VĂN THƠ NHẠC
Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2025
Còn thương thì về
Chẳng có đâu là thiên đường. Chẳng có đất nào bạc bẽo với mình cả. Chỉ lòng người bạc bẽo với đất mà thôi. Đất nào mình cũng có thể sống và đất nào mình cũng phải sống. Sống một cuộc đời đầy nhọc nhằn.
Thầy giáo trường huyện
Thầy giáo trường huyện
Ngày tốt nghiệp Đại học sư phạm, Phong nhận quyết định về dạy ngay trung tâm một thành phố lớn miền Tây. Thương Nguyên quê ở miền Trung, mồ côi cha, mẹ lại già yếu bệnh tật, Phong hoán chuyển cho bạn, về dạy trường huyện Long Mỹ vì Nguyên nghe nói đất Trà Ban là vùng Việt Cộng. Huyện lỵ cách xa thành phố trên năm mươi cây số giữa đồng bằng mà con lộ sơn xuyên trắc trở. Hành khách ngồi xe đò sáng sớm từ Cần Thơ đi Long Mỹ, luôn chịu cảnh nắng bụi phủ đầu cổ, mưa bùn lấm lem quần áo, mệt nhọc cả ngày mới tới được điểm đến là chỗ cùng đường. Đôi khi, hành khách chịu cảnh ngủ đêm trên xe giữa đường vì đường lộ bị đào đứt, chưa kịp lấp hoặc để tránh súng đạn giao tranh.
Từ giữa lòng thành phố, ngồi trên ô tô tại bến xe đi Long Mỹ đường cây Bã Đậu, đến quận Cái Răng, Phong đã bâng khuâng cảm thấy mình như đang hành hương trên con đường huyền thoại còn in đậm những dấu ấn kháng chiến của chiến sĩ vệ quốc đoàn từ cuộc tập kích oanh liệt của Lê Bình vào thị trấn lịch sử này. Những địa danh: Cái Tắc, Tầm Vu, Rạch Gòi, Kinh Cùng, Xẻo Trân, Vĩnh Tường rồi Vị Thanh, Hỏa Lựu, đoạn đường Cây Mít quỳ…mỗi khi xe đi ngang qua luôn nhắc Phong nhớ đến những trận chiến đấu quyết liệt của nhân dân với kẻ thù.
Mòn mỏi vượt hơn năm mươi cây số trên con đường dài chông chênh khúc khuỷu, chiếc xe đò cà tàng đời cũ khục khục lên mấy tiếng nghẹn rồi dừng hẳn, bỏ lại phía sau từng vệt khói mù xám xịt tan dần trong khoảng không gian miền quê.
– Tới Long Mỹ cùng đường rồi đó thầy giáo.
Chị hành khách bạn hàng trẻ tuổi, vui tính nói chuyện suốt trên xe, ngồi cùng băng, biết Phong là thầy giáo mới đến nhận nhiệm sở, đã mỉm cười nhắc anh.
Long Mỹ là một quận lẻ heo hút, buồn tênh lần đầu tiên trong đời Phong mới đặt chân đến. Còn gọi là Trà Ban Lớn, huyện Long Mỹ dạo ấy nối mạch giao thông với Cần Thơ bằng một hương lộ nhỏ bé, lởm chởm đá núi và lục cục đất nung. Người từ các nơi khác đến đây luôn có cảm giác gian nan như đường vào đất Thục.
Tại bến xe ọp ẹp, trông sang thị trấn quận lỵ, hành khách nhìn thấy nhà lồng chợ tiêu điều, nằm chênh vênh giữa mấy căn nhà tôn cũ, mái nhà thấp lè tè như ngủ yên trong không gian. Trung tâm thị xã gối đầu trên doi đất giao thoa mỗi năm giữa hai mùa nước lợ của dòng kênh Trà Ban thẳng tắp và con sông Cái Lớn hiền hòa từ biển Kiên Giang chảy về. Mùa nước nổi dâng ngập bờ sông, tôm cá dập dềnh, theo dòng nước nườm nượp về trên sông. Sáng sớm chiều muộn, những đám rong rêu hồ hải xanh rờn và những giề lục bình lãng tử với sắc hoa cà tím lạt trôi lềnh bềnh trên mặt sông quê.
Về đất Long Mỹ làm nghề gõ đầu trẻ, Phong phụ trách môn Việt văn và Mỹ thuật theo nguyện vọng trong lúc anh đủ tư cách dạy Toán và ngoại ngữ.
– Thầy Phong là dân văn nghệ, dạy Văn là thích hợp với một tâm hồn nghệ sĩ của anh, hiệu trưởng Lâm Đức Hùng gợi ý .
Không như vài thằng bạn hay nói vui theo ngành văn chương, làm thơ văn là để cua gái. Phong yêu văn chương, quan niệm dạy văn là dạy tiếng mẹ, tiếng nói của quê hương, chứa đựng tình tự muôn đời của dân tộc. Dạy Văn là dạy cho học trò những bài học về đạo lý làm người vì “Văn học là nhân học”. Là người của công việc, ngoài đứng lớp dạy văn chương và mỹ thuật, Phong biên tập tờ báo Niềm tin in ronéo, thành một lập ban văn nghệ học đường, đồng thời mở một lớp võ thuật cho học sinh của trường theo đề nghị của nhà trường:
– Anh Phong nên tổ chức tờ báo cho trường ngay vào Tết này để làm diễn đàn cho giáo viên và học sinh. Một giáo viên hiểu Phong, chân thành đề nghị trước hội đồng giáo viên.
– Tôi đề nghị thầy Phong thành lập ngay ban văn nghệ nhà trường cho thầy cô và học sinh tập ca hát, trình diễn văn nghệ trong những ngày lễ Tết. Hiệu trưởng Trung học Văn Trương nêu ý kiến.
– Thầy Phong mở lớp dạy võ cho chúng em, để hỗ trợ thêm cho môn thể dục của nhà trường. Trong phòng hiệu trưởng, một học sinh khép nép, thay mặt cho các bạn yêu võ thuật chậm rãi, lễ phép bày tỏ nguyện vọng.
Hơn ba năm cầm phấn đứng lớp gắn bó với học trò, đồng nghiệp ở một vùng sâu, Phong cảm nhận ra thêm lòng yêu tha thiết tuổi trẻ, yêu nghề ở một người gieo chữ được lòng cảm mến yêu thương của tất cả phụ huynh. Trừ lớp võ thuật phải tạm ngưng vì có các anh công an cộng hòa gần trường bất ngờ xin vào học, công tác giảng dạy chuyên môn ở trường và các hoạt động văn nghệ báo chí Phong đã hoàn thành tốt đẹp. Một hôm vào đầu hè gần ngày kết thúc năm học, bỗng nhiên như đất bằng dậy sóng, Phong nghe tin có lệnh gọi trình diện đi học khóa sĩ quan Thủ Đức. Anh ăn ngủ không yên rồi không kèn không trống, trốn học sinh bè bạn, âm thầm lánh mặt về thành phố. Trở lại Tây Đô, sống lầm lũi Phong, xa lánh bè bạn, người thân trong mặc cảm một thầy giáo dạy tư ở tình trạng bất phục tùng vì sợ họ bị liên lụy. Mỗi ngày, vừa hết canh ba Phong thức dậy dẫn chiếc xe đạp cà tàng ra bến xe ôm ở Chợ Gà hay bến bắc đón khách, kiếm thêm chút phụ thu, mua nhanh vài con ba khía, cá biển hoặc rau muống mang về cho đám con mồ côi nheo nhóc ở nhà. Sau những bận rộn lo toan kinh tế cho gia đình, Phong tranh thủ vào giảng đường Đại học ngồi cặm cụi ghi bài học với các bạn sinh viên nhỏ tuổi hơn anh.
Sau gần mười năm trốn lính, vượt khỏi qua tuổi động viên, Phong làm đơn, viết thư xin với Nha Trung học ở Sài Gòn để được tiếp tục đi dạy học lại. Nhờ giám đốc Nha Trung học, giáo sư Đàm Xuân Thiều, nguyên là giáo sư của Phong ở trường Chu Văn An Sài Gòn còn nhớ anh là học trò giỏi môn Sử của mình, Phong được cấp quyết định về dạy giờ lại tại Trung học Cờ Đỏ tại thị trấn Thới Đông.
Cờ Đỏ ngày ấy là một quận lỵ heo hút cách xa thành phố hơn năm mươi cây số ở giữa ranh ba tỉnh Cần Thơ – Rạch Giá – An Giang với những cánh đồng lúa mênh mông trải dài như tấm thảm lụa vàng vào những ngày mùa. Thị trấn nằm ngay xã Thới Đông, vắt mình lên hai ven bờ xanh um cây lá của một con sông ngầu đục phù sa đầy tôm cá, chạy thẳng vô giữa những đồng lúa ngút ngàn. Mùa nước lên, hoa điên điển rở rộ trông xa như một rừng mai vàng ối: Thới Đông đồng lúa mênh mông/ Hoa điên điển nở, mười phương mai vàng.
Nằm cách xa thành Miên và dấu ấn lẫm lúa cũ của thời Tây vài trăm mét, trường Trung học Cờ Đỏ có một dãy lầu khiêm tốn với những phòng học. Thích sống phóng khoáng một mình, Phong không thuê nhà trọ ngoài trường. Hành trang gồm vài bộ quần áo cũ với giá vẽ và cây đàn guitar, thầy giáo Phong xin hiệu trưởng được ở trên một phòng cuối cùng còn bỏ không của dãy lầu. Nơi đây, buổi sáng sớm, qua lớp sương mù giăng giăng mờ mịt cánh đồng lúa bát ngát mênh mông bên ngoài, Phong thích thú được trông thấy cảnh bình minh rực rỡ khi mặt trời đỏ ối nhô lên như một lòng trứng khổng lồ nơi không gian xa tít của thành phố quê mình. Những buổi hoàng hôn trông về rừng núi An Giang, Hà Tiên, Phong cảm thấy chạnh lòng hoài hương khi nhìn về phương trời Tịnh Biên mịt mùng trong màn mưa núi: Mưa Tịnh Biên mịt mùng biên cương/ Gió mưa thêm gợi sầu tha hương/ Sưởi lòng không thuốc, cà phê đắng/ “Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương” (*) với dãy Thất Sơn hùng vĩ xa mờ hiện ra níu liền mặt đất mênh mông với mây trời lãng đãng, làm phong phú thêm tâm hồn lãng mạn và óc nghệ sĩ của anh.
Ở Cờ Đỏ, Phong vừa dạy học vừa viết bài gởi các báo ở Sài Gòn trong ba ngày đầu tuần, chiều thứ tư, Phong quày quã về Tây Đô để các ngày còn lại, vừa đi dạy thêm, vừa vào giảng đường Đại học. Phong hoạt động không ngừng nghỉ: làm chủ bút báo Văn khoa, hướng dẫn bạn gieo vần làm thơ. Anh mài miệt sách đèn học rồi tốt nghiệp Cử nhân, sau đó lên Sài Gòn tiếp tục ghi danh ban Cao học Văn chương.
Chính quyền đương thời chủ trương bắt lính và quân sự hóa học đường. Các phong trào chống đối mạnh mẽ của sinh viên Cần Thơ thường nổ ra ngày đêm qua các cuộc hội thảo, mít-tinh rồi xuống đường đi biểu tình…Anh em hát nhạc phản chiến rồi tham dự với các nhà giáo, nhà văn yêu nước qua các bài thuyết trình có lửa về hoàn cảnh trớ trêu của nhiều người trước tình hình chiến tranh: Rớt Tú Tài anh đi trung sĩ/ Vợ ở nhà lấy Mỹ nuôi con/ Thanh bình trở lại nước non/ Về nhà đã có Mỹ con anh bồng (GS. Lý Chánh Trung). Sau những đêm không ngủ, sáng sớm hôm sau, anh em sinh viên cùng nhau rầm rộ, xuống đường đi biểu tình. Là dân có máu văn nghệ báo chí, Phong đã góp một phần công sức nhỏ bé vào phong trào. Qua các cuộc đấu tranh bị chính quyền đương thời kêu gọi giải tán, anh từng bị ăn lưu đạn cay, uống nước vòi rồng. Lắm ngày, Phong về nhà muộn với đôi mắt đỏ hoe, mặt mày phờ phệch, quần áo lấm lem vì tham gia biểu tình với sinh viên. Mấy đứa em trong nhà và bà con hàng xóm thấy vậy ngạc nhiên hỏi, Phong bảo là đi dạy học, bị xe ủi té xuống mương lộ.
Mùa bão nổi trong cao trào đấu tranh của sinh viên yêu nước Cần Thơ, Phong được chuyển về dạy tại Cái Răng. Như cánh chim không mỏi, tại quận lỵ chợ nổi còn mang dấu ấn lịch sử của Lê Bình và nhà thơ Hoài Sơn, Phong hoạt động thăng hoa nhờ sự quan tâm đặc biệt của hiệu trưởng vốn là một giáo sư có cảm tình với kháng chiến và yêu văn nghệ báo chí. Ở cương vị thầy giáo tổ trưởng khối Văn – Triết kiêm Trưởng ban Văn nghệ – Báo chí nhà trường, Phong hướng dẫn học sinh nhà trường đi tham quan có thuyết trình luôn tại phần mộ các nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa. Nhờ hòa mình vào phong trào đấu tranh của sinh viên, Phong lại cơ hội gặp gỡ lại bàn chuyện văn nghệ với các nhà văn yêu nước như Vũ Hạnh, Sơn Nam, Kiên Giang,… Phong biên tập, tự trình bày và minh họa những giai phẩm Xuân Nắng Mới 1, 2 và 3 trong ba năm liền 1972, 1973, 1974 với nội dung có lửa về bốn tác giả yêu nước Nam bộ: Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa và Lê Vĩnh Hòa.
Một năm trước ngày thống nhất nước nhà, thầy giáo huyện Nguyễn Tường Phong nhận được hai niềm vui lớn thuyên chuyển về trường trung học Lương Khê gần gia đình. Theo gợi ý của giáo sư bảo trợ Bửu Cầm ở Đại học Sài Gòn, Phong lo chuẩn bị ngày ra hội đồng giáo sư thẩm định để hoàn tất ban Cao học Văn chương.
Về đứng lớp tại một trung học lớn, lâu đời ở miền Tây những ngày đầu, Phong cảm nhận ra hết cả vui mừng xen lẫn nỗi băn khoăn khi anh trình diện với hiệu trưởng Trần Cồ. Vui mừng vì được làm việc gần nhà tiện việc chăm sóc các con và lo lắng cho gia đình, nhưng Phong vẫn không tránh khỏi chạnh lòng. Có người vào hàng chức sắc đã chóng biểu lộ sự thay đổi thái độ lạnh lùng xa lạ với một thầy giáo trường huyện quê mùa từ vùng đồng chua nước mặn mới về, thành ra tính đố kỵ khi biết Phong đã sở hữu được nhiều thứ mà họ không có được. Dù vậy, các ngài cũng giao cho anh những công việc mà nhà trường chưa thực hiện.
– Anh Phong chuẩn bị ra ngay tờ giai phẩm vào xuân này. Hiệu trưởng Trần Cồ phán.
– Tuần sau, anh Phong khắc tấm bia đá kỷ niệm bên cột cờ tại sân trường. Lê Uyên, giám học có máu văn nghệ, với nét mặt vui vẻ, tỏ ra hồ hởi phát biểu trước hội đồng giáo sư.
Đội màn nắng hè thiêu đốt, thầy giáo Phong hoàn tất tốt đẹp công tác đầu tiên được giao: Hồn thiêng sông núi/ Xương máu tiền nhân…Những câu thơ bay bướm nghe mang mang sâu đậm ý tình, hiển thị lên với nét chữ đẹp từ những ngón tay gầy guộc rướm máu của Phong đã móc thủng nền xi măn ướt trong suốt mấy ngày ròng rã đội nắng lao động nghệ thuật!
Về trường mới tại tỉnh nhà có ngôi trường cũ yêu thương, Phong cảm thấy vui vì mình có nhiều kỷ niệm êm đềm trong suốt thời trung học. Vài bạn cũ đồng nghiệp như Mạnh, Lâu, Tý… tỏ vẻ tán thành ý kiến của của lãnh đạo, giục giã Phong:
– Này Phong, mày làm báo không vì là một giáo viên mới đổi về đóng góp công sức cho trường mà còn ở tư cách một học trò cũ lâu năm của trường.
Vâng lệnh cấp trên và nghe theo ý kiến bạn thực hiện một công tác thích hợp với khả năng và thỏa mãn cho niềm đam mê trong đời của mình, Phong coi là một niềm hãnh diện. Phong vui vẻ sắp xếp ngay công việc giảng dạy ở nhà trường và ở gia đình lên Sài Gòn in báo trong lúc không một ai ở trường dám bỏ gia đình đứng ra đảm nhận công tác văn nghệ báo chí ở một nơi xa nhà. Sau hơn tháng thông báo kêu gọi giáo viên, học sinh viết bài nộp cho ban biên tập, Phong nhờ người chị ở quê ra trông nom hộ đám con nhỏ tại nhà, và bạn cùng môn thay thế giờ dạy trong thời gian anh vắng mặt ở trường. Ròng rã hơn hai tuần bám trụ tại nhà in Nguyễn Bá Tòng đường Bùi Thị Xuân, Sài Gòn, đêm đêm, Phong dựa vào tường, ngủ gà ngủ gật trong không gian chật chội ngột ngạt, rì rầm tiếng máy in. Đôi lúc đang chập chờn giú giấc ngủ hờ, Phong phải bật dậy theo tiếng gọi của thợ in thức dậy sửa bài, viết bài trám trang hoặc vẽ minh họa thêm vào tờ báo cho đến khi giai phẩm được tốt đẹp ra đời trước ngày nghỉ Tết.
Buổi sáng muộn ngày chớm đông quang đãng, cơn gió hiu hiu se lạnh từ sông Hậu xào xạc thổi qua. Những cây còng lão buông những cánh hoa vàng úa và trái khô khốc cong queo xuống mặt sân trường lún phún cỏ dại. Đang trò chuyện cùng các bạn ở phòng giáo viên, Phong nhận được tin báo của thầy ký Cương, thủ quỹ trường gọi anh lên lĩnh lương. Sau khi nhận tiền, Phong vô cùng ngạc nhiên, không tránh khỏi băn khoăn và xót xa khi được thủ quỹ cho biết lý do lương mình bắt đầu bị bớt đi mỗi tháng vì đã tiêu xài quá phung phí trong thời gian lên Sài Gòn in báo. Hiệu trưởng Trần Cồ im lặng không giải thích. Giám học Lê Uyên cũng phớt lờ, không tỏ ra thông cảm với Phong, chẳng có lời lẽ bênh vực cho anh là người đã lao tâm khổ trí vì tờ báo. Những thằng bạn cũ Mạnh, Lâu, Tý từng đòi vào nhóm thực hiện tờ giai phẩm cùng Phong, lại thờ ơ, im lặng như biểu lộ một thái độ đồng tình. Hơn một năm, thầy giáo Nguyễn Tường Phong âm thầm chịu lĩnh phần lương tháng bị xén bớt một cách máy móc, thiếu mất tính nhân văn, gây khó khăn không ít cho một thầy giáo trường huyện mới đổi về.
Ngồi một mình trong ngôi nhà nhỏ, trầm ngâm với hố mắt buồn, Phong đau đáu nghĩ suy không ít về những hệ lụy từ văn chương nhưng anh không bao giờ nản chí. Trải qua hơn ba lần đứng lớp nơi trường huyện xa xôi rồi về thành phố, Phong trải nghiệm được nhiều về thế thái nhân tình. Nhưng mỗi lần bị thiên hạ nhẫn tâm vùi xuống là một lần cho Phong những bài học. Anh nhớ mãi lời thầy đã dạy anh những vấp ngã, đau thương cho ta những kinh nghiệm quý giá, giúp ta ngoi lên chỗ cao hơn và tìm được thế đứng thẳng, cách vượt xa hơn về phía trước và bay cao hơn: Đời là một vũng bùn, ta cố ngoi lên ở chỗ cao. Khảng khái đinh ninh “Dĩ bất biến thành vạn biến”, với ý chí sắt thép, thầy giáo huyện Phong đã coi thường những trắc trở gian nan thậm chí cả đến chèn ép nhỏ nhoi hay dập trù thâm hiểm của con người nhỏ hẹp. Tất cả những vụn vặt, nhỏ nhoi, thâm chí đến cả đố kỵ, anh đều xem như sỏi đá dưới chân, chỉ lót tốt đường đi cho anh vươn lên tới đỉnh cao thành tựu vinh quang. Đồng thời nó cũng làm cho kẻ đố kỵ anh được sáng ra đôi tròng mắt tục vì đã coi thường thiên hạ.
Từ ngày ngậm ngùi giã từ trường huyện xa xôi về lại tỉnh nhà, Phong không vẫn quên những ngày thầy trò vui vẻ xúm xít làm báo hay đi vẽ ngoài trời, những đêm đàn ca, diễn kịch trên sân khấu nơi nhà lồng chợ cùng các học sinh và bè bạn. Đôi lúc thầy giáo Nguyễn Tường Phong thầm nghĩ: phải chăng tên mình cha đặt ra với mong ước con có được sức mạnh thần kỳ như cuồng phong, bão tuyết để nhắc nhở anh luôn vượt xa và bay cao hơn chính mình. Phong tự nghĩ, có lẽ vì trót đã hiếm giống ai nên luôn bị người đời đố kỵ. Nhưng tuyệt nhiên, Phong tự nghĩ dù: bị ganh ghét, ta vẫn không để bị họ coi rẻ khinh thường là hạng người bất tài vô dụng! Bất chợt Phong lẩm bẩm tự an ủi “Mãnh hổ rừng xanh và đại bàng biển Đông thường đi một mình”. Thôi, mặc thế đời đen bạc, ta cứ lầm lũi độc hành đi tìm hoa nguyệt quế ở hướng mặt trời lên!.
11/5/2020
Nguyễn Thanh
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Gã săn cổ vật
Gã săn cổ vật
Lĩnh thôi vò đầu bứt tóc ngồi trầm tư như một vị ẩn sĩ quan sát nhân tình. Lúc này gã chỉ muốn nghiền ngẫm những việc đã qua, tỉ mỉ toan tính những dự định ấp ủ bấy lâu.
Lĩnh “đồ cổ” đã đợi ngày này lâu lắm rồi!
Cả tháng nay trong đầu gã chỉ có ngày 2 tháng 9. Ngày mà gã được trả tự do. 18 tháng “nghỉ đông” đột nhiên bị phá bĩnh bởi hai từ đặc xá. Không quen lắm nhưng gã thích sự phá bĩnh này, nhiều đêm rồi gã không thể chợp mắt vì mừng. Ở đây, sự buồn chán khiến Lĩnh thiếu kiểm soát. Gã chẳng biết làm gì ngoài việc tiêu hao năng lượng cho việc giảm thiểu sự nhàm chán bằng cách đan những con thú bằng nilon. Cứ nghĩ tới những ngày “đi sứ” sắp tới, những món cổ vật “ngon lành” đang chờ, lòng gã lại rộn lên như một tay săn sách tóm được bản thảo gô tích cổ. Lĩnh đứng ngồi không yên, cứ đi tới đi lui đến nỗi bạn tù phải thốt lên: “Đít mày có nhọt à” gã mới chịu gieo mình xuống sàn ôm ấp sự im lặng – người bạn đồng hành kiệm lời. Chúng ta thường ngăn sự nhàm chán bằng cách giữ mình bận rộn. Bởi thế, tâm trí gã vẫn cứ mải đuổi theo mớ đồ cổ chạy lung tung trong đầu mình.
Giới săn đồ tận dụng mấy tháng mùa khô để đi sứ. Những lúc rảnh rang thì buôn bán nhì nhằng hoặc ngồi lê la tổ tôm, bù khú với đám thợ săn già nghề. Hết tiền lại lên rừng làm xu. Thường thường, Lĩnh “đồ cổ” sẽ hóa trang thành thợ săn ảnh để có thể tự nhiên săm soi vào mọi xó xỉnh mà không bị ai để mắt tới. Hễ chỗ nào có món đồ ngon thì y như rằng nhà có gái đẹp. Không sớm thì muộn Lĩnh “đồ cổ” cùng bọn đàn em cũng đánh hơi ra được. Đó là kỹ năng đặc biệt của người làm nghề. Mỗi năm chỉ cần trúng vài “quả” là đủ ăn. Còn năm ngoái, quả lớn nhất của gã là quả… Chí Hòa. Lĩnh cay còn hơn cắn ớt.
Nghĩ đến ngày tháng ăn nên làm ra trước kia mặt Lĩnh thuỗn ra như cái lưỡi cày bị cùn. Những ngày chờ đặc xá rặc cái đồng hồ chết giờ, nhìn đâu cũng thấy tuyển thủ đội Juventus. Gã chán. Chán. Chán lắm rồi. Gã thở dài đánh thượt rồi lấy cái gương ra soi. Cái gương nhỏ mà người bạn kết nghĩa trong một chuyến đi sứ tặng Lĩnh trước lúc vào đây. Lĩnh “đồ cổ” đưa tay vuốt tóc. Mái tóc mà 18 tháng trước gã chải như Đan Trường. Nhưng giờ thì thảm hại rồi. Mái tóc bị cắt cụt lủn như một cây chổi lông rẻ tiền. Đến nỗi mỗi khi tắm xong, gã phải thốt lên trong nỗi tái lịm: “Thợ săn đồ cổ lừng danh một thời đây sao?” Rồi gã giận một khối căm hờn sau song sắt. Mặt Lĩnh co rúm lại, răn reo như vừa tốn một khoảng ngu phí cho một món hàng rởm, sau đó là một tiếng gằn thật dai xả hết sự bực tức vào cái gương. Gã lăn dài ra sàn tiếp tục ôm ấp sự im lặng, chỉ nhớ rằng ngày mai đây, Lĩnh “đồ cổ” sẽ được tái xuất giang hồ.
Lĩnh thôi vò đầu bứt tóc ngồi trầm tư như một vị ẩn sĩ quan sát nhân tình. Lúc này gã chỉ muốn nghiền ngẫm những việc đã qua, tỉ mỉ toan tính những dự định ấp ủ bấy lâu. Vì sắp đến lúc để thực tiễn kiểm chứng mớ lý thuyết hàn lâm đó rồi. Gã sực nhớ bạn tù xung quanh vẫn còn đang nghỉ ngơi nên miễn cưỡng đặt đít xuống chiếc chiếu bóng lưỡn quen thuộc.
Sáng hôm sau, khi tiếng chìa khóa keng keng vang vang rồi tiếng kéo then cửa lách cách gần bên tai, gã xốn xang như đứa trẻ dậy thì sớm. “Tự do, tự do rồi”, gã nói bụng thế. Rồi hai người, một Trung úy, một Thiếu úy bước vào phòng giam dõng dạc đọc tên những con người may mắn được đặc xá, trong đó chắn chắn có tên Lĩnh “đồ cổ”. Gã đã nhận lại đồ lưu ký, giờ đi lăn tay rồi có thể cầm quyết định đặc xá đường đường chính chính rời khỏi nơi này. Gã bị giam ở đây cũng như một món cổ vật nằm sâu dưới lòng đất đến bây giờ mới được đào xới lên, mang vào viện bảo tàng trưng bày một cách đúng nghĩa. Rồi người ta sẽ biết đến giá trị của gã. Việc cần làm lúc này là Lĩnh “đồ cổ” làm ra bộ dạng nghiêm túc cho dù quá khứ đầy biến động của gã đã được lưu trong hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát, một vụ lừa đảo đầy tai tiếng.
Về lừa đảo, gã có những bậc tiền bối lừng danh. Vì thế, Lĩnh “đồ cổ” chẳng hề thấy áy náy.
Lĩnh đi như chạy nhưng bị Trung úy vịn lại:
– Lo mà làm ăn cho tử tế, tao không muốn gặp lại mày đâu. – Trung úy nghiêm giọng nói.
Lĩnh dám cá rằng, sự ra đi của gã đã mang lại một niềm vui không nhỏ cho Trung úy nhưng niềm vui đó không hề được biểu lộ trên khuôn mặt cứng cát kia. Thế nên Lĩnh “đồ cổ” giả lả, cười như không cười vì gã nhận ra con người chúng ta không bao giờ nói những điều có thể đi vào trái tim nhau mà chỉ nói toàn lời đắng cay. Cuộc đời luôn trái khoáy như thế.
– Tôi làm gì phạm pháp thưa cán bộ?
– Phải rồi! Hiện tại thì không nhưng sau này thì khó mà nói trước được. Dù sao cũng mừng cho mày, hòa nhập cộng đồng cho tốt nhé!
– Tôi còn nhiều dự định phải thực hiện ngay sau khi rời khỏi nơi này. Thôi, chào cán bộ!
Lĩnh “đồ cổ” từ biệt nơi đã che chở gã suốt mấy mùa mưa gió bằng điệu Moonwalk nổi tiếng trước con mắt đầy ganh tị của các bạn tù khác. Có người nói với ra: “Nhớ thường xuyên vào thăm tụi tao nghen Lĩnh đồ cổ” rồi cả đám tù cười ồ lên.
Câu đùa làm Lĩnh chạy trối sống. Một lần này thôi là gã tởn tới già: “Tao còn phải lo làm ăn hơi đâu vào thăm tụi mày, lũ điêu”. Việc đầu tiên sau khi ra tù là Lĩnh đi gặp thằng đệ kết nghĩa của mình. Thằng Thạch. Cái thằng có cặp mắt to như con khỉ cú, mũi như khỉ vòi, một ví dụ xuất sắc khi tìm hiểu về loài khỉ. Thạch đương nhâm nhi cuốn “Đập cái bình cổ” bổ sung kiến thức để có thể mang ra tiếp chuyện mấy tay thợ săn lúc cần thiết. Thấy Lĩnh, Thạch “khỉ” vứt ngay quyển sách đi vì chính Lĩnh đã là một cuốn sách chuyên về khảo cổ rồi. Ngay cả những cuốn sách khảo khổ bán đầy thị trường đấy là người ta viết thế thôi, nhưng chính tác giả cũng chưa bao giờ được kiểm chứng những gì mình viết có đúng thực tế không.
Thạch nhảy cẫng lên sui sướng khi gặp lại Lĩnh “đồ cổ”. Rồi Thạch đưa gã vào nhà, chính xác là cái kho, nơi mà Lĩnh ký gửi đồ trước khi “nghỉ đông”. Sự am tường đồ cổ của Thạch chỉ lõm bõm nên gã cũng chả thèm rớ tới mấy món đồ đó làm gì. Vả lại Lĩnh sa chân Chí Hòa cũng là rồng mắc cạn, sớm hay muộn cũng được trả tự do. Thằng đàn em như gã sức mấy mà dám qua mặt. Vừa thấy, Lĩnh nhảy tới nâng niu từng món một:
– Cái này là đèn dầu Hoa Kỳ, này là đèn bầu pha lê Pháp, mảnh giấy cói, cái bi đông thời chiến… mớ đồng xu cổ, vẫn còn thiếu một vài thứ nữa. – Gã ngoái mặt lại nhìn Thạch đương ngoáy mũi – Ngày mai tao sẽ tới viện bảo tàng nhận về một vài món đồ. Tới lúc giải phóng mớ đồ này kiếm chút đỉnh bồi dưỡng rồi. Trong đó ăn uống sa sút quá, tao sụt hơn 10 ký lô đấy. – Lĩnh nhìn khuôn mặt béo bệu của Thạch “khỉ” mà tủi. Gã hít mũi làm ra vẻ oan khuất, mặt đỏ dừ như muốn khóc. Nhưng điều gã tiếc không phải là 10 ký lô mà là mái tóc, mái tóc hệt thần tượng. Rồi gã nghĩ đến mỗi việc tụ tập tại quầy bar, làm một cốc bia lạnh sủi bọt tự do ngắm các cô em thỏa thích mà không bị bé cưng ngồi kế bên ngắt hay nhéo.
Dường như Thạch “khỉ” chả quan tâm mấy đến chuyện Lĩnh “đồ cổ” nói. Nhìn hắn kìa. Cười suốt buổi. Nếu để mớ đồ cổ dày công sưu tầm trong tay một người thiếu I-ốt như thằng Thạch cất giữ thì thật lo lắng, bởi thế nên trước khi đến Chí Hòa, Lĩnh đã gửi hết số ngon ở viện bảo tàng. Gửi vào đó để chuyển tải thông điệp lịch sử đến người dân mà lại được bảo quản kỹ càng chẳng phải hay hơn sao? Vậy mà thằng đệ vẫn chưa chịu hiểu ra, cứ thể hiện sự ngớ ngẩn của mình bằng những lời lẽ ngu xuẩn. Gã lắc đầu nguầy nguậy kèm theo lắm nỗi lo. Lĩnh không ngờ sau 18 tháng gặp lại thằng Thạch khỉ vẫn không tiến bộ lên chút nào. Sự kỳ vọng của thằng đàn anh đối với hắn là vô vọng.
– Mày khờ quá khỉ à! Theo tao mà không khôn lên được là tại mày đó.
– À, đại ca – hắn vò mái đầu bờm xờm, ấp úng – có chuyện này em không biết có nên nói hay không. Lúc anh đi vắng, lão Khánh Tường ở Hóc Môn vừa tầm được chiếc đĩa trà Khánh Xuân Thị Tả, đẹp như Ngọc Trinh! Đại ca thấy mà không mê thì gì em cũng chịu – Hắn vừa nói vừa xuýt xoa hai bàn tay tỏ ý thèm muốn.
Mặt dù đương mệt nhưng nghe tới đồ cổ là mắt Lĩnh sáng lên như ánh lửa pháo hoa:
– Thật sao? Cái đĩa đó thời giá bây giờ ít nhất cũng 8000 USD. Nhưng với tao thì tiền bạc chỉ là phụ, đam mê mới là chính. Nhưng sống được với đam mê mới khoái.
– Phải phải, đại ca nói đúng lắm. Mình đi xem thử không?
Lĩnh im lặng rồi đảo mắt một vòng trên trần nhà như đang dự tính điều gì. Lão Khánh Tường mà thằng đàn em vừa nhắc tới gã còn lạ gì nữa. Một con người cao giá, nổi tiếng trong nghề với lối sống lập dị thế cũng chẳng trách. Điều đáng trách là lão không xem anh em trong nghề ra gì. Hồi mới vào nghề Lĩnh bị lão cho một vố nhớ đời. Qua các mối lái, Lĩnh mua được chiếc lọ độc bình đời Minh của một gia đình người Hoa ở phố đồ cổ. Gã mừng lắm. Vài hôm sau, Lĩnh mang đến mấy tay đầu nậu bán để ăn chênh lệch thì họ lắc đầu, cười: “Đồ giả chú mày ạ”. Nghe thế Lĩnh hoảng quá, đành bán thốc bán tháo cho lão Khánh Tường giá hai triệu đồng để hòa vốn. Ít lâu sau, Lĩnh mới biết chiếc độc bình về tay chủ mới với giá gấp 80 lần nhờ thủ đoạn của lão Tường và thói đỏng đảnh của thị trường đồ cổ. Giờ nghĩ lại gã vẫn còn tức cành hông. Tâm tư của gã lúc nào cũng bị ám ảnh bởi hành vi của con người lập dị kia. Nghĩ cách trả thù cho lòng tự ái bị tổn thương là điều cần thiết, và bất kỳ một tay buôn đồ mẫn tiệp nào trong hoàn cảnh này cũng sẽ làm thế. Lĩnh “đồ cổ” lầm bầm: “Hồi đó mình còn non tay nên mới tuột xích thôi. Còn giờ thì phải cho lão một vố rồi”.
Ngay hôm sau, Lĩnh “đồ cổ” phone cho đám bạn cũ để dò hàng nhưng mục đích chính là thông báo cho họ biết sự trở lại của một thợ săn lành nghề. Cốt yếu là để bọn đàn em dò hỏi cái đĩa Khánh Xuân Thị Tả mà lão Tường đang sở hữu thực hư thế nào. Mỗi ngày đều có cả chục thương lái tới hỏi thăm lão cái đĩa ấy. Vì đây là món hàng nhà Nguyễn đặt làm ở Trung Quốc nên lão ta chưa dám ra giá chứ đồ Việt xưa lão sành như lòng bàn tay. Khánh Tường sinh lo vì mười người đều cho mười ý kiến khác nhau, lão chỉ biết cái đĩa của mình có giá 8000 USD mà thôi. Ngay ngày hôm sau, lão nhận một nhân viên để làm công việc cao quý là canh giữ cái bình cổ ở phòng trưng bày nhà lão. Khi phỏng vấn, lão cho người nhân viên ăn một bát xúp. Sau khi ăn xong bát xúp thì công việc của hắn chính là canh giữ cái đĩa kia cho đến khi lão tìm được người để gả nó, hoặc nó được di chuyển an toàn đến viện bảo tàng, nơi những ánh mắt thèm thuồng đều hóa thành những giọt nước dải. Thế nhưng bọn cò bọng chả dẫn người nào tử tế đến mua, toàn gạ gẫm. Lão còn lạ gì bọn man trá ấy. “Một lũ bịp” lão phải thốt lên như thế để đuổi cổ cả đám ra về.
Lâu nay lão muốn giải nghệ vì cái tên Khánh Tường sớm đã vang khắp giới buôn cổ vật. Con người ta khi đạt tới đỉnh danh vọng thì họ chỉ muốn phủi bỏ mọi thứ để quay về với căn phòng riêng. Lão sẽ bán sạch sành sanh kiếm một số vốn rồi cuốn gói về Củ Chi gầy dựng một trang trại, rũ bỏ mọi cám dỗ của nghề buôn đồ cổ. Ngặt một nỗi nó thú quá, chưa bỏ được. Ý định này có từ rất lâu, nói tới nói lui lại chìm vào quên lãng. Cho đến khi bà vợ phải nhắc lại đến lần thứ n lão mới ầm ừ đồng ý. Cái đĩa này là thứ cuối cùng lão động tới. Sau này nhớ quá thì vác xác đến viện bảo tàng ngắm cho thỏa. Lão nghĩ vậy.
Nửa đêm, lúc lão đương say giấc nồng thì nghe “có trộm… trộm…”. Tên trộm không hề biết người bảo vệ được lão an bài cho một vị trí vô cùng đẹp, có thể quan sát được toàn bộ phòng trưng bày nên sa lưới. Việc không ngoài dự đoán nhưng khi nghe người bảo vệ kêu gào, lão Tường tức tốc tới ngay. Còn tưởng là ai, hóa ra là Lĩnh “đồ cổ” – kẻ được đặc xá tuần rồi. Khuôn mặt kẻ trộm được người bảo vệ soi sáng một cách cẩn trọng.
Cơn cuồng nộ bùng lên một cách thiếu kiểm soát do tác động mạnh của cái tên: Lĩnh “đồ cổ”. Lão biết trăm sự từ thằng này ra. Chỗ ánh mắt đã từng ngắm hàng trăm món cổ vật đỏ giờ đây đỏ lửa, sâu hoắm. Lúc này, lão được phép xả hết nỗi niềm dồn nén trong lòng mấy hôm nay. Hai mắt lão bắn ra một tia nhìn nhắc nhọn trước khi sấn tới cho Lĩnh hai cái tát.
– Thì ra là mày? Hôm kia mày qua xem hàng là tao nghi rồi. Ngựa quen đường cũ, lần này cho mày đi tù mọt gông luôn. Hết chuyện lại đi trộm đồ nhà tao.
Mặt Lĩnh “đồ cổ” đỏ tưng bừng. Gã cảm nhận được sự bất hạnh dội xuống đầu mình nhưng không né được. Một sai lầm không thể vãn hồi, đành bất lực chịu sự khống chế của lão. Có lẽ Lĩnh cần nhiều lần giáp mặt với lão Tường trong một hoàn cảnh tương tự mới có thể chế ngự được cảm xúc này. Gã bối rối nhìn quanh như người mộng du bừng tỉnh. Gã nhớ những bước chân do dự đầu tiên, câu nói mà bạn tù trêu khi bước ra khỏi Chí Hòa. Câu nói đó cứ vẳng bên tai, cứ bám lấy gã như một cái ghẻ độc. Lĩnh “đồ cổ” ngắc ngứ vì ngay chính gã cũng không ngờ trước được gã bị tóm một cách dễ dàng như vậy.
– Anh Tường bỏ qua cho em lần này, em chỉ vào xem cho đỡ ghiền chứ có định trộm đâu…
Lão Khánh Tường sửng cồ, phóng tới vỗ vào đầu hắn cái độp:
– Mày nói nghe hay quá! – Rồi lão quay sang nhân viên bảo vệ – Gọi cảnh sát cho tao.
Vẻ lúng túng của Lĩnh “đồ cổ” làm nhân viên bảo vệ thích thú, hắn cười rất kịch. Tiếp xúc nhiều với cảnh sát lẽ ra Lĩnh phải dạn dĩ mới phải. Thật không như những gì hắn hình dung ban đầu – hắn kéo một hơi dài khinh bỉ. Không suy nghĩ thêm, hắn cho ý kiến:
– Dạ em nghĩ không cần gọi cảnh sát làm gì cho ồn ào. Cảnh sát mà tới đây thì dựng hiện trường, lấy lời khai tới sáng. Theo em, mình trói tay hắn lại rồi giải lên phường làm việc là được rồi, đêm khuya không phiền anh chị làm gì.
Đôi mắt đỏ ké sau cặp kính dày cộp dịu đi đôi chút vì lão Khánh Tường thấy nhân viên bảo vệ có lý. Lão gật gù, giọng phấn khích kỳ lạ. “Không uổng công tao bỏ tiền thuê mày. Hà hà”. Nói sao, làm vậy. Nhân viên bảo vệ dựng Lĩnh dậy, bẻ quặt hai tay gã ra sau như phụ nữ gài móc áo nịt vú bằng cái áo sơ mi gã đương mặc rồi cẩn thận đặt chiếc đĩa vào trong hộp xốp một cách rành rẽ như chính hắn đã từng là nhân viên gói hàng chuyên nghiệp.
– Ôi cái thằng, mày làm khỉ gì thế? Cái dĩa của … – Khánh Tường rú lên inh ỏi khi chứng kiến hành động của tay bảo vệ.
Hắn giải thích:
– Phải có tang vật mới xử lý hắn được chứ ông chủ? Cảnh sát luôn đòi hỏi thế mà…
Nghe vậy, lão Khánh Tường vỗ đùi cái đét, xuống giọng ngay:
– Hà hà, thằng này được. Giao cho mày đó. Mang đi lập biên bản rồi mang về giùm tao. Mẻ một miếng thì chết với tao.
– Dạ! Chắc chắn rồi!
– Khoan. Để tao viết mấy chữ cho công an đã! – Khánh Tường ra hiệu chờ rồi mở ngăn kéo, lấy giấy bút viết tháu gì đó. Xong, lão gấp lại, nhét vào cái hộp xốp đựng chiếc dĩa bảo vật rồi gật đầu – Xong rồi! Giải nó lên phường cho tao.
Người bảo vệ mở cửa phòng trưng bày, đá cái phạch vào đít Lĩnh rồi dẫn hắn đi. Lúc này Lĩnh loạng choạng bước đi, đến khi chìm hẳn vào màn đêm, nơi ánh đèn đường vàng khé trên cao không tài nào soi tới, Lĩnh “đồ cổ” mới rền rĩ một cách vui sướng:
– Cởi trói cho tao nhanh đi Thạch.
– Dạ, đại ca.
Lĩnh “đồ cổ” xuýt xoa gò má đỏ chét rồi hít hà trước khi cười ré lên một cách ngây dại, Gã xoa xoa nắn nắn hai bàn tay:
– Xem nào xem nào, hà hà. Tao không ngờ thằng cha lập dị này lại ngu xuẩn đến thế! Cuối cùng thì tao cũng rửa được mối hận trong lòng…
– “Ấm” rồi đại ca ơi. Lần này có tiền nhậu thả ga rồi hé hé… – Thạch khỉ cũng vui mừng không kém.
Lĩnh nhanh tay tháo hộp xốp ra. Tờ giấy gấp tư từ trong chiếc hộp tuồn xuống đất. Lĩnh “đồ cổ” nhặt lên, vì tò mò nên mở ra đọc thành tiếng:
“Chịu khó trả tiền lương cho thằng bảo vệ phản trắc thay tao nghe Lĩnh! Rồi lo mà biến cho xa. Nhớ giữ cái đĩa này cho kỹ, chừng trăm năm nữa thì giá nó không kém giá cái đĩa thật của tao là mấy”.
11/5/2020
Võ Chí Nhất
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Đạo sư Nartnaul đã nói như thế
Đạo sư Nartnaul đã nói như thế
Ngài ấy sống theo lẽ tự nhiên. Hôn nhân không tình yêu cùng với thứ pháp lý vụn vặt kia tựa như cái mái hiên che trước nhà. Nó là sản phẩm nhân tạo. Còn lẽ tự nhiên là công năng vô tận của đất trời. Nó bao la, thăm thẳm, chỉ những kẻ đạt đạo mới thấu hiểu được.
1. Thị xã Madras ở miền Nam Ấn Độ hôm đó là một ngày tuyệt đẹp. Nhà ngoại cảm Leadbeater từ Úc sang, đang làm việc tại trụ sở Hội Thông Thiên học ở làng Adyar. Lúc dạo biển, ông trông thấy một cậu bé chừng mười bốn tuổi, ngơ ngác chơi đùa trong đám trẻ.
Cậu xanh xao, gầy guộc và lỗ chỗ đầy nốt chí rận. Nhưng ông quan sát kỹ, thấy vầng hào quang tỏa quanh đầu cậu vô cùng rạng rỡ. Nó rất to và lấp lánh như ánh sáng hiền dịu của những ngôi sao xanh.
Ông thầm nhủ: “Trong tương lai, đây là bậc đắc đạo, sẽ là Đấng Giảng Sư của cả thế giới”.
Hỏi quanh, hóa ra cậu chính là con của viên thư ký Hội.
Đứng ở thềm nhà, sau khi trỏ vào cậu bé, nhà ngoại cảm thân mật nói:
“Anh thư ký! Nếu con anh được Hội dạy dỗ rồi đưa sang du học, lập nghiệp ở Anh, ý anh thế nào?”
Cha cậu bé ứa lệ vì quá mừng. Anh không mừng sao được khi gia đình quá khổ sở: vợ mất đã ba năm, ngày ba bữa bu quanh anh tới mười mấy miệng ăn, liệu tương lai chúng sẽ ra sao? Anh gật đầu vâng dạ. Anh còn nói thêm: Không những Krisna, mà ngay cả em trai nó cũng nên được cùng đi.
Nhà ngoại cảm đồng ý ngay.
2. Krisna được hưởng một nền giáo dục Âu châu rất hoàn mỹ. Mười thầy cô giáo thi nhau dạy cả đức, trí và thể dục. Cậu thực hành cả môn Thông Thiên học. Lúc tròn mười lăm tuổi, sau gần một năm cậu ngồi thiền hằng đêm mà ông Leadbeater gọi là “xuất hồn đi gặp các vị đạo sư đắc đạo ở Tây Tạng”, Hội cho xuất bản rộng rãi cuốn Dưới chân đức thầy.
Ông cam đoan đó là những điều do Krisna tự chiêm nghiệm, viết ra.
Đoạn kết in đậm:
“Bằng thiền định, giữ mình trong sạch, sống lương thiện, ăn chay trường, con người có thể hiệp thông với Thượng đế. Chúng ta có khả năng giải thoát khỏi luân hồi sinh tử, trở thành Đấng Toàn Giác, hòa mình vào cõi phi thời gian và trở nên bất tử trong lòng Thượng đế”
Sách đến đâu cũng được độc giả hoan nghênh, đặt trọn niềm tin. Hội phát triển tới gần năm vạn hội viên. Để dọn đường cho “sự siêu việt và khả năng thuyết giảng của ngài Krisna”, ông Leadbeater và bà Chủ tịch Hội cho thành lập thêm Hội Ngôi Sao, mời cậu làm lãnh đạo.
Danh tiếng về sự thiêng liêng của Krisna lan ra thật xa. Từ Anh-Mỹ tới các nước Á châu, sau khi sách được dịch, in rồi phát hành với số lượng lớn, mọi người quả quyết Krisna là Đức Giảng Sư do Thượng đế gửi xuống trần gian. Không ít Phật tử Á châu gọi Krisna là ông Phật sống. Họ thầm đoán đó là Phật Di Lặc như kinh sách thường nhắc đến.
3. Những người gần gũi Krisna cho rằng: Cậu thực ra là một thanh niên rụt rè, lười cầm bút và hiếm khi đọc sách. Lúc còn trẻ, cậu thích diện đẹp và một mình lái xe hơi cả ngày, từ xứ này sang xứ khác. Thiền định đối với cậu chẳng là gì cả ngoài việc cậu ngồi lim dim nhìn bóng mình trên vách, thỉnh thoảng vọc kiến chơi, rồi suy nghĩ xem con đường mình đang đi là gì, nó sẽ dẫn cậu và mọi người tới đâu.
Vậy mà người ta nài ép cậu hết thuyết giảng ở thành phố này, lại trò chuyện ở thị xã nọ. Mới hăm mấy tuổi, cậu đã đi Mỹ, đến Pháp và nhiều nước Âu châu khác rồi quay về Ấn. Tháng Tám 1929, khá chín chắn ở tuổi ba mươi bốn, Krisna đứng trước mi-cờ-rô tại một hội trường lớn ở Hà Lan, trịnh trọng nói:
“Thưa các vị! Chân Lý không có đường vào. Chân Lý là vô tận. Niềm tin chỉ đơn thuần là chuyện cá nhân. Chúng ta làm sao có thể mang đỉnh núi xuống tận thung lũng? Chân Lý cũng thế: nó không chịu hạ thấp xuống cho vừa với mọi người. Thay vào đó, cá nhân phải tự mình nỗ lực vươn lên. Vì vậy, tôi tuyên bố: Giải tán Hội Ngôi Sao.”
Tuyên ngôn rành rọt và quá bất ngờ của Krisna khiến các hội viên gần như hoảng loạn. Ông Leadbeater và bà Chủ tịch Hội nhìn nhau bối rối. Nhưng tất cả coi như chuyện đã rồi. Niềm kỳ vọng thiêng liêng của ban lãnh đạo Hội tắt ngúm.
4. Trong suốt gần bảy mươi năm đi khắp nơi với tư cách một nhà du thuyết, hằng triệu khán thính giả từng chăm chú nghe Krisna trò chuyện đều có chung nhận định: Tuy không thực sự có tài hùng biện, nhưng ông nói chuyện dí dỏm, hết sức chân tình, diễn tả được những ý tưởng mới lạ và không hề bị gò ép bởi bất cứ định kiến nào.
Những chủ đề ông hay nhắc đến là Chân Lý, sự giải thoát tri kiến, tính phi thời gian, thế nào là tự do tuyệt đối và nỗi sợ hãi cố hữu của con người. Ông cho rằng, chính thói quen bị quyến dụ vào Thiên Đường, lòng háo hức muốn có ngay thành tựu tu tập, cùng tập tục quỵ lụy trước kẻ tu hành hoặc các bức tượng, và sự khuôn định bởi những phân biệt không đáng có (phân biệt quốc gia, tôn giáo, tuổi tác, chủng tộc, vân vân); đại loại những thứ đó đã “nhốt” chúng ta lại, không cho chúng ta đạt được sự thay đổi tâm thức trong hằng trăm thế kỷ qua.
Nói về sự thiêng liêng, Krisna không khẳng định điều gì cả. Ông nói: “Liệu có điều gì đó mà tư duy không thể chạm đến được, và nó thật sự bất hoại, vĩnh cửu hoặc phi thời gian? Tôi cho rằng, để tiếp cận điều này, tâm trí phải hoàn toàn tĩnh lặng, nghĩa là thời gian phải chấm dứt, và chúng ta phải tự do vượt thoát khỏi mọi định kiến, mọi phê phán. Chỉ khi đó, chúng ta có thể bắt gặp điều phi thường; và bản chất của nó chính là lòng yêu thương”.
Đôi khi ông nói đến Tình Yêu (tình yêu viết hoa) như là ngọn lửa không khói, và thậm chí không ngần ngại nói tới tình dục. Ông cho rằng ý thức của chúng ta quá nhấn mạnh đến tình dục, và vì vậy nó trở thành vấn đề; chứ thực ra, tình dục là điều tự nhiên, như cây thì phải đâm chồi, hoa thì phải nở.
Khi Krisna đến đâu, thính giả chen chân đến đấy. Hội trường không phải hằng trăm, mà hằng nghìn người. Thậm chí, có nhiều người ăn mặc bảnh bao, vì muốn thể hiện mình thuộc giới trí thức, rủ nhau đến dự hoặc thi nhau mua sách của ông về trưng phòng khách.
5. Không biết chúng ta nên gọi phần 5 của câu chuyện này là định mệnh hay sự ngẫu nhiên khi tạo hóa khéo sắp xếp để năm 1922, lúc Krisna hai mươi chín tuổi, em trai cậu bị hen suyễn tái phát nhiều lần; Rosalind được Hội mời đến để chăm sóc thường xuyên cho cậu ấy.
Cô gái này mới mười chín tuổi và rất xinh. Khi lần đầu tiên bắt gặp ánh mắt thánh thiện của Krisna, cô bị chinh phục ngay. Nhưng thời điểm ấy, Krisna đang dành tình cảm cho một thiếu nữ khác và hay thư từ qua lại với cô ta. Vì vậy, Rosalind đành câm lặng.
Ba năm sau, vào một đêm trở trời, em trai Krisna đột ngột tắt thở. Krisna gào khóc như điên. Cậu muốn dẹp bỏ tất cả nếu không có sự an ủi tận tình, thân mật của Rosalind.
Để lo mấy công việc thường nhật do em trai Krisna đảm nhiệm trước kia, một tay thư ký giỏi giang được cử đến cùng ở với Krisna. Năm 1927, vì muốn Rosalind chính thức trở thành hội viên, bà Chủ tịch Hội thuyết phục chàng thư ký và cô ấy cưới nhau. Ba năm sau, bà cũng sắp xếp để vợ chồng chàng thư ký cùng sống dưới một mái nhà với Krisna để tiện cho mọi sinh hoạt của Hội.
Năm 1931, vợ chồng họ sinh hạ một bé gái. Bé Radha kháu khỉnh và rất ngoan. Krisna nhận làm cha đỡ đầu. Cậu từng ẵm Radha mãi trên tay, rồi chơi đùa thân thiết với cô như cha con một nhà.
Mọi chuyện dường như êm ả. Bỗng năm 1960, lúc Radha chưa đầy ba mươi tuổi, đột nhiên cha mẹ cô ra tòa ly dị sau vài tháng lánh mặt nhau.
Radha lòng đau như cắt. Ở một góc phố kín đáo, cô ôm chặt bạn tình trong tay, mếu máo: “Trời ơi! Em hết chịu nổi rồi! Em sẽ tự vẫn!”
Nhưng tất cả đã muộn màng. Radha thất thểu về nhà, gục đầu trên vai thầy Krisna mà khóc.
6. Theo lời kể của bà Lutyens, thường trực Hội, việc Hội sắp xếp để ngài Krisna và vợ chồng bà Rosalind chung sống kéo dài từ năm 1927 cho đến nhiều năm sau khi chấm dứt Thế chiến thứ Hai là một quyết định không sáng suốt. Hai mươi năm sau, lại một sai lầm nữa khi ai đó đã giao bà Rosalind điều hành Trường Thung lũng Hạnh phúc tại Ojai (ở Ấn Độ) cùng với ngài Krisna và một nhà văn nam. Thời điểm ấy, ở tuổi trên năm mươi, ngài Krisna phát ra đủ bệnh. Suốt tám tháng ngài nằm giường, bà Rosalind là người phụ nữ gần gũi nhất để chăm sóc, thấu hiểu và an ủi ngài.
Bà Lutyens cũng nói toạt ra rằng chồng bà Rosalind thuộc tạng người ranh mãnh, tham lam, yêu tiền hơn yêu vợ. Gã chí thú xây nhà, mua đất, mở cả công ty in ấn. Đến khi nghi ngờ về mối quan hệ giữa vợ mình với ngài Krisna, gã đã ghen tuông và liên tục gây sự với ngài Krisna.
Thân hữu ông Krisna còn nói rõ về sự thiệt thòi quá sức chịu đựng của ông và yêu cầu ông đòi lại lẽ công bằng trước tòa. Họ quả quyết sáu mươi tác phẩm được in ấn và hằng trăm nghìn băng cassette ghi âm lời giảng của ông đều bị gã thư ký giữ bản quyền và thu lãi. Vụ kiện kéo rề rà suốt mười tám năm. Kết quả: ông Krisna thắng kiện. Tay thư ký buộc phải bán nhà, bán đất để bồi thường.
Những chuyện ấy gây bất bình trong dư luận và đến tai đạo sư Nartnaul, bậc chân tu có uy tín nhất thời bấy giờ. Năm 1991, năm năm sau khi Krisna lìa đời vì bệnh ung thư, bà Radha hằn học viết và chạy chọt để xuất bản cuốn Những cuộc đời đen tối bên Krisna. Bà nói rằng mặc dù bà luôn tôn trọng ông Krisna, nhưng cuộc tình trăng hoa ly kỳ, sâu nặng và đầy tội lỗi kéo dài hai mươi lăm năm dai dẳng giữa mẹ bà và ông ấy nên được đưa ra trước công luận, mặc ai nghĩ sao thì nghĩ.
Ao ước tìm kiếm tiếng nói ủng hộ của đạo sư Nartnaul, bà Radha xin đến diện kiến. Bà kính cẩn trình cuốn sách mới in cùng mấy bức thư tình có thủ bút của ông Krisna ra trước mặt ngài và thề rằng mọi chuyện bà viết ra đều là sự thật.
Vị ẩn sĩ tóc bạc phơ thản nhiên phán:
“Quý bà nghe đây: Thân phụ bà là một tay hám lợi, nhưng lại làm việc cho một tổ chức tôn giáo”
Đạo sư nói tiếp:
– Thân mẫu bà là một người hướng thượng, biết nhận định đâu là sự cao thượng, đâu là lòng tham lam. Nhưng bà bị cuộc đời trói buộc vào những mối quan hệ không thể thoát ra được.
Bà Radha vẫn không dám ngồi xuống. Tay bà run run chắp trước ngực, tim đập thình thịch.
– Ta cho rằng trái tim của những người phụ nữ tốt bụng thường như hoa hướng dương.
Người đàn bà sáu mươi tuổi đứng sững, chẳng biết nói gì.
– Ta nhận thấy ngài Krisna là một triết gia đáng kính.
– Thưa đạo sư, ông ấy đáng kính ở chỗ nào? – Bà Radha đỏ mặt lên hỏi.
– Ngài ấy sống hồn nhiên và chỉ nói sự thật.
– Không! Ông ấy dối trá!
– Ta nghĩ khác: Ngài ấy là kẻ đạt đạo.
– Thần linh ơi! Đạo gì kỳ vậy? – Bà Radha gần như gắt lên.
– Ngài ấy sống theo lẽ tự nhiên. Hôn nhân không tình yêu cùng với thứ pháp lý vụn vặt kia tựa như cái mái hiên che trước nhà. Nó là sản phẩm nhân tạo. Còn lẽ tự nhiên là công năng vô tận của đất trời. Nó bao la, thăm thẳm, chỉ những kẻ đạt đạo mới thấu hiểu được.
Quy Nhơn, 13/4/2020
Trần Như Luận
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Bạn thân
Bạn thân
Tôi quen nó trong lần nó bị tai nạn giao thông. Hôm đó trời tối đen như mực, trên đường về, ngang qua con dốc Tình, nghe bên bụi rậm dưới mương nước có tiếng người rên rất nhỏ tôi liền dừng lại. Lúc đầu cứ tưởng ma, bởi con dốc này người ta đồn có ma, sau tôi bình tâm, lấy di động bật đèn lên đi tới chỗ có tiếng rên, tôi phát hiện ra một thanh niên nằm dưới chiếc xe airblade, tôi vội vàng điện xe cấp cứu.
Đến bệnh viện tôi lấy di động của nó ra điện về số máy Vo Minh. Một tiếng đồng hồ sau vợ nó đến. Đời nghĩ cũng thật trớ trêu. Làm ơn mắc oán. Vợ nó làm khó dễ với tôi. Thế là tôi bị công an giam xe về tội tông người. Ba ngày sau tôi mới được giải oan.
Mấy tháng trời nó mới ra viện. Vợ chồng nó tìm đến nhà tôi tạ ơn. Sau đó nó thường đến nhà tôi chơi, rồi trở nên thân thiết như người một nhà từ lúc nào không rõ.
Tính tình của nó không biết có phải do bẩm sinh hay do tự rèn luyện. Bề ngoài nó tỏ ra rất hiền lành. Nói năng nhỏ nhẹ. Đặc biệt là ai nói gì cũng cười, có chửi cha chửi mẹ cũng cười. Nhưng trong tâm thì chưa biết thế nào.
Tôi và nó ngày càng thân thiết nhau. Hai chúng tôi chia sẻ ngọt bùi lẫn nhau, lúc nào cũng “bánh đúc trao đi bánh qui trả lại”…
Mỗi lần nó đến chơi, cha tôi thường tiếp chuyện với nó. Khi nó ra về cha nói vớí tôi: “Con phải đề phòng nó. Con không nên tin vào nó”. Không biết cha tôi dựa vào đặc điểm nào để khẳng định nó là người không tốt. Có hôm tôi hỏi cha: “Thưa cha! Cha dựa vào đặc điểm nào để khẳng định người này tốt hay không tốt?” Cha tôi cười và nói: “Cha dựa vào giọng nói, và cách đi đứng. Gương mặt nó thì trông rất phúc hậu, nhưng giọng nói và dáng đi của nó cha thấy ẩn chứa một điều gì đó không bình thường”. Tôi nói: “Thưa cha cái đó cũng chưa chắc đúng”. Cha lại cười: “Ở đời có cái gì đúng tuyệt đối đâu con. Nhưng đù sao phòng bệnh vẫn hơn”. Nói rồi cha tôi kể câu chuyện cổ tích “Hòn Vọng Phu”: “Ngày xưa có hai anh em bạn sống bằng nghề đốn củi, cha mẹ đều mất sớm. Họ gặp nhau ở trên rừng và kết bạn tâm giao. Sơn lớn hơn Thủy một tuổi nên làm anh. Hai anh em che một túp liều ngay bên chợ Củi. Hai người thương yêu nhau hơn anh em ruột. Tình bạn của họ kéo dài hơn mười năm. Đến khi anh Sơn cưới được người vợ xinh đẹp, thì Thủy đâm ra ghen ghét, tìm cách hãm hại. Một hôm Thủy rủ anh Sơn vào trong rừng sâu đốn củi, lúc đó vợ anh Sơn mới sinh đứa con trai hơn tháng. Khi hai người ngồi nghỉ uống nước, thằng Thủy mới bảo với anh Sơn là lâu quá anh em mình chưa chơi một trò chơi nào, hôm nay mình chơi cho vui để ôn lại thời niên thiếu. Anh Sơn đồng ý. Thằng Thủy bảo là bây giờ anh cột em vào gốc cây thật chặt, sau đó em cột lại anh. Ai mở được thì người đó thắng. Nói xong thằng Thủy đứng vào gốc cây để anh Sơn cột. Anh Sơn cột lỏng nên thằng Thủy mở được một cách dễ dàng. Nó reo lên em mở được rồi, bây giờ tới lượt em cột anh. Anh Sơn đứng vào gốc cây Thằng Thủy cột thật chặt. Anh Sơn càng la đau, nó càng siết chặt. Cột xong nó giơ rìu lên định chém, nhưng nghĩ không chém thì đêm nay anh Sơn cũng bị cọp ăn, nên nó thả rìu xuống, rồi gánh củi đi về. Về đến nhà nó nói với vợ anh Sơn là anh Sơn đã bi cọp ăn. Vợ anh Sơn khóc lóc thảm thiết, nó động viên an ủi. Sáng hôm sau nó lên rừng xem thấy anh Sơn không bị cọp ăn. Nó định chém, nhưng nó thấy anh Sơn khát nước le lưỡi liếm từng giọt sương nó nghĩ trước sau gì thì anh Sơn cũng chết, nó bỏ đi. Đến ngày thứ bảy thì anh Sơn chết. Thế là nó đã thực hiện được âm mưu. Nó đã cướp được vợ của anh Sơn”. Nói rồi cha tôi bảo: “Con thấy chưa?” Tôi trả lời: “Dạ, con thấy! Nhưng làm sao họ biết thằng Thủy giết anh Sơn?” Cha tôi cười: “Hơn mười năm sau thằng Thủy mới kể câu chuyện này với vợ, lúc đó vợ nó đã có 9 đứa con”. Cha tôi ngừng lại một lúc rồi nói tiếp: “Tội ác không thể che giấu được đâu con. Không biết trời xuôi đất khiến sao mà trong một buổi chiều mưa giông, đang ngồi ăn cơm, thằng Thủy nhìn ra sân thấy con cóc le lưỡi ra liếm những giọt nước mưa dính trên lỗ mũi, nó nhớ lại hình ảnh anh Sơn liếm những giọt nước mưa, liền kể với vợ”. Cha tôi không kể nữa. Tôi bèn hỏi: “Vậy cô vợ thằng Thủy thế nào?”. Cha tôi kể tiếp: “Mấy ngày sau thì người vợ đã giết nó cùng với chín đứa con để trả thù cho chồng. Rồi cô vợ bồng đứa con mười tuổi đi lên núi gọi chồng mãi cho đến khi chết. Thôi chuyện dài lắm cha chỉ kể tóm tắt vậy để con hiểu. Giàu cũng vì bạn, mà chết cũng vì bạn. Bây giờ vì tình, vì tiền, vì chức vụ mà bạn thân, đồng nghiệp mưu sát lẫn nhau. Con phải hết sức cẩn thận. Không riêng gì nó mà còn những người bạn thân khác nữa, con phải đề phòng, chớ nên ăn nhậu say xỉn”. Nghe cha kể nên tôi rất đề phòng nó. Nhiều lần nó rủ tôi góp vốn mở xưởng cưa nhưng tôi không dám.
Mười năm sau tôi mới thấy những điều cha tôi tuyên đoán là đúng. Năm ấy tôi làm nhà, vợ chồng nó đến giúp tôi rất nhiệt tình. Nó nói với tôi: “Cửa nẻo nhà anh để bọn em đóng cho. Còn giàn gỗ hoành tử, hôm nào em dẫn anh đi mua, chứ một mình anh bọn xưởng nó bán trá”. Nghe vợ chồng nó nói tôi không thể chối từ. Thế là tôi giao toàn bộ cửa nẻo cho nó đóng và nhờ nó đi mua gỗ hoành tử với tôi.
Mấy tháng sau giàn hoành tử nhà tôi bị mọt ong đến ăn, còn cửa lớn cửa bé đều nứt nẻ, tôi mới biết mình bị lừa. Tôi gọi nó ra nhà, chỉ cho nó xem. Nó cười bảo: “Gỗ đắt lắm nên em mua gỗ này nó hợp với túi tiền của anh”. Tôi bực mình đấm vào mặt nó. Nó gãy mấy cái răng cửa. Từ đó tôi không chơi với nó nữa. Tôi thù nó.
Một năm sau, trên đường đi làm về, trời nổi giông sét, tôi liền vào trong nhà gần đường núp. Ngồi trong nhà nhìn ra tôi thấy nó cỡi chiếc airblade như bay, tôi nghĩ nó sẽ thoát được lưỡi búa của Thiên Lôi. Nhưng không. Một tiếng nổ vang trời, nó văng vào lề đường. Tôi nghĩ bụng để cho nó chết cho đáng đời. Nhưng lương tâm sao cứ cắn rứt, tôi phải chạy ra sơ cứu cho nó. Nhưng nó không sống nổi.
15/5/2020
Phạm Văn Hoanh
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Mùa ươi bay
Mùa ươi bay
Thu mình vì cái rét trong căn lán giữa rừng hắn nghe bụng đói cồn cào. Một thân một mình trong mưa gió hắn cảm thấy cô đơn đến lạ. Cái mà lâu nay vẫn như một thói quen, một quán tính đã miễn nhiễm với hắn.
Trời về chiều nhưng cái nắng vẫn còn gay gắt, oi nồng. Bất ngờ ở đâu đó, những đám mây vần vũ kéo về, trời râm mát thật nhanh giữa bốn bề xám xịt. Gió nổi lên chen lẫn tiếng sấm đì đoàng, rồi những ánh chớp xé trời. Tuy chẳng lạ gì những lúc trời đất nổi cơn thịnh nộ như thế nhưng Hắn vẫn cứ rợn cả sống lưng. Từ thân cây một lão Ươi – cách gọi tên của dân nghề với những cây ươi thâm niên cố đế. Hắn thu dọn đồ đạt cho vào bao rồi lấy tấm dù quấn chặt, choàng qua bụng, buộc riết lại, thong dong thả chân đưa người hạ dần đỉnh cao. Kinh nghiệm trèo cây rừng thành thạo, nhìn hắn lại liên tưởng ngay đến lũ kiến chân dài độc hành tha mồi, làm tổ trên cao đi lại theo đường, theo hàng làu làu như trong lòng bàn tay.
Năm nay kiến đóng tổ trên cao, dự báo lũ lụt sẽ đến sớm không chừng. Vừa đến gốc cây, hắn chăm chắm vật gì đó từ đống lá khô, cách lão Ươi già vài mét. Bước đến gần, hắn lấy chân đá đá mấy cái, y rằng cái sự nghi ngờ của hắn là thật. Ban đầu là bàn chân, rồi bàn tay, cái lưng người rách bươn với những máu là máu đã khô khốc, bết lên những cành lá cây được chặt phủ sơ sài. Mọi việc như người thực hiện công việc này rất vội vàng và cũng chẳng quan tâm ai đó đi ngang qua sẽ phát hiện.
Gió mỗi lúc một thốc tháo mạnh hơn, quần quật trên những tán lá bên đầu hắn, rồi len xuống tận gốc cây, cày tung những vạt lá dày cả tấc, ẩm mốc như lưu cữu cả một mùa đông. Chặt vội cành cây rồi phân thành hai đoạn, đóng dấu X trong tích tắc. Xong hắn vắt cái túi vải buột ở bụng khi trèo xuống đã tháo rời lúc nào vắt qua vai bằng một động tác khá điệu nghệ. Đó cũng là lúc cơn mưa đã nặng hạt. Mưa đổ ào ào lên cây cối, mưa làm hắn ướt tươm như con chuột chũi, ngoi ra từ một cống nước. Hắn vừa đi vừa chạy y hệt một kẻ đào tẩu. Mà cũng đúng thôi, bây giờ hắn là một kẻ đào tẩu chính hiệu.
Hắn mang máng ai đó nói, nhưng dần hồi trải nghiệm mới thấm thía cho cái nghề của hắn. Khổ nhục nhất của kiếp người, chia làm ba bậc, thứ nhất mồ côi cha, thứ hai lính thú, thứ ba sơn tràng. Bản thân, cha mẹ bỏ hắn lơ bơ lất bất, vì miếng cơm, manh áo, bất đắc dĩ hắn phải theo nghề sơn tràng. Nhưng nghĩ lại, hắn thấy cũng may, nếu không có tay kiểm lâm tên Hội “nhón tay làm phước” chắc chừ hắn còn mọt gông trong tù.
Tay Hội, bây giờ là ân nhân đời hắn. Cũng từ tay Hội hắn mới biết phong phanh cái lai lịch của mình: Được hai tuổi thì bố chết, mẹ hắn lấy thêm hai lần chồng, nhưng không một người nào cưu mang cho tuổi thơ của hắn. Năm tuổi, hắn đi ăn xin ở chợ Tam Sơn đêm về ngủ trên các phản thịt của bà buôn, rồi đến lúc vỡ tiếng, hắn được người ta rủ rê đi đào giếng trên Tam Lãnh. Trong một lần gây gỗ hắn lỡ tay gây án mạng.
Tay Hội thân thế, chạy chọt, đuốc lót thế nào mà hắn vào tù mấy năm thì được ra tù, để bây giờ hắn về với tay Hội như là con nuôi, vị ân nhân cứu mạng. Hắn làm tất những việc mà tay Hội giao, từ tháp tùng chuyển gỗ, bảo kê địa bàn đến làm cái máy người cừ khôi mỗi mùa ươi bay. Dưới tay hắn không biết bao nhiêu lão Ươi ở lãnh địa này đã phải qua đời…
Thu mình vì cái rét trong căn lán giữa rừng hắn nghe bụng đói cồn cào. Một thân một mình trong mưa gió hắn cảm thấy cô đơn đến lạ. Cái mà lâu nay vẫn như một thói quen, một quán tính đã miễn nhiễm với hắn.
Hắn nhớ như in, bữa cơm đầu tiên ngày hắn ra tù ở nhà tay Hội, bây giờ hắn đã gọi ông chủ. Đó là một đêm tối trời, tấm bàn gỗ rừng dày cộp, loại gỗ này về xuôi chí tệ cũng tiền tỷ mới có, bóng loáng. Mùi thơm thịt tươi chín tới quyện mùi gia vị bay lên từ hai nồi um nghi ngút… làm cho tuyến nước bọt ở miệng hắn không cầm cho đặng. Tần ngần bởi có hai người đàn ông trẻ trung hơn chủ Hội khoảng dăm ba tuổi đang ngồi. Hắn đoán là đàn em nghề nghiệp của chủ Hội.
– Thằng Hai còn đợi gì, ngồi xuống đi.
– Hôm nay huynh đây cùng hai ông bạn ăn mừng cùng chú.
– Cứ tự do thỏa mái về lại với rừng.
– Hai chú đây cũng thả cửa nhé. Dừng một lát tay Hội lại đon đả, vừa thân thiện nhưng cũng rất kẻ cả.
– Cây nhà lá vườn, chồn hương, nhím bướm… nhà nuôi được cả.
Đang cơn khát cháy ở họng, sự quyến rũ của nồi um thịt rừng bay lên… Dốc cạn ly rượu, bỏ vào miệng miếng thịt chồn hương thơm lừng, hắn nhai ngấu nghiến. Cứ thế hết rượu lại mồi. Hắn chẳng giỏi mồn mép thưa trình gì, chỉ một mực cảm ơn, lúc mạnh mồn khi rượu vào kha khá không hiểu sao hắn đổi cách xưng hô, gọi tay Hội là bố, mình là con.
– Mời bố…
Mãi đến cả canh giờ sau, có tiếng xe máy chạy vào nhà, ba người đàn ông đứng dậy, nghe chào hỏi là chị cả và cô công chúa đã về. Áy náy chuyện chào hỏi xã giao, mãi đến khi tiếng bước chân người lạ vào gần cửa nhà hắn mới ngước mắt nhìn người đối diện.
– Nghe anh nhà nói thằng Hai, chừ mới gặp.
Người đàn bà giơ tay ra, hắn cũng phản xạ giơ tay ra bắt. Bàn tay phụ nữ làm hắn mát lạnh cả người. Bẻn lẻm hắn nhìn tránh sang một bên nhưng mùi thơm nước hoa vẫn nức lên mũi hắn.
– Ra chất đàn ông lắm.
– Chị chúc mừng ngày vui của chú em.
– Em cảm ơn chị…
Nói đến đó miệng hắn đớ ra, không phát ra âm thanh nào nữa. Hắn liếc nhìn cô gái con bà chủ trạc chừng mười sáu, mười bảy gì đó và bắt gặp ánh mắt sao thân quen đến lạ. Hắn cứ ngờ ngợ, trước nét đẹp lung linh tỏa ra từ đôi mắt, rồi cả cơ thể lồ lộ những đường nét mà tạo hóa đã ban cho con gái ở thì trổ mã.
– Chào anh Hai đi con. Cô bé nhẻm miệng cười.
Cái má lún đồng tiền lặm sâu mắt hắn, hắn nghe râm ran niềm xúc động. Đời hắn có mấy khi được đón nhận nụ cười ân huệ như thế. Ngồi xuống nghế hắn lấy tay vuốt mặt, khẽ bấm tay vào má mình, thử có phải đang mơ.
Đó là hắn nhớ lại lần đầu.
Lần thứ hai. Hắn bị thương trong lần vận chuyển gỗ từ rừng ra. Lần đó hắn lấy vai đỡ cho chủ Hội, khi cây gỗ từ xe lăn xuống. Cây gỗ quá nặng đè hắn gãy cả 3 xương sườn, dập lách… Không tiện ở bệnh viện sau phẫu thuật, băng bó hắn xin về nhà dưỡng thương. Đúng như suy nghĩ chủ Hội. Ông bà chủ bảo hắn ở trong nhà nhưng hắn xin ở hẳn trại gỗ bên nhà để tiện đi lại và cũng để ít to nhỏ về vụ tai nạn. Cái nghề mà mấy ai thích đồ trằm những chuyện run rủi như cơm bữa kia.
Người giúp hắn thay băng bó, rồi cơm cháo tất tật là con gái chủ Hội, tên Hà.
– Anh Hai thấy có đau lắm không.
Bàn tay trắng trẻo, múp mít đặt lên vai hắn, nhẹ nhàng quấn mảnh băng vào ngực hắn. Hắn nhắm mắt lại rồi mở ra he hé.
– Anh quen rồi. Không sao.
Mà hắn nói đúng thật, hắn chẳng thấy đau, bụng dạ cứ mát ra, vết thương với hắn chẳng là gì. Ngày thứ ba, không thấy cô bé, bụng hắn nóng ran, chờ đợi thắc thỏm. Bất giác hắn lấy tay ấn vào vết thương…
– Anh làm gì vậy, để em giúp. Một giọng nói thân thương từ sau lưng hắn. Bất ngờ hắn vui quá.
– Tôi trông em quá, lo lại có việc gì…
– Em phải phụ mẹ mấy chuyến hàng về xuôi.
– Đang mùa ươi bay mà anh.
Khi cô bé đi rồi, hắn nhón gót, đến phía trước căn lều, tháo tấm màn che bằng loại dù xanh, căng lên khá chắc chắn như tấm cửa… nắng mai rọi vào quang đãng quá. Nhìn ra, cánh rừng ở ngay trước mặt. Hắn hít một hơi thật dài khoan khoái.
Chưa bao giờ hắn thấy cánh rừng đẹp đến thế. Trong bức thảm đại ngàn bao la, nền xanh cây lá đã làm nổi hẳn lên những gam màu nóng của ánh nắng và sắc màu hoa lá đỏ, vàng. Hắn đoán chắc đó là những vùng ươi đang mùa hoa nở… Ngày ở dưới xuôi, mỗi chiều tối trước khi về ngủ trên các phản thịt của các bà buôn ở chợ Tam Sơn hắn từng trông đến mê mẩn trước những cành hoa gạo. Hoa nở như thắp lửa lên trời, rồi cháy xuống cả dưới dòng kênh Ninh Phú trong veo vắt.
Dòng suy nghĩ của Hắn bị cắt ngang khi chợt nhớ cô bé Hà con gái chủ Hội với đôi mắt như biết nói, trong trẻo, thân thiện những lần nhìn hắn.
– Tại sao gọi là ươi bay anh nhỉ.
Không ngần ngại, hắn mạnh dạn kể những gì hắn biết. Có lẽ mỗi hạt ươi đều có một cái đài. Khi đến kỳ, ươi không rụng trực tiếp xuống gốc, mà nhờ cái đài này làm cánh nâng hạt ươi xoay tròn trong không gian như một con vụ rồi nhờ gió mang đi. Cây ươi ở càng cao thì hạt được gió mang đi càng xa. Cứ thế, cứ thế, rừng ươi được nhân lên theo thời gian tầng tầng, lớp lớp.
Các loại cây trái khác ít nhất mỗi năm có một mùa, nhưng ươi bay bốn năm mới có một vụ. Nói bốn năm một vụ là với một đời cây, nhưng lớp trước, lớp sau thay phiên nhau ra trái nên năm nào cũng có. Năm nay rộ mùa ươi lạ lắm.
– Em nhìn kìa, phía rừng đỏ cả lên…
– Em ước sao có được một căn nhà màu tím…
Đặt nụ hôn nhẹ nhàng trên mái tóc thơm thơm, xanh xanh như màu lá. Hắn thấy lòng xao xuyến quá. Một ngôi nhà, một mái ấm cho một đôi tình nhân yêu thương nhau đã có lúc hắn từng nghĩ tới nay được phủ lên một màu tím… thật lãng mạn!
Vào mỗi mùa ươi bay, thợ rừng khắp nơi đổ xô vào rừng, tìm những cây ươi cổ thụ. Họ khắc tên mình lên thân cây, đánh dấu quyền sở hữu, rồi cưa hạ cả thân cây to chỉ để vặt những trái ươi xanh về bán. Có người vừa phát hiện được cây ươi thật to chuẩn bị cưa nhưng quên một vật dụng gì đấy trở về chỗ cũ lấy, chưa kịp trở lại đã thấy người khác hạ xuống rồi. Theo luật rừng “Cây đứng của trời, cây ngã của người”, nên cũng đành ngậm đắng nuốt cay. Tốt nhất là đi tìm những cây khác vì rừng núi bạt ngàn.
Cây ươi cao 20-30m, nếu đứng chỗ dốc dựng, hố sâu khi bị đốn thân cây lao đi rất xa và càn quét dữ dội. Rừng dày cây, khi cây ươi ngã luôn kéo nhiều cây bên cạnh ngã đổ theo. Rừng rậm cản tầm nhìn, mặt rừng cheo leo khó tránh chạy khi cây đổ. Đó là những lý do khiến nhiều người hái ươi bị thương, thiệt mạng.
Thế nhưng giờ đây với hắn, khai thác ươi không là nỗi sợ. Còn trong giấc mơ hắn chỉ thấy toàn những cánh ươi bay, thật đẹp và lãng mạn. Hắn ngõ ý và cô gái con chủ Hội đã vui lòng chấp nhận. Tỉnh dậy hắn bàng hoàng nghĩ ngợi nhiều lúc ngơ ngẩn như kẻ làm thơ…
Bằng bản tính chịu khó, tháo vát, thật thà… về với tay Hội không lâu, hắn được ông chủ tin tưởng, đứng đầu cả nhóm lục lâm sơn tràng. Việc vàng đủ cả, từ khai thác gỗ, vận chuyển, đến săn bắn, giành giật địa bàn, uy hiếp các băng nhóm khác…tiền nong rỉnh rảng, sau mỗi phi vụ, hắn dẫn đầu cả nhóm đi xả láng một hai hôm rồi vào việc tiếp. Cuộc sống với hắn như thế quá ổn, nhưng sao hắn cứ băn khoăn. Hắn cảm thấy điều hắn cần vươn đến của cuộc đời giờ đây không phải là tiền hay một sự giàu sang nào đó.
Hắn cũng cảm thấy ông chủ dành cho hắn nhiều sự ưu ái, tình cảm của một người thân, chỉ hiềm nỗi ông cương quyết tách hắn ra khi biết hắn và cả cô con gái cưng của ông có cảm tình với nhau.
Cô bé Hà con chủ Hội gần đây ít có nhà hơn sau mỗi chuyến rừng hắn trở về. Hắn cảm giác buồn và đâm ngóng… Trong bữa rượu thả cửa, mừng thắng lợi chuyến rừng, chủ Hội tiết lộ với hắn cái tin động trời, khi vợ ông đã bỏ đi để theo một chủ doanh nghiệp có máu mặt. Chủ Hội vì dính đến bảo kê lâm tặc phá rừng phòng hộ đầu nguồn nên án tù không thể tránh trớ được.
Nhìn khuôn màu sầu não của chủ Hội tự dưng hắn nghĩ về đời hắn, đời ông ta rồi cũng đến một lúc đâu có hơn gì nhau. Một ý nghĩa lóe lên, hắn cảm thấy khoan khoái trong bụng nhưng bề ngoài thì vẫn tỏ vẻ lo lắng để chia sẻ nỗi niềm với chủ. Vui không phải cơ ngơi của ông sẽ giao cho hắn cai quản mà hắn nghĩ về đôi mắt ấy, thân hình ấy… hắn sẽ có cơ hội gần gũi tỏ bày tình yêu cho bỏ những lúc để bụng nhớ thương. Tình cảm con gái chủ Hội dành cho hắn thì hắn rõ rồi…
Rượu làm hắn say, hay một thứ men nào đó làm hắn say. Hắn cứ nghe người như ngây ngất. Đầu hắn cứ nghĩ chuyện đẩu đâu, thì bất ngờ chủ Hội đặt tay lên vai. Linh cảm đàn ông xui hắn suy đoán chủ Hội sẽ truyền đi một điều gì đó hệ trọng.
– Thằng Hai…rồi ông dừng lại nhìn sâu vào mắt hắn. Hắn nghe như luồng diện chảy xuyên qua cơ thể.
– Con có biết vì sao bố ngăn hai đứa mày gần gũi nhau không.
– Mày chính là anh trai của cái Hà đấy.
Hắn ngớ cả người, sững ra như phổng. Sao ạ. Sao ạ. Rụt tay khỏi vai hắn chủ Hội đút tay vào túi áo lấy ra một tấm ảnh trắng đen đã ố màu, trong bức ảnh là một đứa trẻ mà khi nhìn linh cảm mách bảo chính là hắn.
– Phải tìm một nghề nào đó để sống thôi con ạ.
“Ăn của rừng rưng rưng nước mắt”. Cuộc đời là cuộc chơi của số phận mang đầy tính rủi may, thắng nhiều mà bại cũng không ít và cuối cùng phải buông tay khi tham dự trò chơi với định mệnh.
Đầu hắn váng lên, đau buốt. Sẵn tay hắn tu luôn ly cối rượu trên bàn, rồi gục mặt xuống như thân một cây ươi đổ khi lưỡi cưa máy xoay vòng liếm đến điểm cuối cùng… Hắn thiếp đi trong mê mệt. Tờ mờ sáng hôm sau, khoát vội bộ quần áo chuyên đi rừng, vai vác túi xách với con cưa máy hắn đẩy cánh cổng nhẹ nhàng vừa đủ đưa người ra rồi vội vội vàng vàng đi. Hắn chỉ ngoảnh lại nhìn khi có tiếng gọi vọng từ nhà ra.
– Anh Hai, anh Hai.
– Anh Hai đợi em…
– Mặc những tiếng bước chân con gái mà hắn nghe quen thuộc đến nằm lòng từ phía sau. Hắn bước như chạy, khi trước mặt đã hiện ra những cánh rừng, trong màn sương trắng đục, những bông ươi đỏ la đà như sao bay trước mắt. Bất thình lình hắn quỵ xuống tay ôm chặt ngực mình như có một mũi tên nào đó đã xuyên trúng tim hắn. Nước mắt hắn trào ra…
– Hà đỡ hắn dậy. Đôi mắt người con gái nhìn hắn làm hắn nát cả tim gan.
Hắn nhắm mắt lại giữa tiếng rừng chung quanh xào xạt. Đang giữa mùa ươi bay. Chung quanh, cảnh sắc núi rừng như thêm lộng lẫy nhưng hắn lại cảm thấy mình như một thân ươi vừa bị ai đốn hạ.
Hiệp Đức, 16/5/2020
Võ Văn Trường
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Đôi ngỗng ân tình
Đôi ngỗng ân tình
1. Quê tôi - xóm vạn chài nằm bên con sông Đồng Nai nhiều huyền tích và cũng lắm kỳ bí. Chiều tà rơi trên sông hay đêm trăng trải sáng cánh rừng, trời đất mang mang những câu hò đối đáp của người hạ bạc hoặc kẻ thương hồ đi ngược về xuôi. Và những đứa trẻ lớn lên từ xóm vạn chài, không có đứa nào không tắm sông, không đã từng nghêu ngao hát bài đồng dao:
Con cá lóc nằm trên bụi sặt
Con cò mắc giò mà chết
Con quạ mua nếp làm chay
Con cu đánh trống ba ngày,
Con ngỗng thức dậy dọn bày mâm ra
Cồng cộc ăn cá nghi nga (1)
Con chim cà cưỡng phải ra ăn mày.
Bài đồng dao vẽ bức tranh quê đầy sinh động. Tâm hồn tôi, chìm đắm trong bức tranh quê!
Nhà ngoại sát mé sông, phía bên kia sông là cánh đồng nhỏ chạy tới mí rừng. Ngoại nuôi ngỗng giữ nhà, giữ bến sông.
Tôi hỏi: ”Sao ngoại không nuôi chó?”.
Ngoại nói: ”Chó không bì được ngỗng, vì ngỗng trung thành và tinh tường hơn chó”. Rồi ngoại nhấn mạnh: ”Chó theo cái bỏ chủ, ngỗng thì không!”.
Tiếng ngỗng kêu đêm có khi gởi thông điệp đến từ vô thức tạo giấc mơ. Một giấc mơ đẹp về tình yêu, bởi màu lông trắng phau của loài ngỗng tượng trưng sự thuần khiết. Khi nằm mơ thấy loài ngỗng dù một con hay cả bầy, thì người nằm mơ đó đang sống trong tình yêu thơ mộng và mãnh liệt.
Những buổi chiều, mỗi lần đám trẻ xóm vạn chài tắm sông, nghêu ngao hát khúc đồng dao; cặp ngỗng nhà ngoại cùng hưởng ứng nghển cổ cất cao giọng kêu tiếng kêu chẳng khác tiếng đàn… Cũng có đôi khi, tôi nhìn thấy con ngỗng đực nhà ngoại vỗ cánh bay, rồi thì con ngỗng cái vội vã bay theo và hình như, động tác vỗ cánh của ngỗng đực đã truyền lực đẩy giúp cho ngỗng cái bay phía sau giảm hao sức lực. Tôi chỉ ngoại hình ảnh đó, ngoại cười.
– Ít khi, nếu không muốn nói là không có loài ngỗng nào bay riêng lẻ, hoặc sống đơn độc.
Ngoại nói tiếp:
– Đó là ngỗng nhà đã thuần chủng, còn ngỗng trời ngoài thiên nhiên thì chúng sống hợp đàn và bay thành bầy hình mũi tên giữa bầu trời bao la. Con dẫn bầy mỏi cánh thì nhường vị trí cho con khác trong bầy thay thế. Tiếp tục như vậy cho tới khi cả bầy đến nơi cần đến.
Có lần tôi nghe lóm ai đó trong xóm vạn chài, nói:
– Con ngỗng đương bay cùng bầy nếu rủi ro bị thương hay bị bịnh rơi rớt đất thì ngay lập tức, một hai con ngỗng khỏe mạnh cùng đáp xuống cứu giúp, nó không làm ngơ hay bỏ đồng loại bao giờ!…
Và người nói đã khẳng định:
– Con ngỗng sống có đôi, nếu chẳng may một con chết thì con còn lại trước sau gì rồi cũng chết!
Chuyện nghe lóm, tôi đem học lại ngoại. Ngoại nói:
– Chó sủa ma, ngỗng đuổi tà!
Thấy tôi đứng xớ rớ, chưa hiểu lời ngoại. Ngoại hứa:
– Để lúc rảnh rỗi, ngoại kể chuyện đời xưa cho cháu nghe!
2. Thuyền về bến!
Cơm nước xong, ngoại ngồi nhắc chuyện xưa tích cũ về ngôi miếu thờ đôi ngỗng, nằm giữa vàm Cây Qui và cầu Đồng Tròn. Tôi chợt nhớ ra, cũng có đôi lần ngồi thuyền theo ngoại tới ngôi miếu thắp nhang cúng vái. Đầu cù lao Đôi, làng Long Sơn đột ngột phình rộng do dòng chảy sông Đồng Nai từ chợ Biên Hòa đổ xuống Gành, qua Tân Vạn tạo nên.
Ngoại kể, rằng: Trong những cánh buồm xuôi Nam, có cánh buồm của đôi vợ chồng son Khanh, Mai rời đất Thuận Hóa vô xứ Đồng Nai khẩn hoang, lập điền. Đến nơi, còn chưn ướt chưn ráo chưa ổn định cuộc sống, thì họ gặp ngay lão trại chủ người đồng hương ăn ở thất đức. Lão tên Mùi, thứ năm; lưu dân gọi lão là Năm Dê. Năm Dê không phải lưu dân thứ thiệt bởi lão giàu có từ ngoài quê, mang tiền của đầu tư vùng đất mới để mở rộng và gầy dựng thêm sản nghiệp. Lão mướn đám lưu dân bạch đinh khẩn đất lập trại ruộng và vợ chồng Khanh là một trong những tá điền trại ruộng của lão. Một hôm, lão sai gia nhân gọi Khanh lên gặp lão.
– Từ lâu, ta để ý thấy vợ chồng chú em làm lụng cật lực, hết lòng với ta. Vợ chồng chú em đúng là hạng người mà bấy lâu ta cố tìm nhưng không gặp, nay gặp rồi, ta ưng cái bụng lắm!
Khanh đứng dựa cột nghe lão nói, không biết lão muốn cái gì?
Lão khệnh khạng, vận lại mối quần sắp tuột.
– Vợ chồng chú em, đúng là ”Ăn cây nào rào cây nấy”!
Ngưng giây lát, lão nói tiếp:
– Thương tình cảnh vợ chồng chú em, vợ chú em khỏi phải ra rẫy cuốc đất trồng khoai…
Khanh ngơ ngác, lỏ mắt nhìn lão. Lão chẳng thèm để ý tới Khanh.
– Từ đây về sau, vợ chú em ở lại doanh trại giúp ta việc bếp núc!
Nghĩ tới vợ tránh được cảnh dầm mưa dãi nắng, Khanh mừng khấp khởi.
Mai im lặng nghe chồng học lại những gì lão Năm Dê đã nói. Với Khanh, đó là ”tâm ý tốt’‘ mà trại chủ ban cho; nhưng với Mai, đó là cái ”bẫy tăm tối” của kẻ háo sắc. Đôi lần, lão sai Khanh đi cùng gia đinh ra bìa rừng canh gác đêm giữ rẫy và đôi lần đó, lão lò mò dưới ánh trăng méo tới chòi vợ chồng Khanh. Bởi, lão cứ tưởng Mai là cây so đũa… sẵn sàng cho lá để ăn. Lão đã lầm, Mai buộc chặt cửa lòng bằng sợi dây tình chung thủy. Nhiều lần, Mai định kể chuyện lão ”thả dê” cho chồng nghe, nhưng sợ nghe rồi chồng buồn nên do dự lại thôi. Giờ, nếu thuận theo sự sắp đặt của lão, Mai cứ sợ chẳng sớm thì muộn cũng bị lão làm nhục; chi bằng ”cao chạy xa bay”!
Mai bàn bạc với chồng, bỏ nghề tá điền chuyển sang nghề hạ bạc trên sông Đồng Nai. Thương vợ, Khanh buông cuốc cày không luyến tiếc!
Hoàng Tấn, phó tướng của Dương Ngạn Địch đã tạo phản, và sát hại Dương Ngạn Địch ở cửa Tiểu sông Mỹ Tho vào tháng 6 năm Mậu Thìn (1688), sau chín năm sống lưu vong trên đất Việt. Tháng Giêng năm Kỷ Tỵ (1689), Thống suất Mai Vạn Long kéo quân tới đóng ở Rạch Gầm (2) chiêu dụ Hoàng Tấn và sau đó, Hoàng Tấn chạy thoát ra cửa biển Lôi Lạp (3). Vợ con Hoàng Tấn bị giết.
Thời cuộc rối ren trên vùng đất ổn định kỷ cương phép nước. Nhơn dịp, tàn quân Hoàng Tấn chạy trốn tới Trấn Biên, lão Năm Dê sực nhớ mối hận tình đã để vuột mất con mồi mượt hơn ánh trăng, thơm hơn mùi mít rừng Đồng Nai. Lão âm thầm bỏ tiền lo lót bọn sai nha thực hiện mưu bẩn, kế hiểm đối với vợ chồng Khanh đang sống trong cảnh túng thiếu, nghèo khó; nhưng thừa hạnh phúc, ngày đêm làm bạn sông nước, gió trăng!
Bụm tay vốc nước Đồng Nai vị ngọt thấm lòng, Mai nhớ khôn nguôi nước sông Bồ nơi quê nhà ngày cũ. Mai nhớ buổi chiều cuối cùng trên quê hương, lúc thuyền giương buồm no gió xuôi Nam; Khanh ôm vợ vào lòng, thì thầm: ”Đôi ta như đôi ngỗng” dù có phải chết cũng không thể rời nhau, dù có phải xa con sông Bồ, rời Quán Cửa…Rồi sẽ có một ngày mình quay về cố quận!”.
Trời xa chớp bể mưa nguồn, mắt vợ chồng Khanh ngân ngấn.
3. Bình minh trên sông Đồng Nai.
Thình lình quan quân Trấn Biên ập đến bắt Khanh khi chóp chài đầu tiên trong ngày chưa kịp buông. Theo lịnh bắt, thì Khanh thuộc đồng đảng Hoàng Tấn do có thơ tố cáo nặc danh của kẻ giấu mặt trong làng.
Khánh bị bắt vài ngày, lão Năm Dê lân la tới gặp Mai.
– Nàng có muốn ta cứu chồng nàng không?
Lão Năm Dê xề đít lên phản, nhích dần tới… Mai.
Không thèm đếm xỉa gì tới sự bất ngờ có mặt của lão, Mai chỉ nói bâng quơ: ”Trời cao có mắt!”.
Lão Năm Dê cười ”Hè hè…!”, Mai nghe âm giọng như là ”Be he…!”. Tự dưng, Mai mắc cười. Lão tưởng ”Nai đã chịu đèn”! Không để lỡ cơ hội ngàn vàng, lão chồm người nhào tới.
– Chuyện thằng Khanh, qua sẽ lo. Miễn là… Miễn là…
Vùng đứng dậy, Mai xô lão té bật ngửa, la lớn:
– Bộ trại chủ muốn ăn luôn cái ”quần què” (4), sao?
Không biết bầy ngỗng trời từ phương nào bay đến đáp nước, nước bắn tung tóe mặt sông.
Chúng kêu rân trời dậy sóng ngoài bến. Hoảng quá! Lão nắm mối vận lưng quần, lồm cồm bò qua khỏi ngạch cửa chòi, rồi cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng trong sương chiều.
Hai mùa trăng, thân Mai ”phòng không chiếc bóng” đợi chờ chồng! Hai mùa trăng, Khanh chịu cảnh ”Cá chậu chim lồng”!
Đêm nhà lao. ”Nhứt nhựt tại tù, thiên thu tại ngoại”, Khanh không còn hy vọng ngày về, và đã không còn hy vọng ngày về thì tại sao mình buộc người vợ trẻ chờ mong? Khanh nếm trải những trận đòn ”kinh thiên động địa”, những cực hình ”quỷ khốc thần kinh”; nếu không có tấm lòng nhơn hậu của cai tù Lê Sáu, thì có lẽ Khanh đã hóa ra người thiên cổ. Thương vợ, Khanh không nỡ nhìn tuổi xuân thì của vợ tàn phai theo năm tháng chốn lao tù của kẻ tòng nghịch triều đình. Cảm kích hành động trượng phu của cai tù Lê Sáu, Khanh muốn trả nghĩa và xin vợ thay mình trả nghĩa cho người.
Đồng Nai mùa Đông. Gió bấc thổi rừng se sắt lạnh đất trời, lạnh cả lòng người! Mai đọc xong bức thơ chồng gởi, đôi vai gầy thiếu phụ rung động. Bỗng dưng, nàng bật khóc và kêu: ”Chàng ơi!…
Đạo nào bằng đạo phu thê
Tay ấp, má kề, sanh tử có nhau” (Ca dao).
Thiếp không thể ”phu thê với Lê Sáu” để thay chàng trả nghĩa, vì năm xưa mình lấy nhau đã thề nguyền trước lúc ly hương:
”Thương nhau gặp khúc sông vơi
Khó khăn, gian hiểm chẳng rời thủy chung” (Ca dao).
Đêm mù, ánh đèn leo lét không đủ sáng soi những dòng chữ tuyệt mạng gởi lại người chồng yêu dấu đang chịu hàm oan nơi chốn lao tù. Cuối thơ, Mai nhắc lại những ngày yêu thương đẹp nhứt, ngày chàng thì thầm: ”Đôi ta như đôi ngỗng” dù có phải chết cũng không thể rời nhau, dù có phải xa con sông Bồ, rời Quán Cửa…Rồi sẽ có một ngày mình quay về cố quận”! Hỡi chàng! Ngày đó…, bao giờ!?
”Ai kêu, ai hú bên sông
Tôi đang sắm sửa cho chồng xuồng ghe
Chồng xuống ghe, quạt che tay ngoắt
Cất mái chèo, ruột thắt từng cơn…” (Ca dao).
Vậy mà, giờ đây… Vĩnh biệt chàng! Thiếp xin được đi trước để giữ lời thề!
Mai quyên sinh, cai tù Lê Sáu rúng động tâm can! Lê Sáu giấu Khanh chuyện nhà đã xảy ra thương tâm và kể từ đó, người cai tù âm thầm điều tra manh mối để minh oan Khanh. Trăng thu năm sau, Khanh được Lê Sáu giải oan và quan Trấn Biên minh xét, chuẩn thuận tha Khanh về sum hợp gia đình.
Lê Sáu dìu Khanh trở về mái chòi xưa.
– Hiền thê! Hiền thê ơi… Hiền thê đâu rồi? Ta đã về…
Tiếng gọi của chàng mất hút vào không gian chiều rừng thê lương lá rụng.
Căn chòi đầm ấm khi xưa, giờ đây trống hoác, lạnh ngắt. Bấy giờ, người cai tù run rẩy trao lại lá thơ tuyệt mạng của Mai cho Khanh. Khanh cắm đầu chạy ra bến sông cù lao Đôi, ngay vàm Tham Mạng, rồi nhảy xuống dòng nước xoáy nơi mà ngày trước Mai đã trầm hà quyên sinh. Bầy ngỗng ở đâu đó, cất tiếng kêu buồn!
4. Trên khúc sông oan nghiệt, mỗi khi có sóng to gió cả thường xuất hiện đôi ngỗng trắng, xòe cánh chặn sóng ngăn gió, giữ bình yên cho thuyền, ghe đi qua. Và, không biết tự nhiên hay có điều gì linh thiêng, hằng năm vào cuối thu đầu đông, hàng trăm con ngỗng trời từ phương trời xa bay về… Người làng cùng thuyền, ghe thương hồ qua lại khúc sông đã chung tay dựng ngôi miếu thờ đôi ngỗng ân tình.
Ngoại nhắc nhở con cháu: ”Có thể câu chuyện ngoại kể là ngoa truyền, do người xưa từ đời nầy sang đời khác truyền lại”. Rồi ngoại nói: ”Cho dù ngoa truyền hay thực truyền đều không quan trọng, điều quan trọng là con người cần ngẫm suy về sự trung thành và thủy chung của loài ngỗng”.
Đêm dần khuya, xóm vạn chài im lìm.
Thỉnh thoảng, tôi nghe tiếng ngỗng nhà ngoại kêu inh ỏi ngoài bến sông!
Chú thích:
(1) Nghi nga: Thả sức, tha hồ (có bản chép: ”Cồng cộc ăn cá thả ga”)
(2) Rạch Gầm thuộc thôn Kim Sơn, huyện Kiến Đăng, trấn Định Tường (nay xã Vĩnh Kim, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang).
(3) Nhà văn Sơn Nam cho biết quân chúa Nguyễn đã truy đuổi và giết chết viên phó tướng nầy ( Gia Định xưa, Nxb TP.HCM, 1984, tr.30).
(4) Quần què: Nghĩa đen, quần lưng chừng đùi. Nghĩa bóng, quần hoa hòe và nó cũng ám chỉ gián tiếp tên một loài hoa có tác dụng cầm máu, trị băng huyết, rong kinh của phụ nữ.
17/5/2020
Trần Bảo Định
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Còn thương thì về
Còn thương thì về Chẳng có đâu là thiên đường. Chẳng có đất nào bạc bẽo với mình cả. Chỉ lòng người bạc bẽo với đất mà thôi. Đất nào mình ...

-
Lời kỹ nữ - Xuân Diệu A.TÁC GIẢ: I. Cuộc đời: Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng T...
-
Hoa muộn - Nơi mùa xuân đi qua Vũ trụ này không có bắt đầu và không có kết thúc. Hay nói đúng hơn, con người không biết nó bắt đầu từ đâu ...
-
Qua bài thơ "Không đề" hiểu thêm tính sâu sắc của Văn Cao Nếu như ai đã từng thả bộ trên đôi bờ của một con sông, sẽ thấy mỗi b...