Thứ Tư, 3 tháng 12, 2025

Giây bí rợ

Giây bí rợ

Chương I
Nghỉ hè rồi, ông Bảy nhứt định không cho cô Thanh đi học nữa sao, ông Bảy?
Ông già lắc đầu:
- Dạ, năm nay tôi yếu lắm, cậu Hai à, phải để cháu ở nhà lo việc nhà, chớ học hành sao được nữa. Mời cậu Hai ngồi chơi.
Ông già gọi xuống bếp:
- Thanh!
Từ nhà bếp, tiếng một thiếu nữ dịu dàng đáp:
- Dạ.
- Nấu nước pha trà, nghe con? Có cậu Hai đến chơi.
- Dạ.
Cậu Hai là con trai của thầy Cai-Tổng... Cậu đi học trên Saigon, về nghỉ hè từ hôm chúa nhựt. Cậu nói với thầy Cai-Tổng cũng như với mọi người trong làng là cậu học để thi Tú-tài, nhưng sự thật thì cậu chỉ học ba lăng nhăng, chẳng có thi cử gì ráo.
Dĩ nhiên, nhà cậu giàu, giàu nhất trong làng, và thầy Cai-Tổng có thế lực lớn ở trong vùng này. Về ruộng nghỉ hè, cậu Hai diện y phục xa hoa như ở Saigon. Đầu chải láng mướt, thơm sắc mùi nước hoa, giày đen đánh thật bóng, cậu mặc quần áo Tây may bằng hàng ăng-lê có sọc, đeo cà vật đỏ lòm, miệng ngậm ống điếu dài bằng bạc cắm một điếu thuốc thơm Huê-kỳ, tay cầm mot cây can và một cái hộp tròn, lớn, thật đẹp, không ai biết là đựng gì.
Từ hôm ở Saigon về, ngày nào cậu Hai cũng lân la đến nhà ông Bảy. Ông này coi ruộng cho thầy Cai-Tổng, được thầy Cai thương vì ông thật thà, dễ bảo. Cậu Hai đến nhà ông, chỉ có một mục đích là tán tỉnh cô Thanh.
Thanh 19 tuổi. Về nhan sắc, ai cũng công nhận rằng cô đẹp nhất trong làng và cả trong quận. Lên học trên tỉnh, cô cũng được tiếng là một nữ sinh đẹp nhất trường. Cô Thanh không dự thi sắc đẹp bao giờ, nhưng đám thanh niên ở tỉnh đồng thanh tôn cô là "Hoa-hậu". Chị em bán hàng ngoài chợ thầm thì khen cô "ngộ" lắm. Bọn công tử công tôn ca tụng cô là "mùi". Một vài anh thi sĩ rơm đua nhau làm thơ tặng "nàng tiên kiều mộng của Hậu-Giang". Nhưng cô Thanh lãnh đạm với tất cả những trầm hương ngào ngạt bay lên mơn trớn sắc đẹp hồn nhiên diễm lệ của cô.
Cô không bao giờ trang điểm, vì thiên nhiên đã trang điểm sẵn cho cô một đôi má hồng mơn mởn, đôi môi thắm tươi, một khuôn mặt trái xoan đều đặn, đôi mắt huyền mơ, một thân hình uyển chuyển nở nang, với những đường cong thẩm mỹ diễm tuyệt, hoàn toàn. Nhưng cô Thanh rất giản dị. Nghèo, cô phục sức theo con gái nhà nghèo, rất bình thường khiêm tốn.
Kỳ nghỉ hè năm 1949, bắt đầu câu chuyện này, cô Thanh đã học đến năm thứ ba Cao-đẳng Tiểu-học, chỉ còn một năm nữa đi thi lấy bằng Thành-chung. Nhưng vì má cô vừa mất, ba cô ốm yếu, nhà cô đã nghèo lại gặp hoàn cảnh đau khổ như thế, cô đành thôi học để ở nhà phụng dưỡng cha già.
Cô không buồn rầu chán nản. Rất hiền lành và dịu dàng, cô quả quyết từ giã học đường mà cô tha thiết bao nhiêu, để trở về với đồng áng ruộng nương, cũng vui vẻ chuyên cần bấy nhiêu.
Mấy lần trước, cậu Hai đã đến gạ gẫm cô Thanh mãi không được. Quen với mấy cô gái lẳng lơ chuyên làm tiền cậu ở Saigon, cậu tưởng đâu với vẻ mặt trai tơ và y phục bảnh bao của cậu, cậu có thể quyến rũ được cô Thanh dễ dàng. Nhưng mấy lần nhận thấy cô gái nhà nghèo này không thiết tha niềm nở với cậu, cậu lại càng cố công đeo đuổi.
Cậu đê mê nhìn cô Thanh đứng pha trà nơi bàn. Cô rót ra hai chén, một chén cô bưng hai tay đưa ông Bảy:
- Mời Ba dùng trà.
Một chén cô đặt trước mặt khách.
- Mời cậu Hai.
Xong cô trở xuống bếp liền. Nhưng cậu Hai gọi lại:
- Cô Thanh ơi!
Thanh dừng bước quày lại:
- Dạ.
- Tôi mới nói với ông Bảy nên để cô tiếp tục học sau kỳ nghỉ hè này. Cô thông minh học giỏi, mà cô thôi học uổng quá cô Thanh à!
Duyên dáng và tự nhiên, cô đáp:
- Cám ơn cậu Hai, nhưng vì hoàn cảnh gia đình, tôi không thể đi học được nữa.
- Tôi mới nói với ông Bảy nên bán cái nhà lá này đi cho rồi. Ông với cô qua ở bên nhà Ba Má tôi, có hai căn phòng bỏ trống bên ấy. Ba Má tôi bằng lòng cấp dưỡng cho cô một số tiền ăn học để sang năm cô đi thi.
- Xin cám ơn thầy Cai-Tổng với cậu Hai có lòng tốt. Nhưng tôi không muốn đi học nữa.
- Cô không muốn đi học nữa thì cô ở nhà giúp việc với Má tôi. Nè cô Thanh à..., tôi muốn nói thiệt với cô câu này... Cô đẹp lắm... Tôi yêu cô lắm...
Nghe giọng nói si tình của anh chàng công tử nhà giàu, và nhận thấy cái nhìn thèm thuồng bộc lộ của chàng, cô Thanh đã đoán hiểu ý chàng muốn nói gì. Cô hơi ngượng, nhưng cô nghiêm nét mặt lại chờ anh chàng nói cho hết câu.
Cậu Hai miệng đưa duyên, mắt đưa tình, phà khói thuốc có vẻ tự đắc:
- Cô Thanh à... Tôi đã nói với Ba Má tôi, Ba Má tôi cũng bằng lòng cho tôi đến nói chuyện với ông Bảy... Từ nãy giờ trong khi cô nấu nước ở dưới bếp, tôi đã thưa rõ với ông Bảy... Ông Bảy bảo chuyện ấy tùy cô... Chắc cô hiểu tôi muốn nói chuyện gì rồi chớ?
- Thưa cậu Hai, tôi đâu có hiểu chuyện gì?
Chàng công tử cười ha hả, tưởng cô Thanh còn quá ngây thơ. Nhưng vẻ mặt nghiêm trang của cô càng khiến cậu say mê:
- Nếu cô Thanh bằng lòng... thì tôi...
Thanh ngắt lời liền:
- Xin lỗi cậu Hai, tôi không biết chuyện chi hết, và xin phép cậu để tôi đi sắc thuốc cho Ba tôi.
- Chút nữa cô Thanh đi cũng được mà. Nè tôi hỏi cô Thanh vậy chớ cô thích có nhà lầu ở Saigon không? Cô thích có xe hơi Huê-kỳ không? Cô thích đeo hột xoàn không? Chắc cô thích lắm chớ hả? Đàn bà con gái ai mà không thích sống cuộc đời giàu sang, và lấy chồng giàu sang, phải không cô Thanh nhỉ?
Thanh đáp với nụ cười lạnh lẽo:
- Với tôi thì không phải thế đâu, cậu Hai à.
- Hừ! Cô Thanh nói chơi đó chớ. Nhứt định một cô gái đẹp, tuyệt đẹp, như cô thì phải ở nhà lầu, đi xe hơi, đeo hột xoàn mới xứng đáng chớ!
- Cậu Hai nghĩ lầm đó!
- Tôi không lầm đâu cô Thanh. Ông Bảy với bà Bảy chắc kiếp trước là Tiên cho nên mới sanh ra cô đẹp như nàng Tiên vậy. Ba má tôi biết tôi mê sắc đẹp của cô nên bằng lòng cho tôi đi hỏi cô về làm vợ... Nếu cô nhận lời, Ba má sẽ tậu cho chúng mình nhà lầu, xe hơi, hột xoàn, đủ các thứ, muốn gì được nấy. Tên tôi là Ngọc, cô biết chớ? Cô nhớ rằng Ngọc là con một của Ba má. Ba má cưng tôi như hòn ngọc vậy đó. Cô ừ một tiếng thì hòn ngọc này về tay cô Thanh liền! Cô Thanh ừ đi, cô Thanh!
Thanh lắc đầu:
- Không!
- Vậy mà không chớ, chèng-đéc ơi! Chắc là cô Thanh muốn thử thách tôi chớ gì?
- Cậu Hai à, xin lỗi cậu, cậu đừng nói chuyện ấy với tôi nữa.
- Cô muốn tôi nói chuyện yêu đương tình tứ hơn nữa sao? Tôi nghe người ta đồn rằng cô Thanh thích làm thơ lắm, và mấy đứa bạn của tôi có cho tôi coi vài bài thơ lưu bút của cô thiệt là du dương mơ mộng. Tôi rất tiếc rằng tôi thì dốt thơ, nhưng cô Thanh nè... cô coi đây nè...
Cậu Hai đặt cái hộp thật đẹp trên bàn, hộp tròn mà cậu vẫn ôm mãi trong tay từ nãy giờ. Cậu mở nắp hộp, lấy ra một chiếc kiềng vàng, hai đôi xuyến, hai chiếc cà rá nạm ngọc lựu lý đỏ như màu hột lựu, một đôi bông hột xoàn và một nắm hột xoàn lóng lánh trong tay cậu. Cậu nở nụ cười đắc chí:
- Thơ và mộng của tôi đó, cô Thanh kiều diễm à! Bữa nay tôi đem tới để tặng hết cô đó!
Thanh lạnh lùng đáp:
- Cám ơn cậu. Nhưng tôi không nhận.
Cậu Hai trố mắt, nửa giận nửa đùa:
- Cô muốn nhiều hơn nữa sao?
Thanh phì cười mai mỉa:
- Chớ bấy nhiêu đó, cậu tưởng nhiều lắm sao?
Cậu Hai bầm mặt, gượng cười:
- Cô muốn bao nhiêu nữa? Cô cứ nói đi, tôi vui lòng chìu theo ý cô.
Thanh nghiêm mặt:
- Không phải đâu cậu Hai à, tôi nói chơi đấy, chớ cậu khinh tôi quá. Không phải với bấy nhiêu ngọc vàng châu báu mà cậu tưởng mua được cái nghèo của chúng tôi! Cậu có lòng tốt thương tới Ba tôi và tôi, tôi rất cám ơn. Nhưng tôi cũng xin cậu để chúng tôi ở yên trong cảnh cơ hàn này. Nơi đây chúng tôi cũng tìm được đời sống êm vui như bất cứ ở hoàn cảnh nào khác vậy.
- Cô Thanh, tôi đến dâng cô một giấc mộng vàng, một cuộc đời vàng, cô không muốn! Cô muốn tôi phải ép buộc cô sao? Chính là cô khinh tôi đó!
- Cậu Hai không cần nói nhiều. Tôi đâu có dám khinh cậu. Nhưng sanh ra thân phận nghèo nàn, tôi thích sống trong cảnh nghèo nàn. Cậu tưởng đem giây xích kim cương để trói buộc được tôi sao?
Cậu Hai cưới gằn, đứng dậy:
- Ừ được, giây xích kim cương không trói buộc được cô, thì sẽ có giây xích sắt mà cô Thanh! Nói chơi vậy thôi, chớ không sớm thì muộn cô cũng phải lấy tôi! Cô nhớ Ba tôi làm Cai-Tổng có quyền thế ở đây, nghe!
Thanh chỉ cười, không trả lời.
Cậu Hai quay lại ông Bảy:
- Ba tôi mời ông Bảy qua nhà Ba tôi nói chuyện. Ông đi bây giờ với tôi.
Cô Thanh bỏ đi xuống bếp, trong lúc Ba cô lui cui tìm đôi guốc mòn nhét dưới kẹt tủ.
Nhà vắng vẻ, Thanh ngồi một mình trước đống củi khô vừa nhúm trong bếp, lửa cháy đỏ phừng. Bỗng hai ngấn lệ lặng lẽ ứa trào trên mí mắt cô...
*
- Sao Thanh khóc vậy Thanh?
Thanh ngước mắt lên, nhoẻn một nụ cười dịu dàng còn đẫm lệ:
- Anh Đồng!
Thanh lau nước mắt, chưa trả lời được. Đồng hỏi tiếp:
- Thanh nhứt định thôi học thiệt sao?
- Dạ.
- Tiếc quá!... Nhưng hoàn cảnh của tôi cũng không khác gì Thanh. Có lẽ tôi cũng phải thôi học, Thanh à.
- Anh tiếp tục học nữa được, và anh nên tiếp tục thì hơn. Anh còn hai bác và có anh Hai chị Hai đỡ đần công chuyện nhà. Năm nay anh đã đỗ Thành-chung, anh chỉ ráng hai năm nữa là thi Tú-tài.
- Gia đình tôi cũng nghèo, đâu có đủ tiền cho tôi học ban tú-tài!
Hai người im lặng, buồn bã nhìn ngọn lửa cháy vèo vèo trong bếp.
Đồng là một thanh niên tuấn tú trong làng và cũng bị lâm cảnh nghèo nàn như Thanh. Cha mẹ và anh chị của cậu cũng làm tá điền cho thầy Cai-tổng. Đồng học trên Thanh một lớp, vừa thi đỗ. Cậu cũng lớn hơn Thanh một tuổi. Đôi bạn trẻ ở cùng làng, lên tỉnh học cùng trường, có nhiều tương thân tương đắc, nên rất quý mến nhau trong việc học hỏi và khi túng thiếu bạc tiền. Chúa nhựt và ngày lễ, đôi bạn tự nhiên không hẹn mà thường gặp nhau để nói chuyện học hành, bài vở, chuyện các thầy giáo cô giáo và bạn bè trong trường. Ngoài ra, những vấn đề hiện tại về thanh niên với Quốc-gia, lịch sử anh dũng của nước Việt-Nam, cuộc tranh đấu của Tổ-quốc độc-lập, là những đề tài sôi nổi để cho đôi bạn trẻ bàn luận say mê và thông cảm cùng nhau, gắn bó thiết tha êm đềm trong tư tưởng.
Những cặp trai tài gái sắc này chưa bao giờ nói đến chuyện yêu đương mơ mộng. Đồng và Thanh là đôi bạn tâm phúc, chưa phải đôi bạn tâm tình. Thấy Thanh không hề cợt nhã với ai, không thân mật với người bạn trai nào khác, đối với tất cả mọi người, Thanh luôn luôn dịu dàng nhã nhặn mà vẫn giữ một mực đứng đắn nghiêm trang, Đồng rất mến phục Thanh. Thanh cũng tỏ với Đồng một cảm tình quý mến nồng nàn như vậy.
Nghe Thanh nhứt định từ nay thôi học, ở nhà làm công việc đồng áng, Đồng xót xa đau đớn lắm. Cậu đến chia buồn:
- Thanh thôi học, chắc tôi cũng thôi học luôn.
Thanh ngửng mặt lên, thấy người bạn trai rưng rưng nước mắt. Cô xao xuyến trong lòng, nói đôi lời đề dấu nỗi cảm động của mình:
- Em thích làm cô gái quê thôi, anh ạ... Còn anh... Anh nên cố gắng... Tương lai của anh còn nhiều hứa hẹn...
- Tôi không nghĩ cho tôi đâu Thanh à. Tôi chỉ lo cho Thanh thôi.
- Em có bổn phận phụng dưỡng cha già. Em sẽ vui sướng được làm tròn bổn phận ấy.
- Tôi biết Thanh có can đảm. Nhưng một nữ sinh lỗi lạc như Thanh, chỉ vì nghèo mà đành phải bỏ dở việc học hành, thật là đau đớn!
- Biết sao bây giờ? Hoàn cảnh của em đã như thế, đành như thế vậy!
- Thôi, chào Thanh! Tôi ghé thăm Thanh, định bàn với Thanh một chuyện... nhưng mai chúng ta sẽ gặp nhau lâu hơn.
- Anh vội về thế?
- Tôi còn phải đi mượn đôi dóng để sáng sớm mai đi gánh phân với anh Hai tôi.
Thanh đứng dậy tiễn Đồng ra đến cửa. Nhưng cô không dám ngó thẳng vào đôi mắt của Đồng: đôi mắt buồn mơ đang ứa lệ...
Đêm ấy, Thanh trằn trọc trên chiếc chõng tre lòng băn khoăn với hình ảnh của người bạn trai quý mến, cùng chung ý tưởng, cùng chung cảnh ngộ. Lần đầu tiên trong đời thiếu nữ, Thanh cảm thấy tim cô hồi hộp đê mê với ám ảnh êm đềm của một chàng trai trẻ. Ám ảnh dịu dàng thay và kỳ dị thay! Thanh tự hỏi có phải là tình yêu đó chăng? Sao tự nhiên Thanh yêu Đồng? Sao tự nhiên Thanh đã biết yêu? Với tuổi ngây thơ trong trắng, Thanh tưởng tượng một cặp trai gái phải có nói với nhau những lời tình tự, hoặc có thư từ qua lại, có hẹn hò với nhau thì mới yêu nhau được. Chớ Đồng và Thanh chưa giải bày một lời tâm sự, chưa có trao đổi một câu tâm tình, sao bỗng dưng chiều nay cô cảm thấy hình như cô đã yêu Đồng? Chiều nay Đồng đến thăm cô như bao nhiêu lần trước, những lạ thay, lần này cô nghe như con tim cô xao xuyến mở cửa đón chàng... Cô thấy trong tâm hồn cô đã lọt vào một tia sáng huyền mơ êm dịu...
Tình yêu rạo rực đã đến đêm nay trong lòng cô thiếu nữ. Không chờ đợi, không hẹn hò, nó đã đến, êm ả, đê mê, dập dìu như cánh mộng.
Đây là giây phút đẹp đẽ nhứt trong đời cô. Người bạn học nghèo nàn kia có vẻ uy nghiêm tráng lệ như vị Sứ thần của duyên kiếp, đem đến cô một mùi hương bát ngát, một diễm phúc say mê không bờ bến.
Thanh âm thầm sung sướng. Cô mắc cở, muốn nhắm riết mắt lại, tưởng rằng như thế cô không còn thấy hình ảnh của Đồng trong tịch mich đêm khuya. Nhưng Đồng vẫn hiện ra trong tâm tư, với nét mặt buồn rầu, với hai ngấn lệ long lanh trên gò má...
Thanh chợt nhớ lúc chiều cậu Hai, con ông Cai-Tổng, đem đến cho cô bao nhiêu là vàng ngọc châu báu mà cô không nhận. Đồng chỉ đem đến tặng cô hai ngấn lệ, lòng cô bỗng dưng say sưa đón lấy. Lòng cô bây giờ như ngọn sóng thủy triều tràn ngập cả không gian!...
Chương II
Trời vừa rạng đông, Thanh dậy sớm đi cuốc khoai lan cho một nhà điền chủ, cậu ruột của cô. Ông cậu, thì ai cũng biết tiếng, là Michel Cảnh trước kia làm Côm-mi ở Dinh Thống Soái, lên chức huyện hàm. Vì bịnh đau mắt phải mổ mắt một con, ông xin nghỉ việc về quê, hưởng cảnh giàu có nhờ chức vị đã tạo lập nên.
Lúc cô Thanh hãy còn bé, thấy Thanh là đứa cháu xinh đẹp và thông minh, ông cũng có lòng thương. Nhưng Ba Má cô Thanh nghèo khổ rách rưới nên ông không muốn lai vãng. Ngay từ lúc má cô Thanh còn sống, không bao giờ ông huyện Cảnh quá bộ đến thăm em và thăm cháu. Suốt trong thời gian cô Thanh đi học, nhờ ba má cô dành dụm chút ít tiền, và cô Thanh rất tằn tiện, học không tốn kém bao nhiêu, nên cô gắng học đến năm thứ ba ban Thành-chung. Chớ ông Huyện Cảnh không hề có giúp đỡ cô được đồng nào. Nghe tin cô Thanh bỏ học, ông Huyện lại còn nói với nhiều người trong làng:
- Phải chớ! Nhà nó nghèo mà nó muốn bay nhảy như người ta sao nổi! Con gái một chủ giữ ruộng mà ham làm cô giáo với cô đốc!
Sự thật là vì ông Cậu quý hóa kia cũng có một cô con gái học trên Sài-Gòn, nhưng học kém lắm. Cô chỉ ham đọc tiểu thuyết nhảm và nhảy đầm, chẳng thiết tha gì đến văn chương thi cử hết. Rốt cuộc quý nữ tên là cô Lịch, biệt hiệu là Hồng-Lan, đã 20 tuổi, học ba bốn năm trong nhiều trường tư thục Sài-Gòn, mà chưa nên thân phận gì.
Michel Cảnh thấy con gái của mình hư hỏng như thế, ông ganh ghét đứa cháu ruột, không muốn nó hơn con mình. Cho nên lâu nay ông Huyện không hề tỏ tình cậu cháu gì với cô Thanh hết, chỉ vì Thanh có hai cái tội: nghèo và học giỏi hơn Hồng-Lan. Vừa rồi, ông tử tế nhắn người nói lại với cô Thanh:
- Tôi có miếng vườn trồng khoai lan, cũng được 50 giồng khoai là ít, tôi muốn cuốc bớt năm giồng để lấy củ ăn chơi. Biểu con hai Thanh như nó có nuôi heo thì nó đến cuốc năm giồng khoai đó, tôi lấy củ, còn nó lấy giây khoai về cho heo ăn...
Cô Thanh hỏi ý kiến Ba cô. Ông Bảy cười:
- Nếu anh Huyện muốn mướn con cuốc khoai cho ảnh, ảnh cũng phải chia khoai cho con, chớ anh cho con một nắm giây khoai cho heo ăn sao được?
- Thưa Ba, năm giồng thì cuốc lên được chừng bao nhiêu khoai?
- Ít lắm cũng được muời thúng chứ con. Đất vườn ảnh trồng khoai thiệt tốt mà giống khoai của anh là khoai dương ngọc sai củ lắm.
- Mười thùng củ, mà công con cuốc khó nhọc như thế nào, cậu Huyện lại không cho con được vài chục củ hay sao, Ba? Lẽ nào cậu chỉ cho con một mớ giây khoai cho heo ăn?
- Từ nhỏ tới lớn con đi học, có cuốc khoai bao giờ? Ba sợ con cuốc không nổi. Thôi con!
- Chắc không khó đâu Ba! Con vẫn quen tập thể thao ở nhà trường. Con sẽ cuốc hết năm giồng để lấy vài thùng giây khoai về cho heo, chớ tiền đâu mua cám. Chuối cây cũng phải mua vậy. Còn củ khoai, nói vậy thì nói chớ cậu Huyện trả công cho ít nhiều hay không con cũng không muốn hỏi đâu. Con ngượng lắm, Ba à!
Thế là rạng đông, Thanh dậy sớm vác cuốc đến nhà cậu, ông Huyện Michel Cảnh. Thanh mặc như các cô thôn nữ, áo bà ba trắng, quần đen, đi chân không. Da mặt của Thanh không một chút phấn sáp, nhưng hồng hào, tự nhiên, thật đẹp. Đôi mắt sầu mơ phản chiếu những ý nghĩ tinh khiết như sương đọng trên bông lúa buổi sớm. Dưới làn áo vải, ngực của cô nở với những nét tròn vun vắn, đầy đặn, hồi hộp trong làn gió mát dịu của bình minh. Cánh tay mềm mại với bàn tay trắng muốt, năm ngón tay búp măng, vác chiếc cuốc trên vai, cô Thanh đi chậm rãi từng bước trên con đường làng trải nắng tơ hồng.
Không hẹn mà gặp, Đồng từ một đường hẻm trong xóm gánh ra một gánh phân trâu. Hai người cùng ngạc nhiên, dừng bước ngó nhau cười.
Đồng hỏi:
- Thanh vác cuốc đi đâu đây?
Thanh đỏ ửng đôi má. Lần đầu tiên trước mặt Đồng, cô mất hẳn vẻ tự nhiên. Hai mí mắt của cô chớp lia lịa. Với nụ cười hàm tiếu, nụ cười dịu dàng của buổi sáng sớm, cô bẻn lẻn đáp:
- Em đi cuốc khoai bên cậu em.
- Bên ông Huyện Cảnh?
- Dạ.
- Thanh nói cho Đồng nghe việc ông Huyện mướn cô cuốc năm giồng khoai lan.
- Tôi có thể đi cuốc thay cho Thanh được không?
- Dạ được. Còn em thì đi gánh phân thay cho anh vậy nhé?
- Tôi chỉ còn một gánh này nữa là hết. Rồi tôi đi cuốc khoai.
- Nói chơi vậy, chớ anh có lòng tốt, em cảm ơn anh. Nhưng em muốn tự sức em làm để quên công việc nhà nông.
Thanh lại cười, lộ hai hàm răng trắng như ngà:
- Cuốc khoai đâu có khó bằng cuốc mấy bài toán phân số anh nhỉ!
- Chúc Thanh có nhiều can đảm.
- Can đảm thì em có đủ. Chỉ mong có nhiều khoai thôi!
- Tôi ái ngại cho Thanh quá! Một nữ sinh đẹp nhứt ở tỉnh học giỏi nhứt lớp, chỉ còn một năm nữa đi thi, nay phải ở nhà đi cuốc khoai mướn!
- Em thích thế anh à. Mình con nhà nông mà! Còn anh đỗ đíp-lôm cũng đi gánh phân đó thì sao?
Đôi bạn trẻ cùng cười. Đồng đặt gánh phân lên vai, hỏi:
- Chiều nay tôi đến thăm Thanh nhé?
- Dạ.
Thanh cười, nói tiếp:
- Nếu em cuốc được nhiều khoai, chiều nay em sẽ nấu đãi anh!
Đi một quãng đường, Đồng đặt gánh phân bên gốc một cây dừa, ngoảnh lại nhìn Thanh đi đã xa xa. Bóng cô tha thướt dưới bóng rặn dừa xanh. Đồng nhìn theo mãi cho đến lúc Thanh quẹo sang con đường lớn rẽ vô nhà lầu của ông Huyện-Cảnh.
Đồng ngồi xuống gốc cây, nghĩ ngợi về cô Thanh, thương cô Thanh lắm. Cũng là cảnh nghèo, nhưng cậu còn đủ Ba má lại có anh chị lo việc gia đình. Cậu tính nghỉ hè xong, lên tỉnh xin việc làm để dành dụm mỗi tháng chút ít tiền giúp cho Thanh tiếp tục học để sang năm cô đi thi. Đó là ý định của cậu nhưng cậu chưa dám nói với Thanh vội. Vả lại từ hôm cậu thi đỗ về nhà, có xảy ra một chuyện bất ngờ. Chính ông Huyện Cảnh có cho gọi cậu đến nhà, cách đó ba hôm. Ông bảo:
- Đồng, con đã đỗ đạt thành tài, bác mừng cho con có chí cả, và Ba má con cũng có phước đức lớn lắm đó. Nghỉ hè rồi đây, con tính làm gì? Con đi học tú tài hay xin làm việc nhà nước?
- Dạ thưa quan Huyện, cháu định xin việc làm để giúp đỡ gia đình Ba má cháu.
- Ừ, con có hiếu lắm đó. Nhưng bác muốn giúp tiền cho con học đến tú tài. Con muốn đi Tây, bác cũng cho đi.
- Cháu xin cám ơn quan Huyện, nhưng Ba má cháu nghèo, cháu không muốn học nữa.
- Tùy ý cháu. Đó là bác thấy cháu cũng người trong làng tuy là nhà nghèo nhưng thông minh học giỏi, đỗ đạt được như vậy thì bác thương, bác muốn giúp cho cháu có tương lai rực rỡ hơn. Nếu cháu muốn học tú tài, rồi học Đại học, sau làm trạng sư, bác sĩ, bác sẵn sàng giúp tiền cho. Nhà bác thì chỉ có con Lịch. Nó tự đặt biệt hiệu của nó là Hồng-Lan, mà nó học bết quá! Pháp văn và toán môn nào cũng kém, bác muốn nhờ con ba tháng nắng này đến kèm thêm cho nó để sang năm nó đi thi. Con dạy cho nó, bác cũng trả bằng lương thầy giáo vậy.
Đó là ý muốn của ông Huyện Michel Cảnh, nhưng Đồng chưa trả lời. Đến nay đã ba hôm, Đồng vẫn chưa đến trả lời dứt khoát với ông Huyện. Cậu muốn tỏ hết nỗi thắc mắc cho Thanh biết, và hỏi ý kiến Thanh. Nhưng mấy lần Đồng định nói với Thanh, thì Đồng lại ngại... không rõ ý Thanh thế nào.
Thanh! Đồng chỉ nghĩ đến Thanh thôi. Đồng đã hiểu tánh nết của Thanh, tư tưởng của Thanh, tâm hồn của Thanh. Đồng rất quý mến Thanh, Đồng đã yêu Thanh, nhưng âm thầm lặng lẽ, chưa bao giờ dám cho Thanh biết.
Đồng ngồi từ nãy đã lâu, đôi mắt mơ màng nhìn cánh đồng lúa chín, làn gió nhẹ xao xuyến nổi lên trên ngọn lúa. Tâm hồn của cậu hôm nay cũng như mùa lúa chín, một làn gió êm dịu nổi dậy trên cánh đồng tư tưởng, gợn sóng vàng xao xuyến...
Bỗng có tiếng cười hăng hắc, tiếng cười lả lơi ngay sau lưng cậu. Cậu quay lại. Tưởng là ai! Té ra cô Lịch, biệt hiệu Hồng-Lan, con gái của ông Huyện Michel Cảnh. Cô vừa cười vừa hỏi:
- Bao giờ anh đến dạy em học Pháp-văn với Toán, anh Đồng?
Đồng chưa kịp trả lời, Hồng-Lan cười toe toét giới thiệu một người bạn gái cùng đi:
- Chị Alice, bạn học của em ở Sài-Gòn mới lên chơi hôm qua. Tụi em đi chơi coi cảnh nhà quê đẹp quá.
Quay lại cô Alice, Hồng-Lan giới thiệu:
- Anh Đồng, diplômé, sắp làm thầy giáo dạy em đó.
Alice mặt dồi phấn trắng toát, môi đỏ chót, lạnh lẽo nhếch mép cười đầy vẻ kiêu căng.
Hồng-Lan hỏi Đồng:
- Sao anh ngồi chi đây? Gánh phân của ai kia?
- Gánh phân của tôi.
Alice trề môi, bảo nhỏ Hồng-Lan:
- Thôi đi, mầy!
Hồng-Lan còn muốn đứng lại hỏi Đồng:
- Gánh phân của anh mà người gánh đi đâu, để anh ngồi đây một mình vậy sao?
Đồng mỉm cười:
- Người gánh phân là tôi đây, thưa cô!
Hồng-Lan cười sặc sụa:
- Trời ơi! Anh gánh phân thiệt sao anh?
- Cái đó phật ý cô lắm sao?
- Không, nhưng em thấy kỳ cục quá. Thiếu gì người gánh phân, sao anh lại gánh chi cho ẹ vậy?
- Phân này là đồ ăn quý báu của ruộng đất. Ruộng đất là bà mẹ nuôi sống loài người đó cô à.
Alice nhún vai, không nói gì. Hồng-Lan vẫn cười híp mắt:
- Thôi, tụi em chào anh nhé. Ba em cứ nhắc anh hoài. Ông già cứ hỏi em sao anh chưa đến dạy Pháp-văn với Toán cho em.
- Cô về thừa lại với quan Huyện, vài hôm nữa tôi sẽ đến...
- Anh hẹn chắc, nghe? Nói sai, em bắt đến đấy!
- Tôi sẽ đến trả lời quan Huyện.
Hai thiếu nữ từ giã Đồng. Hồng-Lan vẫn cười lớn, cười hăng hắc như con nắc nẻ.
Hồng-Lan khẽ bảo Alice:
- Hắn ta nhà nghèo, nhưng học giỏi lắm mầy à.
- Tao chỉ thấy nó đẹp trai, nhưng thấy gánh phân của nó, tao muốn oẹ.
- Ba tao muốn giúp tiền cho y đi Tây học Bác-sĩ đó!
- Sao mầy không cản ổng?
- Ông già cứ khen thằng cha thông minh, hạnh kiểm tốt, có tương lai rực rỡ, vân vân và vân vân...
- Còn mầy có khen nó không?
- Tao, tao cũng thấy nó đẹp trai và học giỏi.
- Thiếu gì thầy dạy ở Sài-Gòn, sao mầy muốn học với thằng gánh phân cho mất giá trị?
- Nói vậy chớ thằng cha đã dạy đâu. Tao đã học đâu. Ông già biểu vậy thì tao nghe vậy thôi chớ. Tao muốn nghĩ chơi ít bữa rồi trở lên Sài Gòn, nhưng ông già không cho tiền, mầy ơi! Ông bắt tao ba tháng nắng ở đây luôn, thấy mồ chưa!
- Mầy không nhớ thằng Paul à?
- Tao ghét thằng Paul, nó cứ muốn đào mỏ tao. Tao cũng biết điều tra chớ bộ! Mầy tưởng tao ngốc sao! Mầy biết tao điều tra sao không? Nè tao cho mầy biết, hết thảy mấy con gái nhảy ở mấy tiệm khiêu vũ Sài Gòn là mèo của nó tuốt luốt. Mà đứa nào cũng làm tiền nó, nó làm tiền lại tụi mình, thế có chó không?
- Mày nói xấu thằng Paul quá xá, sao mầy còn mèo với nó?
- Hí! Tao mèo với nó là để mèo với thằng em nó cho dễ chớ bộ! Nhưng mầy ơi, từ khi tao biết thằng em nó là Nicolas Thuần, làm giáo sư trường Triệu-Ẩu, ngủ với con học trò bạn của tao, để con nọ có chửa rồi phá thai, nó bỏ rơi luôn, từ đó tao khinh nó ra mặt. Tao khinh luôn cả anh nó nữa.
- Bây giờ mầy định đánh đu theo thằng gánh phân lúc nãy hả?
- Ít nhứt hắn cũng còn trong sạch hơn.
- Mầy điên rồi, Hồng-Lan ơi!
- Ừ, có lẽ tao điên thật đó, mầy!
Hai cô nói chuyện đến đây thì vừa về đến nhà ông Huyện, Hồng-Lan bảo khẽ Alice:
- Thôi nghe! Bước chân về cái chùa này, đừng có nói bậy bạ mà bị bố đa.
Vào đến sân, Alice trông thấy một cô gái quê cuốc khoai trong vườn. Cô khẽ bảo Hồng-Lan:
- Gái quê ở làng này, đẹp quá xá đẹp! Thế mà mầy chẳng đẹp được như nó!
- Nữ sinh đấy, mầy ạ. Nhà nó nghèo, Ba nó giữ ruộng cho ông Cai-Tổng, nó phải bỏ học, di làm mướn đó. Trước nghỉ hè, nó học ở trên tỉnh.
- Vậy hả? Nó học lớp mấy?
- Nó nói nó học năm thứ ba, nhưng tao cho là nói dốc.
- Nói dốc ngay đuôi, chớ gì nữa. Tao hỏi mầy, con nhà nghèo làm gì học tới nước đó?
- Bây giờ cha nó bắt nó ở nhà. Cha nó nghèo không có miếng đất cắm dùi, mà nó dám đòi đi học, mầy nghĩ coi!
- Lên tỉnh chắc cũng chơi bời chớ học gì!
- Tao ghét nó lắm. Không biết học hành ra sao mà làm phách ghê!
- Giờ đi làm mướn, đáng kiếp!
- Tao có thèm ngó mặt nó đâu mầy.
- Mày mướn nó cuốc đất hả?
- Ba tao ổng kêu nó cuốc khoai lan hồi nào tao đâu có biết.
- Mầy kêu biểu nó đem khoai lan vô nấu ăn chơi! Ở Sài Gòn, không khi nào tao đụng đến một cũ khoai lan, vô ruộng lại muốn ăn, kỳ chưa!
- Mầy muốn ăn thiệt hả? Giống khoai lan dương ngọc này ngọt lắm, mầy ơi!
- Biểu con nhỏ đó đem vô tao coi thử.
- Mầy biểu đi!
- Tao đâu có quen biết nó.
- Tao kêu nó nhé?... Thanh ơi!
Cô Thanh cặm cụi cuốc, giả vời không nghe và không đáp. Hồng-Lan lại gọi to:
- Thanh! Lượm đem vô tao chục cái cũ khoai mầy!
Thanh không ngửng mặt lên, Hồng-Lan bảo với Alice:
- Đó, mầy coi. Có làm phách không!
- Thôi, đi vô nhà đánh đờn chơi mầy. Đừng thèm hỏi nó nữa.
Cả Ba má và anh chị của Đồng đều muốn cậu đến ở nhà ông Huyện trong ba tháng hè để dạy cho cô Lịch học.
Má Đồng nhỏ to than thở:
- Con cũng biết nhà mình nghèo, làm sao trả nổi số tiền lúa mình nợ ông Huyện? Mùa lúa này có lãnh được mấy chục giạ, nếu trả cũng chưa hết nợ, mà trả thì lấy gì ăn? Hôm qua ông Huyện có cho gọi má đến. Ông hứa rằng nếu con đến ở nhà ông dạy học cho cô Lịch, thì ông nghĩ tình mà cho Ba má hết số nợ cũ. Ông còn cho con tiền riêng cũng như ông trả lương cho con vậy. Còn như chuyện ổng muốn cho con đi Tây học Bác sĩ, là ông có lòng tốt muốn con sau này thành một nhơn tài. Đó là danh giá cho con và gia đình mình cũng được thơm lây.
- Nhưng con không muốn thế má à.
- Con không muốn thế thì thôi, má đâu có ép bụng con. Nhưng còn việc con đến ở nhà ông để dạy học cho cô Lịch, tại sao con không muốn?
- Tại con không muốn.
- Con chỉ muốn, là con gỡ được cho Ba má một số nợ mà chưa biết bao giờ Ba má trả hết được. Con đi học ở tỉnh mấy năm nay là cả nhà phải hy sinh. Nay con đỗ đạt thành tài, cũng có một phần nhờ ông Huyện giúp cho. Nói có Phật trời làm chứng!
- Nhà mình nhờ ổng gì đâu Má?
- Sao không nhờ! Nếu ổng không để Ba má thiếu nợ lúa cho đến ngày nay thì làm sao có chút ít tiền gởi cho con ăn học?
- Ống cho thiếu lúa, thì chừng nào trả ổng lấy lời, chớ bộ ổng tử tế sao Má?
- Biết vậy rồi. Nhưng...
- Má cứ để số nợ đó con sẽ lên tỉnh hoặc lên Sài Gòn xin việc làm, con sẽ để dành tiền đem về Ba má trả nợ.
- Lâu lắm con à. Ông Huyện đã nói với Má rằng nếu con không đến ở nhà ông để dạy học cho cô Lịch, thì ông bắt Ba má phải trả hết nợ trong mùa gặt này. Con nghĩ thử coi. Chi bằng con cứ nhận lời thì Ba má được hết nợ, mà con lại có tiền lương trong ba tháng hè, đỡ cho Ba má biết là chừng nào.
- Má để con suy nghĩ kỹ lại đã. Ngày mai con sẽ thưa chuyện lại cho Ba má rõ.
Ba của Đồng cũng khuyên bảo:
- Không phải Ba thấy người ta giàu, mình nghèo, mà Ba biểu con đến bợ đỡ người ta đâu. Con chỉ đi dạy học, để trừ nợ cho Ba thôi.
Tám giờ tối, trong gian nhà lụp xụp của Thanh thắp đèn dầu liu hiu, ông Bảy nằm rên trên chiếc chõng tre. Ông già bị bịnh tê thấp từ hai năm nay, cứ đêm nào trời mưa gió là tay chưn nhức mỏi, chịu không được. Cô Thanh ngồi cạnh, đấm bóp cho cha. Ngoài, mưa gió ào ạt. Thỉnh thoảng một tiếng sấm nổ rền trời, một tia chớp xoẹt trong đêm thẳm, gió rít từng cơn.
Có tiếng gõ cửa, Thanh hỏi:
- Ai đó?
- Tôi.
Thanh nghe tiếng biết là Đồng, mừng rỡ đứng dậy, ra mở cửa. Đồng đội nón, mang áo lá tơi ướt hết.
- Xin lỗi Thanh, Thanh đã đi nghỉ hả?
- Chưa anh à. Mời anh vô nhà... Em biết thế nào tối nay anh với em cũng gặp nhau, em vẫn chờ anh, nhưng em không ngờ trời mưa to mà anh cũng đến!
Đồng cất nón và cởi áo tơi dựng vô vách, rút trong túi áo chiếc khăn vuông để lau nước mưa trên mặt và trên áo.
Thanh mời Đồng ngồi ghế, và bưng ấm trà ra pha một chén mời bạn:
- Ba em có bịnh tê thấp anh à. Thời gian em đi học, ở nhà có đứa cháu ở với Ba em, đêm nào mưa giờ cũng đấm bóp cho Ba em ba bốn tiếng đồng hồ thì Ba em mới ngủ được, nhưng ngủ cũng không yên. Đêm nay trời mưa, Ba em lại nhức mỏi. Em ngồi bóp chân cho Ba em từ nãy tới giờ.
- Thanh có thuốc bóp chớ?
- Bóp không, anh à. Không có thuốc gì hết.
- Bên nhà tôi, Ba tôi có thứ rượu thuốc chuyên trị bịnh tê thấp, nghe Ba tôi nói hay lắm. Ông có dự trữ hai chai. Để tôi chạy về xin ổng một chai.
- Cám ơn anh nhiều lắm, anh Đồng. Nhưng em không dám làm phiền anh.
- Không sao, Thanh à.
Đồng đứng dậy, cầm nón và mang áo tơi. Thanh nhứt định ngăn cản:
- Trời mưa lớn quá, anh đừng đi. Sáng mai anh đem lại cũng được.
- Đêm nay nếu có rượu thuốc, chỉ bóp cho Bác nội trong nửa tiếng đồng hồ, rượu thấm vào gân vào thịt, Bác sẽ nghỉ yên được, không nhức mỏi nữa. Thanh đỡ phải thức khuya mệt.
- Nhưng em không muốn anh dầm mưa nhiều.
- Tôi cỏ non, có áo tơi. Tôi chạy về một chút, trở lại ngay.
Đồng mở cửa. Một tia chớp soẹt ngoài trời sáng rực, tiếp theo một tiếng sấm nổ rền trong đêm giông tố. Đồng chạy vụt ra sân. Một con gió mạnh thổi lùa vào, nhưng Thanh nắm chặt cánh cửa, đứng trước làn gió lốc, hồi hộp nhìn ra ngoài.

