Chiều xuống êm đềm. Vài cánh chim hối hả, chấp chới cuối
trời. Nắng tắt. Đầm sen mờ mờ, lặng yên. Những chiếc lá trải rộng, xanh um, phủ
kín mặt đầm. Dăm ba đóa hoa sen con nhô cao như ngọn đèn chưa bật sáng, lem luốc
hai màu xanh đỏ. Những cánh sen nở xòe hồng hồng, tươi tắn, khẻ lung lay. Gió
lùa những sợi tóc dài của Nguyên ra sau, mơn man đôi gò má rám nắng. Nguyên tựa
người vào thân cây dừa, mơ màng nhìn mây trôi. Những cụm mây trắng như bông,
lãng đãng, in đậm trên nền trời lam nhạt những hình dạng ngộ nghỉnh. Có lúc, tựa
như đôi thiên nga nô giỡn trên dòng nước. Có lúc như hai chú mèo gò lưng, chực
nhảy và có lúc tựa như một cái bóng trắng quen thuộc, thân thương. Nguyên bàng
hoàng khi mây nhạt dần, khuất hẳn. Tiếng chuông chùa chợt âm vang, ngân nga,
lôi tuột Nguyên về với thời tuổi thơ lãng mạn. Men theo bờ đất, đi mãi về phía mặt trời lên sẽ gặp ngã
rẽ, dẫn tới một ngôi chùa cổ. Chùa Trúc Đào, ngôi chùa có từ lâu lắm. Thuở ba
má Nguyên còn bé tí, tóc để chỏm. Chùa nằm ở một góc ruộng . Mái ngói rêu bám đầy,
tường xám xịt. Nhưng cũng đủ để mọi người phân biệt đó là một ngôi chùa chớ
không phải một cái chuồng trâu hay chòi vịt. Bên trong, các bệ thờ chiếm gần hết
diện tích. Những bức tượng sơn son, thiếp vàng, đứng ngồi la liệt, lặng lẽ chịu
đựng lớp bụi thời gian và lưới nhện. Điều lạ là xưa nay chùa chỉ có hai người.
Một già, một trẻ. Vị sư già chỉ lẩn quẩn trong chùa. Bà đi từ chánh điện xuống
hậu liêu. Thỉnh thoảng, bà mới vào xóm, đến nhà nào đó để tụng kinh cầu siêu
cho người chết. Vì thế, cứ mỗi lần thấy bóng áo nâu thấp thoáng, Nguyên sợ hãi,
nửa muốn né tránh, nửa tò mò muốn đuổi theo. Trong đầu óc non nớt của Nguyên
lúc đó, vị sư già và thần chết là bạn thân thiết. Thần chết đến nhà ai, lát
sau, sư già lại đến. Một kẻ mang người chết sang thế giới bên kia. Một kẻ an ủi,
vỗ về bằng những câu kinh. Đôi khi xen vào vài lời trấn an về sự đổi thay chốn
tựa nương của linh hồn. Đó là thế giới vĩnh hằng. Nơi mà niềm vui hoặc nỗi buồn
nếu có, con người cũng không sao thấy được. Ở vùng ngoại ô này, nhà cửa lưa thưa. Nhà nọ cách nhà kia xa
lắc, bằng một cánh đồng. Chỉ có dọc quốc lộ, gần ba mươi căn nhà đứng xếp hàng
hai bên, đối diện nhau, quay ngõ ra đường, như thể muốn chứng minh rằng ở đây
cũng có người cư trú. Ban ngày, có một cái chợ chồm hổm nhóm gần đó, trên một
khoảng đất bằng phẳng, rộng bằng một cái nền nhà. Người bán, kẻ mua đều ngồi chồm
hổm khi trao đổi hàng hóa. Thỉnh thoảng, có người muốn làm sang, dọn hàng ra
bán, chất đống nhiều thứ ra đấy, căng dây, treo lủng lẳng dăm ba loại. Người hiếu
kì bu lại xem, chỉ trỏ, bàn tán, khen chê một hồi rồi tản ra, mua hàng của những
người ngồi chồm hổm. Họ cho rằng người nghèo thường bán rẻ. Vì bán rẻ lời ít,
nên mới nghèo. Mà nghèo thì ... bàn rẻ. Dù cho chủ quầy hàng có gào giá cả từng
loại, họ cũng cóc thèm nghe. Chủ ghi giá tiền bằng những con số to tổ bố trên tấm
bảng con, đặt trước mặt hàng, cũng chẳng có ai xem. Mà dù có xem cũng không để
ý. Rốt cuộc, quầy hàng xẹp lần xuống, rồi chồm hổm cho tiện việc. Chợ nhóm từ tờ mờ sáng đến khoảng tám giờ là tan. Hôm nào có
gánh hát sơn đông tới múa may rồi bán thuốc thì buổi chợ kéo dài thêm khoảng nửa
tiếng. Người mua, kẻ bán vây quanh xem một lát rồi ai về nhà nấy. Họ cũng mua
ít thuốc, vì tội nghiệp hơn là tin ở những người quảng cáo thuốc. Bán chạy nhất
là món dầu gió. Có lẽ tiền lời chẳng bao nhiêu nên khi nào túng thế, gánh hát
này mới quay lại chợ chồm hổm. Ban đêm, từ nhà Nguyên nhìn ra, khu phố chợ sáng rực ánh đèn
điện. Đèn đường như những anh chàng chỉ huy đứng trên cao, nhìn tổng quát và ra
hiệu lệnh. Hễ trời chập choạng tối, mấy gã cao nghều nghệu nầy lập tức giương mắt,
bật sáng thì lần lượt từ những ô cửa của hai dãy phố chợ cũng hắt ra ánh sáng yếu
ớt của đèn nhà. Hai luồng sáng gặp nhau, chấp chới, trùng triềng rồi sáng rực.
Trông cứ như một thành phố phồn vinh, tiến bộ. Đôi khi, Nguyên còn ví phố chợ
như một kinh thành cũ, có một vi vua nhân từ, một bà hoàng hậu đẹp tuyệt trần
và một hoàng tử hào hoa, tuấn tú. Một đêm nào đó, triều đình sẽ mở hội thử giày
và các cô gái sẽ được dịp mơ mộng, ao ước cuộc sống vương giả. Nguyên thường
săm soi đôi chân của mình. Những ngón nhỏ thon nhưng đầy vết nứt nẻ và chai sần.
Dù không cắt, móng chân cũng không dài ra được. Chúng luôn bị đóng phèn, vàng xỉn.
Ngày giáp Tết, Nguyên hay lấy chanh tươi chà xát, dùng bàn chải đánh mạnh.
Chúng trở nên hồng hào được vài hôm rồi đâu cũng vào đấy. Nguyên buồn vơ vẩn ít
phút rồi tự an ủi: “Dù đôi chân mình có xinh xắn mà khuôn mặt xấu xí, cũng chẳng
lọt vào mắt xanh của ai đâu. Nên an phận thì hơn!” Ngoài thú ngắm đèn điện, bọn trẻ như Nguyên còn thích chạy đến
những ngôi nhà có đám cưới hoặc đám tang. Đứng ngoài ngõ nhìn người ta ăn uống,
cười nói cũng thích lắm. Tha hồ nuốt nước bọt, mơ tưởng viễn vông. Bọn Nguyên
kháo nhau về những bộ áo cưới và chọn kiểu cho mình. Ở đám tang, Nguyên thích
quan sát khuôn mặt mọi người. Vẻ đau khổ thật sự hay giả tạo đều khiến khuôn mặt
họ khác lạ, xấu xí. Lúc đó, vị sư già xuất hiện , bà đọc kinh, giọng trầm
trầm, đùng đục, gợi nỗi đau lan ra, len lỏi tận cùng ngóc ngách tâm hồn, đẩy bật
những tiếng nấc từ đáy tim thoát ra. Âm thanh đặc nghẽn, hòa lẫn với tiếng mõ lốc
cốc đều đều, tiếng chuông dõng dạc bất chợt, tạo thành một khúc sầu thống thiết.
Nguyên cũng khóc mùi mẫn, chẳng vì lý do gì. Không biết từ lúc nào, trong chùa có thêm một thành viên mới.
Thằng bé trạc tuổi Nguyên, gầy nhom, cao nhòng, da đen nhẻm, đầu cạo trọc lóc.
Nó cũng mặc nâu sồng. Nhưng, bộ quần áo vạt khách nầy không làm cho nó giống một
người tu hành. Ánh mắt sáng ngời, tinh quái. Khi nó nheo một mắt, chun mũi, lè
lưỡi với Nguyên, Nguyên phải buột miệng mắng: “Tiểu ác tăng!” Người ta đồn rằng nó là một thằng trôi sông, lạc chợ đến đây.
Hôm đó, người sư già đi tụng kinh về, bà bắt gặp nó nằm co rúm ở cạnh gốc cây sầu
đông ven chợ. Mặt xanh như đổ chàm. Ruồi bâu mấy mụn ghẻ ở tay, nó cũng không
buồn đuổi. Vị sư già tới hỏi chuyện, biết nó mồ côi, chẳng nơi nương tựa nên
đem về chùa. Bà đặt pháp danh cho nó là Từ Tâm và tập cho nó sống đời tu hành.
Bấy giờ, khi có ai cần tụng niệm, vị sư thường dắt Từ Tâm theo. Bà đi trước, lầm
lũi như con chim đầu hói, cánh cụt. Còn Tâm theo sau, tựa con chim sáo tung
tăng đôi chân nhỏ. Một thời gian sau, Tâm được đến trường. Nó học chung lớp với
Nguyên. Cả lớp, chỉ có Tâm là không mặc đồng phục. Cái đầu nhẵn bóng và bộ nâu
sồng là đề tài không dứt của bọn Nguyên . Dù bị trêu chọc, Tâm vẫn không giận.
Ngược lại, nó còn vui vẻ bảo rằng: “Tấm lòng người tu hành thường bao dung, rộng
mở”. Có nhiều đứa nghịch ngợm, chìa những cái bánh nhân thịt cho Tâm. Nó thản
nhiên ăn hết. Rồi giải thích khi bị chế giễu: “Các bạn bảo đó là đồ chay. Tôi
ăn. Bây giờ, các bạn bảo đấy chỉ là bánh mặn, nhân thịt. Như vậy, không phải
mình tôi có lỗi đâu”. Có người nhiều chuyện, kể lại cho sư già nghe. Bà chỉ đáp: “A
di đà Phật!”. Nhưng, từ đó, Nguyên thấy tóc Từ Tâm được nuôi dài ra, không bị cạo
gọt thường xuyên như trước và Tâm đi học với bộ đồng phục như bao trẻ khác. Tâm
trở thành một đứa trẻ bình thường như Nguyên. Dọc đường đến lớp, Tâm thường kể cho Nguyên nghe về quê hương
xa tít, nghèo nàn kiệt quệ sau mỗi mùa lũ. Ngôi nhà ven sông. Chiếc thuyền câu
của ba và quanh gánh hàng rong của mẹ. Nước lũ đã cuốn trôi tất cả mọi thứ ra
biển, trừ Từ Tâm. Bây giờ, chùa Trúc Đào là mái ấm của Tâm. Nó yêu quý sư bà và
ni cô Hạnh Dung. Những người cứu sống và cưu mang nó. Nhưng Tâm tiết lộ rằng nó
thích cuộc sống sôi nổi, tranh đấu hơn là yên ả như hiện tại. Tâm muốn trở
thành một anh hùng quân đội hay ít nhất cũng là một người như thầy chủ nhiệm của
mình. Tâm không thích nhìn người ta phủ phục trước áo quan. Điều đó gợi nhớ ba
mẹ và quê hương xưa. Trái tim nhỏ bé của nó không sao chịu nổi. Tâm mê lời thơ của Hoàng Trung Thông trong “Bài ca vỡ đất”.
Thỉnh thoảng, Tâm thường ngâm nga: “Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm” Tâm muốn dùng đôi tay mình để thực hành những kiến thức mà thầy
đã dạy ở trường. Nguyên thường phân vân, bảo: - Như vậy, chưa hẳn là tốt đâu. Rồi Tâm sẽ rời xa những người
ơn của mình. Bội bạc lắm! Tâm cười ngất, giải thích: - Mình có quên ơn ai đâu. Chính sư bà cũng khen mình và dặn
thay bà làm việc thiện. Như vậy là một cách tu. Tu hiền đấy, Nguyên! Nguyên ngạc nhiên về những ý nghĩ của Tâm. Có phải nghịch cảnh
đã giúp con người khôn trước tuổi và biết định hướng sớm về tương lai của mình? Lúc ấy, Nguyên chỉ cười, lắc đầu ra vẻ không tin. Nhưng chỉ
vài tháng sau, Tâm đã khiến cho Nguyên phải thán phục bởi những việc làm cụ thể.
Ngoài buổi học, Tâm đi làm mướn. Nó lãnh đào mương, đắp bờ, nhổ cỏ, gánh nước
thuê. Miễn sao kiếm được chút ít tiền. Được bao nhiêu, Tâm giao hết cho sư bà.
Nguyên tò mò hỏi thì Tâm bảo: “Mình cũng phải góp phần chứ. Trong chùa, mình là
người khỏe mạnh nhất kia mà”. Nguyên lại thắc mắc: “Góp để làm gì?”. Tâm thản
nhiên đáp: “ Để sống và làm điều thiện như sư bà đã dạy”. Nguyên bỗng cảm thấy nhỏ bé trước Từ Tâm. Từ đấy, Nguyên cố gắng
chăm học, siêng làm và hiếu để đến nổi ba mẹ Nguyên phải ngạc nhiên. Nhưng họ
không có thì giờ để suy gẫm, chỉ biết vui mừng. Những cánh đồng bị sâu rầy, những
vạt lúa thiếu nước đã làm cho họ vất vả lắm rồi. Sau lần dự thi học sinh giỏi cấp tỉnh, Tâm đạt giải nhì nên
được nhà trường cho đi tham quan cảnh đẹp đất nước. Đoàn ghé lại Đồng Tháp, Tâm
được đến thăm lăng của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và được nhìn thấy những cánh
sen Đồng Tháp nở rộ trên mặt đầm. Tâm nói với Nguyên rằng mình yêu hoa nầy nhất.
Những chiếc là xòe rộng như những bàn tay của tạo hóa hay là những chiếc thuyền
xanh chở những sinh vật bé nhỏ trên mặt nước, để chúng khỏi bị dìm chết . Những
cọng ngó sen mập mạp, trắng ngần đến lạ và những cánh hoa phơn phớt hồng, đẹp
như màu thanh xuân trên gò má thiếu nữ. Chẳng biết lúc ấy Nguyên thẹn thùng thế
nào mà Tâm ngẩn ngơ, buột miệng : “Mới đó mà đã bảy năm qua. Chúng mình lớn lên
tự bao giờ chẳng biết, hả Nguyên?” Tâm đã ra sức cải tạo cái ao nhỏ có vài cụm lục bình ở sau
chùa thành một cái hồ rộng để trồng sen. Chẳng bao lâu, sen bén rể, sinh sôi và
nở rộ. Tiếng lành đồn xa. Người ngoài phố chợ túa vào ngắm sen, luôn tiện học
cách trồng. Con đường đất vào những ngày rằm người qua, kẻ lại vui vẻ khác thường.
Nhờ bàn tay của Tâm, trong chánh điện khói hương nghi ngút. Những bức tượng
bóng nhẫy, tươi tắn như vừa được sơn mới. Lưới nhện không còn giăng chằng chịt
trên vòm mái. Cái chuông đồng vàng óng như vừa mới đút. Hai chiếc chiếu hoa trải
nền còn tươi màu nhuộm. Tất cả gợi sự tin cẩn vào sức mạnh của nghị lực và góp
phần tôn tạo vẻ trang nghiêm nơi cùng cốc nầy. Tâm cũng giúp Nguyên trồng sen ở cái ao nhỏ bên hè nhà. Có mấy
người gần đó cũng nhờ Nguyên chỉ dẫn . Loáng cái, đầm sen mọc lên cùng xóm. Chợ
chồm hổm bấy giờ thêm một mặt hàng cao cấp nữa là ngó sen. Những cọng ngó sen mập
mạp, trắng ngần, bày bán nhiều đến nỗi chợ được thêm cái tên mới “Chợ Ngó Sen”.
Đời sống dân làng nhờ đó cũng khấm khá hơn. Bây giờ, ở làng Nguyên không còn ai
bị đói. Nhiều địa phương biết được cũng bắt chước cải tạo ao, đầm tạp nhạp
thành những đầm sen đẹp và lợi ích. Bây giờ, Tâm đã đi xa. Anh lên thành phố để bước vào ngưởng cửa
đại học. Tâm ít có dịp trở về ngôi chùa cũ. Vì ngoài việc học, Tâm còn phải kiếm
sống bằng nhiều nghề khác nhau với bàn tay và khối óc của mình. Dù vậy, mỗi khi ra ngõ, trông thấy những cánh sen hồng ung
dung xòe cánh, những tờ lá cuộn tròn hay mở rộng, đong đưa theo gió. Và hương
sen thoang thoảng, êm đưa, Nguyên lại bồi hồi nhớ đến Tâm. Chiều nay, như mọi
chiều, Nguyên cắt vài đóa sen, mang ra cắm vào chiếc lọ sành trước ngôi mộ đất.
Nơi vị sư già yên nghĩ nghìn thu. Nguyên chắp tay , lặng yên chẳng dám thốt nên
lời điều mình mong đợi. Dù chung quanh vắng vẻ, yên tĩnh đến lạnh lùng. Chỉ riêng những đóa sen hồng hiểu rõ lòng Nguyên, khi cô cúi
xuống, những giọt nước mắt tưới lên hoa như thì thầm: “Tâm ơi! Lại một ngày
qua vội!”. Nguyễn Thị Mây
Theo https://vietvanmoi.fr/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét