Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2025

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…!

Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “kẻ lều, người chõng nghênh ngang”lên kinh ứng thí.
Về dưới hoàng hôn đã khá lâu (15 năm) - bất giác nhìn lại - có thể nói đời dạy học, tham gia công tác quản lý trường phổ thông nhiều năm qua gần như không mùa hè nào tôi được thoải mái ngắm hoa phượng cháy lửa trên cành.
Thành lệ cứ đến hẹn lại lên, vừa bế giảng năm học là tôi nhận luôn quyết định của Sở GD&ĐTTP. HCM điều động làm nhiệm vụ coi thi (Chủ tịch HĐ coi).
Công việc tổ chức điều hành kỳ thi mang tính chất quốc gia thu hút sự chú ý của toàn xã hội, trách nhiệm khá nặng, áp lực căng thẳng. Dù đã bao phen trận mạc nhưng quả thật không bao giờ tôi dám chủ quan khinh xuất.
“Cẩn tắc vô ưu” - các cụ nói chí phải, tôi rà lại các văn bản hướng dẫn quy chế thi cử,hoạch định công việc cụ thể, rút kinh nghiệm những sai sót của giám thị nhiều năm qua, phán đoán những tình huống có thể gặp và dự phòng biện pháp xử lý tình huống. Cẩn thận hơn nữa, trước ngày họp hội đồng coi thi,tôi đích thân xuống điểm thi - “vi hành” thám sát sơ lược vị trí - tường bao quanh - lối ra vào lưu ý bảo vệ phòng bất trắc.
Cuộc thi diễn ra dạo ấy trong tích tắc (ba ngày, sáu môn, sáu buổi*), tôi hình dung giống như phóng phi thuyền lên quỹ đạo, chỉ một bất cẩn là con tàu bay luôn vào không gian! Xong một buổi, qua một ngày, hoàn tất đợt thi suôn sẻ là xoa tay thở phào nhẹ nhõm!
Công tác thi cử lưu động điểm thi hằng năm đã có dịp cho tôi đến làm việc với nhiều cơ sở trường - lưu chữ ký trách nhiệm dưới khuôn dấu đỏ sở tại (hồ sơ biên bản, danh sách thí sinh, tờ ghi tên ghi điểm). Những cái tên trường còn tươi nguyên trong sổ tay nhật ký công tác:  Trưng Vương, Trần Đại Nghĩa (Q1), Nguyễn Thị Minh Khai, Bàn Cờ,Lê Lợi, Mari Curie (Q3), Lê Hồng Phong, Mạch Kiếm Hùng (Q5), Gia Định,Võ Thị Sáu,Hoàng Hoa Thám,Bình Quới Tây,Lam Sơn (Q.Bình Thạnh), Thủ Đức, Nguyễn Hữu Huân, Giồng Ông Tố (Q.9) Ngô Quyền (Q.Tân Bình) Bình Phú (Q6)…- Những ngôi trường gặp mặt chớp nhoáng nhưng hằn vết sâu đậm kỳ thú!
Vừa xong nhiệm vụ coi thi, tôi lại nhận tiếp quyết định tham gia Hội đồng chấm thi (Phó chủ tịch chấm Văn) - thường đặt tại trường Marie Curie. Chưa kịp thở, tôi bắt tay ngay vào công việc - dự họp HĐ chấm nghe phổ biến quyết định điều động,triển khai công tác - nhận danh sách giám khảo do các trường gửi lên - phân chia tổ chấm - họp điểm danh “quân số” - cử tổ trưởng - thông qua nội quy - thảo luận đáp án - chấm thử 10 bài - đối chiếu đáp án trao đổi thang điểm. Bộ phận thư ký ghi chép biên bản, thống kê tiến độ chấm,báo cáo tỉ lệ tổng kết.
Thi cử hôm nay có nhiều thay đổi cả nước trên 1 triệu thí sinh. Riêng TP HCM có 171 điểm thi tổng cộng 4.242 phòng thi. Trong đó, 168 điểm thi với 4.180 phòng thi dành cho thí sinh theo chương trình giáo dục phổ thông 2018, và 3 điểm thi với 62 phòng thi cho thí sinh theo chương trình giáo dục phổ thông 2006. Mỗi điểm thi đều được bố trí 3 phòng dự phòng để xử lý các tình huống phát sinh.Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2025 diễn ra từ ngày 25 đến 28-6. Tại TP.HCM, kỳ thi có quy mô lớn với 99.578 thí sinh đăng ký dự thi, tăng 8.891 thí sinh so với năm trước (2024). 
Sở Giáo dục và Đào tạo TP.HCM cho biết tất cả 171 điểm thi tốt nghiệp THPT sẽ được lắp đặt camera giám sát tại phòng bảo quản đề thi, bài thi. Việc lắp đặt sẽ được thực hiện đồng loạt vào ngày 19-6.
Camera giám sát phòng bảo quản đề thi và bài thi sẽ bảo đảm bao quát được toàn bộ các vật dụng chứa đề thi, bài thi trong phòng và các hành vi tác động đến vật dụng đó; lưu trữ được toàn bộ dữ liệu của quá trình bảo quản đề thi và bài thi tại điểm thi; hoạt động liên tục kể cả khi mất điện lưới.
Mùa thi, mùa nhớ lan man - cuộc sống không ngừng ào ạt tràn lên, hất ngược tôi về phía sau - xa cách 15 năm không còn dính líu đến ngành giáo dục mà sao công việc coi thi, chấm thi vẫn cứ lao xao trong ký ức.
Sài Gòn, 22/6/2025
Phan Văn Thạnh
Theo https://vietvanmoi.fr/

Lại nói về sách - Tin hay ngờ

Lại nói về sách - Tin hay ngờ?

1- “Sách là nguồn kiến thức của con người, do đó cũng là sức mạnh của con người. Vì vậy, sách và kiến thức có mối quan hệ rất mật thiết với nhau. Trong cuộc đời, người nào đọc nhiều, hiểu rộng có thể làm được nhiều hơn với người lạc hậu, ít văn hóa” - (M.I Xa-cốp-xki).  
Giá trị của sách là thế nhưng dường như ít ai được biết công khó nhọc của người làm sách.
Suốt từ trước 75 đến nay, thường dùng làm tài liệu tham khảo bộ 4 quyển Nhà Văn Hiện Đại (1) của Vũ Ngọc Phan nhưng mãi đến sau 75, đọc hồi ký “Những năm tháng ấy” (2) của chính tác giả, tôi mới biết tác phẩm được viết từ tháng 12-1938 đến cuối năm 1940 hoàn thành trong thời gian ba năm (1940-1942) tất cả 1650 trang trên giấy học trò. Tư liệu dùng vào bộ sách lấy ở 50 sổ tay do ông ghi chép về văn học Việt Nam, văn học nước ngoài, lịch sử Việt Nam, lịch sử mấy nước (Pháp, Đức, Ý, Anh và Trung quốc, Nhật Bản).Giấy nháp thảo bút là đơn xin học và đơn xin nghỉ học của học sinh trường Thăng Long đã bỏ. Suốt đời viết văn, ông thường thu nhặt những tờ đã viết,hoặc đã đánh máy một mặt để dùng làm giấy nháp. Ông làm việc độc lực từ 6g sáng đến 1g trưa, chiều từ 2g rưỡi đến 6g; tối từ 8g đến 11g. Buổi tối thường dành để đọc các tác phẩm, tìm tư liệu và xem báo…  
Trường hợp Học giả Nguyễn Hiến Lê - thật kỳ công. Tính đến 1975,ông đã xuất bản đúng Một trăm tác phẩm (100). Từ năm 1975 cho đến khi qua đời (1984),ông còn viết hơn 20 tác phẩm khác như: Tourguéniev, Gogol, Tchékhov, Đời Nghệ sĩ, Để tôi đọc lại,Kinh Dịch đạo của người quân tử, Mặc học, Luận ngữ… Nhất là bộ sử lớn Sử Trung Quốc (1000 trang). (Theo Nguyễn Q.Thắng)
Và rồi cũng phải xem hồi ký(3)của chính tác giả,bạn đoc mới rõ: ông viết sách là để tự học -  “Khi muốn học về một vấn đề nào thì cứ viết sách về vấn đề ấy. Chúng ta ai cũng có tính làm biếng,học cái gì cũng chỉ mới biết qua loa mà đã cho là mãn nguyện,không chịu suy nghĩ kỹ, tìm tòi thêm.Nhưng khi viết sách, ta cần kiểm soát từng tài liệu, cân nhắc từng ý tưởng rồi bình luận, sau cùng sắp đặt lại những điều đã tìm kiếm, hiểu biết để phô diễn cho rõ ràng.Trong khi làm những công việc ấy, ta nhận thấy tư tưởng của ta còn mập mờ, ta phải tra cứu để hiểu thêm, đọc nhiều sách nữa, do đó sự học của ta cao thêm một bực. Càng đọc nhiều sách thì càng gặp những ý tưởng mâu thuẫn nhau, và ta phải xét xem đâu là phải, đâu là trái và ta lại đào bới cho sâu thêm; nhờ vậy ta thấu triệt được vấn đề, nhớ lâu hơn, có khi phát huy điều mới lạ…”  
Ông nhấn mạnh: “khi viết mục đích của ta là để tìm hiểu, chứ không phải để cầu danh. Cầu nó, nó sẽ trốn và sự học của ta cũng hóa ra nông nổi - Làm nhà biên khảo thì việc đầu tiên là phải kiếm tài liệu.Viết về nhiều môn cần phải đọc rất nhiều sách,báo…”. Hầu hết sách dùng để biên khảo ông phải mua ở ngoại quốc – đặt trước một số tiền dự trữ (provision) độ 200 quan mới cho nhà Rayonnement du livre francais ở Paris - nhận tập thư mục sách hàng tháng (Livres du mois) - mỗi năm nhận khoảng năm sáu chục cuốn. Riêng về sách cổ học Trung Hoa,ông yêu cầu tiệm sách Hương Cảng tìm cho những bản tốt nhất, chú giải kỹ nhất của một học giả có tiếng và do một nhà xuất bản có tiếng in ra, dùng những bản đó giá tiền đắt gấp hai,gấp ba,cũng có lợi hơn là dùng những bản tầm thường,không tin được, chỉ làm mất thì giờ của mình. Khi đã có một chủ đích, định tìm hiểu hoặc viết về một vấn đề nào ông bắt đầu gom hết các tài liệu (sách,báo) có liên quan trong nhiều năm. Viết cuốn Kinh Dịch, ông gom tài liệu từ năm 1960 đến năm 1975, khoảng 15-16 cuốn của Trung Hoa, Việt, Pháp, Anh, Đức (dịch ra tiếng Pháp). Mỗi cuốn đọc qua một lượt, xem giá trị, giúp được gì, đánh dấu những chương quan trọng, để riêng một chỗ. Năm1978-1979, khi bắt tay viết,ông đọc kĩ lại, so sánh các thuyết, các bản dịch, định hướng nghiên cứu và cách làm việc…  
Về sách từ điển, tôi còn lưu giữ hai bộ, biên soạn cách đây hơn nửa thế kỷ. Quyển sách giờ đây “già nua”, sút chỉ, long gáy, ngã màu vàng xỉn. Con chữ khô quắc khô queo nhưng “nội lực” vẫn tràn trề,thâm hậu.
-Việt-Nam Tự-Điển - Hội Khai Trí Tiến Đức (4) - tác phẩm biên soạn thật công phu,dày 663 trang, tra cứu cả chữ Nho lẫn tiếng Pháp nhằm tạo chữ để diễn tả những tư tưởng mới du nhập vào Việt Nam,nhất là những danh từ kỹ thuật, những danh từ thổ ngữ địa phương ba miền Nam, Trung, Bắc. Sang thế kỷ XXI Việt Nam Tự Điển vẫn thường được lấy làm mẫu mực chính tả và từ mục,nói lên giá trị bền vững của sách. Đây là công trình tập thể - Tiểu ban phụ trách soạn thảo gồm các tay bút cự phách đương thời: Phạm Quỳnh (chủ bút), Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Luận, Phạm Huy Lục, Dương Bá Trạc, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục, và Đỗ Thận. (nguồn Wikipedia)
-Hán Việt Tự Điển (5)-tác phẩm đồ sộ, vững chãi của Thiều Chửu (1902–1954). Ông tên thật Nguyễn Hữu Kha,quê làng Trung Tự, Đông Tác cũ,nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội - là nhà văn hóa,dịch giả và cư sĩ Việt Nam, tác giả  và nhiều bộ sách về Phật giáo nổi tiếng khác (nguồn Wikipedia).
Trong lời mở đầu,tác giả nói về quá trình biên soạn:“…ròng rã trong năm sáu năm trời, vắt hết cái óc cặn, vặn hết khúc ruột khô,mới xong bản thảo, lại in luôn trong một năm bốn tháng trời mới xong một phần Bị-yếu. Tôi (TC) tự biết trong bộ Tự-điển này còn cơ man nào là sự lầm lặt, công không bù tội, cho đến công việc in cũng nhiều bề khuyết điểm, vì rằng một cái nhà in chữ Nho không có,chữ Quốc ngữ cũng ít,máy móc đã cũ rích, thợ thuyền chưa lành nghề,chúng tôi tuy hết sức đôn đốc, mà đồ không tốt, người không tài, thì muốn cũng chẳng được. Tôi tự biết thế, không biết tính sao,chỉ còn một cách là vận hết trí hèn,gắng hết lòng mọn và mong cầu các bậc cao minh phát tâm quảng đại mà xem xét đến cho,chỗ nào lầm thì sửa lại và bố thí cho tôi biết,để đến lần sau in lại được hoàn toàn,thì tôi được nhờ phúc lành nhiều lắm lắm vậy” .  
.2- Có thể ví làm từ điển là công việc “đội đá vá trời”.Chúng ta vô cùng trân quý công khó nhọc, khâm phục sự hiểu biết,trình độ kiến thức ngôn ngữ,vốn trải nghiệm kiến văn và sự cần mẫn,cẩn trọng của người biên soạn.Họ đã miệt mài tìm tòi tra cứu,truy tận nguồn“thủy tổ”các khái niệm ngữ nghĩa của từng con chữ,biên tập hàng ngàn trang sách.  
Đặc thù của từ điển là loại sách cẩm nang tra cứu,kho cứ liệu chuẩn mực,chỗ dựa tin cậy để người dùng vận dụng chính xác từ ngữ,khái niệm,vấn đề cần tìm.Do vậy mặc nhiên phải thật chuẩn xác.Quá trình in ấn có thể sơ suất vướng lỗi morasse chính tả,nhưng nhất thiết không thể để mắc đầy rẫy những sai sót về mặt tri thức ngôn ngữ,học thuật,làm phá sản toàn bộ công trình.  
Gần đây trên các trang mạng cá nhân,nhiều bài viết“dọn vườn”sách từ điển của Gs Nguyễn Lân, đã thu hút sự chú ý của bạn đọc bốn phương (6)
Người đọc không khỏi giật mình trước những sai sót khó tin.Lấy ví dụ vài mục từ được ông An Chi nêu ra góp ý chỉnh sửa :
«Ẩn dụ (H. ẩn: kín; dụ: rõ ràng)»./Thực ra, ở đây, dụ có nghĩa là sự so sánh chứ không phải là «rõ ràng»
«Âm vị (H. âm: tiếng; vị: nói)»/Vị ở đây không phải là «nói» mà là đơn vị.
«Ấm sinh (H. ấm: con quan; sinh: học trò)»/Ấm không phải là «con quan» mà là quyền lợi con cháu được hưởng nhờ công lao của cha ông. 
«Bạch đái (H. đái: đeo lấy)»/Đái là tên một chứng bệnh phụ khoa mà Mathews’ Chinese-English Dictionary dịch là«a discharge or flux»(sự tiết ra hoặc sự băng huyết) còn Dictionnaire classique de la langue chinoise của F. S. Couvreur thì dịch là «leucorrhée» (khí hư). Vậy đái ở đây không phải là «đeo lấy».
«Cầm loan (cầm: đàn; loan: keo gắn dây đàn).Tình nghĩa keo sơn»/ Loan là chim loan chứ không phải «keo gắn dây đàn». Keo loan mới là keo gắn dây đàn».
«Chúng sinh (chúng: số đông; sinh: sống)»./ Sinh ở đây là sinh vật chứ không phải là «sống».
«Chức vị (H. vị: đơn vị)»./Chữ vị ở đây mà giảng là «đơn vị» thì người đọc đành phải... chào thua vì vị ở đây thực ra là «ngôi thứ».
«Con én đưa thoi (Cái thoi khung dệt đưa đi đưa lại như chim én bay lượn)»./Tác giả đã giảng hoàn toàn ngược với chữ nghĩa thông thường vì đây là chim én liệng đi liệng lại giống như cái thoi khung dệt đưa đi đưa lại chứ đâu phải «cái thoi khung dệt đưa đi đưa lại như chim én bay lượn.» «Cộng hòa tư sản (sản: sinh ra)»./Ở đây sản không phải là «sinh ra» mà là của cải.
«Chữ đinh (Chữ Hán có nét ngang và nét sổ dọc) (... )»./Thực ra, nét thứ hai của chữ đinh không phải là «nét sổ dọc» ( | ) mà lại là nét sổ móc.Nếu nét đang xét đúng là «nét sổ dọc» như Nguyễn Lân khẳng định thì ta sẽ có chữ T và đây là cổ văn của chữ hạ ,chứ chẳng có liên quan gì đến chữ đinh cả.
«Cua thâm càng nàng thâm môi.Chê một người phụ nữ môi không đỏ»./Cua thâm càng là cua óp,ít gạch;nàng thâm môi là nàng có dấu hiệu bệnh lý gì đó nên chàng phải cẩn thận chứ làm gì có chuyện chê nàng không đỏ môi  v.v…  
Trên FB cá nhân,ông Chu Mộng Long có ý kiến :“Tôi dám chắc không có từ điển nào một cá nhân tự hoàn thành.Các từ điển dù đứng tên một cá nhân vẫn luôn có sự kế thừa,phát triển từ nhiều nguồn để đi dần đến sự hoàn chỉnh trong tính tương đối của nó.Cụ Lân lại không làm thế.Gần như các từ điển của cụ đều là sản phẩm đoán mò và suy diễn một cách chủ quan,vô căn cứ nên sai là tất yếu.Căn cứ tốt nhất là thực tiễn sống động của ngôn ngữ và đời sống văn hóa,từ sự ghi nhận của các từ điển trước đó,nhưng cụ vẫn không làm như người ta vẫn làm”. (7)
Về phía người dùng sách - Tận tín thư, tắc bất như vô thư - Mạnh Tử (盡信書,則不如無書 - 孟子) -"Thà không có sách,còn hơn (có sách để đọc rồi) nhắm mắt tin sách. 
Với lòng trân quý tác giả, thú thực tôi thật ‘điếng’ người khi đọc những sai sót của từ điển do các “chuyên gia”dọn dẹp giữ vườn văn chương chữ nghĩa của dân tộc gom về chất đống.Khâu biên tập của NXB không rõ: biết hay không (?) để lọt lưới,trình làng những “hạt sạn” dưới cái vỏ đồ sộ hoành tráng của sách.
“Uy tín của người viết sai càng lớn thì cái hại càng lớn vì người ta dễ tin theo những người đã thành danh” (An Chi).
Chú thích:
(1) Nhà Văn Hiện Đại - NXB Thăng Long,Saigon1969 - tái bản lần III – nguyên bản NXB Tân Dân Hà Nội,1942.
(2) Hồi ký Những năm tháng ấy - NXB Văn Học Hà Nội – 1987,trang 174,175)
(3) Hồi ký Nguyễn Hiến Lê - NXB Văn Học – 1993,trang 387,388).
(4) Việt-Nam Tự-điển - Hội Khai Trí Tiến Đức, Nhà in Trung-Bắc Tân-Văn xuất bản năm 1931
(5) HÁN VIỆT TỰ ĐIỂN - Nhà in ĐUỐC TUỆ, 73 Phố Richaud, HÀ NỘI xuất bản 1942.
Sài Gòn, 11/2025
Phan Văn Thạnh
Theo https://vietvanmoi.fr/

Nhà thơ, nhà giáo Nguyễn Đông Ngạc

Nhà thơ, nhà giáo
Nguyễn Đông Ngạc

Sau ngày (30/4) chiến tranh kết thúc, bạn bè tứ tán, một vài người thân quen nào đó vắng mặt, mình cứ đinh ninh chắc họ trôi giạt làm ăn đâu đó trên quả đất này. Cuộc sống quay mòng, chạy theo cơm áo chẳng còn nhiều thời gian để nghĩ về ai - thôi kệ không chú ý gì nữa,mệt mỏi quá rồi - mình sống biết mình đang sống và, dòng trôi cứ trôi…
Nghĩ ngợi thế nhưng xa xôi thi thoảng tôi vẫn nghe ngóng về chú Ngạc - nhà giáo, nhà thơ Nguyễn Đông Ngạc. Tôi không quên cái dáng mập thấp tầm thước chắc nịch, luôn ngậm pipe trên môi, túi vải khoác trễ bên hông như chiếc túi đạn (cartouchiere) của thợ săn, dáng vẻ bụi bụi phớt đời, hao hao nam tài tử người Mỹ gốc BaLan Charles Bronson (1921-2003) .
Năm 1977,tình cờ tôi gặp chú Ngạc chung lớp Văn-Sử1- (khóa bồi dưỡng giáo viên Văn cấp 3 Saigon còn sót lại sau giải phóng). Chú được cử đi học từ trường Trưng Vương, tôi đến với khóa học từ trung học Phú Nhuận. Chú hơn tôi gần một giáp cùng“đi hấp lại”, tâm trạng thầy cô ở độ tuổi chú bấy giờ tròm trèm 40 đầy những xáo động nặng nề,và tôi bấy giờ ở độ 25-26 rất trẻ, thuộc hàng đệ tử - hậu sinh xa lắc xa lơ,cũng chẳng vui vẻ gì - hành trang quá khứ tương đối nhẹ hơn khi cùng các sư phụ,lớp trước, lớp sau: “cũng liều nhắm mắt đưa chân/thử xem con tạo xoay vần đến đâu”?!.
Thời gian thoát ly đi học khoảng 3 tháng (trọn HK 1) kể cả một tuần đi thực tế ở Ấp Nam Lân, huyện Hóc Môn .Địa điểm trường “Sư phạm Bồi dưỡng Tp.Hồ Chí Minh” lúc đầu đặt tạm cơ sở Regina Mundi (góc Hiền Vương-Nguyễn Thông) – sau dời về Saint-Exupéri (góc Đoàn Thị Điểm-Ngô Thời Nhiệm) - hiệu trưởng thầy Nguyễn Hữu Thanh Bình .
Nhớ dạo ấy đời sống giáo viên vô cùng khó khăn thiếu thốn - Khóa bồi dưỡng ngắn hạn nhưng anh nào,anh nấy uể oải đếm từng ngày,từng giờ,cố nuốt cho xong để rồi tùy cơ ứng biến …ở hay đi ?!
Ký ức thấp thoáng khoảng năm 1961,lúc vừa đậu vào đệ thất Pétrus-Ký,tôi có lần được bố dẫn đến thăm gia đình ông bà Toại - thân sinh chú Ngạc - người đồng hương làng Thường Lệ -(nay thuộc xã Đại Thịnh,huyện Mê Linh,Hà Nội) - ở khu cư xá Hỏa xa Saigon đường Nguyễn Hoàng - (bây giờ mang tên mới Trần Phú,Q 5,TpHCM) . Bố tôi rất trân quý ông bà Toại - riêng tôi theo cách của bố cũng thầm ngưỡng mộ tính chất trí thức quý phái, phong lưu của gia đình chú.
Lần cuối tôi gặp chú Ngạc ở hành lang giờ nghỉ giải lao Hội đồng chấm thi TN THPT Marie Curie năm 1982, sau đó bặt luôn. Nhớ hình ảnh Chú phảng phất nét tài tử Charles Bronchon qua chân dung in bìa - ngậm pipe đục toác khung ảnh ngang tàng nhìn đời trong tuyển tập “Những truyện ngắn hay nhất trên quê hương chúng ta” (NXB Sóng,năm 1973).
Một vài thông tin lẻ tẻ tôi được biết thêm sau đó: - chú Ngạc lập gia đình với cô Nguyễn Thị Nga - đốc sự Quốc gia Hành chánh,ái nữ bà Nguyễn Thị Thế,em gái nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam.Gia đình cụ Toại chuyển về Bình Dương mở nhà sách Khai Trí - bác ruột chú Ngạc cụ Nguyễn Văn Thăng lấy bà cô ruột tôi Phan Thị Thát - biết gia đình chú sau 75 định cư ở Canada nhưng năm nào không rõ…
Biết và biết vậy thôi,mãi đến lúc tình cờ lướt Web, xem bài viết “Nguyễn Đông Ngạc,ngọn pipe chợt tắt trên môi” của Luân Hoán,thú thật tôi giật mình thầm thốt: Ồ chú Ngạc mất rồi ! - tự dưng nghe lòng mình lao xao.
Bài viết của Luân Hoán nói khá tỉ mỉ đời sống của nhà thơ Nguyễn Đông Ngạc ở Canada, qua đó tôi được biết vợ và người con đầu của chú đã chết - biết chú mở “một căn chợ thực phẩm nhỏ” Đakao trên đường Saint Laurent,Montréal - biết chú có người bạn đời thứ hai Nguyên Ngọc, sinh sống ở căn hộ Sous Sol (An lạc cốc) ,số 9635 đường Basile Routhier - biết tháng 2/1996 ,chú bị ngã đưa cấp cứu bệnh viện Jean Talon và mất ngày 21/2/1996 (hưởng dương 59 tuổi).
Những dòng thơ Luân Hoán trích dẫn giúp tôi hiểu thêm tình cảnh,tính cách phóng khoáng và nỗi buồn tha phương của chú.
“Con ta chết tuổi thôi nôi
Cha ta ngồi chết nụ cười trên môi
Vợ ta mạch máu vỡ đôi
Ta nuôi hai đứa con côi trưởng thành
Quanh ta đồng loại ngổn ngang
Chết bom đạn ,chết hòa bình không tên
Ta từ cõi chết ngoi lên
Cái tâm ta bỗng bình yên lạ thường”
(Nguyễn Đông Ngạc tặng Nguyễn Đông Ngạc)
Với thân hữu, chú rất nồng nhiệt, bài viết của nhà văn Song Thao thuật lại Nguyễn Đông Ngạc: “không ưa hội đoàn nhưng lại ưa kéo anh em tới nhà hội họp. Họp hội rượu. Anh ưa nhậu nhẹt với anh em. Chị thích nấu nướng. Cửa nhà anh chị lúc nào cũng rộng mở. Mỗi dịp có khách phương xa tới, nhà anh chị là nơi tụ họp đón khách. Mai Thảo, Dương Kiền, Du Tử Lê... đã qua những cuộc rượu túy lúy nơi đây. Ngạc rất giàu rượu. Chai lớn chai nhỏ lềnh khênh khắp nhà. Rặt một thứ Remy Martin chai mờ.”(“Nguyễn Đông Ngạc,một đi…”- Song Thao - Văn. California, bộ mới số 2, tháng 2/1997)
Nhà thơ Luân Hoán “cầu mong anh không ăn cháo lú,để nhớ mãi một thời An Lạc cốc - một thời bằng hữu thơ văn…”:
Đi trơn tru một kiếp người
Không gây ân oán,không thù hận ai
Kể như đáng mặt nhân tài
Lòng trong như gió thoảng ngoài thiên thu
(Trích Hồi ký rời - Luân Hoán)
Riêng tôi vẫn trân quý chú Ngạc - trọn vẹn một lòng hậu sinh - tin chú mất được biết rất trễ và tình cờ, đã thôi thúc tôi phải viết chút gì mới nguôi lòng - chú đã ra khỏi trần gian 28 năm rồi còn gì - Giá đừng đọc “Nguyễn Đông Ngạc, ngọn pipe chợt tắt trên môi”, tôi vẫn yên trí chú Ngạc còn sống nơi xứ tuyết!.  
Sài Gòn, 1/6/2024
Phan Văn Thạnh
Theo https://vietvanmoi.fr/

Nhà văn Vũ Bằng

Nhà văn Vũ Bằng

1- Một thời làm báo, viết văn 

Nhà báo, nhà văn Vũ Bằng,tên thật Vũ Đăng Bằng (1913-1984) - sinh trưởng tại Hà Nội trong một gia đình Nho học, quê gốc làng Lương Ngọc, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ông theo học Trường Albert Sarraut, tốt nghiệp Tú Tài Pháp, bước chân vào nghề làm báo rất sớm. Năm 16 tuổi (1929), ông đã có bài đăng trên tờ An Nam tạp chí và chính thức đeo đuổi nghề cầm bút.   
Giai đoạn khởi nghiệp ở Hà Nội(1929 - 1954), ông cộng tác với nhiều báo: Hữu Thanh, An Nam tạp chí, Đông Tây, Rạng Đông, Nhật Tân, Trung Bắc tân văn, Công dân, Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Truyền bá, Tương lai, Vịt đực, Trung Bắc chủ nhật, Trung Việt tân văn...   
Theo nhà văn Võ Phiến: “Vũ Bằng có lúc tay nầy một tờ báo của Vũ Đình Long, tay kia một tờ khác của Nguyễn Doãn Vượng; có lúc một mình trông nom cả ba tờ báo ở Sài Gòn là Đồng Nai, Sài Gòn Mai và Tiếng Dân; lại có lúc vừa viết cho Dân Chúng, làm tổng thư ký báo Tin Điện, lại vừa hợp tác với người thứ ba làm báo Vịt vịt...”   
Trong lãnh vực trước tác văn chương, ông sở trường thể loại ký. Trên Văn học tạp chí số 4 năm 1935, Lê Tràng Kiều (1912-1977) - nhà phê bình văn học hàng đầu khi ấy,đã viết về ba gương mặt văn chương đặc sắc đương thời - (Tam Lang Vũ Đình Chí, Tiêu Liêu Vũ Bằng và Thiên Hư Vũ Trọng Phụng): “Vũ Bằng là một trong ba nhà văn mở đầu cho nghề phóng sự ở nước ta. Bấy giờ,Vũ Bằng đi sâu vào thể ký, nhưng viết với chiều sâu của văn chương phong tục. Cuối năm 1956, ông cho xuất bản tác phẩm “Ăn tết thủy tiên”, khiến giới quan tâm ghi nhận một phong thái mới trong đời sống văn chương Sài Gòn. Năm 1960, xuất bản tập ký Miếng ngon Hà Nội, văn phong tinh tế và thật giàu xúc cảm. Sau này, thêm sự kiện tác phẩm “Thương nhớ mười hai”, xuất bản năm 1972, thì công chúng văn học đã ghi nhận nhà văn Vũ Bằng đã tạo nên thể loại hồi ký trữ tình độc đáo cho văn học Việt Nam. Tập bút ký “Miếng lạ miền Nam” (1969), và cuốn hút hơn là tập hồi ký “Bốn mươi năm nói láo” (1969) càng khẳng định tài năng viết ký của ông. Không chỉ viết ký, Vũ Băng còn viết nhiều thể tài khác, từ biên khảo, truyện ngắn cho đến tiểu thuyết, và liên tiếp cho xuất bản: Khảo cứu về tiểu thuyết (biên khảo, 1969), Mê chữ (tập truyện, 1970), Nhà văn lắm chuyện (1971), Những cây cười tiền chiến (1971), Người làm ma vợ (tập truyện ký, 1973), Bóng ma nhà mẹ Hoát (tiểu thuyết, 1973)…”   
Nhà thơ Nguyễn Vỹ (1912-1971), chủ biên tạp chí Phổ Thông) khen ngợi: “Anh có lối tả chân thật đặc biệt và trào phúng chuyên môn, có khi rất nhẹ nhàng khả ái như Alphonse Daudet, có khi cầu kỳ lí thú như Courteline. Tôi không nói Vũ Bằng là một văn hào, nhưng chắc chắn anh là một nhà văn Việt Nam độc đáo trên lĩnh vực tả chân trào phúng, trước kia và bây giờ”    
Họa sĩ Tạ Tỵ (1922-2004) gọi ông là người trở về từ cõi đam mê,nhận xét: “Trong suốt dòng sông của cuộc đời có mặt, Vũ Bằng đã đánh đổi tất cả chỉ để xin lấy về phần mình hơi thở của nghệ thuật. Nghệ thuật làm báo cũng như viết văn. Về làm báo, Vũ Bằng đã tự vẽ chân dung mình, chân dung thế hệ, trong cuốn “40 năm nói láo” do cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai ấn hành cuối năm 1969. Trong tác phẩm đó,Vũ Bằng đã thành thực chẳng những với lòng mình mà còn với người đọc. Những điều mà Vũ Bằng viết ra tôi tin rằng chẳng có ích bao nhiêu đối với những người chưa hoặc không nghĩ tới chuyện làm báo, nhưng nó rất cần thiết cho lịch sử báo chí và những ai muốn sống đời ký giả. Bán cả một cuộc đời để được trả bằng mấy trăm trang sách kể là quá đắt. Cuốn hồi ký “40 năm nói láo” đã nói lên tất cả mọi khía cạnh đặc thù - trong đó - Vũ Bằng đã ký thác tâm sự mình, ký thác “nghiệp chướng” mình một cách quá đầy đủ về mặt báo chí” .  
2- Vũ Bằng “Nói có sách”    
Với “Nói có sách”- (NXB Nguyễn Đình Vượng Saigon – 1971),Vũ Bằng đã thể hiện nhiều hơn trách nhiệm của người cầm bút trước con chữ. Ông bỏ công nhặt nhạnh sưu tập,tra cứu một số từ ngữ thường dùng trong vùng kháng chiến không chỉ để bản thân học hỏi,tích vốn mà còn mong muốn giúp ích cho bạn đọc.Trong Mấy lời nói đầu,ông bày tỏ : “Soạn cuốn sách này (NCS), chúng tôi không dám có ý tưởng sửa sai hay bắt bẻ bất cứ ai.Đây là những điều chúng tôi học hỏi được,sưu tập lại để trình chánh bạn đọc,trước là để giúp ích cho những người chưa có dịp học hỏi,mà sau là để cho các bậc cao minh nhuận chính hầu giúp ích cho những người đến sau muốn sử dụng những danh từ mới một cách chân xác và đứng đắn.”(tr. 21)      Sách dày 277 trang,nhiều khái niệm từ ngữ phổ biến trong vùng “chiến khu” được tác giả chú giải khá rành mạch .Xin nêu một ít thí dụ :   
- Cách mạng: là một cuộc vận đông thay đổi lớn và có tính chất đột biến,cho nên cách mạng khác với cải lương .Cải lương,cải tiến,chỉ là sự thay đổi dần dần…(tr.72)   
- Quá độ : Nhiều người dùng lầm chữ quá độ và cho rằng danh từ này chỉ cái gì không bình thường,đi quá cái mức của nó(như ăn quá độ,chơi quá độ).Sự thực,quá độ có một nghĩa khác hẳn: dùng để nói thời gian chuyển tiếp giữa hai thời kỳ…(tr.75)   
- Cương lĩnh : là chương trình hoạt động của một chính đảng hay một mặt trận trong một thời kỳ,để đưa đường chỉ lối …(tr.89)   
- Kiểm thảo : nguyên là một chức quan trong hàn lâm viện thời phong kiến,hàm tùng nhất phẩm - (Hàn lâm kiểm thảo).Sở dĩ người ta nhắc đến chữ kiểm thảo nhiều là vì kháng chiến hay dùng chữ kiểm thảo,tức là kiểm soát và thảo luận xem có đúng hay không,để tìm nguồn gốc những khuyết điểm hay ưu điểm…(tr.99)   
- Hạ tầng công tác : kỷ luật đưa một hay nhiều người phạm lỗi ra khỏi cương vị chỉ huy - hay ra khỏi hẳn cơ quan.(tr.111)   
- Ba đảm đang : Nguyên chữ đảm có nghĩa là giỏi,tháo vác,đảm đang.Người đàn bà quán xuyến gia đình,nuôi con dạy cái nên người,lo cho chồng chu tất là người đàn bà đảm đang.Trong kháng chiến danh từ “ba đảm đang” chỉ phong trào phụ nữ Việt Nam đánh Pháp cứu nước – và có ý tuyên truyền phụ nữ phải tự nhận lấy ba nhiệm vụ: gánh vác gia đình,sản xuất,chiến đấu thay người đàn ông – mới xứng đáng là phụ nữ đảm đang(tr.146)   
- Xuẩn động và manh động : Xuẩn động là hành động rồ dại,ngu ngốc…- Manh động cũng tương tự nhưng nhẹ hơn một chút.Đó là hành động phiêu lưu của các nhà cách mạng chủ trương phát động khởi nghĩa khi chưa đủ yếu tố chủ quan và khách quan đề chiến thắng.(tr.160)   
- Chủ nghĩa cơ hội có khác chủ nghĩa hoạt đầu ? – Cơ hội chủ nghĩa là chủ nghĩa của những kẻ “gió chiều nào,che chiều ấy”.Cứu cánh của những người theo chủ nghĩa này là quyền lợi cá nhân.Họ không cần lý tưởng,mà chỉ cần cơ hội.Cơ hội tới,có danh có lợi là làm.  
- Chủ nghĩa hoạt đầu - trình độ nghề nghiệp cao hơn nhiều.Trên sân khấu chính trị,những kẻ không những thấy cơ hội là “chộp” lấy mà có lúc thì uốn lưng quì gối,có lúc đánh bên tả,gạt bên hữu với những mục đích gian manh,thì những kẻ đó đích danh là những phần tử hoạt đầu vậy. Người có tư tưởng cơ hội có thể ít phạm phải những hành động phản bội,nhưng người có tư tưởng hoạt đầu nhất định sẽ đi vào con đường phản bội.(tr. 25)   
- Phản ảnh hay phản ánh?:Phản ảnh và phản ánh đều có nghĩa là chiếu hắt trở lại(refléter), nhưng chữ phản ảnh bây giờ ít được dùng như phản ánh.Thí dụ: văn học dân gian phản ánh cuộc sống của quần chúng,biểu hiện thế giới quan của quần chúng,do đó có tính nhân văn sâu sắc. Từ ý nghĩa đó,chữ phản ánh được dùng với một ý nghĩa bóng bảy,rộng rãi hơn.Phản ánh có nghĩa là tỏ ra,biểu hiện ra.Thí dụ : lời văn của ông ta phản ánh một nội tâm thắc mắc.Ở ngoài kháng chiến,chữ phản ánh còn được dùng với một ý nghĩa rộng hơn nữa: phản ánh là kể lại sự việc đã xảy ra.Thí dụ : phản ánh tình hình chiến sự cho cấp lãnh đạo.(tr. 29)   
- Phạm trù : một danh từ triết học - là khái niệm cơ bản những phương diện, thuộc tính, bản chất và quan hệ phổ biến nhất của những hiện tượng trong thiên nhiên và xã hội, như : vật chất,vận động,không gian, thời gian, nội dung,hình thức…Thí dụ:nguyên nhân/kết quả,bản chất/ hiện tượng,nội dung/hình thức là những cặp phạm trù triết học.(tr.163) 
- Phản tỉnh: là xét lại tư tưởng mình để tìm sai lầm mà sửa chữa…(tr.152)   
- Du kích: là một lối đánh không có mặt trận rõ rệt,khi ẩn khi hiện thất thường.Nói một cách nôm na,du kích từa tựa như lối đánh lén,đánh rồi rút,chớ không công khai.Chữ du kích còn có nghĩa là những chiến sĩ đánh theo lối du kích chiến.(tr.228)…   
Vũ Bằng quan niệm: “Tôi không tán thành những người cố chấp,không chịu học hỏi,chủ trương cái gì của địch thì không dùng mà chỉ có cái gì của ta mới hay,mới đẹp.Nói riêng trong phạm vi nước ta,Bắc hay Nam cũng chỉ có một văn hóa mà thôi,người Nam dùng chữ của Bắc hay người Bắc dùng chữ của Nam không phải là cái dở hay cái tội.
Điều cần thiết là không nên lạm dụng chữ ngoại quốc, nếu có thể dùng chữ của mình thì bao giờ cũng vẫn hơn.Nhưng nếu có những trường hợp tiếng ta không có hay chưa có danh từ để diễn tả một ý kiến, một cảm giác, một tư tưởng,ta có thể cứ dùng những danh từ nhập cảng của ngoại quốc hay những danh từ của đồng bào khác ý thức hệ với ta, nhưng điều quan trọng đã không dùng thì thôi, chớ đã dùng thì cũng nên dùng cho đúng nghĩa và đúng chỗ, kẻo hồn chữ lại phải tả oán nơi âm phủ.”(tr.20)   
Đọc lại tác phẩm “Nói có sách”, tôi vô cùng trân quý ngòi bút Vũ Bằng – nhà báo, nhà văn có thực tài,say mê tâm huyết với nghiệp văn chương. Giới phê bình nghiên cứu văn học đã nhìn nhận: Ngay từ những năm Ba mươi,Vũ Bằng là một trong những người có công lớn cách tân tiểu thuyết Việt Nam, hiện đại hóa nền văn xuôi Việt Nam.
Điều cần chú ý “Nói có sách” của Vũ Bằng được xuất bản tại Saigon trước 75 cho thấy rất thoáng không có dấu hiệu phân biệt kỳ thị “đối nghịch” hai bên. Chữ nào cũng là chữ của dân tộc Việt - gìn giữ sự trong sáng ngắn gọn, dễ hiểu là trách nhiệm của mọi người.
Sài Gòn, 12/8/2025
Phan Văn Thạnh
Theo https://vietvanmoi.fr/

Đọc lại những bài viết cũ

Đọc lại những bài viết cũ... (*)

- Trời làm phong ba!
1- Như các bạn biết đấy - sau 75 tình hình đất nước trăm bề khó khăn. Bên trong tiếp quản dọn dẹp bình định - xây dựng tổ chức lại guồng máy xã hội - lèo lái nền kinh tế chỉ huy. Bên ngoài đối đầu 2 cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và phía Tây Nam khốc liêt. Thời bao cấp kinh tế bó hẹp kiệt quệ - lòng dân hoang mang! Niềm tin không tránh khỏi chao đảo…
Tác giả Nguyễn Hiến Lê viết trong Hồi ký: “Tháng 5-1975,có ít nhất là 90% người miền Nam hướng về miền Bắc,mang ơn miền Bắc đã đuổi được Mỹ đi,lập lại hòa bình,và ai cũng có thiện chí tận lực làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ sáu bảy tháng sau, cuối 1975 đã có đa số người Nam chán chế độ ngoài Bắc… Nước ta nghèo,thiếu vốn đầu tư thiếu kỹ thuật,khó phát triển kinh tế mau đươc. Thất bại về kinh tế thì sự nghiệp của cách mạng có nguy cơ sụp đổ!” (**)
2- Phúc đức cho dân tộc này - ánh sáng lóe lên cuối đường hầm - đầu thập niên 80,81,82! Sự đổi thay khởi đi từ những ý kiến tư vấn của chuyên gia tài chính người Mỹ gốc Việt - ông Bùi Kiến Thành (***) với lập luận chắc nịch: “Dân nghèo - nước yếu - Dân giàu thì nước mới mạnh - Phải thay đổi tư duy xem xét lại: Kinh tế là của nhân dân, không phải của Nhà nước”- đã được chốt lại trong NQ Đại hội VI,1986: “Việt Nam là nền kinh tế nhiều thành phần - Vận hành theo cơ chế thị trường”!
NQ VI truyền cảm hứng cho cả nước - và cũng bắt nguồn từ đó những bài viết nhỏ lẻ của tôi góp tiếng nói nghe chừng cũng “nhạy” hơn - chí ít cũng là thanh chắn không để thụt lùi quay lại cái cũ…
- Nói hay đừng…
- “Sau Đại hội Đảng CSVN lần thứ VI ,trước cao trào đổi mới của thời đại - “Đổi mới hay là chết”, mệnh lệnh khách quan buộc phải sửa đổi cách nhìn, rà soát lại cung cách hoạt động của QH và HĐND các cấp theo chiều hướng đổi mới. Quốc hội và HĐND các cấp dứt khoát không còn là nơi tổng hợp ý kiến,bàn bạc một chiều và “giơ tay nhất trí”… trong khuôn khổ cứng ngắc của cơ chế …Những ý kiến phản ánh nguyện vọng của nhân dân hoặc phê phán, chất vấn của QH, phải được tôn trọng và có hiệu lực chế tài bãi miễn… Những cuộc điều trần chất vấn Hội đồng Bộ trưởng cần được công khai trên báo đài,để nhân dân nắm rõ sự việc, nguyên nhân và phối hợp kiểm tra…” -Thực chất dân chủ trong hoạt động của Quốc hội và HĐND các cấp. (SGGP - 16/4/1987)
Các bài viết: - Chương trình sách giáo khoa phân ban - (GD 27-02-2005); Một rừng thơ văn cổ đậm đặc chất hàn lâm - (SGGP 17-5-2005); Nên chăng thu gọn mảng văn học nước ngoài(GD 29-12-2005); “Văn học lãng mạn 1930-1945 - hướng nhìn mới” - (Tuổi trẻ Chủ nhật ,số 44 ngày 8/11/1987) :
“Trực tiếp giảng dạy môn Văn lâu nay, cũng như nhiều đồng nghiệp khác, tôi cứ lấy làm tiếc cho số phận ”hẩm hiu” của dòng VH lãng mạn giai đoạn 1930-1945 với tội danh “bạc nhược suy đồi,có tính chất phản động”gần như bị ném vào xó,mang dấu đóng “cấm kỵ”,phải coi chừng ô nhiễm!..
Chủ nghĩa lãng mạn(Romantisme) với tư cách một trào lưu tư tưởng nghệ thuật nằm trong quỹ đạo văn hóa thực dân phong kiến - có mặt nào đó còn hạn chế nhưng không vì thế chúng ta phủ định sạch trơn. Bởi nó góp phần đáng kể “cách tân văn học VN” về ngôn ngữ,thể loại, đề tài, kết cấu, phương pháp sáng tác,đưa văn học VN từ phạm trù “cổ điển” sang phạm trù “hiện đại”. Nó bày tỏ khát vọng tự do cho con người,mong muốn giải thoát cá nhân khỏi xiềng xích của luân lý lễ giáo phong kiến;biểu thị thái độ không muốn thừa nhận trật tự xã hội đương thời - phản ánh hiện thực cuộc sống nhỏ nhen,thấp bé,quan liêu trong các gia đình phong kiến địa chủ,tiểu tư sản.Nó ngợi ca cảnh đẹp trữ tình của quê hương đất nước,nguồn cội của tình yêu Tổ quốc... Do đó thái độ dè dặt trong nhìn nhận,đánh giá,thậm chí chối bỏ“văn học lãng mạn”,là vô tình khoét bọng thân thể văn học dân tộc,làm mai một giá trị tinh thần của nhân dân”…
- Gieo nhân tính - gặt nhân tính
(Suy nghĩ về trách nhiệm giáo dục học sinh - PN TP-12/4/1986); (GD con trẻ như thế nào cho đúng - PNTP- 7/12/1986);(Chung quanh vấn đề giáo dục đạo đức hs - (PN TP 09/01/1988); Nhà trường PT cần coi trọng giáo dục phẩm chất XHCN có hệ thống từ gốc tới ngọn - PNTP 02/4/1988); (Giáo dục đào tạo,chìa khóa mở vào mùa xuân đất nước - GDTP 27/01/2005)…
- “Từ góc độ nhà trường,tôi nghĩ còn học trò là còn những hiếu động nông nổi đáng tiếc và người ta thấy nổi cộm lên vai trò của giáo dục - nơi được xem là “pháo đài”phòng chống đủ mọi thứ.Chúng ta không phủ nhận sứ mệnh này nhưng nhìn lại phải thấy rằng bài bản giáo dục của nhà trường phổ thông một thời gian dài vừa qua chưa chú trọng bồi đắp rèn giũa,khơi dậy những giá trị luân lý truyền thống ,kỹ năng giao tiếp ứng xử trong đời sống,những tình cảm đôn hậu đậm bản sắc VN chứa đựng trong kho tàng văn học dân gian.Soi lại chương trình Ngữ văn Lịch Sử, nội dung bao trùm là những điều lớn lao cao cả (chủ nghĩa yêu nước,chủ nghĩa anh hùng cách mạng,lý tưởng thanh niên…) - đậm chất “đỏ”- ít đề cập hoặc nhắc tới rời rạc không thành hệ thống các khái niệm đạo đức ứng xử “làm người” theo cái trục được chắt lọc, cập nhật,bổ sung cho phù hợp - Tu thân,Tề gia,Trị quốc,Bình thiên hạ; Nhân-Lễ-Nghĩa-Trí-Tín .
Gốc có vững,bản thân mới vững,ngọn sẽ lan tỏa vươn tới những phạm trù cao cả. Xã hội sẽ ít nhiều hạn chế những tệ nạn bạo lực dã man.Nhà trường gieo nhân tính tất yếu xã hội sẽ gặt nhân tính”…(Bạo lực học đường nhìn từ giáo dục - Báo GDTP - 08/11/2000)
“Tiên học lễ,hậu học văn” sẽ chỉ là khẩu hiệu suông nếu chúng ta không cấy mầm nhân tính vào đầu trẻ ngay từ lúc vở lòng (sơ cấp tiểu học - Phổ thông cơ sở,trung học).
Đọc lại những bài viết lem luốc xưa cũ,tôi thấm thía câu nói của ông Bùi Kiến Thành “Người mở khóa lãng du” - nhắn với lớp trẻ Việt Nam hôm nay rằng: “Mình phải là Nguyễn Tất Thành mới, không còn là để giải phóng đất nước mà là để làm giàu cho đất nước. Không nên nguyền rủa bóng tối mà hãy thắp lên một ngọn đèn. Mỗi người thắp lên một ngọn đèn, có được 100 ngọn đèn, 1000 ngọn đèn nó sẽ sáng ra”.
Vận mệnh đất nước - số phận dân tộc “qua cơn bĩ cực đến hồi thái lai”:
“Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa” (Truyện Kiều)
Như ánh chớp! - mới đấy 50 năm - nửa thế kỷ - giờ đây tự hỏi những công dân đang chiếm lĩnh trận địa xã hội hôm nay có phải là sản phẩm của nhà trường mới? - truy tận cùng ngành giáo dục lãnh phần trách nhiệm trong ấy!
Kết bút:
Ảnh hưởng bão Bualoi
Saigon mưa sướt mướt
Chiều buông từng giọt
Đời mòn dần theo những hạt nước lăn tròn.
Thư phòng im vắng
Những bài viết cũ mèm động cựa
Ta nghe rõ từng con chữ thả xuống đời …
Ngày ấy xa rồi…
Dòng trôi cứ trôi
Bóng đời vờn bóng chữ
Bóng lão liêu xiêu
Vung vãi hạt gieo
Vườn đời xanh mượt
Chút gì còn lại
Xin gửi ngàn sau…
Chú thích:
(*) Bài viết trên các báo: SGGP,Tuổi trẻ,Thanh niên,Phụ nữ, Giáo dục Tp - bút danh Phan Phạm Mê Linh)
(**) Hồi ký Nguyễn Hiến Lê - Chương XXXI - “Kết quả sau 5 năm” - (tư liệu trôi lang thang trên mạng internet)
(***) Ông Bùi Kiến Thành (sinh năm 1931 - Quảng Nam) - chuyên gia tài chính người Mỹ gốc Việt. Ông được biết đến là người Việt đầu tiên được đào tạo về tài chính tại Hoa Kỳ, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Việt Nam hiện nay.
”Bùi Kiến Thành - Người mở khóa lãng du” (Tác giả Lê Xuân Khoa, Công ty Sách Thái Hà và Nxb Thế giới hợp tác xuất bản quý II.2015),ông (Nguồn vikypedia).
Sài Gòn, 28/9/2025
Phan Văn Thạnh
Theo https://vietvanmoi.fr/

Tản mạn những ngày ở Seattle

Tản mạn những ngày ở Seattle

1- Cận ngày bay nhân viên phi đoàn Eva Airline đình công, hoãn chuyến khiến chúng tôi phải lùi hơn tuần lễ sau mới khởi hành (1/7/19). Chiều phi trường Tân Sơn Nhất “người đi réo kẻ về” đầy nỗi niềm cảm xúc. Lần đầu trong đời ngồi tàu bay 12 tiếng đồng hồ, tôi hơi oải  so với cái tuế ngoài 70 đang rần rần trên mái tóc muối ngày càng nhiều hơn tiêu. Màn hình sau lưng ghế trước mặt liên tục cập nhật hành trình bay báo cho hành khách biết tàu bay đang ở độ cao11.277m – vận tốc 852Km/h – thời tiết bên ngoài âm 57 độ C. Tôi chép miệng thầm – thật không thể tin được mình đang “du hành” trong vũ trụ.
Tôi ngồi im thít thực tập quán chiếu, gọi tâm về với thân ngay trong khoang Boeing Br026 – cảm giác mình trong trạng thái lơ lửng trống rỗng. Nghìn trùng xa quá xa. Tôi lan man nhớ về cố quận. Chẳng hình dung rõ rệt điều gì. Saigon như tấm ảnh đen trắng phai thuốc rửa, nhiều vết xước rỗ lác. Lấp loáng cơn mưa mùa hạ. Thấp thoáng phố thị rong rêu. Bóng nhỏ liêu xiêu. Chiều Tao Đàn ghế đá công viên hoang phế, bỏ quên một thời tuổi trẻ  rong chơi. Tôi cảm giác  Saigon chảy luồn trong hệ tuần hoàn mao mạch đi khắp cơ thể. Saigon ngấm vào tôi như rượu. Saigon, nơi tôi gửi cuống nhau cho bà Từ Dũ giữ hộ – nơi tôi học tập gắn bó với Petrus Ký, Văn Khoa, Sư phạm – trưởng thành vào đời – nơi tôi chứng kiến biết bao sự đổi thay dâu bể mà mãi đến tận bây giờ tôi mới tường tận qua những tư liệu lịch sử được công bố gần đây trên các trang mạng.
Saigon, nơi tuổi 26 của tôi (1975) bước qua cuộc đời khác,vừa đi vừa mò mẫm “làm gan” bỏ mặc cho số phận tùy duyên – Đùng đùng gió giục mây vần/Một xe trong cõi hồng trần như bay(1). Có lẽ vì thế thỉnh thoảng trong tôi lại bật lên câu hỏi : Ta là ai – mà “phi hiện hữu” trong cõi ta bà?
Đèn tắt bớt, khoang tàu bay tù mù, lối đi hẹp, 3 dãy ghế dài sau lưng cabin phi công, từ hạng Vip cho đến hạng cá kèo đầy nhóc người – chút ánh sáng hắt ra từ khu vực restroom – một vài ánh chớp nháy từ những màn hình video bé như tấm bảng con đeo sau lưng ghế. Hành khách thiêm thiếp – chẳng biết họ nghĩ gì. Tôi cảm giác mình rơi vào trạng thái Zéro –  “sắc-sắc,không-không”…?
Tàu bay đáp xuống phi trường Tacoma – 20g đêm, mặt trời Seattle chưa chịu sập cửa. Bước từ kinh tuyến Đông “giật lùi” sang kinh tuyến Tây, vẫn còn là ngày cũ như lúc ở Tân Sơn Nhất. Tôi kéo lê hành lý “nhảy phóc” lên miệng  giếng. Tôi biết mình đã thực sự cách xa Việt Nam nghìn dặm. Mỗi bước chân giờ đây lạ lẫm. Gia đình con gái đã chờ sẵn, hai cháu ngoại mừng rỡ ôm chầm lấy ông bà, kéo hộ hành lý ra xe. Khu parking rộng mênh mông, chất nhiều tầng, xe phải chạy xoắn loằng ngoằng mới trổ ra đến cổng. Màn đêm thực sự buông phủ, nườm nượp dòng xe ngược xuôi ra vào Sea-Tac. Về đến nhà (khu Bellvue) gần nửa đêm, sắp sửa sang ngày mới – Xin chào Seattle đã cho tôi nếm nỗi niềm xa xứ – “Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy/Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu”. (2)
2- Theo tìm hiểu, Seattle là thành phố cảng biển, thủ phủ của Quận King – được xem là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục của khu vực, nằm ở phía tây tiểu bang Washington trên một dải đất giữa Vịnh Puget (một nhánh nhỏ của Thái Bình Dương) và hồ Washington, cách khoảng 160 km về phía nam biên giới Canada – Hoa Kỳ. Tổng diện tích 83,9 dặm vuông, Seattle nằm căng trên bảy ngọn đồi : Capitol Hill, First Hill, West Seattle, Beacon Hill, Magnolia, Denny Hill và Queen Anne (47,37 vĩ độ Bắc và 122,20 kinh độ Tây). Địa hình chính là đồi núi, rừng xanh hăng sực sức sống. Cũng giống như các thành phố nằm trên cùng vĩ tuyến cao phía Bắc, ngày mùa hè ở Seattle kéo dài (mặt trời chiếu sáng suốt 16 giờ vào ngày 21/6), ngược lại, ngày mùa đông lại ngắn và ảm đạm (mặt trời chỉ chiếu 8,5 giờ ngày 21/12).
Nhiệt độ ít khi xuống 0 độ C vào mùa đông nên cũng ít khi có tuyết. Lượng tuyết rơi trung bình hằng năm là 33 cm (được đo bởi Sân bay Sea-Tac). Mưa nhiều nhất là vào tháng Một đến tháng Năm và từ tháng Mười đến tháng Mười hai. Mưa không lớn nhưng đa số là mưa phùn, nhỏ và kéo dài. Trong một tuần mưa có thể liên tục bảy ngày, một năm chỉ được khoảng 60-70 ngày nắng. Bão ít khi xảy ra ở Seattle. Thời gian khô ráo nhất trong năm là từ tháng 6 đến tháng 8.
Seattle có nhiều điểm thu hút sự quan tâm của du khách như Ballard Locks (cống dẫn nước vào Vịnh Puget); Experience Music Project (bảo tàng âm nhạc), Museum of Flight (bảo tàng hàng không)… Khách đến thăm Seattle có thể đi du thuyền trong Vịnh Puget và lên tháp Space Needle. Chợ ngoài trời Pike Place cũng là một điểm đến vô cùng hấp dẫn. Chợ rất sạch sẽ, hiện đại và luôn chật cứng người vào dịp cuối tuần.
3- Tôi ghé thăm thư viện địa phương Lake Hills Library – King County. Kệ sách Việt khiêm nhường với vài trăm đầu sách, chiều hôm đó gần như chỉ dành “độc quyền” cho riêng tôi – “ông khách đến từ Saigon-VN”, săm soi lục lạo tìm kiếm. Đúng là :“tha hương ngộ cố tri”! Không gì hạnh phúc bằng được gặp “đồng hương” nơi đất khách quê người. Xin được ghi ra đây những cái tên sách, tên tác giả lặng lẽ, đã khiến lòng “Việt” trong tôi lúc bấy giờ dấy lên niềm xao động khó tả: Nguyễn Du (Truyện Kiều), Ngô Tất Tố (Tắt Đèn), Vũ Trọng Phụng (Lấy nhau vì tình, Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô), Khái Hưng (Nửa Chừng Xuân), Thạch Lam (Dưới Bóng Hoàng Lan), Lan Khai (Truyện Đường Rừng), Nguyễn Công Hoan (Tuyển tập), Vũ Bằng (Phù Dung ơi giã biệt !)… Những tác giả trong và ngoài nước (VN) xuất hiện sau 75: Mạc Can (Người nói tiếng bồ câu), Nguyễn Nhật Ánh (Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng), Phan Nhật Nam (Chuyện dọc đường), Nguyễn Tường Thiết (Nhất Linh cha tôi), Hồi ký Bà Tùng Long, Vũ Quốc Thúc (Thời đại của tôi – cuốn 1 – Nhìn lại 100 năm lịch sử), Ma Văn Kháng (Chim én liệng trời cao), Hữu Mai (Những ngày bão táp), Đỗ Phấn (Vắng mặt), Trang Hạ (Đàn bà 30), Song Thao (Phiếm 21), Nguyễn Lương Vỵ (Tuyển tập thơ Bốn mươi lăm năm 1969-2014), Lê Văn Nghĩa (Saigon dòng sông tuổi thơ), Hà Đình Nguyên (50 chuyện kỳ thú phương Nam), Thái Bá Lợi (Bán Đảo), Du Tử Lê (Sơ lược 40 năm Văn Học Nghệ Thuật Việt 1975-2015)…
4- Giữ thói quen ở Việt Nam, qua đây sáng nào tôi cũng đi bộ thể dục lòng vòng quanh đồi Newport Hills. Bellevue đẹp tuyệt vời. Tôi như đi trong cõi thiền, thỉnh thoảng vụt bóng áo choàng đen bay ra khỏi tán lá kim, buông rời thanh âm quác…quác. Tôi mơ hồ thấy những dáng thông xanh hình chóp nón bước ra từ những tấm thiệp Merry Christmas ngập tràn mùa ân phước. Những ngôi nhà lặng lẽ ven dốc. Chủ nhân đâu chẳng thấy, xe cộ đỗ vất bên đường. Thềm cỏ mịn mượt cắt xén tăm tắp. Cẩm tú cầu màu tím xanh cuồn cuộn sức sống. Những quả táo bám đầy cành, rụng đầy sân. Hoa Hướng Dương lặng lẽ nở bung. Tuổi về chiều sống ở đây thích thật, yên tịnh, môi trường xanh sạch. Chỉ mỗi tội quá buồn. Người Việt mình có xu hướng sống ổn định nhưng Trời làm một trận phong ba xới tung lịch sử, khiến đành thôi phải ra đi. Đêm nhớ,ngày mong canh cánh nỗi niềm :“Nhớ nước đau lòng con Quốc Quốc/Thương nhà mỏi miệng cái Gia Gia”- (3).
5- Tham quan Mount Rainier National Park
Nằm ở phía đông nam Hạt Pierce và phía đông bắc Quận Lewis thuộc tiểu bang Washington, Công viên quốc gia Mount Rainier được thành lập vào ngày 2 tháng 3 năm 1899, là công viên quốc gia thứ năm tại Hoa Kỳ. Công viên rộng 236.381 mẫu Anh (369,35 dặm vuông; 956,60 km) bao gồm Núi Rainier 14.411 feet (4.392 m) – điểm cao nhất trong dãy Cascade, bao quanh là thung lũng, thác nước, đồng cỏ, rừng già và hơn 25 sông băng. Núi lửa thường bị che khuất trong những đám mây đổ lượng mưa và tuyết khổng lồ trên đỉnh mỗi năm.
Đi bộ theo đường mòn xuyên qua rừng,tôi ấn tượng với vẻ đẹp của những cây tuyết tùng đỏ, cây linh sam Douglas, cây hemlock miền tây. Cầu treo đong đưa bên dưới dòng suối trong veo nhiều sỏi cuội. Những đời cây lá kim thân thẳng hiên ngang cao vút – tôi mân mê xoa tay vào lớp vỏ dày khô ráp tưởng tượng như chạm da thịt thời hoài thai địa chất – 500.000 năm trước. Nhiều “cụ tổ” đại thụ không cưỡng lại được qui luật “sinh diệt” – mệt quá cái thân ta này ngã vật chắn lối thu sang!
Một thoáng ngậm ngùi liên tưởng đến những thân phận tha hương nằm lại nơi xứ tuyết – Gió lạnh chiều nghĩa trang lặng lẽ, những mộ phần thinh lặng ép mình dưới mặt cỏ,ngước nhìn trời xanh sắc không!.
Chú thích:
(1) Truyên Kiều – Nguyễn Du
(2) Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn
(3) Qua đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan
(4) Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều
Sài Gòn, 7/2020
Phan Văn Thạnh
Theo https://vietvanmoi.fr/

Little Saigon - Thăm một lần cho biết

Little Saigon - Thăm một lần cho biết

Một lần đi vạn lần khó, đến Hoa Kỳ mà không ghé thăm Little Saigon (tiểu bang Cali), dường như có điều gì thiếu... thiếu - nghĩ vậy nên khi đặt chân đến Seattle được mấy hôm gia đình lên tour thăm Orange county tôi đồng ý ngay dù cái đầu vẫn còn bần thần trạng thái lệch múi giờ.
Thập niên 80, 90 sau 75 của thế kỷ trước, các bạn biết rồi đó đời sống trong nước cực kỳ khốn đốn, mạng truyền thông toàn cầu chưa có. Không gian bên trong đóng khép. Thế giới bên ngoài mù mịt. Cuộc “xuất biên” hỗn loạn - “cũng liều nhắm mắt đưa chân/thử xem con tạo xoay vần đến đâu”. Và, mãi cho đến bây giờ nghĩ lại thật không thể hình dung nổi lịch sử nghiệt ngã đã dồn chúng ta vào thế trận liều lĩnh ném mình vào ngàn khơi. Để rồi cách một đại dương - “đứng bên này nhìn bên kia trào nước mắt !” (ca từ bài hát hải ngoại).
Không biết tâm trạng dân tình thời Nam/ Bắc triều (1533–1593), Trịnh/ Nguyễn phân tranh (1627 -1672) ra sao? - chứ từ thuở trời đất nổi cơn gió bụi (1975), đồng bào - cả Nam lẫn Bắc mỗi miền một kiểu tâm trạng - mắc kẹt giữa trạng thái ngặt nghèo của lịch sử dân tộc - điều mà cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt gọi là :“một triệu người vui” chồng khít lên “một triệu người buồn”! Riêng ở Miền Nam, những ai có mặt thời kỳ đó đều rơi vào trạng huống bi kịch – chẳng biết cắt nghĩa sao,ngước mặt nhìn ông Xanh gào to - một câu hỏi lớn không lời đáp! – “Trời” buộc chúng ta phải nốc cho bằng hết chén thuốc đắng - không được phép nhổ ra.Giờ đây, thế cuộc đã trôi qua 45 năm! Tôi đoán chừng có lẽ dãy “Pyrénées” (*) nằm vắt qua cổng thương xá Phước Lộc Thọ khu Little Saigon,cũng dần tan băng!? Những nghĩ suy“cực đoan”đến từ trong hay ngoài nước theo quy luật “dâu bể” - thời gian ra sức mài mòn,có lẽ ít nhiều đã“hạ nhiệt” - để chỉ còn là tình tự dân tộc - chung cội - chung nguồn. Do vậy được đến đây từ “nghìn trùng xa cách” gặp lại đồng bào, đồng chủng tha hương “ngàn dặm”,với riêng tôi - thật mầu nhiệm hạnh phúc và vô cùng ý nghĩa.
Sau hành trình hai tiếng rưỡi bay từ Seattle đáp xuống Los Angeles, cộng thêm một đoạn ô tô 46Km,tôi về đến khách sạn Residence inn Anaheim – trên đường Harbor,Boulevar - Garden Grove,California, đúng ngày lễ Độc lập Hoa Kỳ (4/7/2019).
Cảm giác đầu tiên,tôi không mấy bỡ ngỡ với hệ thống cầu đường bên này khi quê nhà VN dăm bảy năm trở lại đây cũng đã xuất hiện cao tốc,hầm chui, cầu cạn, cầu vượt, cầu dây văng… Điều đáng chú ý là giao thông ở đây rất văn minh trật tự - vi vu trên đường toàn ôtô tốc độ >100Km/h, thận trọng khi vào ra cao tốc - nhường nhau khi đến giao lộ chờ đèn rẽ trái – ưu tiên cho xe đưa rước học sinh,người đi bộ qua đường – đặc biệt không thấy bóng dáng cảnh sát chốt chận kiểm tra - (có lẽ vì vậy cũng giảm được nạn “làm luật”, tiêu cực vặt!) – xe máy 2 bánh tuyệt nhiên không thấy, do vậy cũng tránh luôn cảnh ùn tắc, ô nhiễm khói bụi, giảm tai nạn giao thông lắc nhắc như ở VN.
Nhà phố ở đây phần lớn xây dựng mái thấp, đầy đủ tiện nghi, cách xa mép đường khiến toàn cảnh không gian rộng thênh. Người ta giải thích lý do ít công trình cao tầng là vì Cali nằm trên đường đứt gãy - nơi các mảng kiến tạo gặp nhau mà San Andreas là đường đứt gãy lớn nhất, kéo dài khoảng 1.200km, có nguy cơ xảy ra động đất.
Tìm hiểu được biết Đặc khu Little Saigon (Sài Gòn nhỏ) chính thức làm lễ ra mắt ngày 17/6/1986 - nơi có nhiều người Việt định cư lâu đời, lớn nhất bên ngoài lãnh thổ Việt Nam sau khi Chiến tranh VN kết thúc (30/4/1975).
Westminster cũng như các thành phố gần đó, trước kia là vùng đất trồng trọt lớn. Người Việt đầu tiên đến đây từ trại Pendleton (cách 50 dặm về hướng Nam) và từ các tiểu bang khác như Pennsylvania, Arkansas, Florida…
Năm 1978, đại lộ Bolsa trở thành khu trung tâm của Little Saigon. Nhiều cơ sở thương mại do người Việt lập nên : siêu thị mua sắm,nhà hàng bán các món ăn Việt - Á như cơm tấm, phở, bánh mì, bánh cuốn. Các văn phòng dịch vụ y tế, luật pháp mở ra,tập trung bác sĩ, nha sĩ, luật sư, kế toán phục vụ thân chủ đồng hương.Chợ Hòa Bình,nhà sách Tú Quỳnh,và nhà hàng Thành Mỹ là những bảng hiệu đầu tiên.Cùng năm, Nhật báo Người Việt được phát hành tại thành phố Garden Grove.Cộng đồng người Việt phát triển tràn ra những thành phố lân cận như Garden Grove, Stanton, Fountain Valley, Anaheim và Santa Ana.
Chợ búa thường phản ánh “kinh tế”địa phương, muốn biết đời sống của người Việt xa xứ ra sao hãy đến tham quan các mall,siêu thị.
Thả dạo khu Phước Lộc Thọ, tôi gần như mất hẳn cảm giác “tha hương viễn xứ” khi chung quanh mình toàn là đồng hương, đồng chủng da vàng, dùng chung “ngôn ngữ Việt” – Phải nói rất vui khi trông thần thái bà con mình, phần nhiều ai cũng thể hiện sự sung mãn, xe hơi vào ra Parking nườm nượp. Tất nhiên đâu đó cũng còn vương vãi những mảnh đời bất hạnh - (xem youtube - Clip Phượng Cali, Thúy Nga… phóng sự về người vô gia cư ở Mỹ).
Phước Lộc Thọ - điểm hội tụ thiêng liêng, như thỏi nam châm thu hút người Việt những vùng lân cận về đây cuối tuần, dịp lễ Tết Việt. Họ tụ về đây không chỉ đơn thuần mua sắm, giải trí khuây khỏa mà thâm tâm dường như để tìm bâng quơ đâu đó khúc ruột của chính mình…
Tôi được dịp tham quan phiên chợ đêm nhóm trước sân PLT - một nét sinh hoạt văn hóa tha hương ấm áp. Hòa vào dòng người đi loanh quanh các gian hàng - thấy thương quá mảnh tình quê đau đáu.
Mỗi gian hàng có một thực đơn riêng, ngoài món thịt, hải sản nướng và bánh tráng trộn, các món khác hầu như không trùng lặp bắp xào bơ, chè bưởi, bánh mì nướng muối ớt,các món miền Tây,từ bánh ống lá dứa, bắp nướng,chuối nếp nướng - Có gian hàng giương bảng hiệu “đệ nhất bánh tráng” gần chục món biến tấu từ bánh tráng, nào là bánh tráng nướng, bánh tráng cuộn sốt me, bánh tráng ngũ vị…
Tha hương ngộ cố tri - nơi đất khách quê người - tôi rất vui được gặp lại bạn già đồng nghiệp trường THPT Gia Định (Tp HCM), và cũng là đồng song Petrus Ký.Chúng tôi kéo nhau ra Coffee Jypsi, thăm hỏi hàn huyên đủ chuyện gần xa. Nói về cuộc sống ở Mỹ bạn cho biết sống bên này cũng gian truân lắm, buộc phải ra sức cày bừa,không làm thì lấy tiền đâu mà lo hàng loạt chi phí, thuê nhà, bill mỗi tháng tới tấp - nghĩa vụ thuế, bảo hiểm các loại... - Có người may mắn thành đạt nhanh chóng ổn định cuộc sống mới, trở thành đại gia, nhưng cũng không ít người trầy trật sấp mày, sấp mặt – ngày hai bữa cơm đèn – ra đi khi trời còn mờ mờ, về nhà lúc màn đêm buông xuống. Họ không nề hà bất cứ công việc gì miễn có tiền: đầu bếp, thợ hồ, thợ may, cắt tóc, làm nail, rửa xe,tạp vụ bệnh viện,trường học, bưng bê hầu bàn trong các tiệm ăn, nhà hàng… Cuộc sống không ngừng diễn ra - lực tàn theo tuổi tác chồng chất - mọi ước mơ ngoài tầm với, tương lai khép lại – “thế hệ F0” cuối cùng đành thôi mang xuống tuyền đài - hơn 45 năm rồi còn mong gì nữa!
Đứng tần ngần giữa phố Bolsa, trong tôi bừa bộn những ý nghĩ chồng lấn lên nhau…Thương lắm những số phận làm thân lưu vong bất đắc dĩ - tôi thấm thía lời nhà thơ người Ý Dante Alighieri (1265-1321): “Ôi, miếng cơm ăn nhờ nuốt vào nghe cay đắng – ngưỡng cửa nhà người bước qua sao quá cao!”
Cuộc sống vẫn không ngừng vận động – tôi cầu mong mọi sự an lành, hạnh phúc tốt đẹp cho những cảnh đời còn khốn khó nơi xứ lạ quê người.Câu chuyện lịch sử nói mãi,nói nhiều rồi. Nó là như thế đó. Dù muốn hay không quá khứ đã khép chặt.Ngẫm lại dưới gầm trời này – trong cõi Ta bà này, chúng ta không hơn con rối cho đời giật dây. Hãy bao dung,buông xả. Thôi thì tùy hoàn cảnh - sống ở đâu, trong hay ngoài,an ổn là tốt rồi. Quê hương mình vẫn còn đó,ngày mỗi ngày thanh tân – nhật nhật tân, hựu nhật tân (chữ của cụ Phan Bội Châu) – không ngừng đổi mới phát triển. Chúng ta không thể chối bỏ,né tránh lịch sử - nhưng nếu có phải nhắc lại chuyện cũ thì chẳng qua giống như tác giả Trịnh Niệm (**) trong Hồi ký “Sống và chết ở Thượng Hải”, cũng là để thấy VN mình có một thời như thế. Và, mong sao đời sau đừng lặp lại. Mọi ý kiến, hành động tích cực hướng về đất nước giờ đây cũng không nằm ngoài tác động như thanh gỗ chặn không cho bánh xe lịch sử thụt lùi,luôn giữ trớn lăn về phía trước : Hùng mạnh – Thanh bình – Thịnh vượng!
Chào Little Saigon – khúc ruột ngàn dặm.
Khép lại bài viết này, trời đất cũng vừa vặn sang xuân – “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận/ Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” (Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua sân trước một nhành mai) - (Cáo tật thị chúng - thiền sư Mãn Giác (1052–1096) - Ngô Tất Tố dịch).
Chú thích:
(*) "Chân lý bên này rặng núi Pyrénées, bên kia rặng là sai lầm"(Vérité en deçà des Pyrénées, erreur au-delà) - Blaise Pascal (1623-1662) 
(**) Trịnh Niệm tên thật Du Niệm Viên sinh năm 1915.Bà bị đày đọa bảy năm trời thời kỳ Cách mạng văn hóa,đến1973 mới được trả tự do.Tháng 9-1980 rời Trung Quốc sang Ottawa (Canada) - Ba năm sau định cư tại Washington (Hoa Kỳ). Hồi ký “Sống và chết ở Thượng Hải” nguyên tác tiếng Anh “Life and Death in Shanghai” do NXB Penguin Books ấn hành 1987.Bản dịch của Đặng Thiền Mẫn – NXB Tác phẩm mới - Tp HCM, 1989. Trịnh Niệm đã viết với giọng văn đượm nỗi u uất không sao rũ được. Bà không hề oán trách những kẻ đã gieo tai họa lên gia đình bà,lên bè bạn bà - tầng lớp trí thức rất đáng kính trọng,mà chỉ thuật cho mọi người biết, ở Trung Quốc - tổ quốc thân yêu của bà,đã có một thời như thế!.
Thủ Đức, 22/1/2021
Phan Văn Thạnh
Theo https://vietvanmoi.fr/

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...