Nghĩ đến tấm lòng thành thật của người bạn trai quý mến, Thanh cảm động vô cùng. Thanh tưởng tượng Đồng đang chạy trong mưa gió, trong đêm thẳm mịt mùng, với chiếc nón mỏng manh, một chiếc áo lá tơi xác xơ rách nát... Vì ai, nếu không phải vì Thanh? Vì thương Thanh nên Đồng đã hăng hái, chịu giãi gió dầm mưa chạy về nhà lấy một chai thuốc! Cử chỉ ấy khiến cho Thanh thương Đồng không xiết kể! Một lúc sau, bóng Đồng lù lù chạy trở lại, Thanh vội vàng mở rộng cửa cho Đồng vô. Đồng cầm chai rượu thuốc trong tay, áo quần ướt hết. Thanh dịu dàng nói:
- Anh tốt với em quá... Em cám ơn anh nhiều lắm.
Dựng nón và áo tơi trong vách, Đồng bảo:
- Thanh để yên tôi bóp cho Bác. Phải bóp thật mạnh rượu thuốc mới thấm vào da thịt.
Đồng đến ngay giường, đổ rượu ra tay, xoa lên ống chân của ông già, rồi hai tay bóp mạnh. Thanh không thể ngăn cản Đồng săn sóc cho Ba cô. Cô bảo:
- Em xuống bếp nấu nước pha trà nóng anh uống nhe. Anh dầm mưa chắc lạnh.
Đồng chưa kịp trả lời, Thanh đã cầm hộp quẹt đi xuống bếp.
Chiếc đồng hồ cũ để trên bàn thờ kêu tic tắc, tic tắc, tiếng kêu càng rõ rệt trong túp nhà lá vắng vẻ. Đồng ngẩn mặt lên nhìn, mới 9 giờ. Tưởng đã khuya lắm rồi. Ngoài, mưa gió xào xạc, sấm nổ ầm ầm.
Đồng bóp rượu thuốc một lúc, Ông già đã ngủ ngon.
Thanh xách ấm nước dưới bếp lên, pha trà trong chén:
- Mời anh uống trà nóng.
- Cám ơn Thanh.
- Ba em đã ngủ yên, không rên nhức nữa. Anh nghỉ tay cho khoẻ. Có nước và xà phòng đây, anh đi rửa tay.
Rửa tay xong. Đồng ngồi ghế đối diện với Thanh, nơi bàn con giữa nhà. Khói trà bốc lên ấm áp trong hai chén nhỏ. Đôi bạn trẻ ngồi làm thinh, hơi ngượng.
Một lát, uống một hớp trà rồi, Đồng nhìn Thanh:
- Thanh à, tôi muốn hỏi ý kiến Thanh về một điều tôi đang thắc mắc...
- Điều chi đó anh?
- Cậu của Thanh, ông Huyện Michel Cảnh, mời tôi đến ở nhà ông dạy thêm Pháp văn và Toán cho cô Lịch trong ba tháng hè. Nhưng tôi không muốn nhận lời.
- Tại sao anh không nhận lời.
- Tại vì nhiều lý do, mà lý do chánh là tôi không thích gần gủi cô con gái của ông Huyện...
Thanh mỉm cười:
- Chị Lịch của em ngoan lắm chớ.
- Cô ấy không ngoan, theo những điều tôi được biết. Dư luận trong làng và trong tỉnh đối với cô Lịch thế nào, chắc Thanh cũng đã rõ.
- Nhưng chuyện đó có quan hệ gì đến việc anh dạy chị ấy học?
- Có quan hệ... Nhưng tôi sẽ nói sau. Hiện giờ, trong đời tôi chỉ có một người mà tôi vui sướng mỗi khi tôi được gần gủi... Chỉ một người thôi.
Thanh đang chăm chú nghe Đồng nói, đến đây tâm hồn cô xôn xao hồi hộp. Cô cúi mặt xuống, không dám nhìn người bạn trai. Giọng nói của Đồng rất nhỏ, Thanh nghe như văng vẳng từ trong trái tim của Đồng vang ra:
- Người ấy là Thanh... Chỉ một mình Thanh...
Cả hai người yên lặng. Lần đầu tiên hai người không ai giấu được ai mối cảm thông sâu xa rạo rực từ bao lâu nay.
Đồng tiếp:
- Thanh à, những lời tôi vừa nói với Thanh, tôi đã suy nghĩ kỹ lắm rồi.
Thanh khẽ đáp:
- Em... em cũng đã suy nghĩ kỹ lắm rồi, như những lời anh vừa nói... Em hoàn toàn đồng ý với anh.
- Và Đồng... Thanh?
Thanh nhoẻn một nụ cười:
- Ba má khéo đặt tên cho chúng mình nhỉ?
Đồng sung sướng đưa bàn tay cho Thanh. Thanh dịu dàng đặt bàn tay mềm mại của cô trong tay chàng. Mười ngón tay siết chặt vào nhau. Bốn mặt đê mê nhìn nhau. Tình yêu đã gắn bó cuộc đời của đôi bạn trẻ trong một nụ cười say mê chan chứa.
Một lát, Đồng nói:
- Nếu hết hè tôi phải xa Thanh, tôi cảm thấy là sẽ xa tất cả.
- Em không tin rằng chúng mình sẽ xa nhau, anh ạ.
- Rồi đây Thanh ở nhà phụng dưỡng cha già, làm việc nhà nông, trơ trọi giữa thôn quê... Còn tôi lại phải ra đi để tranh đấu với đời... Nghĩ đến đó, tôi buồn lắm.
- Anh đi tranh đấu, tức là anh không xa em.
- Thật chớ Thanh? Mặc dầu hoàn cảnh thế nào, trên đường đời chúng ta sẽ được gần nhau mãi mãi chớ em?
- Lúc còn đi học, anh vẫn thường nói với em thế hệ thanh niên chúng ta là một thế hệ tranh đấu. Ba tháng nghỉ hè này chỉ là một trạm nghỉ chân, để kiểm điểm thời kỳ học tập và dự bị bước tiến của tương lai. Riêng em, mặc dầu em có bổn phận đối với cha già, em vẫn luôn luôn sẵn sàng chung sức với anh trên con đường phụng sự Chánh-nghĩa Quốc-gia. Em là người đã được anh giác ngộ. Những tư tưởng tốt đẹp gì của em đều đã được tiêm nhiễm của anh, và được anh huấn luyện. Từ một nữ sinh ngây thơ ngớ ngẩn, anh đã biến hóa em trở nên một thiếu nữ biết suy nghĩ, biết lãnh hội trách nhiệm thanh niên trong thời đại mới. Anh đã chỉ cho em thấy ý nghĩa cao cả của cuộc đời, và em đã hân hoan đón tiếp lý tưởng của anh, lý tưởng tranh đấu cho Tổ-Quốc và Dân-Tộc. Anh Đồng ạ, Thanh xin sẵn sàng chung sức với anh để phụng sự Lý tưởng bất cứ lúc nào. Còn như bây giờ, nếu anh thấy không có gì cản trở thì em tưởng anh cứ đến ở nhà cậu Huyện em để dạy chị Lịch học trong mấy tháng nắng. Em không thấy có gì anh phải thắc mắc.
- Thắc mắc là ông Michel Cảnh muốn cấp tiền cho tôi đi thi tú tài và đỗ tú tài xong, ông lại cấp tiền cho sang Pháp học Bác sĩ! Tôi không hiểu tại sao ông quá tử tế với tôi như vậy? Ông muốn ép buộc tôi ba tháng hè này phải đến ở luôn nhà ông để dạy cô Lịch học, tôi càng không hiểu tại sao ông muốn vô lý như thế?
Thanh cười:
- Cậu em muốn gả chị Lịch cho anh chớ gì?
- Chính vì lẽ đó mà tôi đã từ chối, mặc dầu Ba má tôi, vì một món nợ...
Đồng nói cho Thanh biết rõ việc nợ nần của Ba má Đồng, và câu chuyện Ba má khuyên Đồng cứ đến dạy cô Lịch học ba tháng hè để trừ nợ mấy trăm giạ lúa.
Thanh tiếp lời:
- Ba má nói phải đó, anh ạ. Em thiết tưởng như thế anh đến dạy học cho chị Lịch ở nhà cậu em, chính là một bổn phận của anh. Vả lại chỉ trong mấy tháng nghỉ hè thôi. Anh không nên do dự.
- Em tin tôi chớ?
- Em tin anh hoàn toàn.
- Nhưng nếu tôi đến ở nhà cô Lịch, hoặc chỉ phải tiếp xúc hằng ngày với cô, tôi sợ dư luận trong làng sẽ nghi ngờ tôi chăng?
- Anh là người đàng hoàng, bà con trong làng ai cũng mến anh, làm sao có dư luận không tốt với anh được? Giá có đi nữa, thì dư luận bậy bạ không đáng cho chúng ta lưu ý.
- Hay là muốn tránh tất cả những tiếng thị phi của dân làng và muốn cho ông Huyện hết nghĩ đến chuyện gả cô gái của ông cho tôi, thì nội trong tháng này hay tháng tới, chúng ta có nên chánh thức làm lễ đính hôn chăng? Em nghĩ sao?
Thanh âu yếm đáp:
- Nghĩ như anh cũng phải. Em cũng muốn cho kẻ khác biết rằng em là người của anh rồi. Em đã thuộc về anh rồi.
Đồng cảm động đứng dậy lại gần Thanh. Thanh đứng dậy, âu yếm dựa đầu vào vai chàng. Đồng khoát tay ôm chặt lấy người yêu vào lòng. Cặp thanh niên say mê vì lý tưởng, gắn bó hai cuộc đời nghèo khổ và hai tâm hồn thanh cao, trong một nụ hôn nồng nàn, ngây ngất, nụ hôn đầu tiên lâu dài như vĩnh viễn.
Ngoài, vẫn mưa tầm tã. Một tiếng sấm nổ ầm lên vang dội cả đêm khuya. Một làn chớp xoẹt ra như xé rách vòm trời đen nghịt.
Đôi bạn trẻ đứng trong túp lều tranh nhỏ hẹp ngó ra cảnh tượng ào át của vũ trụ. Đồng bảo:
- Thanh à, đời chúng ta sẽ không tránh khỏi những cơn giông tố...
- Nhưng chúng ta can đảm và nhẫn nại, bình minh sẽ đến với chúng ta!
Đồng lấy nón đội, lấy áo tơi mang. Chân không giày, không guốc, quần xắn lên đến đầu gối, Đồng nắm chặt bàn tay Thanh, trước khi ra về:
- Thanh đi nghỉ nhe. Anh về thưa với Ba má, rồi ngày mai chúng ta sẽ bàn với nhau về lễ đính hôn.
- Dạ, anh về. Thấy anh ra đi trong mưa dầm gió tạt, em thương anh quá.
- Anh nhắc lại câu của em: bình mình sẽ đến với chúng ta!
Thanh đứng tựa cửa, nhìn theo bóng chàng chìm trong bóng tối. Thanh còn đứng mãi một lúc, theo chàng trong mơ tưởng, theo chàng trong tương tự, theo chàng trong viễn ảnh rực rỡ tưng bừng của những bình mình reo rắc nhạc...
Ông Huyện Michel Cảnh tiếp đãi Đồng rất tử tế, thân mật như cha con. Đồng xin đến ngày hai buổi dạy Pháp văn và Toán cho cô Lịch, trua và chiều về nhà. Nhưng ông Huyện không bằng lòng:
- Bác cần cháu làm thơ ký riêng cho Bác nữa. Sổ sách về ruộng đất ở đây và nhà cửa ở Sài Gòn từ lâu Bác tự làm lấy, nhưng bây giờ Bác mệt mỏi bỏ lộn xộn quá. Con Lịch thì nó làm biếng và nó không biết gì hết. Giờ có cháu, cháu lo giùm cho bác. Bác có để riêng cho cháu một căn phòng, chút nữa con Lịch dẫn cháu đi coi để cháu dọn ở đó. Phòng mát mẻ, có tủ sách, có bàn viết, có đủ tiện nghi cho cháu. Bác coi cháu như con trong nhà, cháu đừng ngại, nghe cháu! Vài ba bữa, cháu về thăm Ba má cháu một lần. Còn con Lịch thì cháu phải chỉ bảo nó thiệt siêng cần, ngày đêm cháu coi chừng bài vở cho nó, chớ nó ham chơi bời, đờn địch hoài, bác nói nó không nghe, bác rầy nó không sợ. Nhưng cháu nói thì chắc nó chịu nghe, tại vì cháu học giỏi, và nó cũng thích học với cháu trong mấy tháng hè. Nó nói với bác là mấy tháng hè nó không muốn lên Sài Gòn vì nó chán cảnh phồn hoa đô hội.
- Dạ thưa quan Huyện...
- Cháu đừng gọi bác quan quyền chi ráo. Cứ gọi bác là Papa cũng được, đừng có ngại, nghe cháu. Bác coi cháu như con trong nhà vậy mà!
- Dạ thưa... quan, cháu xin phép quan cho cháu thưa quan, để cháu giữ lễ phép với bậc ân nhân của Ba má cháu. Cháu có đủ thì giờ buổi sáng và buổi chiều để chỉ thêm Pháp văn và toán cho cô Hai. Còn số sách, thì cháu xin làm buổi trưa.
- Không được. Bác không cho phép vậy đâu. Thôi, để bác kêu con Lịch ra đây... Lịch ơi!
Tiếng thiếu nữ trong buồng đáp:
- Ba kêu con hả ba?
- Ra đây con.
Lịch, má phấn môi son, mặc Pyjama, ỏn-ẻn đi ra, sặc mùi dầu thơm. Cô nhỏng nhẻo với ông Huyện:
- Sao Ba cứ kêu tên con là "Lịch" hoài vậy? Con nói con thích cái biểu hiệu "Hồng-Lan" mà!
Ông Huyện cười:
- Ừ, con muốn kêu Hồng-Lan thì Ba kêu Hồng-Lan chớ sao. Nè con, thằng Đồng bữa nay nó đến dạy con học đó. Nó ở luôn nhà mình. Con muốn học trong phòng con, hay trong phòng nó, tùy ý thích của con.
Hồng-Lan nhìn Đồng, với một nụ cười duyên dáng:
- Anh thich em học ở phòng nào?
Đồng ngắt lời:
- Thưa cô Hai, học ở phòng khách này có lẽ tiện hơn.
Ông Huyện cản:
- Úy! Không được đâu! Ở đây bác có khách hoài. Học đây đâu có được, cháu!
Hồng-Lan cười:
- Thôi, con thích học trong phòng con, Ba à! Ai lại học trong phòng ảnh, kỳ cục quá!
- Con muốn sao cũng được. Mà con phải chăm chỉ học, nghe hôn? Học sao cho đỗ đạc với người ta, rồi Ba lên Sài-Gòn xin cho con được sang du học bên Pháp thì ba mới ưng bụng. Học ở Sài-Gòn con thi rớt hoài, Ba buồn lắm. Thôi con dẫn thằng Đồng vô phòng của nó, để nó nghĩ một bữa đã.
Mặc dầu ông Huyện ép buộc, Đồng vẫn cứ làm theo ý định của cậu. Mỗi ngày, 8 giờ sáng, Đồng từ nhà cuốc bộ đến nhà ông Huyện ở đấy dạy học và làm sổ sách đến 5 giờ chiều. Xong, Đồng lại cuốc bộ về nhà, cách xa hơn một cây số.
Buổi trưa, ở lại nhà ông Huyện, cậu đóng cửa nằm nghỉ trong thơ trang giành riêng cho cậu, kế phòng cô Lịch.
Đồng dạy mấy ngày đầu đã thấy cử chỉ lẳng lơ của cô học trò cố tính quyến rủ cậu. Hồng-Lan 18 tuổi, nhưng đã già dặn về lối khêu gợi dục tình và điếm đàng trong khoa ngôn ngữ. Gần gủi nhau mới bảy ngày, Hồng-Lan đã tỏ ra thái độ quá thân mật sỗ sàng với Đồng. Ba giờ chiều hôm ấy, theo thường lệ, Đồng cầm quyển sách Toán vô phòng cô học trò, đến ngay bàn học kê giữa phòng. Nhưng Hồng-Lan còn nằm trên giường, mặc áo sơ mi hở nửa ngực, quần lụa rất mỏng. Cô ả nằm với dáng điệu uể oải, Đồng mắc cở không dám ngó. Bỗng cô nghiêng mình bên cạnh giường, cúi xuống muốn nôn trong một chiếc ống nhổ đặt cạnh bàn ngủ. Sợ Đồng để ý đến triệu chứng bất thường ấy, cô vội vàng súc miệng với một chén nước lạnh, ăn một múi cam để cho hết muốn nôn, rồi nhoẻn miệng cười ngó Đồng:
- Em xin lỗi anh, trưa nay em cảm.
Đồng đứng dậy toan đi ra:
- Cô bị cảm thì chiều nay nghỉ học vậy.
- Không, em học bây giờ đây chớ. Em chỉ xin phép thầy giáo của em cho em nằm nghỉ vài phút cho khỏe thôi mà...
Ngừng một lát, Hồng-Lan nói tiếp:
- Anh làm ơn đóng cửa giùm em, kẻo gió em. Rồi anh lấy ve dầu cù là trong tủ đưa giùm cho em, đi anh.
Đồng theo phép lịch sử, đứng dậy đi lấy ve dầu đem đến Lan, tưởng Lan bị cảm thật. Nhưng cậu không đóng cửa. Hồng-Lan cầm ve dầu, nắm luôn bàn tay Đồng, kéo Đồng xuống:
- Cám ơn anh. Anh tử tế quá. Anh ngồi đây thoa dầu dùm em ở ngực và ở bụng chút đi!
Đồng hất tay thiếu nữ, nhưng Hồng-Lan nắm chặt lấy lưng áo của cậu, ghì cậu xuống. Đồng mặc sơ mi cũ đã vá hai chỗ, nên cậu sợ rách áo không dám dựt mạnh. Hồng-Lan lại níu Đồng:
- Anh ngồi xuống đây với em một chút không được sao?
Đồng đỏ mặt tía tai, chỉ vì sợ rách áo mà đành phải ngồi tạm xuống mép giường. Nhưng cậu bối rối, không nhúc nhích, không nói một lời. Lần đầu tiên, cậu bị một thiếu nữ, thịt da phơi phới, ngào ngạt hương thơm, quyến rũ cậu, vuốt ve cậu. Hồng-Lan cười lẳng lơ, hỏi Đồng:
- Lúc nãy em nói em bị cảm. Anh có biết em cảm... gì không?
Đồng không trả lời. Hồng-Lan nhỏ nhẹ nói tiếp:
- Em cảm anh đó!
Cô ả siết chặt tay Đồng:
- Em bắt đền anh đó, anh Đồng...
Cô tiếp luôn:
- Anh hiền lành, thật thà, đáng yêu quá xá.
Đồng muốn đứng phăng dậy, nhưng Hồng-Lan nắm chặt tay áo sơ mi kéo giữ cậu:
- Anh ơi, đi đâu vội? Ngồi đây em nói chuyện này đã. Ba em cũng thương anh lắm. Ba em định cho em sang Pháp học, nhưng sợ qua bên ấy thân gái một mình em bợ ngợ, nên muốn cho anh cùng đi với em qua bển, anh vừa học bác sĩ vừa dìu dắt em. Khi nào anh học thành tài, Ba em sẽ bỏ tiền ra mở cho anh một phòng khám bịnh lớn tại Sài Gòn. Em sẽ ngoan ngoãn phụ giúp anh, anh bằng lòng không?
Hồng-Lan một tay nắm chặt Đồng, một tay cầm ve dầu đưa Đồng:
- Anh thoa dầu cho em đi anh! Thoa trên ngực và trên bụng kẻo em thấy lạnh bụng quá.
Đồng ngồi điềm nhiên như pho tượng gỗ. Cậu không dám ngó cô Hồng-Lan, đôi mắt cậu cứ nhìn trong quyển sách toán cầm trong tay. Thiếu nữ lại nũng nịu đặt bàn tay trên đầu gối cậu:
- Đi anh! Thoa dầu vào bụng cho em đi! Bỏ quyển sách xuống!
Đồng tức giận, gắt lên:
- Cô buông tôi ra. Tôi không thể làm như thế được.
- Sao vậy? Anh sợ người ta thấy à? Ở đây chỉ có mình anh với em, người nhà đi làm lụng hết. Ba đi lên tỉnh, tối mới về. Em muốn nói thiệt với anh: em yêu anh. Vì anh hiền lành, thực thà, thông minh, học giỏi, chỉ phải cái tội nghèo. Nhưng em không cần giàu nghèo. Giàu mà làm gì, phải không anh? Miễn là chúng mình yêu nhau tức là hạnh phúc đó. Nếu anh muốn thì chúng mình làm lễ cưới nay mai cũng được. Ba thương anh và lại chìu em nữa. Em muốn anh về ở luôn đây với em. Con phần ba má anh, thì em sẽ nói với ba để một căn nhà trên Sài Gòn cho ba má anh lên ở, buôn bán hột xoàn. Cưới xong, chúng mình đi du lịch trong ba tháng hè, qua Nhựt-Bổn chơi. Hết hè, hai vợ chồng mình đi Tây.
Hồng-Lan nắm lưng áo Đồng, kéo Đồng xuống nằm áp lên ngực cô, nhưng Đồng dãy dụa, xô ra, mặt đỏ bừng, tóc rối bù:
- Tôi không thích đâu. Cô đừng làm thế, không được. Chiều nay cô không học, thì tôi đi về.
Hồng-Lan cười:
- Em không cho anh về.
Cô ả ngồi dậy sát cạnh Đồng, khoát tay bá cổ cậu. Đồng hất tay cô ra, thì vừa ông Huyện bước vô. Trông thấy Đồng và Lan, ông nhe răng cười:
- Ồ! Ba xin lỗi các con.
Rồi ông vội vàng đi ra. Nhưng Hồng-Lan gọi rất tự nhiên:
- Ba ơi, Ba!
Đồng lật đật đứng dậy, Hồng-Lan lại nắm tay áo ghì xuống:
- Anh cứ ngồi đây, Ba không rầy chúng mình đâu.
Đồng đang dẩy dụa thì ông Huyện trở vào:
- Con kêu Ba hả?
- Sao Ba lên tỉnh về sớm vậy?
- Ờ, Ba vừa mới về.
- Chiều nay con bị cảm. Con nhờ anh Đồng săn sóc cho con đó, Ba à.
Ông Huyện gật đầu lia lịa:
- Được, được.
Quay ngó Đồng, ông hỏi:
- Cháu biết chích thuốc không? Bác đi lấy một ống thuốc bổ để cháu chích cho nó! Coi bộ con nhỏ muốn đau!
- Thưa quan, cháu không biết chích thuốc.
Ông Huyện dặn con gái:
- Thôi con nghỉ kẻo mệt.
Quay lại Đồng:
- Cháu cứ ở đó săn sóc cho Hồng-Lan nghe cháu?
Ông đi ra, khép kín cửa lại. Hồng-Lan dựt quyển sách toán của Đồng, vứt lên bàn ngủ, và cười toe toét:
- Anh nhà quê quá. Cứ nói biết chích cho Ba vui lòng, không được sao?
Ông Huyện lại gõ cửa, nhưng ông chỉ hé mở một cánh, đứng ngoài thò miệng vô nói to:
- Chút nữa dạy xong, cháu Đồng ra bác nhờ đánh mấy cái giấy nghe, cháu!
Đồng cương quyết gỡ mạnh tay Hồng-Lan ra, đứng phăng dậy xò cửa chạy ra ngoài, sang phòng khách của ông Huyện, ông Huyện ngạc nhiên hỏi:
- Bác nói chút nữa cháu qua cũng được. Bây giờ cháu cứ săn sóc giùm cho con Lan, rồi sau giờ qua đây. Bác ở tỉnh về có nhiều giấy tờ nhờ cháu dịch ra chữ Pháp và đánh máy cho bác luôn thể.
- Quan có giấy tờ, đưa cháu làm luôn bây giờ cũng được.
- Vậy thì cháu đợi một lát. Bác còn đang soạn đây.
- Thưa quan, chừng nào soạn xong quan kêu cháu vô.
- Ừ, được.
Đồng ra sân, đi lang thang trong vườn, đến ngồi bờ giếng là nơi vắng vẻ nhứt. Chiều nay tinh thần của cậu bị xúc động quá mạnh. Nhưng cậu nhận xét một điều đáng mừng, là cậu đã tự chủ được trong một giờ phút mà thanh niên khác có thể để mình sa ngã rất dễ dàng. Ý chí cương quyết và tình yêu sâu xa của cậu đối với Thanh đã thắng được sức cám dỗ mãnh liệt của cô con gái lẳng lơ của ông Huyện. Cậu toan bỏ nơi cạm bẫy này đề về nhà, quyết không trở lại nữa. Cậu đã ra đến ngõ định đi về luôn. Nhưng cậu nghĩ lại: "Về nhà, ta sẽ viện cớ gì nói với Ba má để ta không tới nhà ông Huyện nữa? Ta không nên đem câu chuyện bỉ ổi của con gái ông mà nói cho ai nghe. Dù sao ta cũng không nên bêu xấu danh dự của một thiếu nữ. Điều quan trọng nữa là ông Huyện đã hứa bỏ nợ lúa của Ba má khi ta đến dạy học cho Hồng-Lan. Nếu ta bỏ dạy, thì ông Huyện có thể kêu rêu rằng ta phỉnh ông để gạt nợ. Nhưng ta sợ gì mà bỏ đi? Ta đã nhận lời dạy con gái ông trong ba tháng hè. Ta nhẫn nại chịu đựng trong thời gian ba tháng ấy. Ta đã tự chủ được một lần, nếu tấn tuồng ấy tái diễn một lần nữa có lý nào ta lại không tự chủ được nữa sao?
Ta tin rằng ta có đủ can đảm và sức phấn đấu để thắng được tất cả mọi quyến rũ bất lương của tiền tài và nhục dục!
Nghĩ như thế, Đồng quay trở vô, ngồi trên một ghế đá cạnh một bồn nước trồng sen.
Đồng không hay biết một tí gì về cuộc âm mưu đang dự bị sẵn sàng trong phòng ông Huyện. Hồng-Lan phụng phịu với cha:
- Thằng đó nhà quê lắm, Ba à. Hèn chi nó đi gánh phân. Ngày mai con không học với nó nữa đâu. Ba đừng cho nó tới nữa.
Ông Huyện trố mắt nhìn con, tuy ông còn có một mắt. Ông đưa ngón tay chỉ ngay cái bụng của con gái, và hỏi nhỏ:
- Còn cái bầu của con mỗi ngày mỗi lớn, thì làm sao đây?
- Con chửa ở Sài Gòn, thì con lên Sài Gòn con đẻ, rồi con cho bà Sơ nuôi, không thì con phá thai.
- Úy, không được đâu! Tội chết, con à!
- Chớ làm sao giờ?
- Ba hỏi thiệt con: con có chửa được mấy tháng?
- Mới hai tháng.
- Thằng Đồng có biết không?
- Nó làm sao biết được.
- Con đừng nói chi cho nó nghi ngờ nghe? Để Ba lập mưu... Tối nay... Thôi con đi về phòng nằm yên.
Ông gọi Đồng. Ông gọi ba lần Đồng mới nghe, vì cậu ngồi xa tít nơi góc vườn. Đồng vô phòng ông thì đã thấy trên bàn hai cái ly và một chai rượu whisky. Ông Huyện cười nói rất tự nhiên:

- Cháu à, Bác lên tỉnh, mua được một chai rượu Whisky Ang-lê đây, thứ ngon thượng hạng. Phải nhờ các cụ trên tỉnh giới thiệu mới mua được thứ này, với giá chợ đen 900$ một chai đó, cháu! Sẵn có cháu đây, bác mời cháu một ly để mừng cháu thi đỗ... Cháu học giỏi lắm đa!
Nói xong, ông huyện Michel lấy đồ mở rượu, rồi rót ra hai ly, đưa cho Đồng một:
- Này cháu! Hôm nay lên tỉnh, bác cũng làm được áp phe vô bạc nhiều. Bác cháu mình nâng ly uống mừng lẫn nhau cho vui!
Đồng ngập ngừng:
- Thưa quan, cháu xin lỗi, cháu không biết uống rượu.
- Thanh niên không biết uống rượu, là hay lắm đó. Bác thành thật khen cháu! Nhưng rượu này là thánh tửu, cháu à! Bác mua về để dành có dịp nào long trọng mới lấy ra, đãi các quí khách thôi. Cháu là người đầu tiên nâng ly này với bác. Cháu uống thử coi, ngon số dách! Ngọt lắm, không say đâu!
Đồng nể lời, nâng ly uống. Mùi rượu thơm thơm, dịu dịu, tê tê nơi đầu lưỡi. Nhưng Đồng uống một hớp thôi. Ông huyện bắt uống hết. Xong ông rót thêm một ly nữa cho Đồng. Ông nói chuyện cà kê dê ngỗng, và khéo nói bông lơn làm cho Đồng ngồi nghe cũng vui vui. Sẵn lúc tâm hồn đang bị xúc động, Đồng uống hết hai ly nhỏ, để cố quên những việc vừa xảy ra trong phòng cô Lan lúc nãy.
Nhưng lần đầu tiên Đồng uống rượu, và lại là rượu Whisky, nên cậu hối hận. Rồi lần lần cậu thấy ngồi không vững trên ghế, nói câu không rõ, chỉ lẩm bẩm được mấy tiếng:
- Thưa quan... cháu... xin... đi về...
Ông Huyện cũng hơi say, ngó cậu với một con mắt, và nửa nụ cười:
- Hà hà!... cháu... muốn về... hả? Ừ... bác cho... cháu về... đó...
Đồng đứng dậy, lảo đảo, gượng đi mấy bước ra đến hè thì té nắm bất tỉnh. Ông Huyện kêu con gái chạy ra, với một người thân tín, ôm Đồng vô ngay trong buồng Hồng-Lan.
Đồng ngủ say mê, không hay biết gì hết. Sáng dậy, cậu mở mắt, chợt thấy mình nằm trên giường Hồng-Lan. Cô gái ông Huyện nằm bên cạnh, với chiếc áo sơ mi hở ngực. Hồng-Lan đã thức giấc từ lâu, nhưng vờ nhắm mắt. Nghe Đồng lục đục tỉnh dậy, Hồng-Lan ngáp một ngáp dài, mở mắt ngó Đồng, làm bộ ngạc nhiên:
- Ủa! Anh Đồng! Anh ngủ với em mà em không biết chớ!
Đồng chau mày, ngồi vùng dậy. Cậu vẫn chưa hiểu vì sao cậu nằm đây? Hồng-Lan nhoẻn miệng cười:
- Em sợ anh quá trời! Lỡ mà em có chửa chuyến này thì em bắt đền anh đó! Chiều qua, anh uống rượu whisky chi cho nhiều, để rồi say té ngoài sân? Em phải ôm anh vào phòng của anh, người anh nóng như lửa, em phải quạt cho anh mát, em pha nước đường đổ vô miệng cho anh uống đỡ say. Mãi đến mười một giờ buồn ngủ quá, em mới về phòng em! Không ngờ đêm khuya anh tỉnh dạy lúc nào, và qua nằm với em lúc nào vậy anh? Làm em mệt đừ, ngủ say mê không biết chi hết! Chắc anh say rượu cũng không nhớ nhỉ...
Đồng nhảy xỏm xuống đất, choáng váng mặt mày, giận dữ la lớn:
- Nói láo!... Tất cả câu chuyện ấy là nói láo! Nói láo!
Cậu ngó chòng chọc vào mặt Hồng-Lan:
- Cô muốn cái gì? Cô tưởng tôi khờ dại lắm sao? Cô tưởng cô lừa gạt được tôi sao?
Hồng-Lan mắc cở trợn mắt:
- Anh dở trò gì đó, anh Đồng? Anh lừa gạt tôi, rồi anh đổ cho tôi lừa gạt anh, phải không? Rõ ràng anh nằm với tôi, anh còn chối gì?
Đồng hét lên:
- Tôi không thèm hạng con gái như cô đâu.
Cậu cười gằn một tiếng, nói tiếp:
- Hừ! Bây giờ tôi mới biết!... Người ta đã bày ra âm mưu để... để... Nhưng để làm gì được chớ? Lừa gạt tôi sao được chớ?
Hồng-Lan nhảy xuống đất, chạy gần đến Đồng, dịu giọng năn nỉ:
- Anh Đồng! Anh Đồng! Dù sao anh cũng đã...
- Thôi! Thôi! Tôi ghê tởm lắm rồi! Đừng có vu khống nữa! Cô là một con rắn độc! Nhưng lương tâm của tôi yên tỉnh. Tôi hoàn toàn vô tội, tôi không sợ gì đâu!
Hồng-Lan đặt tay lên vai cậu:
- Anh... Anh...
Đống hất tay cô ả một cái thật mạnh, bỏ đi. Cậu đi thẳng ra ngõ, không thèm chào ai, không thèm quay lại.
Chiều hôm ấy, trong căn nhà lá của Thanh, Đồng và Thanh ngồi đối diện như mọi khi. Nhưng lần này, Thanh ngạc nhiên thấy Đồng ngồi cúi mặt, trầm ngâm, coi bộ Đồng rất buồn. Đồng muốn nói một điều gì, nhưng do dự rất lâu. Sau rốt, Đồng ngước mắt lên ngó Thanh:
- Thanh à, anh phải đi xa.
- Anh đi đâu?
- Đi đâu anh cũng chưa biết. Nhưng anh đi.
- Vì sao anh đi?
- Vì... một chuyện lộn xộn... Nhưng thôi, xin em đừng hỏi anh...
- Chuyện chi, mà anh không cho em biết?
- Anh khó nói bây giờ. Ngày sau, Thanh sẽ hiểu. Anh đến đây chiều nay để từ giã Thanh... Anh mong rằng anh sẽ không di lâu, những bất cứ anh ở đâu, hình ảnh yêu quý của Thanh cũng không bao giờ phai nhạt trong tâm tưởng của anh. Em là người độc nhất mà anh đã yêu. Trong đời anh sẽ không có một người đàn bà nào khác... Thôi anh tạm biệt Thanh hôm nay, mong còn ngày tái ngộ.
Đồng đứng dậy. Hai ngấn lệ rưng rưng trên mắt, Đồng vội vàng lấy khăn lau, nói tiếp:
- Chiều nay, anh không có can đảm nhìn Thanh lâu. Nhưng có một ngày anh sẽ nói hết sự thật cho em nghe. Bây giờ đây, anh chỉ xin em tha lỗi cho anh, và anh gởi lời kính chào Ba.
- Nhưng chuyện gì mà anh giấu em?
- ...Anh không giấu em chuyện chi hết...
- Sao anh không nói rõ cho em nghe...
- Anh không nói được... Em thương anh thì một ngày sau em sẽ hiểu. Nay em đừng hỏi anh nữa... Anh đau khổ lắm, Thanh à... Anh xin lỗi Thanh...
Đồng vụt chạy ra đường cái, biến luôn. Thanh chạy theo gọi:
- Anh! Anh!
Nhưng Đồng không ngoảnh lại. Cậu cắm đầu chạy, chạy tắt theo bờ ruộng, chạy băng qua rạch dừa, chạy... chạy mãi như một ám ảnh rùng rợn đang đuổi riết theo cậu!... Thanh nước mắt chảy ràn rụa đứng nhìn theo bóng Đồng đã biến xa dưới bóng chiều tà...
Cô trở vào nhà, gục đầu xuống bàn khóc nức nở. Cô không hiểu gì hết. Cô thương Đồng quá, nghi Đồng có gặp một chuyện gì đau khổ lắm, nhưng chuyện chi mà Đồng giấu kín, không nói cho Thanh hay? Đồng đi đâu, sao không cho Thanh rõ? Rồi đây tương lai của Đồng sẽ ra sao? Duyên phận của Thanh sẽ như thế nào? Tình yêu của hai người, tình yêu đầu tiên và duy nhứt, đang say mê xinh đẹp biết bao, rồi đây sẽ tan vỡ chăng? Ôi! Bao nhiêu điều thắc mắc như bao nhiêu mối tơ vò rối rắm trong lòng Thanh! Mà Đồng thì đã biến, biến mất nơi chân trời vô định!... Thanh thoáng thấy đời cô như sắp đổ nát từng mảnh vụn! Nhưng lấy lại can đảm, trở lại bình tĩnh, Thanh tự bảo không nên thất vọng. Cô tin tưởng nơi tình yêu của Đồng, một bạn trẻ có tâm hồn cao cả. Và cô tin tưởng nơi số kiếp của cô đã gắn bó với Đồng bởi một mối cảm thông siêu thoát, một lý tưởng tuyệt vời, một tâm hồn cứng rắn, không có gì làm tiêu tan được cả.
Mây đen cuồn cuộn bao phủ cả vòm trời tối mịt. Mùa giông tố đem lại cho mỗi buổi hoàng hôn trên cây cỏ thôn quê, một màu ảm đạm nặng nề đầy điện khí. Một tia chớp loè trong đám mây, kế tiếp một tiếng sấm vang rền, báo hiệu một cơn phong vũ hãi hùng sắp sụp đổ xuống trần gian. Những con chim lạc đàn bay tán loạn, hớt hãi tìm về tổ ấm.
Thanh vội vàng sửa soạn cơm dọn lên. Ông già bảo:
- Con ăn cơm luôn chớ?
- Dạ mời Ba dùng trước.
Thanh bồi hồi rối loạn, gục đầu khóc trước bếp lửa cháy gần tàn. Cô lặng lẽ khóc một mình, nước mắt chảy ràn rụa trên hai gò má. Ngoài trời đã mưa ào ào, trận mưa trút xuống mịt mù cả non nước. Ông Bảy ăn cơm xong. Thanh dọn dẹp vội vàng rồi xin phép Ba cho đi một lúc. Ông già ngạc nhiên hỏi:
- Trời tối mù, mưa to gió lớn quá mà con đi đâu?
- Thưa Ba, con đến thăm anh Đồng.
Ông già chưa kịp hỏi rõ thì Thanh đã đội nón chạy ra đi. Trời mưa tầm tả, một trận mưa mực tối đen tối thui cả trời đất. Cô băng ruộng, lội mương theo lối tắt để đến nhà Đồng cho mau. Áo quần ướt hết dính nhẹp vô người, tay cô nắm chặt quai nón bị gió tốc muốn bay. Có lúc cô phải dừng lại, gió mạnh quá, mưa xối vào mặt cô, không sao đi được nữa. Một tiếng sét nổ rền trời như xé tan cả vũ trụ, cô phải ngồi thụp xuống bờ ruộng, hai tay ôm vào ngực. Trái tim cô như muốn bể làm đôi. Một lúc cô cố gượng đứng dậy, đi lảo đảo mò từng bước trong vực thẳm rào rạc của ban đêm.
Đến nhà Đồng, cô gõ cửa. Tiếng mẹ Đồng hỏi vọng ra. Cô đáp:
- Dạ, thưa bác, con đây ạ.
Cửa hé mờ, bà già sửng sốt:
- Con Hai! Mưa gió quá mà con đi đâu đây, con?
- Thưa Bác, có anh Đồng của con ở nhà không?
- Nó đi rồi, con à! Nó nói nó lên tỉnh, mà làm sao nó lật đật quá, hai bác biểu nó để sáng mai hãy đi, nó không chịu. Đi đâu mà không đem va-li theo.
- Thưa bác, anh đi có chuyện chi không?
- Chuyện chi của nó, bác đâu có biết! Nó nói riêng với anh Hai nó là nó muốn lên tỉnh kiếm sở làm. Nhưng kiếm sở làm thì bữa nào đi cũng được chớ. Nó có noi chi với con Hai không?
- Dạ thưa bác, anh không nói chi với con hết.
- Ông già và anh của Đồng ở trong buồng vừa ra. Ông già tiếp lời:
- Mấy bữa rày nó tới nhà ông Huyện để dạy cô Lịch học. Đêm hôm qua nó ở lại trển không về. Sáng nay tự nhiên nó về thiệt sớm. Nó buồn bực, hỏi gì nó cũng không nói. Trưa nay, nó không ăn cơm. Nó cứ nằm miết đến chiều, hai bác đi ra ruộng, thì nó đến đằng con. Rồi nó đi luôn. Vậy chớ nó không nói với con là nó đi đâu sao?
- Dạ không.
Thấy Thanh khóc sướt mướt, rất là thảm thiết, anh của Đồng bảo:
- Chắc nó không muốn dạy học ở nhà ông Huyện, nó đi lên tỉnh kiếm sở làm. Sợ Ba Má không cho, nên nó không dám nói đó. Ít bữa chắc nó gởi thư về, chớ không có chuyện chi đâu, em à.
Thanh chào mọi người để đi về. Ông già bà già cũng bảo:
- Trời mưa mà con đi sao được? Ở đây chờ tạnh mưa đã.
Nhưng Thanh nhứt định xin về... Chị dâu Đồng từ nãy cũng đứng nghe chuyện, vội vàng lấy áo tơi đưa Thanh:
- Cô mang thêm áo tơi, đỡ mưa cô Thanh!
Chị quay lại biểu chồng:
- Anh đốt cây đuốc đưa đường cô Thanh về, chớ trời tối như mực, cổ đi té làm sao?
Thanh cám ơn, chỉ mượn áo tơi mang vô, rồi chào về.
Trời vẫn mưa ào ào như nước lủ. Gió rít từng cơn. Sấm chớp từng hồi. Trong lòng Thanh cũng đang trải qua một cơn bão táp phong ba, hãi hùng, xáo loạn...

Nửa tháng sau, một buổi sáng tinh sương, nét mặt âu sầu buồn bã, Thanh lại quảy một đôi gánh và mang cuốc đến cuốc mướn vườn khoai của ông cậu. Lần trước ông Huyện không cho cô một củ khoai nào. Cô Thanh đổ mồ hôi dưới nắng gắt từ sáng đến trưa, cuốc năm giồng khoai được trên mười thúng củ, ông Huyện trả công khó nhọc cho đứa cháu của ông bằng hai thùng giây khoai đem về nấu cho heo ăn.
Cô Thanh không kêu rêu, lần này cũng đi cuốc mướn vì heo cô đói.
Cô con gái ông Michel trong nhà đi ra, mặc áo kimono như cô gái Nhựt, chưn đi dép Nhựt, môi đánh son đỏ loét. Má xoa phấn hồng, đầu thơm sặc mùi nước hoa. Thanh cúi đầu cuốc, không muốn ngó cô. Nhưng Hồng-Lan đến gần:
- Thanh ơi!
Thanh buộc lòng phải ngẩn mặt lên:
- Chào chị Lịch.
- Kêu tao là Hồng-Lan. Lịch là tên trong trường.
Hồng-Lan lại nhếch mép cười:
- Nghe nói mầy thôi học phải không Thanh?
- Phải, chị à!
- Ừ! Nghèo mà học hành làm chi? Nghe nói thằng Hai Ngọc, con chú Cai Tổng, nhà nó giàu lắm, nó muốn hỏi mầy làm vợ mà mầy không ưng nó hả? Sao mầy ngu vậy?
Thanh làm thinh không trả lời. Hồng-Lan nói tiếp:
- Tao cũng nghe nói mầy bồ với thằng Đồng, mầy sắp lấy nó, có hông?
Thanh cứ một mực làm thinh, không thèm nói chuyện. Hồng-Lan hỏi dồn:
- Có không, mầy? Tưởng mầy khôn, mầy mèo với đứa nào chớ mầy mèo với cái thằng chó đẻ đó, thì kệ mầy chớ! Tao cần chi phải biết! Nhưng tao cho mầy hay, nghe không Thanh, thằng Đồng nó khốn nạn lắm, mầy à. Mầy biết không, nó gạt gẫm tao để ngủ với tao, cho tao có chửa rồi nó trốn mất! Có phải đồ sở khanh không! Tao đâu có thèm lấy một thằng học trò nghèo như nó? Nhưng mầy nghĩ coi, nửa đêm thừa lúc tao ngủ mê, nó dám lẻn vô phòng tao, hiếp dâm tao! Thật là đồ đểu giả! Nhưng nó coi chừng tao! Đứa nhỏ trong bụng tao đây chừng đẻ ra mà thằng Đồng không nhìn nhận thì nó chạy trốn lên trời!
Thanh không cuốc được nữa, hai tay cô run cầm cập. Nhưng cô ráng giữ được bình tĩnh, cúi đầu cuốc lia lịa. Hồng-Lan lại hỏi, giọng hục hặc:
- Mầy biết thằng Đồng bây giờ ở đâu, Thanh?
Thấy Thanh làm thinh, Hồng-Lan càng hỏi dồn dập:
- Nó ở đâu? Hả? Nó trốn nơi nào? Nó trốn ở nhà mầy hả? Thanh? Sao mầy không nói?
Thanh vẫn làm thinh. Hồng-Lan xấn tới, hăm dọa:
- Sao mầy không nói? Mầy giấu cái thằng khốn nạn đó ở chỗ nào? Mầy muốn đồng lõa với nó để làm hại tao hả?
Thanh cắn răng, không trả lời, cứ giữ hết sức bình tĩnh để cuốc khoai.
Hồng-Lan tiếp tục mửa ra những lời bẩn thỉu:
- Tao tưởng nó cũng có lương tâm, cho nên tao mới chịu nghe lời Ba tao cho nó ở trong nhà, dạy tao học. Ai ngờ đâu, nó tán tỉnh tao mấy lần không được, rồi đêm hôm thừa lúc tao ngủ mê, lẻn quá buồng tao, ngủ với tao để cho tao có chửa, rồi sáng bữa sau nó đi mất biệt. Đồ cái thằng ăn c...! Đồ trâu! Đồ chó! Vậy mà mầy còn mèo với nó chớ, chèng ơi! Mầy định lấy nó thiệt hả, con đĩ ngựa!
Nghe đến đây Thanh tái mặt, hai tay rụng rời, quăng cuốc xuống đất, bỏ chạy vụt ra ngõ, Thanh chạy ra bờ ruộng, chạy qua rạch dừa, bỗng té xỉu trong bụi lát, hai chưn tuột xuống nước, nằm như xác chết!
Cô nằm bất tỉnh dưới bờ rạch có nửa tiếng đồng hồ, không ai hay biết. Cô mê mang, hai tay bám chặt lấy bùn. Tóc cô rũ rượi, tung xõa trong những cành lát, rối nùi bên mấy bụi cỏ hoang. Thỉnh thoảng cô nức lên một tiếng.
Một lúc lâu cô tỉnh dậy, áo quần ướt đẫm cả bùn, mặt mày ngơ ngác, đôi mắt sưng vù lên. Cô ngồi trên bờ, đăm đăm nhìn nơi chân trời xa, nước mắt chảy ràn rụa như muốn ngập tràn ra mây gió!...
Thanh không tin rằng người yêu của cô là một kẻ xấu xa tồi bại. Cô không tin rằng Đồng có thể có một hành động vô liêm sĩ nào. Cô hiểu Đồng hơn ai hết. Cô biết rõ tánh tình cao thượng của người bạn học từ lúc còn để chỏm tóc trên đầu cho đến ngày nay là một trang thanh niên tuấn tú, tâm hồn thanh cao, chí khí phi thường.
Một người như Đồng rất có thể lầm lỗi như ai, nhung không thể bần tiện như Hồng-Lan đã nói. Thanh quả quyết rằng người yêu của cô không bao giờ hàng động mù quáng si mê, và không bao giờ ngã quỵ dưới mãnh lực của cám dỗ, một cách nhục nhã đê hèn như thế.
Nhưng mặc dầu cô tin tưởng mạnh mẽ vững vàng, cô vẫn bị những lời tố cáo của Hồng-Lan thấm vào trí óc cô như một liều thuốc độc. Cô đã bị một vết thương sâu sắc nặng nề. Nhưng cô quyết rửa sạch những hụm máu của Hồng-Lan đã phun vào cô, cô quyết không để cho nó làm dơ bẩn danh dự của Đồng và làm mờ phai tình yêu trong trắng của cô. Cô tin rằng cô sẽ có can đảm. Cô sẽ đương đầu. Cô sẽ cương quyết và sẽ thắng.
Thanh thắc mắc tự hỏi: "Tại sao Đồng không thú thiệt với ta? Đồng phải hiểu rằng ta luôn luôn tha thứ nếu quả thật Đồng có phạm lỗi". Nhưng chính câu hỏi ấy đã cho cô một câu trả lời: "Nếu Đồng không có lỗi, Đồng đâu có cần ta tha thứ?" Sự im lặng của chàng phải chăng là một uất hận mà ta chưa tìm hiểu được nguyên do đó thôi? Đồng có bảo: "Sau này em sẽ hiểu..." Tại sao sau này Đồng mới cho ta hiểu?
Dù sao, bởi Thanh quá yêu Đồng, bởi Thanh quá tin tưởng nơi Đồng, nên Thanh cố tự bào chữa cho danh dự của người yêu và cả cho mối tình nồng nàn tha thiết của cô. Nhưng trong thâm tâm, cô vẫn đau xót vô cùng! Một ngày sau, thời gian sẽ đem lại sự thật như Đồng đã nói chăng? Cô sẽ thắng trong sự thử thách tàn nhẫn này chăng? Nhưng hiện nay, cô gái hiểm độc của ông Huyện, người chị khả ố khả bỉ, con ông cậu ruột của cô, đã thành công một phần nào trong việc làm tan vỡ giấc mộng đẹp nhứt của đời cô!
Thanh đứt từng đoạn ruột. Suốt bao nhiêu đêm trường, Thanh nhắm mắt ngủ không được, Thanh bị ám ảnh bởi những điều tố cáo ghê gớm, còn vang dội bên tai cô như tiếng sét đánh hãi hùng trong đêm bão táp. Cô sực nhớ đêm cô chạy đến nhà Đồng, giữa ruộng cô bị tiếng sét lớn làm cô kinh hoàng, cô ngồi thụp xuống bờ, nghe như trái tim cô muốn rạn nứt làm hai... Nhưng hôm nay, trái tim cô đã bể nát tan tành, từng mảnh vụn!...
Chương III
Cậu hai Ngọc, con thầy Cai Tổng, kề miệng vào tai ông Bảy:
- Có cái này bí mật và nguy hiểm lắm.
Cậu lấy ngón tay gõ ba cái lên túi áo "sơ mi sở thú" của cậu, và trợn mắt nói tiếp:
- Nguy hiểm lắm, chớ không chơi nghe?
Ông già hỏi:
- Cái gì mà nguy hiểm vậy cậu Hai?
- Có cô Thanh ở nhà không?
- Dạ có, để tôi kêu nó ra.
Ngọc khoát tay lia lịa:
- Chuyện này bí mật mà! Không nên nói lớn, lỡ có ai nghe thì chết đa!
Ông Bảy khẽ gọi con gái. Cô Thanh trong bếp đi ra, thấy mặt Ngọc cô chau mày tỏ vẻ khó chịu:
- Chào cậu Hai.
Ngọc bước đến gần cô, cô lùi một bước. Cậu hỏi:
- Cô có liên lạc với bọn trong khu không?
Thanh phản đối ngay:
- Trời ơi! Cậu Hai hỏi cái chi lạ vậy, cậu Hai? Tôi biết ai ở trong khu mà liên lạc?
Ngọc làm ra vẻ sợ sệt:
- Xuýt! Nói nho nhỏ, chớ cô Thanh! Chuyện này quan trọng lắm chớ không phải chơi đa cô! Cô không liên lạc với bọn trong bưng, sao có cái thơ đây? Nè... cô... coi...

Ngọc móc trong túi áo sơ mi, lấy ra một mảnh giấy đã gấp làm hai. Cậu mở giấy ra đưa cho Thanh coi, nhưng cậu vẫn nắm chặt sợ Thanh giựt mất. Cậu nói:
- Nè, tôi đọc cho ông Bảy nghe:
Ngày... tháng... 1949
Đồng-chí Nguyễn-Thị-Thanh
Chúng tôi đã nhận được 2000$00 cách hai tháng nay của đồng chí và hai hộp thuốc Danégan. Đợi đồng chí gởi thêm tiền và thuốc. Cám ơn.
Chào quyết thắng,
T. K.
Cậu gấp giấy lại, bỏ vô túi, rồi nói:
- Đó, bằng chứng rõ ràng thấy chưa?
Thanh tức giận hỏi:
- Xin lỗi cậu Hai, cậu lượm giấy đó ở đâu?
- Trời ơi, cô còn hỏi tôi hả? Tôi thương cô quá tôi mới đem cái thư này cho cô coi, chớ cô tưởng đâu tôi gạt cô sao? Tôi có người bạn thân, hiện giờ nó làm lính thân binh trong quân đội Pháp. Vừa rồi, nó đi ráp bố trong bưng, bắt được mấy thằng Việt-minh, lục soát trong người có một đứa làm liên lạc, có cái giấy này trong túi áo. Nó khai là thơ của ủy ban gởi cho cô Thanh ở làng này, tức là cô đó. Bất ngờ trời đất xui khiến số cô khỏi bị tù. Thằng bạn thân binh gặp tôi, tôi mời nó đi nhậu, nó mới đưa tôi coi cái thơ bí mật. Thấy gởi đề tên cô, tôi hết hồn! Tôi biểu nó: "Thôi mầy, cô Thanh là vị hôn thê của tao, mầy đừng bắt cô tội nghiệp". Xin lỗi cô, tôi phải nói như vậy đó, nó mới chịu đưa cái thơ cho tôi, và dặn tôi nếu lần sau nó còn bắt được cô tiếp tế cho Việt-minh, thì nó không tha đâu. Nhưng tôi chịu bảo đảm cho cô rồi. Không sao đâu, cô Thanh.
Thanh bình tĩnh đáp:
- Xin lỗi cậu Hai, tôi không có tiếp tế cho ai bao giờ hết. Tôi không có liên lạc gì với ai hết. Chuyện 2000$00 và hộp thuốc Danégan là chuyện bịa đặt. Làm gì có chuyện đó? Tự nhiên tôi không có mà đặt điều vu khống cho tôi sao được?
Cậu Hai vẫn nói nhỏ:
- Bằng chứng rành rành ra đây, rõ như ban ngày, cô còn chối sao? Nhưng cô đừng sợ, tôi đã bảo đảm cho cô mà! Nếu cô bằng lòng về làm dâu cho Ba má tôi, thì chuyện gì cũng êm xuôi hết!
Thanh cười gằn:
- Trời ơi! Chuyện này thật là kỳ cục!
- Để tôi nói hết cho cô nghe. Chuyện này đâu có phải là chuyện bịa đặt! Nhưng đây là chuyện bí mật. Cô Thanh, tôi thương cô, tôi không nỡ để cô bị bắt bớ tù tội. Cô mà bị bắt, thì cô bỏ cha già đói rách trơ trọi một thân một mình ở cái lều tranh dốt nát hay sao? Bây giờ ông Bảy đã yếu đuối, còn có một mình cô mà cô không lo phụng dưỡng để đền ơn sanh thành hay sao? Cô có học lẽ nào cô phạm tội bất hiếu với cha già? Cô muốn cứng đầu cứng cổ, thì có lợi chi cho cô không? Cô báo đáp được ơn cha nghĩa mẹ không? Chi bằng cô nghe tôi đây thì hạnh phúc hoàn toàn biết bao! Cô lấy tôi thì tôi lo cho hết mọi việc để cô sung sướng giàu sang, hạnh phúc đầy đủ hơn ai hết. Tôi thương cô tức là tôi phải thương Ba cô. Tôi sắm áo quần cho ông Bảy, tôi lo thuốc thang tẩm bổ cho ông Bảy. Tôi nói thiệt đó, chớ tôi không nói gạt cô đâu. Cô nghĩ coi, cô Thanh...
Thanh ngắt lời ngay:
- Cậu Hai không cần nói nhiều. Một là tôi không xứng đáng làm bạn với cậu. Hai là cậu không xứng đáng làm bạn với tôi.
- Chà! tôi không xứng đáng làm bạn với cô à! Cô kiêu-ngạo ít ít vậy chớ, cô Hai! Tôi có vàng bạc châu báu. Tôi đem gia tài ruộng đất của tôi mà mua mấy trăm mấy ngàn cô tiểu thơ Sàigòn cũng được mà! Nhưng không đâu cô Hai à. Tôi chỉ quý cô bởi lẽ cô là người nết na hiền lành mà tôi biết từ thuở nhỏ. Tôi yêu cô, tôi chìu cô, tôi quý cô, cô về làm vợ tôi thì cô muốn gì được nấy mà! Cô lên Sàigòn ở vói tôi, cô cũng biết tôi có mấy dẫy phố lầu ở trên đó chớ! Cô đi xe Huê kỳ, cô ở nhà lầu sang trọng, cô đeo hột xoàn đầy cổ, đầy tay, cô có kẻ hầu người hạ. Có sướng hơn không?
- Tôi không cần cậu khoe tiền tài với tôi.Tiền tài!!! Cậu tưởng đâu cậu đem vàng, bạc châu báu nhử được tôi sao?
- Cô Thanh ơi, tôi nói vậy cũng có hơi khoe khoang một chút, cô đừng giận tôi, nghe cô! Nhưng cô nghĩ kỹ lại coi, mặc dầu cô thiệt đẹp, cô đẹp như tiên sa hạ giới, nhưng mà cô nghèo! Cô phải đi cuốc khoai mướn.Cô phải đi gặt lúa mướn, cô phải đi xay gạo mướn cho nhà giàu. Cô ở trong làng này, mà cô nghèo thì chẳng lẽ người đẹp như cô, có học thức như cô, lại đi lấy một thằng tá điền sao chớ?
Thanh chận đứng lại:
- Xin lỗi cậu Hai, tôi nói trắng ra để dứt khoát câu chuyện của cậu, là tôi không thể lấy cậu được.
- À cô không muốn lấy một chàng trai trẻ thông minh, nhiều tiền nhiều bạc như tôi, để cô đi lấy một thằng tá điền hả?
- Phải, thà tôi lấy một thằng tá điền.
- Vậy thì cô ương ngạnh quá rồi. Còn cái thơ liên lạc của Việt minh đây, cô nghĩ sao? Nếu cô bằng lòng làm vợ tôi thì tôi bảo đảm cho cô khỏi tù tội. Còn không thì tôi trả cái thư này lại cho lính Partisans để họ bắt cô!
- Tôi vô tội, tôi không sợ ai hết.
Ngọc dịu giọng:
- Cô Hai! Tôi không nỡ để cô bị tù! Tôi thương cô lắm. Cô đừng giận tôi, cô Hai!... Cô đẹp quá, cô Hai... Tôi yêu cô quá cô Hai!...Cô Hai...
Ngọc nhảy xổ tới ôm đại cô Thanh. Thanh hất hắn ra:
- Cậu này làm cái gì khốn nạn vậy ?
Ngọc nhảy xổ tới như điên, cứ nhảy xổm vào. Thanh chạy trốn xuống bếp. Nó chạy theo xuống bếp, nó vật ngả cô xuống đất, nằm đè lên, miệng lẩm bẩm như kẻ mất trí:
- Thanh ơi!... Thanh đẹp quá... Thanh đẹp quá... tôi yêu Thanh quá... Thanh ơi
Nhưng Thanh dẫy dụa, đạp thằng vũ phu một đạp, nó lăn ra. Nó lại bò dậy, sấn tới ôm choàng lấy cô. Cô tức mình cắn nơi tay nó một miếng thật đau, nó lật đật buông ra. Thanh ngồi dậy được, áo đã bị nó xé rách toạc một miếng lớn. Thanh chạy ra ngoài kêu cứu. Con quỉ dâm dục còn rán chạy theo ôm Thanh vật xuống ngay trên manh chiếu rách ở sâu sau. Thanh kêu la, dẫy dụa, hai chân đẫy nó ra, thì ông Bảy trông thấy cảnh tượng dã man, nóng lòng sợ con gái mình cự không lại thằng khốn nạn, ông liền chạy vô bếp, lấy con dao phay ném vào tay nó. Con dao chặt nhằm bàn tay phải của nó, lẽo rớt một miếng thịt. Máu chảy túa lụa.
Ngọc không được thỏa mãn, Xấu hổ và tức giận, ôm bàn tay bị thương chạy ù về nhà.

Ba đêm sau vào khoảng mười giờ, Thanh ngồi trên giường bóp rượu thuốc cho cha, bỗng nghe ba tiếng súng nổ. Một viên đạn bay vèo phớt nóc nhà.
Ông già hoảng hốt hỏi Thanh:
- Cái gì vậy con?
- Súng nổ, Ba à.
Liền lúc đó hai người võ trang, ‘‘lính thân binh’’ của quân đội Pháp, đập cửa xô vào. Ngọc đi vô sau với một người nữa mặc thường phục. Ngọc chỉ cô Thanh:
- Nó đó.
Hai người lính chạy lại nắm tay Thanh, Thanh kháng cự:
- Sao các ông bắt tôi?
Ngọc, tay mặt bị băng bó vì vết thương ba hôm trước, đưa tay trái đấm một thoi vào má Thanh:
- Mầy còn hỏi hả? Con chó, mày!
Hai người lính còng tay Thanh, lấy bá súng giọng vào lưng cô;
- Đi, mầy!
Họ đẩy cô Thanh đi. Ra giữa sân, Thanh còn nghe trong nhà tiếng của cha cô vừa run vừa khóc:
- Sao cậu dẫn lính tới bắt con tôi, cậu Hai?
Tiếng Ngọc hằm hằm:
- Còn thằng già này, bữa nay mày biết tao...
Cô Thanh chỉ nghe được mấy tiếng đó, rồi cô bị hai người lính đẫy cô lên xe Jeep, xe rồ máy chạy.
Trời tối như mực. Mấy tiếng súng lại nổ lốp bốp. Cả làng đều khiếp sợ, im thim thíp. Không một người nào dám ló dạng ra để coi thử chuyện gì. Cho mãi đến sáng, cả làng vẫn còn bị đè nặng dưới ảm đảnh tấn kịch rùng rợn, bí mật trong đêm khuya tại nhà ông Bảy.

Mảnh giấy nhỏ với mấy giòng chữ ngây ngô mà Ngọc đưa ra, nói là ‘‘Bức thơ trong khu’’ gửi về cho ‘‘Đồng chí Thanh’’ chỉ là một tài liệu hoàn toàn bịa đặt, do Ngọc mượn người khác viết ra, cốt để dọa Thanh, ép Thanh lấy hắn mà thôi.
Ép Thanh không được, lại bị nhục nhã, bị một vết thương nơi tay, Ngọc mới tìm cách trả thù. Hắn đem cái ‘‘thơ’’ vu cáo ấy đi trình với viên chỉ huy một đồn lính thân binh của Pháp, và tự xưng rằng chính hắn đã chận bắt được một đứa nhỏ làm liên lạc cho Việt minh, thường về làng,đưa giấy tờ cho cô Thanh.
Ngọc khai rằng đứa nhỏ thừa lúc hắn vô ý, đã trốn thoát, nhưng hắn đã xét lấy được cái ‘‘thơ’’ kia. Để thưởng Ngọc về công trạng của hắn, viên quan tư Pháp cho hắn một trăm đồng bạc. Nhưng Ngọc lấy tiền ấy cho lại hai người thân binh được lịnh theo hắn về làng để bắt cô Thanh được một trăm đồng, hai người lính sốt sắn lắm. Còn người mặc thường phục đi với hắn là nhơn viên của một cơ quan trinh thám Pháp bạn của Ngọc, đã được Ngọc bao cho nhậu nhẹt, hát xướng, chơi bời đĩ điếm. Ngọc nhờ người ấy giúp hắn trả thù hai cha con cô Thanh. Ngọc lấy tiền túi cho hắn hai trăm đồng.
Sáng hôm sau, dân chúng trong làng truyền miệng với nhau rằng khi hôm lính da đen về đã khám xét nhà cô Thanh, có bắt được truyền đơn, lựu đạn, và tiền bạc nhiều lắm. Còn ông Bảy kháng cự lại thì bị nhơn viên trinh thám pháp bắn một phát vào chưn té quỵ rồi họ bắt ông chở luôn lên Saigòn.
Người đầu tiên phao truyền ra tin ấy, là một người thân tín của Ngọc, con thầy Cai Tổng.
Sự thật thì trong một sư đoàn Quốc gia ở chiến khu Hậu-Giang cũng có một người muốn bắt liên Iạc với Thanh.
Một buổi sáng, mười hôm sau khi cô Thanh bị bắt, một thằng bé chăn trâu ở trong làng cỡi trâu đi ngang qua nhà cô Thanh, thấy túp nhà bỏ hoang, không có ai ở hết. Cảnh tượng rất đìu hiu thảm thiết.
Nó thả trâu ăn cỏ bờ ruộng, lẻn vô nhà, thấy các cửa đều mở, nhưng đồ đạc còn nguyên. Nó lấy then gài các cửa cho chặt, rồi ra đi. Nó cỡi lên lưng trâu, đánh trâu đi ăn chỗ khác.
Thằng bé vui tánh lắm. Trong làng ai cũng mến nó, gọi nó là thằng Cùi. Không phải nó bị bịnh cùi. Chính là cái tên của cha mẹ nó đặt cho. Cha mẹ nó là hai người ăn mày trên tỉnh, ngày đi xin ăn, tối về trải manh chiếu rách ngũ dưới góc một cây mít ở ngoại ô. Suốt mười mấy năm trời, hai vợ chồng người ăn mày che chồi ở dưới góc mít, sanh được bốn đứa con trai: thằng Mít, thằng Hột, thằng Cùi, thang Xơ. Thằng Mít lớn nhứt, 14 tuổi, theo một chú chệt bán bánh mì ở Tân An làm con nuôi. Thằng Hột 13 tuổi, làm nghề đánh giày ở Cần-thơ. Thằng Út là thằng Xơ, mới có tám tuổi còn theo cha mẹ đi ăn xin.
Thằng Cùi là thằng thứ ba, 11 tuổi, được một ông điền chủ đem về ruộng nuôi cho chăn trâu. Nó thông minh lắm. Chỉ nghe lỏm học trò học, nó cũng đã thuộc hết vần quốc ngữ, và đọc được, viết được. Thật là nó học không có thầy. Ai nói chuyện gì, nó nghe qua một lần là nhớ từng câu. Lần lần nó học được chữ số, và làm được toán cộng, toán trừ. Tánh nết thì ngoan ngoãn, tuy không ai dạy bảo nhưng thấy người ta làm điều gì hay là nó hiểu, bắt chước làm theo. Nhờ vậy, nó rất lễ phép, sạch sẽ, siêng năng, hiền lành. Tóm lại, nó có rất nhiều tánh tốt mà nhiều đứa trẻ có học con nhà giàu không có.
Sáng hôm nay, nó đến thăm nhà cô Thanh, không phải là chuyện tò mò. Chính vì nó có nhận làm liên lạc cho một Sư đoàn Quốc gia trong chiến khu, thời kỳ mà người Việt Nam đủ các đảng phái đang đánh Pháp để phục hồi độc lập. Làm cách nào người ta đã tiếp xúc với nó, và tiếp xúc lúc nào, chúng ta không sao biết được. Chỉ biết rằng mười ngày sau khi Thanh bị bắt, thằng Cùi có nhận được của một người đàn bà trao lại cho nó một rẻo giấy xanh thật mỏng, dặn nó giấu kín và tìm cách trao tận tay cô Thanh
Thằng Cùi xét đoán rằng muốn biết rõ tin tức cô Thanh bị giam ở đâu, chỉ nên hỏi cậu Hai Ngọc, con thầy Cai Tổng, vì cậu Hai hay chơi thân với nhà binh Pháp. Vì vậy ngày hôm ấy và ba ngày sau, thằng Cùi tìm cách gặp cậu Ngọc và gây cảm tình. Biết tánh cậu ưa nói chuyện con gái, nó sánh đôi cậu với cô này, cô nọ, các cô gái quê trong xã. Nó khen cậu giàu sang, đẹp trai, diện áo quần bảnh và con gái mê cậu lắm. Lần lần nó hỏi:
- Hay là cậu cưới có Lịch, con ông Huyện Cảnh, Cậu Hai à?
- Úy! Tao không thèm con đó. Tao biết nó ở Sàigon có nhiều mèo lắm mầy ơi!
- Ơ … ờ …Hay là cậu cưới cô Thanh, con ông Bảy?
- Con Thanh hả? Chớ mầy không biết nó bị bắt rồi sao?
Thằng Cùi đã biết, nhưng nó làm bộ ngớ ngẫn:
- Ủa! Sao cô Thanh bị bắt vậy, cậu Hai?
- Tao nói cho mầy, mầy đừng nói lại cho ai biết nghe hôn? Trong làng nầy người la đồn là cô bị lính Sê-nê-ga-le (Sénégale) bắt, nhưng tao biết rõ là cô bị lính thân binh bắt.
- Trời ơi! Tội nghiệp cho cổ quá vậy? Tại sao cổ bị bắt cậu Hai?
- Tại cổ... Ai biểu cổ không ưng làm vợ tao!
- Sao mà cổ ngu quá vậy. Làm vợ cậu Hai sướng chết cha đi mà không chịu! Chèng đét ơi! Em mà làm con gái thì em ưng cậu liền! Sao cô Thanh cô ngốc quá, cậu Hai hả?
- Tại cổ không ưng làm vợ tao, nên tao dẫn lính tới bắt cổ đó.
- Vậy hả, cậu Hai? Cậu Hai nói sao với lính mà họ tới bắt cổ?
- Tao có lượm được cái thơ trong Bưng gởi ra cho nó.
Thằng Cùi nói cười tự nhiên, không hề đổi sắc mặt, tuy trong túi áo nó hiện có cái thơ trong Bưng gởi cho Thanh! Nó ngờ nghệch hỏi:
- Vậy sao? Trong Bưng cũng gởi thơ cho cổ sao? Mèn ơi!
- Tao đem cái thơ trình với ông quan Tư ở đồn lính Thân binh, quan tư cho lính về bắt nó,
- Thơ trong Bưng gởi ra cho cổ, làm sao cậu Hai lượm được tài quá vậy?
- Cái thơ tự tao đặt ra để phao vu cho nó chớ làm gì có thơ trong Bưng!
- Trời đất ơi! Rồi lính bắt bỏ tù cổ hả, cậu Hai?
- Ừ.
- Lính bắt cổ đi làm có, quét đường, phải không cậu Hai?
- Ừ.
- Ở tù cực thấy mồ, mà thích đi ở tù!
Bấy nhiêu tin tức đủ cho thằng Cùi biết nơi cô Thanh bị giam, Hai hôm sau nó còn đi chăn trâu. Nó vẫn gặp cậu Hai, nói chuyện tâm ruồng, không nhắc lại chuyện cô Thanh nữa. Qua ngày thứ tư, nó xin phép ông điền chủ cho nó lên tỉnh thăm cha mẹ nó, hai vợ chồng người ăn mày ở góc cây mít. Nó mặc quần áo sạch sẽ, và có đem theo ba chục đồng, là tất cả vốn liếng của nó. Tiền này ở đâu nó có? Một lần nó bẩy được một con sáo, nó bán cho một cậu học trò được năm đồng. Mấy lần khác nó câu được cá lóc, nó đem bán ngoài chợ được hai chục đồng Lại có một lần nó đứng trên lưng con trâu, nhào lộn như hát xiếc cho người ta coi. Người ta cho nó năm đồng. Được cái vốn ba chục đồng nó giành dụm cất trong ống tre. Chuyến này đi lên tỉnh, nó đem theo. Nhưng không phải nó đem đi ăn bánh đâu. Nó đưa cho cha mẹ nó hai chục đồng, còn mười đồng nó đi mua năm cái bánh bông lan, nhưng nó không ăn. Nó lựa một cái xấu nhứt, lấy que tre moi một lỗ nhỏ để nhét rẻo giấy bí mật vô tận trong ruột bánh, rồi trám lại thật khéo người ngoài ngó chiếc bánh không nghi ngờ gì được.
Xong nó hỏi thăm tìm đến đồn lính thân binh. Nó đi qua đi lại hai lần trước đồn, không thấy cô Thanh. Không thấy người tù nào quét đường hay làm cỏ. Nó hơi thất vọng. Nhưng sau cùng nó làm bộ sợ sệt đến gần người lính gát cửa, trong tay nó cầm gói bánh bông lan. Nó lễ phép hỏi người lính:
- Thưa Bác, cô con có ở trong đồn không? Bác làm ơn chỉ giùm.
- Cô mầy là ai?
- Dạ thưa bác, cô con bị ở tù trong nầy nè.
- Ở đây có nhiều tù. Cô mầy tên gì?
- Dạ thưa Bác cô con là cô Thanh, cô đẹp lắm.
- Cô học trò đó hả?
- Dạ thưa bác., cô con nghỉ hè ở nhà, mới bị bắt sau mười bữa rày.
- Mầy hỏi có chuyện gì?
- Con đem bánh cho cô? Hôm qua là ngày giỗ Ngoại con. Cổ bị bắt ở tù, ở nhà mẹ con mua bánh bông lan cúng Ngoại con, rồi biểu con đem ít cái bánh đến cho cô ăn, kẻo tội nghiệp.
- Mầy là dúng gì của cổ?
- Dạ, thưa bác con là cháu kêu cổ bằng cô. Bác làm ơn kêu cổ ra cho con đưa bánh cho cô con.
Người lính la nó:
- Không được đâu, mầy. Đi, đi!
Thằng Cùi liền làm bộ khóc. Rồi nó khóc thiệt. Nước mắt chảy dầm dề, thấy tội nghiệp. Bỗng đâu có chiếc xe jeep từ ngoài phố chạy về, quẹo vô cửa đồn. Ông quan tư ngồi trên xe trông thấy thằng nhỏ, liền thắng máy, ngừng xe hỏi người lính:
- Thằng bé nào đây? Sao nó khóc?
Người lính thuật lại câu chuyện. Viên quan tư liền gọi nó lại gần, thấy nó dễ thương. Nó vẫn còn khóc. Ông quan tư bảo lính gọi người tù tên là Thanh ra cổng đồn. Một người lính mang súng kèm theo sau cô. Trông thấy thằng Cùi, Thanh rất ngạc nhiên, nghĩ thầm: tại sao thằng bé chăn trâu nầy tìm đến cô làm chi? Nhưng thằng Cùi khôn lanh, vừa thấy cô, nó chạy lại mừng rỡ ôm áo cô ;
- Cô ơi! Cô! Hôm qua giỗ bà Ngoại, cô đi ở tù, mẹ con ở nhà mua bánh và chuối cúng bà Ngoại, rồi mẹ con biểu con đem bánh cho cô ăn. Bánh cúng Ngoại đó cô ơi!
Thanh thấy rõ là chuyện bịa đặt, nhưng cô cũng lanh trí đoán chắc có chuyện chi bí mật đây, liền ôm đầu nó hôn, rồi cầm gói bánh. Hai cô cháu coi bộ âu yếm nhau lắm.
Viên quan tư cảm động quá, không muốn chứng kiến cảnh thân mật não nùng kia, rồ máy cho xe chạy vô sân đồn. Ông cũng bảo lính đi vô hết chỉ để người lính gát đứng coi chừng cô tù nhơn thôi. Thằng Cùi thừa lúc người lính gát ngó chỗ khác, khẽ bảo cô Thanh: ‘‘Cô coi kỹ trong ruột cái bánh này’’. Nó bấm ngón tay vào cái bánh có nhét thơ. Song sợ lộ chuyện, thằng Cùi lễ phép vòng tay:
- Thưa cô Hai con về.
- Ừ con về. Cô gởi lời thăm mẹ con
- Dạ.
Cô Thanh nhìn theo thằng nhỏ đi xa xa, rồi cô trở vào trong trại giam tù nhơn, cầm theo gói bánh bông lan.
Vào trong phòng giam, một mình Thanh bê ra coi cái bánh bông lan có dấu tay của thằng Cùi. Cô trông thấy một viên giấy vo tròn, lớn bằng hột đậu xanh, nhét ngay giữa ruột! Cô mở nhè nhẹ viên giấy ra Cô vui mừng sung sướng nhận ngay nét chữ của Đồng, viết rất nhỏ, vắn tắt mấy câu:
Anh khỏe mạnh, công việc hoạt động thỏa mãn. Ở một Sư đoàn Quốc gia biệt lập, Nhớ em - hôn em. Kính thăm Ba, Ba má, anh chị. Sẽ có tin sau
Đ...
Đúng là thư của Đồng. Bức thư đầu tiên từ khi Đồng bỏ nhà ra đi! Té ra chàng đi theo phe Quốc gia kháng chiến! Thanh tủm tỉm cười. Cô khoan khoái vừa khám phá được một bí ẩn mà chỉ có hai người thông cảm với nhau thôi. Nhưng cô vẫn chưa hiểu Đồng liên lạc với thằng Cùi từ bao giờ? Làm sao Đồng trao thơ nầy cho nó được? Sao đứa bé chăn trâu đó biết được cô bị giam ở trại lính Thân binh? Đồng có biết chuyện cô bị bắt và bị giam ở đây không? Một điều cô thắc mắc và lo lắng hơn nữa, là Ba cô hiện nay như thế nào? Ông có bị tai nạn gì không? Ông đau hay khỏe mạnh?
Bao nhiêu vấn đề! Bao nhiêu tư lự! Nhưng hôm nay nhận được thư Đồng, Thanh được an ủi phần nào những phiền muộn lo âu. Thanh vui mừng được biết Đồng đã đi kháng chiến. Đồng đã đem thân nam nhi để trả nợ Non-Sông ; Đồng đã đem tuổi trẻ đầy nhiệt huyết hy sinh trong lửa đạn để góp phần chiến đấu giành độc Iập cho Tổ Quốc.
Thanh sung sướng, Thanh hãnh diện. Thanh đọc đi đọc lại rẻo giấy xanh nho nhỏ, mấy giòng chữ Ií tí của người yêu,... chứa đựng bao nhiêu hứa hẹn huy hoàng, bao nhiêu hy vọng!...
Thanh nở một nụ cười tươi trong thăm thẳm của ngục tù. Bây giờ đây Đồng yêu dấu của Thanh đã đạt được chí nguyện, chí nguyện tranh đấu cho lý tưởng, hy sinh cho nhiệm vụ đến thắng trận cuối cùng. Đồng đã thực hiện lời cam kết với Thanh. Đồng đã đi hùng dũng nơi chiến trường. Thanh từ nay hăng hái bền lòng vững dạ,dầu gặp bao nhiêu nguy biến chăng nữa Thanh cũng quyết không bao giờ nao núng. Mấy giòng chữ của Đồng đem lại cho Thanh một nguồn phấn khởi vộ tận vô biên. Lòng Thanh hôm nay phơi phới vui mừng. Thanh đứng trong cửa sổ song sắt của nhà lao, nhìn một góc trời vuông, như thấy phảng phất hình ảnh của người yêu lồng trong khung kiến lớn. Thanh mỉm cười, đê mê, gọi thầm: «Đồng! Đồngyêu dấu của em! Cô tưởng tượng như thấy nụ cười của chàng in đậm trên nền trời mộng ảo.
Một người lính mang súng cầm một xâu chìa khóa đến mở cửa phòng giam. Tiếng chìa khóa kêu kẹt...kẹt... Người lính gắt gỏng bảo:
- Đi gánh nước, cô!
Thanh ra đi làm xâu có người lính mang súng theo kèm giữ, nhưng cô vui vẻ khoan khoái, nét mặt hớn hở hơn bao giờ hết!
Có lần Thanh đau thật nặng. Cô nằm rên xiết trong phòng giam tối tăm chật hẹp, không ai săn sóc. Thanh đau đã ba ngày, không có Bác sĩ coi bịnh, không ăn được cơm trong tù, ăn vô càng đau thêm! Thanh tưởng có thể chết được, vì hơi thở yếu quá mà hai chân sưng lên như bị thủng, Thanh nằm khóc trên chiếc giường hôi hám. Nước mắt chảy ràn rụa, Thanh lẫm bẫm kêu: ‘‘ Anh Đồng ơi! Lẽ nào em chết không được thấy mặt anh’’. Thanh lăn trên giường, mệt lả người đôi mắt nhìn lên bức trần u ám, như trong hầm của địa ngục. Thanh cố gượng mỉm cười: ‘‘Anh Đồng yêu quí của em! Anh ráng làm tròn nhiệm vụ nhé, đối với Tổ quốc, với non sông!... Còn em, chắc em chết quá anh à.... Nhưng em chết vui vẻ, vì em biết anh yêu em....Em biết anh yêu em, là đủ rồi! Là em mãn nguyện.... Còn ba của con!... Ba ơi! Con chết mất, Ba ơi! Con chết mà không trông thấy Ba! Con nhớ Ba quá! Làm sao con được về hầu hạ Ba?... Ba ơi! Ba!
Nhưng chỉ là một cơn mê sảng. Ba ngày sau, Thanh được đưa đi nhà thương, ở đây một tuần cô đã hơi khỏe mạnh. Cô khỏi chết vì bịnh đau tim và bịnh thủng. Mặc dầu Thanh yếu, gầy hơn trước nhiều, nhưng Thanh vẫn đẹp, sắc đẹp thiên nhiên của Thanh, sắc đẹp tươi thắm vĩnh viễn, không có cơn bịnh nào làm tàn tạ ủ ê được.
Vừa khỏi bịnh, Thanh đã bị bắt đi làm xâu như trước. Chiều nay Thanh phải đào một cái hầm đựng rác cạnh bếp đồn. Từ hai giờ đến bốn giờ, dưới nắng chan chan. Thanh làm việc quá mệt nhọc, muốn té xỉu. Tay Thanh run lên, cầm cuốc không được nữa. Người lính thấy vậy thương hại, cho Thanh vô hè ngồi nghĩ một lúc.
Một người lính khác từ ngoài bót gát cầm một gói nhỏ thủng thẳng đi vào cách chỗ Thanh ngồi chừng mươi thước. Anh hỏi:
- Ai là Thanh?
Thanh ngước mắt:
- Tôi.
- Có gói gì người nhà gởi đây nè!
Vừa nói anh vừa quăng gói trước mặt Thanh. Cái gói rớt phịch trúng một vũng nước bẩn. Thanh, đứng dậy, lượm lên. Gói bị ướt hết và đã bị mở tùng ra để khám xét từ ngoài bót gát. Thanh soạn ra coi: Một áo bà ba cũ của Thanh, một ve dầu cảm mạo, ba cái bánh ít. Thanh bước đến giữa sân ngó ra cổng đồn. Cô thấy thằng Cùi đứng bên kia lề đường ngó vô, hai tay vẫy vẫy chào cô. Rồi nó biến mất.
Năm giờ chiều, Thanh trở vô phòng giam. Người lính khóa cửa lại. Cô xổ hết ba cái bánh ít ra, không thấy gì. Cô coi kỹ nhản hiệu dán trên ve dầu cảm mạo cũng không có gì. Đến chiếc áo bà ba, cô nhìn từng cái túi, cái lai, cái tay... cũng không có gì. Cô thất vọng, sờ soạn xem kỹ lại cổ áo, bỗng thấy bên trong cổ một đường chỉ mới may vụng về. Cô lấy móng tay khều một mối chỉ và rút ra. Cô tháo hết một nửa cổ áo ở phía trong, thì lòi ra một chéo giấy. Thanh vui mừng, rút giấy ra: Nét chữ của Đông viết li ti trên mảnh giấy thật mỏng. Thanh hồi hộp đọc:
‘‘Thanh yêu dấu, anh buồn bã vừa được tin em bị bắt. Không hiểu lý do. Lo em,không chịu nổi cảnh tù, Nhưng hy vọng em chịu đựng các nguy biến. Can
đảm. Nhớ câu Néhru nói: ‘‘Jail is a great school of life’’. Nhà tù là đại học đường của cuộc đời. Luôn luôn phụng sự lý tưởng Độc-lập Tổ Quốc. Chào quyết thắng. Hôn em.
Đ...
Thanh đưa ngay thư Đồng lên môi hôn say mê, hôn thật lâu. Bức thư của chàng rạo rực như thịt da của chàng vậy. Cô hít hơi thơm ngào ngạt của mỗi giòng chữ. Cô muốn uống cho tê mê men nồng của mỗi lời nói. Cô mỉm cười, rưng rưng nước mắt, ấp ủ bức thư vào môi, lẩm nhẩm: ‘‘Đồng yêu thiêng liêng của em’’!. Nằm im, Thanh mơ tưởng nét mặt hiền lành của ý trung nhơn với đôi mắt buồn mơ. Giờ phút đau khổ, Đồng hiện ra trong giấc mộng của Thanh như một vị thần. Thanh sống trong giấc mộng ấy và tin tưởng nơi vị thần ấy.
Chương IV
Thanh bị giam 5 tháng, mà không ai lấy khẩu cung, không ai lưu ý đến trường hợp của cô. Cô muốn tỏ nỗi lòng oan ức, nhưng không ai thèm nghe. Bỗng một hôm, thằng Cùi đến thăm cô ngoài cổng đồn. Nó đưa cô một tờ báo ở Sàigòn, tưởng ở tù cũng được coi báo như ở ngoài. Người lính gát giựt lấy tờ báo, đánh nó một tát tay trên má thật đau, làm nó xiểng niểng:
- Mầy muốn ở tù hả?
Nhưng thằng Cùi không sợ. Đau quá nó khóc thét lên, định nằm vạ trước cửa đồn. Người lính nổi giận, chỉa súng hăm dọa nó:
- Mầy đứng dậy đi không? Tao bắn mầy chết bây giờ!
Lính trong bót gát ùa ra thật đông, kéo thằng Cùi dậy đánh thêm nó mấy cái chí tử. Ông quan tư trong đồn nghe ồn ào náo nhiệt, lật đật chạy ra, hỏi có chuyện gì. Viên đội giảng giải:
- Thưa Thiếu tá, thằng nhỏ này đem đồ cấm cho tù nhơn.
Cô Thanh lanh miệng liền nói bằng tiếng Pháp với viên quan tư:
- Mon Commandant, le petit est mon neveu. Il m’a apporté un journal de Saigon, ne sachant certainemeut pas que les journaux sont inlerdits en prison...
(Thưa ông Thiếu tá, thằng nhỏ này là cháu của tôi, nó không biết rằng điều cấm đem báo vào cho trong tù)

Viên quan tư Pháp hết sức ngạc nhiên ông không ngờ cô tù nhơn nói tiếng Pháp thông thạo như thế. Thấy cách ăn mặc quê mùa, điệu bộ lờ khờ, lâu nay ông cử tưởng là một cô gái quê, dốt nát, ngu dại, bị V.M. lợi dụng.
Quan tư trố mắt hỏi Thanh bằng tiếng Pháp:
- Cô nói được tiếng Pháp?Tại sao cô bị bắt vô đây?
Thanh trả lời rất lanh-lợi, cũng bằng tiếng Pháp.
- Thưa thiếu tá, đó là cầu hỏi mà chính tôi đã tự hỏi từ năm tháng nay.
- Cô là Việt minh?
- Thưa không. Tôi không bao giờ làm Việt minh cả.
- Cô vào phòng giấy tôi. Tôi muốn coi hồ sơ của cô.
Quây lại người lính gát. Ông bảo:
- Thả thằng nhỏ đi, Nó tí xíu biết gì!
Thằng Cùi mừng quá, lễ phép chấp tay chào:
- Cám ơn ông lớn. Thưa cô con về.
Tội nghiệp thằng Cùi, nó vừa đi vừa lấy tay ôm cái má bị đánh sưng đỏ bằm!
Viên quan tư Pháp tìm trong tủ văn khố một lúc, tức giận gọi một sĩ quan:
- Hồ sơ của cô này để đâu?
- Dạ thưa thiếu tá, không có hồ sơ của y.
- Hả? không có hồ sơ? Vậy thì vì lý do gì cô ấy ở đây? Các anh chỉ quen thói bỏ tù những kẻ vô tội!
- Thưa, người ta có bắt được một cái thơ trong Bưng gởi về cho cổ...
- Cái thơ nào đâu?
- Thưa Thiếu tá, tôi có cất cái thơ ấy trong tủ.
- Đi tìm coi!
Viên sĩ quan lục các giấy tờ, tìm ra được rẽo giấy nhỏ gọi là cái thơ, đưa ông xếp coi. Ông nầy không tin, hỏi:
- Anh có thẩm vấn cô không?
- Thưa không.
- Tại sao?
- Thưa Thiếu tá, vì chưa có lịnh Thiếu tá.
- Lịnh gì nữa?
Cô Thanh chụp ngay cơ hội thuận tiện, liền ngắt lời:
- Thưa Thiếu tá, tôi xin Thiếu tá lưu ý cho rằng rẻo giấy nầy là một tài liệu giả mạo, và những điều nói trong giấy đều là vu khống. Tôi xin lấy danh dự quả quyết với Thiếu tá như thế.
- Cô làm gì trong lúc cô bị bắt?
- Thưa Thiếu tá, tôi là một học sinh về quê nghỉ hè. Tôi mới về quê nghỉ được một tháng thì bị lính bắt trong lúc tôi đang săn sóc cho cha già của tôi. Tôi có tiếp tế hay liên lạc gì với Bưng trong lúc tôi đi học, xin Thiếu tá cho điều tra cạnh Ông Đốc học các thầy giáo và toàn thể học trò. Thiếu tá sẽ biết rõ sự thực. Riêng tôi, tôi tin chắc rằng đây là vụ vu cáo do một kẻ nào đó muốn chọc ghẹo tôi mà không được vừa ý, nên trả thù tôi.
- Được để tôi xét kỹ về trường hợp của cô.
Quây lại sĩ quan, ông dặn:
- Trong khi chờ đợi kết quả cuộc điều tra, tôi muốn các anh để cô thiếu nữ được đôi chút tự do trong phạm vi trại lính. Tôi cấm các người không được hành hạ cô nữ sinh nầy.
Cuộc điều tra không lâu. Ông hiệu trưởng và các giáo viên có biết rõ cô Thanh, đều binh vực cho cô nữ sinh gương mẫu của nhà trường. Họ đồng thanh chứng nhận cô Thanh có hạnh kiểm rất tốt và rất chăm chỉ học, không có thành tích bất hảo. Cô Thanh liền được thiếu tá trả tự do, sau năm tháng sống dở chết dở trong lao tù.
Về nhà, Thanh đau đớn thấy cảnh nhà trống, vườn hoang, cha già vắng mặt. Trong làng không ai biết tin tức gì về ông Bảy hết từ đêm cô bị bắt. Chỉ theo lời của người nhà Thầy Cai Tổng phao ra thì cũng đêm ấy ông Bảy bị lính Mật thám Pháp bắt đưa lên Sàigòn.Cô Thanh nghe nói, vội vàng lên Sàigòn ở một tháng hỏi dò tin tức tại các cơ quan liêm phòng và Quân sự của Pháp, nhưng không ai hay biết chi hết. Trở về tỉnh cô hỏi nơi đồn lính Thân binh cũng không ai trả lời được. Cô làm đơn xin vô yết kiến ông Thiếu tá, hy vọng nhờ ông cho một cuộc điều tra về sự mất tích bí mật của Ba cô. Nhưng Thiếu tá cũ đã đổi đi nơi khác. Viên chỉ huy mới tánh tình dữ tợn, không tiếp cô. Hai người lính thân binh lại còn hăm dọa cô:
- Ông Quan tư này không phải dễ dãi như ông trước đâu nghe! Cô đừng ỷ biết vài cái tiếng tây vô nói chuyện lộn xộn. Cô làm trinh thám cho địch hay sao mà cô kiếm chuyện vô đồn hoài?
- Tôi chỉ hỏi tin tức cha tôi cùng bị bắt một đêm với tôi mà nay bị giam ở đâu?
- Cha cô bị giam ở đâu, mặc kệ cha cô chớ!
- Tôi muốn xin yết kiến quan chỉ huy đồn để hỏi ngài có thể cho tôi biết ai bắt cha tôi không?
- Ai bắt cha cô mặc kệ họ chớ!
- Xin bác làm ơn cho tôi vô hầu quan Thiếu tá một lúc thôi.
- Không được.
- Hay là nhờ bác làm phước đưa giùm cái đơn nầy vô thiếu tá?
Một viên sĩ quan trong đồn đi ra, chính là viên sĩ quan trưởng văn phòng tình báo, giúp việc từ hồi Thiếu tá trước, và đã bị Thiếu tá nầy là vì vụ cô Thanh. Sĩ quan trông thấy cô Tnanh liền tức giận, hỏi người lính gát:
- Cô nầy muốn gì nữa?
- Dạ thưa Thiếu úy, cô muốn xin vô yết kiến Thiếu tá.
Viên Thiếu úy trẻ tuổi cười gằn:
- Cô định làm cặp mắt tình tứ với Thiếu tá nầy như với Thiếu tá trước kia hẻo?
Thiếu úy quây lại truyền lịnh cho lính gát:
- Biểu cô đi vô Bưng mà nhỏng nhẻo với mấy ông Thiếu tá của cô trong đó. Nếu cô không đi, gởi cho cô một viên đạn vô da!
Nói xong, viên sĩ quan đi vô. Người lính gát quắc mắt, bảo Thanh:
- Sao ? Cô muốn đi khu hay muốn một viên đạn bây giờ đây?
Thanh lặng lẽ bỏ đi. Về nhà cô làm đơn gởi khắp các cơ quan thẩm quyền Pháp Việt, nhưng đợi hoài không thấy ai trả lời! Thế là cô không làm sao biết được tin tức của Ba cô. Cô đã để cả tháng trời đi dọ hỏi, tìm kiếm, kêu oan, nhưng cô chỉ gặp một bức tường im lặng chấn ngang trước mặt cô. Ngày đêm hễ nhớ đến Ba cô là cô nằm gục đầu xuống giường khóc nức nở. Ba cô biệt tích nơi nào? Hay đã bị thủ tiêu rồi chăng? Ai thủ tiêu? Thủ tiêu chỗ nào? Xác ba chôn ở đâu? Than ôi! Tội nghiệp thân cha già!Tội nghiệp thân cô! Nỗi oan nầy biết kêu cùng ai cho thấu? Cô thương Ba cô bao nhiêu cô càng khóc bấy nhiêu, cô rầu rỉ đau đớn, biếng ăn biếng làm, ngẫn ngơ như người mất trí.
Chương V
Hồng Lan mừng rỡ cuốn quít cầm cái thư chạy vô nhà gặp ông Huyện ngồi uống rượu Whisky trước hè với thầy Cai Tổng:
- Ba ơi ba! Thơ của Alice gởi cho con nè!
Ông Huyện vuốt râu cá trê cười:
- Vậy hả con. Con đọc cho Ba nghe!
Hồng Lan phụng phịu hai má:
- Thơ của con mà! Ba nghe đâu có được!
Con gái cưng của ông Huyện, mặc chiếc áo Kimono mới may rộng thênh thang, bông hoa rất đẹp. Thấy Cai Tổng nhìn cô với đôi mắt khâm phục, xuýt xoa khen ngợi:
- Cô Hồng Lan mặc áo nầy giống hệt cô gái Nhựt! Đẹp quá xá là đẹp!
Hồng-Lan cười cầm thơ chạy vô buồng. Thầy Cai Tổng, Ba của cậu Hai Ngọc, chỉ thấy vẻ đẹp kiều mộng của cô tiểu thư kia. Nhưng thầy đâu biết con gái ông Huyện có dụng ý may áo Kimono mặc ở nhà là để che đậy cho kín cái bụng của cô dạo nầy đã hơi bự bự... và mỗi ngày mỗi bự.
Thật, nhờ lớp vỏ thơ mộng của cô gái giả Nhựt ấy, nên cả Quận cả làng không ai biết con gái ông Huyện chửa hoang.
Hồng Lan nằm trên giường nệm hoa, mở thơ Alice ra xem.
Saigon, ngày 27 tháng 7 năm 1949.
Hồng Lan thân mến,
Từ hôm Alice xuống dưới ruộng chơi với toa mấy ngày rồi về Saigon, Alice mệt quá xá! Nhưng còn giữ bao nhiêu kỷ niệm đẹp đẽ vô cùng. Nào bữa hai đứa mình mặc áo đầm, đội nón đầm đi chơi, làm cho bọn dân quê phục sát đất! Nào bữa toa giới thiệu cho moa cái thằng học trò gánh phân trâu tanh thấy mồ ! Nào bữa toa với moa tắm dưới ánh trăng đẹp bên ao sen vân vân và vân vân...
Ở Saigon, tại chúng nó mong toa lên để coi cái bầu của toa độ này được bao to? Moa tức cười thằng Paul đi khua các nơi là không phải toa chửa với nó. Nó đổ thừa cho thằng Henri. Thằng Henri thì nhất định là toa chửa với thằng Paul ! Bữa lễ 14 Juillet (ngày 14 tháng 7 là ngày Quốc khánh của xứ Pháp), bọn nầy kéo vô Chợ lớn ăn tiệc, có moa, Henriette, Phùng Tóc Hoe, Janine Hoàng, bên con trai có Thành, Sơn, Paul, Henri, Minh Raquette, vui quá xá toa ơi ! Ai dè tụi con trai say sưa, thằng Paul xỏ lá nói thằng Henri lấy Hồng Lan chửa mà không cho tụi nầy ăn khao. Henri quạu nói thằng Paul: ‘‘Mầy lấy nó đã đời rồi mầy rút dù có trật tự, đồ hèn mạt!’’. Paul tức mình cầm ly xán vô đầu Henri. Henri cầm chai Cognac đập vô mặt thằng Paul. Hai đứa đánh nhau, thôi, tụi moa mắc cở bỏ đi về hết! Còn hai đứa nó bị lính bắt về bót. Tụi nó đợi toa lên để ‘‘chất vấn’’. Henri hăm hễ toa nói toa có chửa với nó thì nó giết toa. Còn Paul cũng nói nếu toa khai cho Paul thì Paul sẽ đánh toa bể mặt. Vậy toa liệu sao? Nè, ma chère ơi, moa khuyên toa nên ở nhà quê sanh đẻ cho rồi, không muốn nuôi thì đem bỏ ngoài ruộng. Sanh rồi lên Saigon thì huề, chớ không thì có án mạng, nghe ma chère?
Henri nó mới lấy con Bảy Cần Giuộc. Con nầy có nói cho Janine Hoàng biết rằng chừng nào toa lên Saigon nếu toa bỏ Henri thì thôi, nhớ nếu toa còn đeo theo Henri hoài thì nó thuê du côn đánh toa, chết chịu !
Tình thế coi bộ bất an, nghe ma chère?
Thôi, je t'embrasse.
Alice Bích Liễu.
Hồng Lan đọc xong thư, chảy mồ hôi. Cô ngồi dậy lấy gói thuốc thơm Ăng lê, châm hút một điếu, rồi nằm lại, miệng lẩm bẩm:
- Khốn nạn hết cả tụi! Đồ quỉ vật!
Cô ả nằm nghỉ ngơi thiệt lâu, nhìn khói thuốc bay cuồn cuộn lên trần nhà, nét mặt thản nhiên.
Hút hết điếu thuốc, Hồng Lan ngồi dậy, mở tủ lấy một hộp sơn mài, trong đó đựng một mớ thư tình và các hình ảnh chụp chung với trai, cái thì chụp chung với Paul, cái thì chụp chung với Henri cái thì chụp với người nào khác nữa.
Có một tấm ảnh màu khổ lớn, Hồng Lan lật qua phía sau, có câu của chính tay Hồng Lan viết bằng mực xanh.
‘‘Tặng anh Paul, người chồng sắp cưới của em’’
Nhưng lại có chữ của Paul, viết bằng mực tím, gạch bỏ chữ ‘‘sắp’’, sửa lại bằng ba chữ ‘‘không bao giờ’’.
Hồng Lan đọc nguyên câu của Paul sửa lại: ‘‘Tặng anh Paul, người chồng không bao giờ cưới của em’’. Cô ả trề môi, xé tấm ảnh màu cái... rẹc!.. thành ra hai mảnh, rồi gấp lại xé ra bốn mảnh, rồi tám mảnh, rồi xé vụn, quăng vô giỏ rác.
Nhưng có một bức thơ của Paul gởi cho Hồng Lan, Hồng Lan đọc lại một đoạn:
‘‘... Em có thai, thiệt hả? Hạnh phúc xiết bao! Đó là kết quả tình yêu thiêng liêng của hai ta!..’’
Kế đó, có bức thư của Henri, còn thơm sặc mùi nước hoa cũng có một đoạn như sau:
‘‘ …Em Hồng Lan yêu dấu của anh, em sắp sửa làm mẹ! Ha! Ha! Anh được em cho biết tin ấy, anh vui mừng cảm động, muốn chảy nước mắt, em à! Anh đây, Henri của em, cũng sắp được làm cha! Rồi đây đời ta xây ổ ái tình êm đẹp để nâng niu đứa con đầu lòng, kết quả của tình yêu thiêng liêng của hai chúng mình!’’
Nhưng kế đó, lại có bức thư khác của Henri:
‘‘... Em ơi, nghe em đã có chửa, anh vui mà lo, vì chúng ta chưa làm đám cưới. Anh muốn em viết thơ về ruộng biểu Ba gởi lên gấp cho em một số tiền bốn chục ngàn đồng để vợ chồng mình sắm sửa đồ cưới chớ! Nếu không có số tiền đó, thì chắc anh mắc cở không dám ngỏ mặt em nữa đâu!.....’’
Hồng Lan cười gằn một mình:
- Đồ chó! Nó đã xài của mình hết bao nhiêu tiền rồi bây giờ còn muốn đào mỏ nữa. Quân vô liêm sỉ!
Hồng Lan xẻ hết mớ thơ tình và tiền ấy bỏ đầy nghẹt cái giỏ rác. Cô ả xách giỏ xuống bếp trút hết vô lò lửa đang cháy. Xong cô chạy ra phòng khách. Thầy Cai Tổng đã về rồi. Cô nói với ông Huyện:
- Ba à, con đổi ý kiến.
- Ý kiến chi con?
- Con không lên Saigon nữa đâu!
Ông Huyện trố một con mắt của ông, tay chỉ cái bụng của con gái:
- Còn cái đó, con tính sao ?
- Cái đó thì cái đó, chớ sao giờ!
- Con nè, ba có ướm thử thầy Cai Tổng, để gã con cho thằng Hai Ngọc. Thầy Cai Tổng coi bộ chịu nhưng không biết thằng con của thẩy có chịu không?
- Ối, con không cần thằng nào nữa hết, Ba à! Con ở đây con sanh. Rồi con đem bỏ đứa bé ngoài ruộng. Như vậy là êm hết.
- Chớ sao con tính lên Saigon sanh, rồi con đem đứa nhỏ cho Bà Xơ nuôi?
- Con đã nói với Ba là con đã đổi ý kiến rồi mà!
Ông Huyện vì quá cưng con gái nên Hồng Lan nói sao ông cũng nghe. Chớ thiệt ra, ông rầu thúi ruột! Ông không hiểu sao con gái cưng của ông tự nhiẻn bỏ ý định đi Saigon?
Ông lại khuyên Hồng Lan nên lên tỉnh có Bác sĩ Long, là người quen thân với ông, nhờ Bác sĩ xem cái thai, nhưng Hồng Lan cự tuyệt. Cô nhứt định giữ bí mật việc cô chửa hoang. Cô không muốn cho một người nào hay biết chi hết, trừ con ở hầu hạ cô, rất trung thành và rất sợ cô. Nhưng con ở cũng sẽ biết trong giờ phút chót mà thôi. Ngoài ra, cô căn dặn Ba cô bưng bít chuyện nầy, đừng nói cho một người nào biết cô có chửa.
Ông Huyện gật đầu lia lịa:
- Ừ!ừ! Ba không nói đâu.
Giờ phút chót xẩy ra sáu tháng sau, vào khoảng giữa tháng Hai năm 1950.
Liên tiếp trong ba ngày, Hồng Lan đau bụng. Cô ả ôm cái bụng bự nằm lăn qua lăn lại trên nệm, mặt nhăn nhó, miệng kêu rên:
‘‘Trời ơi! Sao đau quá như vậy nè?’’
Ông Huyện thấy con chuyển bụng, tỏ vẻ rất lo lắng. Ông bảo con:
- Ba lên tỉnh rước cô mụ về, nghe con?
Hồng Lan dãy dụa khóc lóc:
- Không! Con không chịu đâu! Con không chịu đâu!... Ba ơi, sao nó quằn quặn trong bụng con quá Ba ơi! Tôi chết mất, Trời ơi! Tôi chết mất. Trời ơi! Ối trời ơi!
Ông Huyện lính quýnh chạy ra, chạy vô, kêu con đầy tớ:
- Con Ba đâu rồi, lên đây!
Con đầy tớ chạy lên. Ông bảo:
- May thoa cái bụng cho cô Hai chút đi!
Con Ba leo lên giường, ngồi thoa bụng cho Hồng Lan. Hồng Lan rên xiết:
- Thoa nhè nhẹ vậy, mầy ơi! Trời đất ơi! Đau quá đi, trời ơi!... Tao chết mất mầy ơi!... Mầy ơi!
Suốt đêm, Hồng Lan ôm bụng kêu la dữ dội. Con Ba phải thức canh chừng cô, lúc cô biểu đấm bóp, lúc cô biểu thoa bụng.
Đến hừng đông Hồng Lan đẻ một đứa nhỏ lọt ra trên giường. Một đứa con gái khóc oe oe. Con đầy tớ lật đật chạy kêu Ông Huyện, Ông Huvện hoảng hốt, chạy qua phòng con gái. Ông biểu con đầy tớ đi lấy cái kéo để ông cắt nhau. Con đầy tớ tiếp tay với ông lăng xăng sửa soạn rửa ráy thay đồ đạc và lo thuốc men cho cô rồi quạt một nồi lửa than để dưới giường cho cô. Hồng Lan nằm rên trên giường. Ông Huyện lấy một tấm drap cũ của Hồng Lan, để gói đứa hài nhi, chừa hở cái mặt. Xong ông biểu con đầy tớ:
- Nè Ba, mầy ôm đứa nhỏ ra bỏ ngoài bờ ruộng cho thiệt xa nghe? Xong rồi về đây, tao thưởng công cho mầy một trăm đồng bạc. Đi lẹ đi, mà giấu đừng cho ai thấy, nghe? Bịt miệng đứa nhỏ đừng cho nó khóc, nghe? Thôi chạy lẹ đi!
Con đầy tớ ôm đứa hài nhi trong tay, lật đật chạy đi. Trời đã hừng hừng sáng. Nó lấy cái áo che mặt dứa nhỏ, sợ có ai trông thấy. Chạy một khoảng khá xa, nó định quăng đứa nhỏ xuống ruộng như lời ông Huyện dặn. Nhưng nghĩ thương hại, nó do dự. Bỗng nó thấy gần đó có một nền nhà hoang, một túp nhà lá mà người ta đã dọn đi chỗ khác, còn trơ lại cái nền. Nó chạy đến đó. Để ý thấy cạnh nền nhà có một đám bí rợ tươi tốt, nó ngó trước ngó sau không ai trông thấy, nó đặt đứa hài nhi trên một lá bí, rồi lật đật chạy về. Chạy ra đường nó còn nghe tiếng đứa nhỏ khóc oe oe … Nó sợ quá, không dám ngoảnh mặt lại.
.
Về đến nhà, Ông Huyện hỏi:
- Rồi chưa, Ba? -
- Dạ bẩm Quan, rồi.
- Có ai thấy không?
- Dạ bẩm Quan, không!
- Thiệt hả?
- Dạ thiệt.
- Tao thưởng cho mầy một trăm, còn mới tinh đây nè. Tao dặn mầy nhớ, nghe! Mầy đừng hở môi nói cho ai biết vụ này, nghe? Ngậm miệng nghe? Hễ mầy leo lẻo cái miệng nói cho một người nào biết, thì tao bỏ tù mầy, nghe không Ba? Nhớ lời ông dặn nghe không con?
- Dạ thưa quan, con không dám nói đâu.
- Tao cho thêm mầy một trăm đồng nữa đây nè.
- Dạ. con cảm ơn quan.
- Nhớ, nghe con?
- Dạ.
- Bây giờ mầy cầm cái thơ nầy chạy lẹ lên tỉnh đưa cho Bác sĩ Long.
- Dạ.
Một giờ sau, Bác sĩ Long đi xe hơi đến vừa kịp lấy ra hết nhau còn sót trong bụng của sản phụ, và vội vàng tiêm thuốc để cứu Hồng Lan gần chết lịm trên giường.
Chương VI
Cô Thanh còn nằm trên chiếc giường tre, trải manh chiếu rách, chưa muốn dậy. Cô còn mệt lắm. Mấy đêm nay cô vẫn không ngủ được, trằn trọc lo cho cha, không biết bị giam cầm nơi nào hay chết nơi nào? Đã hai tháng rồi từ hôm cô ở tù về, và đi dọ hỏi tin tức cha không được, đêm nào cô cũng khóc vì thương cha già vô tội bị bắt oan, mà không biết rõ là ai bắt. Cô buồn bực oán hận vì sống trong thời buổi lọan ly, cái mạng con người ta không bằng con kiến! Ai bắt bớ ai cũng được! Ai giam cầm ai cũng được! Muốn kêu oan không biết kêu vào đâu! Thậm chí một kẻ đầu trâu mặt ngựa, ỷ thế con một anh Cai tổng trong quận, cũng có thể bầy mưu kế, thông đồng với mấy tên lính của Pháp mà bắt bớ bỏ tù một thiếu nữ không chịu lấy nó! Xã hội gì khốn nạn như thế!
Chế độ gì dã man như thế! Vậy mà nay biểu hoan hô Ông nầy muôn năm, mai biểu hoan hô Ông kia muôn năm! Bắt bớ dân chúng, đàn áp dân chúng, bốc lột dân chúng, coi dân như tôi mọi mà dám mở miệng xưng hô ‘‘dân vi quý’’! Cả một lũ thực dân phong kiến, một bọn độc tài rơm, tranh giành nhau mà hút máu mỡ của dân, vẫn khua môi mép là ‘‘ái quốc’’, ‘‘ái quần’’ là ‘‘ cứu tinh của dân tộc’’, là ‘‘Quốc trưởng’’ Mỉa mai thay! Chua chát thay! Dân cũng cứ dạ dạ ùy ùy cho qua ngày đoạn tháng để yên ổn làm ăn, nhưng dân ngán đến tận cổ, dân oán đến tận xương, dân uất hận tận đáy lòng!
Thanh ngồi vùng dậy, đôi mắt ứa tràn châu lệ. Nhìn mặt trời rạng đông tươi sáng, cô lẩm bẩm trong miệng:
- Bao giờ lòng dân Việt nam được tươi sáng như ánh thái dương kia?
Cô lại nhớ đến cha cô. Hiện giờ phút nầy, Ba cô ở trong lao tù tối tăm rùng rợn nào? Hay đã bị chết nơi nào? Chỉ một người có thể biết rõ hơn ai hết, là Ngọc, con trai thầy Cai Tổng, vì chính hắn đã dẫn lính đến bắt Thanh và ông già của Thanh. Nhưng không bao giờ Thanh hỏi hắn, vì nếu hỏi hắn cũng chẳng dám hé răng đâu.
Xưa nay Thanh không mê tín dị-đoan. Nhưng lấn nầy cùng kế và trong cơn đau khổ tuyệt vọng về tin tức của cha, Thanh đã phải tìm đến một bà Cốt ở cách nhà cô hơn mười cây số, ở làng khác; Nghe người ta đồn rằng bà Cốt nầy linh nghiệm lắm, Thanh đến hỏi thử xem. Bà Cốt thắp đèn nhang, đọc phù chú, múa men một lúc rồi cốt nhập vô Bà, nói:
- Cái tuổi Tỵ nầy đây đang thắc mắc lo âu về chuyện nhà. Ông già của tuổi Tỵ đang ở một cỏi hư không, nhưng sớm hay muộn tuổi Tỵ cũng sẽ tìm thấy lại được ông già.
Thanh hỏi:
- Xin Cốt cho biết rõ Ba tôi ở một cỏi hư không, nghĩa là gì? cỏi hư không ở đâu?
Bà Cốt lắc đâu lia lịa:
- Nói vậy tuổi Tỵ hiểu, không cần nói nhiều
- Cốt quả quyết rằng không sớm thì muộn tôi cũng tìm thấy lại Ba tôi?
- Sẽ tìm thấy. Mà cốt cho tuôỉ Tỵ hay rằng còn lâu, nghe? Còn lâu!...
- Còn lâu là bao lâu?
- Ba năm nữa!
Thanh tặng Bà Cốt hai chục đồng bạc. Ra về, Thanh rất hoang mang. Thanh cho rằng chẳng qua vì Thanh thương Ba mà không biết hỏi ai về tin tức của Ba nên cùng kế phải thử tìm đến Bà Cốt. Chớ Thanh đâu có linh dị đoan.
Nhưng Thanh cũng thắc mắc vì những lời nói của bà Cốt.
Thật là những lời nói bí ẩn, khó mà hiểu được!
Mặt trời đã lú lên phương Đông như một cục lửa tròn. Thanh dậy, đi súc miệng, bỗng có tiếng gọi ngoài sân trước, Thanh cúi đầu dòm ra: thằng bé chăn trâu bưng trong tay một gói gì, vừa chạy vô nhà, vừa kêu nho nhỏ:
- Cô Hai! Cô Hai!
Thanh sửng sốt:
- Cái chi đó, em Cùi?
Thằng Cùi, bưng một đứa hài nhi mới đẻ, gói trong một tấm vải trắng, đưa Thanh:
- Thưa cô, em xí được đứa nhỏ này ở trong đám bí rợ, chỗ nền nhà bỏ hoang bên rạch dừa, cô Hai à!
Thanh rất đỗi kinh ngạc, vội vàng ôm lấy đứa bé:
- Con ai vậy nè?
- Con hoang, cô ơi! Ai đẻ bao giờ rồi đem bỏ nó ở đám bí rợ, cô Hai ơi!
- Trời! Ai mà nhẫn tâm quá vậy?
Thanh lật đật mở tấm vải trắng ra để ngó kỹ đứa bé. Cô reo mừng:
- Con gái! Đứa con gái ngộ quá!
Thanh vội vàng lấy một đồng bạc biểu thằng Cùi chạy đi mua đường:
- Mau lên, nghe em? Phải cho nó uống nước đường, chớ không nó chết khát bây giờ! Không biết người ta bỏ nó từ hồi nào? Chạy lẹ, em!
- Dạ.
Thanh sửa soạn cái giường, lấy mấy chiếc áo của cô trải lên cho êm, để làm tả lót đứa nhỏ. Cô xé mấy cái áo cũ làm băng, băng rún cho nó. Cô lấy cái mền mỏng của cô, đắp lên cho nó. Cô chạy xuống bếp nấu một ấm nước sôi. Cô rót ra một chén để nguội. Vừa lúc thằng Cùi đem gói đường về, cô khuấy nước đường lấy muỗng múc trút vào miệng đứa bé. Xong, cô mở va li lấy hai chiếc áo dài trắng tốt nhứt của cô, đưa thằng Cùi. Cô bảo nhỏ:
- Em cầm hai áo này đi kiếm người nào mua, em bán cho chị. Em liệu bán bao nhiêu tiền cũng được. Rồi chạy đi mua hai hộp sữa con chim, đem về đây để tối nay chị cho nó bú.
- Thôi cô Hai à, cô Hai đừng bán hai cái áo này, uổng lắm. Rồi áo đâu cô Hai mặc?
- Chị còn áo bà ba, đủ mặc,
- Thôi! Em có tiền mà, cô Hai! Bữa kia em lại bẫy được một con sáo, bán được năm đồng. Bữa qua em làm trò xiếc trên lưng trâu, họ cho em năm đồng nữa. Cô cất hai cái áo đi. Để em chạy về nhà em lấy tiền đi mua sữa.
Không đợi Thanh nói sao, thằng Cùi vắt hai cái áo trên ghế rồi vụt chạy. Nhưng nó lại chạy trở vô, thở hổn hển:
- Thưa cô Hai, em quên hỏi cô Hai, một hộp sữa con chim bao nhiêu tiền?
- Tám chín đồng, chớ không nhiều đâu em à.
Thằng Cùi đứng suy nghĩ rồi nói:
- Em chỉ có mười đồng. Em mua đỡ một hộp đã, có được không cô Hai?
- Được em à.
Nó cười rồi chạy mất.
Đặt đứa bé nằm ngủ yên, Thanh đem tấm vải trắng dính máu đi ra sau bếp giặt. Lúc đem phơi, Thanh chợt để ý hai chữ thêu bằng chỉ đỏ trên một góc tấm vải, có lẽ là tấm drap trải giường. Hai chữ thêu là H.L. Thanh nghĩ ngợi:
- H.L..? H.L.?... Hồng-Lan chăng?
Thanh nhớ lại câu chuyện đau đớn xẩy ra cách đây 7 tháng, hôm Thanh cuốc khoai nhà Hồng Lan, cô ả có cho Thanh biết rằng Đồng có ngủ với cô, để cho cô có chửa, rồi Đồng bỏ trốn đi... Cô ả chửi Đồng là một tên sở khanh, là đồ trâu, đồ chó v.v... Nếu quả thật vậy, thì đứa hài nhi nầy là con của Hồng Lan và Đồng hay sao? Hồng Lan sanh nó ra, không muốn nuôi đem bỏ nơi đám bí rợ chăng? Quả thiệt Đồng đã ngủ với Hồng Lan có chửa rồi sợ xấu hổ bỏ nhà trốn đi chăng?
Thanh nghĩ đến đó, xây xẩm mày mặt, muốn té xỉu. Thanh ráng đi vô nhà, ngồi phịch xuống ghế, gục đầu xuống bàn, khóc. Nhưng một lát. Thanh gượng đứng dậy đi khuấy thêm nước đường cho đứa bé uống. Thanh ngồi, ngó đứa hài nhi nằm ngủ yên lặng. Chốc chốc nó khóc lên vài tiếng oe oe, dễ thương lạ! Thanh nhìn kỹ nét mặt nó. Nó còn nhỏ quá, nên cô không thấy nó giống Đồng chút nào, nhưng rõ ràng là khuôn mặt của Hồng Lan. Đôi mắt, cái mũi, cái miệng,giống Hồng Lan như đúc. Thanh suy nghĩ! Nuôi đứa hài nhi này là thêm một nỗi bận rộn lo lắng cho Thanh Nhưng, dù thật là con của Đồng hay con của ai chăng nữa. Thanh không thể nào bỏ nó chết được. Thanh có bổn phận phải cứu đời sống của đứa hài nhi vô tội mà người mẹ tàn nhẫn đã đem quăng bỏ một nơi hoang địa. Đó là tình nhân đạo, nghĩa làm người, mà lương tâm của Thanh và lòng trắc ẩn không thể nào từ chối được. Đành rằng Thanh sống trơ trọi một mình, nhà đã nghèo lại gặp cảnh côi cúc đau khổ muôn bề, làm sao Thanh nuôi nấng chăm lo cho đứa hài nhi nầy được nữa? Nhưng Thanh cũng cố gắng làm hết bổn phận. Cứu sống một mạng người, là cứu vớt được một linh hồn. Thanh thương hại cho đứa con rơi, không cha không mẹ, vì chính giòng máu tạo ra nó đã từ bỏ nó ngay lúc mới lọt lòng! Tội nghiệp cho nó quá! Cô ôm đứa bé, khóc với nó: ‘‘Ba tiếng khóc oe oe ra đời làm chi để mang nặng nghiệp chướng của trần duyên, hở Bé?’’.
Thanh âu yếm đặt Bé nằm lại trên giường, cô không cần biết đứa trẻ vô tội này là con của Đồng hay của ai. Cô có một phần tin là con của Đồng nhưng dù là con của ai chăng nữa, nó vẫn là một linh hồn, đã mang số kiếp, vất vưởng trong trần ai, chịu hận đời ai oán!
Thằng Cùi đã trở về, ôm trong tay hai hộp sữa con chim. Nó cười ngây thơ vui vẻ:
- Cô Hai chờ em có lâu không, cô Hai?
Thanh thương thằng nhỏ quá. Cô vuốt đầu tóc nó, dịu dàng đáp:
- Không lâu đâu, em à. Em giỏi lắm! Chị khen em đó!
- Cô Hai ơi, trời khiến sao sáng sớm bữa nay em đánh trâu ra ăn ở Rạch Dừa. Thình lình em nghe oé oé. Mới đầu em tưởng con gì kêu! Em rình để bắt chơi. Nhưng em sực nhớ hồi mẹ em sanh thằng Xơ, em của em đó, em đang nằm ngủ dưới góc cây mít, bỗng dưng nghe liếng oé oé cũng giống như tiếng em nghe ở Rạch Dừa hồi rạng đông. Em nghi là có ai đẻ. Nhưng ai đẻ kỳ cục vậy? Em lần mò đi tới chỗ nền nhà hoang, lại nghe mấy tiếng óe.. óe nữa. Em hết hồn, cô Hai ơi! Tại em thấy có cái gói gì trắng trắng mà quậy cựa... Ngó trước ngó sau để coi có ai thì em kêu, nhưng không thấy ai hết. Em mới thủng thỉnh bước lần tới, cúi xuống ngó coi. Chèng đéc ơi! Ông nội ơi! Con ai vầy nè? Sao bỏ nằm một mình trên lá bí rợ vầy nè! Em thấy một bầy kiến ở trên giây bí rợ, bu đông nghẹt trên cái gói dính máu nhiều quá! Em lật đật phủi kiến. Kiến bò lên tay em, cắn em đau điếng. Em chà chết hết! Cô Hai coi, em phải giành nhau với bầy kiến để cứu đứa nhỏ, chứ không chừng nó cắn đứa nhỏ chết rồi cô Hai ơi! Em ôm đứa nhỏ đặt xa ra một chút, để em phủi cho sạch kiến rồi em la to lên: ‘‘Con của ai đây nè? Kiến nó cắn quá xá đây nè. Kiến nó cắn chết bây giờ!’’ Nhưng không có ai trả lời. Không ai tới ôm đứa nhỏ. Em mới lật đật ôm nó chạy về cho cô đó! Hồi nãy em phải trở ra Rạch Dừa coi chừng trâu sợ nó ăn lúa của người ta. Rồi em mới chạy đi mua sữa.
Thanh cười:
- Tiền đâu em mua được hai hộp lận?
- Em về nhà lấy mười đồng của em giấu trong ống tre, rồi may quá em gài bẩy được con két, em đem ra chợ bán cho lính Tây được mười đồng nữa. Dư tiền mua được hai hộp, chớ em nghĩ có một hộp ít bữa nó bú hết rồi làm sao, phải không cô Hai?

- Nhưng bề nào em cũng phải đem hai cái áo của chị bán lấy tiền thêm, còn phải sắm sửa cho nó nhiều thứ lắm. Chiều nay còn phải mua một chai sữa với nấm vú. Rồi mua một cục xà bông đá để giặt tã, mua vài cái ghim băng để cột băng rún cho nó. Mua cho nó cái mũ, vài cái áo cho nó mặc…
- Chèng ơi, sao tốn tiền nhiều quá xá vậy cô Hai?
- Phải tốn chớ, em!
- Bán hết áo của cô Hai, rồi cô Hai bán gì nữa?
- Chị sẽ đem bán mớ sách học của chị cũng được bộn.
- Sao cô Hai không để sách học?
- Chị hết học rồi. Ít bữa nữa sẽ gặt lúa thầy Cai Tổng, chị đi gặt sẽ có lúa bán được tiền thêm. Nội mùa gặt này chắc chị sẽ kiếm khá tiền.
- Em sẽ làm xiếc nhào lộn trên lưng trâu người ta cũng cho em tiền. Em câu cá, em bẫy chim để em bán cũng có tiền vậy. Em lấy tiền đưa cô nghe cô Hai?
- Em khỏi làm gì hết. Mấy bữa nữa chị đi gặt. Em cho trâu ăn gần nhà chị, để thỉnh thoảng em vô nhà coi chừng đứa nhỏ giùm cho chị là được Bữa nào chị không đi gặt, thì chị ở nhà coi chừng nó.
- Còn bữa nào cô Hai ở nhà, thì em đi đánh bẫy chim, em đi câu cá, em làm xiếc nhào lộn trên lưng trâu, há cô Hai?
Thanh dịu dàng vuốt đầu tóc thằng Cùi:
- Em giỏi lắm và ngoan lắm!
Sáng hôm sau. Thanh đem mớ sách cũ định đến bán cho Hồng Lan, và sẵn dịp muốn dò biết xem có phải là Hồng Lan vừa mới sanh đứa nhỏ không? Thanh lựa chọn mười quyển sách vừa sức học của Hồng Lan, bỏ vô cặp da, ôm đến nhà ông Huyện.
Thanh vô sân, gặp con đầy tớ từ dưới bếp bưng một mẻ lửa than đỏ sắp lên buồng Hồng Lan, Thanh hỏi:
- Có chị Hồng Lan ở nhà không, em Ba?
- Chị hỏi cô Hai, có chuyện chi?
- Có, nhờ em vô nói với chị Hai có qua đến chơi.
- Có chuyện chi thì bữa khác, chớ bữa nay chắc không được đâu.
Đứa ở vô phòng Hồng Lan một lúc, Thanh đứng ngoài hè nghe tiếng Hồng Lan la lớn:
- Đừng cho nó vô đây!
Đứa ở vội vàng ra nói với Thanh:
- Cô Hai không cho chị vô.
- Qua không vô cũng được. Vậy nhờ em đem mấy cuốn sách nầy vô đưa chị Hồng Lan, nói với chỉ là qua túng tiền quá, đem sách nầy bán lại cho chỉ, chỉ muốn trả bao nhiêu tiền cũng được.
Thanh mở cặp, lấy ra mười quyển sách còn mới. Đứa ở lắc đầu trề môi:
- Cô Hai không thèm mua đồ này đâu. Cổ đâu có đọc sách này!
- Em làm ơn đem giùm vô cho chỉ, coi chỉ nói sao? Qua bán rẻ mà! Sách này là sách của chị học đấy.
- Tôi đem vô lở cô Hai la tôi, làm sao?
- Có chi mà la? Em cứ đem vô giùm cho qua chút mà.
Con ở nể lời Thanh, nhưng một lúc nó trở ra, trả sách lại cho Thanh:
- Tôi đã nói rồi mà. cô biểu đuổi chị về, cổ cấm tôi không được nói chuyện chi với chị hết.
Thanh mỉm cười làm thinh, bỏ sách vô cặp, đi ra.
Trong hoàn cảnh này, Thanh biết là Thanh cần tập tánh bình tĩnh, và chịu nhịn nhục. Nhưng Thanh đã tin chắc rằng Hồng Lan mới sanh, và cô a đang nằm trong buồng. Chứng cớ là đứa ở bưng một mẻ lửa than từ dưới bếp lên... Dĩ nhiên là Thanh cũng muốn giấu kín, không cho Hồng Lan hoặc con ở biết là đứa con đẻ hoang của Hồng Lan hiện đang nằm trong nhà Thanh, và Thanh đang đi chạy tiền về nuôi nó.
Nhưng Thanh rất lo ngại, vì đêm hôm qua đứa bé nóng. Có lẽ tại nó bị bỏ nằm ngoài sương gió ngay mới sau khi lọt lòng mẹ. Thanh sờ trán, sờ tay chân nó, thấy ấm ấm. Đó là triệu chứng nguy hiểm. Cho nên sáng dậy thật sớm, Thanh đã Iật đật đem mớ sách đến bán cho Hồng Lan, là cốt lấy liền về mua thuốc cho đứa bé uống. Trước khi ra đi, Thanh còn do dự, không chắc Hồng Lan sẽ mua mớ sách của Thanh. Nhưng sờ bàn tay đứa bé thấy còn nóng hoài, Thanh lo sợ đành liều đem bán sách để kiếm tiền. Sách không bán được, Thanh không biết tính sao đây? Thanh sợ đứa hài nhi sẽ nóng lên cao độ, không có thuốc trị thì nó chết, tội nghiệp cho nó biết bao! Từ trong nhà Ông Huyện đi ra về, Thanh thất vọng, lo nghĩ như thế, bỗng dưng một chiếc xe hơi từ ngoài đường lớn chạy vô, đổ gần cổng nhà ông Huyện. Thanh trông thấy bác sĩ Long từ trong xe bước ra, xách một va-li nhỏ để khám bệnh. Thanh mắc cở cúi mặt xuống đi, không muốn cho bác sĩ Long thấy cô. Nhưng bác sĩ đứng lại vui mừng chào:
- Cô Thanh
Thanh phải ngước mặt lên, lễ phép đáp:
- Dạ, chào Bác sĩ.
- Cô ở đây sao?
- Dạ không, tôi đến thăm chị tôi.
- Ủa! Cô có bà con với ông Huyện à?
- Dạ có, tôi là cháu ông Huyện.
- Vậy hả? Cô đến thăm cô Hồng Lan hả?
- Dạ. Thưa Bác sĩ, nhơn dịp may mắn gặp Bác sĩ đây, xin nhờ Bác sĩ chỉ giùm. Ở đằng nhà tôi, có một đứa hài nhi nó nóng suốt từ đêm hôm qua, thưa Bác sĩ nên mua thuốc gì cho nó uống?
- Một đứa hài nhi hả cô?- Phải coi bịnh mới dám cho thuốc cô Thanh à. Con nít khó lắm cô. Nhà cô ở đâu? Chút nữa tôi đến xem bịnh đứa nhỏ được không?
Thanh do dự. Nhưng suy nghĩ một lúc, Thanh bảo:
- Dạ thưa Bác sĩ, chừng mấy giờ Bác sĩ coi bịnh xong cho chị Hồng Lan?
- Nửa tiếng đồng hồ là nhiều.
- Vậy chút nữa xin mời Bác sĩ cứ theo con đường nầy đến chỗ Rạch Dừa, sẽ có một đứa nhỏ đứng đó đón Bác sĩ. Đường đi xe hơi dễ dàng.
- Được. Tôi sẽ đến nhà cô.
- Nhưng xin Bác sĩ đừng nói chi cho cậu Huyện và chị Hồng Lan của tôi biết là Bác sĩ đến khám bịnh một đứa hài nhi ở trong nhà tôi.
Bác sĩ Long tủm tỉm cười:
- Có chi bí mật vậy?
- Dạ có. Nếu Bác sĩ giữ kín cho, thì tôi rất cảm ơn Bác sĩ.
- Tôi hứa giữ kín. Thôi chào cô Thanh, chốc nữa tôi đến.
- Dạ, xin chào Bác sĩ. Cảm ơn Bác sĩ nhiều lắm.
Thanh rảo bước đi thật mau. Cô hơi thẹn. Mấy tháng trước, hồi còn đi học trên tỉnh, cô đã biết Bác sĩ Long. Chính Bác sĩ Long đã xem bịnh cho cô vài lần, tại phòng xem bịnh của nhà trường. Và Bác sĩ Long có để ý đến cô, Nghe người ta nói thì Bác sĩ Long chưa có vợ, mới đổi tới tỉnh này từ hôm Tết, và rất tử tế với bịnh nhơn, nhứt là bịnh nhơn nghèo đến xin thuốc ở nhà thương. Bác sĩ Long để ý đến cô, vì một là cô đẹp nhất trong trường và trong tỉnh. Vẻ đẹp tự nhiên và lộng lẫy của Thanh đã nhiều lần làm cho vị Bác sĩ trẻ tuổi như bị mê hoặc, bị bối rối trong lời nói và trong cử chỉ mỗi khi Bác sĩ đứng trước mặt cô. Hai là Bác sĩ đã nhận thấy trong đám thiếu nữ nhí nhảnh ở tỉnh thành mà Bác sĩ thường gặp hằng ngày, không có cô nào thùy mị, hiền lành và đứng đắn như cô Thanh.
Một chuyện đã xẩy ra khiến các bạn gái của Thanh tủm tỉm cười và thèm thuồng ước muốn được như Thanh. Hôm phát thưởng cuối niên khóa trước kỳ nghỉ hè vừa rồi, Thanh được nhiều phần thưởng hơn ai hết. Điều đó, cả học trò lẫn giáo viên, không ai lạ gì, vì Thanh học môn nào cũng được điểm cao. Thanh đứng đầu về Pháp văn, Việt văn, đứng thứ hai về các môn toán, thứ hai ex-equo về lý hóa, đứng đầu về vẽ, và thêu, thứ hai ex-equo về thể dục. Toàn thể nam nữ sinh trong trường, đều nhìn nhận là Thanh rất xứng đáng các phần thưởng quý nhất của các quan khách tặng. Đến khi giám-thị kêu: ‘‘Phần thưởng đặc biệt do Bác sĩ Long tặng người học trò nào học giỏi nhứt và hạnh kiểm tốt nhứt’’, thì chính là cô Nguyễn thị Thanh được kêu tên lên lãnh thưởng: một toàn bộ Tự điển ‘‘Larousse XXè siècle’’ gồm có sáu bộ dày và to, khổ rộng, bìa chạm, gáy in chữ vàng. Giữa một tràng pháo tay vang dậy phòng khánh tiết, Thanh cảm động quá, rụt rè lên lãnh thưởng và khẽ nghiêng đầu cảm ơn Bác sĩ. Nhưng toàn bộ tự điển nặng quá và kềnh càng quá, cô Thanh ôm không nổi. Ông Bác sĩ hứa, sau buổi lễ ông sẽ bỏ xe hơi chở về nhà trọ cho cô. Một tràng pháo tay thứ hai nổ dậy vang rầm, diễn tả sự mến phục đồng thanh của cử tọa trước thắng Iợi vinh quang ở học đường của cô nữ sinh Nguyễn thị Thanh...
Thanh hồi tưởng lại kỷ niệm vẻ vang rạo rực ấy, mới hôm nghỉ hè vừa rồi. Không ngờ sáng nay thình lình Thanh lại gặp Bác sĩ Long! Và cũng không ngờ hôm nay do một trường hợp ngẩu nhiên, Thanh lại phải nhờ Bác sĩ Long đếu cứu sanh mạng của một trẻ hài nhi không phải là của của cô!
Về đến nhà, Thanh kêu thằng Cùi;
- Em à, bữa nay chị phải quyết định một việc.
- Việc gì, cô Hai?
- Chị phải bán con heo.
Thằng Cùi dẩy nẩy:
- Trời ơi! Cô Hai đừng bán con heo, cô Hai! Cô đã nhọc công chăm nuôi nó từ hôm cô về nghỉ hè. Cô đã phải đi cuốc khoai mướn ở nhà ông Huyện để nuôi nó. Trong mấy tháng cô bị ở tù, ở nhà em cũng lo kiếm rau và cám cho nó ăn. Từ hôm cô ở tù về, cô lại chăm lo cho nó. Đến nay nó đã hơì mập, nếu để gần Tết cô bán nó thì được nhiều tiền hơn, xứng đáng cái công cô nuôi! Chớ nay cô bán, em sợ không được bao nhiêu tiền, uổng lắm cô Hai!
- Chị phải bán con heo, mới có tiền trả Bác sĩ và mua thuốc cho đứa bé..., chị thấy Bé nóng từ đêm qua, chị sợ quá. Em không thấy bé yếu lắm sao?
Thằng Cùi giựt mình:
- Phải mời Bác sĩ sao, cô Hai? Nó nóng thì cho nó uống chút dầu nhị thiên đường không được sao?
- Đâu có đuợc, em!
- Em nghe cô muốn bán con heo, em buồn quá.
- Nếu để đứa bé nóng riết rồi chết, em có buồn không?
- Buồn chớ, cô Hai.
- Con heo, không sớm thì muộn rồi cũng sẽ bán. Chớ đứa bé đây mới sanh ra bị bỏ nằm ngoài sương gió, nó đã yếu sức rồi. Đêm qua nó nóng suốt đêm. Để vậy, không lo gấp thuốc than cho nó, chị sợ nuôi không được. Nếu để nó chết, chị em mình sẽ ân hận lắm đó em à.
- Dạ, thôi thì bán con heo chớ biết sao bây giờ! Mời Bác sĩ tốn tiền nhiều lắm, phải không cô Hai?
- Tiền thầy, tiền thuốc, tốn lắm chớ em.
- Em chạy ra chợ kêu người mua con heo. Còn Bác sĩ thì đi kêu đâu bây giờ, cô Hai?
- Em lên Rạch Dừa đứng đón. có Bác sĩ quen, chị gặp lúc nãy. Em đưa Bác sĩ về đây, rồi em chạy đi kêu người lái heo
- Dạ.
Thằng Cùi ngoan ngoãn chạy đi. Nửa giờ sau Bác sĩ Long đến. Đưa Bác sĩ vào nhà xong, thằng Cùi bảo cô Thanh:
- Giờ em đi kêu người lái heo, hả cô Hai ?
- Ừ, em đi lẹ nghe em.
- Dạ.
Bác sĩ Long xem bịnh cho đứa hài nhi, thật kỹ. Xong ông chích cho nó một mũi thuốc. Ông bảo:
- Đứa bé yếu lắm. Nhưng chịu khó chăm nom cho nó, có thể cứu được. Trưa nay nó hết nóng cô nên bắt đầu cho nó bú sữa bò. Năm giờ chiều nay tôi sẽ đến coi mạch lại cho nó nữa.
Thanh bỡ ngỡ:
- Thưa Bác sĩ, tôi làm phiền Bác sĩ quá chăng?
- Không sao, cô Thanh. Tôi có thì giờ.
- Thưa Bác sĩ, Bác sĩ xem đứa bé có dễ nuôi không?
- Nếu không chích thuốc cho nó bữa nay, ngày mai sẽ làm nặng. Phổi nó yếu lắm. Nó có thế làm kinh phong thì khó chữa được nữa. Nhưng bây giờ cô yên tâm...
- Cám ơn Bác sĩ. Xin Bác sĩ làm ơn cho cái toa mua thuốc.
- Không cần mua thuốc. Từ bây giờ đến trưa nó bớt nóng. Cô cho nó bú sữa bò, nếu không có sữa mẹ... Ờ mà, xin lỗi cô, mẹ nó đâu ?
Thanh mỉm cười:
- Thưa, mẹ nó là tôi đây.
Bác sĩ Long hiểu là Thanh nói đùa. Vì xem cô Thanh đâu phải là một sản-phụ! Nhưng bác sĩ cũng đáp lại bằng một nụ cười, và nói tiếp:

-... Cô cho nó bú cách khoảng 3 giờ một lần, đúng theo lằn mức ghi trên chai sữa. Đêm nay cô chịu khó thức để canh chừng nó. Đắp mền cho nó ấm. Nếu có thể để lửa sưởi cho nó cũng tốt vậy, nhưng lửa đừng nóng lắm. Không nên để gió vào chỗ nó nằm. Nên che kín các song cửa sổ. Chiều tôi sẽ đến coi lại.
Bác sĩ Long hỏi tiếp:
- Nhưng thành thật, tôi xin hỏi cô... Không phải vì tôi tò mò, nhưng tôi cần biết rõ để hiểu những nguyên nhân chứng bịnh đứa trẻ. Vậy chớ mẹ nó đâu?
- Sự thật, thưa Bác sĩ, nó là một đứa con bỏ hoang. Một thằng bé chăn trâu trông thấy nó bị gói trong tấm vải cũ, bỏ nằm trơ trọi trên một chỗ đất hoang từ hồi hừng đông hôm qua, nó lượm đem đến đây. Thấy vậy tội nghiệp, tôi nuôi. Thằng bé chăn trâu đã tìm thấy nó, chính là em nhỏ lúc nãy dẫn Bác sĩ đến đây.
- Tôi đã ngờ vực như thế. Và có câu chuyện nữa tôi mong được cô cho biết, để tôi hiểu thêm hoàn cảnh sanh ra đứa hài nhi này. Sự hiểu biết ấy rất có ích và rất quan trọng cho tôi trong khi tôi săn sóc nó. Lúc nãy cô yêu cầu tôi đừng cho ông Huyện và cô con gái ông biết là tôi đến đây chữa bịnh cho một hài nhi. Vì sao?
- Vì... nhưng thưa Bác sĩ, điều tôi sắp nói chưa chắc đã là sự thật...
- Cô cứ nói. Chúng ta sẽ xét đoán đâu là sự thật.
- Vì tôi nghi rằng mẹ đứa hài nhi này Ià Hồng Lan, con gái của cậu Huyện tôi.
- Sự nghi ngờ của cô rất đúng. Bởi lẽ tôi đã đến chữa bịnh cho cô Hồng Lan từ sáng hôm qua. Cô ấy vừa mới sanh và đứa nhỏ này giống hệt cô Hồng Lan. Nhưng ông Huyện cho tôi biết là đứa hài nhi đã chết rồi mà! Vả lại, xin lỗi cô Thanh, cô Hồng Lan hình như chưa có chồng thì phải? Ông Huyện có quen thân với tôi, có mời tôi đến nhà ông hai ba lần thường nói đến cô Hồng Lan lúc cô ở học trên Saigon. Tôi chưa nghe lần nào ông Huyện nói là cô Hồng Lan có chồng.
- Vâng chị ấy chưa có chồng.
- Thế thì chúng ta có thể tin được rằng đứa bé hoang này, cô ấy không muốn nuôi nên đem bỏ ngoài ruộng, và tưởng nó chết rồi!
- Tôi có một bằng chứng xác thật hơn hết là ở nơi góc tấm drap cũ dùng gói đứa bé, có hai chữ thêu bằng chỉ hồng là hai chữ H. L.
Bácsĩ Long cười:
- Cô làm trinh thám được đó!
- Chỉ là một ngẫu nhiên. Khi đem tấm drap vấy máu ước đỏ đi giặt, rồi đem phơi, để ý thấy hai chữ H. L. tôi mới biết.
- Bây giờ tôi mới hiểu tại sao cô không muốn cho ông Huyện và cô Hồng Lan biết tôi đến đây chữa bịnh cho một đứa hài nhi. Giờ tôi có thể nói với cô rằng tôi đã giữ đúng lời hứa với cô.

- Cảm ơn Bác sĩ. Tôi muốn giấu kín, không có mục đích nào khác hơn là để khỏi làm bận lòng cậu Huyện và chị Hồng Lan của tôi. Để cho ông Huyện và Hồng Lan cứ yên trí rằng đứa bé đả chết rồi.
Thanh sực nhớ là đang tiếp một người khách quý:
- Xin lỗi Bác sĩ, tôi quên pha trà mời Bác sĩ.
Thanh toan chạy xuống bếp lấy ấm nước nóng,nhưng Bác sĩ Long gọi lại:
- Thôi, cô Thanh! Cô đừng bận rộn về việc đó. Tôi xin từ giã cô, và xin hẹn 5 giờ chiều nay sẽ trở lại.
- Xin lỗi Bác-sĩ, xin Bác sĩ cho biết số tiền y phí bao nhiêu?
Bác sĩ Long cười rất nhã nhặn:
- Cô là một Nữ thần của Bác ái và Nhơn đạo. Với cô, lẽ nào tôi dám nói đến chuyện tiền nông?
- Bác sĩ không tính tiền thì tôi ngại lắm.
- Nếu cô Thanh muốn tôi đến chữa bịnh cho đứa bé xấu số này thì mong cô đừng nhắc đến chuyện tiền nông nữa.
Bác sĩ khẽ nghiêng mình từ giã. Thanh cảm động cúi đầu đáp lễ.
Thanh bán con heo được năm trăm đồng. Thật là một số tiền rất lớn đối với Thanh trong lúc nầy. Thằng Cùi hơi tiếc con heo, nhưng nghe Thanh nói Bác sĩ đã đến chích thuốc cho Bé, và Bé hết nóng, Cùi mừng lắm. Thanh đưa tiền cho nó ra chợ mua một chai sữa với núm vú, cục xà bông đá để giặt tã, và hai cái ghim băng.
Lần hồi Thanh sắm đủ hết những đồ dùng cho đứa bé. Chính Thanh không dám sắm sửa riêng cho Thanh một tí gì. Cô thiếu thốn mọi thứ nhưng đứa bé có đủ cả. Bé có hai cái mũ để thay đổi, hai cái yếm xây, ba bộ quần áo, hai đôi vớ. Cứ đúng ba giờ Thanh cho Bé bú một chai sữa đến đúng lằn mức đã ghi sẵn trên chai. Nhờ Bác sĩ Long chăm nom thuốc men thật tận tâm, Bé đã hết nóng. Bú no là nó nằm ngủ yên một giấc, không khóc, không đòi. Thanh tập Bé nằm một mình, để rảnh rang còn làm công việc. Cứ sáng dậy Thanh pha nước nóng tắm cho Bé thay đồ đạc sạch sẽ cho Bé bú, rồi đi giặt tã, áo, băng phơi đến trưa khô cô lấy vô xếp tươm tất, thứ tự.
Những ngày đi gặt lúa mà không có thằng Cùi đến, Thanh nhờ chừng đúng ba giờ chạy về nhà cho bé bú một lần, cho bé nằm ngủ lại trên chổng, đàng hoàng, rồi Thanh lại chạy ra ruộng.
Lần lần câu chuyện đứa con hoang của Thanh nuôi, nhiều người trong làng đều biết. Người ta đến xem, hoặc mấy chị đàn bà và mấy cô gái có dịp giúp đỡ Thanh đôi chút. Ai nấy đều khen Thanh, trầm trồ ca ngợi cô Thanh có lòng nhân đạo, ăn ở có phước đức, hiền lành. Một thân trơ trọi mà cán đáng được hết cả mọi việc gia đình; lại thêm một đứa bé hoang, nuôi nấn, chăm lo, săn sóc không khác nào một bà mẹ hiền.
Nhiều bà già đã móm, nhai trầu nhóc nhách cười:
- Nghĩ ông Trời khiến cũng hay chớ! Cô Thanh nuôi đứa bé nầy khác nào tò vò mà nuôi con nhện! Vậy mà thấy cô cưng nó quá!
Có đôi bà đến chơi ở cả buổi để giúp Thanh vì họ thấy Thanh một mình bận bịu quá. Họ tội nghiệp cho cô. Họ thương cô, họ kính phục cô. Nhưng cô không cho ai biết đứa bé là con của Hồng Lan và cô dặn cả thằng Cùi giấu kín. Cô nói cho mọi người rõ là một buổi sáng cô đi chợ sớm, thấy đứa hài nhi bị gói trong giấy nhựt trình bỏ trong một cái giỏ nhét nơi xó chợ, Cô thương hại, đem về nuôi. Mọi người đều tin lời cô. Riêng có ông Huyện và cô Hồng Lan thì kín cổng cao tường không hay biết gì hết. Vả lại Hồng Lan, sau khi ở cử xong được một tháng, nhờ bác sĩ Long thuốc than cho đã bình phục lại, cô trở lên Saigon.
Thằng Cùi nhứt định không ở chăn trâu cho ông chủ nó nữa. Nó xin cô Thanh cho về ở với cô để đỡ đần cô. Thanh thương nó, nhưng ngặt một nỗi nhà cô nghèo quá, làm sao nuôi nó được? Thằng Cùi bảo:
- Thưa cô Hai, cô Hai cho em đi câu cá, đi bẩy chìm, đi ra chợ làm xiếc, để em kiếm thêm tiền về cho cô Hai nuôi bé.
Thanh cười:
- Em biết làm xiếc nữa sao?
- Mấy lần em lên tỉnh, hồi cô Hai còn ở trong tù, để đem quà bánh và thư liên lạc cho cô Hai, em có học thêm nhiều trò xiếc hay lắm, cô Hai à. Em nhào lộn được, em đi giây được.
- Em đi dây cách nào?
- Dăng một sợi giây kẽm thiệt chắc qua hai góc cây, rồi em leo lên đi trên dây, không té. Em đi tới đi lui. Đang đi em ngồi xuống thổi sáo, rồi lại đứng dậy đi. Bữa nào em đi cho cô Hai coi!
Thanh khen:
- Em giỏi quá!
- Cô Hai chưa thấy em nhào lộn như hát xiếc nữa đó! Nè em nhào cho cô coi, cô Hai.
Nói xong nó hăng hái cởi áo rách của nó ra quăng trên đất. Nó dẹp bàn ghế một bên. Nó đứng ngoài cửa, uốn ngửa mình thiệt cong thành hình bán nguyệt, đâu chấm xuống đất, hai tay chống hai bên, rồi nó đưa hai cẳng lên, để lộn sấp trở lại. Cứ như thế, lúc sấp, lúc ngửa, nó nhào lộn thật dẻo. Nó nhào được cả trên lưng con trâu trong lúc trâu điềm nhiên bước đi ăn cỏ, mà nó không té.
Nó cười, bảo cô Thanh:
- Em biết làm quỉ thuật nữa, cô Hai ơi!
- Chà! Em tài quá vậy, Cùi!
- Để em làm vài trò, cô Hai coi nghe!
Nó bảo cô Thanh cho nó mượn ba đồng bạc cắc, và cái khăn mặt. Nó bỏ ba cắc bạc trong khăn, gói ghém kỹ càng, nó nắm một đầu, còn một đầu nó đưa cô Thanh:
- Cô Hai rờ coi, có ba cắc bạc ở trỏng không?
Thanh mân mê cái khăn và gật đầu:
- Có.
Nó cột khăn lại, quay tròn mấy vòng, rồi lại đưa cô Thanh:
- Bây giờ cô Hai rờ coi, có ba cắc bạc ở trỏng không?
Thanh mân mê không thấy:
- Ủa! Em làm sao tài vậy? Ba cắc bạc biến đi đâu rồi ?
Thằng Cùi cười ha hả, sè tay ra:
- Nó đây nè, cô Hai!
Ba cắc bạc nằm trong tay nó.
Chiều hôm ấy, nó ra chợ làm xiếc và quỉ thuật cho người ta coi. Sáu giờ nó đem về cho cô Thanh hai chục đồng và năn nỉ xin cô Thanh cho nó ở luôn với cô:
- Em muốn ở với cô Hai để cô Hai dạy em học chữ, học sử ký, địa lý, toán, như tụi học trò.
- Được. Chị bằng lòng cho em ở. Em sáng trí và có tài, lúc nào rảnh công việc, em ra chợ làm xiếc được ai cho tiền thì em để giành may áo quần cho em. Còn chị thì chị ráng làm công việc thuê mướn cho người ta cũng đủ tiền nuôi em với Bé. Em ở đây chị dạy cho em học, và em giúp đở chị chút ít công việc nhà. Những lúc chị đi gặt hái hoặc xay gạo, xay lúa mướn cho người ta thì em ở nhà coi chừng Bé.
- Dạ.
Từ hôm ấy, thằng Cùi ở luôn nhà cô Thanh, Tối nó trải manh chiếu rách nằm ngủ ngoài hè. Ban ngày, nó chụm lửa, nấu cơm, quét dọn, và học.
Một buổi sáng, cách một năm sau, đúng ngày thôi nôi của Bé, Thanh bảo nó:
Cùi à, hôm nay Bé được một tuổi, Cùi có nhớ không?
- Dạ vậy sao? Mau quá cô Hai nhỉ! Hèn chi Bé đã biết ngồi rồi! Cô Hai có muốn mua gì cúng thôi nôi cho Bé không?
- Nhà mình nghèo mà, Em! Nay chị chỉ muốn trồng một giây bí rợ.
- Để chi, cô Hai?
- Chị muốn có một kỷ niệm ngày sanh nhựt của Bé.
- Khó gì! Em lên Rạch Dừa, chỗ người ta bỏ đó, em nhổ một giây bí rợ hoang đem về trồng, đuợc không cô Hai?
- Được. Nhưng em nhổ đứt rễ thì nó chết. Em cầm cái dao lên đó, coi có cây bí con nào mới mọc em xắn đất chung quanh, thiệt sâu, rồi em bưng nhè nhẹ cho khỏi đứt rễ.
- Dạ. Thiếu gì bí con mới mọc, cô Hai!
Thằng Cùi hăng hái vác cuốc và cầm dao đi. Một lát nó đem về một cây bí con mà nó đã bứng rất cẩn thận như lời Thanh dặn. Thanh đào một lỗ sau bếp, trồng cây bí rợ.
Nhơn dịp ngày kỷ niệm sanh nhựt của Bé, Thanh đặt cho Bé một cái tên. Từ hôm Thằng Cùi xí được Bé cho đến nay,đúng một năm, Thanh bận rộn quá chưa nghĩ đến việc đặt tên cho Bé. Nay không lẽ cứ gọi ‘‘Bé’’ hoài, nên Thanh muốn cho nó một cái tên. Bởi lẽ thằng Cùi xí được nó vào lúc bình minh, Thanh liền đặt tên là bé Bình Minh. Còn họ, thì chẳng biết tính sao đây? Bé không có cha, không có mẹ, thôi thì lấy họ của Thanh vậy. Từ nay tên họ chánh thức của Bé là Nguyễn thị Bình Minh.
Có lúc, Thanh muốn lấy họ của Đồng, là họ Lê, nhưng Thanh nghĩ lại rằng Thanh không có quyền. Bởi Đồng không có cho Thanh biết là Đồng có đứa con với Hồng Lan. Mặc dầu Thanh nửa tin nửa ngờ, và trong thâm tâm Thanh rất xót xa đau đớn về nghi án này, nhưng bây giờ đây bé Bình Minh chỉ là một đứa con rơi, một đứa con hoang, vô thừa nhận, thì Thanh đâu dám gắn họ Lê cho bé được?
Bé Bình Minh đã tập nói, và gọi Thanh là ‘‘Má’’, gọi thằng Cùi là anh, Trông mặt nó thật ngộ.Lớn lên nó càng giống Hồng Lan như đúc. Trong làng dư luận bàn tán xôn xao. Mặc dù người nhà ông Huyện Cảnh không dám hở môi lộ ra bí mật, mặc dầu cô Thanh và thằng Cùi cũng nhứt định giấu kín, nhưng tiếng đồn đãi của dân chúng vẫn gán cho con gái ông Huyện đã chửa hoang sanh ra bé Bình Minh, rồi đem nó quăng ra xó chợ. Họ sợ oai quyền của ông Huyện, nên không dám nói ra, nhưng họ vẫn xầm xì bàn tán,
Những người đàn bà con gái đến chơi nhà cô Thanh để coi bé Bình minh, chỉ chỏ cái miệng Bé, cặp mắt Bé, rồi nhìn nhau cười một cách ranh mảnh, tỏ rằng sự bé Bình minh giống cô Hồng Lan là không chối cãi đàng trời nào được nữa. Nhưng cha nó là ai? Câu hỏi đó là một bí mật không tài nào khám phá nổi.
Thanh, thì dĩ nhiên cũng như mọi người, làm sao biết được người cha thất đức ấy là ai? Đồng? Thanh không muốn nghi rằng chính Đồng là thủ phạm. Trong những thư từ vài tháng mới có cơ hội lén gởi một cái cho Đồng, do thằng Cùi trao cho người liên lạc, Thanh không bao giờ nói đến chuyện bé Bình Minh. Thanh muốn hoàn toàn giấu Đồng chuyện ấy. Để Đồng khỏi bận tâm. Thanh cũng không nhắc nhở một câu nào về Hồng Lan, coi như chuyện ấy không có. Vả lại Thanh cho là vô lý cái việc mà Đồng có thể phạm một tội hèn nhát là làm cho Hồng Lan có chửa rồi bỏ nàng trốn đi. Không! Thanh suy nghĩ kỹ không thể tin như thế được!
Thanh cố nhớ lại những ngày tháng để phán đoán, tìm cho ra sự thật. Thanh nhớ hôm Đồng đến nhà ông Huyện để dạy học cho Hồng Lan là ngày 9 tháng 7 năm 1949. Đồng chỉ dạy được tám ngày rồi bỏ đi, tức là ngày 17 tháng 7. Vậy nếu Hồng Lan nói rằng có chửa với Đồng thì Hồng Lan phải thọ thai trong tám ngày đó. Đến hôm thằng Cùi xí được đứa bé, là hôm Hồng Lan sanh nó ra, là ngày 15 tháng 3 năm 1950. Tính ra thì mới có bảy tháng và mấy ngày thôi. Do đó Thanh đoán rằng Hồng Lan đã có thai lúc còn học ở Saigon ít nhứt cũng hai tháng trước khi gặp Đồng. Rồi có lẽ bị người tình bỏ rơi, Hồng Lan nhơn dịp về quê nghỉ hè gặp Đồng, muốn quyến rũ Đồng, bám lấy anh này để tránh được cái nhục nhã chửa hoang và gán cho Đồng là cha đứa Bé.
Thanh cho rằng giả thuyết này có phần đúng với sự thật hơn. Nhưng đó chỉ là giả thuyết, vì Thanh cũng nghi rằng hoặc giả Đồng có lấy Hồng Lan thiệt, và đứa bé bị sanh thiếu tháng chăng? Nghi vấn này, Thanh chưa có kinh nghiệm về việc sanh sản, nên không giải quyết được. Thanh định sẽ hỏi các bà già. Dầu sau, Thanh cho rằng con của Đồng hay con của người khác, đứa bé dễ thương nầy vẫn là một đứa hài nhi vô tội, không cha, không mẹ. Bổn phận của Thanh là nuôi nó và Thanh rất vui vẻ nuôi nó, không tiếc công lao cực nhọc, chính vì nó là đứa con hoang. Thanh sẽ dạy dỗ nó để sau nầy nó có thể trở thành một thiếu nữ tốt. Vả lại, đứa bé cũng ngộ nghĩnh, dễ thương,nên Thanh rất quyến luyến nó, và nó cũng đeo theo Thanh như mẹ ruột của nó vậy.
Chương VII
Hôm nay Bác sĩ Long buồn bã lạ thường. Mọi hôm, cử đúng lệ mỗi buổi sáng ông đi thăm bịnh nhân ở các phòng, ông vui vẻ tử tế với tất cả mọi người, sáng nay, mặt ông buồn hiu. Không thấy bóng dáng một nụ cười trên môi ông. Ông không quạu quọ vì ít khi ông quạu với ai lắm, nhưng trái hẳn với mọi khi hôm nay ông ít nói. Bịnh nhân nói gì ông chỉ nghe rồi gật đầu. Ai đau nặng, ông xem mạch, và làm thinh. Thỉnh thoảng ông nói một vài câu cần thiết, rồi đi. Ông bước chậm chạp, như không muốn bước. Ông nghe lơ đểnh, như không muốn nghe, ông chỉ dặn thầy y tá:
— Thầy ghi chép thật kỹ giùm tôi rồi vô bàn giấy cho tôi xem.
Một cô nữ phụ tá giúp việc trực tiếp bên cạnh ông, độ chừng 20 tuổi, chưa có chồng, vừa xinh đẹp tha thước, vào phòng giấy của ông như mọi khi, với điệu bộ duyên dáng muốn cho bác sĩ để ý tới mình. Thường bác sĩ Long vui vẻ tử tế với cô có khi rất dịu dàng, có lúc niềm nở, nhưng không bao giờ thân mật. Sáng hôm nay cô bước vô lúc ông vừa đi thăm bịnh về ngồi ủ rủ nơi bàn giấy. Cô đến gần ông:
- Thưa bác sĩ, sao hôm nay bác sĩ không được vui? Bác sĩ có điều chi phiền lòng không?
Ông nghiêm nghị, mà rất nhã nhặn, bảo:
- Cô Mai, xin cô vui lòng để yên tôi một mình ở đây.
Cô nữ phụ tá bẽn lẽn:
- Xin lỗi Bác sĩ.
Cô rón rén đi ra khép nhẹ cánh cửa, không hiểu sao hôm nay Bác sĩ Long khó tính đến như thế.
Bác sĩ Long ngồi yên lặng trong văn phòng, một lay đỡ trán, cúi đầu nghĩ ngợi,
Suốt đêm qua, bác sĩ không ngủ. Bức thơ trả lời của cô Thanh làm cho bác sĩ buồn bả thất vọng. Ông không ngờ, một Bác sĩ có danh tiếng là tài giỏi như ông, đã thắng được bao nhiêu cơn bịnh trầm trọng nguy hiểm của kẻ khác, mà chính ông không thắng được mối tình đau khổ của ông! Ông không hàn gắn được vết thương tê tái
của lòng ông! Ông cảm thấy, hôm nay, ông là người đau khổ hơn tất cả mọi người.
Nhưng ông muốn quên, cố quên, để làm việc. Hay là ông muốn làm việc, cố làm việc, để quên!
Ông bấm chuông trên bàn gọi cô Mai. Lần này cô không dám đến gần ông, nhưng vẫn giữ nụ cười duyên dáng trên đôi môi tươi, khẽ mở cửa bước vào. Ông ngửng mặt ngó cô:
- Nhờ cô nói với thầy Lễ vô đây.
- Dạ.
Cô nữ phụ tá rón rén đi ra. Một phút sau, thầy Lễ vô. Bác sĩ bảo:
- Thầy cho tôi xem những điều ghi chép lúc nãy.
- Dạ, thưa Bác sĩ đây.
Bác sĩ xem kỹ từng trường hợp bịnh nhơn, và dặn thầy Lễ những cách săn sóc từng người. Xong ông đứng dậy đi qua bên nhà thương thí, và bên nhà hộ sanh.
Mười giờ ông trở lại phòng giấy, dặn cô nữ phụ tá:
- Cô Mai, tôi đi về nhà. Có chuyện chi cần gấp, nhờ cô gọi điện thoại cho tôi hay.
- Dạ. Thưa Bác sĩ sáng nay hình như Bác sĩ mệt, Bác sĩ cho phép tôi, 12 giờ tan sở, đến thăm Bác sĩ được không?
- Cám ơn cô. Cô có lòng tốt, nhưng cô biết tôi không tiếp phụ nữ ở nhà tôi. Vả lại, tôi không mệt.
Bác sĩ lái xe về nhà. Ông không thay đồ, để nguyên y phục lên giường nằm. Ông lấy chìa khóa mở một học tủ trên đầu giường, lấy ra bức thư của cô Thanh, coi lại:
7-12- 1952.
Kính gởi Bác sĩ Long.
Tôi rất đau lòng viết bức thư nầy để trả lời Bác sĩ như tôi đã hứa. Thưa Bác sĩ, tôi biết nói sao bây giờ? Tinh thần tôi đã rối loạn!
Tôi thành thật nói ngay rằng Bác sĩ là một người rất xứng đáng, rất cao thượng. Tôi đã nhận thấy ở Bác sĩ tất cả những đức tính quí báu, đáng kính phục của một người quân tử. Bác sĩ là một bậc trí thức chân chính, một đấng thanh niên gương mẫu, lòng yêu nước thiết tha, lòng yêu nhân loại rộng lớn, không như một số trí thức khác kiêu căng, khả-bỉ.
Vả lại, tôi mang ơn Bác sĩ nhiều lắm. Từ lúc tôi còn đi học, phần thưởng đắc giá của Bác sĩ tặng tôi, mà tôi còn gìn tươm tất dưới mái nhà lá nghèo nàn nầy là một kỷ niệm rất quí báu, không phải vì giá trị vô ngần của nó, mà vì vinh dự đặc biệt Bác sĩ đã ban cho kẻ thơ sinh.
Rồi suốt một năm qua, tất cả những sự chăm sóc của Bác sĩ, những hy sinh hiếm có, những tận tụy rất cảm động của Bác sĩ đối với cháu. Bé Bình minh, một đứa con hoang nhờ Bác sĩ cứu sống, và đối với tôi trong những khi trái nắng trở trời thân cô độc giữa thôn quê, nhớ ơn Bác sĩ cứu cho biết bao nhiêu lần! Những công ơn hãi hà vô lượng ấy, dù có đền đáp cách nào cũng không đủ!
Cho nên chúa nhựt trước, khi Bác sĩ ngỏ lời muốn kết hôn với tôi, tôi quá cảm động đến nổi không nói được một lời để đáp lại thịnh tình của Bác sĩ. Câu nói thiết tha và chân thành của Bác sĩ đã thấm vào trong thâm - để của lòng tôi. Tôi quí mến Bác sĩ vô cùng.
Nhưng thưa Bác sĩ, chính cái vinh dự cao quý mà Bác sĩ ban cho tôi, đã đem lại cho tôi một nguồn đau khổ vô tận. Đau khổ bởi vì tôi không có can đảm nhận lãnh cái số phận đẹp đẽ mà Bác sĩ để giành cho. Tôi không có can đảm phản bội một lời thề trước, thiêng liêng biết bao, bởi chính là lời thề đầu tiên đã gắn bó cuộc đời tôi.
Tôi xin Bác sĩ tha thứ cho tôi. Nếu bức thư nầy làm phiền lòng Bác sĩ, tôì tự coi đó là một lỗi lớn của tôi mà chỉ có Bác sĩ là tha thứ được cho tôi mà thôi,
Thân mến chào Bác-sĩ.
NGUYỄN THỊ THANH
Bác sĩ Long dê thơ xuống giường.
Một làn gió mạnh đượm mùi thơm dịu của vườn hoa từ ngoài cửa sổ thổi vào, vài cánh hoa bay rụng trên lòng Bác sĩ. Trái tìm của vị Bác sĩ thanh niên kia hình như cũng tan nát như cánh hoa bay.
Thật ra, nếu Bác sĩ Long muốn lấy vợ, có khó gì! Với địa vị của Bác sĩ, với tư cách tánh tình của Bác sĩ, với tuổi trẻ của Bác sĩ (đỗ Bác sĩ ở Pháp về, được bổ làm giám đốc bịnh viện, ông mới có 28 tuổi) biết bao nhiêu thiếu nữ mơ ước được làm vợ ông! Nhưng ông có tiếng là kén vợ, cho nên các cô gái nhà giàu ở Saigon, cũng như ở lục tỉnh, các cô tiểu thơ khuê các con các cụ, các Ngài, các cô sinh viên Trung học, Đại học, ‘‘muốn’’ Bác sĩ Long lắm, nhưng ông không muốn các cô. Nhiều cô, vì trường hợp quen biết gần gủi do sự giao thiệp, có những hoàn cảnh rất lãng mạn hoặc rất thực tế để tiếp xúc với Bác sĩ một cách có thể thân mật được. Các cô ấy đều có nhan sắc lộng lẫy, duyên dáng, yêu kiều, hay ít nhứt cũng có điệu bộ khả ái, rãt dễ cám dỗ đàn ông. Ranh mãnh hay ngây thơ, suồng sã hay kín đáo, cố ý hay vơ tình, họ cũng đã tìm cách tỏ lòng cảm mến Bác sĩ, trong một lời nói, một nụ cười, hoặc tỏ thiệt tình yêu trong một cử chỉ đầy hứa hẹn.
Nhưng với tất cả các nàng tiên diễm mộng ấy, Bác sĩ chỉ đối xử rất lịch sự, rất tử tể mà thôi.
Những người bạn thân của Bác sĩ hiểu ông hơn ai hết. Họ biết ông không phải lòng sắt dạ đá, và không phải là một người khó tánh. Ông cũng lãng mạn lắm chớ, cũng đa tình chẳng kém ai! Hồi còn đi học, ông cũng ‘‘mèo chuột’’ dữ lắm, và ngay ở Pháp người ta cũng có thấy ông thường đi dạo phố và đi tắm bể với hai cô Đầm trẻ đẹp ở trường Đại học "Văn.khoa và Y khoa’’. Nhưng lấy vợ, ông chưa chịu lấy. Và từ khi về Việt nam, ông không ‘‘bắt nhơn tình’’ với một phụ nữ nào nữa. Ông tu tĩnh, chăm lo làm phận sự,
Ông đã nói thiệt là ở địa vị của ông, và theo tính nết của ông, muốn gây hạnh phúc gia đình bền vững,muốn có một ổ ái tình xinh đẹp hoàn toàn, ông phải kén chọn một người bạn trăm năm cho thiệt hợp với lý tưởng của ông?.
Nhưng sự kén vợ của ông đâu có khó? Ông chỉ muốn một người thiếu nữ từ 18 đến 25 tuổi, học lực tương đương với bằng Thành Chung hay Tú tài, có vẻ đẹp diễm lệ nhưng nghiêm trang, ngôn ngữ thật thùy mị, tính nết thật hiền lành, phúc hậu, giàu lòng nhân đạo, bác ái. Đó là người đàn bà lý tưởng của Bác sĩ Long. Còn nghèo hay giàu, ông không cần. Triệu phú, hay ức phú, ông không kể. Trong đám thân bằng cố hửu của ông, hoặc các cô em ruột hay em họ của ông hỏi ông:
- Sao anh không lấy cô Thúy Nga, con Ông Tổng trưởng ?
Ông đáp:
- Cô ấy lẳng lắm.
- Cô Quỳnh Hoa, trường Thuốc?
- Cô ấy hay khoe khoang, kiêu ngạo.
- Cô Liên trường Luật?
- Cô ấy hung dữ lắm..
- Cô Jeanine Hòa?
- Cô ấy nóng tính quá, không biết phải trái.
- Cô Hồng, giáo sư?
- Hồng tham lam, ích kỷ, nhỏ mọn
- Cô Oanh, người Bắc, con bà Cự Hải, vừa đẹp vừa giàu, vừa ngoan, đủ nết tốt
- Phong kiến lắm, quá trọng tiền tài địa vị, khinh khi người nghèo, tàn nhẫn với đứa ở.
- Cô Thiết, em ông Tỉnh trưởng Mỗ?
- Xa hoa, mà ngu ngốc.
- Cô Henriette Long, cùng một tên với anh mà cũng học giỏi, đỗ tú tài rồi đó.
- Cô ấy được, nhưng cái miệng hay cười, con mắt hay liếc...
- Còn cô Quý, mắt không hay liếc, miệng không hay cười, mà lại đẹp học giỏi, hiền lành, thương người nghèo, phúc hậu, đủ các đức tính anh kén chọn, anh còn chê chỗ nào?
- Chỉ tiếc cái ngực ô-mê-ga.
- Vậy thì ý trung nhơn của anh là ai?
Là ai, Bác sĩ Long không nói. Ý trung nhơn của Bác sĩ, người mà Bác sĩ nhận thấy vừa đẹp rực-rỡ ‘‘đẹp nhứt trên trần gian nầy’’ như ông nói, có vẻ đẹp thiên nhiên, dịu dàng và tinh khiết, lại vừa có tất cả tính quý báu của người vợ lý tưởng theo quan niệm ái tình và hạnh phúc của ông, người đàn bà đáng yêu nhứt,đáng quý nhứt, đáng thờ như vị thần, người đàn bà đầu tiên đã làm rung động trái tim của Bác sĩ, làm xao xuyến tâm hồn ông, người đàn bà hoàn toàn, duy nhứt trên thế gian, là cô Nguyễn thị Thanh.
Nhưng ông không nói tên cô cho ai biết. Đó là cái tên thiêng liêng mà ông sẽ không bao giờ nói đến nếu ông không được nói trước bàn thờ ông bà cha mẹ, và trước bàn thờ Phật.
Bức thư dứt khoát của Thanh vừa làm tiêu tan tất cả hy vọng của ông. Đọc lại những lời lẽ nồng nàn cảm động của Thanh, ông biết Thanh cũng có nhiều cảm tình sâu sắc với ông. Nhưng bức thơ của Thanh đã tỏ ra ý định của Thanh không muốn phản bội lời thề đầu tiên của cô, lời thề gắn bó hai cuộc đời thanh niên trong một đêm giông tố.
Bác sĩ muốn biết vị hôn phu của Thanh là ai? Ai là người đã được Thanh gìn giữ mối tình trung thành một cách cảm động thiết tha như thế?
Một hôm Bác sĩ muốn gặn hỏi Thanh:
- Người ấy hiện giờ ở đâu?
Thanh mỉm cười đáp:
- Dạ, ở xa.
- Một sinh viên đang tòng học bên Pháp?
- Dạ, không phải.
- Một Thiếu úy? Trung úy đang ở ngoài mặt trận?
- Dạ không phải,
Bác sĩ gạn hỏi mãỉ, buộc lòng Thanh thú nhận:
- Da người ấy hiện ở ngoài Bưng, trong một sư đoàn Quốc gia kháng chiến.
Bác sĩ im lặng.
Một lúc lâu, Bác sĩ hỏi thêm:
- Người ấy tên là gì?
- Dạ... Lê Quang Đồng.
Từ hôm ấy Bác sĩ không hỏi thêm gì nữa về cuộc tình duyên giữa ‘‘người ấy’’ với Thanh.
Nhưng Bác sĩ chưa hoàn toàn tuyệt vọng. Mỗi tháng vài lần Bác sĩ Long vẫn đến thăm cô Thanh, và thừa dịp đi xem sức khỏe cho Bé Bình Minh luôn thể. Ông không nói ra nhưng trong thâm tâm, ông rất khâm phục cô Thanh vì trong lúc các cô gái khác ở tỉnh ước ao được Bác sĩ chú ý đến, và thèm muốn được làm vợ Bác sĩ, thì cô gái nghèo khổ, côi cút độc thân ở đồng ruộng, lại từ chối tình yêu của ông, để giữ vẹn lời thề với một người xa vắng.
Nhưng cô từ chối khéo quá. Bức thơ của Thanh đầy những lời lẽ khôn ngoan và cảm động. Chính sự từ chối ấy càng làm cho Bác sĩ mê cô và đau khổ âm thầm không biết nói sao!
Việc cô nuôi đứa con hoang và chăm nom cho nó từng giờ từng phút, và lòng quyến luyến của cô đối với nó, là một hành vi nhơn đạo làm tăng danh dự và phẩm giá của Thanh bao nhiêu, tình yêu của Bác sĩ Long đối với cô càng đậm đà tha thiết bấy nhiêu.
Trên ba năm qua, từ khi Bác sĩ biết Thanh là một nữ sinh trường Trung học được toàn thể gìáo viên và học sinh mến phục và khen tặng, đến khi Thanh về làng làm cô gái quê, và cứu sống một đứa con hoang, tận tụy hy sinh để nuôi nó dưới túp nhà lá rách rưới ở thôn, cho đến ngày nay đứa bé đã ba tuổi,Thanh mỗi ngày mỗi đẹp thêm, tánh tình và tư cách mỗi ngày mỗi biểu lộ nết dịu dàng đáng yêu đáng quí hơn, trên ba năm ấy Bác sĩ chưa hề thấy nơi Thanh một nhược điểm nào cả.
Còn Thanh, Thanh nhận thấy Bá -Sĩ Long trung thành với mình một cách quá thiết tha nồng nàn, suốt ba năm vẫn giữ mãi mối tình tuyệt vọng, Thanh rất cảm mến và rất đau khổ. Thật ra, Thanh không phải là khôrg yêu Bác sĩ Long. Nhưng chính vì yèu đó mà cô đau khổ! Chính vì Thanh đã trao tình yêu cho Đồng rồi! Thanh cương quyết không bao giờ phản bội lời giao kết với người yêu xa vắng, nhưng tỷ dụ như Thanh không biết Đồng và không hứa hôn với Đồng, thì chắc chắn là Thanh không chọn một người chồng nào xứng đáng hơn Bác sĩ Long được nữa. Thanh thấy rằng Bác sĩ Long sẽ là một người chồng hoàn toàn, rất hoàn toàn. Người đàn bà nào lấy Long sẽ là người đàn bà sung sướng nhứt trên đời, đầy đủ hạnh phúc tinh thần và vật chất. Thanh nhớ lại nhiều lần,cử chỉ rất đoan trang và tư cách rất tao nhã của Long đã làm cho Thanh gần như xiêu lòng. Nhiều lần, trong những lúc hai người ngồi đối diện chuyện trò, những lời nói chậm rãi và dịu dàng của Long chứng tỏ một sức học tài ba lỗi lạc, tư tưởng cao siêu, thái độ vừa điềm tĩnh vừa khôn-ngoan, cử chỉ nhã nhặn đầy lễ độ, tính tình rất tế nhị, chí hướng rất caa xa, tất cả những ưu điểm toàn thiện toàn mỹ của bác sĩ Long như có sức quyến rũ mãnh liệt không ngờ, làm cho Thanh nhiều lần đã bị rối loạn, bị thôi miên, gần như bị chinh phục.Trong những giờ phút rạo rực ấy,nếu Long tha thiết khẩn cầu thì Thanh tránh sao khỏi bị sa ngã đê mê trong tay Long? Dầu Thanh có sức tự chủ mạnh mẽ thế nào chăng nữa, cũng khó mà chống cự lại nổi kẻ chiến thắng rất mềm mại dịu dàng kia! Nhưng cả hai người đều xứng đáng, cả hai người đều tĩnh táo, và tình yêu sôi nổi trong lòng họ như ngọn thủy trào sắp ngập tràn ra vũ trụ, đã êm dịu rút về trong đáy tim. Kể ra, ở hoàn cảnh của Thanh và Long, hai người có thể tự do luyến ái, có gì ngăn cản đâu? Nhưng họ chỉ âm thầm cảm mến có thể nói là yêu tha thiết mà không dám yêu! Thanh, vì quyết trung thành với Đồng mặc dầu Đồng xa vắng, Bác sĩ Long vì không muốn xúc phạm đến lòng trung thành tinh khiết ấy, cả hai người đều mến phục lẫn nhau, nhưng mỗi người đều giữ được trung thành với lương tâm của mình.
Cho nên nhận được bức thư của Thanh, Bác sĩ Long buồn bã, thất vọng, mà vẫn một lòng quý mến Thanh và quyết không yêu một người đàn bà nào khác trước khi Thanh quyết dịnh duyên phận bẽ bàng của cô một lần cuối cùng.
Bác sĩ Long khó rời hẳn được hình ảnh dịu dàng mê đắm ấy. Ông không thiết lấy vợ nữa. Ông còn muốn đợi chờ...Đợi chờ ai? Đợi chờ đến bao giờ?.,. Chính ông cũng không biết được nữa!
Chương VIII
Hồng Lan nhứt định tuyệt giao với Alice. Từ ngày nhờ Bác sĩ Long điều trị cô đã lành mạnh, trở lên Sàigòn để tiếp-tục ‘‘đi học’’ cô bị Alice nói xấu đủ điều và khinh ghét ra mặt. Tại sao? Nào ai biết được! Cũng là hạng gái lăng loàng như nhau cả, nhưng trước kia hai người chơi thân với nhau bao nhiêu, thì bây giờ họ lại chửi nhau tồi tệ bấy nhiêu. Hầu hết những bạn gái ‘‘Ma chère’’ của Hồng Lan cũng đều tẩy chay Hồng Lan hết! Mà nào phải họ hay ho gì hơn cô! Họ là một lũ gái tân thời rỡm cùng bị nắn với một thứ bột như Hồng Lan, từ 15, 16 đến 24, 25 tuổi, có ai là trong sạch thơm tho hơn ai! Chỉ vì ganh ghen với nhau về chuyện mèo chuột, hoặc tức tối nhan về chuyện tranh giành lắm tiền, cho nên họ chỉ bêu xấu lẫn nhau, thù oán lẫn nhau, rồi rốt cuộc là tình địch với nhau cả. Còn bạn trai của họ thì toàn là tụi cao bồi, ma cô, nếu không phải là mấy chàng công tử bột, chữ nghĩa mù tịt mà đĩ điếm lu bù, hoặc mấy ông ‘‘trí thức’’ trụy lạc, đêm đêm la cà các tiệm nhảy, tiệm hút, sòng bạc, hộp đêm, cho đến khuya đến sáng. Những người bồ bịch cũ của Hồng Lan, Paul, Henri, Cồm mi Bạch …v…v... đều trở mặt với cô một khi họ không làm tiền cô được nữa.
Hồng Lan lần nầy trở lên Sàigòn thấy thói đời đen bạc như thế, cô rất nhục nhã và tức giận. Cô muốn trả thù lại những kẻ đã làm cho cô đau khổ. Học dở quá, cô quyết bỏ học luôn. Cô xin một chỗ làm tạm không phải để kiếm tiền, Vì Ba cô là triệu phú mà! - nhưng để giết thì giờ và luôn tiện để làm lại cuộc đời, theo như cô nghĩ. Người ta nhận cô ngồi bán vé ci-nê tại một rạp lớn. Cô rất mừng, tuy là lương không đủ cho cô mua phấn sáp, nhưng cô hãnh diện được một chỗ làmđàng hoàng, có một nghề nghiệp, khỏi mang tiếng là lêu lổng. Làm được ít lâu, hơn hai tháng, cô mèo với ông chủ rạp hát, bị bà vợ ông nầy bắt được, đánh cho một trận nhừ tử, rách tan hoang hết cái áo ny-lon của ông chủ tặng cô.
Vụ nầy làm cho Hồng Lan càng thêm mắc cở với bạn bè. Cô buồn bã chán nản, tức giận. Một buổi chiều vào lúc năm giờ, lang thang trên đường Catinat để khuây khỏa tinh thần, cô ghé vào tiệm giải khát ăn một cốc kem cho đở buồn.
Cô ngồi một mình, liềc chung quang thấy nhiều người đàn ông để ý đến cô. Có lẽ vì cô có thân hình nở nang, mặt mày xinh xắn, điệu bộ có vẻ tự do, lãng mạn, và ngồi một mình. Một ông quan ba Hải quân Pháp, to lớn, đẹp trai, từ ngoài bước vô. Nhìn trong phòng đã chật ních, tất cả các ghế đều có người, anh bồi mời ông ngồi một chiếc ghế duy nhứt còn trống, chung bàn với cô thiếu nữ. Ông quan ba mỉm cười xin lỗi cô, theo lối xã giao nịnh đầm, và kéo ghế ngồi đối diện Hồng Lan mỉm cười đáp lại. Hai người cùng ăn kem, Người ngoại quốc lân la trò chuyện với cô bằng tiếng Pháp. Cô dạn dĩ trả lời, nhưng nghe cái tiếng Pháp hổ lốn của cô mỹ nữ, ông quan Ba đoán biết ngay là không phải một bậc nữ lưu đứng đắn. Ông nhìn cô với cặp mắt lẳng lơ và cười hóm hỉnh:
- Cô đã có chồng chưa?
Hồng Lan cười lắc đầu.
- Tên cô là gì?
- Tên em là Hồng Lan.
Ông tự giới thiệu:
- Tên tôi là Jacques
Hai người nói chuyện gần một tiếng đồng hồ mỗi lúc mỗi thân mật hơn. Ông quan ba Hải quân Pháp cho cô biết là ông chưa có vợ. Ông không ưa đàn bà Pháp, ông thích đàn bà Việt hơn, vi đàn bà Việt duyên dáng, thùy mị, hiền lành, vân vân và vân vân…
Sáu giờ ông mời cô ta đi ăn trong Chợ lớn. Lúc đầu cô từ chối. Nhưng ông quan ba mời mãi, cô nể lời bằng lòng đi với ông. Ông mời cô lên xe jeep của ông đậu trước tiệm. Ăn xong, ông mời cô đi khiêu vũ cho đến 12 giờ khuya. Đêm ấy cô hơi say rượu cho nên khi ông Tây đưa cô về nhà hàng Majestic,nơi phòng ngủ của ông, thì Hồng Lan không còn sức lực nào chống cự lại người Pháp đa tình kia.
Hồng Lan làm bạn với ông được hai tháng. Cô có chửa. Nhưng người Pháp không muốn có con, bảo cô phá thai. Cô nghe lời vì chính cô cũng không muốn có con nữa. Cô phá thai xong, bị một trận đau nặng, phải đi nằm nhà thương. Mấy bữa đầu người Pháp đến thăm cô. Nhưng rồi không thấy ông lai vãng nữa. Nửa tháng sau cô trở về nhà hàng Majestic thì người ta cho cô biết là ông quan ba Hải quân Pháp đã xụống tàu qua Phi châu, không để địa chỉ.
Suốt hai năm trường, đời Hồng Lan đầy những cuộc phiêu lưu bừa bãi như thế, cho đến một đêm kia cô theo một người tình nhân sang trọng vào một biệt thự ‘‘quí phái’’ ở đường Champagne. Tại đây khách làng chơi đều là thượng lưu, các ‘‘Cụ’’, các ‘’quan’’, các ‘‘Ngài’’, có xe hơi lộng lẫy và có gạc đờ co. Đúng ra Hồng Lan không phải làm tiền, vì cô thiếu chi vàng bạc và hột xoàn. Nhưng vì ham vui chơi quen thân mất nết đi rồi, như con thiêu thân chỉ say mê bay vào ngọn lửa.
Đêm ấy, Hồng Lan bị vợ ‘‘Ngài’’ núp trong xe hơi Huê kỳ đậu bên lề đường cầm súng lục bắn cô trong lúc cô khoác vai chồng bà từ trong ‘‘Biệt thự’’đi ra. May phước cho cô, viên đạn hay lước trên mái tóc nhuộm màu hoe của cô, cô hoảng hồn bỏ chạy trở vào sân, thoát ra ngả hậu. Viên đạn không trúng da cô, nhưng cô nghe hai tiếng chửi của người tình địch ghê gớm như hai mũi tên độc hắn trúng vào tim cô. Cô chạy ra khỏi biệt thự, mà còn nghe vang dội ở sau lưng hai tiếng : ‘‘Con đĩ! Con đĩ!’’
Về đến nhà cô còn nghe văng vẳng bên tai: ‘‘Con đĩ! Con đĩ!’’. Lần đầu tiên Hồng Lan thấy rõ tư cách hèn hạ nhục nhã của mình. Kể ra thì hai năm nay cô lang chạ với đàn ông có khác nào con đĩ, nhưng thật cô không ngờ! Trong lúc ham theo nhục dục, cô mê muội có biết gì đâu. Cô có nghe ai gọi cô là con đĩ bao giờ đâu. Đêm nay bỗng dưng một tiếng súng sáu nổ bên tai cô, với hai tiếng ‘‘Con đĩ! Con đĩ!’’ làm xáo động cả tâm hồn cô. Cô ngủ không được. Nhắm mắt lại là nghe ‘‘Con đĩ! Con đĩ!’’ như một tiếng nguyền rủa trong đêm thẳm của lương tâm. Cô hồi tưởng lại tất cả những phiêu lưu ‘‘ái tình’’của cô chỉ toàn là những trò bịp bợm! Những trò ‘‘con đĩ’’ cả!

Cô xấu hổ, buồn khóc thâu đêm. Sáng dậy cô đi lang thang ra miệt ngoại ô Sàigòn. Tình cờ cô trông thấy một chùa sư nữ có hai cửa. Một cửa mở rộng vô sân chùa, và bên cạnh là một cửa đóng kín vô nhà tu của các Ni cô. Hồng Lan gõ cửa nhà tu. Một ni cô hé mở, hỏi cô muốn gì? Cô xin yết kiến Sư bà Trụ trì chùa nầy. Sư bà đã già, trên 70 tuổi, nét mặt từ bi nhơn đức, ra cửa chào cô:
- Nam mô A di Đà Phật!
Hồng Lan chấp tay vái:
- Thưa sư cụ, con muốn đi tu. Con xin sư cụ cho con vô ở chùa.
Sư cụ điềm nhiên hỏi:
- Tại sao cô muốn đi tu?
- Thưa Sư cụ, tại con chán đời.
- Đời cô làm sao mà cô chán?
- Tụi con bị người ta gạt gẫm. Con bị nhiều chuyện đau khổ, nay con muốn đi tu.
- Cô năm nay bao nhiêu tuổi?
- Thưa Sư cụ, con 22 tuổi.
- Cô còn trẻ quá, chưa đi tu được. Tôi xem tuớng mạo của cô chưa phải là người chán đời,chẳng qua bị đau khổ một thời gian đó thôi. Vả lại cô nên biết rằng những kẻ đi tu không phải là những kẻ chán đời. Đi tu thì chán đời sao được? Đi tu là coi đời như sắc sắc không không, không mà như có, có mà như không, có có không không, đều là thản nhiên như một chữ ‘‘Như’’ vậy. Trái lại, những kẻ chán đời đâu cần phải đi tu? Chán đời, thì phải sửa đời, đổi đời, cải thiện đời, để cho đời không đáng chán, để cho đời đáng sống. Nếu cô tưởng rằng hể bị thất vọng vì đời là đã chán đời, hể ai chán đời là đi tu, thì cô lầm. Chùa chiền không phải là nơi trú ẩn của kẻ chán đời. Đây là nơi luyện đời. Là nơi rèn đời. Là nơi tạo đời mới cho tinh thần người mới, đời trong sạch cho lòng người trong sạch, đời không không sắc sắc cho người sắc sắc không không. Cô em tuổi hãy còn non mà chán đời sớm quá, tại vì cô em chưa hiểu được hết đời đó thôi! Chưa hiểu được hết đời thì đi tu sao được?
Nói xong, sư cụ khẽ cúi đầu chào Hồng Lan với một nụ cười từ bi phúc hậu, hai tay chấp trước ngực:
- Nam mô A-di-Đà Phật.
Rồi sư cụ quay vô, khép cánh cửa nhà tu.
Hồng Lan buồn rầu thất vọng sắp quay gót ra về, thì một Ni cô thủng thỉnh đi ra trước cửa chùa, cúi đầu chào:
- Nam mô A-di-Đà Phật, mời cô vô chùa lễ Phật!
Hồng Lan bỡ ngỡ đáp:
- Lúc nãy tôi muốn xin đi tu, sư cụ trụ trì không nhận.
Ni cô mỉm cười:
- Nhưng cửa chùa mở rộng cho mọi người vô lễ Phật. Tu giới để giành riêng cho những người có chân tâm nhập thiền. Trụ trì của chúng tôi thấy cô chưa đủ đức tin, nên từ chối đó thôi. Nhưng cửa Phật mở rộng cho chúng sinh cải tà quy chánh.
Hồng Lan theo ni cô đi thẳng vào điện Phật. Ni cô thắp hương đánh chuông, để Hồng Lan làm lễ sám-hối.
Hồng Lan đứng cúi đầu chấp tay trước tượng Phật, xin Phật gia độ cho cô được giác ngộ khỏi cảnh mê lầm. Cô ăn năn những tội lỗi của cô và xin Phật pháp chiếu ánh đạo vàng vào tâm hồn của cô cho từ nay hết mê muội. Cô thành tâm lạy Phật ba lạy trước khi cáo lui. Ni cô căn dặn:
- Đời nhiều cạm bẫy lắm, cô à. Phụ nữ chúng ta cần phải có nhiều can đảm mới tránh được bao nhiêu cám dỗ. Khi nào cô có chuyện gì phiền muộn trong lòng, mời cô đến lễ Phật. Phật là một nguồn an ủi lớn lao cho những tâm hồn đau khổ. Nam mô A-Di- Đà Phật!
Hồng Lan rưng rưng nước mắt, cúi đầu đáp lễ Ni cô.
Buổi trưa Hồng Lan xách va-li về làng. Ông Huyện Michel Cảnh ngạc nhiên thấy con gái về, với vẻ mặt bơ phờ, quạu quọ. Ông hỏi:
- Con nghỉ học về có chuyện chi?
Hồng Lan bỏ mạnh va-li xuống tràng kỹ, ngồi phụng phịu:
- Con không thèm học nữa đâu, Ba à!
- Sao vậy?
- Không sao hết.
- Chớ con muốn làm gì?
- Con không, muốn làm gì hết.
Ông Huyện tức mình rầy la:
- Lịch! Con điên sao chớ?Ba cưng con, Ba chìu con, con muốn gì được nấy, con đòi đi học trên Saigon Ba cũng cho, con muốn học nhẩy đầm Ba cũng ừ, con muốn giao du với người nào Ba cũng chịu, con có chửa với đứa nào Ba cũng không rầy, con sanh cái hoang thai muốn quăng ra ruộng.Ba cũng nghe theo...
Hồng Lan đổ quạu, hét lên:
- Thôi Ba đừng kể công ơn với con nữa! Con làm gì mà Ba cứ rầy con hoài?
Hồng Lan ôm mặt khóc. Ông Huyện chấp tay sau lưng, đi qua đi lại trong phòng khách với bộ mặt tức tối, miệng nói không ngớt:
- Bây giờ con về đây làm gì? Hay lại có chửa với ai nữa rồi? Hả? Có phải con có chửa với đứa nào nữa không? Định về đây báo hại Ba nữa hả? Nói nghe coi, Lịch?
Hồng Lan đứng phắc dậy, vùng vằng chạy ra sân, khóc bù lu bù loa:
- Con nhảy xuống giếng tự tử cho rồi …sống làm chi nữa cho khổ cái thân con?
Ông Huyện hoảng hốt lật đật chạy theo kêu:
- Con ơi con, thôi ba xin lỗi con... Con ơi... con!...
Hồng-Lan đứng ở miệng giếng quay lại:
- Sao Ba cứ rầy con hoài? Ba ghét bỏ con, Ba muốn đưổi con đi thì Ba cứ nói!
- Thôi, thôi, ba xin lỗi con rồi mà!... Con gái cưng của ba!...
Ông Huyện chạy đến giếng kéo tay con gái vào nhà. Hồng Lan mếu máo:
- Con không muốn học ở Sàigòn nữa là tại vì con không muốn học ở Sàigòn nữa, chớ có chuyện gì đâu mà Ba la mắng con?
- Ừ, thôi thôi, bây giờ con muốn làm gì, con nói cho ba nghe?
- Con muốn sang Pháp.
- Sang Tây du học hả con?
- Dạ
Ông Huyện Michel Cảnh coi bộ không dám cho đứa con gái cưng sang Pháp, ông viện lý lẽ để cản con:
- Ba chỉ có một mình con là con. Con đi xa, ba không muốn đâu con à.
Suy nghĩ một lúc, ông bảo:
- Hay là ba lên tỉnh xin với quan Bác sĩ Long nhận cho con vô học Nữ y tá, con chịu không?
Hồng Lan do dự. Cô không muốn học hành gì nữa hết, nhưng cô tưởng tượng một cô Nữ y tá Hồng thập tự mặc áo blouse trắng, đội khăn trắng có dấu chữ thập đó, coi bảnh..., và được giao thiệp nhiều với các bác sĩ... Nghĩ đến đó, cô thích quá. Cô nhỏng nhẻo đáp:
- Con chìu ý Ba. Ba biểu sao con cũng nghe. Chớ đi học ở nhà trường con không thèm nữa đâu.
Hồng Lan được nhận vào học nghề Nữ y tá lại nhà thương tỉnh được 3 tháng, thì một hôm Bác sĩ Long gọi cô vào phòng giấy của ông.
Hồng Lan mặc áo blouse trắng, quần sa tanh trắng, mang giày cao gót, tốc uốn nhuộm màu hoe, có vẻ một cô nữ y tá oai lắm. Nhưng cô rụt rè bẻn lẻn, trong lòng thắc mắc lo ngại không biết bác sĩ gọi cô vào phòng giấy có việc chi?
Bác sĩ chỉ một chiếc ghế:
- Mời cô Hồng Lan ngồi.
- Dạ.
Hồng Lan ngồi xong, Bác sĩ nghiêm nghị ngó cô:
- Câu chuyện tôi sắp nói với cô sẽ có thể làm phật ý cô, nhưng tôi mong rằng nó sẽ có ích cho cô. Tục ngữ có nói: ‘‘Thuốc đắng dã tật...’’, ở tại bịnh viện, và do miệng một bác sĩ nói ra, tôi mong rằng câu nói ấy hôm nay không phải là không có ý nghĩa... Cô tập sự ở đây được trên 3 tháng, chắc cô cũng biết tính tôi rất hiền lành nhưng rất nghiêm. Cho nên trong số anh chị em nhân viên cộng sự với tôi, ai làm điều chi không đúng theo kỹ luật thì tôi thẳng thắn chỉ bảo. Thí dụ như cô chẳng hạn. Một số bịnh nhơn và các người giúp việc trong nhà thương đều phàn nàn cô hai điều: thứ nhứt là cô hay giỡn cợt, có hơi sổ sàng với một vài thầy y tá nhiều khi ở giữa công chúng. Thứ hai là cô hay gắt gỏng và khinh khi các bệnh nhơn nghèo. Tôi thành thực cho cô biết rằng thái độ và cử chỉ của cô như thế là tôi không bằng lòng. Cô là thiếu nữ, tính nết phải vui vẻ, trẻ trung, điều đó tôi hoàn toàn đồng-ý. Hơn nữa, tôi còn nhận xét rằng tính vui vẻ trẻ trung, nét duyên dáng làm tăng thêm vẻ đẹp yêu kiều của các cô, chính là những điều cần thiết cho một Nữ y tá mà một hụ cười hồn nhiên có khi an ủi được phần nào các bệnh nhân đang đau khổ.
Nhưng các cô cũng cần phải giữ gìn phẩm giá của phụ nữ, phẩm giá ấy biểu lộ trong cách giao thiệp với đàn ông, và các người bịnh.
Cô đừng nên nghĩ rằng tôi muốn lên mặt thầy đời đạo mạo. Không, tôi cũng là thanh niên như cô. Tôi cũng cảm phục sắc đẹp duyên dáng của các cô. Nếu trong bịnh viện, không có bông hồng thấp thoáng của các cô, thì... bịnh viện khác nào một nơi địa ngục trên trần gian? Sự hiện diện dịu dàng và nhu mì của các cô là một an ủi tinh thần rất quý báu cho tất cả những kẻ đau khổ đang lê la những tháng ngày buồn thảm bên cạnh các xác chết và các vết thương lở lói của con người! Nhưng các cô cần phải đứng đắn. Các cô có nhiệm vụ đem thuốc men và nhứt là những lời lẽ dịu dàng êm ái, những cử chỉ thuần hậu đoan trang, một nụ cười hiền lành, một bàn tay từ thiện, để an ủi vỗ về nhũng người ốm đau. Nghề nữ y tá là một nghề đẹp đẽ nhứt và cao thượng nhứt của người phụ nữ. Các cô nên làm sao cho nghề ấy không phải chỉ là một nghề nghiệp sanh kế như nhiều nghề khác, mà là một nhiệm vụ thiêng liêng. Tôi có thể nói là một nhiệm vụ thần thánh, vì công tác của các cô là có mục phiêu thực hiện giáo lý cứu thế của tất cả các vì Phật và các vì Chúa mà loài người đang thờ phụng trên trái đất. Các cô nên hy sinh cá nhân của mình để tận tâm cứu giúp những người bị thương, và nên nêu gương trong sáng cho bao nhiêu những kẻ mê lầm, là những người đau khổ về tinh thầu. Các cô phải tỏ rõ mình là người thanh khiết, mình là tượng trưng một xã hội lành mạnh. Cuộc đời của mình chỉ có hạnh phúc khi nào đời mình hy sinh cho hạnh phúc của kẻ khác. Mình phải đau khổ để cho kẽ khác bớt đau khổ. Mình phải mỉm cười cho kẻ khác được nở một nụ cười. Đời sống của các cô như thế mới có ý nghĩa cao xa. Dư luận chung đều cho rằng một số thiếu nữ đời nay vì quá ham mê vật chất, nên đã hư hỏng rất nhiều. Dư luận ấy không phải là không đúng. Tôi nhận thấy một sự kiện không chối cãi được là phần đông con gái nhà giàu, hay trưởng giả, quyền quý, thường hay dễ trụy Iạc hơn phụ nữ các giới khác. Bởi vì đời sống của họ quá dễ dàng. Họ không bị những điều kiện sinh hoạt khắc khổ. Họ đắm đuối trong khoái lạc truy hoan,và lẽ sống duy nhất của họ là tận hưởng các thú vật dục mà hoàn cảnh ưu thắng của họ đã cho họ được đầy đủ hơn các bạn gái nghèo nàn. Chính những phần tử ‘‘Tiểu thơ’’ khuê các ấy đã nêu gương xấu xa cho một số con gái trung lưu đã kém tư tưởng thanh cao, lại còn thi nhau chạy đua đến cảnh xa hoa phù phiếm. Vi vậy một phong trào ‘‘lãng mạn’’ hạ cấp đã lan tràn trong vài từng lớp dân chúng, gây ra di hại lớn lao trong cuộc xây dựng một xã hội tốt đẹp; Đó là một chứng bịnh thời đại... ‘‘Le mal du siècle’’, như một nhà triết học Pháp đã nói. Chính như cô, cô Hồng Lan à, cô cũng đã bị lôi cuốn một cách gần như là tự nhiên, vô ý thức, trong cuộc phiêu lưu đáng buồn ấy,
Chúng ta ngày nay là một thế hệ thanh niên của một Quốc gia mới trưởng thành. Nước Việt- nam yêu quí của chúng ta cần được xây dựng toàn diện, cần phải quật cường toàn khối. Trai hay gái, chúng ta đều phải góp một phần, nếu không là một phần xương máu đi nữa thì cũng phải là một phần ý chí, một phần Iinh hồn, một phần tâm huyết, để cho sự đoàn kết chặt chẽ các sinh lực Quốc gia được tạo thành ra một khối Quốc gia hùng cường bất diệt. Cô Hồng Lan à, cô là con một nhà đại điền chủ. Ba cô giàu có bạc muôn bạc triệu. Nhưng tôi hỏi cô tất cả sự nghiệp phú quý rền ràng kia có ích gì cho Quốc gia, cho xã hội không? Cô nên nhớ rằng cô đang bơi lội trong một biển bạc, trong lúc hàng ức hàng vạn đồng bào của chúng ta đang rên rĩ trong bãi sa mạc của nghèo nàn. Cho nên tôi mong, và rất tha thiết mong rằng cô sẽ giác ngộ. Co nên nhân định trách nhiệm của một nữ công dân tân tiến mà bổn phận là phải phục vụ cho Tổ Quốc, cho đồng bào, nhứt là cho các từng lớp đồng bào nghèo đói là thành phần đáng thương nhất của nước ta. Cô nên hy sinh một phần thời giờ, một phần tiền bạc của cô, cô có thể hy sinh tất cả đời cô, - chỉ trừ phẩm giá và danh dự của cô, - để phụng sự một Lý tưởng: góp phần trong công cuộc xây dựng một nước Việt nam vĩ đại. Cô nên quên rằng cô là con gái một ông Điền chủ, một ông triệu phú, hoặc một vị quan lại, một bậc thượng lưu. Cũng như tôi, trong nhiều trường hợp tiếp xúc với bịnh nhơn, tôi quên rằng tôi là Bác sĩ. Tôi chỉ nhớ rằng tôi là một người, hơn nữa là một nguời dân Việt Nam.
Bác sĩ Long châm một điếu thuốc hút, nhìn thẳng vào mặt Hồng Lan, mỉm cười nói tiếp:
- Tôi mong rằng những lời thân hữu của tôi nói với cô hôm nay sẽ thay đổi những ý nghĩ của cô, và những quan niệm sai lầm của cô từ trước... Những quan niệm lỗi thời ấy đã làm cho cô đau khổ ê chề mà cô vẫn còn lầm đường lạc lối. Tôi muốn cô hứa với tôi rằng từ nay cô thay đổi tánh nết, cô ăn năn các lỗi lầm, cô giác ngộ những ý nghĩ trụy lạc thì tôi sẽ nâng đỡ cô. Tôi sẽ giắt dẫn cô đến con đường sáng lạng tưng bừng của chân Hạnh phúc, của chân khoái lạc. Đó là con đường của giải thoát, và của nhiệm vụ.
Hồng Lan mê mẫn nhìn Bác sĩ Long nói. Lần đầu tiên cô có một cảm giác Iạ lùng: cô thấy như Bác sĩ Long đã giải quyết cho cô tất cả những phiền não trong lòng, những đau khổ và nhục nhã của cuộc đời đầy tội lỗi. Cô thấm nhuần các giòng tư tưởng thắm tươi của Bác sĩ như một làn gió trong sạch ngào ngạt hương thơm, quét hết những bóng tối u trệ trong cõi tim bầm úa của cỏ. Cô đứng dậy, cảm động nhìn Bác sĩ Long:
- Thưa Bác sĩ, tôi xin hứa làm theo lời của Bác sĩ.
Bác sĩ Long đứng dậy, bắt tay Hồng Lan:
- Tôi thành thật chúc cô có nhiều can đảm.
Ông mở cửa. Hồng Lan lễ phép nghiêng đầu chào, bước ra.
Bác sĩ Long vui mừng nhận thấy Hồng Lan đã biến đỗi hẳn từ ngày cô được nghe những lời khuyên bảo của ông. Ông thỏa mãn đã thành tựu trong việc thí nghiệm một phép chữa bịnh tinh thần cho một tâm hồn bị đầu độc quá nhiều, đã truyền nhiểm rất nặng bởi con vi trùng trụy lạc. Cô Hồng Lan như một bịnh nhân trầm trọng do một xã hội phong kiến, ô trọc, mục nát, đã tạo ra. Hằng ngày ông gặp cô, truyền bá cho cô những tư tưởng lành mạnh, hàn gắn những vết thương lở lói trong tâm hồn của cô, và mở rộng tầm mắt của cô trước một nhãn tuyến mới, một thế giới mới, một viển ảnh mới.
Hồng Lan đã ăn năn hối hận những lầm lỗi đã qua, và đã giác ngộ, nhận định những nhiệm vụ đẹp đẽ của một thiếu nữ Việt nam trong giai đoạn lịch sử Quốc gia xã hội ngày nay. Hồng Lan đã ghê tởm những kỷ niệm chua chát nhục nhã vừa qua. Cô nhứt quyết chuộc lại những tội lỗi, xây dựng một tương lai sáng Iạn hơn, cứu vớt tâm hồn của cô và của những kẻ khác.
Một buổi chiều thứ bảy, Bác-sĩ Long bảo cô:
- Cô Hồng Lan, sáng mai tôi sẽ đi thăm bịnh một đứa bé trong làng cô. Cô muốn vô thăm nhà, thì sẵn xe tôi mời cô đi luôn. Cô muốn không?
Hồng Lan ngạc-nhiên:
- Bác-sĩ đi thăm bịnh một đứa bé ở làng tôi!
- Phải, tôi đã cứu nó sống và đã chăm nom cho nó từ lúc sơ sanh cho đến nay. Nghĩa là đã ba năm.
- Dạ. Nếu tiện, Bác sĩ cho tôi đi nhờ xe, tôi xin cảm ơn Bác sĩ. Tôi cũng đã định sáng mai về thăm ba tôi.
8 giờ sáng chúa nhựt, Bác sĩ lái xe tới bịnh viện, thăm qua tất cả các bịnh nhân. Căn dặn người này, an ủi người kia, xong Bác sĩ ra xe. Cô Hồng Lan đợi trước cửa phòng giấy. Ông bảo cô lên xe
Nửa giờ sau, Hồng Lan rất đỗi ngạc nhiên thấy Bác sĩ đổ xe trước túp nhà lá của Thanh và bảo cô:
- Cô muốn vào không?
Hồng Lan do dự, không hiểu Bác sĩ Long quen với Thanh từ bao giờ? Thanh có chồng có con từ hồi nào? Cô thắc mắc muốn vào coi.
Nghe tiếng xe đổ, biết là Bác sĩ tới, thằng Cùi đang ngồi chằm áo tơi với một đóng lá tơi để trong sân
- Chào Bác sĩ!
Bác sĩ Long mỉm cười đưa tay vuốt đầu nó:
- Em chằm áo tơi hả? Thằng Cùi giỏi quá, nghề gì cũng làm được ráo! Bé Bình Minh mạnh chớ em? Cô Thanh có ở nhà không?
- Dạ thưa Bác sĩ, cô Hai con xắt chuối cho heo ăn ở ngoài sân bếp. Bé Bình Minh cũng ngồi chơi với heo ở ngoài.
Bác sĩ Long bước vào thì Thanh cũng vừa dắt bé ra:
- Chào Bác sĩ. Ủa, chị Hồng Lan! Chào chị. Thật là một sự gặp gỡ ngẫu nhiên quá!
Bác sĩ nói:
- Nhơn tiện tôi đến thăm cô Thanh với cháu Bé, có cô Hồng Lan sẵn về thăm nhà, ghé vô chơi,
Hồng Lan rất ngượng nghịu, hỏi Thanh:
- Thanh ở nhà luôn, không đi học nữa à?
Thanh mỉm cười:
- Thôi chớ còn học với hành gì nữa chị! Dạo này em nghe nói chị học nữ y tá, em cũng mừng cho chị.
Bé Bình Minh đứng âu yếm nắm áo ‘‘má’’ Thanh dịu dàng bảo nó:
- Con gái quên lễ phép rồi! Con không chào Bác sĩ?
Bé chấp tay cúi đầu, bập bẹ:
- Chào Bác ạ.
Thanh lại chỉ Hồng Lan:
- Chào cô đi.
Bé Bình Minh, rụt rè bẽn lẽn:
- Chào cô ạ.
Bác sĩ Long cười, cúi xuống nựng yêu cái cằm nó:
- Bé chào theo người Bắc phải không ạ? Bé ngoan lắm ạ! Bé ăn su cu la (chocolat) không ạ?
- Thưa bác, con ăn ạ.
Bác sĩ Long và Thanh cùng vui vẻ cười. Bác sĩ thò tay vô túi áo rút ra một gói sô cô la lớn và đẹp đưa cho Bé. Bé ngoan ngoãn cầm lấy:
- Cảm ơn Bác ạ.
- Tại có mấy gia đình người Bắc mới dọn tới ở gần đây, có mấy đứa nhỏ thường đến chơi với cháu, rồi cháu bắt chước đó! Xin mời Bác sĩ và chị Hồng Lan vô nhà.
Cả ba cùng bước vào. Thanh và Bác sĩ Long, rất vui vẻ tự nhiên. Duy có Hồng Lan thật là ngượng nghịu và bối rối vô cùng. Cô cứ trố mắt ngó con bé Bình Minh.
Trong nhà chật chội, nhưng sáng sủa, có một bàn con kê giữa và hai cái ghế. Thanh mời Bác sĩ Long và Hồng Lan ngồi hai ghế. Thằng Cùi vội vàng chạy xuống bếp xách lên hai cái thùng cũ kê chồng lên để cô Thanh ngồi.
Thằng Cùi vừa trở xuống bếp nấu nước để pha trà, thì Hồng Lan hất hàm chỉ con bé Bình Minh cứ đeo theo bên Thanh:
- Con của ai đó, Thanh?
- Dạ, con của em.
- Mấy tuổi?
- Dạ cháu ba tuổi, chị à.
Hồng Lan mỗi lúc mỗi kinh ngạc. Cô nhận thấy khuôn mặt đứa bé sao lại giống cô như đúc vậy? Cô choáng váng cả người, đầu óc rối loạn, tự thấy mình đứng trước một bí mật ly kỳ, không sao hiểu thấu. Cô còn muốn hỏi Thanh nhiều câu nữa, nhưng cô sợ... Hình như cô sợ những câu trả lời của Thanh chăng?
Thanh luôn luôn giữ nét mặt điềm nhiên, không lộ ra một tình ý gì khác cả, ngay những lúc cô trả lời cho Hồng Lan cũng vậy.
Bác sĩ Long cũng cứ thản nhiên hỏi Thanh:
- Bé Bình Minh mau lớn, cô Thanh nhỉ!
- Dạ, nhờ thuốc của Bác sĩ đó.
- Nhờ cô khéo nuôi, hơn là nhờ thuốc.
Bác sĩ gọi bé:
- Bình Minh lại bác xem phổi coi!
Bé đã quen thân với Bác sĩ, ngoan ngoãn đến gần, để cho Bác sĩ cởi áo và đặt ống nghe trên ngực. Hồng Lan hỏi Thanh:
- Sao lại đặt tên nó!à bé Bình Minh?
Thanh cười:
- Tại nó sanh vào lúc bình minh, chị à.
- Nó họ gì?
Họ Nguyễn: Nguyễn thị Bình Minh.
- Họ của Ba nó hả?
- Dạ không, họ của em.
- Chứ Ba nó đâu?
- Dạ, nó không có Ba, chị à.
Hồng Lan thấy mồ hôi toát ra trên trán cô. Cô mở bóp lấy khăn tay ra lau, và không ngớt nhìn đứa bé đang được Bác sĩ Long chăm chú khám ngực, lưỡi, mắt, tai của nó. Bác sĩ nói với Thanh:
- Phổi cháu dạo nầy tốt lắm rồi. Miệng, mắt, tai, đều tốt cả. Còn cô có được khỏe không?
- Dạ, nhờ các thứ thuốc của Bác-sĩ chích và cho uống, mấy hôm nay tôi đã thấy trong người khoẻ lắm: Cám ơn Bác sĩ nhiều lắm.
- Thuốc bổ tim, cô uống đã hết chưa?
- Dạ, còn một chai.
- Chúa nhựt sau tôi lại đến thăm cô.
- Dạ.
- Sẵn đây tôi đưa cô Hồng Lan về nhà cổ, rồi tôi về thẳng trên tỉnh luôn, Chào cô Thanh.
- Dạ, chào Bác sĩ, rất cảm ơn Bác sĩ.
- Bé Bình Minh lại đây Bác hôn một tí nào! Đấy, Bác cũng nói được tiếng Bắc, chớ bộ!
Bác sĩ đặt hai nụ hôn trên hai gò má ửng hồng của Bé, rồi bảo:
- Giờ Bác về. Bé chào Bác xem nào!
- Chào Bác ạ.
- Ấy chà, Bé ngoan quá!
Thanh và Bác sĩ cười rất vui vẻ tự nhiên.
Hồng Lan chỉ gật đầu chào Thanh rồi theo sau Bác sĩ, ra xe. Cô còn ngoảnh lại trố mắt nhìn chòng chọc con Bé Bình Minh nắm áo ‘‘má’’ nó. Nó ngó cô như một người xa lạ.
Lên xe, Hồng Lan ngồi trầm ngâm im lặng. Đôi mắt cô đăm đăm, nét mặt buồn rầu ủ dột, Bác sĩ Long hỏi:
- Hình như cô đang nghĩ chuyện chi, Cô Hồng Lan?
Hồng Lan không nghe nên không trả lời. Bác sĩ lại hỏi:
- Cô có chuyện chi thắc mắc, cô Hồng Lan?
Hồng Lan giựt mình, sực nghe tiếng Bác sĩ. Cô hỏi lại:
- Dạ? Xin lỗi Bác sĩ, Bác sĩ vừa hỏi gì ạ?
- Cô có chuyện chi mà coi bộ suy nghĩ lung vậy?
- Dạ thưa Bác sĩ, không có chi.
- Không có chi?
- Dạ.
- Cô không thành thật. Cô giấu tôi. Nhưng tôi biết cô đang nghĩ về Bé Bình Minh ở nhà cô Thanh. Chắc cô thấy con Bé ấy giống cô quá phải không?
- Dạ...
Hồng Lan miệng thì dạ, mắt thì ngó chăm chú lên môi Bác sĩ, đợi xem ông sắp muốn nói gì...
Bảc sĩ Long chậm rãi nói:
- Trước đây ba năm, chính sau ngày mà Ba cô viết giấy mời tôi đến chữa bịnh gấp cho cô, và tôi đã lấy mớ nhau còn sót trong bụng cô, thì lúc ra về tình cờ tôi gặp cô Thanh nơi dọc đường. Cô mời tôi đến nhà cô để coi giùm đứa hài nhi mới sanh, yếu sức quá. Đứa bé nóng vùi. Trong nhà không có thuốc men. Tôi phải cứu nó. Ngày nay nó đã ba tuổi, khoẻ mạnh và dễ thương như cô thấy lúc nãy...
Hồng Lan lặng thinh nghe. Nhưng mặt cô tái mét, cô muốn run lên.
Xe đã đến trước ngõ nhà ông Huyện Cảnh. Bác sĩ Long ngừng xe cho Hồng Lan xuống. Hồng Lan mời ông vào nhà. Ông Huyện Michel đi khỏi. Con ở nói ông đi Saigon từ sáng hôm qua. Hồng Lan mời Bác sĩ ngồi phòng khách. Sau khi pha trà, cô hỏi:
- Thưa Bác sĩ, Bác sĩ trông thấy đứa bé giống tôi lắm sao?
- Tôi thấy vậy, mà có lẽ cô cũng thấy như tôi. Miệng nó, cặp mắt nó, mũi nó, nghĩa là cả gương mặt của nó là hình ảnh của cô như tạc.
- Thưa Bác-sĩ, Bác sĩ có nghi rằng đứa bé ấy là con của tôi không?
- Tôi không thể trả lời câu hỏi đó được. Nó có phải là con của cô hay không, thì cô tự biết chớ!
Hồng Lan cúi đầu lặng thinh. Một lát, cô nói:
- Đây là cả một bí mật... Vâng... thật là một bí mật!...
- Sao lại là bí mật?
- Ba năm nay tôi cứ tưởng rằng đứa hài nhi tôi đẻ ra đã... chết rồi...!
- Theo cô tưởng, thì đứa hài nhi đã chết cách nào?
Hồng Lan bỗng dưng gục đầu xuống bàn, khóc nức lên một tiếng. Cô khóc ấm ức một lúc thật lâu, không dám ngước mặt lên.
Bác sĩ Long cũng ngồi im.
Một chập lâu ông nói:
- Cô Hồng Lan, tôi xin lỗi cô đã vô tình gợi lại một kỷ niệm đau đớn của cô. Nhưng cô không phải là một bị cáo và tôi không phải một quan tòa. Tôi là Bác sĩ, mà cũng có lẽ là một người bạn. Tôi có thể khuyên cô … Cô Hồng Lan... cô hãy ngước mặt lên, ngó tôi đây. Ngó tôi như cô ngó một Bác sĩ. Đừng ngại. Không nên giấu diếm một điều gì với một Bác sĩ.
Hồng Lan ngửng đầu dậy. Nước mắt vẫn chảy ràn rụa trên đôi má cô. Đôi mắt cô đỏ ngầu, muốn sưng lên. Cô lấy khăn lau, nhưng càng lau nước mắt càng trào ra.
Bác sĩ Long bảo:

- Cô hãy ngó thẳng tôi đây, và nghe tôi … Cô Hồng Lan, bây giờ đây là một vấn đề lương tâm. Nếu cô có can đảm nhìn nhận những tội lỗi cũ như cô đã hứa với tôi, thì cô nên nhìn nhận rằng đứa con của cô không có chết! Khi người nhà cô đem nó bỏ ngoài ruộng, thì trời khiến cho một đứa bé chăn trâu trông thấy. Chính là đứa bé lúc nãy ngồi chằm áo tơi trong sân nhà cô Thanh. Nó đã cứu đứa hài nhi vô tội. Nó đã ôm về cho cô Thanh nuôi.
Hồng Lan lại gục đầu xuống cánh tay để trên bàn, khóc nức lên một lần nữa. Lần này cô khóc lớn, và khóc thật nhiều, không dám ngó Bác sĩ. Bác sĩ Long đứng dậy ra ngoài, để cho Hồng Lan ngồi yên một mình.
Nửa giờ sau, ông trở vô, bảo Hồng Lan:
- Cô đã ăn năn. Đó là việc rất đáng khen cô. Nhưng may thay, cô chưa phạm tội ác giết chết đứa con của cô vừa mới lọt lòng! Cô Thanh đã cứu nó sống. Cứu nó khỏi chết tức là cô Thanh đã cứu cô khỏi phạm tội ác! Phật trời còn thương cô nên xui khiến cho cô Thanh giữ nó lại cho cô, để một ngày sau cô có thể chuộc tội. Bây giờ cũng chưa trễ. Tôi mong cô suy nghĩ kỹ về bổn phận của cô từ ngày hôm nay. Bổn phận ấy rất là thiêng liêng đối với cô, đối với lương tâm của cô. Tôi để tự cô quyết định. Bây giờ tôi xin lỗi cô, tôi không thể ở lâu được. Tôi phải về tỉnh ngay, vì có mấy người bịnh đang chờ tôi. Tôi cho cô nghỉ phép bảy ngày. Thứ hai tuần tới, tôi mong cô đến trình diện trong phòng giấy tôi và cho tôi biết những điều mà cô đã quyết định. Chào cô, và chúc cô có nhiều can đảm.
Năm giờ chiều hôm ấy, Hồng Lan một mình đến nhà cô Thanh. Lần nầy Hồng Lan mang kiếng đen, vì mắt cô đã sưng vù lên, cô sợ người ta để ý …
Thanh đang giỡn chơi với bé Bình Minh. Trông thấy Hồng Lan vào, cô vui vẻ mời ngồi.
Hồng Lan lấy kiếng đen ra để trên bàn và nói ngay vô đề:

- Thanh à. Tôi đến đây chiều nay để thú nhận với Thanh một tội lỗi mà tôi đã phạm trong dĩ vãng, và để tỏ lòng biết ơn của tôi đối với Thanh. Đứa bé này là con của tôi. Nhưng lúc tôi có mang nó, tôi rất buồn bực và xấu hổ vì cha nó đã bỏ tôi và không nhìn nhận cái thai, cho nên...
Hồng Lan nghẹn, nói không được nữa. Thanh dịu dàng hỏi:
- Chị hãy tha thứ cho sự tò mò của tôi, nhưng, tôi muốn biết cha nó là ai?
- Cha nó là một công chức ở Sàigòn.
- Chớ không phải anh Lê quang Đồng?
- Không phải.
Hồng Lan lặng thinh một lúc. Cô sực nhớ chính cô đã tố cáo Đồng, và chửi mắng Thanh tàn tệ.. Cô lẩm mẩm thú tội với Thanh:
- Tôi rất hối hận đã vu khống anh Đồng, người thanh niên đứng đắn và lương thiện đã phải bỏ gia đình trốn đi có lẽ vì tôi! Hồi đó, tôi cũng không hiểu Thanh … nay tôi thành thật xin Thanh tha lỗi...
- Tại sao chị sanh con bé nầy ra mà chị không nuôi?.
- Cha nó không nhìn nhận cái thai, cho nên tôi phải trốn về ruộng, sợ ở Saigon chị em chúng bạn thấy mình chửa hoang, họ cười. Về đây tôi đã cố che đậy không cho ai biết, nhưng đến khi gần sanh, tôi không muốn nuôi nó, bởi lẽ... nó là đứa con hoang! Vì danh dự gia đình. Ba tôi cũng, đồng ý đem quăng nó ngoài ruộng... Hồi đó tôi chỉ muốn nó chết phức cho rồi... cho mất tích hẳn. Vì tôi còn mê muội quá.,.
Hồng Lan lại rưng rưng nước mắt, nhưng Thanh an ủi:
- Chị đừng khóc nữa. Chắc chị đã khóc nhiều rồi...
- Không ngờ số nó chưa chết! Thanh đã cứu nó, và nó đã sống đến ngày nay. Cái ơn của Thanh thật là vô lượng, vô cùng! Thanh là người mẹ thứ hai của nó đó.
- Tôi chỉ làm theo tình nhơn đạo. Nói thiệt với chị, hồi đó tôi không biết nó là con của chị.
- Thanh đã cứu sống nó, tức là Thanh đã cứu tôi. Lòng biết ơn của tôi đối với Thanh không lấy gì đền đáp lại được.
- Bây giờ chị có ý định gì?
- Tôi rất ăn năn hối hận. Nay tôi muốn đến nói với Thanh cho tôi xin lại con nhỏ. Cuộc đời của tôi đã đau khổ quá nhiều. Đứa con kia sẽ là nguồn an ủi duy nhứt của tôi. Tôi là người mẹ đẻ ra nó, cho nên trời xui khiến ngày nay tôi được trông thấy mặt nó, sao tôi thương nó lạ lùng, Thanh à!
Bé Bình Minh từ nãy giờ đứng âu yếm trong lòng ‘‘má’’ Thanh. Nó vẫn đăm đăm ngó người khách lạ với cặp mắt ngây thơ. Người khách lạ nói gì với ‘‘má’’ nó, hình như nó không hiểu; Nhưng khi Hồng Lan đến gần nắm tay nó, tự nhiên nó xô Hồng Lan ra, quây mặt áp vào lòng Thanh, hai tay ôm lấy Thanh và khóc thét lên.
Thanh xoa đầu tóc nó:
- Nín con! Đừng khóc.., má cưng.
Bình Minh chưa nín hẳn, vẫn úp mặt vào lòng Thanh, thút thit. Hồng Lan ngồi thụp xuống bên cạnh nó, đưa ra một gói sô cô la để dỗ giành nó:
- Mẹ của con đây, Con... Mẹ yêu con Iắm, con à...
Nhưng bé Bình Minh ôm sát vào Thanh, không để cho Hồng Lan ẳm, và còn khóc ré lên nữa. Hồng Lan cố níu được cánh tay nó, dịu dàng bảo:
- Mẹ của con đây mà... Mẹ đẻ của con đây.
Con bé hất tay Hồng Lan, vùng vằng la lớn:
- Không!
- Mẹ cho con kẹo sô cô la đây nè...
- Không!
- Mẹ cưng con lắm mà con!...
- Không!
Thanh dịu dàng vuốt đầu tóc của bé:
- Nín đi con! Cô ấy thiệt là mẹ của con đó..
- Không phải!
Bình Minh càng hét to, và lắc đầu dẩy nẩy. Hồng Lan ngồi lên ghế, mắc cở và đau đớn vô cùng. Thanh dỗ bé một lúc lâu, rồi quây hỏi Hồng Lan:
- Hòn máu rơi, chị còn muốn lấy lại làm chi?

- Thú thiệt với Thanh, từ sáng nay được trông thấy mặt nó, tình mẫu tử thiêng liêng bỗng nổi dậy trong lòng tôi như một ngọn sóng thần. Tình yêu con tràn ngập trong máu tôi. Tôi tin rằng khi nó khôn lớn, nó cũng sẽ mong muốn trở về với tôi, như lá bay về cội, chim bay về cành. Nếu Thanh bằng lòng trao trả nó lại cho tôi,Thanh dỗ nó đêm ngày, nói cho nó nghe, thì tự nhiên nó sẽ không xa lạ với tôi nữa. Hôm nay tôi có đem theo trong bóp...
Hồng Lan ngựng lời, mở bóp lấy ra một tấm ngân phiếu đã ghi sẵn con số năm chục ngàn đồng, đưa Thanh:
- Đây là món tiền nhỏ tôi xin tặng Thanh, gọi là chút lòng tri ân của tôi đối với Thanh đã cứu hai mẹ con tôi...
Thanh nhếch miệng cười:
- Sao chị không nói thẳng ra rằng chị đem năm mươi ngàn đồng đến đây để chuộc con Bình Minh?
- Không phải tôi chuộc con Bình Minh, Thanh à. Và cũng không phải để trả cái công của Thanh đã nuôi nó từ ba năm nay. Đây chỉ là một chút kỷ niệm nhỏ mọn, nhưng thành thật, để ghi lòng biết ơn của tôi đối với Thanh đó thôi.
- Tôi rất cảm động vì tấm lòng thành thật của chị. Nhưng Bình Minh với tôi đã quyến Iuyến nhau quá rồi, tôi không thể nào rời nó ra được nữa. Còn tấm ngân phiếu năm mươi ngàn đồng, xin chị cất lại vô bóp. Tôi không nhận đâu.
- Tại sao vậy, Thanh? Tôi thành thật tặng Thanh số tiền này, để tỏ lòng tri ân của tôi chớ có gì đâu!
- Tôi rất cám ơn chị, nhưng tôi có làm gì đâu để xứng đáng lòng biết ơn của chị? Tôi đã nói với chị rằng tôi chỉ làm theo tình thương nhân loại mà thôi... có chi mà chị mang ơn?
- Biết vậy, nhưng nó là con đẻ của tôi, Thanh đã nuôi nó khôn lớn đến ngày nay, tôi làm sao quên được công ơn hải hà vô lượng của Thanh?
- Dù là con của chị, hay con của ai chăng nữa, tôi đã cứu được là tôi cứu. Tôi chỉ làm một bổn phận làm người.
- Bao nhiêu hy sinh Iớn lao của Thanh, bao nhiêu cực khổ lo âu mới nuôi sống nó đến bây giờ. Thanh không muốn cho tôi đền đáp một phần nào cái công ơn dưỡng dục đó sao?
- Công ơn dưỡng dục, đứa bé dễ thương nầy đã đền đáp cho tôi nhiều lắm rồi chị à. Một nụ cười hồn nhiên của nó lúc tôi buồn, một nụ hôn ngây thơ âu yếm của nó lúc tôi đau, cũng đã đền đáp lại bao nhiêu hy sinh khổ cực của tôi! Chị trông thấy đó: nó thương tôi lắm, nó quý tôi lắm, Nó xoắn suýt bên cạnh tôi, nó học ăn học nói bên cạnh tôi, nó chơi bên cạnh tôi, nó sống bên cạnh tôi. Đó là nó trả cái ơn tôi đã cứu vớt nó. Còn chị, chị không mắc nợ gì tôi hết!
- Tôi chỉ muốn tặng Thanh...
- Chị tặng tôi cái gì tôi cũng rất cảm ơn. Nhưng một lời nói của chị cũng đã đủ tỏ lòng tốt của chị. Cần chi phải bạc tiền?
- Thanh đã hao tốn nhiều, trong lúc Thanh thiếu thốn mọi bề...
- Dạ điều đó, chị nói đúng. Nhưng tôi đã vui sướng được nuôi nấng một đứa con mà tôi đã tưởng là không cha không mẹ. Nó là của trời cho, nên nhiều khi tôi đã nghĩ rằng có lẽ tôi có phước đức gì mới được nhận lãnh món quà quý báu của Phật trời ban cho đây! Sự vui sướng ấy, tôi thấy đắc giá hơn vàng bạc châu báu trên đời chị à.
Hồng Lan gục đầu xuống bàn khóc:
- Tôi muốn xin con của tôi về với tôi, mà Thanh không cho... Thanh hiền lành phước đức lẽ nào Thanh không thương tôi sao?... Trời ơi! Tôi!... Tôi là người mẹ đứa bé này đây... tôi là người mẹ khốn nạn... của con đây con ơi!... con ơi!...
Hồng Lan quá đau đớn, như điên như dại quỳ sụp xuống chân Thanh, hai tay đưa ra muốn cướp lấy Bình Minh. Nhưng đứa bé đẩy nẩy nhứt định không cho ôm, và la khóc ầm ĩ.
Nó ghì chặt vào lòng Thanh, níu chặt vào áo Thanh, kêu thảm thiết: ‘‘Má ơi! Má ơi!’’. Hình như nó có linh tính khiếp sợ người ta muốn bắt nó.
Hồng Lan đau đớn vô cùng. Nhưng biết làm sao bây giờ? Cô đứng dậy lấy khăn lau nước mắt, rồi đeo kiếng đen:
- Thôi, tại nó chưa quen với tôi nên nó hất hủi tôi như thế. Tôi chỉ còn mong nơi Thanh. Tôi yêu cầu Thanh suy nghĩ kỹ lại và nếu Thanh cho tôi xin nó về với tôi, tôi sẽ biết ơn Thanh đến hết cả đời tôi. Bây giờ đây tôi mong Thanh thương tôi mà nhận ngân phiếu này... để an ủi tôi được phần nào...
- Không đâu, chị Hồng Lan à. Tôi không thể nhận được.
- Hay là nếu Thanh bằng lòng, tôi sẽ đem lại năm chục ngàn tiền mặt, để Thanh khỏi mất công đi lên Sàigon lãnh vậy?
Thanh mỉm cười đứng dậy:
- Tôi không nhận, xin chị đừng nói nữa.
Hồng Lan cất tấm ngân phiếu vô bóp. Cô muốn kêu con Bé một lần nữa:
- Con ơi!... Con!...
Nhưng Bình Minh vẫn đứng úp mặt vào áo Thanh, không quây ra, hai tay nó ôm chặt lấy hai chân của ‘‘Má’’ nó. Thanh muốn tiễn Hồng Lan ra cửa, nhưng nó níu dằng lại, không cho Thanh bước đi.
Hồng Lan buồn bã thui thủi ra về.
Mười ngày sau, Thanh nhận được một bức thơ của Bác-sĩ Long, trong thơ Bác sĩ cho Thanh biết Hồng Lan hiện đang đau khổ và nhờ ông năn nỉ với Thanh cho Hồng Lan xin lại đứa con. Hồng Lan còn nhờ Bác sĩ trao lại Thanh số tiền Một trăm ngàn đồng. Bác sĩ viết thêm rằng Bác sĩ chỉ vì thấy Hồng Lan đã tĩnh ngộ, biết hối cải, nên ông sẵn lòng chuyền đạt giùm đến Thanh lời van lơn tha thiết của Hồng Lan đó thôi, chớ Bác sĩ không dám khuyên Thanh một câu nào, để Thanh tự ý định liệu. Nhưng Bác sĩ thấy rằng trong lúc Hồng Lan đã ăn năn hối hận, và muốn nuôi đứa con đẻ chuộc lại tội ác của mình, thì Thanh cũng nên tỏ một cử chỉ an ủi người đàn bà đau khổ ấy một phần nào.
Thanh viết thơ trả lời Bác sĩ.
10/2/1953
Thưa Bác sĩ,

Tôi đã suy nghĩ rất nhiều sau khi đọc bức thư rất cảm động của Bác sĩ. Tôi biết Bác sĩ cũng tội nghiệp người đàn bà đau khổ, nên đã có mấy lời rất cao quý ngỏ cùng tôi,
Vậy tôi xin vâng lời Bác sĩ mà quyết định sau đây.
Từ nay tôi sẵn sàng để chị Hồng Lan đến thăm Bình minh mỗi khi chị nhớ nó, cho đến ngày nào Bình Minh chịu về ở với chị. Sự nó sẽ chịu về hay không, sẽ hoàn toàn do ý nghĩ của nó và có lẽ cũng do tình quyến luyến của chị đối với nó sau này, Tôi xin lấy danh dự hứa rằng tôi sẽ không làm gì để cản trở tình thương yêu ấy và tôi cũng sẽ không bao giờ ép buộc nó không được trở về với chị. Tôi sẵn sàng giao trả Bình minh lại cho chị Hồng Lan bất cứ ngày nào mà Bình Minh đã có tình thương yêu đầy đủ để sống vui vẻ và sang sướng bên cạnh người mẹ ruột của nó. Tôi cũng sẽ khuyên dỗ nó và không cho nó biết gì về dĩ vãng của nó. Hơn nữa, tôi rất vui mừng được thấy chị Hồng Lan đã ăn năn lỗi lầm đã qua và nay đã trở lại con đường chánh đáng. Tôi thành thật khen chị và sẽ dùng đủ cách để cho Bình Minh vui vẻ trở về với tình yêu mẫu tử.
Còn số tiền 100.000$00 chị Hồng Lan có nhã ý tặng tôi (hôm trước chị muốn tặng tôi 50.000$) tôi đã nói với chị rằng tôi không nhận. Nay tôi xin nhắc lại một lần nữa rằng dù là 50.000$ hay 100.000$ hay hơn nữa tôi cũng không nhận, và tôi thành thật cảm ơn hảo tâm của chị.
Tôi xin Bác sĩ tha thứ cho tôi đã làm mất thì giờ quý báu của Bác sĩ, và xin Bác sĩ nhận cho cảm
tình kính mến thành thật và sâu xa của tôi.
Cháu Bình Minh kính lời thăm Bác.
Còn năm hôm nữa, đến ngày lễ sanh nhựt đúng ba tuổi của cháu, cháu Bình Minh sẽ chụp một tấm hình đẹp để kính tặng Bác. Nếu Bác sĩ có thì giờ, xin mời Bác sĩ đến dự cuộc vui gia đình thân mật với cháu.
Thân mến chào Bác sĩ,
NGUYỄN-THỊ THANH
Chương IX
Tính theo tuổi ta thì Bình Minh đã bổn tuổi. Còn tính theo ‘‘tuổi Tây’’ thì hôm nay mới đúng ba tuổi. Vì theo tuổi ta cứ đến Tết là một tuổi, nhưng Thanh không thích Iối tuổi ăn gian ấy, nên cô tính theo tuổi tây. Hôm nay mới thiệt là ngày sanh nhựt đúng ba tuổi của bé Bình Minh.
Bác sĩ Long được thơ Thanh, sáng ngày ấy đã lái xe đến nhà Thanh thật sớm. Bác sĩ lấy ra đủ các thứ quà bánh, áo quần và đồ chơi tặng Bé. Bé mừng ríu rít
- Cảm ơn Bác ạ - Thưa Bác su cu Ia ngon lắm ạ …Thưa Bác, con búp bê đẹp quá ạ...
Thanh và Bác sĩ cười rất thân mật vui vẻ. Thằng Cùi cũng lăng xăng, được Bác sĩ cho nhiều quà và quần áo, nó mừng hú hí.
Từ sáng sớm Thanh đã lấy bộ quần áo bà ba bằng lụa mà Thanh vừa mới may cho kịp ngày sinh nhật để thay cho Bé. Nhưng Thanh thấy trong đống quà của Bác sĩ có một gói giấy bóng xinh xắn buộc chỉ xanh có thắt nơ xanh màu lá mạ, Thanh mở ra thấy hai cái áo đầm mới thật đẹp của trẻ con, Thanh cười với bé:
- Nè, cái áo của Bác cho con đây nè. Đẹp quá hả con!
Thanh vội vàng cởi đồ bà ba lụa, mặc áo đầm mới cho bé, và cởi đôi dép cũ ra, mang vào đôi dép mới của Bác sĩ cho. Bé vui mừng sung sướng lắm. Thanh ngắm nghía khen và bảo bé:
- Con không cảm ơn Bác, sao con?
Bé chắp tay cúi đầu:
- Cảm ơn Bác ạ!
Bác sĩ cúi xuống ôm xốc bé lên, hôn bé thật nhiều. Bé tươi như hoa, và tự nhiên không ai bảo, bé áp má vào má Bác sĩ, hôn Bác sĩ. Thanh đứng cạnh Bác sĩ, nhìn cảnh âu yếm ấy, lòng xôn xao cảm động...
Hôm nay, sẵn đúng ngày chúa nhựt, Thanh mời Bác sĩ ở dùng cơm trưa với Thanh:
- Nhơn mừng ngày lễ sinh nhựt của Bình Minh, và biết Bác sĩ không chê cảnh nghèo, nên tôi mới dám mời...
Bác sĩ Long cười:
- Hân hạnh lắm chớ!
- Chỉ cơm rau và canh bí rợ thôi, Bác sĩ à!
- Càng hân hạnh lắm!
Trong lúc thằng Cùi sửa soạn gánh nước Thanh dắt bé Bình Minh ra sân sau hái bí, vui vẻ nói với Bác sĩ Long:
- Bác sĩ muốn xem giây bí rợ của thằng Cùi trồng không? Đẹp lắm, xanh tốt lạ thưòng!
Bác sĩ trông thấy đám bí, trầm trò khen:
- Chà! Vườn bí tốt quá!
Bác sĩ Long có mang máy hình theo, sẵn đó, ông hỏi Thanh:
- Hôm nay Thanh định chụp hình cho Bé để làm kỷ niệm chớ?
- Dạ, tôi định chút nữa thằng Cùi gánh nước xong, nó sẽ đi chợ mua chút ít thực phẩm, kêu luôn người thợ chụp hình đến chụp cho bé một tấm thật đẹp để tặng Bác sĩ, và để làm kỷ nỉệm. Không ngờ Bác sĩ có đem máy hình theo!
- Máy này tốt lắm. Tôi cũng mới lắp cuộn phim mới. Nào Bé đứng chỗ giây bí rợ, để Bác chụp cho Bé cái hình nào!
Bình Minh ngoan ngoãn ra đứng một chỗ theo Bác sĩ chỉ, ông chụp một tấm xong, bảo Thanh:
- Thanh muốn chụp chungvới cháu không?
- Dạ có.
Thanh âu yếm cầm tay bé, đứng bên giây bí rợ. Chụp xong, Bác sĩ kêu thằng Cùi:
- Cùi vô đây, em!
Quây lại Thanh, Bác sĩ nói:
- Thanh chụp chung một cái với thằng Cùi và Bé nhé?
- Dạ.
Thanh ẵm bé Bình Minh lên tay, Bình Minh quyến Iuyến ngả đầu vào đầu ‘‘má’’. Thằng Cùi đứng cạnh cô Hai. Nó cười dễ thương lắm. Bác sĩ bấm cái ‘‘tách’’.
Thằng Cùi hớn hở, lại chạy đi gánh nước,
Bác sĩ chụp riêng một mình Thanh một tấm cuối cùng..
Xong, Thanh và Bác sĩ đi song song vô đám bí rợ, Bình Minh nắm áo Má, đi theo một bên. Thanh hái các nụ bí để chút nữa nấu canh, vừa nói chuyện với Bác sĩ ;
- Bác sĩ muốn biết lịch sử giây bí rợ này không? Nói đáng ra thì cũng chẳng phải là một Iịch sử mới mẻ gì. Vì Bác sĩ đã biết rằng Bình Minh lúc chào đời nằm trên một lá bí rợ. Theo ý nghĩa ấy, hôm lễ Thôi nôi của cháu, tôi có bảo thằng Cùi đi bứng mội giây bí rợ về trồng. Nhưng có điều tôi rất thắc mắc từ một năm nay mỗi khi tôi nhìn giây bí, là cái màu xanh tươi phi thường của nó. Từ khi giây bí mới trồng đến khi nó thật lớn, nghĩa là trong thời gian hai năm, giây bí này vẫn sống hoài, nhưng yếu ớt vàng vọt, không tốt. Nó chỉ ra nụ ít thôi, còn trái thì chỉ được vài ba trái ốm teo ốm nhách. Nhiều lần tôi đã muốn nhổ bỏ vì nó cằn cỗi mà rụng lá ủa thêm bẩn. Nhưng thằng Cùi năn nỉ tôi để lại. Nó nói nó sẽ tưới nước thật nhiều mỗi ngày để coi giây bí sẽ tốt hơn không, vì nó tiếc công nó đi bứng một giây bí con về trồng để làm kỷ niệm. Có lần nó bảo:
- Thưa cô Hai, tại con nhỏ này đẻ hoang, cha mẹ nó thất đức, cho nên giây bí không tốt đó!
Tôi, thì tôi cho rằng một là tại giống bí không tốt hai là tại đất ở đây không được phì nhiêu. Hoặc thiếu phân bón, hoặc đất không hạp với giống bí rợ. Nhưng gần năm nay giây bí bỗng đâm chòi nức lá, rồi phát lên tươi tốt phi thường. Mỗi ngày nó mỗi tươi thêm, đâm thêm ra nhiều nhánh, nhiêu giây, ràn rịt chật hết chỗ đất này, và trái thật nhiều, thật lớn, trái nào trái nấy cũng nặng trên 10 ký là ít. Tôi rất đỗi hoang mang, không hiểu nhờ cái gì mà giây bí rợ bỗng dưng tốt tươi một cách lạ lùng như thế. Bà con cô bác trong làng thường đến chơi, ai trông thấy giây bí của tôi cũng phải ngạc nhiên! Trong làng cũng có nhiều nhà trồng bí rợ, nhưng không có của ai tốt tuơi đặc biệt như giây bí này. Bác sĩ xem, lá nó to bằng hai lá bí thường! Trái nó cũng lớn bằng hai trái bí của người ta! Tại sao vậy? Bác sĩ giỏi về khoa học, Bác sĩ thử tìm xem nguyên nhơn vì sao giây bí rợ nầy trước kia vàng vọt cằn cỗi, bỗng dưng mấy tháng nay đâm ra tươi tốt bất thường như thế?
Bác sĩ Long chăm chỉ nghe, rồi đáp:
- Có lẽ tại giây bí gặp được một thứ phân nào hạp với nó chăng?
- Tôi không hề bón phân gì cho nó khác hơn là phân heo. Nhưng trước kia cũng đã đổ phân heo mãi mà sao giây bí không xanh tươi? Nhờ thằng Cùi tưới nước hoài cho nên nó không chết đó là may!
- Nó có thể gặp được một thứ phân khác ở dưới đất, mà mình không biết.
- Dạ, có lẽ... Nhưng tại sao trước kia nó không gặp, mà bỗng dưng sau này nó mới gặp thử phân đó?
- Tại trước kia rễ của nó còn yếu, ăn xuống đất chưa được sâu, chưa được rộng, bây giờ lâu ngày rễ nó cứ đâm xa lần lần, sâu lần lần, rồi nó gặp một chất nào hạp với nó, thế là nó phát lên.
Bác sĩ trầm ngâm một lúc thật lâu, rồi nói tiếp:
- Xin lỗi Thanh, tôi đang đi lạc ra ngoài phạm vi khoa học phân tách và thí nghiệm (science analytique et expérimentale) và bước vô biên giới của khoa học ngoại nhơn sanh (science extra humaine) và khoa học huyền bí...
Thanh mỉm cười khôi hài:
- Khoa học huyền bí? Tại sao lại có chuyện khoa học huyền bí ở đây? Tôi không mê tín dị đoan đâu, Bác sĩ nhé!
- Không, đây không phải là mê tín dị đoan. Hai khoa học khác nhau, bởi nó chi phối hai thế giới khác nhau: thế giới linh hồn (le monđe mental) và thế giới nhãn chất (le monde visuel). Nhưng tuy khác nhau, hai thế giới vẫn có liên quan mật thìết với nhau lắm. Tin hay không tin, là tùy theo quan niệm riêng của mỗi người. Nhưng nó vẫn có. Riêng tôi, tôi đã có thí nghiệm về khoa học huyền bí, và tôi đã khám phá được nhiều trạng thái rất xác thực của nó.Nhơn chuyện giây bí rợ này, tôi nhớ có một ngày đã lâu, hìnn như năm ngoái thì phải, Thanh có kể chuyện cho tôi nghe về lời tiên tri của một bà Cốt... Thanh còn nhớ không nhỉ?
- Dạ, có. Nhưng tôi cũng ít nghĩ tới, nên gần như quên hẳn. Nay Bác sĩ nhắc lại, tôi mới nhớ. Nhưng Iờí bà Cốt nói, có quan hệ gì đến giây bí rợ này?

Quan hệ hay không, chúng ta chưa bàn tới. Đây chúng ta chỉ tìm manh mối một sự kiện lạ thường có lẽ liên quan đến giây bí rợ chăng? Nếu tôi nhớ kỹ, thì hôm ấy cô thất vọng vì không biết tin tức của Ba cô ở đâu, nên cô có tìm đến hỏi bà Cốt tuy cô không tin nơi bà. Bà Cốt có nói: ‘‘Ông thân của tuổi tỵ nầy hiện ở cõi hư không. Nhưng không sao, trong ba năm nữa, tuổi Tỵ này sẽ gặp lại ông thân’’. Có phải là bà Cốt nói như vậy không?
- Dạ, phải..
- Nghĩa là nếu bà Cốt nói một cách dễ hiểu hơn thì Ba cô chết rồi, (ở cõi hư không ) nhưng ba năm nữa cô sẽ tìm thấy xác Ba được. Điều ngẫu nhiên là năm nay đúng năm thứ ba, kể từ ngày bà Cốt nói với Thanh, có phải không?
- Dạ phải.
- Thanh xem, chuyện gì của Thanh nói với tôi, tôi đều nhớ rõ từng chi tiết!... Bây giờ chúng ta cùng đặt ra vài yếu tố giản dị của bài toán huyền bí nầy, theo thứ tự kể tiếp của nó:
1.- Thanh bị lính thân binh bắt. Ba cũng bị đêm đó, nhưng không bị bắt cùng một lượt với Thanh. Thanh bị trói tay dẫn đi trước. Ra sân Thanh còn nghe tiếng xô xác ở trong nhà và tiếng của Ba kêu la rồi im bẵng.
2.- Lúc Thanh được tha về thì không tìm được dấu tích của Ba bị giam tại đâu, hay bị chết chỗ nào.
3.- Thanh đến hỏi bà Cốt. Bà nói Ba đã chết rồi, ba năm nữa sẽ tìm thấy xác.
4.- Kế đó thằng Cùi xí được đứa hài nhi đẻ hoang bỏ nằm trên lá bí rợ.
5.- Một năm sau, vô tình Thanh biểu thằng Cùi bứng giây bí về trồng, để kỷ niệm ngày sanh của Bé.
6.- Hai năm, giây bí cừ héo hoài, không lớn.
7. - Năm thứ ba,!à năm nay, giây bí bỗng phát lên tươi tốt lạ thường.
Đó là bảy yếu tố quan trọng để cho ta tìm hiểu cái bí mật. Thanh có thấy mọi liên quan của các yếu tố đó với giây bí rợ này không?
Thanh lặng thinh chăm chú nghe, đôi mắt Thanh như dính chặt trên môi Bác sĩ. Thanh kinh ngạc trước những phân tách, vừa cụ thể vừa huyền bí, của nhà Bác học trẻ tuổi. Bác sĩ Long nói tiếp:
- Thanh à, tôi chắc Thanh đã nhận thấy mối liên quan ly kỳ giữa khoa học … huyền bí với khoa học phân tách thí nghiệm …
Thanh càng hoang mang, đáp:
- Tôi chưa nhậnthấy rõ Bác sĩ muốn kết luận như thế nào ?
- Giây bí rợ xanh tươi kỳ quặc kia, như tôi đã nói lúc nãy, không có gì là huyền bí cả. Nguyên do bộc phát của nó là tại ở dưới đất các rễ của nó ăn sâu và rộng ra chung quanh đã gặp một chất phân gì lạ thường, nhờ đó nó mới đâm chòi nẩy lộc xanh tươi lên đột ngột như thế. Đó là khoa học phân tách thí nghiệm, Nhưng ta thử hỏi: chất gì lạ thường ở dưới gốc giây bí? Lời tiên đoán của bà Cốt để cho chúng ta phải suy xét tận gốc rễ … dựa theo những yếu tố đã đặt ra lúc nãy để tìm ra manh mối...
Thanh lặng thinh nghe chưa hiểu rõ ý Bác sĩ Long muốn nói gì. Nhưng tự nhiên cô thấy lành lạnh trong người, cô bồi hồi lo sợ, mặt cô tái mét, mắt cô chòng chọc ngó Bác sĩ như chờ đợi ông phát giác ra một bí mật gì ghê gớm lắm... Bác sĩ Long đăm đăm nhìn gốc giây bí rợ, gương mặt ông như sầm tối lại, với giọng nói âm u mờ mịt, ông chậm rãi bảo:
- Giây bí rợ trồng ở chỗ nầy hai năm không tươi tốt được. Nhưng bây giờ bỗng nó phát lên xanh tươi lạ thường vì rễ nó đã ăn sâu rộng ra đến chung quanh nơi đây... gặp một chất phân lạ... chất phân lạ nầy là gì? Dựa theo lời tiên tri của bà Cốt, lại xét đến trường hợp bí mật trong vụ Ba cô bị biệt tin, thì...
Thanh bỗng thấy hình như mọi vật đều xẩm tối trước mắt cô, đầu óc như quây cuồn... Cô hỏi nho nhỏ, vừa muốn run, muốn xỉu:
- Bác sĩ à, có phải Bác sĩ ngờ rằng Ba tôi bị ai giết... đã 3 năm nay, và chôn xác... gần nơi... gốc giây bí rợ nầy chăng?
- Có lẽ vậy, nhưng chỉ là một nghi vấn... Tìm nguyên do tại sao giây bí rợ tốt tươi phi thường chúng ta có thể tin rằng tại gần gốc bí rợ có một xác chết chôn dưới lâu ngày thành phân tốt bón cho rễ bí. Chúng ta nghỉ rằng đó là xác chết của Ba chôn gần đâu đây, đã 3 năm nay.
- Cô lẽ...Bác sĩ đoán đúng...
- Đúng hay không đúng, ngày mai Thanh cho đào đất quanh góc bí, để xem thử...
- Tôi muốn kêu người đến đào ngay bây giờ.
- Không nên, Thanh à. Thanh đừng quên rằng hôm nay là lễ sanh nhựt của bé Bình Minh, đứa bé không cha không mẹ, được Thanh cứu sống cho đến bây giờ. Nên để cho qua ngày đẹp đẽ vui mừng của Bé..
Sáng sớm hôm sau Thanh và thằng Cùi cuốc đất chung quanh gốc giây bí rợ. Giây bí trồng sát hè sau bếp. Cạnh gốc bí chừng năm bước, có kê một lu nước uống, một thùng nước cơm, và một máng heo ăn. Ba vật này sắp ngay hàng thẳng lối, có thứ tự, và để y nguyên một chỗ từ bao lâu nay cho đến bây giờ.
Thanh và thằng Cùi cuốc chung quanh gốc bí cách xa một hai bước vẫn không thấy gì. Thanh mệt quá, bỏ cuốc ngồi nghỉ. Hai anh nông dân ở gần xóm đến hỏi Thanh bán cho một trái bí rợ. Từ khi giây bí của cô có nhiều trái, bà con trong làng vẫn đến mua, vì cô bán rẻ.
Thấy cuốc đất, một anh hỏi:
- Cô Hai cuốc đất trồng thứ chi đó, cô Hai?
Thọat tiên Thanh không muốn nói. Nhưng Thanh nghĩ lại, nên nói thật cho họ biết:
- Tôi nghi ngờ có... cái chi ở dưới đất, giây bí mới tốt tươi quá được như vậy. Tôi cuốc đất coi thử.
Người nông dân thật thà bảo:
- Tại giống bí này tốt thì nó tốt, chớ có chi đâu cô Hai!
- Bác sĩ Long nghi có ai giết Ba tôi và chôn xác Ba tôi gần gốc giây bí rợ, lâu ngày thành thứ phân tốt bón cho giây bí, cho nên nó mới xanh tươi kỳ quặc vậy đó. Tôi muốn đào đất lên coi.
Hai anh nông dân xầm xì với cô Thanh về vụ ông Bảy bị biệt tích ba năm nay một cách rất bí mật. Dư luận trong làng vẫn xôn xao bàn tán, nhưng không ai dám quả quyết chỉ danh kẻ thủ phạm. Sẵn cơ hội này, hai anh nông dân bảo cô Thanh:
- Tụi tui đào sâu xuống coi, nghe cô Hai? Phải đào sâu xuống mới biết được, cô Hai à.
- Dạ, nhờ hai anh giúp cho.
Hai người cầm cuốc nỗ lực đào chung quanh gốc bí. Vừa cuốc xa chừng hai bước, một anh kêu cô Thanh:
- Nè, cô coi, cô Hai. Đất chỗ nầy cái màu nó đen đen, cô thấy hông?
- Dạ, thấy.
Anh nầy kêu anh nông dân thứ hai đang cuốc phía khác:
- Chú Tâm, chú bỏ chỗ đó, lại phụ tui đàng này coi.
Chú Tâm xách cuốc lại:
- Đào kế theo đây phải hông, anh Tư?
- Chú với thằng Cùi khiêng Iu nước để ra chỗ khác đi. Thùng nước cơm với cái máng heo cũng đem dời ra ngoài, rồi đào chỗ đó coi!
Cô Thanh phụ với hai người khiêng lu nước uống để xích ra ngoài xa. Thùng nước cơm và máng heo cũng dời đi. Anh Tư va chú Tám cuốc lần tới chỗ đất ướt ẩm ấy.
Bỗng anh hoảng hốt kêu cô Thanh...
Anh vừa thấy lộ hẳn ra hai ống xương người... Anh Tư không dám cuốc nữa.
Cô Thanh tái mặt, lật đật bảo thằng Cùi chạy đi báo cáo với Hương quản và viên chức hội tề, mời họ đến chứng kiến cuộc khám phá ghê rợn.
Nửa giờ sau túp nhà lá của cô Thanh đông nghẹt người ta. Với sự hiện diện của Hương Quản, Hương Hào và đông đủ viên chức, cuộc đào đất tiếp tục mãi đến trưa, giữa đám dân chúng trong làng, già trẻ lớn bé, đứng chen chúc chung quanh im lặng và kinh tởm.

Dưới nắng oi ả, sáu anh nông phu lực lưỡng, ở trần, mặc quần đùi đen, mồ hôi chảy ướt đẩm cả mình mẩy, lui cui đào một vùng đất chung quanh xác chết rực đã lâu ngày. Tất cả đàn bà con gái, nhứt là các cụ già, chứng kiến cảnh tượng rùng rợn bi thương ấy, đều khóc sùi sụt, thật là cảm động. Cô Thanh liền té xỉu xuống, hai tay bám chặt lấy đong đất, kêu khóc ‘‘Ba ơi là ba ơi!...’’ Rất là thê thảm,
Hương quản và các viên chức trong làng bàn nghị rằng thủ phạm vụ ám sát này ít nhứt là hai người. Họ đã giết ông Bảy ở trong nhà rồi đem ra sân bếp. Họ khiêng lu nước uống, thùng nước cơm và máng heo để ra một bên. Họ đào lỗ ngay chỗ đất ấy, bỏ xác ông già xuống, lấp đất lại, rồi họ khiêng lu nước, thùng nước cơm và máng heo để trở lại lên trên, đúng theo chỗ cũ, để đừng ai nghi ngờ và khám phá được.
Cô Thanh làm đơn thưa kẻ vô danh đã giết Ba cô và đem chôn dưới lu nước.
Hương Quản làm biên bản và lập tức lên tỉnh báo với biện lý. Biện lý nhờ Bác sĩ Long về xã khám nghiệm thi thể.
Sáng hôm sau Bác sĩ Long làm xong phận sự và kết luận trong bản tường trình rằng nạn nhân bị giết và chôn đã ba năm,
Hương Quản cho phép cô Thanh liệm xác Ba cô trong một chiếc quan tài tử tế. Thịt đã nát hết, chỉ còn xương. Bốn anh nông dân chịu khó hốt hết di hài vô chiếc hòm sơn đỏ. Và Bác sĩ cho rắt lên một lớp vôi bột. Bác sĩ Long và bà con hàng xóm lo giúp cô Thanh hoàn thành cuộc mai táng tại nghĩa địa trong làng. Đám tang thật vô cùng cảm động. Hầu hết dân làng đều đi đưa di cốt của ông Bảy, một vị kỳ lão hiền lành phước đức bị giết oan bởi bàn tay đẩm máu của kẻ sát nhân vô nhơn đạo. Không một người nào đi theo quan tài ông Bảy mà không ràn rụa nước mắt. Cô Thanh quỳ gục xuống nấm mồ mới đắp của cha, khóc la thảm thiết. Dư luận dân chúng phẩn uất, hỏi nhau:
- Ai giết ông Bảy ?
- Tại sao giết?
- Giết trong trường hợp nào?
Dĩ nhiên người ta đồng thanh nghi một người nhưng ai dám hở môi? Kẻ thủ phạm bị tình nghi chính là một người đang có ‘‘thế lực’’!...

Biện lý giao nội vụ cho Ty Hành cảnh lưu động của Công an tỉnh điều tra.
Một buổi sáng, trong phòng giấy ông cò, cô Nguyễn thị Thanh mặc tang phục bình tĩnh đứng trước mặt ông. Ông Cò kêu một thầy thư ký đánh máy ở phòng kế cận. Thầy ấy qua. Ông Cò bảo:
Thầy ngồi đây chép những lời khai của cô này, rồi đưa tôi xem lại trước khi đánh máy.
- Dạ.
Trông thấy cô Thanh, thầy thư ký ngạc nhiên, nhoẻn miệng cười. Cô Thanh tỏ vẻ rất thản nhiên. Cuộc thẩm vấn bắt đầu.
Ông Cò Hành cảnh lưu động hỏi:
- Cô có nghi cho ai giết Ba cô không?
Cô Thanh điềm nhiên trả lời:
- Thưa ông Cò, tôi có nghi một người. Xin ông Cò cho phép tôi kể lại câu chuyện xảy ra trước đây ba năm. Hồi đó là tháng Bảy năm 1949 tôi học ở trường tỉnh; về quê nghỉ hè. Có một người thanh niên trong xã, học ở Saigon cũng về nghĩ hè, đến dạm hỏi tôi...
Người thơ ký trừng mắt lên ngó cô. Cô Thanh điềm nhiên nói tiếp:
- Y dạm hỏi tôi ba bốn lần, đem bạc vàng châu báu ra đặng dụ dỗ tôi, nhưng tôi nhứt định không chịu. Y hăm dọa tôi, và dùng các phương tiện để buộc Ba tôi phải gả tôi cho y. Thấy tôi không ưng thuận, Ba tôi không nở ép. Một hôm y tới nhà tôi quyến rũ tôi nữa, tôi cương quyết từ chối thì y nhảy xổ vô tôi, định cưởng hiếp tôi. Tôi chạy xuống bếp, y chạy theo chụp được tôi và xô tôi ngả xuống đất, xé rách áo của tôi. Tôi liền cắn tay y thật đau để y buông tôi ra... Thưa ông Cò, tôi chắc rằng dấu cắn của tôi hãy còn trên cổ tay của y vì tôi cắn thật sâu với tất cả hai hàm răng của tôi. Tôi thoát được ra hè, nhưng y còn chạy theo ôm được tôi, vật tôi xuống một lần nữa, nhưng Ba tôi thấy cảnh đau lòng, sợ tôi không chống cự nổi kẻ vũ phu, Iiền chạy vô bếp lấy con dao bén nhọn quăng trúng bàn tay y đứt mất một miếng da. Máu chảy nhiều quá, y mới chịu buông tôi ra và lật đật chạy về. Thưa ông Cò, tôi cũng chắc rằng trên bàn tay phải của y hãy còn cái thẹo. Kế đó ba hôm, một đêm tối trời Ba tôi đang ngủ, tôi đang ngồi bóp chưn cho Ba tôi, bỗng có ba tiếng súng nổ ngay trước nhà tôi, đạn bay vèo sát bên mái nhà. Hai người lính ‘‘thân binh’’ xô cửa vô, đi sau là hai người khác nữa. Một người chính là kẻ vũ phu trên kia. Lần này y vu cáo tôi làm việc phi pháp để y trả thù. Ba tôi và tôi. Hai người lính còng tay tôi, dẫn tôi ra một chiếc xe jeep đậu ngoài đường. Nhưng vừa ra khỏi cửa, tôi nghe trong nhà Ba tôi hỏi: ‘‘Sao cậu dẫn lính về bắt con tôi?.’’ Tôi nghe rõ tiếng người ấy nói: ‘‘Còn thằng già nầy, bữa nay mầy biết tay tao!’’ Tôi chỉ nghe đến đó vì tôi đã bị lôi lên xe jeep chở đi mất. Ngay sáng hôm sau dân làng không thấy Ba tôi đâu nữa. Chính người nhà kẻ vủ phu ấy phao tin rằng Ba tôi bị sở Mật thám Pháp bắt lên Saigon rồi biệt tích. Sau khi viên Quan tư Thân binh xét tôi vô tội, thả tôi ra, tôi có lên Saigon ở một tháng để hỏi tin tức của Ba tôi, thì không đâu biết hết. Tôi có vào tận các cơ quan Quân sự và Mật thám Pháp hỏi nhưng không ai biết vụ ba tôi bị bắt bao giờ? Nhiều người Pháp ở Mật thám Liên bang lại cho rằng chuyện Mật thám Pháp bắt bớ Ba tôi trong trường hợp đó là hoàn toàn vô lý. Nhưng tôi không biết kêu oan ở đâu được!
Tôi đau khổ chờ đợi suốt 3 năm nay... Bỗng dưng, vì giây bí rợ...
Thanh kể rõ nguyên do và sao nhờ giây bí rợ mà Bác sĩ Long và Thanh đã khám phá ra được vết tích của Ba cô bị giết chôn đã 3 năm nay. Rồi cô kết luận:
- Thưa Ông Cò, tôi quả quyết rằng người thanh niên đã dạm hỏi tôi không được, thù Ba tôi và tôi nên một đêm tối trời, y dắt lính đến bắt tôi, - và giết Ba tôi ở ngay tại nhà tôi, rồi đem chôn xác Ba tôi dưới lu nước sau bếp.
Người thư ký đang chép những lời khai của cô Thanh, bổng dưng rút trong túi quần của y một khẩu súng sáu để lên trên bàn, trước mặt y. Ông Cò thấy vậy ngạc nhiên hỏi:
- Thầy làm cái gì vậy ?
- Dạ bị nó cấn cái ghế...
Ông Cò quay lại Thanh:
- Cô có biết người thanh niên đó hiện giờ làm nghề gì không?
- Thưa ông Cò, y làm nghề gì tôi không được biết.
- Cô có biết y ở đâu không?
- Dạ... có.
- Cô có thể cho tôi biết địa chỉ của y hoặc sở của y mần không?
- Thưa ông Cò, hiện y đang ngồi đây!
Thanh chỉ ngay người thư ký đang ngồi trước mặt ông.
Ông Cò hết sức kinh ngạc. Như một tiếng sét đánh vào tai, ông chưa tin được, nhưng vừa thấy người thư ký nắm khẩu súng lục nhắm bắn cô Thanh, ông Cò liền chụp tay y trong lúc viên đạn đã bay ra kêu một tiếng ‘‘chát!’’ bên cạnh đầu cô Thanh. Cô Thanh đứng né kịp ra một bên, và ông Cò cũng giựt được kịp khẩu súng.
Ông trố mắt hỏi Thanh:
- Chính thủ phạm là cậu thư ký nầy hả?
Thanh điềm nhiên trả lời:
- Dạ, thưa ông Cò, y là cậu Hai Ngọc, con thầy Cai Tổng đó.

Ra tòa, Ngọc nhìn nhận hết tội lỗi. Cậu khai người tòng phạm với cậu đã bị chết, trong một trận phục kích trên đường đi Châu Đốc trước đây ba tháng. Cậu nhìn nhận những vết thẹo hiện còn trên bàn tay và trên cổ tay cậu là dấu cắn của cô Thanh và vết dao của ông già cô. Cậu thú nhận rằng cậu đã vu cáo cho Thanh có liên lạc với địch, và dẫn lính bắt cô. Cậu cũng khai rằng cậu không cố ý giết ông Bảy, nhưng cậu đã lỡ đạp ông già một đạp quá mạnh, ông già té xuống đất, cậu đạp luôn hai đạp vô hông, và trên ngực, ông già chết tốt. Cậu và tòng phạm ra sau bếp khiêng lu nước để ra một bên, đào một lỗ sâu, bỏ xác ông già xuống, rồi lấp đất. Để khỏi bễ chuyện, và đừng ai nghi ngờ được, hai người khiêng lu nước để lại chỗ cũ, ngay trên cái lỗ vừa lấp đất bằng phẳng lại. Muốn cho trong làng không ai rình thấy công việc cậu làm, trước đó và sau đó cậu và tòng phạm đã bắn mấy phát súng chỉ thiên để thị oai. Rồi hôm sau, cậu cho phao tin rằng đêm qua cô Thanh bị lính bắt lên tỉnh, còn ông già thì bị lính mật thám Pháp bắt đưa lên Saigon để tra tấn.Như thế để cho ai nấy đừng nghi ngờ là ông Bảy đã chết và chôn ngay đêm đó tại nhà ông.
Mặc dầu có ba trạng sư bào chữa cho thủ phạm, xin Tòa khoan hồng, Ngọc cũng bị án khổ sai chung thân. Người ta đồn thầy Cai Tổng đã tốn hết năm sáu trăm ngàn, mà không cứu được đứa con quý tử!
Chương X
Một đồn Pháp có chừng một trăm lính da đen, bị tấn công mãnh liệt.
Từ 12 giờ đêm, một tiếng súng mọt chê báo hiệu bắt đầu từ ngoài bắn vô, làm sụp một góc mái ngói. Súng trong đồn bắn trả, rồi kế tiếp tiếng súng lớn, súng nhỏ, F. M. mi tray dét, đua nhau nhả đạn, khạc lửa, gây cảnh hãi hùng ghê rợn đột ngột giữa đêm khuya. Suốt mấy tiếng đồng hồ, súng nổ chan chát và ầm ầm, kinh thiên động địa.
Chiến sĩ hai bên cùng hăng máu, vừa xáp chiến, vừa la inh ỏi, dưới hai ánh đèn pha sáng rực như hai con mắt tử thần đang chứng kiến cuộc tàn sát vô cùng ác liệt.
Xác chết cả hai bên đối thủ nằm la liệt trên cỏ, trong những vũng máu đỏ bầm. Nhiều thương binh nằm quằn quại hoặc ráng bò vô bóng tối.
Có lúc tiếng súng hơi thưa thớt, tưởng đâu sắp êm luôn, nhưng bỗng dưng lại nổ vang rền lên như một tràng pháo giao thừa,tiếp theo những hồi còi, những tiếng súng sáu, rồi một loạt liên thanh tạch… tạch... ria cái chết hãi hùng trong đêm thẳm. Lửa bốc cháy lên sáng rực, một vùng khói tỏa mịt mù, dày đặc như mây đen. Tiếng đạn bay veo véo, lẫn lộn với tiếng hò hét, kêu la, và tiếng rên rỉ.
Mấy bóng người ôm súng vừa lủi tới bị một loạt mi tray dét ria trúng vào ngực vào đầu họ. Tất cả đều ngả xuống, dẫy dụa với tia máu trào ra ọc ọc. Những bóng người khác lù lù bò qua một hàng rào giây thép gai mới sụp đổ xiên xẹo, mấy viên đạn F. M. ngắt bay luôn ba bốn linh hồn. Một tiếng mọoc chê, hai tiếng mọoc chê, ầm! ầm! làm tung lên một u đất. Ba người lớp ngóp từ trong bò ra, nằm sát xuống, nhắm bắn đối phương, bị hai trái lựu đạn rớt ngay trên lưng, xé nát tan mấy mảnh. Quân ngoài nhảy vô, quân trong từ các bóng tường bắn xối, xáp trận ngay trên hầm hố quanh đồn. Bao nhiêu người ngả chết, bao nhiêu kẻ gục xuống đất, ôm vết thương đẩm máu rên lá.
Bỗng từ xa có tiếng xe thiết giáp và một đoàn quân tiếp viện....,
Súng nổ thưa thớt dần.
Đoàn quân tiếp viện đến đông nghẹt, thấy còn lại cái xác đồn bị sụp đổ nhiều nơi, và nhiều xác chết... Lính trong đồn còn bảy chục người với mười tù binh địch, trong số hình như có một đại đội trưởng.
Gà gáy ở mấy túp nhà lân cận. Tiếng gà gáy như trổi lên một giọng kèn thu quân ai oán não nùng.
Tiếng súng im hẳn.
Hừng đông đã nhuộm màu hồng êm dịu mấy chòm mây trên đỉnh núi xa xa...
Bác sĩ Long đang ngồi làm việc nơi phòng giấy. Có tiếng gỏ cửa. Ông bảo:
- Vào đi!
Cô nữ phụ tá Nguyễn thị Mai luôn luôn có điệu bộ ẻo Iả, với nụ cười cố làm tăng duyên dáng cho đôi môi tươi thắm của cô, ỏng ẻo bước vào. Bác sĩ nghiêm trang bảo:
- Có chuyên chi, cô Mai?
- Thưa Bác sĩ, nhà binh Pháp vừa chở qua một người bị thương nặng có lẽ là tù binh, có một viên đội Pháp đi kèm theo. Viên đội muốn gặp Bác sĩ riêng trong phòng giấy,
- Cô cho họ vô.
- Dạ
Viên đội bước vào, đứng nghiêm chào Bác sĩ xong khép kín cửa, Bác sĩ hỏi:
- Có chuyện chi, ông đội?
Viên đội lấy trong túi ra một bức công-văn của nhà binh Pháp, ngoài phong bì đóng dấu đỏ:
‘‘secret’’ (mật thơ).
Bác sĩ Long mở ra xem. Xong, ông hỏi viên đội:
- Người tù binh đâu?
- Thưa Bác sĩ, hắn ở ngoài xe.
- Được, tôi ra bây giờ.
Mở ngăn kéo, ông bỏ mật thư vào, khóa lại cẩn thận, rồi đứng dậy đi ra ngoài với viên đội Pháp. Ông đến gần xe ngó người tù binh. Y nằm trên một chiếc bao bố trải trên sàn xe che kín bịt bùng, trên bụng đắp chiếc mền rách. Bác sĩ kêu cô nữ phụ tá:
- Cô gọi thầy Lễ đến gấp.
- Dạ.
Một lúc người y tá đến. Ông bảo:
- Thầy đưa bịnh nhơn nầy đến căn phòng trống ở cuối Pavilion C. Sẽ có người lính Pháp ở canh gát họ. Thầy di chuyển ba người bịnh ở ba phòng kế cận sang Pavilion B. Ba phòng đó để trống, cấm không người qua lại. Vả lại chút nữa nhà binh sẽ cho lính đến rào giây kẻm gai và canh phòng cẩn mật chung quanh. Thầy dặn tất cả nhơn viên nhà thương, bất cứ nam hay nữ, không ai được đến gần đó. Thầy không được tiết lộ cho ai biết một điều gì về người tù binh, dù với nhân viên nam hay nữ trong bịnh viện. Ai tò mò đến gần hàng rào gai sẽ bị lính bắn chết chịu. Chỉ có một mình thầy đuợc ra vô thăm người bịnh khi nào có lịnh của tôi, và mỗi khi thầy vô, thầy chịu phiền để người lính lục soát thầy, và họ sẽ đi kèm thầy vô phòng bịnh nhơn. Thầy không được hỏi han hay nói gì với bịnh nhơn ngoài việc chữa bịnh. Đó là lịnh của Nhà binh Pháp, thầy nhớ nhé!
- Dạ.
- Bây giờ thầy đi với người đội và người lính dẫn bịnh nhơn xuống phòng C, và sắp đặt như tôi vừa bảo, nội trong một tiếng đồng hồ cho xong. 11 giờ tôi sẽ đến khám bịnh cho bịnh nhơn.
- Dạ.
Nói xong Bác sĩ Long trở vào phòng giấy.
Đóng kín cửa, Bác sĩ mở ngăn kéo lấy mật thư của nhà binh Pháp, xem lại. Tên người tù binh là Lê Quang Đồng.
Bác sĩ Long thắc mắc tự hỏi: ‘‘Có phải Lê Quang Đồng, là vị hôn phu của cô Thanh không?’’
Bỗng chuông điện thoại reo, ông cầm nghe Thiếu tá Louis, một Sĩ quan cao cấp ở Đệ nhị văn phòng Pháp, mà Bác sĩ quen biết từ lâu, bạn học cũ của Bác sĩ, hẹn sẽ đến thăm Bác sĩ trong 5phút. Bác sĩ đáp: ‘‘ Vâng, tôi đợi Thiếu tá’’ Một lúc Thiếu tá Louis đến. Sau vài câu mào đầu, Thiếu tá nói:

- Thằng tù binh nầy là Đại đội trưởng Bộ đội Trịnh Minh Thế, nghĩa là một viên chỉ huy. Nó là một chiến sĩ Quốc gia, và theo những lời lẽ của nó tôi cũng tin rằng nó không phải là Cộng sản. Nhưng dù sao, nó cũng đã chỉ huy một trận đánh chết trên mấy chục người lính Liên hiệp Pháp. Vì lẽ đó, tôi thiết tưởng Bác sĩ không cần phải mổ tay và chân nó để lấy mấy viên đạn ra làm chi. Bác sĩ tiêm thuốc cho nó chết, cũng không sao. Nếu không, thì Bác sĩ cưa luôn cánh tay và ống cẳng bị thương của nó, bởi lẽ nó là kẻ thù của chúng ta, kẻ thù của nước Pháp và của Chánh phủ Bảo Đại. Đáng lẽ tôi cho lịnh bắn nó. Nhưng theo luật Quốc tế, tôi coi nó như một tù binh. Tuy nhiên tôi nghĩ rằng tiêm thuốc cho nó chết, cũng không khác nào nó chết nơi chiến trường. Anh nghĩ sao? Vả lại anh sẽ thấy nó còn có một viên đạn ở hên hông nữa. Nó đáng chết cho rồi.
Bác sĩ làm thinh, chưa trả lời. Thiếu tá Louis nói tiếp:
- Mà này, ông bạn thân mến à, anh có biết cảm tình của nó đối với anh như thế nào không? Lúc sáng nầy, tôi bảo nó: ‘‘Tao sẽ đưa mầy qua Bácbsĩ Việt-Nam, chớ ở bịnh viện quân y thiếu dụng cụ mỗ xẻ’’. Anh bạn biết nó trả lời sao không? À! nó nói tiếng Pháp nhé, nó nói khá lắm nhé nó bảo:‘‘Tôi không cần tụi đốc tờ của các anh, chúng nó là tay sai của thực-dân.’’ Anh bạn nghe không? Thật là quân ngu xuẩn! Vì lẽ đó, tôi thấy không cần phải săn sóc nó như một người lương thiện. Bây giờ nó là một tù binh ở trong tay Quân đội Pháp. Nó sống hay chết không quan hệ gì. Chúng ta có thể tự do hành động. Vì anh là Bác sĩ anh có thể tiêm cho nó vài mũi thuốc độc cho nó chết lần chết mòn cũng không sao! Tôi bàn bí mật với anh như thế vì tôi biết anh là một người tốt một người bạn thân của tôi.
Bác sĩ Long mỉm cười đáp:
- Ngày mai, tôi sẽ trả lời anh.
Thiếu tá Louis ra về, vừa đúng 11 giờ. Bác sĩ tiễn Thiếu tá ra khỏi cửa, trở vô phòng bỏ mật thư vào ngăn kéo khóa kỹ lại, xong mở tủ thuốc lấy ra một ống thuốc chích bỏ vào túi. Ông đi thẳng xuống phòng C. Ông đi với thầy Lễ đến phòng cuối cùng có một người lính Tây gát ngồi trên cái ghế. Người lính đứng dạy chào ông. Ông bước vô phòng. Người lính mang súng mi tray dét đi theo sau.
Tù binh Lê Quang Đồng nằm trên cái giường sắt sơn xanh của bịnh viện. Bác sĩ Long được dịp ngó chàng tường tận. Một thanh niên độ 23, 24 tuổi, nét mặt thông minh tuấn tú, nhưng gày ốm xanh xao. Y mặc bộ bà ba đen, rách và dính máu nhiều nơi. Y ngó trân trân Bác sĩ Long, với cặp mắt đỏ ngầu, đầy căm hờn. Y không chào Bác sĩ. Bác sĩ Long dịu-dàng hỏi:
- Anh đau lắm không?
Y không trả lời. Bác sĩ biểu thầy Lễ cởi áo bà ba đen của y để ông coi các vết thương trầm trọng ra sao. Thầy Lễ cởi áo hơi mạnh, tù nhơn la lên:
- Làm gì dữ vậy? Ai biểu cởi áo? Đồ chó! Đồ mọi!
Thầy Lễ lặng yên làm phận sự. Nhưng tù nhơn cứ hét lên:
- Đồ khốn nạn! Để yên cho tao nằm không? Tao chết kệ tao!
Bác sĩ Long đứng làm thinh. Áo cởi xong, Bác sĩ thấy một vết thương lớn trên cánh tay phải và một vết thương nguy hiểm ở nơi hông mà Quân y Pháp đã tạm băng cho cầm máu. Ngoài ra còn hai vết thương lớn trên ống chơn đang còn rỉ máu. Bác sĩ cúi xuống mở băng ra coi. Nhưng tù binh đẫy mạnh lên, đánh vào mặt bác sĩ một tát tay. Bác sĩ điềm nhiên né một bên. Tù nhơn còn hét lên:
- Tao không cần mầy! Đồ tay sai của thực dân! Đồ nô lệ! Việt gian!
Người lính Pháp nét mặt hầm hầm chỉa súng vào tù nhơn:
- Coi chừng nghe, con ngựa vằn kia! Nếu mầy quãy cựa, tao sẽ cho thêm vài viên đạn vào da mầy bây giờ!
Bác sĩ Long nói nhỏ với thầy Lễ một câu gì, thầy Lễ ‘‘Dạ’’ rồi đi ra. Một lúc thầy trở lại, đem một hộp ống chích. Bác sĩ lấy trong túi ra ống thuốc đã đem theo sẵn.
Tù nhơn la hét như người điên, nói nhiều câu mê hoảng của kẻ mất trí. Người lính và thầy Lê phải đè giữ y thật mạnh để cho Bác sĩ tiêm mũi thuốc.
Xong Bác sĩ khẽ dặn thầy Lễ mấy lời, rồi ra đi. Thay Lễ theo sau. Người lính mang súng đi sau cùng ra ngoài, bác sĩ bảo người lính:
- Trong mười phút, y sẽ ngủ mê. Anh cứ để cho y ngủ yên giấc.
Cả đêm Bác sĩ Long thao thức dưới ngọn đèn xanh lờ mờ để trên bàn ngủ. Bác sĩ chỉ nghĩ đến Lê Quang Đồng, đúng là vị hôn-phu của Thanh cô gái diễm kiều phúc hậu mà Bác sĩ đang yêu say mê từ ba năm nay. Lê Quang Đồng! Vâng người tình nhơn của Thanh, hiện giờ Bác sĩ đã thấy rõ mặt! Y đang nằm trong bịnh viện, bị những vết thương trầm trọng máu chảy rất nhiều. Thanh không hay biết chuyện này. Bác sĩ nhớ Iại bao nhiêu thân mật giữa Bác sĩ và Thanh, thân mật mà đứng đắn, Vì những cử chỉ rất dịu dàng nhưng trang nghiêm của cô bạn gái tuyệt đẹp và nghèo khó của ông.
Nếu không có Đồng,Thanh chắc chắn đã không yêu ai khác hơn là Bác sĩ rồi. Thanh đã nhiều lần tỏ cảm tình nồng nàn chân thật của Thanh đối với ông, nhưng cảm tình tha thiết ấy vẫn chỉ là tình bạn rất trong sạch, rất thanh cao... Còn tình yêu, Thanh đã thú thật rằng Thanh để giành cho người đã cùng Thanh kết nghĩa, trừ khi nào người ấy không còn sống trên thế gian nữa. Bác sĩ đau khổ âm thầm nhưng quá yêu Thanh, Bác sĩ đã nhứt định chờ đợi Thanh mãi đến khi nào Thanh quyết định kết hôn với Bác sĩ. Đã có lần Thanh hứa với Bác sĩ rằng Thanh sẽ kết bạn trăm năm với Bác sĩ khi nào Thanh biết chắc người kia đã chết rồi, hay không bao giờ trở về được nữa.. Nay, người kia đã trở về... trên một giường bịnh, với mấy vết thương nặng, có thể chết được, mà Thanh không hay biết gì! Bác sĩ làm cho Đồng chết được không khó. Bác sĩ có thể tiêm cho một vài mũi thuốc y theo lời bạn thân của Bác sĩ là Thiếu tá Louis đã bí mật dặn dò ông. Đồng chết, thì người ta sẽ đêm chôn y trong một nghĩa địa hoang vu, dưới một nấm mồ không tên không tuổi, như ngàn vạn nấm mồ vô chủ của ngàn vạn chiến sĩ vô danh, chết trên chiến địa! Đồng chết, thì một ngày không xa, ông sẽ được cưới Thanh, sẽ thực hiện được giấc mơ xinh đẹp mà ông đã ôm ấp từ 3 năm nay.
Đồng là trở lực duy nhứt của tình yên trung thành của Bác sĩ trong ba năm đăng đẳng. Trở lực vô hình ấy đã làm cho Bác sĩ Long đau khổ và nhẫn nại. Ngày nay sinh mạng của Đồng đang ở trong tay Bác sĩ. Chỉ một mũi thuốc của ông, là Đồng sẽ trút linh hồn trong bịnh viện. Bác sĩ có nên chụp ngay cơ hội này để thỏa mãn được mối tình trắc ẩn của ông chăng? Bác sĩ lại nhớ cử chỉ rất tàn bạo của Đồng đối với ông buổi trưa trong bịnh viện, và những lời chửi mắng rất vô lễ, rất hổn xược của người chiến sĩ cuồng nhiệt ấy. Bác sĩ lại nhớ những lời căn dặn của Thiếu tá Louis... Phải, Đồng là một kẻ vô giáo dục, là một kẻ thù, thì ông có để cho Đồng chết ông cũng không có tội lỗi gì!
Nhưng... không! Không thể được! Ông không thể giết Đồng được! Lương tâm của ông không thể để cho ông phạm tội ác ấy được! Danh dự Bác sĩ của ông không cho phép ông đồng Iõa trong một việc dã man vô nhân đạo như thế được!
Bác sĩ Long ngồi vùng dậy, vặn đèn sáng lên. Ông cầm bức ảnh của Thanh. Đây là bức ảnh mà ông đã chụp cho Thanh hôm lễ sanh nhựt của Bé Bình Minh. Thanh có tặng riêng ông một tấm, ông lồng kiếng rất đẹp để trên bàn ngủ. Mỗi khi nằm lên giường, ông say mê nhìn bức ảnh diễm lệ tuyệt vời của người ông yêu. Đêm nay ông nhìn ảnh, bỗng nhiên hai ngấn lệ trào ra trên mắt ông. Ông gục đầu xuống giường. Nhưng ông vùng dậy ngay, ông cương quyết hy sinh tình yêu của ông để Thanh được giữ vẹn lời thề với người xa vắng...Ông ráng chịu đau khổ riêng một mình ông, để đôi bạn trẻ được sum họp vui vầy. Bác sĩ Long đứng dậy, lại bàn giấy, bật đèn xanh trên bàn. Ông lấy giấy viết thư:
7/3/1953.
Thiếu Tá thân mến.
‘‘Tôi rất cảm động vì lòng tín nhiệm mà anh đã đặt nơi tôi. Tôi rất hiểu những lý do vì sao anh đã bàn cặn kẽ với tôi sáng hôm qua về trường hợp của người tù binh Lê Quang Đồng. Tôi cũng mong anh hiểu lòng tôi không thể làm được một việc mà lương tâm tôi không cho phép tôi làm. Tôi đã khám nó chiều qua sau khi chích cho nó một mũi thuốc khỏe, để nó ngả được một giấc yên tĩnh khá lâu. Tôi nhận thấy hai điều:
1) Những vết thương của nó, nhứt là vết thương nơi hông và nơi chưn có thể gọi là vết tử thương. đã làm cho nó điên. Vì vậy nó có thái độ hung dữ như một con mãnh thú khi bị trúng đạn. Nhưng 5 giờ chiều hôm qua sau khi nó ngả yên một giấc dài, thức dậy nó bình tĩnh và hiền lành lắm.
2) Nó là một thanh niên có tinh thần Quốc gia. Chiều hôm qua tôi có hỏi nó, nó nói thật với tôi không phải nó thù ghét Pháp. Nó chỉ muốn nước Việt Nam được độc lập mà thôi. Nó cầm súng là để giành lại độc lập cho Tổ Quốc mà thôi… Hạng người thanh niên ấy, đáng cho chúng ta chú ý và săn sóc khuyên răn. Nó sẽ trở thành một công dân tốt của Việt nam và một người bạn tốt của Pháp nếu Việt Nam được độc lập và Pháp -Nam thành đôi bạn. Tôi mong anh hiểu tôi. Anh cứ giao người thanh niên tù binh ấy cho tôi. Tôi sẽ chữa cho nó lành bịnh. Tôi sẽ hàn lại những vết thương trên da và trong tinh thần của nó. Vì tôi thấy tinh thần của nó cũng đang bị rỉ máu rất trầm trọng như thân thể của nó vậy. Tôi sẽ cứu nó trở nên một người thanh niên lành mạnh, bạn tốt của anh và của tôi. Chiều nay mời Louis đến dùng cơm với tôi. Mong anh đừng từ chối.
Thân mến chào anh,
Bác-sĩ Long.
Bác sĩ Long chăm nom cho Đồng với một lòng tận tụy chu đáo thật đáng khen, đáng phục. Bịnh tình của Đồng rất nặng. Đồng đã yếu sẵn lúc còn ở trong Bưng, nước da xanh xao, thân hình gầy ốm nay lại bị ba vết thương trầm trọng, phải một Bác sĩ có nhiệt tâm cứu chữa như Bác sĩ Long nếu không thì người bịnh khó mà sống được. Luôn luồn Đồng bị sốt, nhiều khi nóng lên 40 độ. Giữa lúc đêm khuya Bác sĩ Long được báo tin cũng chạy đến để chích thuốc và coi chừng mạch.
Một đêm mưa gió ào ạt. Một cơn bão lớn ở đâu rớt về Hậu Giang. Từ 5 giờ chiều, gió đã thổi thật mạnh trên thành phố khiến cho mọi người đều phải đóng hết cửa. Bác sĩ Long lái xe từ nhà thương về nhà phải lái thật chậm vì gió vun vút chung quanh xe,và mưa trút xuống như hàng rào nước đổ ngập hết phố phường.
12 giờ khuya, ông đang trùm mền ngủ ngon. Bỗng có điện thoại reo lên liên tiếp từng hồi. Ông tĩnh dậy cầm ống nghe. Thấy y tá gác bịnh viện đêm ấy báo tin cho Bác sĩ biết rằng tên tù binh ở phòng C đang hấp hối trên giường bịnh, vì y đang nóng 40 độ mà ráng bò dậy đi tiểu, bị té luôn ngoài hè. Khiêng y vô giường, y dãy dụa một lúc, ú ớ mấy tiếng rồi nằm lịm. Tay chưn đều lạnh, Hơi thở gần tắt. Mạch rất yếu, và không đều. Bác sĩ Long vội vàng ngồi dậy, thay áo quần rất lẹ chạy ra xe. Trời lạnh quá, Bác sĩ kéo nút ga mãi không rồ máy. Bác sĩ kiếm cây quây cũng không thấy. Bác sĩ liền khoát áo mưa chạy bộ đến nhà thương, dưới trận mưa dầm gió tạt ướt hết cả mình mẩy. Bác sĩ chạy thật mau, vào đến nhà thương thì thấy cây gãy nằm ngổn ngang trên các lối đi. Mưa vẫn dội xuống, nước ngập cả các đường mương và các bồn hoa trong sân bịnh viện, Bác sĩ đến phòng C gặp người lính Tây nhún vai nói: ‘‘Nó sắp trả linh hồn cho quỷ sứ rồi, Bác sĩ à! Cứu nó cũng vô ích!’’ Bác sĩ cương quyết đáp: ‘‘Không! phải cứu nó!’’ Bác sĩ tiêm một mũi thuốc hồi tĩnh cho Đồng, rồi soạn các thứ thuốc khác để tiêm thêm và cho uống. Bác sĩ ngồi canh chừng bịnh nhơn suốt đêm. Đến sáng Đồng đã khỏe lại.
Sau mấy tháng điều trị, bịnh của Đồng đã thuyên giảm nhiều. Bác sĩ đã mổ lấy ra hai viên đạn ở ống chưn, hai vết lở ấy đang được xức thuốc và băng bó. Bác sĩ sắp sửa mổ nơi hông để gắp viên đạn ở đó ra. Đau quá, thỉnh thoảng nỗi lên từng cơn điên kinh khủng, Đồng kêu la chửi mắng người lính Pháp, thày Lễ và cả Bác sĩ, không chừa ai. Nhưng Bác sĩ Long điềm nhiên làm phận sự, nhẫn nại và tận tâm đến cực điểm, nhiều lần hy sinh cả những buổi cơm trưa hay cơm chiều.
Đồng được Bác sĩ chích cho các thứ thuốc mới hiệu nghiệm nhứt, và các thuốc bổ huyết bổ tim, được ăn uống các món bổ dưỡng, được đầy đủ các vật cần dùng, nhưng Đồng không ngờ tất cả những món đắt tiền ấy là của Bác sĩ lấy tiền riêng mua sắm cho chàng!

Trong thời gian hai tháng Bác sĩ chữa bịnh cho Đồng, ông vẫn theo thường lệ mỗi tuần lễ một lần về làng thăm cô Thanh, có khi Thanh hoặc bé Bình Minh đau nặng, ông đến hai ba ngày đêm liên tiếp để săn sóc thuốc men rất là tận tụy, không hề mỏi mệt. Từ ngày Bác sĩ Long khám phá được di hài của ông Bảy,và Thanh chánh thức phục tang cho Ba cô, cô buồn rầu đau đớn không xiết, Bác sĩ Long đã đem đến cho cô những an ủi dịu dàng, khiến cho cô vô cùng cảm động. Lần nào Bác sĩ về thăm Thanh, ông cũng có đem theo thuốc chích và thuốc uống bổ tim, bổ huyết vì ông thấy cô bị bịnh thiếu máu. Nhưng không lần nào ông cho Thanh biết vụ Đồng đang nằm dưỡng bịnh tại Nhà thương tỉnh. Ông muốn giấu kín việc đó, vì những lý do riêng mà chỉ mình ông hiểu thôi.
Một buổi chiều gần tối, Đồng lại sốt lên 39 độ rưỡi, ông xem mạch, chích thuốc, căn dặn thầy Lễ phải coi chừng, xong ông về ăn corm. Về đến nhà vừa 8 giờ, thì thằng Cùi hớt hơ hớt hãi ở đâu chạy vô. Ông ngạc nhiên:
- Cùi! Em đến có chuyện chi gấp vậy? Sao coi bộ em sợ hãi dữ vậy?
- Thưa Bác sĩ, cô Hai bị bịnh tả chắc chết quá!
Nói xong, nó khóc. Bác sĩ không kịp ăn cơm, lật đật bỏ một mớ thuốc vào va-li lên xe với thằng Cùi. Xe chạy vùn vụt, mười lăm phút sau về đến làng. Năm sáu người trong xóm, đàn ông, đàn bà đang xúm xít lăng xăng chung quanh cô Thanh với vẻ mặt đầy lo sợ. Cô nằm trên giường, không quẫy cựa, tay chưn lạnh ngắt, mắt nhắm, mặt nhợt nhạt. Thấy Bác sĩ vô, mọi người lễ phép chào, đứng né một bên. Thanh không hay biết chi cả. Mấy Bà hàng xóm, người thì đang xoa dầu nhị thiên đường vào chưn vào bụng cô, người thì giã gừng bóp cho cô. Họ để dưới giường một mẽ lửa than đỏ. Họ cho Bác sĩ biết là từ hồi 7 giờ đến giờ cô Thanh đã đi cầu bốn lần và mửa hai lần. Lần sau cùng, cô đi cầu sau bếp, bị té xuống ngạch cửa, thằng Cùi la lên kêu cứu hàng xóm, nhờ có hai người đàn bà chạy đến kịp ôm cô lên giường. Cô lạnh ngắt, hai mắt trợn ngược lên, răng nghiến lại, miệng không hả được. Họ tưởng thế nào cô cũng chết rồi... Từ nãy giờ họ thay phiên nhau xoa dầu và bóp gừng cho cô. Họ đổ cả nước gừng vào miệng cô nữa, trong khi thằng Cùi chạy lên tỉnh mời Bác sĩ đến. Bác sĩ vội vàng rót ra chén nửa ve thuốc Elixir anticholérique, cạy miệng trút vô cho cô uống. Ông chích thêm một mũi thuốc hồi tĩnh. Ông kêu mượn thêm mền để đắp cho cô và lấy đôi vớ mang vào chưn cô.
Nửa giờ sau, Thanh hơi ấm người trở Iại, và đã quẫy cựa được. Thấy Bác sĩ đã đến và cô Thanh đã tĩnh, các người hàng xóm yên tâm hết sợ. Ai nấy đều lộ vẻ vui mừng. Họ lần lượt chào Bác sĩ ra về. Bác sĩ cám ơn tất cả mọi người đã săn sóc cô Thanh với những phương pháp cấp tốc, nhờ đó cô khỏi chết. Bác sĩ không quên đưa biếu cho mấy người ba chai thuốc trị tã để dự trữ trong nhà, dặn khi nào trong xóm có ai mắc chứng bịnh nguy hiểm này, phải cho họ uống lập tức một hai muỗng cà-phê thì cầm được ngay, trong khi đi báo cho Bác sĩ biết.
Bác sĩ Long kéo ghế ngồi cạnh giường Thanh, xem mạch cho cô. Mạch đã chạy đều. Thanh mở mắt trông thấy Bác sĩ Long, ráng hỏi với giọng còn yếu ớt, mệt-nhọc:
- Bác sĩ đến hồi nào vậy?
Ông mỉm cười nói bông lơn:
- Tôi đến lúc Thanh đang du lịch bên kia thế giới!
Thanh cũng nhoẻn miệng cười, gắng gượng:
- Em tưởng em chết rồi chớ!
- Thanh thấy ấm đều trong mình chưa?
- Dạ, ấm rồi.
- Cần để lửa dưới giường nữa không?
- Dạ, nóng lưng quá.
Bác sĩ kêu thằng Cùi đem lửa ra.
- Sáng mai Thanh ăn cháo trắng với muối, đừng ăn cơm vội nhé.
- Dạ.
Bác sĩ chỉ rõ cho Thanh cách dùng mấy thứ thuốc mà Bác sĩ đã lấy để ra trên bàn con cạnh đầu giường. Thanh dịu dàng nói.
- Cảm ơn Bác sĩ đã cứu em sống lại.
Lần đầu tiên tối nay, Bác sĩ nghe Thanh xưng ‘‘em’’ với Bác sĩ. Nhưng Bác sĩ điềm nhiên:
- Phật trời lúc nào cũng phù hộ cho Thanh. Tôi chỉ gíup đỡ Thanh một phần nào thôi.
Thấy Thanh ngó Bác sĩ với đôi mắt biết ơn, đầy vẻ âu yếm, Bác sĩ băn khoăn, cố làm như không để ý. Ông vội vàng đứng dậy, nhìn bé Bình Minh nằm ngủ ngon lành trên chiếc giường con bên cạnh, không hay biết chi hết. Bác sĩ nói đùa:
- Kìa xem, bé đang mê mải nghe chuyện mấy nàng Tiên trong giấc mơ kìa!
Bác sĩ sửa soạn cất ống chích trong va-li, dặn dò Thanh các điều cần thiết để giữ gìn sức khỏe, và bảo:
- Sáng mai sớm, tôi sẽ đến thăm Thanh, và chích thuốc thêm.
Thanh dịu dàng hỏi:
- Bác sĩ về sao?
- Vâng. Tôi có một người bịnh nóng 39 độ rưỡi, đang nằm vùi trên giường bịnh ở nhà thương. Tôi phải về gấp. Chào Thanh nhé. Chúc Thanh ngủ ngon.
- Dạ, Em cám ơn Bác sĩ nhiều lắm.
Ra cửa, Bác sĩ quây lại thấy Thanh đang âu yếm nhìn theo ông. Bác sĩ về tỉnh, lái xe thẳng đến bịnh viện trước khi về nhà. Ông đổ xe ngay trước phòng C, vào coi bịnh tình của tù binh Lê Quang Đồng. Thầy Lễ báo cáo ;
- Nhờ Bác sĩ tiêm cho mũi thuốc lúc 7 giờ, bịnh nhơn đã khỏe. Cơn sốt đã hạ xuống nhiều.
- Thầy đã cho anh ấy ăn gì chưa?
- Thưa Bác sĩ, tôi chưa dám cho ăn.
- Thày bảo nấu cho anh một tô cháo đánh vô hai hột gà, bỏ chút ít hành.
- Dạ.
Bác sĩ coi mạch lại cho bịnh nhơn, nghe phổi, sờ trán, tay, chưn, và hỏi:
- Anh đã thấy khỏe chưa?
- Dạ thưa Bác sĩ, tôi đã khỏe nhiều.
- Chốc nữa anh ăn một tô cháo nóng, rồi đắp mền ngủ yên.
- Cảm ơn Bác sĩ.
Một đêm sau, vào khoảng 9 giờ, Bác sĩ đến nhà cô Thanh. Từ ngoài sân đi vô, ông nghe trong nhà im lìm. Bác sĩ đoán là Thanh ngủ, nên ông bước thật nhẹ. Chiếc chiếu bỏ trống ngoài hè tỏ rằng thằng Cùi đi chơi khuya chưa về. Bác sĩ khẽ đẩy cửa bước vô nhà. Dưới ngọn đèn dầu vặn nhỏ màu xanh leo lét, Thanh nằm, ngủ mê say. Bình Minh cũng ngủ say trên chiếc giường con bên cạnh. Bác sĩ Long bước rất nhẹ đến gần Thanh. Thanh nằm ngửa trên giường, một quyển sách còn cầm trong tay, nhưng đôi mắt nhắm riết dưới cặp lông mi đen nhánh trong khuôn mặt trái xoan hồng hào xinh đẹp vô cùng! Thân hình nỡ nang, diễm kiều như một nàng Ngọc nữ…
Thanh mặc áo bà ba trắng, quần đen, để lộ hai bàn tay và hai ống chưn nỏn nà mơn mởn. Hơi thở đều đều, ngực cô hồi hộp êm ái. Dưới ánh sáng lờ mờ trong căn phòng vắng vẻ, Thanh đang say đắm trong giấc mơ tiên. Bác sĩ Long đứng ngắm một lúc hình dung tuyệt đẹp tuyệt diệu ấy. Tâm hồn ông rạo rực, lòng ông rung động đê mê. Dưới mắt ông, thân hình tha thướt diễm lệ kia như một kho vàng thẩm mỹ, trong một động Đào nguyên mà ông chỉ khẽ đưa tay ra là ôm lấy được. Sóng lòng ông nỗi dậy rào rạt, xao xuyến, ông lầm bẩm trong miệng: ‘‘Thanh diễm kiều yêu quý!...’’ Nhưng ông buồn bã cúi mặt xuống đất, không dám nhìn cô nữa. Không! Ông không thể xúc phạm đến sắc đẹp tinh khiết như một vị nữ thần mà ông chỉ được thờ trong giấc mộng mà thôi!
Không làm một tiếng động, Bác sĩ Long nhẹ nhàng mở va-li lấy năm chai thuốc bổ Hépathémol Deschiens, để trên bàn, rồi cũng nhẹ nhàng ngồi ghế, lấy giấy viết mấy chữ:
‘‘Sớm mai ngủ dậy, mỗi ngày, Thanh uống hai muỗng Hépathémol trước khi ăn cháo. Chiều uống 2 muỗng trước khi ăn cơm. Chúc Thanh khỏe mạnh.
Bác sĩ Long, 21 giờ’’.
Bác sĩ lấy chai thuốc để nhẹ lên miếng giấy. Sợ Thanh bị gió vì mới ốm dậy, ông khẽ lấy chiếc mền ở trên giường, trải đắp nhè nhẹ cho Thanh kín từ trên ngực xuống đến hai bàn chưn.
Xong ông ra về, sau khi quây lại khép kín cửa, nhẹ nhàng, không một tiếng động...
Chương Kết
Toàn thể nhân viên trong bịnh viện đều buồn rầu khi nghe chắc chắn Bác sĩ Long đã xin đổi đi ra một tỉnh miền Trung. Không biết làm sao người ta hay rõ tin nầy, chớ Bác sĩ đã giấu kín ý định đó, không nói với ai.
Dư luận bàn tán xôn xao: ‘‘Tại sao Bác sĩ xin đổi đi nơi khác? Bác Sĩ Long ở đây đã trên bốn năm, được toàn thể đồng bào yêu chuộng. Cả người Pháp thường dân hay binh sĩ, cả người Tàu, người Việt, từ các nhà quyền thế đến dân nghèo, không có một người nào không ái mộ Bác sĩ Long. Bỗng dưng từ hai tháng nay, Bác sĩ có ý định đổi đi tĩnh khác. Lý do sự yêu cầu thuyên chuyển ấy, thật không ai đoán ra được. Người đau đớn và thương tiếc nhứt khi nghe tin Bác sĩ Long xin đổi đi, chính là anh tù binh Lê Quang Đồng.
Nhiều người bạn thân của Bác sĩ hỏi ông ông chỉ đáp với một giọng bí mật:
- Vì lý do sức khỏe.
Nhưng nói về sức khỏe thì tuy Bác sĩ làm việc nhiều hơn ai hết mà ông lại khỏe hơn ai hết! Có một điều chắc chắn mà ai cũng nhận thấy là từ hai tháng nay. Bác sĩ Long hay buồn, thường nghĩ ngợi luôn.
Tại sao ông buồn? Tại sao ông hay nghĩ ngợi? Chỉ có Bác sĩ hiểu thôi.
Thật ra, từ hai tháng nay Bác sĩ đã gởi đơn xin thuyên chuyển hoặc ra Trung hoặc lên miền Cao Nguyên. Đơn của Bác sĩ không đuợc chấp nhận, Bác sĩ phải lên Saigon nói chuyện ngay với Bộ Y Tế, yêu cầu Bộ cho Bác sĩ được thỏa mãn thỉnh nguyện ấy, ‘‘vì lý do sức khỏe’’. Sau nhiều lần vận động, Bác sĩ đã được mãn nguyện.
Được tin Bác sĩ Long sắp đổi đi, nhiều người bịnh nhơn khỏe. Họ chưa từng gặp một Bác sĩ nào đối đãi với họ quá tận tậm và quá tốt như vậy.
Mấy bữa chót trước khi từ giã, Bác sĩ còn đi khám bịnh, tất cả các bịnh nhơn đều năn nỉ kêu xin Bác sĩ ở lại. Chính anh tù nhơn Lê Quang Đồng là người đầu tiên đứng ra làm một tờ thỉnh cầu, có tất cả 225 chữ ký của toàn thể nhân viên nhà thương, từ thầy Lễ đến một chị phu dọn dẹp các phòng bịnh, và toàn thể các bịnh nhơn các phòng.
Tờ thỉnh cầu ấy gởi bốn bản, cho Bác sĩ Long, Ông Tỉnh trưởng, Ông Giám Đốc Y Tế, Ông Bộ Trưởng Y Tế, chỉ yêu cầu Bác sĩ Long ở lại với sự cảm phục sâu xa và lòng quý mến vô cùng của toàn thể dân trong tỉnh.
Bác sĩ Long rất cảm động. Ông rưng rưng nước mắt đọc bản thỉnh cầu. Nhưng ông cho tất cả anh chị em hay rằng giấy tờ đã làm xong, ngày 1 tháng 8 ông sẽ từ giã bịnh viện.
Còn ba ngày nữa đến ngày 1 tháng 8. Toàn thể nhân viên và bịnh nhơn đã góp tiền, sắp đặt một tiệc trà tiễn hành Bác sĩ trong sân bịnh viện. Người bịnh nhẹ, kẻ bịnh nặng, bữa ấy đều có mặt đông đủ. Đàn bà con nít, người què, người gãy tay, nhiều sản phụ vừa mới sanh được bốn năm ngày, các cô nữ y tá, các thầy, các người phu quét sân, các chị dọn phòng, và một số rất đông gia quyến của họ và của các bịnh nhơn, có đến 500 người. 20 bàn dài kê song song trên sân bịnh viện, đều đầy nghẹt người ta.
Bữa nay là tiệc tiễn hành thân ái, đáng lẽ ra ai cũng vui vẻ, nhưng ai nấy cũng buồn rầu, không có một nụ cười. Người ta hồi hộp xàm xì với nhau những lời ái mộ Bác sĩ, thương tiếc Bác sĩ. Nhiều người đàn bà, nhứt là bịnh nhơn nghèo, thương mến Bác sĩ quá, không biết nói sao, chỉ ngồi khóc. Nhiều người khác nghĩ đến Bác sĩ tự nhiên mũi lòng cũng rưng rưng hai hàng lệ.
Bác sĩ Long trong văn phòng bước ra, với vị Bác sĩ mới mà Bác sĩ Long muốn sẵn dịp giới thiệu cùng nhân viên và bịnh nhơn. Một tràn sấm vỗ tay nỗi dậy vang rền dưới ánh nắng dịu của chiều tà. Cô nữ y tá Hồng Lan, và một ông cụ già bị bịnh hen gần khỏi, đã được toàn thể cử làm đại diện cho nhân viên và bịnh nhơn Iên tặng Bác sĩ Long hai bó hoa tươi thật đẹp mua tận Saigon đem về. Đứng trước Bác sĩ Long, cô Hồng Lan và ông cụ già định đọc hai bài diễn văn, nhưng tự nhiên nghẹn lời, rồi cả hai người bỗng dưng khóc nức nở. Toàn thể đều xúc động, dần dần ai cũng khóc hết, Một nhơn viên đứng dậy ấp úng mấy lời: ‘‘Kính thưa Bác sĩ...’’ Rồi anh cũng òa ra khóc, nói không được nữa.
Bữa tiệc trà khai diễn bằng một bữa tiệc nước mắt, não nuột lâm-ly!
Không đợi Bác sĩ Long giới thiệu, Bác sĩ Hoàn liền cất tiếng nói:
- Thưa toàn thể các bạn, không khí cảm động hi hữu này chứng tỏ rằng bạn đồng nghiệp rất đáng kính, đáng quý của tôi đã chiếm được lòng cảm phục mến yêu của toàn thể nhân viên và bịnh nhơn ở đây. Bác sĩ Long cũng như các bạn, xúc động quá không nói được. Nhưng sự im lặng ấy đã nói nhiều hơn tất cả những lời thành thật mà các bạn muốn khen tặng Bác sĩ, và những lời của Bác sĩ thành thật cám ơn. Được hân hạnh đặc biệt thay thế ông bạn đồng nghiệp rất xứng đáng và rất quý trọng của tôi, tôi xin hứa sẽ noi gương Bác sĩ Long để nâng cao vinh dự của giới y sĩ Việt Nam,và sẽ đem tất cả lòng tận tụy của tôi để phụng sự các bịnh nhơn với sự cộng tác quý báu của toàn thể nhơn viên. Tôi xin mời tất cả anh chị em nâng chén trà chúc mừng Bác sĩ Long yêu dấu của chúng ta hết thảy!
Một tràng pháo tay chấm dứt mấy lời ứng khẩu xúc động của Bác sĩ Hoàn. Mọi người đều nâng chén trà lên và trước khi uống, không ai bảo ai tự nhiên nổi dậy liên tiếp hai ba lần lời ca tụng: ‘‘Hoan hô Bác sĩ Long! Hoan hô Bác sĩ Long! Hoan hô Bác sĩ Long!’’
Bác sĩ Long cất tiếng:
- Hoan hô Bác sĩ Hoàn!
Toàn thể lại hộ tiếp: ‘‘Hoan hô Bác sĩ Hoàn! Hoan hô Bác sĩ Hoàn!
Không khí bình thường lần lần trở lại. Mọi người ăn bánh uống trà đứng xúm xít chung quanh Bác sĩ Long, chuyện trò thân mật cho đến 8 giờ rưởi tối.
12 giờ trưa ngày 1 tháng 8, trong văn phòng bịnh viện, tù binh Lê Quang Đồng ngồi đối diện Bác sĩ Long. Chỉ có hai người.
Bác sĩ Long nói:
- Hôm nay, anh đã lành mạnh hẳn rồi. Anh không cần ở bịnh viện lâu ngày nữa. Tôi chỉ khuyên anh sau khi ở nhà thương ra, nên nhớ mấy điền nầy: Đừng đi bộ nhiều, đừng dùng tay phải để làm việc nặng, và đừng làm gì quá sức. Anh đã khỏi hẳn, nhưng anh cần yên tĩnh nghỉ ngơi trong thời gian một năm.
Lê Quang Đồng lễ phép đáp:
- Thưa Bác sĩ, nội trong số hai trăm bịnh nhơn hiện giờ, tôi là người mang ơn Bác sĩ nhiều hơn ai hết. Cái ơn lớn nhứt, mà Bác sĩ đã ban cho tôi, là Bác sĩ đã khoan hồng tha thứ cho tôi. Vì hôm tôi mới bị bắt làm tù binh đem vô đây, tôi đã có thái độ rất là vô lễ đối với Bác sĩ. Bác sĩ đã biết rằng vì tôi bị trúng mấy viên đạn làm cho tôi quá đau đến nỗi thành điên khùng, do đó tôi đã nói những lời… thật là … thô lỗ... dại dột... và đã có cử chỉ rất khiếm nhã đối với Bác sĩ. Hơn nữa, tại vì tôi đã hiểu lầm Bác sĩ. Vậy mà Bác sĩ đã khoan hồng tha thứ cho tôi, lại còn tận tụy săn sóc cho tôi nữa. Nay tôi xin Bác sĩ nhận cho những lời xin lỗi rất cảm động của tôi và lòng tri ân bất diệt của tôi đối với Bác sĩ. Vả lại Bác sĩ đã cứu sống tôi. Đó là cái ơn tái tạo, tôi không biết cách nào đền đáp được.
- Sau khi ra khỏi nhà thương, anh sẽ làm gì?
Tù binh Lê Quang Đồng lắc đầu thất vọng:
- Thưa Bác sĩ, tôi sợ không được trả lại tự do, vì tôi là tù binh!
- Đành vậy. Nhưng thí dụ anh được trả lại tự do thì sao?

- Thưa Bác sĩ, tôi không tin rằng tôi sẽ được hưởng tự do, nhưng cái mộng của tôi bây giờ là được về nhà, cưới vợ, rồi cùng với vợ tôi, xây dựng một cuộc đời theo lý tưởng chung mà chúng tôi đã thề cùng nhau phụng sự chọ đến cùng.
- Anh đã có vị hôn thê rồi à?
- Thưa Bác sĩ, vâng.
Bác sĩ Long tủm tỉm cười:
- Ai đó, tôi có thể biết được chăng?
- Thưa Bác-sĩ, cô ấy trước kia là bạn học cùng trường tỉnh với tôi, một nữ sinh mà có lẽ Bác sĩ cũng biết tên...
- Vậy hả? Ai đó, anh?
- Thưa Bác sĩ, chắc Bác sĩ còn nhớ trước đây bốn năm, trong một cuộc phát phần thưởng cuối năm, Bác sĩ đã tặng một quà thưởng đặc biệt, rất quý báu, cho người học trò nào tánh hạnh tốt nhứt và học giỏi nhứt trong trường. Người học trò ấy tên là Nguyễn Thị Thanh...
Bác sĩ Long gật đầu, mỉm cười:
- Phải, tôi còn nhớ.
- Dạ thưa Bác sĩ, một tháng sau về làng nghỉ hè, tôi tỏ rõ nỗi lòng tôi cho Thanh biết, Thanh bằng lòng và lần đầu tiên chúng tôi đã cùng nhau trao đổi lời thề nguyền son sắt. Nhưng nay bốn năm tôi không gặp Thanh vì nửa tháng sau đó tôi trốn vô Bưng.
- Lý tưởng tranh đấu của anh như thế nào?
- Thưa Bác sĩ. Lý tưởng của tôi là phụng sự một nước Việt Nam độc Iập, tự do,và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng, xóa bỏ những vết tích nô lệ của thực dân, phong kiến. Gạt bỏ tất cả các hình thức độc tài đảng trị. Xây dựng một tổ quốc Việt Nam hùng cường mà tất cả con dân đều được hưởng tự do dân chủ, an ninh, công lý. Tôi sẽ tìm những người nào cùng chí hướng đó, cộng tác với họ, để tranh đấu cho đến bao giờ thực hiện được lý tưởng.
Bác sĩ Long mỉm cười:
- Với cô Nguyễn thị Thanh, anh sẽ được một bạn đồng chí quý báu nhứt.
- Dạ, tôi mong như thế. Nhưng, thưa Bác sĩ, đó chỉ là một viễn vọng còn mờ mịt lắm.
- Tại sao ?
- Vì chắc chắn tôi sẽ không được tự do. Sau khi ra khỏi bịnh viện, chắc người Pháp sẽ đem giam tôi trong một trại an trí xa xôi. Khi nào hết chiến tranh, họa may tôi mới gặp lại Thanh, nếu... tôi không chết trong cảnh lao tù!
- Người Pháp sẽ không đưa anh đến nghỉ mát nơi một trại an trí nào đâu. Người ta đã dự định đưa anh với một đoàn tù binh khác ra miền Bắc để xây dựng pháo đài. Mặc dầu người ta biết anh là một chiến sĩ quốc gia thuần túy, nhưng anh cũng bị coi là một tên phiến loạn. Họ đã cho tôi biết như thế.
- Thật vậy sao, thưa Bác sĩ? Nhà binh Pháp sẽ đày tôi ra các trại khổ sai ở miền Bắc sao?
Lê Quang Đồng, buồn rầu nhìn Bác sĩ:
- Vậy thôi, Bác sĩ cứu sống tôi làm gì?..
Bác-sĩ cười:
- Nhưng anh sẽ không đi. Tôi đã vận động hai tháng nay bên cạnh các giới chỉ huy Việt và Pháp để xin họ tha anh ra.
Lê Quang Đồng ngạc nhiên trố mắt ngó Bác sĩ Long. Bác sĩ nói tiếp:
- Và họ đã làm giấy tha anh …Hai giờ chiều nay họ sẽ đem xe chở anh về Đệ nhị phòng của Quân đội Pháp để anh ký giấy được tha.
- Thiệt sao, Bác sĩ? Nếu vậy thì thật là một tin mừng đột ngột cho tôi quá! Thiệt tôi được trả lại tự do sao?
- Vâng. Bây giờ anh về phòng bịnh của anh nghỉ ngơi cho khỏe. Hai giờ xe nhà binh sẽ đến đưa anh về trại lính Pháp. Năm giờ chiều nay tôi sẽ qua Đệ nhị phòng để đón anh ra.
Tù binh Lê Quang Đồng đứng dậy. Quá vui mừng cảm động, anh chỉ nói ấp úng được mấy lời:
- Thưa Bác sĩ …Thưa Bác sĩ, tôi hết lòng cảm ơn …Bác sĩ... Tôi nhớ ơn Bác sĩ …cả một đời tôi ….
Mặt trời đã gần lặn. Thằng Cùi dắt em bé Bình Minh đi chơi chưa về. Thanh, một mình ngồi ngạch cửa, ngó ra đồng ruộng mênh mông, trời mây bát ngát…
Thanh buồn rũ rượi.
Đã hơn một năm nay, Thanh không còn liên lạc với Đồng được nữa. Không hiểu tại sao? Hay là người liên lạc đã bị bắt? Hay là Đồng đã chết thiệt, như có người nói mà Thanh không tin? Hay Đồng bị di chuyển đến một nơi nào hẻo lánh xa xôi? Không có tin tức xác thực của Đồng, Thanh buồn rầu đau khổ. Thanh cảm thấy giấc mộng xinh đẹp đầu tiên của nàng giống như một ngôi đền hoang vắng, trơ vơ, trong mưa gió phủ phàng, gần như sụp đổ!
Bốn năm! Thanh đã giữ một tấm lòng bền chặt, một ý chí trung kiên đối với người yêu xa vắng. Bốn năm! Dù Thanh trải qua bao nhiêu bão táp phong ba, hình ảnh của Đồng vẫn chưa bao giờ mờ phai trong gió bụi! Nhưng buồn thay cho duyên phận! Thanh năm nay đã 23 tuổi, côi mẹ côi cha, một mình ở túp nhà lá, mái dột vách xiêu, chờ đợi một tiếng vang, một chiếc bóng, một hoài niệm ảo huyền!
Thanh nghĩ đến Bác sĩ Long, một người gần như một vị thiên thần đã hiện ra rự rỡ giữa khoảng đời đen tối đau khổ nhứt của Thanh! Tính nết, ngôn ngữ, cử chỉ, tư cách của Bác sĩ Long, lý tưởng nhân đạo của Bác sĩ Long, Thanh không cần khen ngợi nữa. Bác sĩ Long là một người vượt trên cao tất cả những lời khen tặng.
Trước một người đàn ông như thế, Thanh đã gần như sa ngả …Bác sĩ Long đã tỏ tình yêu chân thật với Thanh, tình yêu thiết tha cảm động, tình yêu mà Bác sĩ đã có lần thú thật với Thanh là ‘‘Tình yêu vĩ đại duy nhứt của tôi’’. Nhưng Thanh đã khéo léo từ chối, chỉ vì Thanh muốn cương quyết giữ một lòng trung thành với mối tình đầu tiên, cũng là mối tình duy nhứt của Thanh từ khi Thanh đã gắn bó với Đồng.! Đã có lần Thanh thương mến Bác sĩ quá, thấy Bác sĩ đau khổ vì thất vọng, Thanh thấy lòng Thanh nao nao xao xuyến, hồi hộp rung động, Thanh tự cảm thấy gần như mình quá tàn nhẫn, và Thanh đã lấy lời an ủi ông.
Nhưng lạ thay! Thanh thương Bác sĩ xiết bao mà vẫn đau đớn lo ngại rằng Đồng sẽ không trở về! Một năm qua, Thanh đã cho thằng Cùi đi kiếm liên lạc, cố làm sao hỏi dò cho được tin tức xác thực của Đồng. Miễn là Đồng còn sống! Thanh lo buồn vì cách đây năm tháng, một anh tự xưng là ở trong bưng về, có cho Thanh biết chắc rằng Đồng đã bị chết trong một đêm chỉ huy một đại đội tấn công một đồn Pháp. Thanh chưa tin. Hôm nay Thanh nhứt định đi tìm Đồng. Thanh dự bị vô chiến khu Tây Ninh, nơi căn cứ của Bộ đội Trịnh Minh Thế để kiếm xem Đồng ở đâu, Đồng thật chết chưa, và nếu Thanh gặp Đồng còn sống thì chắc chắn Thanh sẽ ở luôn với Đồng trong Bưng. Thanh đã quyết định như thế.
Bỗng dưng Thanh thấy từ xa chiếc xe Traction màu đen của Bác sĩ Long nhẹ nhàng tiến tới…
Tanh vui mừng, hồi hộp … Cũng như mọi lần, thấy xe Bác sĩ Long tới, Thanh vui mừng hồi hộp...
Thanh vội vàng đứng dậy, dựa phên cửa, chờ Bác sĩ đến.
Xe đổ trước ngõ.
Nhưng... Thanh vô cùng ngạc nhiên! Thanh đăm đăm ngó một người thanh niên mà Thanh chưa thấy rõ mặt là ai, mặc áo quần bà ba đen, tay chống một chiếc gậy tre thủng thỉnh từ trên xe bước xuống.
Thanh nghe thoảng tiếng người thanh niên lễ phép nói:
- Xin cám ơn Bác sĩ... Mời Bác sĩ vô nhà...
Tiếng Bác sĩ đáp:
- Cảm ơn anh và nhờ anh cho tôi gởi lời từ biệt cô Thanh luôn thể. Tôi đi ra miền Trung bây giờ đây, không về tỉnh nữa. Chào anh.
Chiếc xe Traction của Bác sĩ Long chạy nhẹ nhàng... lặng lẽ... dưới ánh hoàng hôn dìu dịu tắt trên đồng ruộng bao la...
Như một giấc mơ buồn!
Thanh yên lặng nhìn theo chiếc xe chạy... xa xa... xa tít... chỉ còn một chấm đen biến trong sương chiều.
Khi Thanh sực tĩnh, ngó ra cổng thấy người thanh niên cũng đang đứng nhìn theo chiếc xe của Bác sĩ Long chạy thẳng ra miền Trung …
Người thanh niên mặc đồ bà ba đen, tay chống chiếc gậy tre, đi khập khểnh vô sân... Thanh bỗng cười rú lên một tiếng:
- Anh Đồng! Anh Đồng! …
Thanh chạy vụt ra sân chụp ôm lấy Đồng, khóc nức-nở … Cả hai người đều khóc nức nở.
Nguyễn Vỹ
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...