầy.
Công trình khảo cứu đầu tiên sâu rộng là do R. Lavielle, trước
với M. Bridel, sau với M. Pommaret, thực hiện năm 1931 (4).
Dùng rượu ở 70 độ, từ một kilô cỏ, họ chiết xuất được 4,5g steviosid và nghiên
cứu những tính chất vật lý, hóa học, sinh lý học của nó. Họ cũng có thử tìm
công thức của steviosid nhưng với những phương tiện phân tích hồi đó, chẳng đạt
được hoàn toàn mục đích tuy biết steviosid gồm có một phần không phải glucosid
liên kết với ba phân tử glucosid. Trong kỳ thế chiến thứ hai, Melville đề nghị
Vườn Bách thảo Hoàng gia Royal Botanic Garden đem trồng stevia bên Anh. Năm
1945, chiến tranh chấm dứt, đến lượt Gattoni muốn thuyết phục Phân khoa Cây
thuốc của Viện Nông học Quốc gia Instituo Agronomico National xứ Paraguay trồng
cỏ nầy ở mức kỹ nghệ để xuất khẩu thay thế saccharin (3). Cả
hai dự án đều không được thực hiện nhưng bắt đầu từ đây cuộc khảo cứu trên cỏ
ngọt được thúc tiến mạnh mẽ. Ở Việt Nam, chất ngọt đã được chiết xuất (9,43%) từ
cỏ trồng ở Lâm Đồng và, nhắm mục đích tăng gia năng suất và chất lượng, Cu2+ đã
được dùng để trồng cỏ ở Bạch Thái (11).
Tuy vậy, phải đợi đến những năm gần đây, với máy móc phân tích
tối tân, hiện đại, người ta mới biết rõ cặn kẽ công thức các hoá chất trong cỏ
ngọt. Ngày nay, ai cũng đồng ý chất ngọt chính trong cỏ là steviosid, ngọt gấp
300 lần saccharose. Bên cạnh steviosid là rebaudiosid, số lượng ít hơn nhưng
ngọt hơn steviosid 1,2-1,5 lần. Cả hai chất nầy đều gồm có một phân tử cơ sở
nối liền với ba hoặc bốn phân tử glucose. Số glucose nầy có thể lớn hơn, cách
liên kết cũng có thể thay thế : dần dần 5 chất rebaudiosid được khám phá ra. Có
khi một phân tử rhamnose thay thế glucose đem lại là 2 chất dulcosid. Nếu
steviosid và ribaudiosid mất tất cả các phân tử steviosid thì chúng trở thành
steviol, và tùy theo các nhóm thay thế, chúng làm thành một nhóm 8 sterebin.
Người ta cũng có tìm ra những chất jhanol (trước kia đã được chiết xuất từ
cây Eupatorium jhanii), austroinulin (hiện diện trong cây Austroeupatorium
inulaefolium) và dẫn xuất của nó. Ngoài ra, tuy số lượng rất nhỏ, các nhà
khảo cứu cũng xác định được trong cỏ cấu tạo của 3 sterol (stigmasterol,
sitosterol, campesterol), 8 flavonoid, bên cạnh cosmosiin và 2 chất dễ bốc
hơi caryophyllen, spathuienol. Đấy là chưa nói đến kim loại, theo thứ tự
nhiều ít : Ca, Mg, Fe, Mn, Sr, Cu, Cr, Cd. Cuộc khảo cứu hoa cỏ ngọt cũng phát
hiện ra được steviosid, rebaudiosid, jhanol, austroinulin và hai dẫn xuất
acetyl của nó.
Về mặt sinh vật học, sự hiện diện của gibberellin A20 trong
cỏ ngọt (một trong số năm gibberellin mà người ta biết) chứng minh steviol có
thể biến hóa thành gibberillin (5). Kỳ lạ nhất có lẽ là việc
khám phá ra trong lá cỏ ngọt hai chất kháng sinh: chúng có tác dụng lên Pseudomonas
aeruginosa và Proteus vulgaris (8). Phần chiết stevia có
tính chất ức chế rotavirus (16), chống vi khuẩn Helicobacter
pylori nên được đề nghị đem dùng trị u khối (17). Phần
chiết hay những hoạt chất của stevia có thể dùng để uống giảm hay chữa viêm tế
bào (26). Những flavonoid trong cỏ (4,57%) có tính chất chống
những vi khuẩn Bacillus subtilus, Staphylococcus aureus, Escherichia
coli (10).Những người bị bệnh đái đường không những có thể
dùng steviosid mà chất nầy còn có khả năng hạ đường trong máu (25),
giảm huyết áp trên chuột (13), trên chó (23) nhÜng
không ch"a lành bŒnh Çái ÇÜ©ng. Cũng ở trên chuột, nó ức chế sự phát triển
ung thư trên da. Cho trộn trong thuốc đánh răng, nó có tác dụng lên vi
khuẩn Streptococcus mutans kết dính lên răng và cấu thành các
mảng răng (18,19,24). Nó đã được dùng làm thuốc kích thích tóc
mọc (12,22), khử dioxin trong đất (20,21). Lá
và cành có tính chất chống histamin nên có thể dùng để kiềm chế những triệu
chứng như ngứa ngáy, đau đớn (14). Lá, cành và rễ cây stevia
được trộn lẫn với nhau làm sợi dệt áo quần, khăn bàn, mùng màng,.... và giấy
chống vi khuẩn (15).
Nói tóm lại, lược đọc các báo chí khoa học, thấy ra cỏ ngọt được
rất nhiều hãng kỹ nghệ, nhiều phòng thí nghiệm kể cả ở Việt Nam, chú ý đến.
Trong khoảng trên dưới 500 bản báo cáo, bên cạnh một số lớn các bài khảo cứu
thuần túy, phân tích và xác định cấu tạo, những năm gần đây còn có một số lớn bàn
về các phương cách chiết xuất, làm tinh khiết, những ứng dụng chất ngọt vào kỹ
nghệ, đặc biệt khoảng một trăm văn bằng sáng chế mà ba phần tư là của Nhật Bản.
Trong số 184 cây stevia đã được khảo sát (9), 18 loại đã cống
hiến chất ngọt nhưng không có loại nào cho chất ngọt nhiều bằng Stevia
ribaudiana. Ngày nay, người ta thường dùng nước để chiết xuất chất ngọt
trong cỏ, nhưng cũng thấy có nhiều trường hợp dùng rượu (methanol, ethanol hay
butanol) pha lẫn với nước. Còn có một phương pháp chiết xuất dùng CO2 lỏng
ở trạng thái siêu tới hạn (supercritic) cống hiến những hoá chất rất ròng sạch
sau khi xử lý khoan quay, ly tâm và nhiều cuộc lọc qua màng lọc, cột trao đổi
ion,… Để loại trừ dư vị, ngoài cách dùng màng lọc nửa thấm (semipermeable),
những phương pháp đề nghị có thể chia làm hai loại : sử dụng hoặc sắc phân hoặc
kim loại, khoáng chất. Cột sắc phân thường là silicagel, amberlite, duolite
zeolite (đủ cỡ), các chất trùng hợp metaphenylenediamin formaldehyd hay styren
divinylbenzyl, .... Kim loại, khoáng chất được dùng là Al, Fe, Ca dưới các thể
oxid, chlorid, sulfat, sulfat, carbonat, thường thấy nhất là calcium
dihydroxid. Năng suất chiết xuất nằm trong vòng 5-7% nhưng cũng có văn bằng đưa
ra số 11-26% (7).
Những năm gần đây, cỏ ngọt được trồng thành cây kỹ nghệ ở các
nước Brazyl, Hàn QuÓc, Đài Loan. Để thử tăng năng suất chất ngọt, đã thấy có
dùng enzym của Aspergillus oryzae biến hoá steviosid ra thành
rebaudiosid A vì chất nầy ngọt hơn (6). Bên Nhật Bản, hãng Toyo
Sugar refining bán một chất ngọt mang tên Stevia, ngọt hơn 150 lần saccharose
với ít nhiều dư vị : chất nầy được dùng trong canh, cháo, xirô, nước chấm. Công
ty Toyo Soda dùng một enzym khác, glycosyl transferase, cho
tác dụng trực tiếp lên stevia và tinh bột đem lại một chất chỉ ngọt hơn 120 lần
saccharose nhưng mất được phần lớn dư vị. Từ 1983, hãng Jefco cho biết đã dùng
một phương pháp chiết xuất rất hiện đại và có hiệu quả để chế biến một chất
ngọt hơn 300 lần saccharose, loại bỏ được mọi bất tiện lúc ban đầu của
steviosid : vị đắng, ít ổn định. Để cạnh tranh với công ty nầy, hãng Tama
Biochemical dùng phương pháp cấy mô để cho tăng số lượng steviosid trong cỏ.
Cũng nên biết thêm ở Viện Đại học Jerusalem, người ta khảo cứu cách thích ứng
cỏ ngọt vào điều kiện nóng nực, thiếu đất, thiếu nước của Israel (3).
Nhìn chung, mặc dầu việc tìm kiếm chất ngọt thay thế đường đang
tiến hành mạnh mẽ, đường mía và củ cải đường vẫn còn được dùng nhiều và khắp
nơi. Nếu có cạnh tranh chăng thì là giữa saccharose và isoglucose (xirô
fructose), nghĩa là giữa kỹ nghệ mía - củ cải đường và kỹ nghệ tinh bột. Các
chất ngọt khác, thuộc về kỹ nghệ dược phẩm, hiện chỉ giữ vai trò thứ ba, chờ
đợi một dịp để tấn công. Trong các chất ngọt nầy đứng đầu là aspartam. Nếu các
hãng chế tạo Nhật Bản chưa kình địch lại nỗi aspartam thì steviosid sợ e rồi
cũng chẳng có đủ sức lên đài đánh vật. Trừ phi chỉ nhắm bán hàng nội địa, các
nhà kinh doanh Việt Nam từng theo dõi tình hình quốc tế chắc đã thấy mọi khó
khăn để xuất cảng một một món hàng thoạt xem tưởng như đầy tương lai hứa hẹn.
Thông tin Khoa học và
Công nghệ 4 1995, khoahoc.net 28.12.2006
Tham
khảo:
1- F. Bell, Stevioside: A unique sweetening agent, Chem.
Ind. 17 (1954) 897
2- J.D. Higginbotham, A la recherche de nouveaux
édulcirants, L’acualité chimique (5) (1980) 21
3- J. Roque, Les édulcorants, Biofutur (3)
(1984) 19
4- M. Bridel, R. Lavielle, M. Pommaret, Le pricipe à
valeur sucrée du Kaá-hê-é (Setevia rebaudiana Bertoni), Bull. Soc.
Chim. Biol. (13) (1931) 636, 781 ; (13) (1976) 1248
5- L.M. Alves, M. Ruddat, The presence of gibberellin A20 in
Stevia rebaudiana and its significance for the biological activity of steviol, Plant
Cell Physiol. (1) 20 (1979) 123
6- N. Kaneda, R. Kasai, K. Yamasaki, O. Tanaka, Chemical
studies on sweet diterpene-glycosides of Stevia rebaudiana : conversioin of
stevioside into rebaudioside A, Chem. Phar. Bull. (9) 25 (1977)
2466
7- R. Kato, Y. Sakaguchi, N. Motoi, Extraction and
purification of stevioside, Japan Kokai 77,136,200 (1977)
6 tr.
8- Koshiro Chujiro Shaten K.K., Stevia components as
sweeting agents as antibiotics, Jpn. Kokai Tokkyo Koho 80
92,323 (1980) 3 tr.
9- D.J. Soejarto, A.D. Kinghorn, N.R. Farnsworth, Potential
sweetening agents of plant origin. III . Organoleptic evaluation of stevia leaf
herbarium samples for sweetness, J. Nat. Prod. (5) 45 (1982)
590
10- Dao Kim Nhung, Le Viet Hong, Biological properties
of flavonoids from Stevia rebaudiana Bert. Tap Chi Duoc Hoc (2)
(1995) 17
11- Nguyen Thanh Hong, Nguyen Thi Minh, Determination
and extraction of sweetener substance from Vietnamese Stevia rebaudiana, Tap
chi Hoa hoc (1) 31 (1993) 39 ; Nguyen Van Ty, Influence
of theconcentration of copper sulfate solution on some physicobiochemical
parameters and yield capacity of Stevia rebaudinana Hemsl. Planted on hill land
in Bac Thai province, Tap Chi Duoc Hoc (7) (1996) 28
12- E. Takeoka, C. Hamada, O. Suzuki, M. Tajima, Hair
growth period extended agent, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
10265347 (1998) 12 tr.
13- P. Chan, D.E. Xu, J.C. Liu , Y.J. Chen, B. Tomlinson, W.P.
Huang, J.T. Cheng, The effect of stevioside on blood pressure and
plasma catecholamines in spontaneously hypertensive rats, Life
Sci. (19) 63 (1998) 1679
14- M. Sato, M. Takeuchi, N. Sato, Antihistaminic
substance of stevia origin, U.S. US 5958419(1999) 7 tr
15- K. Saito, M. Date, S. Ogawa, Antibacterial stavia
paper manufactured by pulping pulverized stevia with alkali solutions and
forming paper from the pulp and antibacterial stevia fibers therefrom
andmanufacture thereof, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
2000290890 (2000)7 tr.
16- K. Takahashi, S. Shigeta, N. Sato, Stevia extracts
for the inhibition of rotavirus, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
2001106635 (2001) 3 tr.
17- K. Takahashi, S. Shigeta, N. Sato, Stevia rebaudiana
Bertoni extraction as antibacterials against Helicobacter pylori, Jpn.
Kokai Tokkyo Koho JP 2001122793 (2001) 4 tr.
18- S. Sugiyama, N. Doi, S. Ejiri, Y. Ishii, Dentifrices
containing apatite and polymers, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP
2001131041 (2001) 8 tr ; JP 2001131042 (2001) 11 tr.
19- Y. Suzuki, T. Yokoo, Liquid dentifrice compositions
containing cationic bactericides, polyoxyethylene alkyl ethers, and cationic
polymers, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2001139433 (2001) 8
tr.
20- B.E. Kim, M.K. Kim, K.T. Kim, R.W. Chang, J.W. Jong, Y.G.
Kim, Study on the degradation of dioxin by the Stevia extract, Organohalogen
Comp.54 (Dioxin 2001) 251
21- Y.G. Kim, A method for preparing dioxin decomposers
from Stevia, a dioxin decomposer prepared by the method and a method for
decomposing dioxins using it, PCT Int. Appl. WO 2001040495
(2001) 27 tr.
22- H. Takada, K. Teraoka, B.H. Kim, Hair growth
stimulants containing Stevia and Udo extracts, Jpn. Kokai Tokkyo
Koho JP 2003040790 (2003) 5 tr.
23- J.C. Liu, P.K. Kao, P. Chan, Y.H. Hsu, C.C. Hoi, G.S. Lien,
M.H. Hsieh, Y.J. Cheng, J.T. Cheng, Mechanism of the antihypertensive
effect of stevioside in anesthetized dogs, Pharmacol. (1) 67 (2003)
14
24- H. Hanada, H. Senpuku, M. Arakawa, T. Ishizaki, S.
Sakuma, Dental drug delivery system agents containing hydroxyapatite,
and control of cariogenic bacteria using them, Jpn. Kokai Tokkyo
Koho JP 2004035416 (2004) 18 tr.
25- S. Gregersen, P.B. Jeppesen, J.J. Holst, K. Hermansen, Antihyperglycemic
effects of stevioside in type diabetic subjets, Metab., Clin.
Exp. (1)53 (2004) 73
26- B. Bogicevic, Oral application of extract of Stevia
rebaudiana or its active substances for the elimination of cellulite, Pct
Int. Appl. WO 29005048973 (2005).
29- Cỏ xương bồ trên bờ sông Hương
Cỏ
thơm có giống thạch xương bồ
Sanh ở hai nguồn Tả Hữu Trạch
Hơi thơm dầm nước, nước trong
veo
Hợp thành sông thơm chảy róc
rách....
Vân Bình Tôn Thất Lương
Một áng văn hay của Hoàng Phủ
Ngọc Tường, một bản nhạc gây nhiều cảm xúc của Trần Hữu Pháp, cả hai mang tựa
đề: "Ai đã đặt tên cho dòng sông?". Tôi không đi tìm tác giả tên
sông mà chỉ muốn biết vì sao Hương Giang là tên con sông xứ Huế. Mỗi lần có
người hỏi, tôi hết sức lúng túng và khỏi để nín thinh, phải kể chuyện thần
thoại nàng cung nữ lỡ tay đánh rơi chai thuốc thơm xuống nước; hay vì quá yêu
con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bên bờ đã nấu nước trăm loài
đổ xuống lòng sông để làm nước thơm tho mãi mãi (2). Người hỏi
lẽ tất nhiên là biết tôi bí câu trả lời. Gần đây, sau một buổi nói chuyện về
Huế, một anh bạn làm khoa học đòi hỏi một lời giải thích có sức thuyết phục
hơn. Từ đấy tôi lục lọi sách báo thử tìm một chi tiết dẫn đường vào hương thơm
của con sông dịu ngọt một thời tuổi trẻ của tôi.
"Cỏ thơm có giống thạch xương bồ". A ra
thế! Câu thơ đầu bài Hương Giang hành của cụ Vân Bình là chìa
khóa mở cửa bước vào thế giới hương thơm ấy. Chắc còn có nhiều cây cỏ khác trên
bờ và trong lòng sông cũng cống hiến mùi thơm. Trong khi chờ đợi các nhà thảo
mộc xác định các loài cây ấy, ta tạm khảo sát những hóa chất trong thân, lá, rễ
cây xương bồ, còn được gọi bồ bồ, bồ hoàng (ACCT). Người Hàn QuÓc có tên changpo,
Nhật Bản shyobu (nên sau nầy có tên chất shyobunon),
còn Âu Mỹ thường gọi sweet flag. Thật ra có hai giống xương bồ:
thạch xương bồ hay ngoại xương bồ (tiên xương bồ, can xương bồ, cửu tiết xương
bồ (1)), mang tên khoa học Acorus gramineus Soland.
và thủy xương bồ Acorus calamus Linn. thuộc họ Ráy Araceae.
Còn có nhiều loại Acorus khác: A. latifolius, A. macrorrhiza, A.
macrospadicus, A. xiangyeus, đặc biệt A. tatarinowii thành
phần cấu tạo rất giống A. calamus không đề cập đến trong bài
nầy. Bề ngoài, hai loại xương bồ gần giống nhau, thủy xương bồ tương đối to và
cao hơn. Thạch xương bồ có thân rễ mọc ngang, lá mọc đứng, dài từ 30 đến 50 cm,
rộng từ 2 đến 6 mm. Lá thủy xương bồ có thể dài đến 150 cm, rộng 30 cm. Chúng
mọc hoang ở những miền núi, nơi chỗ mát, thường xen lẫn với hốc đá ở các khe
suối, ghềnh thác.
Đông y biết dùng xương bồ từ lâu. Thường người ta thu hái vào
mùa thu, cắt bỏ lá và rễ con, rửa sạch, phơi khô. Là một vị cay, tính ôn, vào
hai kinh tâm và can, xương bồ có tác dụng tẩy uế, khai khiếu, tuyên khí, trục
đờm, chữa thần kinh suy nhược, kém tiêu hóa, thông cửu khiếu, sáng tai mắt, ôn
tràng vị, trị phong hàn tê thấp. Trên thực tế, xương bồ được dùng làm thuốc bổ,
bổ dạ dày, giúp sự tiêu hóa, điều hoà nhịp tim cũng như chữa tai ù, hay quên,
mệt mỏi, mụt nhọt lâu liền, hậu bối, ngoài chuyện dùng nó làm thuốc trừ sâu bọ,
chống chấy rận (ĐTL). Đằng khác, căn hành sắc lấy nước có thể dùng để kích
thích, bổ dưỡng, điều trị bệnh đau dạ dày, những tai biến của bệnh lậu giọt,
nhai nuốt để trị bệnh đầy bụng, chứng khan tiếng, dùng nó thì tai lắng được
tinh thêm, mắt trông được rõ thêm. Có nơi dùng làm thuốc thông tiểu tiện, điều
kinh nguyệt, trị kiết lỵ, khích động tình dục (1).
Thạch xương bồ
Âu Mỹ và đặc biệt Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc đã có khảo cứu về
thạch xương bồ. Cây nhà lá vườn, xin kể trước công trình của các nhà khảo cứu
Việt Nam (3). Hai chất chính được tìm ra là asaron và shyobunon
bên cạnh myrcen, camphor và methyl isoeugenol. Công thức asaron là trimethyl
propenyl benzen : dấu nối đôi hiến hai chất đồng phân quang học alfa-asaron và
bêta-asaron còn gọi isoasaron ; đằng khác, dấu nấu đôi có thể thay chỗ,
đem lại thêm một chất đồng phân hình học: trimethoxy allyl benzen. Trong tinh
dầu thạch xương bồ còn có gramenon, bisasaricin, cũng gọi acoradin. Dùng phương
pháp mao sắc phân kết hợp vói máy phổ ký, một công trình phân tích loại xương
bồ mọc ở Guiyang bên Trung Quốc xác định được 39/43 hoá chất trong ấy ngoài
bêta-asaron và shyobunon có tetramethyl chromanon và isopropenyl dimethyl
bicyclo decaon. Cũng nên biết thêm là thân và rễ cỏ còn chứa nhiều kim loại,
khoáng chất : Sr, Zn, Cu Ni, Fe, Mn, Ti, Cr, Pb, Ca và K.
Nếu thạch xương bồ có mùi hương thì chắc là do asaron mà ra. Ở
Ấn Độ, để có mùi hương nầy, người ta chưng lá cây hoắc hương patchouli (tên
khoa học Pogostemon cablin (Blanco) Benth.). Thật ra, asaron
có nhiều hơn trong thủy xương bồ nên thường người ta chiết nó từ cỏ nầy. Cỏ
được dùng làm chất thơm cho các rượu Vermouth, Dantzig hay mấy thứ rượu thơm
của các dòng Bénédictins, Trappistes (1). Hàn Quốc có thứ rượu
Pyunsan Palsun làm với gạo lên men và nước sắc thạch xương bồ cùng một số cỏ
khác (5). Nước sắc ấy có thể cho cô lại làm thức uống giảm
nhiệt khi bị đau tim, gan, dạ dày (7), thuốc chống béo (8,15),
chữa các chứng đau ngực, đau vai (6). Bên ta sách Đạo
tạng kinh coi xương bồ là thuốc tiên : ngâm nước vo gạo, sấy hay phơi
khô, uống vào thì tiêu cơm, trừ đàm, lâu ngày xương tủy đầy, đẹp người, đen
tóc, răng rụng lại mọc ! (ĐTL). Những năm sau nầy, thạch xương bồ thường được
kê trong các văn bằng sáng chế vì nó có rất nhiều tính chất dược liệu hay ho.
Hoạt động phản oxi hóa đưa nó vào các liều thuốc bổ, thuốc chống già, những
thuốc bôi bảo vệ da, bổ dưỡng tóc. Nó được trộn với nhiều cỏ khác làm thuốc
viên chữa tim mạch (12), hư não (9), đau
xương (14), đau mắt (4), khó tiêu (11),
thiếu máu (13), mất ngủ (10). Nhờ bêta-asaron,
nó có tính chất khử nấm tác nhân gây bệnh loại Magnaporthe grisea,
Colletotrichum orbiculare hay Nilaparvata lugens, Plutella
xylostella. Riêng bêta-asaron được dùng để bảo vệ hột bắp chống Prostephanus
truncatus Horn rất hiệu nghiệm. Cả hai đồng phân asaron đều có tính
chất sát trùng, nồng độ tối thiểu gây chết cho đợt hai ấu trùng Toxocara
canis ở chó là 1 ,2 mM. Đồng thời, nó cũng là một chất phá hoại các
tuyến sinh dục nên được đề nghị dùng làm tác nhân kiểm tra sâu bọ. Nhiều văn
bằng sáng chế dùng tinh dầu với liều lượng nhỏ trong các công thức dược học
phòng ngừa chứng mạch vành hay chữa bệnh trị cúm ở gia cầm.
Thủy xương bồ
Vì thủy xương bồ được dùng để chiết xuất asaron nên trước đây
người ta khảo sát cỏ nầy nhiều hơn, từ đấy thành phần hóa học cùng ứng dụng
cũng được biết rõ ràng hơn. Cứ 100 g cỏ khô thì chiết xuất được 3,84-6,16 ml
tinh dầu, 0,62-0,93% tanin ở rễ; 0,39-1,02 ml tinh dầu, 1,36-2,18% tanin ở lá; vitamin C thì ở rễ chỉ có 2,40-3,99 %, ở lá có nhiều hơn 18,7-57,7 %. Đường
trong thân và rễ cỏ nhiều nhất là fructose rồi đến glucose, có ít maltose. Amin
acid gồm có nhiều thứ: nhiều nhất là oleic, linoleic, palmitic, palmitoic, sau
đến arachidic, myristic acid tương đối ít. Ở rễ cỏ, ngoài protein, amin acid có
nhiều nhất là tryptophan, người ta còn đo carbohydrat, độ ẩm, chất béo và tro
cùng các khoáng chất, kim loại như Ca, Fe. Về các hóa chất hữu cơ, một công tác
phát hiện được 243 thành phần dễ bốc hơi. Ngoài asaron là chất có nhiều nhất,
đã được tìm ra shyobunon, isoshybunon, acolamon, isoacolamon, acoragermacron,
calamendiol, isocalamendiol, preisocalamendiol. Những chất nầy có thể biến hóa
từ một phân tử nguyên lai giả định theo một sơ đồ phát sinh sinh vật học với
acoragermacron làm chất trung gian.
|->shyobunon + epishyobunon -> isoshyobunon
Farnesyl pyrophosphat
-> acoragermacron -> acolamon + isoacolamon
|->preisocalemendiol -> camamendiol + isocalamendiol
Đồng dạng với asaron có một vài chất chỉ khác nhau ở dãy bên:
asarylaldehyd hay trimethoxy benzaldehyd, acoramon hay trimethoxy phenyl
aceton, trimethoxy phenyl propenal bên cạnh acoradin hay bisasaricin đã thấy ở
thạch xương bồ, ethyl methyl trimethoxy indan có thể tổng hợp từ asaron. Nếu
vận dụng ở áp lực cao thì chiết xuất được những chất đắng ít ổn định là acoron,
isoacoron. Dùng ethanol thì được ba chất tatarin đều có thể dùng trong cuộc
chữa trị bệnh Alzheimer (23). Ngoài ra, còn có một số chất đã
thấy trong các cây cỏ khác: dimethoxy benzoquinon, galangin, sitosterol, isoeugenol
methyl ether, epoxy isoacora germacron, calamenon hay calamen sesquiterpinol,
cadalatrien. Sau cùng, một chất khá quan trọng được tìm ra trong lá, đặc biệt
trong tanin và tinh dầu là một enzym mang tên chalcon synthetase mà nhiệm vụ là
xúc tác việc chế tạo chalcon, hóa chất trung gian trong cuộc tổng hợp sinh học
flavonoid và isoflavonoid. Tác dụng và công dụng của tinh dầu chiết xuất từ
thủy xương bồ trước tiên là tác dụng và công dụng của asaron, đặc biệt của
bêta-asaron đã thấy.
Thuốc xương bồ
Như thạch xương bồ, thủy xương bồ cũng có tính chất phản oxi hóa
nên được dùng làm thuốc bổ (27). Tinh dầu của thủy xương bồ có
khả năng ức chế sự tiết của dạ dày, đồng thời bảo vệ niêm mạc tá tràng chống
mọi thương tổn do buộc thắc môn vị hay thuốc chữa viêm, cao huyết áp gây ra.
Cho thử lên chuột, người ta thấy nó có tác dụng chống gây loét do những nguyên
do vừa kể nên được đề nghị dùng chữa trị các bệnh ở dạ dày (21).
Đông y đã có sử dụng tính chất ấy và cũng đã thấy thủy xương bồ có tác dụng dự
phòng, điều hòa nhịp tim, sát khuẩn, kích thích đối với da (ĐTL). Một loạt văn
bằng sáng chế dùng tinh dầu hay dùng ngay lá cho trộn với những cây khác hoặc
hóa chất để làm nước tắm, có khả năng làm thấm nước da, hoặc để gội tóc, bảo
dưỡng da đầu, kích thích tóc mọc, giảm hạ thành gầu, tăng gia hoạt động tiêu
mỡ (19), điều hòa máu (25,28), phòng ngừa béo
phì (24). Thủy xương bồ đuợc ủ cùng một số cây khác thành rượu
mùi (18). Chất thơm của cỏ được dùng trong nhiều loại hỗn hợp
bảo vệ sức khỏe có thể vận dụng trong nhà, lọc sạch khí quyển, trong thuốc đánh
răng có khả năng kích thích quá trình trao đổi ở các tổ chức khớp răng (16).
Cỏ còn được dùng trong thuốc chống cao huyết áp (22, 24), chữa
bệnh Sida theo y học Ayurvedic (17). Rễ cỏ đem sắc rồi trộn với
thuốc mê được dùng làm dự phòng viêm ổ răng sau giải phẩu (20).
Phần chiết cỏ được trộn với nicotin và carragenan, calcium citrat và nước thành
một thứ kẹo nhai có mùi thuốc hay cho rải lên lá thuốc làm thuốc hút bổ sức.
Trong lãnh vực canh nông, dầu thủy xương bồ có tính chất diệt những trùng Sitophilus
oryzae, Callosobruchus chinensis. Trộn với sầu đâu Azadirechta
indica, cỏ ngừa ăn và ngăn chận sự trưởng thành của sâu đục trái Earias
vitella. Có tính chất diệt vi khuẩn như Toxocara vitulorum ở
trâu, bò, cỏ được dùng chữa giun sán (26), để làm thuốc chữa
trị chứng đầy hơi và bệnh ỉa chảy ở thú vật. Trộn với ngải cứu, nó là một chất
phân tốt đem lại chất bổ cho cây đồng thời hấp thu ion kim loại nặng.
Nói tóm lại, xương bồ không chỉ cống hiến hương thơm cho dòng
sông Hương mà còn là những vị thuốc cho Đông y và Tây dược, những chất cần
thiết cho canh nông. Nếu Đông y biết dùng cây cỏ từ lâu, sắc uống để trị bá
chứng, Tây dược thường phải phân tích thân, lá, rễ cây, xác định các hoạt chất
rồi từ đấy mới làm thành thuốc. Trong trường hợp xương bồ, phần lớn ứng dụng
phát xuất từ tinh dầu chiết xuất bằng cồn (methanol, ethanol) hay hexan với
hoạt chất chính là asaron. Tuy nhiên cũng nên cần biết asaron có khả năng gây
ung thư nên trong thuốc men cần phải giảm hạ liều lượng chất ấy. Cần chăng nhắn
những người dùng các thuốc gội tóc bảo vệ da đầu nên yên tâm vì tỷ lệ xương bồ
rất nhỏ trong các thuốc ấy nên tính chất gây ung thư không đáng kể. Có lẽ trong
Đông y thuốc sắc từ lá cũng vậy.
Bây giờ chỉ còn trông đợi công trình xác định các cây cỏ khác
trên bờ và trong nước sông Hương của các nhà thảo mộc để tiếp tục tìm kiếm các
chất thơm đã đặt tên cho dòng sông, không ngoài mục đích "gởi gắm vào đấy
tất cả ước vọng muốn cái Đẹp và tiếng Thơm để xây đắp văn hóa và lịch sử" (2).
Thông tin Khoa học và
Công nghệ 1 (1990)
Tham khảo:
1- Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha Văn hóa,
Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn (1960) 224-6, dẫn sách Pételot, Les
plantes médicinales de l’Indochine
2- Hoàng Phủ Ngọc Tường, Huế, di tích và con người,
nxb Thuận Hóa, Huế (1995) 49
Acorus gramineus
3- Phạm Xuân Sinh, Nguyễn Thị Tam, Chemical composition
of Acorus gramineus var. variegatus Hort, Tạp chí Dược học (5-6)
(1987) 22-3
4- T. Mihara, Compositions containing asarones extracted
from plants for prevention and improvement of vision disorders, Jpn
Kokai Tokkyo Koho JP 10324636 (1998) 10 tr.
5- S.H. Kim, I.S. Kim, H.J. Choi, Preparation method of
pyunsan palsun liquor, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR
2000025268 (2000)
6- S.K. Shin, Chinese medicinal drink and Chinese pill
composition for treatment of chest-ache, schoulder-ache and heart-disease, and
manufacturing process thereof, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR
2000033287 (2001)
7- S.K. Shin, Drink composition for removing pimple and
making method thereof, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR
2001017481 (2001)
8- Y.S. Cho, Y.H. Cho, M.G. Han, Tea composition for
inhibition obesity including medicinal herbs, Repub. Korean Kongkae
Taeho Kongbo KR 2001088728 (2001)
9- J.H. Baek, H.C. Kim, S.Y. Kim, Y.O. Kim, Y.S. Kim, G.H. Lim,
G.H. Suk, Acorus gramineus rhizoma extract having neuroprotective
action and pharmaceutical formulation containing the same, Repub.
Korean Kongkae Taeho Kongbo KR 2002087721 (2002)
10- D.Wu, D. Niu, Medical composition of melatonin and
"Yizhi" Chinese patent medicine, Faming Zhuanli Shenqing
Gongkai Shuomingshu CN 1408378 (2003) 9 tr.
11- Y. Mao, Method for preparing compounded
"Chenxiang" gastric dispersible tablet, Faming Zhuanli
Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1456216 (2003) 5 tr.
12- J. Zou, Chinese patent medicine for treating
cardiovascular diseases, its formulation and quality control, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1460509 (2003) 10 tr.
13- J. Zou, Chinese patent medicine for benifiting Qi,
enriching the blood, keeping the heart in good shape, and relieving uneasiness
of body and mind, its preparation and quality control, Faming Zhuanli
Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1460510 (2004) 11 tr.
14- Z. Li, J. Zhao, "Fengshi Gubing Ke"
medical composition for treating rheumatic bone diseases, Faming Zhuanli
Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1466980 (2004) 5 tr
15- Y.S. Yoon, S.H. Kim, C.K. Han, W. Choi, H.J. Hyo, G.J. Im,
Y.H. Kim, D.S. Kum, W.J. Kwak, Anti-obesity ingredients from medicinal
plants and their composition, PCT Int. Appl. WO 2004058284
(2004)
Acorus calamus
16- N.A. Konstantinov, G.P. Kakhomov, I.M. Tuna, Tooth
paste, USSR(1978)353
17- S. Khanna, A process of preparing anti-AIDS
Ayurvedic pharmaceutical compositions, Indian IN 179810
(1977) 21 tr.
18- P. Schwarz, Bitter liqueur, Patentschrift
(Switz) CH 644,630 (1984) 2 tr.
19- V.B. Nekrasova, V.E. Kovalev, N.B. Koroleva, A.P.
Komissarova, Z.Ya. Zalem, O.M. Burylina, O.S. Rozhdestvenskaya, V.G.
Mar’yandysheva, Hair care preparation, USSR SU 1,152,590
(1985)
20- A.K.A. Chowdhury, A.T. Ara, M.F. Hashim, M. Ahmed, A
new phenyl propane derivative from Acorus calamus, Pharmazie (10) 48 (1993)
786-7
21- S. Rafatullah, M. Tariq, J.S. Mossa, M.A. Al-Yahya, M.S.
Al-Said, M.S. Ageel, Antisecretory, antiulcer and cytoprotective
properties of Acorus calamus in rats, Fitoterapia, (1) 65 (1994)
19-23
22- T. Zhan, Additives for cigarette, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,092,958 (1995) 4 tr.
23- A. Lao, X. Tang, H. Wang, M. Wang, Extraction of
tatarines A, B and C from Acorus calamus for therapeutic use, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1220260 (1999) 15 tr.
24- E.S. Kim, Processed meat products preventing obesity
and having flavor, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KR
2002069592 (2002)
25- R. Govindarajan, A.K. Agnihotri, S. Khatoon, A.K.S. Ajay, S.
Mehrotra, Pharmacognostical evaluation ofan antioxidant plant – Acorus
calamus Linn., Nat. Prod. Sci. (4) 9 (2003)
264-9
26- L.J. McGaw, A.K. Jager, J. van Staden, Isolation of b-asarone, an
antibacterial and anthelmintic compound, from Acorus calamus from South Africa, South African J. Botany (1) 68 (2002) 31-5
27- C. Sun, A healthful Chinese traditional medicinal
preparation optimizing the brain, PCT Int. Appl. WO 2003059367
(2003) 23 tr.
28- Gerent Biotech. Co, Taiwan, Herb composition for
avoidance and/or treatment of conditions in connection with depression, Ger.
Gebrauchmusterschrift DE 202004018534 (2005) 22 tr.
30- Độc tính của thuốc lá
Nhớ ai như nhớ thuốc lào,
Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.
Ca dao
Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.
Ca dao





































.jpg)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét