Nắng đổ lửa trên khoảng sân lổn nhổn đất đá. Cái nắng
ban trưa làm chóng phai màu áo nhưng lại tô đậm hơn làn da đã sẵn đen đúa của
công nhân. Họ đang đưa lưng ra nắng. Áo đẫm mồ hôi nhưng cổ họng lại khô cháy.
Dù vậy, đôi tay họ vẫn vận động nhịp nhàng, khéo léo. Những nhát cuộc bổ xuống
làm nẩy lên từng mảng lớn đất khô cứng. Sau đó, chúng bị ném về một phía, chồng
chất lên nhau như một ngọn đồi nhỏ cạnh chỗ sắp xây hồ bán nguyệt đang được đào
vét sâu dần. Tảo ngừng tay, ưỡn lưng vặn vẹo mình mẫy cho đỡ mỏi. Anh chép
miệng “khát quá!” Tảo đến chỗ xô nước đá, đặt cái cuốc một bên, anh chùi hai
bàn tay đầy đất cát vào hai bên mông quần rồi dùng một tay mở nắp xô, một tay
thò cái ca có vài vết đất vào thùng nước. Tảo ngửa cổ uống một mạch. Nước chảy
vào họng ừng ực, tràn qua hai bên mép mát lạnh. Anh cảm thấy khỏe hẳn ra. Tảo
khoan khoái buột miệng “ Đã quá!” Mấy người bạn ngoái nhìn, phì cười. Dũng thúc
giục “Lại làm mầy! Ở đó đã với không” Tảo cũng nhoẻn cười, anh thủng thỉnh trở
lại chỗ cũ nhảy xuống “ đáy hồ” tiếp tục đào vét. Như vừa được tiếp sức, Tảo bổ
những nhát cuốc mạnh mẽ. Anh hất đất bay lên bờ như trẻ nhỏ ném viên bi. Khoảng
đất chỗ Tảo làm tụt sâu hơn nơi khác, đất rung lên dưới bàn tay thoăn thoắt của
anh. Bỗng “ rổn”. Lưỡi cuốc chạm mạnh vào một vật cứng, tạo nên một
âm thanh chát chúa, khô khốc. Cùng lúc, những mảnh sành văng tung toé. Tảo
nghiêng người né tránh. Anh kêu lên “ Trời, cái hũ!” Mọi người đổ xô tới xem. Họ
cảnh giác đưa tay bịt mũi phòng ngừa đây là hũ hài cốt người chết. Biết đâu mùi
tử khí bay lên...nhưng mấy phút trôi qua không có gì hết. Chẳng có xú uế lan toả.
Tảo thắc mắc “ cái gì vậy trời!” Nhóm người cùng quay lại một chỗ. Thoáng chốc,
cái hũ được đưa lên trên mặt đất. Đó là một cái hũ sành tráng men vàng bóng, to
bằng cái thùng xách nước nhỏ. Cái nắp được khằn kín bằng xi măng . Bây giờ nó bể
một mảnh khá to. Tảo chợt nhớ câu chuyện cổ tích có một hung thần nị nhốt trong
cái hũ như thế. Ông được một người tốt bụng giúp đỡ nhưng ông ta lại gây kinh
hoàng , khó khăn cho ân nhân của mình. May nhờ người ấy thông minh nên đã lừa
được hắn chui trở vào “ tù ngục” cũ, khằn kín lại bằng một lá bùa rồi ném xuống
đáy biển. Tảo nói lên ý nghĩ của mình. Dũng, anh công nhân trạc tuổi Tảo đẩy mạnh
vai bạn, cười ha hả: - Khùng vừa thôi cha! Làm gì có chuyện hoang đường đó ha
ha... Mọi người đề nghị đập vỡ cái hũ. Không ai phản đối. Và Dũng
đưa cuốc lên, cái hũ vỡ vụn. Giữa những mảnh sành, hiện ra một cái hộp gỗ nhỏ
khá đẹp. Mọi người ồ lên kinh ngạc. Một người trong bọn cầm lên, mở nắp, thảng
thốt kêu lên “ trời, vàng....vàng....!” Cả nhóm thợ một phen choáng váng. Họ cảm thấy tim đập mạnh,
hơi thở dồn dập và chân tay run rẩy . Họ vây quanh cái hộp, trố mắt nhìn những
cái khâu vàng óng ánh dưới nắng trưa. Chúng bị xỏ thành một xâu khá dài. Mấy
chiếc xuyến chạm trổ khéo léo và vài sợ dây chuyền dài ngoằng mềm mại. Những
người thợ xây nghèo nàn chết đứng bên mớ của cải bất ngờ này. Họ như bị thôi
miên, mồm há hốc, nét mặt ngây dại. Lát sau, Dũng lấy lại bình tĩnh trước tiên.
Anh hỏi: - Bây giờ tính sau đây? Im lặng! Chẳng ai biết tính làm sao nữa? Mỗi người theo đuổi
một ý nghĩ. Đa số đều tưởng tượng đời sống sẽ biến đổi khi có một phần của cải ấy.
Họ sẽ xây nhà, mua xe máy. Sống cuộc sống sung túc hoàn toàn khác hiện nay. Họ
sẽ trở thành những ông chủ đầy quyền uy trước những người làm thuê khác. Chỉ có Tảo phân vân trước số của cải vừa nhặt được. Anh nhớ về
thời thơ ấu của mình bên cạnh người bà hiền đức, nhân hậu. Bà đã kể cho Tảo
nghe không biết bao nhiêu chuyện đời xưa tuyệt vời và bao giờ cũng kết luận: “ở
hiền gặp lành” hoặc “người nhân hậu, thật thà luôn được hạnh phúc” và có những
vạt dầu sôi, những bàn chông, những cây kéo sắc bén đang chờ kẻ ác dưới địa ngục.
Tảo một mực tin như thế. Đến bây giờ, dù đã lớn những câu chuyện kể ấy vẫn còn
in đậm trong trí nhớ anh. Tảo muốn trở thành một người hiền lương, tốt bụng. Dầu
không phải lúc nào anh cũng được mọi người ủng hộ. Đôi khi, họ còn chế giễu Tảo,
xem việc thể hiện đức tính thật thà như tính cách bất thường của một người dại.
Tảo buồn nhưng vẫn tin những gì anh từng tin tưởng. Anh tiếp tục đi theo con đường
mà người bà đã phác hoạ. Vì thế, Tảo phản đối việc chia đều số vàng khi có người
đề nghị. Anh viện lý do vừa đúng vừa có vẻ lý tưởng là “nhặt của rơi phải trả lại
người đánh mất”. Không phải vàng của mình mà lấy thì sẽ bị đánh giá là tham lam,
hậu thế chê cười vv...Những người bạn của Tảo có vẻ bực mình trước luận điệu đạo
đức ấy. Song không ai dám cãi vì Tảo nói quá đúng. Có điều, đối với người nghèo
như bọn họ thì trước ngưỡng cửa đạo đức thì hình như có cái gì khá mai mỉa để họ
phải lưỡng lự lẫn hối tiếc, ngập ngừng khi bước vào. Cuối cùng Tảo thắng cuộc.
Mọi người đồng ý trả lại của rơi. Họ bàn tán một hồi rồi quyết định cho chủ thầu
xây dựng hay. Dũng được cử làm việc ấy. Mọi người không phải đợi lâu. Dũng gặp chủ thầu đang trò chuyện
với chủ nhà. Hai người lập tức theo Dũng trở lại hiện trường. Vừa trông thấy
cái hộp, ông chủ nhà kêu lên như gặp ...tri kỷ “Rồi...chính nó! Cái hộp nữ
trang của mẹ tôi” Ông ta lắp ba lắp bắp nói như hụt hơi, mặt bừng đỏ vì xúc động. Thế là đã rõ, không ai thắc mắc gì nữa. Cái hộp được trao lại
cho chủ nhà. Ông ta mừng quá đến độ quên cả cám ơn những người thợ thật thà, tốt
bụng. Chỉ có Chủ thầu tấm tắc ngợi khen nhóm công nhân xây hồ bán nguyệt ở đây.
Ông xuýt xoa luôn mồm vì không ngờ quanh ông bấy lâu toàn những người tốt, biết
trọng nghĩa nhân hơn vàng bạc và ông ví họ như những đoá sen sắp trồng để trang
điểm cho hồ bán nguyệt. Mọi người hớn hở vô cùng trước lời tuyên dương của chủ
và hy vọng tràn trề khi nghe ông bảo “ thế nào chủ nhà cũng thưởng cho các anh
trọng hậu”. Đêm đó, không ai ngủ được. Họ còn lâng lâng trong cảm giác
khó tả. Họ cảm thấy mình cao quí hơn, đáng trọng hơn trong việc làm vừa qua. Bỗng, có tiếng chó sủa vang, tiếng người xôn xao. Ánh đèn pin
quét qua quét lại trong bóng tối. Mọi người giật nẩy mình khi nghe có tiếng đập
cửa căn nhà dã chiến dành cho thợ mà họ đang trú ngụ. “ Mở cửa, mở cửa mau!” Mọi
người nhìn nhau lo lắng. Lại có tiếng đập cửa, lần này gấp rút hơn “ có công an
xã đến xét nhà” Hoảng vía, Dũng lật đật ra mở cửa. Khoảng bảy người có súng ống
đầy đủ ập vào, một người ra lệnh như một đoạn phim bắt cướp “ Ngồi im, các anh
đã bị bắt!” Sau đó, họ chia làm hai tốp. Một tốp canh giữ bọn Tảo. Tốp kia lục
soát khắp nơi. Họ mở va li, dờ chiếu, kiểm tra cả chỗ để dụng cụ xây dựng.
Không có gì lạ. Một nah công an báo cáo với trưởng nhóm “ Chẳng có gì lạ”. Người
trưởng công an xã ra lệnh “ Tạm thời các anh phải về trụ sở xã vì chủ nhà viết
đơn tố cáo các anh chiếm đoạt một số vàng của họ. Đợi chúng tôi điều tra vụ việc”.
Tảo và các bạn bị điều về phòng tạm giam. Họ được công an xã cho biết chủ nhà
đã phát đơn kiện. Họ thưa bọn Tảo đã chiếm đoạt tài sản trái phép. Số vàng của
họ là năm chục cây nhưng bây giờ chỉ còn lại một nửa và họ quả quyết hai mươi
lăm cây vàng kia đang nằm trong tay nhóm thợ xây hồ bán nguyệt. Mọi người kêu
oan như bọng nhưng công an bảo phải chờ điều tra và để trấn an họ, trưởng công
an bảo: - Nếu các anh vô tội thì không việc gì phải sợ. Hãy tạm thời
ăn nghỉ tại đây! Thấy không thể giải thích được với chính quyền. Họ quay ra chửi
trời mắng đất. Đang cơn thịnh nộ, họ chợt nhớ tới Tảo. Chính anh là đầu dây mối
nhợ của cái oan này. Cũng tại anh cuốc nhầm cái hũ vàng. Và cũng tại anh ngu ngốc
mang trả cho chủ nhà mới ra cớ sự. Nếu họ điều tra không ra thì họ đào đâu ra số
vàng để trả. Chắc sẽ tù tội, rồi vợ con họ sẽ ra sao? Chắc phải chịu cảnh nghèo
đói, lầm than. Ôi, bao nhiêu đau khổ sẽ trút lên đầu họ. Mọi người căm phần Tảo
và không nén được họ ào tới đấm đá anh không thương tiếc. Khi công an hay được
thì mặt mày anh sưng húp và mình mẩy đầy vết bầm. Anh được đưa sang trạm xá xã
nằm tịnh dưỡng. Tảo trăn trở, đau đớn từ thể xác đến tâm hồn. Nỗi hoài nghi về
cái thiện và ác xâu xé, dằn vật anh từng giây từng phút. Lẽ nào người hiền gặp
lành chỉ xảy ra trong cổ tích. Còn thực tế quá phũ phàng. Tại sao lòng tham của
con người lại vô cùng vô tận đến thế? Liệu Tảo có sai lầm khi mang số vàng ấy
trả lại cho chủ nhân? Tảo nhớ những lờ đay nghiến của Dũng: - Thật thà hoá cha dại! Phải chi mầy để tụi tao chia vàng thì
đâu đến nỗi. Anh còn rứt rói: - Con Mai, em gái tao mà thành vợ mầy thì có ngày đói rã ruột
ra. May mà mầy chưa có tiền cưới nó. Trời ơi! Người đâu mà ngu động trời động đất
vậy trời! Tảo ôm lấy đầu! Ừ, phải chi anh có tiền hẵn là anh cưới được
Mai. Hai người sẽ xây một ngôi nhà nho nhỏ và sống hạnh phúc bên nhau. Nhưng điều
đó bây giờ bỗng trở nên xa vời. Anh đang bị tạm giữ. Biết đâu rồi hai người
không có cơ hội gặp lại nhau. Tình yêu rồi sẽ chỉ còn lại một ít kỷ niệm vừa ngọt
ngào vừa buồn bã. Điều làm cho Tảo khó chịu và khổ sở nhất là mình gây hoạ cho
các bạn. Họ phải chịu oan ức, tù tội. Anh không oán trách họ đã nhẫn tâm đánh đập
anh. Họ có quyền làm thế! Hãy còn nhẹ tay lắm! Và nếu họ bị tù thật sự thì tội
của Tảo sẽ lớn nhường nào và có lẽ đến chết anh vẫn còn ân hận. Tảo chỉ còn biết
chờ đợi pháp luật nghiêm minh. Ánh sáng công lý soi tỏ lòng anh, xoá tan bóng tối
đang chực chờ phũ trùm lên bao cuộc đời vô tội. Giữa lúc mọi người tuyệt vọng thì người chủ thầu xây dựng xuất
hiện như một vị thần công lý, giải thoát bọn Tảo. Khi hay tin ngườ chủ nhà đã
thưa công nhân mình về tội chiếm đoạt tài sản trái phép và đòi xử theo điều luật
quy định. Ông lật đật quay về thành phố tìm gặp một luật sư nổi tiếng nhờ giúp
đỡ. Vị luật sư tài ba đã đưa vụ việc ra ánh sáng một cách dễ dàng. Trước chính quyền xã, vị luật sư đã nêu những câu hỏi mà người
chủ nhà không thể trả lờ được: - Tại sao sắp xây dựng mà không lấy vàng cất giữ nơi khác, nếu
là vàng của ông? - Có giấy tờ hay chứng cớ gì để xác minh số vàng ấy là của mẹ
ông để lại và số lượng là 50 cây? Theo tôi điều tra thì mẹ ông mới mất cách nay
hơn một năm. Như vậy mua vàng ở tiệm nào? Có hoá đơn chứng từ gì không? Và đất
mà ông thuê xây hồ bán nguyệt ông mới mua có mấy tháng nay, thể hiện qua giấy tờ
chuyển nhượng. Điều này chứng tỏ vàng đó không phải là của mẹ ông. Vì không lẽ
có vàng không chôn giấu trong đất nhà lại đem qua đất ruộng nhà người chôn giấu.
Mà sao chính ông lại cho đào nơi giấu vàng để xây hồ. Thật vô lý. - Nếu bảo công nhân chiếm đoạt tài sản thì chứng cớ đâu? Khi
lục soát công an đâu tìm thấy dấu vết gì. Nếu bảo họ tham sao họ đem vàng trình
báo cho chủ thầu xây dựng khi họ bắt gặp hộp vàng chẳng ai hay biết ngoài họ? Và luật sư kết luận: - Nếu kết tội những người vô tội là trực tiếp làm cho họ trở
thành tội phạm sau này. Họ vĩnh viễn mất lòng tin ở con người và luật pháp. Và
điều ấy thật là nguy hiểm cho toàn xã hội. Nhóm công nhân được trả tự do ngay sau đó. Số vàng bị thu hồi,
xung vào quỹ xoá đói giảm nghèo. Và chính quyền xã tuyên bố sẽ dùng toàn bộ số
tiền quy đổi từ vàng để cất nhà tình nghĩa cho những công nhân nghèo thuộc địa
phương, đồng thời hỗ trợ chi phí xây dựng cho các anh thợ ở xa để họ tự lo xây
hay sửa nhà. Đúng như luật sư đã khẳng định. Tảo và các anh công nhân khác
đều cảm thấy sung sướng, hạnh phúc vì được chở che khi làm đúng. Họ không cô
đơn! Quanh họ còn biết bao người tốt. Họ tin rằng cuối cùng thiện vẫn thắng ác. Nguyễn Thị Mây
Theo https://vietvanmoi.fr/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét