Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2016

75 năm câu chuyện tình buồn: Khám phá bí ẩn: Ai là T.T.Kh

75 năm câu chuyện tình buồn: 
Khám phá bí ẩn: Ai là T.T.Kh? 
* Xuất xứ của câu chuyện về T.T.Kh:
Hoa tigôn có tên đầy đủ là Antigone do người Pháp đem sang Việt Nam từ những năm đầu của thế kỷ 20. Loài hoa này không có hương thơm nhưng đẹp & đầy lãng mạn, là loài hoa dây leo, lá gần giống lá nho bông hoa có những cánh nhỏ ly ti xếp lại tựa như hình trái tim có ba màu trắng, hồng & màu đỏ. Hoa nở từ cuối mùa xuân cho đến độ cuối thu là thời gian đẹp nhất, rực rỡ nhất của loài hoa này dường như nó chợt “lóe sáng” như ngọn đèn sắp tắt để đến mùa đông chỉ còn lại những thân dây leo trông thật điêu tàn…Loài hoa quí phái này được trồng nhiều ở những gia đình khá giả tại các thành phố lớn như Hà Nội-Hải Phòng-Sài Gòn & kể cả ở những Thị trấn nhỏ thời bấy giờ…
Vào giữa tháng 7 năm 1937 tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy ở Hà Nội đăng truyện ngắn mang tên Hoa Tigôn của Nhà văn Thanh Châu,câu chuyện kể về một họa sỹ nghèo nhiều lần về làng Mọc để vẽ tranh phong cảnh,nhìn thấy rồi “tương tư” hình bóng một người con gái sáng nào cũng bắc ghế hái những cành tigôn trước cửa…Bẵng đi vài năm,trong một buổi tiệc của giới thượng lưu & quan chức chính quyền bảo hộ họ gặp lại & nhận ra nhau,nhưng bây giờ cô gái ngày xưa ấy đã trở thành mệnh phụ phu nhân của một ông đã luống tuổi,cuộc hôn nhân tuy môn đăng-hộ đối nhưng lại quá tẻ nhạt…từ đó họ hay qua lại thăm nhau,cùng nhau bình luận về những tác phẩm hội họa của chàng họa sỹ bây giờ đã trở nên nổi tiếng…Rồi đến một ngày, chàng họa sỹ trẻ năm nào nay cũng đã bước vào tuổi xế chiều nhận được một phong thư có ép một dây hoa tigôn báo tin người mà ông yêu đã qua đời & cũng từ đó người họa sỹ tài hoa ấy sống lặng lẽ một mình với những bức tranh, những hoài niệm đẹp về một mối tình đã không còn trở lại…Hai tháng sau ngày đăng truyện ngắn nói trên,giữa tháng 9 năm 1937 tòa soạn tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy nhận được một bài thơ với nét chữ run run ký tên tác giả là T.T.Kh,đó là bài thơ Hai sắc hoa Tigôn  và được đăng báo ngày 23 tháng 9 năm 1937.Gần hai tháng sau,tòa soạn lại nhận được một bài thơ nữa cũng vẫn ký tên là T.T.Kh,bài thơ có tựa đề là Bài thơ thứ nhất dù đó là bài thơ thứ hai gửi đến tòa soạn! Bài thơ được đăng ngày 20 tháng 11 năm 1937.Bẵng đi một thời gian khá lâu tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy không còn nhận được thêm bài thơ nào từ thi sỹ có bút danh bí ẩn này,nhưng thật kỳ lạ là cũng trong quãng thời gian đó trên tờ báo Phụ nữ -tòa soạn ở số 7 phố Hội Vũ-Hà Nội lại xuất hiện Bài thơ đan áo cũng ký tên T.T.Kh… Gần một năm sau,tòa soạn Tiểu thuyết thứ bảy mới lại nhận được bài thơ có tựa đề Bài thơ cuối cùng ký tên tác giả vẫn là T.T.Kh & được đăng báo ngày 30 tháng 10 năm 1938,trong đó có nhắc đến Bài thơ đan áo nêu trên .Ba bài thơ gửi đến tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy nói lên niềm đau xé lòng về một mối tình ngang trái & đẫm lệ đã làm cho độc giả bàng hoàng sửng sốt,nhiều người trong số đó như tìm được hình ảnh,câu chuyện của chính cuộc đời mình bởi vì sống trong xã hội còn mang nặng tư tưởng “môn đăng- hộ đối” thì những chuyện tình trái ngang như thế là không hiếm gặp & cũng không có gì là khó hiểu…Thế nhưng đây lại là một trường hợp đặc biệt có thể nói không ngoa rằng:-Là độc nhất vô nhị trong Văn chương-Thi phú của nước nhà từ trước tới nay,bởi chưa từng có trường hợp nào mà ở “đằng sau” bút danh nhưng không ai biết được Tên thật của tác giả trong suốt hơn 70 năm qua…Trước khi đi tìm “ẩn số” T.T.Kh là ai & ai thật sự là người yêu của T.T.Kh? Chúng ta cùng đọc lại những bài thơ bất hủ của Bà.
(Lưu ý: - Ngày, tháng, năm của mỗi bài thơ là ngày đăng báo).
HAI SẮC HOA TIGÔN  (T.T.Kh)
Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
                                      Bảo rằng:-“Hoa dáng như tim vỡ
                                      Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi”.
                          Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì
                          Cánh hoa tan tác của sinh ly
                          Cho nên cười đáp: “Màu hoa trắng
                          Là chút lòng trong chẳng biến suy”.
                                       Đâu biết lần đi một lỡ làng
                                       Dưới trời gian khổ chết yêu đương
                                       Người xa xăm quá,Tôi buồn lắm
                                       Trong một ngày vui pháo nhuộm đường.
                          Từ đấy thu rồi thu lại thu
                          Lòng tôi còn giá đến bao giờ
                          Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
                          Người ấy cho nên vẫn hững hờ.
                                          Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
                                          Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
                                          Mà từng thu chết, từng thu chết
                                          Vẫn giấu trong tim bóng một người.
                         Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
                         Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
                         Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
                         Và đỏ như màu máu thắm phai.
                                         Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
                                         Một mùa thu trước rất xa xôi
                                         Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
                                         Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi.
                         Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
                         Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu
                         Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
                         Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.  
                                        Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
                                        Trời ơi!Người ấy có buồn không
                                        Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
                                        Tựa trái tim phai tựa máu hồng?
                                                        23-9-1937
 BÀI THƠ THỨ NHẤT (T.T.Kh)
                         Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
                         Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
                         Nhưng nhà nghệ sỹ từ đâu lại
                         Êm ái trao tôi một vết thương.
                                   Tai ác ngờ đâu gió lại qua
                                   Làm kinh giấc mộng những ngày hoa
                                   Thổi tan tâm điệu du dương trước
                                   Và tiễn người đi bến cát xa.
                       Ở lại vườn Thanh có một mình
                       Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
                       Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
                       Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
                                    Và một ngày kia tôi phải yêu
                                    Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
                                    Những cô áo đỏ sang nhà khác
                                    Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều.
                        Từ đấy không mong không dám hẹn
                        Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
                        Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
                        Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.
                                    Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
                                    Bỗng ai đem lại cánh hoa tim
                                    Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
                                    Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.
                        Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
                        Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
                        Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
                        Thì ai trông ngóng chả nên chờ.
                                   Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
                                   Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
                                   -“Cố quên đi nhé câm mà nín
                                    Đừng thở than bằng những giọng thơ”.
                        Tôi run sợ viết lặng im nghe
                        Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
                        Như tiếng chân người len lén đến
                        Song đời nào dám gặp ai về.  
                                   Tuy thế tôi tin vẫn có người
                                   Thiết tha theo đuổi nữa,than ôi
                                   Biết đâu tôi một tâm hồn héo
                                   Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.
                                                       20-11-1937
BÀI THƠ ĐAN ÁO   (T.T.Kh)
Chị ơi, nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương
Đã xa hẳn quãng đời hương
Đã đem lòng gửi gió sương mịt mùng
Hay chăng chị mỗi chiều đông
Đáng thương những kẻ có chồng như em
Vẫn còn giá lạnh trong tim
Đan đi đan lại áo len cho chồng
Con chim ai nhốt trong lồng
Hạt mưa nó rụng bên sông bơ thờ
Lưng trời nổi tiếng tiêu sơ
Hay đâu gió đã sang bờ ly tan
Tháng ngày miễn cưỡng em đan
Kéo dài một chiếc áo lam cho chồng
Như con chim nhốt trong lồng
Tháng ngày than tiếc ánh hồng nơi nao
Ngoài trời hoa nắng xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời
Lòng em khổ lắm chị ơi
Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai
Quang cảnh lạ, tháng năm dài
Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.
                         16-8- 1938.
                         BÀI THƠ CUỐI CÙNG    (T.T.Kh)
                          Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ?
                          Một mùa thu cũ một lòng đau
                          Ba năm ví biết anh còn nhớ
                          Em đã câm lời có nói đâu.
                                    Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly
                                    Càng khơi càng thấy lụy từng khi
                                    Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
                                    Mà viết tình em được ích gì?
                          Chỉ có ba người đã đọc riêng
                          Bài thơ đan áo của chồng em
                          Bài thơ đan áo nay rao bán
                          Cho khắp thiên hạ thóc mách xem
                                     Là giết đời nhau đấy biết không?
                                     Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
                                     Giận anh em viết dòng dư lệ
                                     Là chút dư hương điệu cuối cùng.
                           Từ đây anh hãy bán thơ anh
                           Còn để yên tôi với một mình
                           Những cánh hoa lòng,hừ đã ghét
                           Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
                                      Ngang trái đời hoa đã úa rồi
                                      Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi
                                      Buồng nghiêm thờ thẫn hồn eo hẹp
                                      Đi nhớ người không muốn nhớ lời.
                            Tôi oán hờn anh mỗi phút giây
                            Tôi run sợ viết bởi rồi đây
                            Nếu không yên được thì tôi chết
                            Đêm hỡi,làm sao tối thế này?
                                      Năm lại năm qua cứ muốn yên
                                      Mà phương ngoài gió chẳng làm quên
                                      Mà người vỡ lở duyên thầm kín
                                      Lại chính là anh,anh của em.
                            Tôi biết làm sao được hỡi trời
                            Giận anh không nỡ nhớ không thôi
                            Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt
                            Sợ quá đi anh, có một người…
                                             30-10-1938.
*Đôi lời cùng Bạn đọc:
Năm 1994 có người đã vô tình tiết lộ với tác giả Thế Nhật một thông tin “mật” về T.T.Kh ngoài đời thực. Dựa vào đó ông Thế Nhật (tên ghép của Thế Phong & Trần Nhật Thu) đã viết thành một cuốn sách với tựa đề khá hấp dẫn: T.T.Kh Nàng là ai? (về sau tái bản mới đổi tên tác giả là Thế Phong) Khi cuốn sách được phát hành thì gặp phải phản ứng dữ dội của rất đông đọc giả & nhất là của một người trong cuộc công khai phủ nhận nhiều sự việc viết trong cuốn sách,đồng thời khẳng định mình không phải là T.T.Kh bằng hai bức thư ngỏ liên tiếp gửi từ nước ngoài về đăng trên nhiều tờ báo & tạp chí văn học ở trong nước…Gần mười năm sau, năm 2003 nhà văn-luật gia Trần Đình Thu lật giở toàn bộ tư liệu liên quan để xem lại & đã cất công tìm gặp trực tiếp nhà văn Thanh Châu tác giả của truyện ngắn Hoa Tigôn (Ông đã chuyển vào ở quận Tân Bình- tp.Hồ Chí Minh) cũng như gặp được người đã vô tình tiết lộ ra thân phận của T.T.Kh nhằm kiểm chứng tất cả các thông tin có được để viết lại câu chuyện bí ẩn vẫn bao trùm “làn khói bụi” của thời gian này & bài viết cũng đã được đăng nhiều kỳ trên báo Thanh Niên vào giữa năm 2005 với tựa đề Đi tìm tác giả bí ẩn T.T.Kh rồi mới in thành cuốn sách mang tên “Giải mã Nghi án văn học T.T.Kh” vào đầu năm 2007.Tuy nhiên,đối với đông đảo đọc giả thì vẫn còn tồn tại vô số ý kiến trái chiều,thậm chí có nhiều người đã đăng đàn để phản bác lại, nhất là sau khi được đọc nguyên văn hai bức thư ngỏ nêu trên mà Trần Đình Thu cũng công khai trong tác phẩm của mình. Tại sao lại như vậy? Có điều gì khiến cho nhiều người “hoang mang” đến thế khi đã đọc xong toàn bộ tác phẩm khá công phu & nghiêm túc này của Trần Đình Thu?. Liệu nhân vật được tác giả chứng minh là nữ thi sĩ bí ẩn mang tên T.T.Kh có phải là sự thật?. Phải chăng “Nghi án văn học T.T.Kh” như cách dùng chữ của Trần Đình Thu vẫn còn là một câu hỏi chưa được “giải mã”? Để trả lời cho những thắc mắc nêu trên chúng ta cùng bắt đầu cuộc “hành trình” tái khám phá bí ẩn đã tồn tại từ hơn 70 năm qua & cũng là để trả lời cho câu hỏi của rất nhiều người trong chính chúng ta, vậy thực sự:
- Ai là T.T.Kh?. Nhằm giúp bạn đọc dễ hiểu, dễ so sánh các sự kiện, các dẫn chứng, phân tích cũng như phần chứng minh cho sự việc liên quan đến các nhân vật, vì thế chúng ta hãy lưu ý hơn một chút đến những dòng chữ in nghiêng, nhất là in đậm hoặc được gạch dưới trong bài viết này.
AI LÀ T.T.Kh? - PHẦN 1
Như chúng ta đã biết, sau khi gửi đăng báo đúng 4 bài thơ, T.T.Kh không bao giờ xuất hiện nữa…nhưng điều đó lại càng gây nên sự tiếc nuối, sự say mê những vần thơ vừa đắm đuối vừa như cào cấu tâm can của cuộc đời người thiếu phụ bí ẩn này. Người đời không những càng hâm mộ mà còn tò mò muốn biết tác giả là ai, tâm lý đó không chỉ có trong những độc giả thơ bình thường mà ngay cả các tác giả của “Thi nhân Việt Nam” Hoài Thanh-Hoài Chân năm 1941 khi viết lời giới thiệu về T.T.Kh cũng đã phải cảm thán:
- “… Bốn năm đã qua từ ngày tờ báo vô tình hé mở cho ta một cõi lòng.Ai biết “Con người vườn Thanh” bây giờ ra sao? Liệu rồi đây người ấy có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn riêng cho đến khi về nơi chín suối?...”. Vậy sự thật T.T.Kh có thể là ai?
1- Những lời đồn đại, những bài báo-tác phẩm “Khẳng định” về thân thế T.T.Kh:
Rất nhiều người liên tục “công bố” những thông tin về T.T.Kh. Người thì bảo tác giả là người yêu của thi sĩ Thâm Tâm, người lại bảo rằng đó là người yêu của Nguyễn Bính,thậm chí để cho “nặng ký” hơn có người còn khẳng định T.T.Kh tên thật là Trần thị Khánh là em gái nhà thơ Tế Hanh, có một thời là người yêu của Thâm Tâm!? Đến nỗi sau này Tế Hanh đã phải đăng đàn để chính thức phủ nhận điều đó.Ít lâu sau, câu chuyện về T.T.Kh lại đổi sang một hướng khác:-Khẳng định thơ của T.T.Kh là do Nguyễn Bính & nhất là do Thâm Tâm sáng tác…Căn cứ để có những “công bố” & “khẳng định” nêu trên là: -Vào khoảng cuối năm 1939 đầu năm 1940 Nguyễn Bính có làm một bài thơ nhan đề Dòng dư lệ với lời đề“ Tặng T.T.Kh” & ông có trích dẫn hai câu thơ “Cho tôi ép nốt dòng dư lệ-Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên” của T.T.Kh ngay dưới tiêu đề của bài thơ. Còn với trường hợp của Thâm Tâm thì có vẻ có nhiều “dữ kiện” hơn, ta hãy cùng đọc một trong số đó là của nhà thơ Nguyễn Vỹ (Trong tác phẩm Văn-Thi sĩ Tiền chiến xuất bản năm 1970 tại Sài Gòn, mà trong đó còn thiếu quá nhiều các tên tuổi lớn đúng nghĩa của Thi sĩ thời Tiền chiến-tác phẩm này đã được tái bản năm 2007): “Năm 1936-1937,ở phố chợ Hôm-HN có một nhóm văn sĩ trẻ với bút hiệu Trần Huyền Trân, Thâm Tâm & vài người khác nữa, ít ai để ý đến họ. Có lẽ vì họ còn quá trẻ…mới bắt đầu viết văn chưa có gì là đặc sắc, lớp văn sĩ (đi) trước không chú ý đến họ…
Họ có ra một tờ báo nhỏ lấy tên là Bắc Hà…tờ báo bán không được chạy lắm nhưng cũng có vài mục hài hước nhờ mấy bức vẽ của Tuấn Trình (tên thật của Thâm Tâm) & có nhiều hứa hẹn trên bình diện văn chương. Hăng hái nhất & đóng vai chủ động trong tuần báo là Trần Huyền Trân. Thâm Tâm, biệt hiệu của Tuấn Trình thì vẽ nhiều hơn viết, thỉnh thoảng đăng vài bài thơ, vài mẩu truyện ngắn.Đôi khi thấy vài ba bài thơ có tính cách ca dao ái tình của Nguyễn Bính, học sinh lớp nhất, trường tiểu học Hà Đông thi rớt rồi nghỉ học luôn. Tuy không chơi thân, nhưng tôi quen biết Trần Huyền Trân khá nhiều…vì anh trọ ở trong ngõ chợ còn tôi ở một gác trọ cuối phố Khâm Thiên…đôi khi có nhờ tôi viết bài cho báo Bắc Hà “cho vui” vì không có tiền nhuận bút…tôi quen Tuấn Trình là do Trần Huyền Trân giới thiệu…Một buổi chiều gần tối, Tuấn Trình đến chơi nhưng Huyền Trân đi vắng,gặp tôi mới rủ Tuấn Trình về gác trọ…Đêm ấy cao hứng, Tuấn Trình ngà ngà say rượu Văn Điển,kể cho tôi nghe chuyện tình của anh với cô Khánh.Trần Thị Khánh là cô học trò lớp nhất trường tiểu học Sinh Từ (nay là phố Nguyễn Khuyến-Hà Nội) thi hỏng,cô ở nhà giúp mẹ nội trợ,nhà cô cũng ở đường Sinh Từ,ngay cạnh Thanh Giám,nơi thờ Đức Khổng Tử…& những tấm bia khắc tên các vị Tiến sĩ khoa bảng…Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là một thiếu nữ đẹp, nét đẹp mơn mởn của một cô gái dậy thì, thùy mị, nết na, nhưng không có gì đặc biệt. Tuấn Trình có người cô nhà ở phố Cửa Nam,gần Sinh Từ.Anh thường đến đây & nhiều lần gặp cô Khánh đi chợ buổi sáng…Tuấn Trình làm quen rồi tặng cô báo Bắc Hà.Cô gái 17 tuổi cảm mến người nghệ sỹ tài hoa,tình yêu chớm nở như cánh tigôn trắng cũng vừa chớm nở trong sân nhà cô…thời kỳ mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng hè không đem lại chút thỏa mãn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình, chính vào lúc này anh mới lấy bút danh là Thâm tâm & cho cô Khánh biết “Hình ảnh của em,anh ghi sâu vào Thâm Tâm anh”.Trong bài thơ thức đêm làm tặng cô Khánh cũng có câu “…Quên làm sao được thuở ban đầu-Một cánh tigôn dạ khắc sâu…”.Trong những bức vẽ trên tuần báo Bắc Hà vẫn ký tên Tuấn Trình,nhưng những bài thơ lại đều ký tên là Thâm Tâm…điều làm cho chàng nghệ sỹ 19 tuổi đau khổ nhất là  cô gái 17 tuổi sống trong vòng lễ giáo nghiêm khắc của gia đình,chưa thật bao giờ đáp ứng đúng với tình yêu tha thiếtcủa Tuấn Trình-Thâm tâm…Cô thường nói: “Thầy,mẹ em nghiêm lắm…”(toàn bộ cuộc tình) chỉ có hai lần là cô đến nơi hẹn,nhưng cũng không được lâu  …cả hai lần họ gặp nhau đều ở trong vườnThanh giám.Lần thứ nhất,một đêm trăng, Khánh lẻn băng qua đường vào vườn Thanh Giám…lần gặp thứ hai nàng có hỏi:“Anh định bao giờ đến xin thầy,mẹ cho chúng mình...”.Chàng họa sỹ bối rối trước câu hỏi bất ngờ,chàng lơ đễnh bảo:-“Anh chưa nghĩ đến việc ấy vì…”.Câu chuyện bị bỏ dở nơi đây.Khánh không hỏi gì hơn nữa…chàng đứng lại khẽ kéo Khánh vào lòng,nhưng nàng khẽ buông ra.Tuấn Trình âu yếm nhìn nàng:-“Hình ảnh của em,nụ cười của em,sẽ mãi mãi ghi sâu vào lòng dạ của anh,vào thâm tâm anh.”Trần thị Khánh cười như để tạ ơn & xin từ giã.Tuấn Trình trằn trọc suốt đêm.Khánh muốn giấu chàng một điều gì quan trọng chăng?...Thế rồi một hôm chàng họa sỹ đa tình nhận được một bức thư của người yêu,không,của người hết yêu báo tin nàng sắp lấy chồng…thư do cô bạn gái của Khánh đem đến tòa soạn báo Bắc Hà trao tận tay Tuấn Trình,cô bạn hỏi “ông Tuấn Trình” chứ không gọi Thâm Tâm….trong thư cô nói dù rất buồn vì một tình yêu dang dở,rằng cô mãi mãi yêu anh nhưng phải giữ tròn chữ hiếu,không dám cãi lời mẹ,cha…Khánh không nói một câu nào về vị hôn phu,không cho biết ngày cưới & cuối thư ký tắt:Kh.Bức thư của Kh chấm dứt đột ngột cuộc tình duyên thật sự không mấy thơ mộng của họa sỹ Tuấn Trình & Trần Thị Khánh. Sau nhờ dò hỏi Tuấn Trình biết được chồng cô khánh là một nhà buôn giàu có ở phố Hàng Ngang,39 tuổi,góa vợ & không có con.Trong câu thơ Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi…đó chỉ là nhận xét mỉa mai của Thâm Tâm,so sánh tuổi 20 của mình với người chồng cô khánh…Nhưng trên thực tế & theo lời những người hàng xóm ở phố Sinh Từ nói với Tuấn Trình thì người chồng cô Khánh giầu sang & trẻ đẹp chứ không phải là một ông già...Đêm trước ngày cô Khánh lên xe hoa,Thâm Tâm tổ chức tại tòa soạn báo Bắc Hà một tiệc thịt chó,uống Mai Quế Lộ,mời Trần Huyền Trân,Nguyễn Bính & Vũ Trọng Can tham dự.Họ say sưa,ngâm thơ,làm thơ cười đùa cho đến khuya rồi lăn ra ngủ trên đất.Người đau khổ trong việc tình duyên dang dở này không phải là cô Khánh.Trái lại,cô đầy đủ hạnh phúc với người chồng rất chiều chuộng cô.Trần Huyền Trân đã gặp cô đang hí hởn với chồng vào ăn kem ở tiệm Blanche Neige(Kem Bạch Tuyết-Bờ Hồ) hai lần,hai ông bà nhìn nhau & cười với nhau ra vẻ âu yếm lắm.Khánh đã có thai & được chồng săn sóc,nâng đỡ lên chiếc xe Citroen,lúc về còn đi một vòng quanh hồ hoàn Kiếm.Trần Huyền Trân kể lại cảnh âu yếm đó cho Tuấn Trình nghe & kết luận:  “con Khánh nó cho cậu leo cây,cậu còn si nó làm gì nữa,thêm nhục”.Người đau khổ dĩ nhiên là Tuấn Trình, chàng yêu nhớ đơn phương,mặc cảm của một nghệ sỹ nghèo bị người yêu bỏ rơi,lại còn bị mấy thằng bạn trẻ chế nhạo nhất là Vũ trọng Can. Vì một chút tự ái văn nghệ với mấy người bạn kia. Tuấn trình đã phải thức một đêm,theo lời anh,làm một bài thơ đề là Hai sắc hoa Tigôn, ký tên T.T.Kh với thâm ý để Trần Huyền Trân & Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm,để thương tiếc mối tình tan vỡ...cho nên giọng thơ hoàn toàn là giọng thơ lãng mạn của Tuấn Trình & lời thơ khác hẳn những lời tâm sự trong bức thư cuối cùng của Kh báo tin cô sắp lấy chồng. Cô Khánh không biết làm thơ, chưa bao giờ làm thơ cả! và cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm nữa là khác. Tuấn Trình đã nói quả quyết với tôi như vậy,sau khi nhận được một bức thư của Khánh,bức thư cuối cùng tỏ ý không bằng lòng anh mượn tên cô để làm thơ kể chuyện tình duyên cũ,có thể làm hại đến cuộc đời cô Thâm Tâm lấy những lời nghiêm khắc giận dữ của người yêu cũ để làm ra Bài Thơ cuối cùng”...
Còn đây là bài viết của Bùi Viết Tân (đăng trong Tạp chí Văn nghệ kháng chiến số tháng 5 năm 1951)*: “Cuối năm 1949, trong một chuyến đi dài ngày từ Liên Khu 3 lên Việt Bắc,tôi có dịp đồng hành với thi sĩ Thâm Tâm (Nguyễn Tuấn Trình)…chúng tôi là những người lữ hành ngày nghỉ,đêm đi.Trong lúc nghỉ ngơi anh Thâm Tâm thường tâm sự với tôi những chuyện tâm tình liên quan với thơ.Chẳng hạn chuyện nhân vật gây nguồn cảm hứng để anh sáng tác bài thơ nổi tiếng Tống Biệt Hành là một người tên Phạm Quang Hòa,trước 1945 thoát ly gia đình ra đi lên chiến khu làm cách mạng.Tôi đã hỏi anh Thâm Tâm,nhân vật Phạm Quang Hòa ở đâu,còn sống không?Anh Thâm Tâm cho biết Phạm Quang Hòa ra đi & trở về & đang tiếp tục cuộc sống của một người trai thời loạn.Nhân vui chuyện,tôi có hỏi anh Thâm Tâm về chuyện những bài thơ ký tên T.T.Kh.
-Theo ý ông thì những bài thơ này của ai?
-Người ta nói là của người tình Thâm Tâm.Phải vậy không anh?
-Ông có đọc bài thơ ký tên Thâm Tâm đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy số 307,ra ngày 4 tháng 5 năm 1940 chứ?
-Đã có đọc,có phải bài Các Anh không nhỉ?
-Đúng thế,tất cả đều liên quan tới một chuyện tình,nhưng thật ra thì những bài thơ ký tên T.T.Kh là do mình sáng tác ra cả thôi.
-Như vậy là Nguyễn Bính cũng bị vào “xiếc” trong câu chuyện này?
-Chuyện này chỉ có mình & Trần Huyền Trân biết thôi.Nguyễn Bính là một nhà thơ tài hoa nhưng “ngây thơ” lắm.
-Câu chuyện này có liên quan gì tới đất Thanh Hóa không anh?
-Địa danh vườn Thanh trong thơ là nói tới đất Thanh Miện ở Hải Dương,quê hương của trái vải.Nhưng Nguyễn Bính lầm tưởng là Thanh Hóa…do đó mới có chuyện vui vẻ.
-Tại sao anh sáng tác những bài thơ ký tên T.T.Kh hay như vậy mà lại không làm loại thơ này nữa?
- Vào những năm cuối thập niên 30 bắt đầu thập niên 40,bọn mình tìm ra lối thoát cho cuộc đời & muốn làm một cuộc đổi đời. Chính bài Các Anh rồi sau đó là bài Tống biệt Hành là chứng tích của sự đổi thay này…”
Gần đây nhất,ngược lại với Nguyễn vỹ & Bùi Viết Tân thì tác giả Hoàng Tiến (bài đăng trên tuần báo Văn nghệ số cuối năm 1989-nhưng theo ông Thế Phong thì bài viết này còn đăng trên báo Nhân Dân chủ nhật số 23-Tháng 7 năm 1989) lại viết như sau:“…Ông Hoài Thanh năm 1941 có soạn cuốn Thi Nhân Việt Nam ( xuất bản năm 1942, tác phẩm trên là của hai ông, còn Hoài Chân nữa chứ không phải chỉ có một mình Hoài Thanh.) cũng trích dẫn T.T.Kh với ghi chú: “sau khi bài thơ kia đăng rồi, xóm nhà văn bỗng xôn xao,có đến mấy người nhất quyết T.T.Kh chính là người yêu của mình & người ta đã phê bình rất náo nhiệt. Có kẻ không ngần ngại cho những bài ấy là những áng thơ kiệt tác”. Hôm nay, xin công bố với bạn đọc một thông tin chúng tôi được biết về T.T.Kh, người kể còn sống, mà cách đây bốn năm vẫn còn gặp chúng tôi thấy cần phải công bố ngay vì nó có lợi cho việc làm văn học sử sau này.Số là vào dịp hội Đền Bà Tấm năm nay(Kỷ tỵ 1989)chúng tôi rủ nhau sang Phú Thụy dự hội.Cùng đi có nhà thơ Lương Trúc thuộc lớp nhà thơ trước C.M tháng tám,năm nay đã 74 tuổi(tên thật là Phạm Quang Hòa)bạn thân với các nhà thơ Thâm Tâm,Nguyễn Bính & Trần Huyền Trân…Nhà thơ Lương Trúc là người cung cấp tư liệu & tất nhiên ông sẽ sẵn sàng chịu trách nhiệm về Họ,Tên tác giả Hai sắc hoa Tigôn được công bố dưới đây.Cùng nghe hôm đó với tôi có nhà thơ Trần Lê Văn & nhà thơ Tú Sót.T.T.Kh tên thật là Trần Thị Khánh,người yêu của Thâm Tâm.Hai người yêu nhau nhưng biết không lấy được nhau,hẹn giữ kín mối tình,để đỡ phiền đến gia đình của nhau sau này.Cô Khánh đọc Tiểu thuyết thứ bảy in truyện ngắn Hoa Tigôn của Thanh Châu…xúc động tự thổ lộ câu chuyện riêng(qua)bài thơ Hai sắc hoa Tigôn & gửi đăng Tiểu thuyết thứ bảy…Tiếp đó để giải thích lý do viết bài thơ Hai sắc hoa Tigôn cô Khánh gửi đến một bài nữa với tiêu đề là Bài thơ thứ nhất & viết riêng tặng Thâm Tâm Bài thơ đan áo.Lại càng xôn xao,nhiều người cho là nam giới giả danh,nhiều người nhận ra người yêu của mình,trong số đó có Nguyễn Bính.Thâm Tâmhồi đó còn trẻ,với tính hiếu thắng của tuổi trẻ ông đã gửi báo Phụ nữ đăng Bài thơ đan áo** để minh chứng với thiên hạ rằng T.T.Kh chính là người yêu của mình.Tất nhiên là không có sự đồng ý của T.T.Kh & thế là T.T.Kh giận.Cô viết bài thơ lấy tiêu đề là Bài thơ cuối cùng…Sau này Thâm Tâm có viết bài thơ Các Anh để trả lời T.T.Kh…”
Còn nhiều nữa những “tác phẩm” những bài viết tương tự nhằm cố sống,cố chết ghép bằng được cho Thâm Tâm phải là T.T.Kh hay chí ít T.T.Kh cũng phải là “Người tình” của Thâm Tâm hay Nguyễn Bính (công bằng mà nói,Nguyễn Bính chỉ “bị” ghán ghép ở giai đoạn đầu của “nghi án” này mà thôi) đó là còn chưa kể lực lượng báo “lá cải” nhiều vô số ăn theo câu chuyện này nhất là ở Miền Nam trước năm 1975.Ở đây chỉ lược trích ba “tác phẩm” tiêu biểu & được nhiều người bám lấy nhất để “minh chứng” cho nhận định của họ về bí ẩn văn chương này suốt hơn 70 năm qua.
2- Nguyễn Bính có thể là T.T.Kh hoặc là người yêu của T.T.Kh được không?:
Đối với Nguyễn Bính,việc chỉ dựa vào lời đề tặng T.T.Kh ngay dưới tiêu đề của bài thơ Cô gái vườn Thanh (Dòng dư lệ) & mấy câu thơ có vẻ hơi “dây mơ rễ má” với câu chuyện tình của T.T.Kh trong bài thơ nêu trên:                    
-Truyện xưa hồ lãng quên rồi
Bỗng đâu xem được thơ người vườn Thanh
Bao nhiêu gian khổ vì tình
Cớ sao Giống hệt chuyện mình năm xưa?
Phải chăng mình có nên ngờ
Rằng người năm ấy bây giờ là đây?.
mà vội cho rằng T.T.Kh chính là người yêu của ông thì quả là quá vội vàng, võ đoán & là một “chứng cứ” quá yếu. Hơn 70 năm trước vấn đề “môn đăng-hộ đối”đã góp phần tạo nên vô số những cuộc tình ngang trái cho nên khi xuất hiện những bài thơ đầy ai oán của T.T.Kh thì rất nhiều người sống ở thế hệ đó như thấy được hình ảnh,cuộc đời của chính mình & Nguyễn Bính cũng không phải là ngoại lệ,có thể điều đó đã làm ông cảm thánmà viết bài thơ Cô gái vườn Thanh (Dòng dư lệ)  như một việc “họa” lại những bài thơ của T.T.Kh chăng?... trong “Ghi chép dọc đường”có kể về “nguyên mẫu” cô gái trong bài thơ Người hàng xóm nổi tiếng của ông: “…Cô nết na,có vẻ đẹp thùy mị,hơi bẽn lẽn,giỏi chăn tằm,dệt cửi,nhà dù không nghèo lắm nhưng cũng chẳng được học hành gì…Về sau cha,mẹ cô gả cho một nhà khá giả trong vùng…”.Một cô gái “chân quê” đúng nghĩa như vậy liệu có thể làm nổi những bài thơ da diết như T.T.Kh không?Về phần Nguyễn Bính ngay trong những câu thơ trích dẫn ở trên cũng cho ta thấy bản thân ông cũng đã tự hồ nghi không dám chắc mà như tự hỏi lại chính mình rồi,ông viết “cớ sao giống hệt” chứ nào có khẳng định điều gì?Ngay như chỉ có mỗi cái địa danh Vườn Thanh nằm ở đâu mà đã có ít nhất hai người viết khác nhau (Nguyễn Vỹ & Bùi Viết Tân) ấy thế mà người đời lại cứ vin vào đó coi như một trong những “bằng chứng” để kết luận T.T.Kh là người yêu của ông thì quả thật là quá buồn cười…(nên nhớ,quê Nguyễn Bính là ở làng Thiện Vịnh-huyện Vụ Bản-tỉnh Nam Định). Trong bước đường phiêu du khắp nơi làm thơ, uống rượu sau này ông đã gặp, đã yêu rất nhiều & cũng có không ít những mối tình ngang trái. Nhưng đó là thời gian “hậu T.T.Kh” còn vào thời điểm những năm trước & trong “thời T.T.Kh” thì chưa có ai nói hay viết rằng cô Trần Thị Khánh hay một cô nào đó (ngoài cô gái “chân quê” nêu trên)là người yêu của Nguyễn Bính…Cho nên cái gọi là “cô gái vườn Thanh” hay địa danh vườn Thanh chẳng có liên quan gì tới ông cả vì hoàn toàn không có cơ sở & thiếu lô gích…Vậy còn câu hỏi T.T.Kh có phải chính là Nguyễn Bính? Trên đời này,chúng ta làm bất cứ điều gì cũng cần phải có mục đích,thế thì mục đích của Nguyễn Bính khi “núp bóng” T.T.Kh là gì? Để nổi tiếng hơn chăng? có lẽ sẽ chẳng có ai lại dại dột làm cái điều có thể gọi là ngớ ngẩn như vậy & chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm ra được “mục đích” của việc này là gì,bởi vì đặt sự việc đó vào hoàn cảnh nào ta cũng dễ dàng tìm thấy được sự vô lý,nhất là đối với một nhà thơ đầy tài năng & nhân cách như Nguyễn Bính. Bây giờ chúng ta xét đến nội dung,hay cụ thể hơn là xét đến “giọng thơ” của các tác giả.Chúng ta cũng đã biết là nhà văn,nhà thơ nào cũng có lối hành văn,giọng thơ mang nét “đặc thù” của người đó,giống như bên âm nhạc thì “kiểu”ca khúc của Trịnh Công Sơn khác với Trần Tiến hay khác với Phú Quang v.v…Ta hãy tìm hiểu “giọng thơ” của Nguyễn Bính,của Thâm Tâm để có cơ sở so sánh với thơ của T.T.Kh.
Tác giả Hoài Việt,một người cầm bút trước năm 1945, từng quen biết với Thâm Tâm, Nguyễn Bính…một người có vài tác phẩm nghiên cứu về các nhà văn,nhà thơ thời tiền chiến,ông viết như sau: “…Thâm Tâm,Nguyễn Bính,Trần Huyền Trân hồi đó là ba thi sĩ chủ chốt trong một nhóm thơ được các văn hữu mệnh danh là các nhà thơ xóm áo bào gốc liễu …cả ba đều xuất thân từ tầng lớp dân nghèo,không được học hành trường lớp chính qui nhiều, vì thế ảnh hưởng của văn học phương Tây đối với họ hầu như không có gì,ngược lại họ là những người được học nhiều chữ hán, chữ nôm ở những ngôi trường làng hay tại nhà các ông Đồ, cả ba người từng thuê nhà ở chung để viết văn,làm thơ, làm báo…”Chính vì những lẽ đó mà trong thơ của họ thường xuất hiện rất nhiều từ cổ,từ Hán-Việt...riêng Nguyễn Bính thì ảnh hưởng bởi những điều đó không nhiều, ngoài vài bài thơ như Hành Phương Nam ra, còn lại thơ ông  mang rất đậm “chất quê” từ ngôn ngữ lẫn hình ảnh với một phong cách “rất ca dao”…Vào khoảng thời gian từ năm 1932 đến 1938 “Làng” thơ Việt cố gắng tìm một sự thay đổi căn bản, đó là tìm sự thay thế thể loại thơ Đường luật gò bó bằng một thể loại thơ tự do mang “hơi hướng” phương tây, đó chính là phong trào Thơ mới. Tuy nhiên, vẫn có sự phân hóa khá rõ nét, một số nhà thơ muốn cách tân một cách mạnh mẽ cả nội dung lẫn hình thức, trong khi một số khác lại không muốn bị “tây” hóa quá nhiều về mặt nội dung mà chỉ muốn đổi mới về mặt hình thức thể hiện mà thôi. “Nếu như Xuân Diệu đạt đến đỉnh cao của ảnh hưởng từ thơ Pháp thì Thâm Tâm lại quay về với hồn thơ Đường luật, còn Nguyễn Bính thì chìm đắm trong kho tàng ca dao-dân ca Việt Nam để góp phần tạo nên dòng thơ Việt thời Tiền chiến…”
Trong khi đó thì thơ T.T.Kh lại mới từ ngôn ngữ lẫn hình ảnh,trong thơ của Bà không hề có những từ Hán-Việt như: Ly khách, ải xa, trường thành, cô phụ, đoạn trường, ác tà, giang thôn…như Thâm Tâm, hay đặc chất quê, chất ca dao: Tơ vương, buồng the, hoa chanh, vườn chanh, giời mưa, giầu cau…của Nguyễn Bính.Đặc biệt những nhà thơ như Thâm Tâm,Nguyễn Bính thường dùng lối viết ẩn dụ “ý tại ngôn ngoại”của lớp nhà thơ “cổ điển” khi muốn nói về tình yêu đôi lứa,còn T.T.Kh thì lại nói toạc ra:-Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết…-Người ấy thường hay vuốt tóc tôi…-Tôi chờ người đến với yêu đương…Bây giờ ta hãy cùng đọc mấy đoạn thơ tả cảnh:
                     “Ở lại vườn Thanh có một mình
                       Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
                       Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
                       Yêu bóng chim xa nắng lướt mành” (T.T.Kh)
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh” (Xuân Diệu)
                        “Thu sang trên những cành bàng
                        Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi
                        Hôm qua đã rụng một rồi
                        Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn” (Nguyễn Bính)
“Bừng sáng Xuân bay tang tảng sương
 Canh gà heo hút nẻo giang thôn
 Chài ai gấp gấp giăng giăng bạc
 Tiếng mác qua giời,dịp sáo non” (Thâm Tâm)
Cùng là những câu thơ tả cảnh, nhưng rõ ràng hai đoạn thơ trên của T.T.Kh & Xuân Diệu “mới” hơn rất nhiều, nghiêng về dòng thơ ảnh hưởng nền thơ Pháp mà “Thế Lữ là người khơi nguồn nhưng Xuân Diệu mới là người “đẩy” lên cho đến tận cùng…” chúng ta cùng đọc mấy đoạn thơ tình:
              “Lòng em như quán bán hàng 
                Dừng chân cho khách qua đàng mà thôi
                Lòng anh như mảng bè trôi
                Chỉ về một bến chỉ xuôi một chiều” (Nguyễn Bính)
Ngay cả khi viết thơ tình Nguyễn Bính cũng vẫn không “bỏ” được “chất giọng” thơ chân chất Chân quê & lối nói ẩn dụ. Trong khi đó,thơ của T.T.Kh lại “hiện đại” hơn rất nhiều:
             “Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
              Thở dài trong lúc thấy tôi vui
              Bảo rằng:Hoa dáng như tim vỡ
             Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi” (T.T.Kh)
                                  “Anh biết yêu em đã muộn màng
                                    Nhưng mà ai cưỡng được tình thương?
                                    Ngậm ngùi tặng trái tim lưu lạc
                                    Anh chỉ xin về một chút hương…” (Xuân Diệu)
Đến đây chúng ta có thể kết luận rằng “giọng thơ” của T.T.Kh hoàn toàn xa lạ với “giọng thơ”của Nguyễn Bính mà lại rất gần gũi với chất thơ của Xuân Diệu ông “vua thơ tình” trong phong trào thơ mới thời bấy giờ. Để dẫn chứng thì còn rất nhiều & tốn thời gian vô ích, nếu tìm đọc thêm thơ của Nguyễn Bính thì chúng ta sẽ phát hiện ra không mấy khó khăn gì. Cho nên bảo rằng T.T.Kh có liên quan gì đó với nhà thơ Nguyễn Bính là hoàn toàn thiếu thuyết phục!...
3-Thâm Tâm có thể là T.T.Kh hoặc là người yêu của T.T.Kh được không?:
Công bằng mà nói,nếu ta đọc riêng một trong những bài viết nêu trên (của Nguyễn Vỹ, Bùi Viết Tân, Hoàng Tiến hoặc của ai đó nữa…)vào những thời gian,không gian khác nhau thì không phải là không “có lý” trong một chừng mực nhất định, nhất là lại chỉ đọc lướt qua & chỉ một lần.Ngoài ra còn phải kể đến “hiệu ứng gơben” nhà tuyên truyền đại tài của Đức quốc xã,đó là:-“Một sự việc,dù không có thật cứ nói đi nói lại nhiều lần sẽ trở thành sự thật! Nhất là sự lan tỏa của hiệu ứng truyền khẩu với cái “Tôi” để bảo lãnh cho “sự thật” đó của những người ưa thì thầm…”.Chả thế mà “bí ẩn” về T.T.Kh đã tồn tại được hơn 70 năm sau kể từ ngày đó.Nhưng khi ta đọc cả ba bài viết nêu trên cùng một lúc & đọc thật kỹ thì cũng sẽ thấy ngay được vô số điều vô lý.Không những trong cùng một bài viết có những chi tiết “đá hậu” nhau mà cả ba bài viết khi “đặt cạnh” cũng “đá” nhau không kém.Ta lấy ví dụ (dù hơi khập khiễng):-Có ba cái bình sứ Bát Tràng được làm thủ công với cùng một mẫu,nếu để riêng rẽ ở ba phòng khác nhau thì sẽ rất khó phân biệt được cái nào đẹp hơn cái nào,chi tiết nào của cái bình nào không được “chuẩn” như hình mẫu.v.v…Nhưng nếu để cả ba cái bình ấy bên cạnh nhau thì sự phân biệt lập tức trở nên rất dễ dàng.
3a/Trần Thị Khánh có phải là T.T.Kh?:
Đọc thật kỹ cả ba bài viết trên, nó gợi cho ta cái cảm giác như thể ta chót mua cho thằng con đôi giầy nên ta phải bằng mọi cách “cố nhét” đôi chân của nó vào bằng được dù cho đôi giầy đó có rộng hay chật. Chúng ta cũng đã thấy rằng T.T.Kh là một câu chuyện tình ngang trái, trong khi đó câu chuyện do Nguyễn Vỹ kể lại, chưa biết thực hư thế nào thì rõ ràng đây là một câu chuyện phụ tình & một điều quan trọng là tình yêu mà cô Khánh dành cho Thâm Tâm không lấy gì gọi là một tình yêu say đắm để đến nỗi nhưng biết không lấy được nhau rồi xúc động tự thổ lộ câu chuyện riêng (qua) bài thơ Hai sắc hoa Tigôn & gửi đăng Tiểu thuyết thứ bảy như ông Hoàng Tiến đã viết. Trong cả cuộc tình hai người chỉ gặp nhau có hai lần ngắn ngủi & phải rất bí mật,có nghĩa là cả gia đình, họ hàng, hàng xóm,bạn bè của cô Khánh chắc chắn không biết hay chưa kịp biết & chồng của cô Khánh lại càng không thể biết,trong khi (theo ông Nguyễn Vỹ) cô đầy đủ hạnh phúc với người chồng rất chiều chuộng cô,thế thì liệu có “điên” không khi chính cô Khánh viết những bài thơ ký tên T.T.Kh khóc than cho mối tình duyên “dang dở” của mình để rồi lại phải “Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ-Người ấy cho nên vẫn hững hờ” hay “Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá”. Còn một chi tiết nữa,đó là mới gặp nhau có lần thứ hai (hồi đó thì làm gì đã có điện thoại di động hay internet để dù không gặp vẫn có thể “buôn” với nhau hàng ngày?) mà cô Khánh đã “Anh định bao giờ đến xin thầy,mẹ cho chúng mình...”.Thời “hiện đại” như ngày nay,xin hỏi các bạn gái của chúng ta có tin được không?Các bạn có “làm” được như cô Khánh không?Nên nhớ vào thời điểm có câu chuyện đó thì việc “đến xin với thầy,mẹ…” có nghĩa là phải cưới đến nơi rồi đấy & phải do các bậc “phụ huynh” đến nói chuyện chứ đâu phải là “Anh định bao giờ…” lẽ ra ông Nguyễn Vỹ phải viết là Anh định bao giờ đưa Thầy,u anh đến…mặc dù như thế cũng đã là quá đường đột rồi, không như ngày nay có thể chàng trai đến nhà chơi vài lần rồi mới dám ngỏ lời với cô gái hay ít nhất cũng cần phải có cả một quá trình qua lại mới có thể Anh định bao giờ …Còn nếu cho rằng cô Khánh nói vậy để ngầm nhắc & đề phòng người yêu trách cứ sau này rằng “Đấy,tôi đã bảo mà anh không chịu đến nói chuyện sau này tôi có lấy chồng thì đừng có mà trách…” thì việc gán cái mẹo ấy cho một cô gái 17 tuổi sống cách nay hơn 70 năm liệu có quá là khả ố hay không?...Nếu chỉ xét riêng về bảng chữ cái thì có vẻ T.T.Kh đúng là Trần Thị Khánh,thế nhưng một cô gái đang vô cùng hạnh phúc với chồng liệu có dám “nửa công khai” danh tính để tưởng nhớ về một mối tình ngang trái & đầy nuối tiếc như vậy không?Vì điều đó chỉ có thể xảy ra khi người thiếu phụ gặp bất hạnh trong hôn nhân(đấy là chúng ta đang cố tình nói ngược lại những gì ông Nguyễn Vỹ đã viết,rằng Trần Huyền Trân kể với…) & chuyện này cũng chẳng khác gì nhiều năm trước có vài tờ báo trong nước nhân việc có ca sĩ hải ngoại phát biểu gì đó: “…cô ca sĩ KL chuyên hát nhạc Trịnh…”.Viết như thế thà nói toạc ra là ca sĩ Khánh Ly cho nó nhanh.Hơn nữa cô Khánh không biết làm thơ,chưa bao giờ làm thơ cả! và cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm nữa là khác. Chúng ta tìm mãi cũng chẳng bao giờ  thấy được lý do & mục đích gì để tin rằng cô Trần Thị Khánh là T.T.Kh, vì điều đó hoàn toàn phi lý!. Chúng ta chỉ có thể tin rằng, việc cô Trần Thị Khánh là người yêu của Thâm Tâm là có thể có thật & chỉ có vậy mà thôi.!
3b/T.T.Kh có thể là Người yêu của Thâm Tâm được không?:
Lý do để nhiều người vin vào “rằng thì là” T.T.Kh là người yêu của Thâm Tâm quả là rất buồn cười nếu như không muốn nói là quá vớ vẩn, nó giống như toán học chứ không phải là một câu chuyện văn chương: A=C; C=B suy ra thì đương nhiên A=B,đó là vì Trần Thị Khánh “chính là” T.T.Kh vậy thì T.T.Kh “phải là”người yêu của Thâm Tâm mà không có bất cứ cơ sở nào như đã phân tích ở trên.Ông Hoàng Tiến viết: “Thâm Tâm hồi đó còn trẻ,với tính hiếu thắng của tuổi trẻ ông đã gửi báo Phụ nữ đăngBài thơ đan áo để minh chứng với thiên hạ rằng T.T.Kh chính là người yêu của mình….”chúng ta cùng đọc lại vài khổ thơ trong Bài thơ đan áo:
                                                    “Chị ơi!nếu chị đã yêu
                                            Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thưong…”
 hay: “…Lòng em khổ lắm chị ơi
               Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai…”
Ô hay, rõ ràng là “Chị ơi” vậy mà ông Hoàng Tiến cố gán là: “…Viết riêng tặng Thâm Tâm &…để minh chứng với thiên hạ” thì quả thật không còn gì để nói nữa & hóa ra ông cũng chỉ “nghe hơi nồi chõ” như người ta rồi phóng tác ra câu chuyện cho thêm ly kỳ mà thôi.Đáng lẽ,ông Hoàng Tiến nên viết: T.T.Kh viết tặng người chị & Thi sĩ Thâm Tâm để nói lên tâm sự của lòng mìnhthì còn khả dĩ chấp nhận được. Đấy là chúng ta đã cố mà hùa theo quan điểm của ông, chứ thực ra với riêng bài thơ này nó không hề có tác dụng “minh chứng” như ông đã cố áp đặt…có thể ông Hoàng Tiến định dùng câu thơ:         Chỉ có ba người đã đọc riêng
               Bài thơ đan áo của chồng em
trong Bài Thơ cuối cùng của T.T.Kh để cố hướng  bạn đọc tin rằng Thâm Tâm muốn chứng minh T.T.Kh là người yêu của mình chăng?... Nhưng ông lại cố tình quên một chi tiết vô cùng quan trọng là:-Bài thơ đan áo đã xuất hiện trước Bài thơ cuối cùngnhững vài tháng, vậy thì nó “chứng minh” cái nỗi gì? Hơn nữa,đã “…nhưng biết không lấy được nhau, hẹn giữ kín mối tình, để đỡ phiền đến gia đình của nhau sau này” mà lại tự dưng“ xúc động tự thổ lộ câu chuyện riêng” với lý do khơi khơi chỉ vì vừa đọc truyện ngắn Hoa Tigôn của nhà văn Thanh Châu, trong khi điều quan trọng nhất để một người nào đấy có được cảm xúc sáng tác nên những vần thơ buồn đến nao lòng như thế là cần phải có “hoàn cảnh đặc biệt” vì một tình yêu ngang trái thì tác giả lại không chứng minh được mà viết như vậy thì quả là quá võ đoán & khiên cưỡng.
3c/Thâm Tâm có phải là T.T.Kh?:
Song song với những bài viết,lời kể như đã dẫn chứng ở trên,người ta còn dựa vào hai bài thơ vốn có quá nhiều dị bản là bài thơ Các Anh & Màu máu Tigôn (theo cuốn Việt nam Thi nhân tiền chiến thì liên quan đến T.T.Kh ngoài hai bài thơ trên Thâm Tâm còn có hai bài nữa là: -Dang dở & Gửi T.T.Kh) để cho rằng chính Thâm Tâm là T.T.Kh.(đáng chú ý là dưới tiêu đề của bài thơ Màu máu Tigôn có đề là: “Gửi T.T.Kh tác giả bài thơ Hai sắc hoa Tigôn).Tuy nhiên nếu đọc kỹ những bài thơ thật sự của Thâm Tâm sáng tác ta sẽ thấy “giọng thơ” của hai bài này quá khác so với thơ Thâm Tâm, chúng ủy mị, yếu đuối quá & “mới” quá…nội dung thì cũng chỉ xoay quanh những đối thoại của tác giả với người con gái nào đó lúc thì tên là Khánh, lúc chỉ viết tắt là K, hoàn toàn không thấy chi tiết nào cho thấy Thâm Tâm làm thay cho người mình yêu để mang tên T.T.Kh…Chúng ta cùng đọc vài đoạn trong hai bài thơ nêu trên:       
“Các Anh hãy chuốc thật say
 Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im…”
 “…Vết xe trong xác pháo xưa
Nàng đi có bốn bài thơtrở về…”(Bài Các Anh)
     “Người ta trả lại cánh hoa tàn
       Thôi thế duyên tình cũng dở dang
       Màu máu tigôn đà biến sắc
       Tim người yêu cũ phủ màu tang…”
“…Anh biết làm sao được hỡi Trời
Dứt tình bao nỡ, nhớ không thôi
Thôi em hãy giữ cành hoa úa
Kỷ niệm ngàn năm một cuộc đời” 
(Bài Màu máu Tigôn)                                            
Nhưng cũng vẫn trong hai bài thơ đó lại có những câu thơ “gây sốc” như sau:
        “…Miệng chồng Khánh gắn trên môi
              Hình anh mắt Khánh sáng ngời còn mơ…” (Bài Các anh)
                     “…K…Hỡi! Người yêu của tôi ơi!
                     Nào ngờ em giết chết một đời
                     Dưới mồ đau khổ anh ghi nhớ
                     Hình ảnh em hoài mãi thế thôi…” (Bài Màu máu Tigôn)
Mấy câu thơ trên có thể nói rằng vô cùng thô thiển, câu dưới lại như “réo tên” người mình yêu cho thiên hạ cùng nghe thì liệu có phải là thơ của một thi sĩ đúng nghĩa, nhất lại là của một nhà thơ tầm cỡ như Thâm Tâm? Nhiều người cũng đã cho rằng: “Hai bài thơ trên không chắc là của Thâm Tâm, có thể ở đây có một sự tạo dựng hoặc thêm thắt nào đó nhằm tạo thêm sự ly kỳ cho độc giả.” điều đó không phải là không có lý. Phải chăng vì vậy mà trong những lần tái bản về sau các tác giả của Thi Nhân Việt Nam đã loại bỏ hai bài thơ nêu trên? Hơn nữa như ta đã biết thơ Thâm Tâm thuộc trường phái “cổ điển” dù ông có cố gắng trong trào lưu “thơ mới”nhưng qua các tác phẩm thơ của ông thì ta thấy cũng chỉ dừng lại ở mức độ “nửa cổ điển” mà thôi.Trong khi thơ của T.T.Kh-Xuân Diệu-Thế Lữ-Vũ Hoàng Chương…đích thực là của những nhà thơ “tân thời”. Theo bài viết của Bùi Viết Tân: “Vào những năm cuối thập niên 30 bắt đầu thập niên 40,bọn mình tìm ra lối thoát cho cuộc đời & muốn làm một cuộc đổi đời. Chính bài Các Anh rồi sau đó là bài Tống biệt Hành là chứng tích của sự đổi thay này…” thì rõ ràng tác giả chỉ cố muốn thuyết phục mọi người tin rằng những bài thơ “tân thời” mang tên T.T.Kh là do Thâm Tâm làm ra chứ hoàn toàn thiếu kiến thức về thơ (dù câu văn đã trích dẫn cũng khá lủng củng & không rõ nghĩa,nhưng ta cũng hiểu ý nhà thơ Thâm Tâm-nếu đúng lời ông nói,là ông cũng đã cố gắng “đổi mới”cách thể hiện theo đúng trào lưu thời bấy giờ).Thể hành cũng chỉ là một trong nhiều “chi nhánh” của thể thơ Đường luật cho nên nói rằng “.. Tống biệt Hành là chứng tích của sự đổi thay này…”quả là không thuyết phục…
Trở lại với câu chuyện của Nguyễn Vỹ ta thấy ngay rằng đây là một mối tình “cho” nhiều hơn “nhận” & vô cùng thiếu vắng sự lãng mạn ,không gian,thời gian cũng chỉ là có mỗi hai lần gặpnhau ngắn ngủi.Vậy thì với những “chất xúc tác” như thế,lại là “nạn nhân” của một mối tình phũ phàng cộng thêm những lời kể “như xát muối” vào lòng của Trần Huyền Trân,rồi “… Nhưng trên thực tế & theo lời những người hàng xóm ở phố Sinh Từ nói với Tuấn Trình…” & “…cô đầy đủ hạnh phúc với người chồng rất chiều chuộng cô…” nghĩa là chồng cô Khánh là một người đàn ông hơn hẳn mình thì liệu ông có thể tưởng tượng ra được một hoàn cảnh tình duyên ngang trái & đầy nước mắt như của T.T.Kh để làm ra bài thơ cỡ như Hai sắc hoa Tigôn & những bài thơ sau này hay không?. Hơn nữa,với mục đích “… để Trần Huyền Trân & Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm,để thương tiếc mối tình tan vỡ...”(Nguyễn Vỹ) mà lại là: “…nhưng thật ra thì những bài thơ ký tên T.T.Kh là do mình sáng tác ra cả thôi.-Chuyện này chỉ có mình & Trần Huyền Trân biết thôi…” (Bùi Viết Tân).Thật là quá buồn cười vì khi đặt hai trích đoạn của hai tác giả trên cạnh nhau,lập tức chúng ta được thấy chúng “đá” nhau như thế nào & chúng ta cũng nhận ra rằng với cái “mục đích” như ông Nguyễn Vỹ đã viết(cứ tạm cho đúng là như vậy) thì Thâm Tâm quả là quá lẩm cẩm,vì những người bạn đó của ông thừa biết cũng như chứng kiến mối tình của ông với cô Khánh (nếu có) là như thế nào & cũng thừa biết cô Khánh không có khả năng làm thơ,vậy thì Thâm Tâm “lừa” được ai? mà thực ra cũng chẳng để làm gì cả.Còn trong bài viết của ông Hoàng Tiến có chi tiết “…người kể còn sống,mà cách đây bốn năm vẫn còn gặp…” thế nhưng tại sao ông không “Công bố ngay” mà lại phải để đến tận “… vào dịp hội Đền Bà Tấm năm nay (Kỷ tỵ 1989) chúng tôi rủ nhau sang Phú Thụy dự hội”mới công bố?Thì ra vì ông đang cố gắng đưa ra những cái gọi là “chứng cứ” như “nhà thơ Lương Trúc là người cung cấp tư liệu & tất nhiên ông sẽ sẵn sàng chịu trách nhiệm …” để cho thêm phần xác tín vì thế ông mới bị lúng túng trong việc sắp xếp thời gian tính như vậy,bản thân ông Phạm Quang Hòa(Lương Trúc)sau khi từ biệt bạn để đi làm cách mạng,dẫn đến nguồn cảm hứng để Thâm Tâm sáng tác nên bài Tống biệt hành nổi tiếng thì thực tế kể từ đó họ không hề gặp lại nhau,mà Thâm Tâm thì lại mất sớm từ năm 1950,có lẽ sau này vì ân tình,vì thương nhớ bạn,ông Lương Trúc mới tìm & sưu tầm lại những tác phẩm của Thâm Tâm chăng?mà với thời gian quá lâu ngày,lại trong tình trạng loạn lạc vì chiến tranh thì chắc cũng không thiếu sự “tam sao thất bản”… Từ những dữ kiện đã phân tích,giúp ta có thể hiểu ra rằng cả ba bài viết đã dẫn, thực ra cũng chỉ là một câu chuyện “nghe nói” được người nọ truyền tai người kia lúc trà dư tửu hậu mà thôi.Ngoài ra,theo những người bạn thân,những người có điều kiện gần gũi với nhà thơ Thâm Tâm như nhà thơ Vũ Cao(tác giả của bài thơ Núi Đôi) cùng làm báo Vệ Quốc Quân (tiền thân của báo QĐND ngày nay)cho biết thì ông “…là người có tình cảm kín đáo,nghiêm túc…ngay như bài Tống biệt hành anh,em nhắc đến Thâm Tâm rất cảm kích nhưng vốn là người khiêm tốn,anh không thích kể đi kể lại .Tiếc là anh đi sớm quá lúc anh còn muốn có những bài thơ mới, khác với hơi thơ cũ…” thế thì những đoạn “đối thoại” mang nặng sự khoe khoang,mà lại với một người vừa mới quen trong bài viết của Bùi Viết Tân liệu có đáng tin không? & đây hãy xem ông Hoài Anh viết tiếp:“…Sau ngày giải phóng Thủ Đô năm 1954,tôi gặp các nhà thơ Trần Huyền Trân & Nguyễn Bính mới ra tập kết (Nguyễn Bính mất năm 1956 tại quê nhà).Tôi kể lại việc tôi được đọc bài báo viết về mối tình của Thâm Tâm với T.T.Kh,tức bà Khánh thì (cả) hai ông đều nói (là) chưa nghe thấy chuyện ấy bao giờ…ít lâu sau tôi vào thư viện của Viện khoa học xã hội tại Hà Nội thì thấy tờ Tập san Nhân Loại số 108 ra ngày 11/7/1958 tại Sài gòn…thời kỳ này báo chí tại Sài Gòn thường đăng các bài viết (hoặc đăng lại) bài của các cây bút miền Bắc di cư.Vấn đề T.T.Kh lại được khai thác làm rùm beng cũng như chuyện của nhiều nhà văn khác trong số đó có không ít chuyện thất thiệt để câu khách…”
Như vậy, chỉ trong số những người được coi là “gần gũi” với Thâm Tâm nhất như Phạm Quang Hòa (nói là thơ T.T.Kh là do cô Khánh sáng tác)-Nguyễn Vỹ ( kể rằng do chính Thâm Tâm viết)-Trần Huyền Trân-Nguyễn Bính (thì bảo chưa nghe thấy chuyện ấy bao giờ ) đã nói lên nhiều điều & minh chứng cho sự thiếu chính xác & thiếu cơ sở nếu như không muốn nói là bịa đặt của các thông tin về T.T.Kh trước đây,cho nên điều đó chỉ có tính cách là những tin đồn mà thôi..Chính vì tất cả những điều đã phân tích,đã dẫn chứng ở trên mà chúng ta có thể nói rằng:
- Trước năm 2004 câu hỏi T.T.Kh là ai trong suốt gần 70 năm qua vẫn chưa có câu trả lời…
1-Nhà văn Thanh Châu “nút thắt” của vấn đề:
Những năm 1930-cho đến trước năm 1945 của Thế kỷ trước, song song với phong trào Thơ mới của các Thi sĩ thì “bên” văn xuôi là những tác phẩm văn học nổi bật của nhóm Văn sĩ trong Tự lực văn đoàn.Ta có thể kể tên những tác phẩm tiêu biểu như:-Hồn bướm mơ tiên,  Nửa chừng xuân của Khái Hưng-Tắt lửa lòng của Nguyễn Công Hoan-Đoạn Tuyệt của Nhất Linh hay Gánh hàng Hoa của Nhất Linh-Khái Hưng.v.v…Phần lớn là của những nhà văn trong nhóm “Thất tinh”-Tự Lực Văn Đoàn gồm:-Ba anh em nhà Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh)-Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo)-Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam) cùng hai anh,em Khái Hưng-Trần Tiêu & Thế Lữ,Tú Mỡ.Sau này kết nạp thêm Xuân Diệu mới gọi là “Bát tinh”-những vì sao chói sáng trên văn đàn nước nhà thời kỳ 1932-1939…Sáng tác của họ toàn là những câu chuyện tình đẫm lệ cả & những tiểu thuyết đó cũng ra đời vào khoảng thời gian trước-trong & sau “thời kỳ T.T.Kh” không lâu…Thế nhưng chẳng thấy có bất cứ nhà thơ “nặc danh” nào xuất hiện,cho dù trong tác phẩm Gánh hàng Hoacũng có những đoạn nói về loài hoa Tigôn…Về sau tác phẩm này được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh,còn Tắt lửa lòng được chuyển thể thành vở cải lương nổi tiếng có tên Chuyện Tình Lan & Điệp, song tất cả cũng chỉ có vậy.Thế nhưng vào tháng 7 năm 1937 sau khi tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy đăng truyện ngắn Hoa Tigôn thì một hiện tượng lạ lùng đã xảy ra.Công bằng mà nhận xét thì truyện ngắn Hoa Tigôn của nhà văn Thanh Châu so với các tiểu thuyết nêu trên còn kém xa cả về văn phong lẫn cốt chuyện,bản thân tên tuổi nhà văn Thanh Châu cũng không thể nổi tiếng bằng.Ấy thế mà thật kỳ lạ,truyện ngắn Hoa Tigôn của ông vừa mới ra đời được khoảng hai tháng thì “lập tức” xuất hiện bài thơ Hai sắc hoa Tigôn của một tác giả “nặc danh” mang mấy chữ cái T.T.Kh cứ như thể muốn “đối đáp” lại.Đến đây,chúng ta có nhận ra một điều gì đó bất thường không?.Có vẻ câu nói của một nhà khoa học:“chẳng có gì tự nhiên sinh ra…” rất phù hợp trong trường hợp này…Chúng ta đã có thể nói rằng:-Không có Truyện ngắn Hoa Tigôn thì sẽ không có bài thơ Hai sắc hoa Tigôn & 3 bài tiếp theo hoặc không có nhà văn Thanh Châu thì sẽ không có T.T.Kh.?
2-Nỗi lòng của nhà văn Thanh Châu:
Mùa thu năm 1939 (tức là một năm sau ngày T.T.Kh xuất hiện đầy đủ với 4 bài thơ) nhà văn Thanh Châu viết một tùy bút có nhan đề Những cánh hoa Tim đăng trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy (chúng ta cần biết là:-Truyện ngắn hay tiểu thuyết là có thể từ một “nguyên mẫu” nào đó có thật rồi tác giả hư cấu thêmcho hấp dẫn hoặc là hư cấu hoàn toàn như tiểu thuyết Khoa học viễn tưởng.Còn Phóng sự,ghi chép,nhật ký hay tùy bút… phải là những sự việc có thật,tác giả chỉ có thể sắp xếp lại cho có thứ tự về không gian,thời gian để “kể lại”giúp người đọc dễ hiểu mà thôi).Dưới tiêu đề Những cánh hoa Tim ông trích dẫn một câu thơ của T.T.Kh: Bảo rằng:Hoa dáng như tim vỡ bên dưới lại trích dẫn một đoạn văn trong tiểu thuyết Gánh hàng Hoa: Hoa leo Tigôn sắc đỏ, sắc hồng,sắc trắng năm nào cũng vậy,một mùa tàn lại một mùa nở.Nó chẳng giống lòng trắc ẩn của con người. Rồi ông viết:“…Có ai để ý đến một thứ hoa của dây leo,mỏng manh & nhẹ nhàng như giấy,dáng hoa chum chúm như một thứ quả khi chưa xòe cánh?...những dây hoa tigôn đã điểm màu trắng,màu hồng,màu đỏ vào giữa đám lá xanh non & sáng sáng,có những thiếu nữ vui như bướm với những bàn tay nhẹ,gỡ dần những dây hoa ấy để thay cho những hoa hôm trước trong phòng khách đã tàn…Một mùa thu cũ,tôi đã ngắt những bông hoa ấy trong tay & vò nát chúng đi trước một giàn hoa.Đó là thời kỳ tôi vừa ốm dậy,buổi chiều thường đi vơ vẩn trong sân…bỗng nhiên,nhìn những cánh hoa đỏ trong tay,tôi nghĩ đến một quả tim rớm máu.Tôi nghĩ đến những đoạn tình duyên đau khổ ở đời.Những tiếng nức nở dài như tiếng cầm đề não nuột trong bài thơ “Thu” của thi sĩ Verlaine…buổi chiều lạnh chớm thu,đã thấy thoáng hiện ra trong đầu cái hình ảnh tưởng là mờ nhạt từ lâu của người quen cũ. Tôi nghĩ đến chia rẽ,đến phân ly, đến những bức thư cuối cùng viết vội vàng trong đêm vắng, dưới ánh nến chập chờn,trong đó người ta gói cả một tấm lòng tuyệt vọng lẫn với những cánh hoa thường tặng. Tôi nghĩ đến những xác chết trong tim mệt mỏi vì yêu của những người đàn bà có chồng,đã yên vui,đã nguôi quên…
Vì tôi thấy tôi cảm thấu hết được những cái gì là tê tái trong tình ái. Tôi có tất cả tâm sự của một người đã từng chua xót vì yêu …Tối hôm đó, tôi viết trong cơn sốt rét & hai tuần sau cái truyện ngắn Hoa tigôncủa tôi đã in trên mặt báo sau này.Truyện có gì đâu:Một họa sỹ đi vẽ về qua làng Mọc,gặp một thiếu nữ hái hoa như tôi cũng đã từng gặp trên kia…Rồi tám, chín năm sau, lúc họa sỹ đã nổi danh mới gặp lại người xưa,người ta nhận ra nhau,thấy mến nhau & sau cùng thấy yêu nhau.Làm thế nào khác được? (người viết truyện cho là định mệnh). Họa sỹ bảo người yêu trốn đi với chàng làm lại cuộc đời,nhưng thiếu phụ là một người đàn bà yếu đuối.Phút cuối cùng nàng sợ,chẳng dám liều bước vào con đường mới mà nàng đoán rằng nguy hiểm.Nàng bị đau đớn dày vò vì đã yếu đuối & từ trần xa người yêu một buổi kia.Họa sĩ được tin,đem những dây hoa tigôn-Thứ hoa giống hình quả tim vỡ mà trước kia nàng hái ở vườn nhà,đặt trên mộ người yêu. Họa sĩ đã già mà cũng không lấy vợ.Nhưng,mỗi mùa thu, mùa hoa tigôn nở nhiều nhất,họa sĩ thường mua thứ hoa kia về để trong phòng vẽ của mình.Truyện có gì đâu?nhưng tôi viết với tất cả cảm giác trong trẻo,chân thành,tươi tốt đã có trong buổi chiều thu ấy, sau buổi đi chơi trong làng Mọc. Có lẽ vì thế,mà cách đây ít hôm, một buổi trưa,có hai người đàn bà đến thăm tôi trong lúc tôi đi vắng & để lại trên bàn những cánh hoa trong truyện.Những người đó,tôi đoán là đã lấy làm bằng lòng câu chuyện tình ảm đạm kia,mà những cành hoa để lại không ngoài cái ý nghĩa thưởng công cho người đã viết…Nhưng điều mà tôi lấy làm sung sướng nhất là cũng dạo ấy,ở tòa soạn nhận được một bài thơ đầu của bà T.T.Kh (bài thơ Hai sắc hoa tigôn) kèm với bức thư xin chữ ký của tôi.Bức thư giảng rõ vì sao nẩy ra thi hứng viết nên bài thơ & bài thơ tả cái tâm sự não nùng,thầm kín của một người đàn bà đã có chồng nhớ lại tình duyên cũ.Bài thơ đó cũng là một cái truyện ngắn:-Một thiếu nữ thường đợi người yêu đến trong buổi chiều thu,dưới một giàn hoa tigôn.Người đàn ông chừng là một kẻ đã đứng tuổi & từng trải thường vuốt tóc nàng & thở dài lo sợ cho cái tương lai đen tối của hai người,trong khi vít những dây hoa ấy xuống:-Bảo rằng:Hoa dáng như tim vỡ-Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi… &  tôi thấy chán cả cái nghề viết tiểu thuyết.Bởi tôi nghĩ: Cùng một mối cảm mà T.T.Kh có thể viết nên những vần (thơ) réo rắt mãi trong tâm can người như vậy được,còn câu chuyện của tôi,có khéo kể lắm,thì rồi người ta đọc qua một lần rồi cũng sẽ quên đi… Được ít lâu bà lại gửi đến một bài thơ nữa… Tôi thấy một cái gì thắc mắc như là một hối hận vì đã vô tình nhắc đến một thứ hoa cũ làm rớm máu quả tim một người đã “tạm yên”.Người ta bảo có một thứ hoa gọi là “kim châm”,tiếng chữ là “liệu sầu hoa”, ăn hoa ấy thì vơi được lòng đau khổ.Lúc này tôi muốn tìm ra loài hoa ấy đem tặng tất cả những người đàn bà đáng thương ở trong cảnh éo le này:
- Có chồng rồi mà vẫn không quên được tình xưa…Tôi đã nghe bàn tán nhiều về T.T.Kh  người ta  tò mò muốn biết rõ đời riêng của người đàn bà có cái tâm sự bi thương kia.Người ta thêu dệt nên nhiều chuyện buồn cười…Tôi thì tôi chưa được biết mặt, biết tên thực của T.T.Kh, tôi chỉ biết rằng đó là một người đàn bà đã viết nên được những vần thơ đẹp trong lúc thực thà cảm xúc. Còn muốn gì hơn nữa? Sao người ta lại cứ muốn làm nhơ bẩn tất cả những gì gọi là trong sạch ở trong cõi đời này?…”
Đọc lại những gì ông viết ta có nhận thấy điều gì lạ không?Thứ nhất:-Cái hình tượng ví bông hoa Tigôn nhỏ xíu như là trái timthì chỉ có hai người dùng là ông (trong truyện ngắn Hoa tigôn). Ông viết: “…Hoa Tigôn hình quả tim vỡ làm mấy mảnh,màu hồng dịu như nhuốm máu đào…” & T.T.Kh: - Bảo rằng:
Hoa dáng như tim vỡ… (nên nhớ tác phẩm Gánh hàng hoa xuất bản trước truyện ngắn Hoa Tigôn hơn một năm-tức là từ đầu năm 1936, cũng có nhiều đoạn tả về hoa Tigôn, kể cả đoạn ông đã trích dẫn ở trên thì cũng không có một lần nào “khám phá” ra được hình trái tim như T.T.Kh & ông đã viết). Thứ hai:
-Thực ra, ngoài các chi tiết cùng tả về những cánh hoa Tigôn thì“cốt chuyện”của truyện ngắn so với câu chuyện “kể” trong 4 bài thơ của T.T.Kh chỉ Giống nhau ở một sự kiện duy nhất là “Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi”-có nghĩa là các nhân vật không có được hạnh phúc lứa đôi hay nói cách khác là họ lấy chồng mà không phải vì tình.Còn một bên là hai người đã yêu nhau nhưng không lấy được nhau (T.T.Kh) đằng kia là mới nhìn thấy nhau vài lần,rồi gặp lại khi cô gái đã có chồng rồi mới yêu nhau (mà ở câu chuyện này rõ ràng chỉ là một sự ngoại tình vốn không được chấp nhận,nhất là với xã hội đương thời)…Thế thì ông Thanh Châu dựa vào “nguyên mẫu” nào mà cho rằng“cùng một mối cảm” một cách giản đơn như vậy? trong khi trước & cùng thời gian đó có nhiều truyện đăng báo hay tiểu thuyết còn lâm ly hơn Hoa tigôn của ông Thanh Châu nhiều,đã thế cốt chuyện cũng không khác “của T.T.Kh” là bao (ví dụ như Đoạn Tuyệt của Nhất Linh) tại sao thế? Tại sao chỉ khi Hoa Tigônra đời thì mới xuất hiện T.T.Kh?.Thứ ba:
- Nếu hoàn toàn là người ngoài cuộc,tức là chẳng biết gì về “đối tượng” thì dựa vào đâu để ông “bênh” người ta đến thế: Người ta thêu dệt nên nhiều chuyện buồn cười & Sao người ta lại cứ muốn làm nhơ bẩn tất cả những gì gọi là trong sạch ở trong cõi đời này?…”trong khi những người “bị” đồn đại lại toàn là nhà thơ tầm cỡ đương thời như Thâm Tâm,như Nguyễn Bính thì cũng có gì đáng gọi là muốn làm nhơ bẩn…như ông Thanh Châu đã viết khá nặng lời?Có điều gì đó bất thường ở đây chăng?
Chúng ta lấy ví dụ thế này:-Mọi người ở các lớp khác cứ khăng khăng khẳng định là bạn A hay đánh nhau & quay cóp trong lớp,các bạn ở lớp khác nghe thì cũng chỉ biết vậy,nhưng nếu ta lại học cùng lớp với bạn A, nhất là lại ngồi gần nhau nữa thì rõ ràng thấy bạn ấy chẳng những không bao giờ quay cóp mà còn chẳng bao giờ đánh nhau với ai,vậy khi nghe được chuyện đó, đương nhiên là ta sẽ bênh bạn mình vì hoàn toàn chắc chắn không sợ người khác bảo là bênh lấy được, cộng với tâm lý thường tình mà ta muốn chứng minh là mọi người đừng có mà “thằng chết cãi thằng khiêng” thì cũng hoàn toàn hợp lý….Thứ tư:
-Nội dung của bức thư,ngoài vài câu ông đã tiết lộ thì có vẻ ông viết bài tùy bút này dường như là để nhằm “thanh minh” với ai đó & ông cũng như muốn an ủi ai đó, vì thế mà ông mới thấy … như là một hối hận …chúng ta tạm dừng ở đây để chờ những dữ kiện khác ở các phần sau thì sẽ quay lại phân tích thêm cho rõ phần “lạ lùng”còn lại.
3-Chuyện tình đời thực của nhà văn Thanh Châu:
Nhà văn Thanh Châu (tên thật là Ngô Hoan) sinh ngày 17 tháng 9 năm 1912 tại thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa). Quê nội ông ở Diễn Châu (Nghệ An).Năm 1926, học trường cao đẳng tiểu học Vinh, sau đó ra Hà Nội học trường đạo (Thiên chúa giáo), học chung với Phạm Huy Thông. Thấy Phạm Huy Thông và Nguyễn Nhược Pháp viết, ông cũng cầm bút theo. Năm 17 tuổi, truyện ngắn đầu tay Bó hoa quá đẹp được in. Nhờ truyện ngắn này mà ông được mời cộng tác với tuần báo Tiểu thuyết thứ 7 của nhà báo Vũ Đình Long. Ông trở thành cây bút  chủ chốt của tờ báo này trong suốt 10 năm sau đó. Sau cách mạng tháng 8, tham gia quân đội, phụ trách báo Vệ quốc quân của Sư đoàn 304. Năm 1954 ông công tác ở báo Văn nghệ (Hội nhà văn).
Kể từ tập truyện ngắn đầu tiên Trong bóng tối (1934), đến tập truyện ngắn Cún số 5 (Nxb Kim Đồng 1992), ông đã có gần 20 đầu sách…Sinh ra trong một gia đình dòng dõi quan lại,nhưng đến đời ông thì gia cảnh sa sút, vì thế cuộc sống của gia đình ông khá là chật vật.Ông có người bạn, gia đình có cơ sở kinh doanh buôn bán khá lớn ở Thanh Hóa thời bấy giờ nên kinh tế khá giả hơn gia đình ông rất nhiều,khi cả hai cùng lớn lên vào thời thanh niên thì họ cũng ít có cơ hội gặp nhau,vì người bạn là con trai trưởng nên phải gánh vác việc làm ăn của gia đình đang hồi thịnh vượng…trong một lần đi chung chuyến tàu từ Hà Nội về Thanh Hóa ông gặp lại bạn mình đi cùng cô em gái. Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã khởi đầu cho một mối tình đắm say & cũng không ai có thể ngờ rằng nó lại có kết thúc đầy nước mắt & cay đắng về sau…Trở về Thanh Hóa,hai người tiếp tục qua lại & tình cảm gắn bó ngày càng thắm thiết & đầy lãng mạn.Gia đình hai bên cũng đều biết việc này.Nhưng cuộc tình duyên không thể đi đến đoạn kết có hậu vì vấn đề “môn đăng-hộ đối” bởi gia cảnh đôi bên là quá khác nhau…Sau cú “sốc” này,Thanh Châu bỏ ra Hà Nội sinh sống,viết văn.Người yêu ông ở lại quê nhà & một thời gian sau thì (phải) lấy chồng.Ở ngoài Hà Nội một thời gian,ông nhận được tin tức từ gia đình nhắn ra cho biết người con gái ông yêu chuẩn bị lên xe hoa về nhà chồng…Từ đó Thanh Châu không bao giờ còn gặp lại người yêu xưa nữa cho đến bốn mươi năm sau,khi Đất nước thống nhất,ông mới vào Sài Gòn để tìm gặp lại Cố Nhân.…
1-Nhà văn Thanh Châu có liên quan gì với T.T.Kh?:
T.T.Kh đã viết nên những bài thơ tình bất hủ về một tình duyên ngang trái,nhưng ai mới là người đã làm cho nàng phải đớn đau đến tột cùng để đến nỗi dám vượt qua cả sự sợ hãi vô hình lẫn hữu hình của vòng lễ giáo mà thốt lên những vần thơ thấm đẫm nước mắt ấy?Ai đã làm cho nàng tan nát cõi lòng trong cái ngày lẽ ra phải là ngày vui nhất của đời người con gái: “Người xa xăm quá,tôi buồn lắm-Trong một ngày vui pháo nhuộm đường”?.Đây là một câu hỏi quan trọng,nếu giải đáp được câu hỏi này là ta sẽ có được “chìa khóa” để mở ra cánh cửa đi sâu vào những ngóc nghách của câu chuyện bí ẩn này.T.T.Kh viết:  Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
                                                  Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
                                                  Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
                                                 Và đỏ như màu máu thắm phai.
Khi xem xét thật kỹ cả bài thơ Hai sắc hoa Tigôn & bốn câu thơ trên, ta sẽ thấy rằng ở khổ thơ đầu dường như nàng đã cố tình làm ra vẻ “nhầm lẫn” khi viết:Thấy ai cũng ví..sau khi xem tiểu thuyết nhưng thực ra là để che giấu điều mà nàng cũng đã biết,đã nhận ra “người quen” qua hình tượng “…chum chúm hình quả tim vỡ,đỏ hồng như nhuộn máu đào” của loài hoa Tigôn miêu tả trong truyện ngắn & với hai khổ thơ sau thì nàng lại như ngầm nói với tác giả rằng:-Nàng không nói bâng cua đâu & nàng chỉ tưởng nhầm Thấy ai cũng ví nếu như loài hoa ấy không phải là những cánh Tigôn mà thôi,chính cái từ Nhưng ấy đã cho chúng ta biết điều đó. Từ những phần trước,ta đã biết nếu không có nhà văn Thanh Châu thì đã không có T.T.Kh hay nói cụ thể hơn là nếu không có truyện ngắn Hoa Tigôn thì sẽ không có bài thơ Hai sắc hoa tigôn & các bài thơ tiếp theo… Đặt hai tác phẩm trên cạnh nhau,điều dễ nhận thấy đầu tiên là bài thơ như muốn “họa” lại truyện ngắn từ hình thức cho đến nội dung.Bắt đầu là cái tiêu đề: Hoa Tigôn-Hai sắc hoa tigôn .Truyện ngắn mở đầu bằng hình ảnh ông họa sĩ già ngày nào cũng ngẩn ngơ bên những cánh hoa dường như để hồi tưởng lại những ngày tháng êm đềm đã mất…chuyện tình thơ cũng bắt đầu “kể lại” những kỷ niệm êm đềm với loài hoa có cái tên “tây” ấy (vì tiêu đề đã nói rõ là …hoa tigôn nên ở trong những câu thơ không nhắc lại tên hoa nữa):             
Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương
Cũng từ những phần trước ta đã nhận thấy trước & trong “giai đoạn T.T.Kh” không có bất cứ ai dùng hình tượng “Trái tim” hay “Trái tim vỡ” để chỉ hoa tigôn như nhà văn Thanh Châu & T.T.Kh đã dùng! Câu hỏi được đặt ra là vì sao mà câu chuyện của Thanh Châu & T.T.Kh đều chỉ xoay quanh cái chi tiết “Trái tim vỡ” ấy?Vì lẽ gì mà cánh hoa tigôn lại ám ảnh hai người đến như vậy? Truyện ngắn Hoa tigôn có đoạn: “…trong thư,một dây hoa tigôn nhỏ ép rơi ra: những nụ hoa chum chúm hình quả tim vỡ,đỏ hồng như  nhuộm máu đào…”  & đây bài thơ viết:
“…Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm phai.”
Về phần mình, cũng trong tùy bút Những cánh hoa Tim ông viết: Người đàn ông chừng là một kẻ đã đứng tuổi & từng trải thường vuốt tóc nàng & thở dài lo sợ cho cái tương lai đen tối của hai người, trong khi vít những dây hoa ấy xuống…đây là đoạn nhà văn Thanh Châu đang bình luận về bài thơ Hai sắc hoa tigôn của T.T.Kh,chúng ta tìm khắp tất cả bốn bài thơ đã đăng báo cũng không hề thấy cái chi tiết “…trong khi vít những dây hoa ấy xuống” nằm ở đâu? Phải chăng là ông đang hồi tưởng lại những tháng,ngày ở bên người yêu dưới một giàn hoa tigôn trong sân nhà nàng mà T.T.Kh cũng đã viết trước đó:- “Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung” trong Bài thơ cuối cùng…?
Hay là ông đã khéo tưởng tượng ra “cảnh” này trong khi đang bồi hồi xúc động?Nhưng,như chúng ta cũng đã biết,thể loại tùy bút đâu có cho phép nhà văn hư cấu hay thêm,bớt về một sự kiện nào đó không có thật?Điều đó nói lên rằng có lẽ nhà văn Thanh Châu cũng đã nhận ra“Người xưa” khi đọc những bài thơ ấy khiến ông hồi tưởng như một cuốn “phim đời” chiếu lại mà viết ra như thế chăng?
Hoa tigôn nhỏ bé,loài hoa hình trái tim hầu như luôn hiện diện trong câu chuyện tình buồn này,nó như rụng đầy ở khắp mọi nơi,ở mọi không gian,thời gian mà câu chuyện tình nhắc đến.Trong truyện ngắn,mở đầu là chàng họa sĩ gặp người con gái sáng sáng bắc ghế hái những chùm hoa tigôn để lại trong lòng chàng một tương tư thầm kín cho đến khi hai người gặp lại & bắt đầu một mối tình đắm say & cuối cùng nhận được thông điệp của bi kịch tình yêu là một phong thư báo tang viền đen kèm theo một dây hoa tigôn…Còn trong bài thơ,cánh hoa từ chỗ là niềm vui,niềm mong đợi của người con gái “Tôi chờ người đến với yêu đương” cho đến khi kết thúc một cuộc tình:
                                          “… Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
                                                Tựa trái tim phai tựa máu hồng”
Cho nên nếu có đặt lại tên “Bí ẩn văn chương T.T.Kh” này thành “Bí ẩn tình thơ Hoa tigôn”quả là cũng không sai.Nhưng, như chúng ta cũng đã biết hơn 70 năm về trước thời còn tư tưởng phong kiến rất nặng nề,việc yêu đương trai gái là việc ít được bộc lộ công khai chứ đừng nói là lại làm thơ than vãn cho một tình yêu bẽ bàng của chính mình mà lại dám công khai danh tính trong khi đã có chồng,dù cho tác giả đã “tây” hóa rất nhiều qua những vần thơ mang tư tưởng “tân thời”này (có lẽ ngay cả thời hiên đại cũng vậy thôi) mặt khác,nếu như sau khi truyện ngắn Hoa Tigôn ra đời mà chỉ có duy nhất bài thơ Hai sắc hoa tigôn thì chúng ta còn có thể cho rằng:- chắc là có “ai đó” xúc động vì câu chuyện đọc được mà “cảm thán” làm ra bài thơ để cho vơi bớt nỗi lòng…nhưng thực tế là đã có tất cả những bốn bài thơ,mà các bài thơ đó đều ít,nhiều liên quan đến nhau thì câu chuyện đã trở nên “rất thật” rồi.Lại có người vì vốn dĩ hay nghi ngờ kiểu “đa nghi Tào Tháo”mà cho rằng chắc có ai đó làm ra những bài thơ đối đáp với câu chuyện của nhà văn Thanh Châu cho thêm phần ly kỳ để bán báo. Ta thấy ngay rằng nhận định trên là hết sức vớ vẩn & nông cạn,vì nếu không có cảm xúc thật sự,hay nói cách khác là nếu không có “tâm sự buồn” lại ở trong một hoàn cảnh đặc biệt thì không thể có được những bài thơ như cào xé tâm can đến như thế ,nếu mà cứ “vui như tết” hoặc là loại thơ “đặt hàng” thì chỉ sản sinh ra được những bài thơ như “hô khẩu hiệu” mà thôi,ngay cả những bài thơ tình bất hủ được cho là “lãng mạn cách mạng” cũng đều xuất phát từ những kết cục buồn,hay từ những ước mơ chưa thành… ví dụ:-Bài thơ Núi Đôi của Vũ Cao hay bài Đợi anh về của ximônôv…Chúng ta cùng đọc lời nhận xét thật chí lý của hai tác giả Việt nam Thi nhân tiền chiến-ông Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng: “Không uống rượu,không thể say.Không đắm đuối trong yêu đương,không thể dệt nên những vần thơ lâm ly về tình ái.Thi phẩm của T.T.Kh là tiếng lòng của một linh hồn đau khổ,héo hắt khi mộng tình tan vỡ,nàng kêu lên để thở than duyên phận với người đời.T.T.Kh đâu phải là “thợ thơ” mà phải dối trá lòng mình để cấu tạo những vần thơ bi thiết-Mà như thế để làm gì?Khoe danh à?-Vô lý! Vì T.T.Kh đâu có cho ai biết hình dạng ra sao?...” đưa thêm ví dụ thì nhiều vô kể,dẫn chứng ra chỉ làm mất thì giờ của bạn đọc.Từ những điều nêu trên,việc T.T.Kh dấu kín danh tính & nhà văn Thanh Châu tôn trọng điều đó của tác giả đã trở nên dễ hiểu,vì thế ông mới viết “… kèm với bức thư xin chữ ký của tôi.Bức thư giảng rõ vì sao nẩy ra thi hứng viết nên bài thơ…” thế thôi chứ không chịu tiết lộ gì thêm về nội dung bức thư mà chỉ có một mình ông biết.Chi tiết xin chữ ký có lẽ cũng chỉ là một động tác giúp “đánh lạc hướng” để cho mọi người tin rằng tác giả thơ giống như một người tỏ lòng ngưỡng mộ tới tác giả truyện ngắn & ngầm “thanh minh” rằng hai người chẳng có “liên quan” gì với nhau hơn là để nhằm “xác định” chắc chắn tác giả của truyện ngắn là ai của tác giả những bài thơ?Như đã phân tích ở các phần trước chúng ta thấy rõ ràng là nếu không có truyện ngắn Hoa Tigôn thì sẽ không thể có bài thơ Hai sắc hoa tigôn & nếu chỉ đơn giản là “…vì sao nẩy ra thi hứng viết nên bài thơ…” thì có lẽ cũng chỉ cần một bài thơ đầu là đủ,đằng này lại là những ba bài thơ (chưa tính Bài thơ đan áo) với nhiều hàm ý vừa trách móc vừa thở than vừa nuối tiếc đến như vậy để làm gì & tại sao? Vì nếu không phải ít nhất là “người quen”  thì có ai lại làm như vậy không? Đến đây ta đã có thể hiểu ra rằng nhà văn Thanh châu chính là “người quen” của T.T.Kh vì thế sau bài thơ đó mới có hai bài thơ tiếp theo gửi đăng ở tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy.
2-Người yêu của T.T.Kh có thể là ai?:
Vì đã nhận ra “người quen” rồi cho nên bài thơ thứ hai gửi đăng báo mới viết tiếp điều mà Hai sắc hoa tigôn chưa tiện nói hết, như một lời nhắn nhủ:  
Từ đấy không mong không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.
Bởi nếu không “…Vẫn nhớ em” thì viết ra truyện ngắn Hoa tigôn“nhắc lại” tình yêu cũ (qua hình tượng Hoa tigôn-Trái tim vỡ…) để làm gì? Và cũng trong bài thơ này T.T.Kh không chỉ nhìn nhận những cánh hoa Tigôn với vẻ lãng mạn u buồn của nó mà còn có vẻ giận hờn người đã “vô tình” nhắc đến cánh hoa xưa,khiến lòng Nàng thêm tan nát: 
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai đem lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.
Từ những câu thơ có tính chất thăm dò & tương đối kín kẽ để không làm lộ mối quan hệ,thế rồi diễn biến của tình cảm khi nhớ lại duyên xưa.Nàng đánh liều khi đối thoại “trực tiếp”như một lời nhắc khéo & cũng là để thanh minh cho sự “lên tiếng” của mình:    
                                  Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
                                  Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
                               -“Cố quên đi nhé câm mà nín
                                 Đừng thở than bằng những giọng thơ”.
Thế nhưng,mãi rồi cũng không thể dằn lòng được nên Bài thơ Cuối cùng đã làm nàng “lộ tẩy”:
                                      Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly
                                     Càng khơi càng thấy lụy từng khi
                                     Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
                                     Mà viết tình em được ích gì?
Hóa ra nàng đã thừa nhận tác giả của truyện ngắn Hoa Tigônkhông phải là “người dưng”,bởi nếu không có quan hệ gì thì sao nàng lại vô cớ đi trách “người ta”? Đoạn phân tích này của Trần Đình Thu quả là tinh tường & khá chí lý:
“Chúng tôi đã có dịp nói chuyện với nhà văn Thanh Châu & chỉ ra với ông chỗ này.Nhà văn Thanh Châu cũng hoàn toàn đồng ý với chúng tôi rằng quả thật câu thơ của T.T.Kh đã có hàm ý trách ông”.
Đến đây ta có thể kết luận rằng nhà văn Thanh Châu chính là nhân vật “Ai” & quan hệ giữa tác giả truyện ngắn & tác giả thơ không phải là mối quan hệ “người dưng” mà ít nhất phải là người đã biết rõ về câu chuyện tình ngang trái của nàng…Thế nhưng,trong thơ của T.T.Kh không chỉ có mỗi nhân vật “Ai” mà còn có cả nhân vật “Anh” nữa,không lẽ có những hai nhân vật khác nhau?.Ta hãy đọc những đoạn thơ mà nàng cũng “trực tiếp” đối thoại với người yêu của mình:
                                                      Anh hỡi,tháng ngày xa quá nhỉ?
                                                      Một mùa thu cũ một lòng đau
                                                      Ba năm ví biết anh còn nhớ
                                                      Em đã câm lời có nói đâu.
Cũng như những lời tự sự sau này của nhà văn Thanh Châu trong bài tùy bút Những cánh hoa tim: “…tôi nghĩ đến một quả tim rớm máu…&…Tôi có tất cả tâm sự của một người đã từng chua xót vì yêu… Lúc này tôi muốn tìm ra loài hoa ấy đem tặng tất cả những người đàn bà đáng thương ở trong cảnh éo le này: -có chồng rồi mà vẫn không quên được tình xưa…” & ý nàng cũng như muốn trách: -Sao anh lại quên “lời hẹn” cũ mà viết câu chuyện tình của chúng mình làm gì cho thêm đau đớn lòng nhau thế này & phải chăng hình ảnh cô đơn của ông họa sĩ già “... cứ đến mùa hoa Tigôn nở,không buổi sáng nào ông quên mua một ôm về thay thế hoa cũ trong phòng vẽ,vì thứ hoa ấy chóng tàn.” trong truyện ngắn Hoa Tigôn đã ám ảnh nàng,nên T.T.Kh mới viết,như một lời nhắn nhủ tới người yêu xưa?:       
Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chả nên chờ.  
Và:        Ngang trái đời hoa đã úa rồi
             Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi
             Buồng nghiêm thờ thẫn hồn eo hẹp
             Đi nhớ người không muốn nhớ lời.
Thế rồi,vì ở trong một tâm trạng bối rối,nàng đã không còn giữ được bình tĩnh nữa mà quên cả việc giữ gìn danh phận nên mới “nói toạc” ra :
                                         Năm lại năm qua cứ muốn yên
                                         Mà phương ngoài gió chẳng làm quên
                                         Mà người vỡ lở duyên thầm kín
                                         Lại chính là anh, anh của em.
Như vậy là đã rõ, hai nhân vật “Ai” & “Anh” chỉ có thể là một người! hay nói cụ thể hơn là nhà văn Thanh Châu chính là Người yêu của T.T.Kh! mà có lẽ cũng chẳng cần phải bình luật gì thêm.
3- Về “Bài thơ đan áo” của T.T.Kh:
Như chúng ta đã biết,bài thơ này tác giả viết gửi cho một người chị nào đó để nói lên cảnh ngộ của mình như một hình thức “tựa lên vai chị mà khóc cho vơi nỗi lòng”:
Chị ơi, nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương…
 Và:   
Hay chăng chị mỗi chiều đông
       Đáng thương những kẻ có chồng như em…
Một điều quan trọng nữa là ngoài người chị ra thì người yêu của T.T.Kh cũng được biết hay nói đúng hơn là cũng được tặng bài thơ này,ta hãy đọc mấy câu trong Bài thơ cuối cùng:
                                                     Chỉ có ba người đã đọc riêng
                                                     Bài thơ đan áo của chồng em
Đây là câu chuyện tình duyên ngang trái,yêu mà không lấy được nhau chứ không phải là sự phụ tình của một phía,vì thế việc gửi tặng đồng thời bài thơ nói lên nỗi lòng mình cho người yêu thấu hiểu cũng là điều bình thường & hợp lý (bài thơ này chắc chắn phải được làm trước ba bài thơ kia một thời gian khá lâu). Chẳng thế mà khi tình yêu tan vỡ nàng cũng có hận gì người mình yêu đâu,nàng trách mà cứ như là không trách:
                                                  Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
                                                  Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
                                                  Nhưng nhà nghệ sỹ từ đâu lại
                                                  Êm ái trao tôi một vết thương.
Vì suy cho cùng trong cuộc tình duyên ngang trái này cả hai đều không có lỗi:
                                     Như con chim nhốt trong lồng
                              Tháng ngày than tiếc ánh hồng nơi nao
                                     Ngoài trời hoa nắng xôn xao
                             Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
                                     Ai đem lễ giáo giam em
                            Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời…
Chúng ta dừng lại một chút để tìm hiểu về cái từ “nhà nghệ sỹ”:-Ngày xưa nhà văn,nhà thơ,nhạc sỹ,họa sỹ…hay được gọi chung là văn nghệ sỹ hay nghệ sỹ còn diễn viên,ca sỹ,nhạc công…lại gọi chung là Tài tử (ví dụ ca sĩ Ngọc Bảo thì lại gọi là tài tử Ngọc Bảo).
 Quay lại với câu chuyện Bài thơ đan áo,câu hỏi được đặt ra là:-Điều gì đã làm cho T.T.Kh tỏ ra mất bình tĩnh & giận dữ khi Bài thơ đan áo xuất hiện trên báo Phụ nữ  khiến cho nàng phải viết tiếp Bài thơ cuối cùng để trách móc người mình yêu:
                            Chỉ có ba người đã đọc riêng
                            Bài thơ đan áo của chồng em
                            Bài thơ đan áo nay rao bán
                           Cho khắp thiên hạ thóc mách xem
Và dường như vì một điều gì đó đã xảy ra, khiến không thể tự kìm chế, Nàng hơi nặng lời:
                                                       Từ đây anh hãy bán thơ anh
                                                       Còn để yên tôi với một mình
                                                       Những cánh hoa lòng,hừ đã ghét
                                                       Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
Rõ là giận quá mất khôn nên nàng “quên” mất là chính nàng đã gửi 2 bài thơ đăng báo Tiểu thuyết thứ bảy từ trước đó (dù không lấy nhuận bút) thì báo họ in ra chẳng lẽ đi phát không mà không đem bán? hơn nữa bài thơ lấy tên mình chứ đâu có mang tên “người ta” mà nàng lại bảo là đổi lấy hư vinh?. Điều này chỉ có thể giải thích rằng nàng giận là vì chàng đã lỡ “cho” đi “tặng phẩm” mà nàng chỉ tặng riêng chàng & người chị (Nàng dễ dàng khẳng định ai là người tiết lộ bài thơ trên bằng cách hỏi người chị,có gì là khó?). Ta hãy lấy ví dụ ngày nay, bạn tặng người yêu một món quà,nhưng người ấy không dùng mà lại đem cho người khác, khi biết chuyện thì liệu bạn có dễ dàng bỏ qua không? huống hồ là bài thơ này lại còn chứa đựng hầu như mọi “sự thật” về đời sống hiện tại của nàng cũng như nguyên nhân đã làm tan vỡ cuộc tình của hai người, khi công khai rất dễ làm cho nàng bị lộ diện cho nên với tâm lý của người “trong cuộc” lại mang tâm trạng “thần hồn nát thần tính” khi sống trong vòng lễ giáo phong kiến thì nàng vừa sợ vừa bực mình cũng là điều dễ hiểu:
Tôi oán hờn anh mỗi phút giây
Tôi run sợ viết bởi rồi đây
Nếu không yên được thì tôi chết
Đêm hỡi, làm sao tối thế này?
Rồi như một tiếng thở dài để chia tay vĩnh viễn một mối tình đã không thể cùng nhau đi đến đoạn kết cuối cùng,nàng nhắn nhủ:       
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng
Nhưng điều làm cho nàng lo sợ rồi cũng không thể lấn át đươc tình cảm gần như vẫn còn nguyên vẹn mà nàng đã dành cho người mình yêu,rằng “giận thì giận,mà thương vẫn thương” T.T.Kh viết: 
Tôi biết làm sao được hỡi trời                   
Giận anh không nỡ nhớ không thôi
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt
Sợ quá đi anh,có một người…
Một câu hỏi nữa lại phải được đặt ra:
- Vậy mục đích của ông Thanh Châu “tiết lộ” trên báo Bài thơ đan áo để làm gì? Trước tiên ta có thể khẳng định rằng cái bút danh T.T.Kh khi gửi đăng báo Phụ nữ (ở số 7 phố Hội Vũ-Hà Nội) không phải của tác giả bài thơ (trong nguyên bản bài thơ đem tặng) mà là do ông Thanh Châu. Vì là người “trong cuộc” được tặng bài thơ từ trước & biết rõ tác giả là ai nên mới lấy đúng theo bút danh của hai bài thơ đã đăng.Tại sao lại dám khẳng định điều đó? Đơn giản là bài thơ này chỉ tặng duy nhất có hai người thân thiết nhất,gần gũi nhất,tin cậy nhất thì việc gì mà phải dùng bút danh (trừ phi tác giả đã là một nhà thơ chuyên nghiệp & có tiếng tăm)?. Tuy nhiên, việc ai đã lấy bút danh đó không quan trọng bằng trả lời được câu hỏi tại sao nhà văn Thanh Châu lại đi tiết lộ bài thơ của người yêu tặng mình? Ta chỉ có thể lý giải được rằng, khi đọc hai bài thơ đầu là Hai sắc hoa tigôn & Bài thơ thứ nhất chúng ta cũng chỉ “thấy” được một tình yêu say đắm nhưng lỡ làng chứ không hề biết được nguyên nhân nào dẫn đến bi kịch ấy của tình yêu đôi lứa đã làm trái tim người con gái nát tan, thì đây:

- Bài thơ đan áo đã cho biết điều đó,không những thế nó còn cho biết tâm tư tình cảm cũng như cuộc sống “thật” sau ngày phải lấy chồng của người con gái ấy & trong những ngày ôm nỗi buồn nơi đất khách quê người với nỗi nhớ khôn nguôi ông cảm thán mà viết ra câu chuyện của đời mình (tất nhiên không thể viết đúng nguyên mẫu vì còn phải giữ cho người mình yêu đã có chồng) & khi nhận ra hai bài thơ của người yêu cũ gửi đăng báo,ông muốn mọi người hiểu đúng nguyên nhân thực sự của cuộc chia ly với tình yêu của tác giả mà vẫn không làm lộ danh tính như “tìm” một sự đồng cảm & chia sẻ của cuộc đời,cũng như ngầm bác bỏ mọi đồn đoán vô căn cứ (thời gian này vốn đã có rất nhiều đồn đoán về xuất xứ của bài thơ Hai sắc hoa tigôn  như chúng ta đã biết) ý định tốt đẹp đó vô tình đã làm người ông yêu hờn dỗi vì ông đã “cho” đi “kỷ niệm xưa” của hai người,còn điều lo sợ có lẽ cũng chỉ mang nặng sự “có tật giật mình”của người trong cuộc mà thôi….
1- T.T.Kh thật sự là ai?:
Từ các phần trước chúng ta đã biết được xuất xứ & nguyên nhân của sự “xuất hiện” những bài thơ của tác giả T.T.Kh cùng những sự kiện liên quan…Chỉ còn lại một “ẩn số” quan trọng nhất là câu hỏi: -T.T.Kh thật sự là ai?
Để trả lời cho câu hỏi đó thì T.T.Kh ngoài đời thực phải thỏa mãn những “Điều kiện” sau:
 a/Phải xuất thân từ một gia đình khá giả (thì mới là “nạn nhân” của vấn đề môn đăng-hộ đối)
b/Được học hành theo lối “tân học” (thì mới chịu ảnh hưởng của nền thơ Pháp như phong trào “thơ mới” đương thời & phù hợp với “giọng thơ”của 4 bài thơ đã đăng báo)
c/Là người yêu của nhà văn Thanh Châu
Chúng ta cũng đã biết về tình yêu ngoài đời thực của nhà văn Thanh Châu & lý do tại sao hai người không lấy được nhau…chỉ còn tên của người yêu ông cũng như gia cảnh,sự nghiệp của Bà là chúng ta chưa biết…Người đó là bà Trần Thị Vân Chung sinh ngày 25 tháng 8 năm 1919 trong một gia đình buôn bán khá giả tại thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa) Bà là con gái thứ ba trong gia đình có tám anh, em (ba trai, năm gái) trên Bà còn một chị gái & anh trai cả chính là bạn của nhà văn Thanh Châu...Cũng như ông Thanh châu, trước Bà có theo học trường Cao đẳng tiểu học Vinh…chồng bà là ông Lê Ngọc Chấn một cử nhân luật, sau này (trước năm 1945) có thời gian làm quan tri huyện rồi cả gia đình di cư vào Miền Nam sinh sống,về văn chương bà Vân Chung thường hay làm thơ,viết văn với bút danh là Vân Nương hoặc Tam Nương. Bà tham gia nhóm thơ “Quỳnh Dao” cùng với nữ sĩ Mộng Tuyết, Tôn Nữ Hỷ Khương, Việt Nữ, Như Hiên…cùng nhau xướng họa như một sinh hoạt tinh thần & cũng có vài bài thơ đăng báo thời kỳ trước năm 1975…năm 1986 Bà cùng các con sang Pháp định cư cho đến nay & vẫn tiếp tục làm thơ,đăng trên các tạp chí tiếng Việt ở nước ngoài…
“Đây là thông tin được chính nhà văn Thanh Châu xác nhận-một điều trước nay chưa từng được tiết lộ bởi người trong cuộc” (trong lần tác giả Trần Đình Thu gặp nhà văn Thanh Châu) cũng như được bà Vân Chung “gián tiếp” xác nhận (trong hai bức “thư ngỏ” viết tại Pháp ngày mùng 1/10/1994 & 4/11/1994 gửi cho bà Thư Linh đồng thời đăng trên báo Thanh Niên & tạp chí Nguyệt san văn hóa tp.HCM số cuối năm 1994). Cả hai người trong cuộc chỉ đều xác nhận rằng:
- Họ chính là người yêu của nhau thuở trước,cũng như hoàn cảnh,sự nghiệp của hai người chứ không hề tiết lộ ai là T.T.Kh hay ai là người yêu của T.T.Kh.
Đó cũng là điều hết sức bình thường & dễ hiểu ở lớp “người xưa” & có nhân cách. Như vậy,so với “tiêu chuẩn” tối thiểu cần phải có theo lôgich của sự việc mà ta đặt ra để phục vụ cho việc “điều tra” bí ẩn văn chương này thì rõ ràng là đã vượt quá cả sự mong đợi vì trên thực tế ngoài cả ba “tiêu chuẩn” trên đều đạt thì bà Vân Chung còn là một thi sĩ…
Bây giờ,từ những thông tin xác thực ngoài đời về mối tình của hai người trong cuộc, chúng ta cùng so sánh với những câu “chuyện thơ” của T.T.Kh xem có gì “tương ứng” không?:
- Sau khi học xong tiểu học Vinh,ông Thanh Châu ra Hà Nội tiếp tục học trong trường Đạo & bắt đầu sự nghiệp văn chương từ giai đoạn này,trên chuyến tàu “định mệnh” ông gặp lại bạn mình đi cùng cô em gái chính là bà Vân Chung, bắt đầu cho một mối tình đầy lãng mạn & đắm say, những buổi chiều tà thường khi vẫn làm cho ta có cái cảm giác thẫn thờ của những nỗi buồn không tên, thế nhưngngười con gái đang yêu lại không bị ám ảnh bởi điều đó mà thay vào là một tâm trạng hồi hộp chờ đợi người yêu tới,một cô gái mới lớn với tình yêu đầu đời thì cảm xúc này của bà Vân Chung khi ấy cũng là rất thật vậy & T.T.Kh cũng như muốn “chia sẻ” cảm xúc của mình:
                                                     Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
                                                     Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
                                                     Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
                                                    Tôi chờ người đến với yêu đương.
- Sống trong một xã hội còn tư tưởng phong kiến rất nặng nề,không phải là ông Thanh Châu không ý thức được gia cảnh nhà mình nếu so với gia cảnh người yêu về vấn đề “môn đăng-hộ đối” phải chăng vì thế mà ông mới “nói” (qua “lời kể” của T.T.Kh) & câu thơ cũng rất trùng khớp với hình ảnh của một người “đứng tuổi” thường vuốt tóc nàng như ông đã miêu tả trong bài tùy bút Những cánh hoa tim vì trên thực tế ông hơn bà 7 tuổi mà với ngày xưa đã là một khoảng cách khá lớn:
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng:-“Hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi”
- Bà Vân Chung khi đó còn trong lứa tuổi đầy mộng mơ nhìn đời toàn thấy mầu hồng thì làm sao mà ngờ được sẽ có ngày cuộc tình đẹp như mơ ấy lại trở nên vô vọng,chia ly? Và ta thấy T.T.Kh cũng đã viết:                               Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì
                                           Cánh hoa tan tác của sinh ly
                                           Cho nên cười đáp:“Màu hoa trắng
                                          Là chút lòng trong chẳng biến suy”
- Mới một mùa thu trước Vân Chung còn sống trong mơ mộng cùng mối tình đầy lãng mạn đầu đời, thế rồi vì Người đó mách anh Chấn nhà chị, sau đó gia đình đi hỏi. Hai Bác đã bằng lòng gả chị cho anh Chấn…điều mà trước đây không bao giờ ngờ tới thì nay đã thành sự thật,cho nên bà đành phải gạt lệ để ngậm ngùi tiễn biệt người yêu ngược về một phương trời khác, và đây T.T.Kh viết:
Tai ác ngờ đâu gió lại qua
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa.                                 
- Sau khi đành phải nuốt lệ chia ly với mối tình đầu,ông Thanh Châu đã bỏ ra Hà Nội lập nghiệp,bà Vân Chung ở lại quê nhà nếu vẫn còn thầm tưởng nhớ tới người xưa bằng những hình tượng vô cùng lãng mạn của người con gái đang yêu thì cũng là rất đời thường & quả là phù hợp với mấy câu thơ:                                       
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
Ngày xưa, không biết do đâu mà các Cụ nhà ta hay dùng lối nói tắt địa danh, ví dụ Hải Phòng thì hay gọi là Phòng (đi tầu Phòng, đợi tầu Phòng…) vì thế chi tiết Vườn Thanh có lẽ cũng chỉ là một cách nói hoa mỹ để chỉ địa danh Thanh Hóa, cũng như dùng từ Xứ Thanh mà thôi.
- Đọc lại truyện ngắn Hoa tigôn ta thấy có chi tiết Chàng họa sĩ rủ người yêu cùng mình trốn sang Nhật bản để làm lại cuộc đời, Nàng nhận lời nhưng phút chót lại không thể vượt qua được vòng lễ giáo, để rồi những ngày sau phải sống trong nuối tiếc cho đến lúc nhắm mắt, xuôi tay… Phải chăng T.T.Kh cũng muốn nhắc đến điều tương tự khi cuộc tình duyên của mình không thành?:
                                         Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
                                         Một mùa thu trước rất xa xôi
                                         Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
                                         Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi.
- Thực tế thì bà Vân Chung phải lấy chồng là do gia đình ép gả & đây T.T.Kh cũng viết: 
                                           - Ai đem lễ giáo giam em
                                     Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời
- Ông Thanh Châu cũng đã đành phải gạt lệ ra đi, vì có ở lại mà nhìn cảnh người yêu bước lên xe hoa về nhà khác thì cũng chỉ thêm đau lòng,chẳng thể nào khác được.Vì thế ngày lấy chồng của Bà mới thật là vô cùng buồn tủi & vô vọng, đó cũng chính là tâm trạng thật trống trải của T.T.Kh:
                                      -Đâu biết lần đi một lỡ làng
                                       Dưới trời gian khổ chết yêu đương
                                       Người xa xăm quá,Tôi buồn lắm
                                       Trong một ngày vui pháo nhuộm đường
-Vì nhiều lý do,nhất là ảnh hưởng của vòng lễ giáo họ không còn liên lạc được với nhau như thuở nào & thực tế sau khi mối lương duyên không thành,ông Thanh Châu đã ra ở ngoài Hà Nội lập nghiệp, rồi từ đó họ không còn gặp nhau được nữa, bà Vân Chung một mình ở lại Vườn Thanh cho đến khi lấy chồng trong đau đớn,trong nỗi niềm đắng cay của cả hai người…dường như T.T.Kh cũng muốn “xác nhận” điều đó,giống như một tiếng kêu than xé lòng & cũng đầy ai oán:
                                                  - Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
                                                    Trời ơi! Người ấy có buồn không
                                                    Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
                                                    Tựa trái tim phai tựa máu hồng?
- Hoàn cảnh & nguyên nhân bà & chồng lấy nhau,kể ra thì cũng khá là “tiểu thuyết”:-“…Chị thuật lại là do anh Chấn về Thanh thăm Mẹ,đi qua hiệu chụp hình nhìn thấy ảnh chị,anh Chấn tìm bạn dẫn đến tiệm chụp hình hỏi:
- Có biết người này là ai không? Người đó mách anh Chấn nhà chị,sau đó gia đình đi hỏi. Hai Bác đã bằng lòng gả chị cho anh Chấn…” (Trích thư của bà Thư Linh-gửi bà Vân Chung,viết ngày 20/9/1994 tại tp.HCM) & như chúng ta cũng đã biết ông chồng của bà Vân Chung đỗ cử nhân luật,gia đình khá giả hơn hẳn gia cảnh của ông Thanh Châu thì việc gả cho bà cũng là điều dễ hiểu bất chấp là bà có yêu hay không…cho nên T.T.Kh mới than rằng: 
                                        -Và một ngày kia tôi phải yêu
                                         Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
                                         Những cô áo đỏ sang nhà khác
                                         Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều
Ta thấy ngay rằng chẳng có ai đi lấy chồng vì yêu & được yêu mà lại dùng từ “phải” cả,rõ ràng điều đó nói lên rằng:
-Đây là mối lương duyên hoàn toàn do ép buộc & đây chỉ là một tình yêu đơn phương theo kiểu tình yêu “sét đánh” lại được tư tưởng “môn đăng-hộ đối” ủng hộ!… T.T.Kh đã dùng những hình ảnh rất “đắt” để chỉ vài câu thơ thôi là đã lột tả được hình ảnh của một đám cưới buồn,những cô áo đỏ là chỉ mấy cô gái bưng tráp dẫn Dâu & “tháp tùng”cô Dâu về nhà chồng, màu đỏ là “màu vui” màu của sự ấm cúng ấy thế mà ở đây nó lại tương phản với Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều đến thế?...
-Do không có tình yêu đối với chồng,lại luôn tưởng nhớ,sống trong hoài niệm về mối tình đầu vừa mới phải đắng lòng gạt lệ chia ly thì dù bà Vân Chung có khéo cư xử đến mấy,giỏi“đóng kịch”đến mấy thì với thời gian cũng sẽ “giúp”chồng bà cảm nhận được,hiểu ra được vấn đề & khi tình yêu “sét đánh”ấy qua đi,tình yêu một phía cũng khó làm chồng bà “duy trì” được tình cảm như thuở ban đầu, ở đời ai cũng vậy thôi, vì là lẽ thường tình trong tâm lý con người, ta hãy đọc những vần thơ đầy nghẹn ngào của T.T.Kh trước một thực tế cũng thật là chớ trêu như thế:
                                          Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
                                          Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
                                          Mà từng thu chết, từng thu chết
                                          Vẫn giấu trong tim bóng một người
- Trong bài tùy bút, ông Thanh Châu viết: Cùng một mối cảm mà T.T.Kh có thể viết nên những vần (thơ) réo rắt mãi trong tâm can người như vậy được, còn câu chuyện của tôi, có khéo kể lắm,thì rồi người ta đọc qua một lần rồi cũng sẽ quên đi…khi ta đọc lại những bài thơ của T.T.Kh & so với chuyện tình đời thực của hai người thì thấy rằng,vì bà Vân Chung chính là người ở “trong cuộc” bởi thế mới có được những câu thơ như ông vừa cảm nhận trên kia,còn Thanh Châu, ông chỉ có thể tự tưởng tượng ra cảnh người yêu phải sống bên người chồng không yêu thì làm sao ông “cảm thấu” cho hết được tâm trạng của bà? Đến đây thì câu hỏi tại sao nhà văn Thanh Châu lại viết những dòng tự sự như trên đã trở nên rất dễ hiểu…
- Ngày xưa thị xã Thanh Hóa vốn bé “tí tẹo” nên việc yêu nhau giữa ông Thanh Châu & bà Vân Chung cũng có không ít người biết, phải chăng từ một lý do nào đó chồng bà biết đươc “chuyện ngày xưa”của hai người?Hơn nữa,chớ trêu là ở chỗ người mà mình yêu tha thiết,một tình yêu tinh khôi của tuổi đẹp nhất đầu đời thì lại phải đành nuốt lệ chia xa,kẻ không yêu bỗng chốc trở thành Phu-Phụ & khi người đàn bà không yêu thì họ rất khó thể hiện sự mặn nồng mà người đàn ông nào cũng mong muốn,cho nên đối với chồng thì tình cảm lẽ ra phải có ở những đôi lứa lấy nhau vì tình chỉ có thể trở thành một “nghĩa vụ”…cho nên cái cảm giác vô cùng trống vắng khi đối diện với chính mình ở một nơi xa lạ là một cảm xúc rất đời thường,có lẽ bà Vân Chung cũng không phải là ngoại lệ.Ta hãy cùng “chia sẻ” nỗi niềm đó của T.T.Kh:           
                          Từ đấy thu rồi thu lại thu
                          Lòng tôi còn giá đến bao giờ
                          Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
                          Người ấy cho nên vẫn hững hờ
Hay:         Lòng em khổ lắm chị ơi
        Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai
            Quang cảnh lạ, tháng năm dài
    Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.
- Thông thường có một tâm lý khá phổ biến ,đó là khi buộc phải chia tay với người mình yêu vì bị gia đình ngăn cản với nhiều lý do khác nhau, nhất là quan niệm ngày xưa “Cha, Mẹ đặt đâu con ngồi đấy” thì dù ta không hề có lỗi,nhưng cái cảm giác “tội lỗi” đó không vì thế mà mất đi cộng thêm với tâm lý thương người yêu, thương cả cho số phận mình,muốn “người ấy”cũng vẫn tưởng nhớ đến mình, đồng thời lại sợ ảnh hưởng đến cả vấn đề “danh tiết” nên nó đã tạo ra một tâm lý vô cùng bối rối,day dứt như ở giữa ngã ba đường, vừa muốn gặp lại vừa sợ gặp “người xưa”vì không biết phải thanh minh, phải an ủi thế nào khi chính mình cũng là nạn nhân,một nạn nhân yếu đuối của thời cuộc…bà Vân Chung có lẽ cũng không nằm ngoài tâm lý đó & ta hãy đọc lời “tự sự” của T.T.Kh:
                                                Từ đấy không mong không dám hẹn
                                                 Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
                                                 Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
                                                 Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.
hay:   Tôi run sợ viết lặng im nghe
          Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
          Như tiếng chân người len lén đến
          Song đời nào dám gặp ai về.
- Sống trong xã hội phong kiến và trong một gia đình gia giáo với tư tưởng “Cha-Mẹ đặt đâu con ngồi đấy” còn khá nặng nề,việc bà Vân Chung không thể cưỡng lại ý định sắp đặt cuộc tình duyên đầy ngang trái là một sự thật không thể vượt qua,cho nên bà đành phải “nhắm mắt buông xuôi” cho số phận bên cạnh người chồng không yêu và thời gian trôi đi với những công việc thường ngày cũng đã phần nào giúp bà nguôi ngoai niềm thương nỗi nhớ,vậy mà khi đọc được truyên ngắn Hoa Tigôn của tác giả lại là người yêu cũ (dù cho Thanh Châu chỉ là bút danh) thì bảo sao bà không rung động bởi những hoài niệm cũ trở về trong trái tim chất chứa những nỗi niềm u uất bấy lâu? Chúng ta cũng sẽ phải ngỡ ngàng khi đọc những vần thơ sau đây của T.T.Kh dường như cũng có cùng tâm trạng:   
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai đem lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.
- Thời điểm cuối những năm 30 thế kỷ trước ở thị xã Thanh Hóa mới chỉ có cầu cho đường sắt Bắc-Nam do người Pháp xây dựng, còn muốn đi theo đường bộ,đi xe đò mà hồi đó nhà tư sản Bạch Thái Bưởi là người Việt đầu tiên có hãng xe khách & tầu thủy chạy trên một số tuyến đường cạnh tranh với người Pháp cũng như với Hoa kiều… thì những người sống ở thị xã phải vượt sông bằng đò ngang với hình ảnh tiễn người đi bến cát xa,cũng lại rất phù hợp với mấy câu thơ sau:
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ 
Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.            
Qua những phân tích & dẫn chứng ở trên, quả thật chúng ta thấy rằng bà Vân Chung có một “Nhân thân” đời thật phù hợp với “hoàn cảnh” của T.T.Kh đến kỳ lạ, chúng ta hầu như không thấy có sự khác biệt nào giữa “Câu chuyện trong thơ” so với chuyện tình ngoài đời của họ.Có người nghi ngờ rằng,vào năm 1937-1938 bà Vân Chung mới có 18-19 tuổi thì làm sao sáng tác được những bài thơ hay đến thế?Thắc mắc này không phải là không có lý nhưng nó lại quá phiến diện,bởi lẽ phải lý giải thế nào đây khi hầu hết những nhà văn, nhà thơ thời tiền chiến (tức trước chiến tranh thế giới thứ hai-trước năm 1939) cùng thời với Bà đều “thành danh” ở lứa tuổi này, ta có thể kể tên các tác giả đương thời có sự nghiệp văn-thơ từ rất sớm như:-Xuân Diệu (sn 1916)-Nữ sĩ Mộng Tuyết(sn 1918)-Thâm Tâm(sn 1917)-Nguyễn Bính(sn 1918)-Nữ sĩ Anh Thơ(sn 1921-năm 1939 đã được giải thưởng khuyến khích về thơ của Tự lực văn đoàn) hay như tiểu thuyết Tố Tâm của Song An Hoàng Ngọc Phách viết năm 1922 khi ông mới có ngoài 20 tuổi...so với ngày nay thì với lứa tuổi mười chín đôi mươi mà đã có những áng thơ-văn như thế thì quả cũng là sự lạ, phải chăng nhờ tập tục “Gái thập tam-Nam thập lục tác hợp Phu-Thê” nghĩa là Gái 13 tuổi-Trai 16 tuổi là dựng vợ-gả chồng mà các bậc tiền bối chững trạc & phát tiết tài năng cũng như sự mơ mộng từ khá sớm như vậy? Hơn nữa,với tình yêu thơ mộng đầu đời lại sớm phải chia ly đã tạo nên một hoàn cảnh hết sức trái ngang & cay đắng “đóng dấu” vào tâm hồn vốn lãng mạn của cô gái Vân Chung thì từ cảm xúc mãnh liệt ấy có trở thành những vần thơ thấm đẫm nước mắt cũng có gì là khó tin đâu?
Trước & trong “thời kỳ T.T.Kh” ông Thanh Châu có viết hai tác phẩm.Một là truyện ngắn Hoa tigôn mà từ đó mới có thơ “họa” lại của T.T.Kh,hai là bài tùy bút Những cánh hoa tim được viết sau khi T.T.Kh đã xuất hiện đầy đủ với bốn bài thơ như muốn “kết” lại câu chuyện…xa Vân Chung ra Hà Nội,ông Thanh Châu đã hết sức sầu thương về mối tình ấy,một sự mất mát & hụt hẫng không gì bù đắp được như ông đã “thú nhận” trong Những cánh hoa tim: “Vì tôi thấy tôi cảm thấu hết được những cái gì là tê tái trong tình ái.Tôi có tất cả tâm sự của một người đã từng chua xót vì yêu…”.Đó chính là sự chua xót về mối tình duyên không thành giữa ông & bà Vân Chung mà nay ông đã xác nhận(với trần Đình Thu).Vào thời gian này,tiểu thuyết Đoạn Tuyệt của nhà văn Nhất Linh ( Nguyễn Tường Tam) cũng được xuất bản,có quan điểm đả phá về tập tục phong kiến vẫn ngự trị trong xã hội đương thời,dù với mục đích ấy thế nhưng Nhất Linh vẫn không dám “sắp xếp”cho hai nhân vật Dũng & Loan trốn đi nơi khác để cùng nhau xây tổ ấm mà phải để hai người chia tay nhau,Loan về nhà chồng còn Dũng bước đi phiêu bạt giang hồ.Ấy là do hoàn cảnh xã hội khi đó chưa cho phép có sự cải cách quá mạnh mẽ dù là trong tiểu thuyết,nhà văn chỉ dám “tạo nên” cái chết tai nạn của người chồng như một sự giải thoát cho niềm bất hạnh của nhân vật Loan khi phải sống bên cạnh người chồng giầu sang mà không có tình yêu đôi lứa.Điều đó cũng cho thấy rằng  những cô gái dù có “tân học” đến mấy cũng không thể nào thoát ra được ngoài vòng cương tỏa của lễ giáo phong kiến “môn đăng-hộ đối” khi sống trong thời đại ấy.
Hoàn cảnh của ông Thanh Châu & bà Vân Chung cũng tương tự như hoàn cảnh của Dũng & Loan chứ không thể khác được.Tuy là trong truyện ngắn Hoa Tigôn ông Thanh Châu đã “dũng cảm” khi dám “cho” nhân vật họa sĩ Lê rủ người yêu Mai Hạnh trốn sang Nhật cùng mình xây dựng cuộc đời mới,thế nhưng điều đó cũng chỉ là một giấc mơ xa vời khi người yêu của chàng họa sĩ cuối cùng cũng không thể vượt qua được vòng lễ giáo.Cũng trong tùy bút Những cánh hoa tim ông cảm thán: “ Một mùa thu cũ,tôi đã ngắt những bông hoa ấy trong tay & vò nát chúng đitrước một giàn hoa…bỗng nhiên,nhìn những cánh hoa đỏ trong tay,tôi nghĩ đến một quả tim rớm máu…”Thanh Châu vò nát những cánh hoa tigôn nhỏ bé ấy vì lẽ gì?Phải chăng nó chính là “chứng nhân” của tình yêu một thuở giữa ông & bà Vân Chung,những hoài niệm về mỗi bước chân nhè nhẹ dưới giàn hoa Tigôn trước sân nhà nàng trong những buổi chiều hoàng hôn sắp tắt?Cho nên các nhân vật trong truyện ngắn chỉ là cái hình hài bên ngoài để chứa đựng cốt chuyện còn câu chuyện tình buồn của hai người mới chính là “linh hồn” của các nhân vật vậy.Vì thế,nỗi niềm của nhân vật,những hoài niệm đầy u uất,đầy nuối tiếc về những “cánh hoa tim vỡ rơi lả tả mỗi chiều thu” cũng chính là nỗi niềm của nhà văn Thanh Châu & bà Vân Chung người yêu ông,những lý giải đó đã làm cho sự xuất hiện những bài thơ như cào cấu tâm can,như những tiếng kêu than đầy ai oán của T.T.Kh khi truyện ngắn Hoa Tigôn ra mắt bạn đọc trở thành rất dễ hiểu.Vào thời kỳ những năm 30 thế kỷ trước,những cô gái có tâm hồn lãng mạn như bà Vân Chung đều tìm đọc tạp chí Tiểu thuyết thứ bảy & tờ báo Phụ Nữ cũng như những tiểu thuyết tình cảm khác. Vì thế khi đọc được truyện ngắn Hoa Tigôn thì bà Vân Chung cũng đau lòng không kém gì nhân vật trong truyện & chắc chắn bà cũng nhận ra được “người xưa” nhưng không phải chỉ bằng cốt chuyện mà là do những ngôn từ quen thuộc chứa đựng bên trong (như Hoa tigôn-quả tim vỡ- trái tim rớm máu…) hoặc cũng có thể còn ở chi tiết chàng họa sĩ rủ người yêu trốn đi cùng mình…Vì thế,ở trong hoàn cảnh như vậy, nhất là với một người có tâm hồn lãng mạn như bà Vân Chung thì việc làm thơ “đối đáp” lại cũng là điều hoàn toàn có thể giải thích được, nhưng là người thận trọng sau khi biết chắc chắn là “người xưa” rồi thì bà mới gửi tiếp Bài thơ thứ nhất như một dịp để nói hết lòng mình do bài thơ đầu chưa tiện nói hết, còn lý do tại sao lại có Bài thơ cuối cùng thì chúng ta cũng đã biết.
2- Thơ của T.T.Kh ngày nay:
Khi đọc các tác phẩm của nhà văn Thanh Châu cũng như những bài thơ của T.T.Kh ta thấy ngoài sự xuất hiện liên tục của loài hoa “chủ đạo” là hoa Tigôn thông qua hình tượng khá đặc biệt là Trái tim,quả tim…thì chúng ta còn thấy cả hai cũng thường nhắc đến Mùa Thu,chúng ta cũng đã biết mùa thu là lúc bắt đầu của mối tình giữa ông Thanh Châu & bà Vân Chung-đúng như T.T.Kh đã viết:- Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn để rồi Tôi chờ người đến với yêu đương cho đến lúc kết thúc của cuộc tình không biết có phải cũng là một mùa thu hay không?:
                                         Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
                                         Một mùa thu trước rất xa xôi
                                         Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
                                         Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi.
Quả thật hình ảnh của mùa Thu vốn đầy lãng mạn nhưng cũng thật đượm buồn, dường như là nó rất hợp với tình yêu dang dở & vì thế mà điều đó có “đóng dấu” vào trái tim của những người trong cuộc thì cũng là lẽ tự nhiên như cuộc đời vậy …Trong những bài thơ của bà Vân Chung thì có đến hơn một nửa là viết về mùa Thu hoặc liên quan đến mùa Thu,phải chăng như những điều vừa phân tích ở trên, mùa Thu đã mãi mãi ám ảnh Bà? Chúng ta cùng đọc mấy bài thơ về mùa Thu của Bà mà Trần đình Thu sưu tầm được khi gặp bà Thư Linh:
                                          BÀI THƠ CUỐI THU-1960
                                  Nhớ những mùa thu trước
                                  Êm cảnh thanh bình
                                  Trăng ngà trải lụa thiên thanh
                                  Khuôn hoa e ấp trên cành thắm tươi
                                  Thế rồi
                                  Bão táp mưa sa
                                  Trăng tàn hoa tạ
                                  Mông mênh sầu ngập biển đời
                                  Trời thu lộng gió để người sầu thương
                                             THU CAO NGUYÊN-1960
                                  Lá vàng gió cuốn bay vèo
                                  Giật mình chợt nhớ: Ơ chiều vào thu
                                  Xa xa sương phủ mịt mù
                                  Ạt ào thác đổ âm u núi rừng
                                            VÀO THU-12-8-1993
                                   Hơi may se cả bầu trời
                                   Hàng cây lá đã vàng phơi ít nhiều
                                   Nhà ai một mái tịch liêu
                                   Chìm trong lũng vắng tiêu điều chiêm bao
                                 Chợt cơn gió nổi xạc xào
                       Con chim lẻ bạn cánh chao hãi hùng
                                 Vút bay trong cõi mịt mùng
                      Ngẩn ngơ người cũng phiêu bồng vào thu…
Bà Trần Thị Vân Chung-T.T.Kh-Ảnh chụp năm 1960 tại Đà Lạt 
Cảm nhận đầu tiên khi ta vừa đọc xong mấy bài thơ trên là nó quá bình thường, không xứng tầm với thơ của T.T.Kh, thế nhưng điều đó mới là điều đáng mừng vì như vậy mới đúng là… T.T.Kh,đơn giản là bởi chẳng có nhà thơ nào,ngay cả những nhà thơ được mệnh danh là “Chúa tể của thơ tình” thì cũng không thể làm thơ hay cả đời được, dù cho cảm xúc có “dạt dào” đến mấy, thế nhưng cảm xúc của con người lại vốn dĩ chẳng cái nào giống được cái nào,ví dụ như ta đau đớn vì bị chính người yêu ta phụ bạc tất phải khác cảm xúc của kẻ chỉ được nghe người khác kể lại, đấy là trường hợp xấu nhất trong rất nhiều ví dụ về cảm xúc cần phải có để sáng tác ra thơ tình…Như nhà thơ Vũ Cao cả đời chỉ làm được mỗi một bài thơ Núi Đôi là còn mãi với thời gian,sau này ông vẫn làm thơ nhưng có lẽ bản thân tự thấy không hài lòng nên ông không cho xuất bản? Ngay như nhà thơ Xuân Diệu ông chúa thơ tình thì những bài thơ thật sự gọi là hay đến mức “để đời”cũng chỉ đếm chưa hết mười đầu ngón tay,hơn nữa ngoài cảm xúc ra cũng còn cần phải có một hoàn cảnh đặc biệt nào đó & cả hai cái “cộng hưởng” lại thì mới tạo ra được những “tuyệt tác” nổi trội trong vô số những bài thơ vốn của cùng một tác giả.Điều này đã giải thích tại sao bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử lại tuyệt diệu đến thế nếu như không có tấm ảnh chụp bến đò Vỹ Dạ mà người đẹp Hoàng Hoa gửi vào trong lúc Chàng đang vô cùng tuyệt vọng nằm trên giường bệnh…Trường hợp bà Vân Chung- T.T.Kh cũng thế thôi,mấy chục năm trôi qua nỗi buồn,nỗi nhớ rồi cũng dần nguôi ngoai lại sống một cuộc sống bình thường cũng như sự bận bịu vì còn phải lo nuôi dạy con cái…thì còn đâu nữa cảm xúc cũng như hoàn cảnh  đặc biệt để Bà có thể sáng tác nên những vần thơ Trác tuyệt như ngày nào? Cho nên ngày nay,có ai đó sáng tác được những bài thơ “giống như” giọng thơ của T.T.Kh & nhận mình là T.T.Kh thì lại chắc chắn không phải là… T.T.Kh.vậy!.Và nếu vẫn còn nghi ngờ thì bắt buộc chúng ta lại phải trả lời cho bằng được câu hỏi:- Liệu ở trong cuộc đời này có ai có “thân phận” phù hợp với T.T.Kh hơn bà Vân Chung không?... 
1-Sự kiện bà Vân Chung bị tiết lộ “Thân phận”:
Đầu tháng 9 năm 1994 trên báo Thanh Niên xuất hiện loạt bài đăng nhiều kỳ nhan đề T.T.Kh Nàng là ai? Và bài viết tóm tắt câu chuyện trên của tác giả Thế Nhật in trong tập san Nghệ thuật thứ bảy của nhà xuất bản Văn nghệ tp.HCM, trước khi in thành cuốn sách cùng tên (Sau này, khi NXB Văn hóa thông tin-2001 tái bản chỉ đổi tên tác giả thành Thế Phong).Qua sự tiết lộ vô tình của bà Thư Linh một người bạn gái “vong niên” của bà Vân Chung,làm xôn xao dư luận bạn đọc yêu thơ trong & ngoài nước,dẫn đến phản ứng khá gay gắt của người trong cuộc là bà Vân Chung qua bức thư ngỏ gửi bà Thư Linh đồng thời cũng gửi đăng trên Nguyệt san văn hóa số 9/94 & báo Thanh Niên vào tháng mười một cùng năm.Mặc dù trước đó,ngày 20/9/1994 bà Thư Linh cũng đã viết thư gửi sang Pháp cho bà Vân Chung nhằm thanh minh cho một sự việc đã rồi: “Chị Vân Nương thân mến,em in xong tác phẩm Những dòng thơ hoa chưa kịp gửi tặng chị thì được anh Thế Phong & Trần Nhật Thu (Thế Nhật là tên ghép từ chữ lót của hai tác giả ở lần xuất bản đầu) đem tới tặng tập T.T.Kh Nàng là ai?.Em giở ra đọc mới hay: Chỉ vì coi bài thơ Hoa Tim trong tập Những dòng thơ hoa mà ra chuyện!Xin Chị đừng buồn nhé.Em xin Chị bình tĩnh đọc lại những diễn biến vì sao em nói ra T.T.Kh là ai?Sau khi ở nước ngoài về,em có ý định ở lại nước nhà,bạn bè hay lui tới tụ họp nói chuyện văn chương.Hôm đó có anh,chị Như Hiên-Thanh Vân,Thế Phong,Quốc Văn & một vị nào đó nữa.Em nghe anh Thanh Vân nhắc tới T.T.Kh rằng anh ấy đã tới thăm tại nhà,khi nghe ai đó hỏi: -Nay T.T.Kh còn trẻ không?anh Thanh Vân nói:-Già & không còn đẹp nữa,thơ thì xuống lắm,xem rồi cũng không hay.Em thì chị lạ gì,rất thẳng thắn,hơn nữa T.T.Kh em coi là thần tượng nên em nhíu mày nói:- Có thể T.T.Kh anh quen là giả đó vì tôi cũng được biết T.T.Kh,thơ nay vẫn tuyệt vời & còn đẹp lắm!anh Thanh Vân cứ nhất định cãi người Anh quen là T.T.Kh thật & hỏi em:-Người chị biết là ai?.Em bực bội nói là:-Chị Vân Nương chứ ai!thế rồi câu chuyện đứt quãng vì có người mới tới,Thanh Vân & Như Hiên ra về.Đêm đó em ngồi viết về chuyện tình của T.T.Kh với tựa đề Hoa Tim & chú thích: Gửi người chị thơ phương xa Tôi vô cùng mến yêu,ý em gửi tặng chính Chị vì em vẫn chưa thể quên năm anh Chấn chưa đi cải tạo về,một chiều mùa thu chị lên chơi, em cùng chị luận bàn về sắc thái của các Nữ sĩ,khi nhắc tới ba bài thơ về Hai sắc hoa tigôn,em nhớ trước đây chị bảo em chị ở Thanh Hóa.Chị nhớ có lần em đã hỏi một chị bạn cũng ở Thanh Hóa có biết T.T.Kh là ai không?Chị ấy bảo không biết nhưng nghe người ở Thanh đồn tên cô ta là Chung đẹp lắm & giỏi thơ,nhưng đã lấy một ông quan huyện.Lúc đó em mới hỏi chị:-Tên Vân Nương là bút hiệu hay chính tên chị?Chị bảo:-Tên mình là Trần Thị Vân Chung.Chị có nhớ  em nói ngay:-Thì ra T.T.Kh là chị rồi! Chị cười:-Ai nói với Thư Linh thế?Em trả lời có người nói lâu rồi (ý bà Thư Linh muốn nói đến lời chị bạn ở trên?)Nhưng sao nghe nhiều bài nào là Nguyễn Bính,nào là Thâm Tâm nhận…vậy là ai?Chị lại cười:-Họ nói bậy thôi!...Chị còn cho em biết:-Cách đây ít lâu Anh bạn cũ ấy vào Nam tìm chị mãi không thấy,sau tìm được nhà chị Minh,chị Minh sang kêu chị (lúc đó anh Chấn còn bị giữ ở ngoài Bắc) Chị sang tới nơi,khi gặp nhau,không hiểu sao chị khóc,Anh bạn xưa có nói rằng tìm mãi không được tin tức chị,nhiều khi lên cả xe bus tìm chị nữa,em bảo rảnh sẽ viết về chị.Chị bảo:-Thư Linh đừng viết,anh Chấn hay ghen lắm,nên em hứa sẽ không viết.Có những mẩu chuyện rời rạc như anh Thế Phong hỏi:-Chắc khi xưa chị Vân Nương đẹp lắm?Em trả lời: Nếu không đẹp sao anh Chấn chỉ thấy hình đã mê quyết tìm cho ra xin cưới?Em đâu dè Thế Phong & Trần Nhật Thu viết thành tác phẩm T.T.Kh Nàng là ai?Căn cứ (cả) vào bài thơ Hoa tim của em.Có nhiều chỗ họ hư cấu như nhắc thời gian đó Chị ở nhà bà Mộng Tuyết,còn chỗ Chị & người ấy gặp nhau,em chỉ thuật là đã khóc,vậy mà họ dám tầm bậy là đã…Em & Chị đã ra ngoại quốc thì bạn bè thân ở xa gặp ôm hôn để tỏ lòng mến thương cũng chuyện thường thôi,nhưng trong bài thơ em đâu có nói ôm hôn,nên em phôn đòi cải chính thì sách đã in mất rồi!Mấy đêm nay em thức trắng bực mình giận anh Thế Phong đã không bỏ những dòng vớ vẩn đó,em tin Chị cũng sẽ bực mình & giận em….Hôm qua em gặp chị Như Hiên,chị tỏ ra bất bình về chuyện này nói sẽ gửi đăng bài một tờ báo lá cải nào đó,phóng tác từ tập T.T.Kh Nàng là ai?của Thế Nhật để gửi sang bắt chị phải cải chính.Như Hiên còn nói chỉ có Như Hiên mới có quyền được nói về chị thôi.Em hiểu Như Hiên,tức vì chị ở trong Quỳnh Dao sao chị không tâm sự với chị ấy mà em là người ngoài Quỳnh Dao lại được biết!Đời có những người quen nhau mấy chục năm mà vẫn không thể coi nhau là tri kỷ được.Em không biết tình chị đối với em từ nay như thế nào? có giảm đi không? Nhưng riêng em lúc nào cũng kính yêu chị & coi chị là thần tượng của lòng em,dù vì chuyện này mà chị có giận em thì em cũng xin tạ lỗi cùng chị.Em tin rằng các cháu đã sống với văn minh Âu Tây sẽ hiểu & luôn kính trọng yêu quí mẹ.Người con gái lớn lên gặp người ý hợp tâm đầu,yêu nhau nhưng hoàn cảnh phải xa nhau,mối tình tuổi thơ thật trong trắng.Khi lấy chồng chị vẫn yêu chồng, yêu con, không hề có điều khuất tất thì mối tình đó rất cao thượng có chi đâu mà phải cải chính,làm như chị không hay biết,đó là chị đã thấu chữ vô thường vậy & như thế là chị đã không giận em…
Chị Hỷ Khương rất cảm thông với em về chuyện này,riêng Như Hiên tỏ vẻ khó chịu nói: -“Nếu không phải là em thì chị ấy đã viết báo cải chính rồi” Em thì chị lạ gì, em bảo:-Cứ viết để em cũng sẽ viết theo những gì em đã biết.Nếu vụ này rùm beng lên thì âu cũng là do bài thơ Hoa tim mà ra,đúng là nghiệp thơ của em chị ạ.Một lần nữa em mong chị đọc kỹ cả hai tập thơ & hiểu cho em rằng vẫn luôn tôn trọng chị chứ không có ý gì khác…”
Đến đây chúng ta hãy tạm thời “quên” những phân tích,chứng minh ở các phần trước để cùng lý giải cho những câu hỏi mới phát sinh từ lá thư này.Trước hết,lá thư được viết vào năm 1994 bà Vân Chung đã 75 tuổi,thế mà bà Thư Linh lại viết thơ nay vẫn tuyệt vời & còn đẹp lắm! Mới đọc qua thì thấy có vẻ hơi vô lý,nhưng nếu ta để ý đến tâm lý phụ nữ một chút thì sẽ thấy rằng ai mà chẳng thích khen đẹp,dù có là một bà già?Vì thế đây chỉ là một lời khen có tính chất xã giao của bà Thư Linh cũng là điều dễ hiểu.Câu hỏi thứ hai là:-Dựa vào đâu mà bà Thư Linh biết được T.T.Kh quê ở Thanh Hóa mà đi hỏi chị bạn?Lý giải cho điều này chúng ta phải lưu ý đến câu thơ cũng đã tốn khá nhiều giấy mực: Ở lại vườn Thanh có một mình…xoay quanh địa danh này như chúng ta cũng đã biết có nhiều cách giải thích khác nhau,nào là Thanh Giám ngoài Hà Nội,nào là đất Thanh Miện-Hải Dương rồi lại Xứ Thanh-Thanh Hóa…của nhiều thế hệ nhà thơ cũng như bạn đọc yêu thơ & bà Thư Linh còn là một người làm thơ tất nhiên cũng không thể không biết về câu chuyện đó,cho nên khi đọc được tất cả những “xuất xứ” của câu chuyện về thơ T.T.Kh bà cũng tò mò không kém mọi người,nhưng khác với những người chỉ yêu thơ mà không có khả năng làm thơ bà hiểu thế nào là cảm xúc cũng như hoàn cảnh cần phải có để một nhà thơ có thể sáng tác được những bài thơ buồn đến nao lòng như thế,vì lẽ đó khi đọc Nguyễn Vỹ kể về Thâm Tâm có thể cũng làm bà ngờ ngợ nhưng không lý giải được,tuy không sinh hoạt cùng trong nhóm thơ Quỳnh Dao nhưng bà cũng thường xuyên tiếp xúc với họ,cùng nói chuyện,bàn luận về văn-thơ.Phải chăng những lần như vậy với khả năng tâm lý của người phụ nữ họ cũng không mấy tin vào những gì mà ông Nguyễn Vỹ đã viết?Hơn nữa khác với ngoài Bắc những năm chiến tranh,ở trong Nam vẫn đều đặn xuất bản những sáng tác chủ yếu về tình yêu đôi lứa của các nhà văn,nhà thơ nhất là của các văn thi sĩ miền Bắc di cư,việc họ dùng từ Xứ Thanh để chỉ đất Thanh Hóa là không hiếm gặp chứ chưa có ai gọi đất Thanh Miện,hay Thanh Giám là Xứ Thanh bao giờ.Như vậy vì đã không mấy tin câu chuyện của Nguyễn Vỹ (dù không có đủ tư liệu như ngày nay để phản bác) & cái từ Vườn Thanh lại có vẻ “gần gũi” hơn với từ Xứ Thanh thì cũng giúp cho bà Thư Linh tạm thời “loại” được hai địa danh đầu,vì thế chỉ còn lại Thanh Hóa là khả dĩ nhất với trường hợp T.T.Kh,cho nên điều đó đã tạo “động lực” để bà đặt câu hỏi “nghi vấn” với chị bạn quê Thanh Hóa chứ không phải câu hỏi khẳng định là hoàn toàn hợp lý.Tiếp theo những phân tích ở trên, lại là chị,em  thân thiết lâu ngày qua những lần tiếp xúc,tâm sự dù bà Vân Chung có khéo che dấu đến mấy thì cũng phải có lúc vô tình bộc lộ về cuộc sống vợ-chồng không được hạnh phúc mà với một người cùng giới lại vốn có sự nhậy cảm của một nhà thơ thì không khó để bà Thư Linh “nắm bắt” được điều đó,cho nên khi nghe bà Vân Chung nói rõ tên mình,cộng với lời kể của chị bạn thì bà Thư Linh gần như khẳng định ngay:-Thì ra T.T.Kh là chị rồi! là điều có thể chấp nhận được.Một câu hỏi nữa lại được đặt ra:-Sao đã khẳng định… là chị rồi! mà bà Thư Linh lại còn hỏi: Nhưng sao nghe nhiều bài nào là Nguyễn Bính,nào là Thâm Tâm nhận…vậy là ai?Tâm lý chung, trong chúng ta khi một sự việc đang trong “tầm tay” thì có ai mà lại không muốn được nghe chính người trong cuộc khẳng định lại với mình? Vả lại đây là câu hỏi nghi vấn chứ đâu phải là câu hỏi khẳng định.? Vì thế điều này cũng là hoàn toàn hợp lý.Nhưng tại sao chị,em đã chơi với nhau khá lâu mà bà Thư Linh không biết tên thật phải để đến lúc đó mới hỏi lại?Cũng rất đơn giản là,dù có cùng là dân miền Bắc nhưng sống lâu ngày ở miền Nam thì ắt bà Thư Linh cũng phải “nhập gia tùy tục” vì ở trong này họ không gọi tên “cúng cơm” mà là gọi theo thứ tự (sinh trước,sinh sau trong gia đình) cho nên hiếm có ai dám đường đột đi hỏi tên người ta bao giờ nhất lại là người thuộc lớp “cổ xưa” như bà Vân Chung, hơn nữa ở miền Bắc hay miền Nam thì các cụ gia đình khá giả cũng thường hay gọi theo tên Hiệu…cho nên việc bà Thư Linh nhân dịp đó mới hỏi tên thật của bà Vân Chung cũng không có gì là lạ.Câu hỏi cuối cùng,một câu hỏi vô cùng quan trọng & ít nhiều cũng góp phần khẳng định về thân thế của bà Vân Chung- T.T.Kh là: Người ở Thanh đồn tên cô ta là Chung đẹp lắm & giỏi thơ,nhưng đã lấy một ông quan huyện liệu có đáng tin?.Như chúng ta cũng đã biết,thị xã Thanh Hóa ngày xưa vốn nhỏ bé nên ắt hẳn có nhiều người biết về mối tình giữa bà Vân chung & ông Thanh Châu cũng như việc bà Vân Chung bị ép gả chồng như thế nào,hơn nữa ở một thị xã dù là nhỏ bé thì cũng không thể chỉ có một mình nhà bà Vân Chung là giầu có,suy rộng ra thì chắc chắn cũng không phải chỉ có mình bà Vân Chung mới đọc Tiểu thuyết thứ bảy & Phụ Nữ mà còn có nhiều người khác cũng biết & đọc những tờ báo này.Vì thế khi truyện ngắn Hoa tigôn của ông Thanh Châu ra đời & mấy tháng sau lại xuất hiện hai bài thơ ký tên T.T.Kh thì chắc chắn nhiều người ở Thanh Hóa cũng đọc được,trong số đó có người nhận ra ông Thanh Châu cùng quê hương mình & cùng nhau xì xào bàn tán nhưng chỉ ở phạm vi hẹp,có lẽ thời gian đầu sự việc cũng chỉ dừng lại như vậy.Thế nhưng khi Bài thơ đan áo đến tay bạn đọc thì người ta mới xâu chuỗi các sự kiện & nhận ra rằng,cô gái vừa lấy chồng nhà giầu,người yêu cũ của ông Thanh Châu chính là T.T.Kh cứ thế tin đồn lan rộng ra,đến nỗi T.T.Kh đã phải thảng thốt “kêu” lên trong Bài thơ cuối cùng: -Là giết đời nhau đấy biết không? Hoặc: -Nếu không yên được thì tôi chết mà quên cả giữ ý tứ,đây là câu thơ khiến nhiều thế hệ bạn đọc chê dở vì quả thật là ta không thấy được “chất thơ” ở trong đó.Và cũng trong tâm trạng hoảng loạn ấy  T.T.Kh như ngầm nhắc người yêu hãy chấm dứt câu chuyện này:  
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng.
Còn việc bà Vân Chung giỏi thơ  khiến nhiều người biết cũng không có gì là lạ,bởi vì với tâm hồn lãng mạn của những cô gái gia đình khá giả,lớp “tân học” thời bấy giờ hay tìm đọc Tiểu thuyết thứ bảy & báo Phụ Nữ thì bạn bè cùng trang lứa thường tụ tập cùng nhau xướng họa văn thơ cũng là điều bình thường & câu chuyện đồn đại đến tai bạn bà Thư Linh có lẽ là ở giai đoạn sau này khi chồng bà Vân Chung đã ra làm quan tri huyện.Đến đây chúng ta có thêm cơ sở để khẳng định rằng việc Bài thơ đan áo xuất hiện ngoài ý muốn đã làm bà Vân Chung không những giận người yêu cũ vì “cho đi” bài thơ bà tặng riêng ông & chị gái mình mà nỗi lo sợ việc bại lộ danh tính không phải chỉ là “thần hồn nát thần tính” nữa mà  đã là sự thật.Những phân tích ở trên cũng như từ các phần trước đã góp phần cho chúng ta hiểu ra rằng tại sao ba bài thơ sau lại không hay bằng bài thơ đầu Hai sắc hoa Tigôn, bởi lẽ với cảm xúc khác nhau, hoàn cảnh ra đời khác nhau theo từng “cung bậc” tình cảm  & thực tế diễn ra như chúng ta vừa diễn giải đã chứng minh điều đó & đến đây điều thắc mắc bấy lâu nay của nhiều thế hệ đọc giả cũng đã được giải đáp một cách thỏa đáng!?...
Sự việc bà Như Hiên bảo:-chỉ có Như Hiên mới có quyền được nói về chị thôi. Cũng đã được bà Thư Linh lý giải khá đầy đủ trong lá thư rồi,ở đây chúng ta chỉ nói thêm một chút về tâm lý thường tình của một nhóm bạn chơi chung với nhau,nhất lại là phụ nữ thường ít khi chấp nhận việc người khác “thân” với người kia hơn mình,tâm lý muốn mình luôn được chú ý,được là nhân vật “trung tâm” hay ít ra cũng được coi là gần gũi với người nào đó nhất trong nhóm so với những người khác,nhất là người đó lại là bạn “đến sau” đã thế lại còn biết về những điều bí mật trước cả mình thì phản ứng đó của bà Như Hiên cũng là điều không mấy lạ lùng & tâm lý, tính tình con người ta là rất khác nhau cho nên bà Thư Linh được Chị Hỷ Khương rất cảm thông với em về chuyện này cũng là rất đời thường vậy…
2-Tác phẩm “T.T.Kh Nàng là ai?” trong con mắt bạn đọc:
Khi tác phẩm T.T.Kh Nàng là ai?của tác giả Thế Nhật xuất bản,hầu hết ý kiến của độc giả cho là chuyện “lá cải” để câu khách.Tại sao lại thế? Chúng ta cùng đọc để xem người “ngoài cuộc” Phan Đức nói gì: “Cảm tưởng đầu tiên của tôi khi đọc cuốn T.T.Kh Nàng là ai? của Thế Nhật do NXB Văn hóa thông tin ấn hành là:-Cuốn sách chưa kết thúc được một nghi án văn học tồn tại hơn nửa thế kỷ,thì lại tạo ra một nghi án mới:-Tác giảHoa tigôn có phải là người tình của T.T.Kh? & Nữ sĩ Vân Nương có phải là T.T.Kh hay không?Trước khi cuốn sách của Thế Nhậtđược xuất bản,tôi được đọc một bài,cũng của chính tác giả Thế Nhật in trong tập Nghệ thuật thứ bảy (9-94)của nhà xuất bản Văn nghệ tp.HCM nhan đề: “Chưa ai biết.Chưa ai viết:-Nữ sĩ T.T.Kh thực sự là ai?.Ở đây,tôi không đề cập tới nội dung bài báo trên của Thế Nhật.chỉ nói một điều :-Người viết quá ẩu.Trong bài viết,tác giả đã cho công bố một bức ảnh(ở trang 4) & chú thích:-“ Bà T.T.Kh & người bạn chụp trong vườn cam tại Mỹ Tho năm 1984-Bà T.T.Kh cầm trái cam” Sự thật người cầm trái cam là nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương.Nhưng có lẽ Thế Nhật cố tình chú thích sai đi để có thể viết câu sau đây:  “Bà T.T.Kh tay cầm trái cam mà tôi nghĩ đó là trái cấm của EVA đã đưa cho chàng ADAM” (trang 9).Chi tiết trên dù nằm ngoài cuốn sáchT.T.Kh Nàng là ai?nhưng người ta vẫn thấy sửng sốt,nghi ngờ sự trung thực & thận trọng của tác giả Thế Nhật trong lúc lấy tài liệu.
Mới đây,tôi có dịp gặp chị Phạm Minh Chi sinh năm 1954,là con gái thứ ba của ông,bà Hà Thượng Nhân (Phạm Xuân Ninh) & Trần Thị Anh Minh (em gái bà Vân Chung).Chị Phạm Minh Chihiện ở 333/14/8 Lê Văn Sỹ-Q.Tân Bình-tp.HCM gọi bà Vân Nương bằng bác,chị Chi trước là giáo viên dạy Pháp văn,nay đã nghỉ.Chị cho biết:-“Sau khi đọc cuốn T.T.Kh Nàng là ai?Tôi thấy sách viết thiếu đứng đắn & sai quá nhiều.Ví dụ,gia đình bác Vân Nương có tám người:-Bác cả rồi đến một bác gái,bác Vân Nương là thứ ba…vậy mà sách nói sai nhà chỉ có năm người,bác Vân Nương là trưởng nữ.Hay như đoạn sách nói sau giải phóng,bác Vân Chung “ở Sài Gòn buôn bán nhỏ,chạy vạy tảo tần nuôi con”Kỳ thực lúc đó,các anh chị của tôi đã thành gia thất cả rồi & có người sống ở nước ngoài.Đoạn nói “Phu quân (tức Bác trai) mê một thư ký ở văn phòng Luật sư,nơi ông làm việc” là hoàn toàn bịa đặt,bôi nhọ cả người đã chết.Đoạn tả ông Thanh Châu vào tìm xin gặp bác Vân Chung ,vừa viết sai sự thật vừa viết theo lối rẻ tiền,câu người đọc.Cuộc gặp diễn ra ở nhà bác Vân Chung,sách lại bảo ở nhà tôi.Người Cô họ tôi dẫn ông Thanh Châu đi gặp bác Vân Chung sách lại nói Mẹ tôi dẫn Bác đi gặp ông Thanh Châu,những chi tiết,sự việc đơn giản ấy về gia đình Bác tôi rất dễ kiểm chứng mà người viết còn viết sai sự thật,huống hồ tin làm sao được chuyện tác giả Thế Nhật bảo bác Vân Chung là T.T.Kh” Vậy Thế Nhật căn cứ vào đâu để đưa ra những thông tin ấy?...Tác giả Thế Nhật khẳng định: “Chúng tôi phải cảm ơn bà Đ.T.L nhiều,bởi vì không có bà thì sẽ không có cuốn sách này” (trang 84).Vậy nguồn thông tin gốc là nơi bà Đ.T.L theo bài trả lời của bà Nghiêm phái-Thư Linh (tức Đ.T.L) đăng trên trang 24 & 25 Nguyệt san Văn Hóa (số tháng 9/94)…Ngày nay,ai cũng biết giữa tác giả Hoa Tigôn với bà Vân Chung từng có một tình cảm cao thượng & trong sáng,như ông Thanh Châu xác nhận: “Đó là chuyện một thời với bạn bè cùng sinh trưởng ở thị xã quê cũ Thanh Hóa”. Nhưng chuyện đó không có nghĩa là T.T.Kh nhất thiết phải là Vân Chung.Tôi cho rằng ngay từ đầu,bà Thư Linh đã ngộ nhận từ sự “không phủ định” của bà Vân Nương để rồi cứ trượt dài trên con đường ngộ nhận & tác giả Thế Nhật đã căn cứ vào một “tài liệu giả tưởng” để viết nên cuốn sách.Cần phải nói thêm rằng,cũng trên tờ Nguyệt san văn hóa số 9/94,lời tòa soạn cho biết,từ bên Pháp “Bà Vân Nương đang phản ứng gay gắt về những điều đã biết qua tập sách kia”(Tức phản ứng bài viết của Thế Nhật tóm tắt nội dung cuốn sách T.T.Kh Nàng là ai? In trên Nghệ thuật thứ bảy!).Thế là ngày xưa,bà Vân Chung đã không nhận mình là T.T.Kh,còn bây giờ Bà đang “phản ứng gay gắt” Ta hãy chờ xem,nếu bà Thư Linh kể đúng sự thật & Thế Nhật viết đúng sự thật thì hà cớ gì bà Vân Chung lại “phản ứng gay gắt” nhất là đối với bà Thư Linh, một người “quen biết lâu đời”?”.
Đọc xong những gì ông Phan Đức viết ta thấy nổi bật lên những ý sau:- Cả hai người, Phan Đức & chị Phạm Minh Chi đều không tin bà Vân Chung là T.T.Kh cũng như cùng lên án nhiều điều bịa đặt trong tác phẩm T.T.Kh Nàng là ai?là do lỗi của chính tác giả Thế Nhật,có lẽ cũng chẳng cần phải bình luận gì nhiều,bởi trong bài viết nêu trên ta đã thấy họ phản bác gần như đầy đủ rồi… Thế Nhật đã phạm phải một sai lầm khó cảm thông & tha thứ bởi tác giả đã không tuân thủ một điều sơ đẳng của thể loại “điều tra” là không bao giờ được khẳng định những điều mà mình mới chỉ được “nghe kể” mà lại không qua kiểm chứng,nhất là những sự kiện liên qua đến nhân thân của người trong cuộc…Trong thể loại này,người viết chỉ có thể dùng chính những dữ liệu,sự kiện mà hầu như ai cũng biết là các bài thơ của T.T.Kh,các tác phẩm-bài viết của ông Thanh Châu & của nhiều người khác có liên quan đến câu chuyện,hoặc tốt nhất là tiếp xúc được với những người trong cuộc để từ đó so sánh,đối chiếu,nêu ra những câu hỏi,những giả thiết,những ví dụ nhằm chứng minh hay phản bác để tìm ra “đáp số”có tính thuyết phục nhất,lôgich nhất chứ hoàn toàn không được áp đặt sự việc vốn có theo ý mình,ta chỉ có thể khẳng định khi đã chứng minh được những câu hỏi cần có từ chính những nguồn tài liệu nêu trên mà thôi. Đặc biệt cũng trong thể loại “điều tra”này là tác giả tuyệt đối không được hư cấu,bịa đặt theo chiều hướng thiếu tôn trọng những người trong cuộc & có liên quan,thông thường người ta chỉ có thể bỏ qua & thông cảm cho những sơ xuất nhỏ do nhầm lẫn vì sự kiện xảy ra đã lâu ngày hoặc nghe kể lại mà cũng không làm ảnh hưởng tới danh dự người khác hay bản chất của câu chuyện chứ không thể bỏ qua sự bịa đặt cố tình như là một giải pháp nhằm đánh vào sự tò mò vốn có của độc giả để câu khách,cho nên trong trường hợp này đối với tác giả Thế Nhật thì “một sự bất tín,vạn sự chẳng tin” là hoàn toàn chính xác & việc mọi người không tin câu chuyện ông viết thì tác giả chỉ có thể tự trách chính mình mà thôi !....
1-Hai lá thư “phủ nhận” của bà Trần Thị Vân Chung:
Khoảng giữa tháng 9 năm 1994 tác giả Thế Nhật cho xuất bản cuốn sách T.T.Kh Nàng là ai? Ngay sau đó,trên Nguyệt san văn hóa thuộc Bộ văn hóa & báo Thanh niên đồng loại đăng những bài phân tích về cuốn sách.Trong đó báo Thanh niên chủ yếu đăng các bài phê phán,nhưng Nguyệt san văn hóa thì chủ yếu lại đăng các bài ủng hộ?Gây nên một làn sóng nhiều chiều về tác phẩm này,dư luận xôn xao đến mức cháu gọi bà Vân Chung bằng bác phải điện thoại sang Pháp thông tin cho bà biết...Bây giờ,ta hãy xem chính người trong cuộc phát biểu thông qua lá thư ngỏ viết ngày mùng 1 tháng 10 năm 1994 của bà Vân Chung viết từ Pháp gửi cho bà Thư Linh (tên thật là Đặng Thị Lạc-có nguồn lại cho rằng bà họ Đỗ?-sn 1924- tại Bắc Ninh) đồng thời cũng gửi đăng ở một số tờ báo kể trên: “…Tôi vừa nhận được hai cuốn Những dòng thơ hoa & T.T.Kh nàng là ai?.Xin cảm ơn Chị & xin trả lời lá thư chị trần tình.Cũng như gần đây tôi đã viết cho em Hỷ Khương phủ nhận chuyện bảo tôi là T.T.Kh,dặn em đưa thư cho chị & nhà văn Thế Phong cùng rõ,ngay việc viết lai lịch tôi cũng không đúng:-Gia đình tôi gồm 8 anh,em một anh một chị đến tôi là thứ ba.Chúng tôi làm đám cưới vào Noel 1939(chứ không phải 1934!)nhà tôi hơn tôi 3 tuổi(chứ không phải 7 tuổi).Có lẽ để phù hợp với câu “Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi” chăng?Chỉ có vài chi tiết nhỏ đã thấy không đúng với con người thật của tôi,huống gì còn bao nhiêu chuyện giả tưởng do bộ óc tinh vi của chị phóng đại ra!Ví dụ bức thư của chị mà nhà văn Thế Phong đã trích dẫn ít dòng,đại khái “…coi tôi viết đã đủ chưa?...” Sao chị cả gan dám mạo nhận là bạn thân thiết của tôi sau năm 1945?(tuy viết T.T.Kh nhưng không ai ngu gì mà không biết chị ám chỉ tôi)còn bịa đặt “…chị đã hứa với T.T.Kh chỉ được viết lại tâm sự của bà khi bà không còn nữa…”…Cuộc đối thoại giữa tôi & chị trong một chiều mưa.Khi nhà tôi đang đi cải tạo(chị không nói rõ năm?)cái màn mà chính chị đã tả tôi nghe qua bức thư ngày 20-9-1994.Tuy chị đổ lỗi cho Thế Phong,nhưng rồi chị lại tự thú với tôi cũng qua bức thư này!-Xin thưa với chị,trong bài Hoa tim ấy chị chỉ mạo lại,chụp hình lại những vần thơ tâm tình của T.T.Kh mà ai cũng biết,chẳng có gì khác lạ để Vân Nương phải bận tâm!Mặc họ với nhau chứ!.Nữ sĩ Thư Linh “Viết gửi T.T.Kh người chị thơ phương xa…” người bạn thân thiết sau 1945 kia mà!Tôi mới gặp chị năm 1978 thì can dự gì đến tôi?Ôi! câu chuyện ở nhà em Minh(1976) do chị tả mới thật rùng rợn ghê gớm!Thật đáng sợ cho miệng lưỡi người đời!...Chị coi em Minh ngây thơ như đứa trẻ 12-13 tuổi vừa nghe vài câu giới thiệu sơ sài của ông khách lạ đã vội chạy te te đi tìm chị! & buồn cười nhất là ông còn dọa ngồi (ăn)vạ nữa!Tiếp đến cảnh hai người ngã vào nhau (chị xem viết tới những chữ thô tục tôi đã phải tránh né để khỏi thẹn với ngòi bút!)…theo tôi một người đàn bà Việt Nam đã có chồng thì là một cử chỉ vô luân,tồi bại!Hẳn mọi người ai cũng biết em Minh đông con,lúc nào cũng có vài con gái,mấy con trai lớn trong nhà thì bổn phận làm bác,làm mẹ phải dè dặt làm gương cho các con cháu chứ đâu có cảnh quá văn minh như chị đã tạo dựng nên!Chị cho là thường nhưng chúng tôi là con nhà có giáo dục,cổ truyền,không phải tư cách của chị,em chúng tôi! & tôi cũng phủ nhận sự việc đã bị chị vu khống cuộc gặp gỡ dơ bẩn ấy!Rõ ràng chị muốn bôi nhọ tôi chưa đủ,chị còn gắp lửa bỏ bàn tay em Minh nữa!...Khi chị bị hợp tác với nhà văn Thế Nhật đưa ra cuốn sách quái gở,tôi đã bị các chị, em trong Quỳnh Dao trách cứ
Các bạn trách tôi cũng đúng vì tình nghĩa mấy chục năm ít ra tôi gạn lọc được một,hai bạn tâm tình để thổ lộ tâm can.Tại sao đối với chị mới quen năm 1978 mà tôi vội trao trọn niềm tâm sự? Tôi cũng là con người đâu phải thần thánh mà không có tính khoe khoang? Nhận mình là T.T.Kh cũng hãnh diện lắm chứ.Chị đã lúng túng xin lỗi tôi,dỗ dành tôi như dỗ con nít sau khi:-Bị chị quất cho một đòn chí tử! như trong lá thư đề ngày 20-9-1994: “…Dù có vì chuyện này mà chị trách giận em thì em xin lỗi chị…” Ơ hay! Nếu chị đã kể đúng sự thật với nhà văn Thế Phong như những lời tôi đã kể với chị thì tại sao tôi có thể giận trách chị được?...Tôi suy ngẫm mãi…mới hiểu thâm ý chị là người háo danh vụ lợi …tạo dựng ra câu chuyện giả tưởng để có cuốn T.T.Kh nàng là ai?đồng thời in luôn cuốn Những dòng thơ hoa để ai đã đọc cuốn này sẽ phải tìm đọc cuốn kia!sách sẽ bán chạy như tôm tươi,tha hồ thu tiền về... Tôi không trách gì nhà văn Thế Nhật vì chính chị mới là đạo diễn,tác giả mà Thế nhật chỉ là người thu hình…Chắc chị đã đọc thư tôi viết cho Hỷ Khương?Đúng thế đấy chị ạ! Nếu thật tôi là T.T.Kh thì có gì là xấu?.Người con gái nào cũng có quyền yêu & cấm sao được người ta yêu mình?.Chỉ những người đàn bà có chồng rồi cònngoại tình,còn yêu kẻ khác mới đáng khinh khi phỉ nhổ! Huống gì nay được khoác cho danh hiệu một nữ sĩ đã làm chấn động dư luận một thời…Nhưng tiếc thay,trước đạo lý & lương tâm đã không cho phép tôi nhận ẩu! Sợ một ngày nào đó,do một sự tình cờ ai đó tìm ra con người thật T.T.Kh thì danh chưa thấy đâu,chỉ nhận lấy sự khinh bỉ của đời.Nếu ở thời chế độ cũ chị đã bị ra tòa về tội gì chắc chị không phải là người ngu mà không biết?Nhưng hiện tình tôi chỉ còn cách nhờ báo chí phổ biến giùm hai bức thư trước dư luận để sáng tỏ thực hư vì giờ phút này trong bạn bè thân thuộc cũng như gia đình chúng tôi ở hải ngoại hay quốc nội chắc chắn đã đọc cuốn sách quái gở T.T.Kh nàng là ai? Do chị đẻ ra theo lời xác nhận của nhà văn Thế Nhật: “Nếu không có chị thì đã không có cuốn sách này” Chuyện bắt buộc tôi phải lên tiếng để mọi người cùng biết đâu là sự thật mà tôi là nạn nhân! Nhất là còn vì danh dự của mấy gia đình chúng tôi nữa…”.
Và đây,lá thư ngỏ thứ hai bà Vân Chung viết từ Pháp ngày mùng 4-11-1994 gửi bà Thư Linh & cũng được đăng công khai trên báo Thanh Niên (số 142 (538) ra ngày mùng 4 tháng 12 năm 1994: “Cuốn sách T.T.Kh nàng là ai?đã tới tay tôi ngày 28-9-1994,do nữ sĩ Thư Linh gửi…Đọc xong cuốn sách,tôi nhận thấy đây là chuyện mơ hồ,hư cấu do sự tưởng tượng của Thư Linh,người cung cấp “tài liệu giả tưởng” cho tác giả Thế Nhật…chỉ là một thứ Tiểu thuyết,không thể coi như là “tài liệu văn học” như quí vị mong muốn.Bởi vì đã gọi là “tài liệu văn học” thì sự việc & nhân vật phải cho thật chính xác.Cuốn sách đã nêu đích danh tôi:-Vân Nương Trần Thị Vân Chung,nên tôi gửi thư này tới quí vị,lên tiếng đính chính những điều sai trái,lầm lỗi trong cuốn T.T.Kh nàng là ai?.Chỉ tiếc hành động của quí vị đã quá hấp tấp (nếu không muốn nói là quá sơ xuất).Vì theo thông lệ:-Trước khi xuất bản một cuốn sách thuộc về “tài liệu văn học”gọi đích danh đương sự,nêu hình ảnh,chà đạp lên đời sống cá nhân v.v…quí vị cũng nên thận trọng trong hành động,phải lắng nghe ý kiến của cả hai bên.Quí vị có thể liên lạc thẳng với tôi hỏi xem thực hư ra sao,để tránh những lầm lỗi tai hại…Điều trước nhất tôi xin thưa: “Tôi không phải là T.T.Kh!” Dưới đây tôi xin nêu rõ từng điểm sai trái,bịa đặt trong cuốn T.T.Kh nàng là ai?:
1/ Trong sách viết chúng tôi làm đám cưới năm 1934…Tôi sinh năm 1919, nếu lấy chồng năm 1934 tôi mới 15 tuổi hay sao? trong sách viết tôi gặp ông Thanh Châu năm 17 tuổi,sao mâu thuẫn vậy?
Sao quá vụng tính toán cho thời gian không ăn khớp nhau?
2/ Chúng tôi hơn nhau ba tuổi.Nhà tôi tuổi Bính Thìn(1916) tôi Kỷ Mùi(1919) sao lại viết hơn nhau 9 tuổi?Có lẽ (tác giả) muốn chứng minh cho đúng thời gian xuất hiện thơ T.T.Kh vào năm 1937 & cho hợp với câu thơ “Tóc úa giết dần đời thiếu phụ” & “Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi” chăng? (T.T.Kh…trang 50)
3/Nói về gia đình tôi cũng không đúng!Bố tôi không làm quan(cũng như khi làm đám cưới,nhà tôi chưa là quan huyện!).Chúng tôi có tám anh,em (ba trai,năm gái) chứ không phải năm người.Tôi thứ ba,không phải trưởng nữ,thế nên tôi đã có bút hiệu Tam Nương.
4/Tôi không viết bút ký hay có thơ đăng báo Ngôn Luận trước 1975,cũng như bút hiệu Lê Phương Đông,chứ không phải Lê Đông Phương.
5/Nhà tôi bị chính phủ Ngô Đình Diệm bắt giam tại khám Chí Hòa ba năm(1960-1963)chứ không phải đi đày Côn Đảo.
6/Năm 1976,tôi vẫn ở Cư xá Nông Tín,đường Trương Minh Ký cũ,từ 1972-1982.Mãi tới năm 1980,nhà tôi đi cải tạo về,chúng tôi có giấy xuất cảnh mới bán nhà này,dọn về ở nhờ nhà chị Mộng Tuyết,đường Nguyễn Minh Chiếu cũ vào năm 1982.
7/Câu chuyện (chị Thư Linh & tác giả Thế Nhật) tạo dựng vào năm 1976,ông Thanh Châu gặp tôi ở nhà em Minh (vợ nhà thơ Hà Thượng Nhân) cũng hoàn toàn thêu dệt,vu khống.Sự sỗ sàng của một người đàn bà có chồng rồi mà còn cử chỉ vô luân tồi bại đã tả trong cuốn sách T.T.Kh nàng là ai?(từ trang 54 tới trang 65) nếu chúng tôi có mặt tại Quê nhà đã đưa chị ra tòa, kiện về tội mạ lỵ & vu khống!
8/ Vì sự thật năm 1976,ông Thanh Châu vào Nam có nhờ cô em họ tôi dẫn tới thăm tôi tại cư xá Nông Tín, đường Trương Minh Ký cũ…Cuộc thăm gặp này chỉ hoàn toàn có tính cách như hai người bạn cũ gặp lại với sự hiện diện của cô em họ,rất đàng hoàng,đứng đắn.Vì trải qua bốn mươi năm,cả hai bên đều đã an phận từ lâu,cả hai bên đều có bổn phận đối với gia đình mình.Hơn nữa,ông cũng là bạn thân của ông anh ruột tôi từ hồi còn ở Thanh Hóa.Tôi còn gặp ông một lần nữa tại nhà anh,chị tôi khi ông đến chào để về Bắc.Như vậy tôi nghĩ đâu có gì đáng nói khi đã coi nhau như bạn?
9/Bôi nhọ nhà tôi,đúng là người chết rồi cũng không được buông tha:-Bà cũng nhớ đến ngày Phu quân mê một nữ thư ký ở văn phòng Luật sư,nơi ông làm việc…(T.T.Kh…trang 60-61).Tôi xin thưa:-Trước sau văn phòng luật sư của nhà tôi chỉ có hai cô nữ thư ký:Một cô là Phật tử,trong gia đình Phật tử chùa Quán Sứ,Hà Nội.Khi vào Nam,cô đã là huynh trưởng của bốn đứa con chúng tôi,trong gia đình Phật tử chùa Phước Hòa,Sài Gòn vào thời gian đó.Vài năm sau,cô đi lấy chồng,nên đã thay thế con gái của một người bạn chúng tôi & cũng là bạn chơi phong lan của(nhà văn)Nhất Linh-Nguyễn Tường Tam,một gia đình nho phong ngoài Bắc vào Nam năm 1954…& tuy làm thư ký văn phòng,chúng tôi vẫn coi hai cô như con,cháu trong nhà…Tóm lại,cả chín điểm kể trên (sách viết) đều không đúng trường hợp & con người thật của tôi.Chứng tỏ chị (Thư Linh) đã cung cấp “Tài liệu giả tưởng” cho tác giả Thế Nhật để gán ghép tôi là T.T.Kh,một nữ sĩ thời danh đã có những vần thơ trác tuyệt,đã có sự cảm phục tất cả của người Việt Nam ưa chuộng văn thơ suốt hơn nửa thế kỷ nay (trong đó có cả tôi nữa) với mục đích gì? Vì danh lợi chăng? Nhưng thật đáng tiếc, đạo lý & lương tâm đã không cho phép tôi nhận ẩu, vì mạo danh một nữ sĩ nổi tiếng, cũng như đạo văn, là một tội xấu xa nhất trong văn giới! Cho nên một lần nữa tôi phủ nhận tôi là T.T.Kh!. Mong trả lời từng điểm cho minh bạch.”
2-Vì sao bà Vân Chung không thừa nhận mình là T.T.Kh?:
Đọc xong hai bức thư trên của bà Vân Chung, cảm giác đầu tiên của chúng ta là:
Niềm tin về những gì đã được phân tích, diễn giải & chứng minh ở các phần trước bỗng chốc bị “lung lay” dữ dội. Ta như bị dội một gáo nước lạnh làm “ướt hết” những trang giấy vừa viết & quả thật khó mà tìm ra được những từ ngữ khác để diễn tả cái cảm giác này…Thế nhưng, khi đã lấy lại được bình tĩnh chúng ta đọc thật kỹ những phân tích, lý giải, chứng minh ở các phần trước & lá thư của bà Thư Linh, bài viết của tác giả Phan Đức cũng như hai bức thư gửi về từ Pháp của bà Vân Chung.v.v…thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng thực ra câu chuyện “tiết lộ về thân phận” của bà Vân Chung dẫn đến sự xuất hiện của tác phẩm “hư cấu” T.T.Kh nàng là ai? của tác giả Thế Nhật cũng như tại sao lại có việc lên tiếng phủ nhận mình là T.T.Kh của bà Vân Chung kèm theo những lời “cáo buộc”gay gắt  dành cho các tác giả cũng không hề đơn giản như chúng ta thường nghĩ,mà trong đó còn chứa đựng khá nhiều câu hỏi “bí ẩn” rất cần được trả lời. Để tiện so sánh cũng như không làm rối mắt đọc giả,chúng ta tạm “chia” các nhân vật theo từng phần để cùng phân tích & lý giải cho cặn kẽ.
2a-Sự liên quan của bà Thư Linh:
 -Thực ra,nếu suy cho đến cùng thì bà Thư Linh cũng chỉ là một “nạn nhân” của sự “giận cá chém thớt” từ những dữ kiện sau đây:-Thứ nhất: việc bà biết được “sự thật” về bà Vân Chung-T.T.Kh không phải do bà Vân Chung chủ động tâm sự hay kể lại,mà là do câu chuyên dẫn dắt một cách hết sức tự nhiên không hề có sự chuẩn bị từ trước “em cùng chị luận bàn về sắc thái của các Nữ sĩ,khi nhắc tới ba bài thơ về Hai sắc hoa tigôn,em nhớ trước đây chị bảo em chị ở Thanh Hóa…” & cũng từ những “thông tin” đã biết (qua lời chị bạn & những diễn biến của câu chuyện mà chúng ta đã từng phân tích) thì bà Thư Linh mới có “cơ sở” để dám hỏi lại bà Vân Chung để từ đó Bà “tìm thấy” sự thật như bức thư đã trình bày rõ,như vậy nếu cho rằng bà Thư Linh cố tình bịa ra câu chuyện này là không có cơ sở & quá vội vàng vì chưa hiểu hết lý do thực sự trong lúc nóng giận của bà Vân Chung thật ra chính là ở việc tác giả Thế Nhật đã hư cấu một cách quá đáng & khó có thể chấp nhận được,ngay cả với những người ngoài cuộc.Còn việc bà Như Hiên “giận lẫy” vì cho rằng vì chị ở trong Quỳnh Dao sao chị không tâm sự với chị ấy mà em là người ngoài Quỳnh Dao lại được biết! là có lẽ do bà Như Hiên đã không biết được “đầu đuôi” của sự việc mà thôi.!
-Thứ hai là: bà Thư Linh cũng không hề chủ động “kể” lại câu chuyện với riêng tác giả Thế Nhật mà rõ ràng là xuất phát từ việc Em nghe anh Thanh Vân nhắc tới T.T.Kh rằng anh ấy đã tới thăm tại nhà…với tâm lý rất đời thường kiểu như: sao các vị lại cứ “thằng chết cãi thằng khiêng” đã làm bà “buột miệng” mà vô tình nói ra trước nhiều người,dẫn đến sự “giận lẫy” của bà Như Hiên mà chúng ta đã biết,cho nên nếu nói rằng Chứng tỏ chị đã cung cấp “Tài liệu giả tưởng” cho tác giả Thế Nhật để gán ghép tôi là T.T.Kh thì quả là cũng hơi phiến diện…bởi vì những “nhân chứng” vẫn còn đó,nếu như không phải là sự thật thì tại sao bà Vân Chung không dùng ngay vợ chồng người bạn thân vốn cùng trong nhóm thơ Quỳnh Dao là ông,bà Thanh Vân- Như Hiên để cải chính?Xem lại cả hai bức thư ta không hề thấy một dòng nào bà Vân Chung đề cập tới việc này như là một “bằng chứng” để chứng minh rằng câu chuyện vô tình tiết lộ…của bà Thư Linh là không đúng sự thật,tại sao thế? đơn giản là vì nó đúng là sự thật hiển nhiên rồi, bà Thư Linh không hề bịa!...
-Thứ ba: Việc ông Thanh Châu tìm gặp lại bà Vân Chung thì,như bà Vân Chung viết Tôi mới gặp chị năm 1978, trong khi thực tế sự việc đó đã xảy ra từ trước khi hai Bà quen nhau những hai năm câu chuyện ở nhà em Minh(1976). Như vậy thì bà Thư Linh cũng chỉ là người được nghe ai đó kể lại! Nhưng, người đó là ai nêú như không phải từ những người có mặt trong buổi tiếp kiến đó? Tới đây,chúng ta thấy rằng có ba khả năng xảy ra:-Một là,câu chuyện đó do chính bà Vân Chung kể lại với bà Thư Linh vì thế khi tác giả Thế Nhật bịa ra những tình tiết không có thật (về diễn biến của cuộc gặp) thì bà Vân Chung mới trách Ơ hay! Nếu chị đã kể đúng sự thật với nhà văn Thế Phong như những lời tôi đã kể với chị thì tại sao tôi có thể giận trách chị được?bởi lẽ,nếu bà thực sự không kể bất cứ điều gì liên quan đến câu chuyện thì làm sao bà lại đi trách người ta?. Khả năng thứ hai là một trong những người có mặt chứng kiến cuộc tái ngộ giữa hai ông,bà đã kể lại với người thứ ba rồi mới đến tai bà Thư Linh?.Khả năng thứ ba là một người nào đó có mặt hôm đó trực tiếp kể lại với bà Thư Linh? Nhưng khi xét tất cả những yếu tố liên quan,chúng ta thấy rằng khả năng đầu tiên là đáng tin & hợp lý hơn cả, bởi vì như bà Thư Linh viết trong thư Chị còn cho em biết:-Cách đây ít lâu Anh bạn cũ ấy vào Nam tìm chị…thì nếu như không phải là sự thật làm sao mà bà lại dám viết & gửi cho chính bà Vân Chung?Để phân tích & lý giải cho đến cùng nên ta“lần” theo hai khả năng sau cho hết lẽ thì thấy rằng phải có một lý do hay hoàn cảnh nào đó “đưa đẩy” thì “ai đó” mới kể lại câu chuyện này với bà Thư Linh vì bản thân bà làm sao biết được có câu chuyện đã xảy ra từ hai năm về trước để mà đi hỏi một cách đường đột?hơn nữa,dù có khéo tưởng tượng đến mấy thì chúng ta cũng khó mà áp đặt được một “kịch bản” nào đó cho có lý hơn so với khả năng đầu vì thực ra chúng ta cũng chẳng lấy đâu ra dữ kiện để có thể chứng minh được điều đó!.Tuy nhiên,dù cho là khả năng nào đi chăng nữa thì việc bà Thư Linh nhầm lẫn về địa điểm của cuộc gặp giữa ông Thanh Châu & bà Vân Chung cũng không đến nỗi làm cho những người trong cuộc phải quá khắt khe đến như vậy,nếu như bình tĩnh suy xét thì thấy rằng sự nhầm lẫn này có lẽ đã không trở thành “to chuyện” nếu như tác giả Thế Nhật không hư cấu một cách quá đáng & có phần “sướt mướt” nhằm để câu khách! Đó cũng chính là lý do mà  bà Vân Chung cũng như những người khác lấy làm “bằng chứng” để phản bác lại…Vì cũng có thể do câu chuyện nghe kể đã lâu ngày hay có thể bà Thư Linh hiểu theo tâm lý thường tình ở đời,thông thường (kể cả với lối sống “hiện đại” như ngày hôm nay) khi gặp lại người yêu cũ thì mấy ai dám tiếp ở ngay tại nhà mình mặc dù không hề có điều gì khuất tất?.Có lẽ nếu cho rằng đây là “lỗi nhận định” của bà Thư Linh trong câu chuyện vô tình tiết lộ về danh tính của T.T.Kh cũng không phải là không có lý!...
-Thứ tư là: Bản thân bài thơ Hoa tim & cả tập Những dòng thơ hoa mà bà Thư Linh sáng tác (đã xuất bản-NXB Văn hóa thông tin-Hà Nội 1994.Bà Thư Linh lấy cảm hứng từ câu chuyện tình có thật của bà Vân Chung,mà nay bà đã biết cũng chính là T.T.Kh) cũng như gửi tặng bà Vân Chung cũng không hề có dòng nào hé lộ T.T.Kh là bà Vân Chung như chính bà xác nhận: trong bài Hoa tim ấy chị chỉ mạo lại,chụp hình lại những vần thơ tâm tình của T.T.Kh mà ai cũng biết,chẳng có gì khác lạ để Vân Nương phải bận tâm!Mặc họ với nhau chứ!.Xâu chuỗi các sự kiện lại với nhau thì chúng ta thấy rằng,căn cứ vào sự vô tình nói ra T.T.Kh là ai của bà Thư Linh khi nghe ông Thanh Vân kể về một người quen nào đó là T.T.Kh với sự có mặt của nhiều người,trong đó có tác giả Thế Nhật cho nên sau đó dựa vào bài thơ Hoa tim mà thực ra cũng chỉ là một cái cớ để “dẫn chuyện” của tác giả để rồi phóng tác ra câu chuyện nặng về hư cấu là lỗi của Thế nhật chứ đâu phải của bà Thư Linh? Tôi không trách gì nhà văn Thế Nhật vì chính chị mới là đạo diễn,tác giả mà Thế nhật chỉ là người thu hình…Lời trách cứ này của bà Vân Chung cũng là điều dễ hiểu vì bản thân bà đâu có biết Thế Nhật là ai?Trong khi chính bà Thư Linh mới là bạn mình dù có vì tức giận mà gọi là “mới quen” đi chăng nữa thì thời gian từ năm 1978 đến thời điểm đó(1994) đã 16 năm,thời gian cũng đâu phải ngắn ngủi gì với không ít tâm tình,kỷ niệm do vậy bà không trách Thư Linh thì biết trách ai?Còn cho rằng đồng thời in luôn cuốn Những dòng thơ hoa để ai đã đọc cuốn này sẽ phải tìm đọc cuốn kia!sách sẽ bán chạy như tôm tươi,tha hồ thu tiền về...thì quả là thiếu thuyết phục,bởi vì thực ra nó không mấy liên quan,trong toàn bộ tập thơ kể trên của bà Thư Linh không hề có dòng nào cho thấy bà Vân Chung chính là T.T.Kh,hơn nữa thơ của bà Thư Linh làm sao sánh được với những bài thơ của T.T.Kh trên mọi phương diện,đơn giản là bản thân bà làm sao có cảm xúc cũng như hoàn cảnh đặc biệt để làm ra những bài thơ hay & đớn đau đến thế?Vậy thì người ta sẽ tìm đọc thơ của ai?Mặt khác do tác giả Thế Nhật cố tình đưa những thông tin mập mờ về tập thơ của bà Thư Linh như một lý do cho sự “ra đời” của cuốn T.T.Kh nàng là ai?suy cho cùng chỉ là một thủ thuật của tác giả cho thêm phần “khả tín” cũng đâu phải là lỗi của bà Thư Linh?Do đó bảo rằng Chứng tỏ chị đã cung cấp “Tài liệu giả tưởng” cho tác giả Thế Nhật để gán ghép tôi là T.T.Kh thì quả là cũng oan cho bà ấy!?...
2b-Tác giả Thế Nhật mới chính là “rắc rối” của vấn đề:
Xuyên suốt những dữ kiện từ bức thư “giải trình” của bà Thư Linh, bài viết của ông Phan Đức & hai bức thư ngỏ của bà Vân Chung…Chúng ta thấy nổi bật lên rằng:-Câu chuyện về sự tiết lộ danh phận của bà Vân Chung-T.T.Kh cũng giống như một nhóm người cùng đi du lịch & bà Thư Linh chỉ là người đã vô tình cầm chiếc đèn pin chiếu vào một cánh cửa bí ẩn bên trong hang động chưa có dấu chân người,còn tác giả Thế Nhật thay vì phải đi tìm chiếc chìa khóa để có thể mở toang cánh cửa rồi cùng với mọi người xem bên trong có những gì,nhưng vì quá vội vàng & sốt ruột nên lại chỉ “đục” một lỗ nhỏ để “ghé mắt” nhìn vào bên trong cánh cửa vẫn còn tối mờ mịt không thể thấy rõ “đồ vật”bên trong cho nên khi mọi người hỏi thì phải nói bừa cho ra vẻ là ta đã nhìn thấy được mọi thứ…Như vậy,việc nhiều người không tin vào những gì tác giả đã miêu tả cũng không có gì là lạ!.
Trở lại với thực tế câu chuyện,chúng ta có vô số ví dụ cho “hình ảnh” nêu trên: bà Thư Linh chỉ nói Chị & người ấy gặp nhau,em chỉ thuật là đã khóc,vậy mà họ dám tầm bậy là đã…(…Nàng xúc động run run mi mắt nằng nặng,thế là dòng nước mắt tuôn rơi. Thân hình nàng ngả về phía trước,lọt vào vòng tay khách trung niên… T.T.Kh nàng là ai?) thực ra,dù chỉ là với hai người bạn thân cùng giới lâu ngày mới gặp lại thì việc rơm rớm nước mắt,mừng mừng tủi tủi cũng là việc bình thường huống hồ đây lại còn là cuộc gặp sau hơn 40 năm của hai người từng yêu nhau say đắm thì cảm xúc đó cũng là điều đương nhiên & dễ chấp nhận,thế nhưng miêu tả như Thế Nhật không những lại quá là sướt mướt mà còn thiếu thực tế ở chỗ ngay như hiện nay (thế kỷ 21) bạn có dám “làm” như vậy trước mặt gia đình, con cháu…không? Cho nên bà Vân Chung mới phản ứng Sự sỗ sàng của mộtngười đàn bà có chồng rồi mà còn cử chỉ vô luân tồi bại…cũng còn là nhẹ!...Chúng ta cũng thấy rằng,chỉ mỗi cái việc tả cảnh hai người gặp lại nhau mà tác giả đã phải dùng đến những 12 trang giấy (từ trang 54 tới trang 65) thì đủ nói lên mức độ “mùi mẫn” kinh khủng như thế nào?…Tất nhiên là sau hôm mọi người tập trung ở nhà bà Thư Linh rồi nghe bà vô tình tiết lộ danh phận của bà Vân Chung-T.T.Kh thì chắc chắn tác giả Thế Phong & Trần nhật Thu hoặc chỉ có một mình Thế Phong phải quay lại gặp bà Thư Linh để hỏi thêm vài chi tiết liên quan,nhưng có lẽ thời gian đầu Thế Nhật chưa có ý định hoặc là cố tình dấu bà Thư Linh về việc sẽ viết cuốn sách về bà Vân Chung-T.T.Kh nên chỉ cố tỏ ra như những người khách tò mò muốn biết câu chuyện ngày xưa của những người trong cuộc,vì thế bà Thư Linh mới vô tư kể -Nếu không đẹp sao anh Chấn chỉ thấy hình đã mê quyết tìm cho ra xin cưới?hay Chị & người ấy gặp nhau,em chỉ thuật là đã khóc…về những chi tiết liên quan đến thân thế gia đình của bà Vân Chung thì cũng chưa chắc bà Thư Linh đã biết rõ vì không ai lại đi đường đột hỏi như điều tra lý lịch người ta bao giờ,nhất lại là với lớp “người xưa” như hai bà,cho nên có thể bà Thư Linh cũng chỉ kể lại với tác giả Thế Nhật một cách khái quát như quê bà Vân Chung ở Thanh Hóa,chồng làm luật sư…chứ không thể bịa ra mọi chuyện mà mình không biết rõ một cách hàm hồ được (chắc chắn bà cũng phải ý thức được rằng ngoài bà Vân Chung ra thì những người bạn trong Quỳnh Dao đều là những người cũng quen biết & khá thân với bà),vì thế khi biết rõ Thế Nhật viết câu chuyện trên thành sách thì bà Thư Linh cũng chỉ có thể đề nghị tác giả phải đính chính những lời mà chính bà kể một đằng nhưng tác giả đã viết thành một nẻo như: Em đâu dè Thế Phong & Trần Nhật Thu viết thành tác phẩm T.T.Kh Nàng là ai?Căn cứ (cả) vào bài thơ Hoa tim của em.Có nhiều chỗ họ hư cấu như nhắc thời gian đó Chị ở nhà bà Mộng Tuyết,còn chỗ Chị & người ấy gặp nhau,em chỉ thuật là đã khóc,vậy mà họ dám tầm bậy là đã… trong bài thơ em đâu có nói ôm hôn,nên em phôn đòi cải chính thì sách đã in mất rồi…Như vậy thì ngoài những dữ kiện đã dẫn ở trên ra thì toàn bộ câu chuyện còn lại của Thế Phong là hoàn toàn được hư cấu theo ý tác giả chứ không phải do bà Thư Linh cung cấp!?Điều đó cũng là dễ hiểu vì thông thường ngoài những gì mình đã kể lại mà tác giả viết sai sự thật thì mới cần phải “đính chính” cho rõ chứ những hư cấu khác của tác giả đâu phải lỗi của mình mà lại phải đi “giải trình” vì có thể những điều đó chính bản thân mình cũng chưa chắc đã biết rõ,đó cũng là tâm lý thường tình như của tất cả chúng ta…Phải chăng khi đã phần nào lấy lại được bình tĩnh bà Vân Chung cũng hiểu ra được điều này nên mới viết trong thư: Khi chị bị hợp tác với nhà văn Thế Nhật đưa ra cuốn sách quái gở…?.Vì thế,như trên đã phân tích do bà Vân Chung không biết tác giả Thế Nhật là ai nhưng những gì cuốn sách viết ra là không thể chấp nhận được cho nên việc bà dùng kiểu “chửi chó (để) mắng mèo” cũng là điều hợp lý,cho nên bà mới dặn em đưa thư cho chị & nhà văn Thế Phong cùng rõ là vì vậy.Đi sâu vào những gì tác giả Thế Nhật đã viết,ta thấy rằng ngoài việc hư cấu cho câu chuyện thêm lâm ly,ướt át thì tác giả lại còn cố “gò ép” các sự kiện “ngoài đời” mà mình tưởng tượng ra để cho phù hợp với những khổ thơ của T.T.Kh trong khi lẽ ra Thế Nhật cần phải kiểm chứng,phân tích,diễn giải thật khách quan & tôn trọng sự thật,tôn trọng những người đã lớn tuổi thuộc thế hệ đi trước một cách khoa học & thận trọng vốn cần phải có của một người cầm bút chân chính…Các tác giả đã không làm được điều mà sau này Trần Đình Thu đã ít,nhiều làm được.Vì thế mới dẫn đến nhiều “sự kiện” vừa không đúng với sự thật vừa như moi móc đời tư của những người khác là điều khó tha thứ & chấp nhận đối với một nhà văn đúng nghĩa,ở đây các tác giả đã cố tình nhầm lẫn giữa thể loại điều tra với các câu chuyện của loại tiểu thuyết lá cải diễm tình chỉ cốt làm cho nổi bật sự giật gân để đánh vào lòng tò mò của lớp độc giả bình dân vốn hay khoái những câu chuyện như thế,nhưng ở đời cũng đâu có đơn giản như vậy?Có lẽ các tác giả đã quá chủ quan hoặc coi thường độc giả yêu thơ vốn hiểu biết & nhậy bén cũng như biết phân tích,suy luận để hiểu được đâu là sự thật có lý, có tính thuyết phục,đâu là những điều phi lý toát lên từ chính những trang viết này?Đọc lại bài viết của Phan Đức hay hai lá thư của bà Vân Chung,chúng ta thấy rõ sự phản đối quyết liệt đến mức có nhiều chỗ khá nặng lời đã là minh chứng cụ thể cho những nhận định trên,phải chăng vì cũng ý thức được điều đó mà ở lần tái bản sau tác giả Trần nhật Thu đã “rút lui” để chỉ còn lại một mình Thế Phong?Điều đáng tiếc là từ những “ánh sáng” ban đầu soi rọi vào cánh cửa chứa đựng bí ẩn văn chương này ông Thế Phong đã không tận dụng bằng tất cả niềm đam mê khám phá cũng như sự thận trọng & khoa học nhân văn để đến nỗi chính mình tự đẩy mình vào tư thế bị chỉ trích vì những điều không đáng tin của người đời.Thật đáng tiếc lắm thay…
2c-Vì sao bà Vân Chung không nhận mình là T.T.Kh?:
Điều đầu tiên nhận thấy sau khi ta đọc hai lá thư ngỏ của bà Vân Chung là lá thư thứ hai rõ ràng đã bớt gay gắt hơn lá thư đầu rất nhiều,ở cả hai lá thư chúng ta thấy nổi bật lên ý của người viết là chủ yếu để phản bác lại những sự kiện không đúng với sự thật hay không được tác giả phân tích,chứng minh một cách thuyết phục trong tác phẩm T.T.Kh Nàng là ai?Chứ không phải chủ yếu muốn phủ nhận mình là T.T.Kh!.Bởi lẽ,nếu chỉ là không muốn thừa nhận mình là T.T.Kh thì cần gì phải quá dài dòng & cần gì đến những hai lá thư?Trong đó lá thư thứ hai cũng gần như lặp lại từ những ý của lá thư đầu chỉ có khác đôi chút là nó được sắp xếp lại cho lớp lang hơn,thêm một vài ý mà lá thư đầu còn bỏ sót,nhưng lại “lờ đi” tình tiết về việc bà Thư Linh đã vô tình tiết lộ thân phận của T.T.Kh,tại sao lại có sự thay đổi này?Thì ra,lá thư thứ hai thực chất chỉ nhằm chủ đích để “trả lời” cho từng phần hư cấu từ những trang viết của tác giả Thế Phong,cũng như “dạy” cách viết T.T.Kh Nàng là ai?…chỉ là một thứ Tiểu thuyết,không thể coi như là “tài liệu văn học” như quí vị mong muốn.Bởi vì đã gọi là “tài liệu văn học” thì sự việc & nhân vật phải cho thật chính xác…là dành cho các tác giả hơn là nhằm bác bỏ chính mình là T.T.Kh! và lá thư đã được bà “liệt kê” rõ: Tóm lại, cả chín điểm kể trên đều không đúng trường hợp & con người thật của tôi đã cho thấy điều đó.
Đến đây,chúng ta thử “nhập vai” Tòa án để cùng phân tích về Nếu ở thời chế độ cũ chị đã bị ra tòa về tội gì chắc chị không phải là người ngu mà không biết?(lá thư đầu) & nếu chúng tôi có mặt tại Quê nhà đã đưa chị ra tòa,kiện về tội mạ lỵ & vu khống!(lá thư thứ hai) chúng ta cùng “thụ lý” về ý thứ nhất trong “đơn kiện” là bà Thư Linh & tác giả Thế Nhật đã cùng “vu khống” bà Vân Chung là T.T.Kh thì thấy rằng,bản thân nhân vật T.T.Kh từ lâu đã là một “huyền thoại” nổi tiếng trong văn chương-thi phú nước nhà chứ đâu phải là một người có nhân thân quá xấu xa (xin lỗi,ví dụ như tú bà hay là kẻ buôn,bán hêrôin) mà bảo là người ta vu khống cái danh xấu đó cho mình? Chắc chắn điều này sẽ làm “quí tòa” phải phì cười mà trả lại đơn kiện! & có lẽ bà Vân Chung cũng không thể không hiểu điều này,cho nên chỉ có chính chúng ta mới cần phải hiểu cho đúng ý của bà là kiện về những điều mà các tác giả đã quá đà khi viết về những điều không đúng sự thật làm ảnh hưởng tới danh dự cá nhân & danh dự gia đình của bà mà thôi!
Về việc bà Vân Chung viết (ở lá thư đầu): Tuy chị đổ lỗi cho Thế Phong, nhưng rồi chị lại tự thú với tôi cũng qua bức thư này thì rõ ràng khi đọc đi đọc lại hai bức thư của bà Vân Chung cũng như bài viết của độc giả Phan Đức rồi so sánh với lá thư của bà Thư Linh chúng ta cũng không tài nào tìm ra được nhưng rồi chị lại tự thú với tôi ấy nó nằm ở đâu? Chúng ta sẽ phải hiểu thế nào đây về lời “buộc tội” này vì thông thường ở đời,nếu ta nói về một sự việc nào đó không đúng với sự thật mà lại làm ảnh hưởng đến danh dự của người khác thì mới phải “tự thú” chứ, đằng này việc “thêm mắm,thêm muối” trong tác phẩm T.T.Kh Nàng là ai? đâu phải là lỗi ở bà Thư Linh? “…chị đã hứa với T.T.Kh chỉ được viết lại tâm sự của bà khi bà không còn nữa…” trong khi bà thư linh chỉ viết (về việc này có lẽ bà cũng đã kể lại với Thế Nhật) em bảo rảnh sẽ viết về chị.Chị bảo:-Thư Linh đừng viết,anh Chấn hay ghen lắm,nên em hứa sẽ không viết…mà quả thật là trong chừng mực nhất định bà cũng đã giữ đúng lời hứa vì trong cả tập thơ Những dòng thơ hoa không hề có một đoạn nào tiết lộ rằng bà Vân Chung là T.T.Kh,chúng ta cùng xem lại thư bà viết:Có nhiều chỗ họ hư cấu như nhắc thời gian đó Chị ở nhà bà Mộng Tuyết,còn chỗ Chị & người ấy gặp nhau,em chỉ thuật là đã khóc,vậy mà họ dám tầm bậy là đã…hay như trong bài viết của Phan Đức(Tuần báo Thanh Niên-số 119 (559) ra ngày 11/10/1994 tại tp.HCM ta thấy chi tiết: Người viết quá ẩu.Trong bài viết,tác giả đã cho công bố một bức ảnh (ở trang 4) & chú thích:-“ Bà T.T.Kh & người bạn chụp trong vườn cam tại Mỹ Tho năm 1984-Bà T.T.Kh cầm trái cam” Sự thật người cầm trái cam là nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương.Nhưng có lẽ Thế Nhật cố tình chú thích sai đi để có thể viết câu sau đây: “ Bà T.T.Kh tay cầm trái cam mà tôi nghĩ đó là trái cấm của EVA đã đưa cho chàng ADAM” không lẽ cũng đổ tội do bà Thư Linh cung cấp cho Thế Nhật?không lẽ bà “quên” cả mặt bà Vân Chung? & vì thế mà chúng ta chẳng cần phải bình luận gì thêm!...Ở đây chúng ta cũng cần phải nhấn mạnh đến việc tác giả Thế Nhật đã viết một cách rất lập lờ rằng “Chúng tôi phải cảm ơn bà Đ.T.L nhiều,bởi vì không có bà thì sẽ không có cuốn sách này” hay bức thư của chị mà nhà văn Thế Phong đã trích dẫn ít dòng,đại khái “…coi tôi viết đã đủ chưa?...”.Cần lưu ý một điều là,tác giả Thế Nhật đã không đưa ra được bằng chứng thật sự có bức thứ ấy của bà Thư Linh hay không,mặt khác bấy giờ đã là năm 1994 không lẽ sống cùng một thành phố mà hai người không trao đổi với nhau qua điện thoại (nếu cần) mà lại phải viết thư?.Chính những sự “tranh tối tranh sáng” như thế đã làm cho rất nhiều người phải hiểu lầm bà là “đồng tác giả”của nhiều tình tiết bịa đặt trong cuốn T.T.Kh Nàng là ai? nếu không được theo dõi cũng như phân tích câu chuyện một cách đầy đủ như chúng ta đang làm! Cũng theo tác giả Phan Đức viết: Theo bài trả lời của bà Nghiêm phái-Thư Linh (tức ĐặngThị Lạc,nhưng khi tái bản cuốn “T.T.Kh-Nàng là ai?” năm 2001 lại viết tên thật là Đỗ Thị Lạc? ) đăng trên trang 24 & 25 Nguyệt san Văn Hóa (số tháng 9/94) thì thực ra nội dung đó cũng chẳng khác mấy so với bức thư bà viết ngày 20-9-1994 gửi bà Vân Chung! Cho nên “nỗi oan” này của bà Thư Linh sẽ khó mà giải tỏa được vì rất nhiều người trong chúng ta ít khi có thời gian & điều kiện để “đặt” các tài liệu có liên quan như thế này bên cạnh nhau để mà so sánh,đối chiếu nhằm tìm ra sự thật để mà “giải oan”cho bà!Xem kỹ những gì bà Vân Chung viết trong thư,sau khi đã lần lượt vạch ra những điều sai trái,bịa đặt của tác giả Thế Nhật rõ ràng với hàm ý phản đối gay gắt,nhưng tinh ý một chút chúng ta sẽ nhận thấy rằng sau đó bà trách Nếu chị đã kể đúng sự thật với nhà văn Thế Phong như những lời tôi đã kể với chị thì tại sao tôi có thể giận trách chị được?là chủ yếu trách cứ về những gì tác giả cuốn sách đã viết hơn là ngầm trách về việc bà Thư Linh đã vô tình làm lộ danh tính của mình,một sự việc dù sao thì cũng đã xảy ra rồi & đồng thời có ý như là “thanh minh” với chị,em trong nhóm thơ Quỳnh Dao lời trách thật nhẹ nhàng,trách mà cứ như không trách vậy?...
 Bây giờ,chúng ta đi sâu vào phân tích,lý giải về những điều trong hai lá thư,nhất là ở bức thư thứ hai đã được bà Vân Chung “đúc kết” lại cho có thứ tự từ lá thư đầu,những gì không mấy liên quan hoặc đã phân tích rải rác ở các phần trước ta sẽ bỏ qua để tránh sự lặp lại không cần thiết.
1/Trong sách viết chúng tôi làm đám cưới năm 1934…Tôi sinh năm 1919,nếu lấy chồng năm 1934 tôi mới 15 tuổi hay sao?trong sách viết tôi gặp ông Thanh Châu năm 17 tuổi,sao mâu thuẫn vậy?Sao quá vụng tính toán cho thời gian không ăn khớp nhau?
Thật ra,nếu suy luận theo đúng cách các Cụ ngày xưa về truyền thống cưới gả thì việc bà Vân Chung lấy chồng năm 15 tuổi cũng không phải là quá sớm,bởi lẽ các Cụ xưa thường tính theo “tuổi ta” thì năm 1934 bà đã 16 tuổi hơn nữa với quan niệm “gái thập tam-nam thập lục tác hợp Phu,Thê” thì cũng đâu có gì là vô lý!? Nhưng vì bà muốn gián tiếp nhắc tác giả phải viết cho đúng sự thật về mối tình ngoài đời thực của mình mà nay nhiều người cũng đã biết, do tác giả không có đủ dữ liệu nên cứ hư cấu bừa bãi đã thế lại còn làm ảnh hưởng đến danh tiết của bà vì với thời gian như đã viết trong tác phẩm thì hóa ra là bà đi “ngoại tình” sao?Vì thế mà bà đã phải thốt lên Chỉ những người đàn bà có chồng rồi còn ngoại tình,còn yêu kẻ khác mới đáng khinh khi phỉ nhổ!  Đây là điều tối kỵ,kể cả với thế hệ ngày nay huống hồ lại là lớp người xưa như bà Vân Chung thì lại càng không thể nào chấp nhận được sự hư cấu vô lối đó của tác giả!...
2/Chúng tôi hơn nhau ba tuổi.Nhà tôi tuổi Bính Thìn (1916) tôi Kỷ Mùi (1919) sao lại viết hơn nhau 9 tuổi? Có lẽ (tác giả) muốn chứng minh cho đúng thời gian xuất hiện thơ T.T.Kh vào năm 1937 & cho hợp với câu thơ “Tóc úa giết dần đời thiếu phụ” & “Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi” chăng? và trích ở lá thư đầu: Chúng tôi làm đám cưới vào Noel 1939 (chứ không phải 1934!)nhà tôi hơn tôi 3 tuổi(chứ không phải 7 tuổi). Đọc hết những dòng trên,nếu chúng ta không biết gì về mối tình giữa ông Thanh Châu & bà Vân Chung cũng như thời gian hai người yêu nhau rồi phải chia tay vì vấn đề “môn đăng-hộ đối” thì cũng chẳng có gì đáng nói ngoài chi tiết lúc thì hơn 9 tuổi lúc thì lại 7 tuổi của vợ-chồng bà.Thế nhưng,khi xâu chuỗi tất cả các sự kiện ngoài đời thực có liên quan đến ba người thì chúng ta lại thấy có khá nhiều sự vô lý về thời gian tính mà bà Vân Chung đã viết trong hai lá thư:-Thứ nhất: Nếu bà lấy chồng vào năm 1939 tức là lúc đó bà đã 21 tuổi thì với phong tục của các Cụ cách đây gần một thế kỷ là điều khó chấp nhận,vì ở vào lứa tuổi đó thì đã được xếp vào loại ế chồng rồi, tất nhiên là sẽ có những ngoại lệ nhưng phần lớn là nằm ở những gia đình nghèo khó & bản thân người con gái lại thiếu nhan sắc… Nhưng trên thực tế thì bà Vân Chung thuộc lớp con nhà giầu lại là “sắc nước hương Trời” đến nỗi anh Chấn chỉ thấy hình đã mê quyết tìm cho ra xin cưới….Về vấn đề này,chúng ta phải “đặt” mình vào bối cảnh những năm nửa đầu thế kỷ 20 thì mới có thể hiểu được cho thật thấu đáo. Mặt khác, dù là sống ở thị xã nhưng với quan niệm xã hội & thực tế thì gia đình bà dù thế nào cũng vẫn là dân “tỉnh lẻ” cho nên việc dựng vợ,gả chồng từ rất sớm theo đúng tập tục xưa là một sự thật lịch sử không thể phản bác.!.
-Thứ hai là: Sau khi mối tình tan vỡ, ông Thanh Châu ra Hà Nội lập nghiệp, thì trên thực tế vào nửa đầu năm 1937 (25 tuổi) ông đã tham gia & có vài bài báo đăng ở tạp chí Tiểu thuyết thứ bảy (không tính thời gian trước, lúc còn học ở trường dòng ông cũng đã bắt đầu tập sự viết văn, nhưng không mấy có tiếng tăm) thì ở ngoài Hà Nội một thời gian,ông nhận được tin tức từ gia đình nhắn ra cho biết người con gái ông yêu chuẩn bị lên xe hoa về nhà chồng…Như vậy,theo lôgích thì việc bà Vân Chung lấy chồng phải là khoảng thời gian cuối năm 1936(18 tuổi) hoặc muộn nhất cũng phải quãng đầu năm 1937(19 tuổi).Lý do:chúng ta xét thấy ở ngoài Hà Nội một thời gian là đơn vị tính bằng tháng,chứ không thể là năm!vì nếu là đơn vị năm thì phải nói là“vài năm sau” hay“một vài năm sau” hoặc ít nhất cũng phải là “một thời gian rất lâu sau”.v.v…Chứ từ xưa đến nay chưa thấy ai quan niệm một thời gian là đơn vị năm bao giờ! Hơn nữa,với một người vừa chỉ thấy hình đã mê mà lại không “lấy vợ phải cưới liền tay…” thì quả là một điều khó tin.?(ông Thanh Châu cũng đã xác nhận là chỉ vài tháng sau khi ra Hà Nội,ông nhận được tin từ gia đình báo ra…chứ cũng không nói rõ ngày,tháng,năm nào?) vì lẽ gì nếu chỉ là một câu chuyện rất bình thường thì tại sao lại khiến ông phải giữ bí mật đến thế?.Chúng ta đánh giá cao & cảm phục về nhân cách của ông,đã “giữ” cho người yêu đến cùng chứ đâu có như ngày nay không ít kẻ sẵn sàng tung lên mạng đủ trò về người yêu cũ…
-Thứ ba là: Về tuổi của ông Lê Ngọc Chấn người chồng ngoài đời của bà Vân Chung (việc hơn bà cụ thể là mấy tuổi cũng không quan trọng) nhưng không thể sinh năm 1916 vì nếu ta chấp nhận lôgích về năm bà phải lấy chồng như đã phân tích ở trên (thông qua mốc thời gian hoạt động văn chương của ông Thanh Châu-do chính ông xác nhận cũng như các bạn văn cùng thời,cùng trong tòa soạn viết về những năm tháng làm báo) thì vào lứa tuổi mới có 20-21 liệu ông ấy đã đỗ cử nhân chưa?(tuổi đi học thì phải tính theo tuổi “tây”) cho nên có lẽ tuổi thật của ông ít nhất cũng phải là sinh vào năm 1914 mới hợp lý so với sự thật đã diễn ra (theo tác giả Thế Phong thì ông Lê Ngọc Chấn sinh năm 1910-1986), cũng có một vài ngoại lệ,ví dụ như trường hợp ông luật sư Nguyễn Mạnh Tường vào năm 22 tuổi (năm 1932) đã đỗ Tiến sĩ luật tại đại học Soócbon hay một vài người nữa đỗ cử nhân luật ở lứa tuổi 21-22 nhưng không hề thấy tên của ông Chấn (thời Pháp thuộc, nhất là thập kỷ 30 thế kỷ trước việc người “bản xứ” đỗ đạt sớm như vậy thì lập tức nổi tiếng khắp cả nước, vì số người như vậy cũng rất là hiếm, chỉ đếm trên đầu ngón tay mà thôi!)..
Trở lại với hai câu thơ của T.T.Kh mà bà Vân Chung trích dẫn trong thư,ta thấy câu đầu là quá dễ hiểu, còn câu sau “Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi” thoạt đầu nếu ta hiểu theo “nhãn quan” của ngày hôm nay thì quả thật ít nhiều cũng cho thấy ngay rằng có lẽ tác giả Thế Nhật chỉ dựa vào câu thơ để cố “cho” người chồng của T.T.Kh đã rất lớn tuổi & nghiêm khắc.Thế nhưng, khi đặt mình vào bối cảnh của những năm 30 hay đọc các tiểu thuyết thời đó ta sẽ nhận thấy các nhà văn đương thời đều miêu tả về họ như những người rất nghiêm nghị,đĩnh đạc & rất “ông cụ non”mặc dù tuổi đời cũng không phải là nhiều,ta sẽ thấy hình ảnh các ông Cử,ông Phán thậm chí ông Thông (mà thực chất gọi như ngày nay chỉ là người phiên dịch) mới ngoài hai mươi tuổi ấy thế mà xã hội hồi đó mặc nhiên vẫn gọi là “cậu” hoặc “ông” đấy thôi?Thực tế ông Thanh Châu hơn bà Vân Chung 7 tuổi,nếu như hai ông bà lấy được nhau thì liệu có phải là bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi không?Chắc chắn là không rồi vì họ yêu nhau đến thế cơ mà,mặc dù với ngày xưa thì vợ chồng chênh lệch nhau dăm,bảy tuổi đã là một khoảng cách khá lớn…do đó chỉ có lấy nhau không phải vì tình thì mới ra nông nỗi ấy mà thôi. Đến đây, câu thơ trên đã trở nên rất dễ hiểu & cũng rất hợp lý,hợp cảnh, vả lại nếu T.T.Kh đã muốn cố tình giấu kín danh phận thì có những “tình tiết” trong thơ của bà không khớp với đời thực ở một vài sự kiện thì cũng đâu có gì là lạ? Vì vậy việc bà Vân Chung viết rằng Chúng tôi làm đám cưới vào Noel 1939 là hoàn toàn phi lý so với những gì thật sự đã diễn ra, có lẽ nó chỉ là dụng ý phủ nhận mình là T.T.Kh vì bà tin rằng sẽ chẳng có ai lại cất công đi “xác minh” lại làm gì.Khi đã lý giải được những điều nêu trên thì một lần nữa chúng ta lại nhận thấy rằng diễn biến về cuộc tình đời thực của bà Vân Chung cũng hoàn toàn “trùng khớp” với câu chuyện tình thơ của T.T.Kh…
9/Bôi nhọ nhà tôi,đúng là người chết rồi cũng không được buông tha:-Bà cũng nhớ đến ngày Phu quân mê một nữ thư ký ở văn phòng Luật sư,nơi ông làm việc…Chúng ta thấy ngay rằng tác giả Thế Nhật dựa vào bốn bài thơ nói lên niềm tâm sự của một người thiếu phụ không có hạnh phúc gia đình lại luôn tưởng nhớ đến tình duyên cũ của T.T.Kh một cách quá hời hợt, nặng về suy diễn & thiếu căn cứ để cố mà “ép” vào hoàn cảnh của bà Vân Chung, nóng lòng muốn chứng minh bà chính là T.T.Kh vì thế để cho phải “giống” T.T.Kh nên tác giả đã “cho” chồng bà phải đi tìm tình yêu ở bên ngoài gia đình…Đây chính là một trong những đòn nặng nề nhất giáng vào danh dự, tư cách & lòng kiêu hãnh không những của bà Vân Chung mà ngay cả với mọi người có cùng hoàn cảnh trên thế gian này cũng không ai có thể chấp nhận & tha thứ được!Thế Nhật đã quá sai lầm nếu như không muốn nói rằng tác giả đã rất thiếu nghiêm túc & thiếu tôn trọng sự thật cũng như không hiểu gì về tâm lý người phụ nữ, nhất lại là ở những người phụ nữ đẹp thì dù có đúng là sự thật như thế chăng nữa thì họ cũng sẽ không bao giờ chấp nhận sự thật đó bị phơi bày ra cho thiên hạ thóc mách xem, huống hồ đây lại là điều hoàn toàn bịa đặt!
3-Vì không thừa nhận thì bà Vân Chung mới chính là T.T.Kh!:
Đến đây câu hỏi vì sao bà Vân Chung không nhận mình chính là Nữ thi sĩ T.T.Kh đã trở nên vô cùng dễ hiểu!Bởi vì qua những trang viết phần lớn là hư cấu với những tình tiết quá là thô thiển, quá là “cải lương” sướt mướt, uá là sai sự thật như đã dẫn của tác giả Thế Nhật,vậy nếu bà công nhận mình là T.T.Kh thì theo lôgich không lẽ bà cũng phải thừa nhận luôn những gì tác giả đã viết trong cuốn T.T.Kh Nàng là ai?Hay là chỉ thừa nhận mình chính là T.T.Kh còn những điều khác thì bác bỏ?quả là quá buồn cười & quá vớ vẩn phải không?.Hơn nữa,đi sâu vào phân tích tâm lý chúng ta thấy rằng vào thời điểm hơn 70 năm trước khi hoàn cảnh lẫn cảm xúc đang dâng trào bởi mối duyên tình ngang trái cũng chưa phải là dĩ vãng quá xa lại nhận ra được “câu chuyện” của đời mình qua những hình tượng chưa kịp phôi pha ẩn chứa bên trong tác phẩm của người yêu cũ thì việc bà lên tiếng “họa” lại & cũng để cho vơi bớt nỗi niềm tâm sự đắng cay cũng là điều dễ hiểu dễ cảm thông.Tuy nhiên, đằng sau cảm xúc khó kiểm soát đó thì bản thân bà cũng không khỏi phải giật mình & “e ngại” cho chính bản thân mình vì dù sao với sự thật không thể thay đổi được của cuộc đời cũng như vòng lễ giáo,những ràng buộc của gia đình,của xã hội…không cho phép người phụ nữ đã có chồng mà vẫn còn tưởng nhớ đến mối tình xưa bộc lộ bằng những vần thơ da diết đến thế mà lại còn công khai danh tính, cho nên việc bà dấu kín tên tuổi bằng mấy chữ cái viết tắt cũng là lẽ đương nhiên vậy!Phải chăng cũng vì ý thức rõ điều này nên T.T.Kh mới nhắn nhủ người yêu rằng Cố quên đi nhé câm mà nín…?Ngày xưa đã thế,huống hồ là bây giờ (năm 1994) khi bà đã nói rõ Vì trải qua bốn mươi năm,cả hai bên đều đã an phận từ lâu,cả hai bên đều có bổn phận đối với gia đình mình…Cho nên việc bà phủ nhận mình là T.T.Kh cũng như ngày hôm nay,những người phụ nữ đã có chồng thử hỏi trong chúng ta có ai “dám” công khai nhận mình là tác giả của những vần thơ như than,như khóc về mối tình đã mất như những bài thơ của T.T.Kh hay không? Đúng như bà Vân Chung đã viết Người con gái nào cũng có quyền yêu & cấm sao được người ta yêu mình?thế nhưng,thử hỏi ngay đối với những lá thư tình của người yêu cũ,khi lấy chồng thì bạn sẽ chọn giải pháp nào:-Để lại nhà Cha,Mẹ hay đem theo valy về nhà chồng? Những ví dụ trên là để chúng ta càng thêm hiểu vì sao mà bà Vân Chung lại không thể thừa nhận mình là T.T.Kh & thực tế đôi khi để cho có vẻ xác tín thì người ta còn phải thề độc nữa kia chứ phản bác như bà cũng đâu có gì gọi là quá quyết liệt (cho riêng việc này)?Cho nên việc bà Vân Chung không nhận mình là T.T.Kh có lẽ cũng chính là suy nghĩ của những người phụ nữ có hoàn cảnh như Bà,hành động này làm chúng ta thêm trân trọng về nhân cách cũng như mãi mãi trân trọng & ngưỡng mộ một tài danh thi phú đã để lại cho đời những vần thơ đẹp mà cũng vô cùng đớn đau như một tiếng kêu xé lòng đầy ai oán về quan niệm xã hội đã góp phần “chia uyên-rẽ thúy” của một thời chưa xa,nói như thế bởi vì quan niệm đó cho đến ngày hôm nay cũng chưa hẳn là đã chấm dứt hoàn toàn…Ngoài ra,có một tâm lý chung cũng rất khó để chúng ta có thể lý giải cho đến tận cùng là:-Có những sự việc “Bí ẩn” nào đó đã trở thành “huyền thoại” sau rất nhiều năm “bám rễ” vào tâm trí con người,đến khi có ai đó nói ra sự thật thì chưa chắc đã được mấy ai tin đó chính là sự thật,bạn thử ngẫm xem có đúng không? Cũng từ tất cả những dữ kiện,tài liệu có được của những người trong cuộc mà nay đã công khai,qua những phân tích,chứng minh trên cơ sở tôn trọng sự thật vốn có bằng sự khách quan trong đánh giá & nhận đinh…Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin rằng:-Bà Trần Thị Vân Chung chính là T.T.Kh một bí ẩn Văn chương-thi phú từ hơn 70 năm qua đã được làm sáng tỏ.Cho nên ngày nay có ai đó nhận mình là T.T.Kh thì chắc chắn lại không phải là T.T.Kh!...
1-Cuộc hành trình “dang dở” của nhà văn Thanh Châu:
Sau khi kết thúc bằng 4 bài thơ đăng trên hai tờ báo Tiểu thuyết thứ bảy (trụ sở tại số 93 phố Hàng Bông-Hà Nội) & Phụ nữ **(số 7 phố Hội Vũ-Hà Nội) trong hai năm 1937-1938 của T.T.Kh,nhà văn Thanh Châu có viết một bài tùy bút nhan đề Những cánh Hoa tim vào Mùa Thu năm 1939 (Hoài Việt-Thâm Tâm & T.T.Kh-NXB Hội nhà văn 1991).Thì gần đây nhất cũng lại vào Mùa Thu năm 1990 ông viết bài cuối cùng với tựa đề Nói thêm về T.T.Kh & mở ngoặc Tác giả những bài thơ nổi tiếng từ 1937.Bài viết được đăng trên Nguyệt san văn hóa số cuối năm 1990 (sau đó in trong cuốn sách của Hoài Việt-“Thâm Tâm & T.T.Kh”-NXB Hội nhà văn 1991).Ông viết: “Năm 1989 Nhà xuất bản Khoa học xã hội có in mấy truyện ngắn của tôi(cùng một số truyện của Nguyễn Tuân,Thanh Tịnh.v.v…thời kỳ 1930-1945).Bởi thấy còn nhiều người muốn hiểu rõ hơn về T.T.kh,tôi đã đưa in lại truyện ngắn Hoa tigôn viết năm 1937 đăng ở Tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy-Truyện ngắn đã gây xúc cảm cho T.T.Kh,nên sau đó tòa soạn Tiểu thuyết thứ bảy nhận được mấy bài thơ của T.T.Kh gửi đăng liền được bạn đọc đương thời chú ý…Thời tạm chiếm (Pháp) ở Hà Nội,thời Mỹ ở Sài Gòn vẫn có báo đăng nhắc chuyện T.T.Kh & từ giải phóng miền Nam tới nay,người đọc các báo văn nghệ,sách nhà xuất bản văn học (thơ Thâm Tâm) vẫn lại thấy có người tranh cãi về T.T.Kh.Vậy T.T.Kh là ai? có phải là Trần thị Khánh?hay Tào thị Khê? hay Tôn thị Khuê? Trần thị Khải, Thái thị Khương?Ai mà biết được?cho nên cuối truyện ngắn Hoa tigôn in lại năm 1989 tôi đã phải viết: T.T.Kh là ai? Lúc trước (1937) tác giả đã không cho biết địa chỉ,cũng như không chịu “xuất đầu lộ diện” cho tới ngày nay,nếu còn sống T.T.Kh phải là lớp “cổ lai hy” rồi.Vậy có nên quí trọng sự khiêm tốn của nhà thơ, hẳn có lý do “ẩn tích” của mình.
Viết như vậy đâu có ổn.Như thế khác gì người đặt bó hoa lên ngôi mộ vô chủ, rồi ra về? Nhưng bạn đọc yêu thơ lại đòi hỏi khác.Người ta muốn biết T.T.Kh đã vì ai, cho ai mà có thơ? & người yêu T.T.Kh có đích thị là Thâm Tâm hay Nguyễn Bính hay ai nữa?...Năm 1986, anh Tô Hoài (trong bài viết về Trần Huyền Trân,đăng tuần báo văn nghệ số 45 tháng 11-1986)cũng lại nhắc:“Câu chuyện tình u uẩn mà nhiều báo một thời bàn tán sôi nổi,nào là Hai sắc hoa Tigôn,nào T.T.Kh,nào Thâm Tâm & Khánh hay ai?Những éo le mơ hồ,các anh Thanh Châu,Thâm Tâm,Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính,những đồng tác giả ấy-hôm nay cũng còn có bạn có thể kể lại rành rõ được hay là cứ để mờ ảo mãi như thế? ”...Hôm nay,nhân tìm lại những tư liệu còn giữ được,tôi muốn kết thúc cái chuyện cũ càng“mờ mịt” này bằng cách công bố thêm một điều lạ,là “thủ phạm” của sự “nhiễu” này,khiến thiên hạ càng đoán phỏng,đoán mò-Chỉ tại Nguyễn Bính đăng một bài thơ (đề tặng T.T.Kh) bài Cô gái vườn Thanh in năm 1940.Đọc lại bài này,người ta thấy Nguyễn Bính có đến vườn Thanh, trọ nhà một ông già,ông này kể cho nghe chuyện một thiếu nữ “Đêm đêm bên cạnh chồng già-Và bên cạnh bóng người xa hiện về”…Và rồi Nguyễn Bính tự hỏi:
         …Bao nhiêu oan khổ vì tình
         Cớ sao giống hệt chuyện mình năm xưa
           Phải chăng mình có nên ngờ
       Rằng người năm ấy bây giờ là đây?
Một người thơ đa tình như Nguyễn Bính:-“Chuyện xưa hồ lãng quên rồi-Bỗng đâu xem được thơ người vườn Thanh” (tức T.T.Kh) bèn ra thơ đề tặng T.T.Kh (Cô gái vườn Thanh) người mà Nguyễn Bính chưa hề biết mặt.Bởi vậy, có người đã khẳng định sau khi đọc bài thơ Nguyễn Bính rằng:-“Chính ông Bính là người yêu của T.T.Kh rồi làm thơ người ta tế nhị nói chuyện nọ ra chuyện kia-Như thi sĩ Ác-ve đã kín đáo trong thơ ông ta vậy”.Người thứ hai làm cho mọi người gần hơi thỏa mãn chính là Thâm Tâm, khi có bài Màu máu Tigôn (gửi T.T.Kh,tác giả bài thơ Hai sắc hoa Tigôn).
Theo tôi,đây là một bài thơ dở nhất,không xứng với thơ Thâm Tâm,mặc dù tác giả nói là “K…hỡi người yêu của…”.? Đến nay, tôi không hiểu bài thơ này in ở đâu? Lấy ở đâu ra,sau này lại do Mã Giang Lân tuyển in vào tập Thơ Thâm Tâm (do nhà xuất bản Văn học in năm 1988 mà không đề năm tháng?)Liền sau bài Màu máu Tigôn này,nói là của Thâm Tâm “tặng T.T.Kh” lại thêm bài Các Anh (cũng ở tập Thơ Thâm Tâm nói trên)…Cũng may, với sự nghi ngờ có thể hai bài thơ trên là “thơ dởm” lời thơ thô vụng không chắc của Thâm Tâm, tôi đã tìm đến ông Phạm Quang Hòa, nghe nói ông trước kia có làm thơ & quen với Thâm Tâm,còn giữ được nhiều thơ cũ.Ông Phạm Quang Hòa đã chép cho tôi một bài thơ giống như bài Các Anh nói theo ông Phạm Quang Hòa thì đây là bài thơ Thâm Tâm trả lời T.T.Kh,sau khi có Bài Thơ cuối cùng của T.T.Kh đăng báo Tiểu thuyết thứ bảy(?).Bây giờ xem lại thì bài này dài gấp mấy lần bài Các Anh,chỉ đúng có 8 câu đầu là của bài Các Anh tiếp theo còn 47 câu thì bỏ,để lại bắt vào đoạn cuối của bài Các Anh với 7 câu kết (như trong bài Các Anh).Vậy thì Mã Giang Lân đã lấy ở đâu ra bài Các Anh (đã in ở sách Thơ Thâm Tâm-NXB Văn học 1988?)Với vỏn vẹn có 16 câu?.Nếu trích ở đâu sao không nói rõ?.Về ông Phạm Quang Hòa,ta có thể tin ông là bạn thân của Thâm Tâm,nên mới có “Bài thơ trả lời T.T.Kh” của Thâm Tâm mà ông giữ được cho đến nay,nhưng sao đọc những câu thơ như:
                           Tiếng xe mở lối vu quy
                           Hay là tiếng cắt nàng chia cuộc đời
                           Miệng chồng Khánh gắn trên môi
                           Hình anh,mắt Khánh sáng ngời còn ghi…
                           Khánh ơi! Còn hỏi gì anh?
                           Xưa tình đã lỡ nay tình lại nguyên…
Rõ ràng lời thơ không xứng đáng với mối tình tha thiết & cay đắng của một thiếu phụ như T.T.Kh đã giữ hẹn xưa:                    
- Cố quên đi nhé, câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ
Tình cảnh một người có chồng,không quên được người cũ, muốn giữ kín chuyện riêng,lúc nào cũng:
                        -Tôi run sợ viết bởi rồi đây
                        Nếu không yên được thì tôi chết…
Trong khi đó “người đàn ông của mình” cứ bô bô réo tên mình lên trong thơ hết K…ơi,lại Khánh ơi.Đến nỗi T.T.Kh phải kêu lên:    
- Là giết đời nhau đấy biết không?
  Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
  Giận anh em viết dòng dư lệ
  Là chút dư hương điệu cuối cùng…
Đã thế lại còn Bài thơ đan áo (1938). Ai đã đem bài thơ này của T.T.Kh đăng lên báo Phụ nữ thời đàm (phố Hội Vũ)?. Bài thơ như T.T.Kh đã nói rõ:       
-Chỉ có ba người đã đọc riêng
 Bài thơ đan áo của chồng em
 Bài thơ đan áo nay rao bán
 Cho khắp thiên hạ thóc mách xem…
Với mục đích gì “Người yêu của T.T.Kh” lại đăng lên báo Bài thơ đan áo để đến rồi T.T.Kh phải “nặng lời”: 
      - Từ đây anh hãy bán thơ anh
        Còn để yên tôi với một mình
        Những cánh hoa lòng,hừ đã ghét
        Thì đem mà đổi lấy hư vinh…
Một người nghiêm túc như Thâm Tâm mà anh,em văn nghệ thời trước từng quen biết,có thể có cử chỉ & lời thơ dễ dãi,vô ý thức như vậy không? Đó là sự đáng ngờ. Vì vậy, ngày Trần Huyền Trân còn chưa lâm bệnh nặng,tôi đã hai lần gặng hỏi anh về mối tình của Thâm Tâm & T.T.Kh có thực có hay không & Trần Huyền Trân người bạn “nối khố” của Thâm Tâm đã khẳng định là không từng nghe Thâm Tâm nói đến. Vậy người yêu thực của Thâm Tâm là ai? Có phải là T.T.Kh như lâu nay nhiều người nghe nói?K…& T.T.Kh là một hay hai?Có người nói:Vào thời thơ T.T.Kh nổi lên như thế, có nhiều anh tự nhận là người yêu của họ,nên Thâm Tâm đã phải kêu cái tên Khánh lên rõ to,để mọi kẻ có ý đồ xấu phải im tiếng & hiểu rằng “Hoa kia đã có chúa xuân” Như vậy lại càng không đúng tư cách Thâm Tâm…Cho nên, một số bạn thơ văn đích thực là bạn của Thâm Tâm thường nói: “Thâm Tâm qua đời lâu rồi mà T.T.Kh nếu còn sống cũng đã già lão quá rồi,nên để họ yên nghỉ với giá trị không thể chối cãi một thời của họ. Những danh Nhân chết đi bao giờ chả để lại cho người sau vô số huyền thoại,cái đúng,cái sai, cái “dỏm”. Đó là vinh dự của danh Nhân, không phải vinh dự cho người muốn gắn tên tuổi mình vào hào quang của người đã khuất…”
 Thời Mỹ, ông Vũ Bằng (vào quãng cuối tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy) di cư vào Sài Gòn có dựng câu chuyện: “Quang Dũng là con trai cụ Tản Đà” & nói về T.T.Kh,họ Vũ cũng chép tên thi sĩ Leiba vào, làm mọi người chả hiểu ra sao.Những ai đã từng làm báo với họ Vũ cũng đều thuộc “ngón” làm ăn này của họ Vũ.Leiba (tức Lê văn Bái) có thời gian ngắn làm báo Ích Hữu (của Tân Dân) sau đó thi đỗ,làm ông Phán tòa sứ Sơn Tây rồi mất(1941).Leiba là lớp trước Thâm Tâm, không quen biết gì nhau. Đây chỉ là cách làm báo phao tin “giật gân” cho chạy báo.Cũng cùng một loại phao tin thất thiệt đó, tôi còn nghe một chuyện tức cười nữa là có người “khẳng định” người yêu của Thâm Tâm là em gái cùng Cha,khác Mẹ với nhà thơ Tế Hanh…Buồn thay,lớp người 1930-1945 trong văn học đã theo nhau “đi”gần hết.Còn sót lại có Lưu Trọng Lư,Bùi Hiển,Tô Hoài…Nửa đêm chợt tỉnh anh Lư có còn nhớ nhiều không,với sức nhớ của người trên 70 rồi?
Viết đến đây,tôi muốn cung cấp để bạn đọc biết thêm ít chi tiết về T.T.Kh trước khi chấm dấu cuối cùng:-Hồi 1937,tôi có nhận được một thư trả lời tòa soạn Tiểu thuyết thứ bảy của T.T.Kh.Tôi nhớ đại ý người làm thơ không muốn cho địa chỉ để chúng tôi gửi báo biếu, với lý do cuộc đời mình “chả ra sao”.Bức thư đó,cũng như thư của bạn đọc hàng ngày gửi đến báo,ai giữ làm gì?Hơn nữa,hồi đó tôi còn trẻ,nên không mấy quan tâm đến chuyện các bà “Phụ nữ làm thơ”. Nếu tôi là người mê thơ, mê người làm thơ như bây giờ,có lẽ bức thư kia còn lại đến ngày nay, cũng thành có giá. Còn chuyện nữa xin kể nốt:-Hồi làm báo Tiểu thuyết thứ bảy ở Hà Nội,vì gia đình tôi ở thị xã Thanh Hóa,nên thời thường vẫn đi về,cũng như Nguyễn Tuân & Hồ Dzếch có gia đình ở thị xã này.Một hôm,tôi không có mặt ở nhà thấy mẹ tôi bảo: “Có một người con gái  đến chơi,không chịu nói tên,chỉ để lại một bó hoa Tigôn rồi cáo lui”.Từ đó,không lần nào trở lại.Ai nhỉ?Tuổi tôi lúc đó cũng có đôi ba bạn gái,nhưng thời gian này báo đã đăng mấy bài của T.T.Kh rồi,vậy đó là người đã đọc truyện Hoa Tigôn của tôi hay đã yêu thơ của T.T.Kh mà tìm đến?
“Ở lại vườn Thanh có một mình”.Có thể người này vốn dân thị xã này chăng? Sao tôi không biết,không từng gặp? Lại nữa,nếu như có thực tên người yêu của Thâm Tâm là…Khánh, Trần Thị Khánh thì bài thơ Các Anh đã gọi toẹt ra rồi.Chỉ có tôi đến hôm nay là còn chưa rõ. Bạn đọc chú ý đến thơ T.T.Kh & Thâm Tâm,người nào chẳng nói được căn cứ theo lời kêu gọi trong thơ: “Khánh ơi” còn hỏi gì anh? Khánh ơi, còn đợi gì anh…? Chả thầy bói cũng nói trúng tên: “Người ấy” T.T.Kh (tức Khánh). Năm tháng đã cuốn theo chiều gió bao chuyện vui buồn. Cái gì còn lại vẫn là tài năng,đức hạnh. Ngày nay còn có người nhắc đến T.T.Kh là do sức sống của thơ.Có người thích thú tìm thấy 9 chữ thu trong hai bài thơ đầu(mùa thu tâm sự đầy khắc khoải)…Lại có người nhấn mạnh mấy chữ lúc thì tôi,lúc thì em trong thơ T.T.Kh (vừa giận vừa thương của một tấm lòng tha thứ,khi thấy người yêu làm vỡ lở tình duyên cũ). Riêng tôi,đọc lại thơ T.T.Kh tôi ngạc nhiên thấy phong cách thơ bà này khác xa thơ của ông bạn Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân cùng thời. Thơ T.T.Kh không có những chữ:
- Ly khách, ải xa, trường thành. quan san, cô phụ, đoạn trường…(Thâm Tâm) 
hay:
- Rau tần, ngõ trúc, giọt dòng, lưu biệt, thiên thu, tịch liêu…
(Nguyễn Bính).
Thơ T.T.Kh kể chuyện mình một cách giản dị,không sáo ngữ…không cố tìm chữ lạ, không làm dáng nên dễ đi vào lòng người, nhất là lòng bạn gái cùng cảnh ngộ. Luyến tiếc thời ngây thơ con gái, lắng tiếng lá thu rơi mặt hè, tưởng như bước chân người yêu trở lại, càng lo sợ. Tả cái giận,nói được nỗi lòng yếu đuối của mình đối với người yêu mà mình không dứt được…thật chân thành.Từ 1937 đến 1938, để lại 3 bài thơ chuyên tả tâm sự mình mà người đọc không chán. Đó là đặc điểm của thơ T.T.Kh.
T.T.Kh là ai? Có lẽ ta cũng chẳng cần biết rõ đó là ai?Tôi không tin rằng ai đó tìm ra bà,nếu bà còn đã đáng bậc bà-không thể được bà sẵn lòng tiếp đón. Một người đã cố tình quên đi,đào sâu chôn chặt mối tình đau xót bất hạnh của mình mà có những bài thơ như thế,chỉ bộc lộ một lần rồi dập tắt hẳn không giống kẻ kém tài, kém đức chỉ mong có nổi bài thơ tình được lên báo,vì danh hay vì lợi. Với sự trân trọng một tài năng, một tâm hồn phụ nữ hiếm hoi trong quá khứ, chúng tôi viết bài này & đề nghị cho in lại ba bài thơ độc nhất vô nhị của bà, để chúng ta cùng thưởng thức.”
“Mùa thu 1990- THANH CHÂU”
Đọc thật kỹ những gì ông vừa viết rồi so sánh với bài tùy bút Những cánh Hoa tim vào Mùa Thu năm 1939 cũng của ông,chúng ta thấy rõ một điều là: -Ngoài việc “tự sự”về những cảm xúc của một thời đã qua. Ông cũng làm cái việc như chúng ta đang làm từ đầu đến giờ, đó là đưa ra những sự kiện, dẫn chứng để phân tích,chứng minh rằng Thâm Tâm, Nguyễn Bính hay bà Trần Thị Khánh nào đó không phải là T.T.Kh, hay nói cách khác là T.T.Kh không liên quan gì tới họ!với sự tỉ mỷ từng câu chữ trong thơ của những người liên quan như trong bài viết…Nhưng khác chúng ta lại là ở chỗ:-Tại sao & với lý do gì mà ông không “đi” đến tận cùng của sự việc như chính ông vừa viết ở trên: Viết như vậy đâu có ổn.Như thế khác gì người đặt bó hoa lên ngôi mộ vô chủ,rồi ra về?Người ta muốn biết T.T.Kh đã vì ai,cho ai mà có thơ?Vì sao ông lại không muốn chứng minh ai là T.T.Kh như chúng ta đã & đang làm?Để cho đến tận cùng,chúng ta cùng phân tích,lý giải điều“bí ẩn”có thể coi là cuối cùng này cho hết lẽ.Đầu tiên,như các phần trước đã chứng minh thì nay chính nhà văn Thanh Châu cũng xác nhận: truyện ngắn Hoa tigôn viết năm 1937 đăng ở Tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy-Truyện ngắn đã gây xúc cảm cho T.T.Kh,nên sau đó tòa soạn Tiểu thuyết thứ bảy nhận được mấy bài thơ của T.T.Kh. Lý do thực sự vì sao thì chúng ta cũng đã biết…Và ông viết: hồi đó tôi còn trẻ,nên không mấy quan tâm đến chuyện các bà “Phụ nữ làm thơ”…khi ta so sánh với câu cũng của chính ông tâm sự trong bài tùy bút Những cánh Hoa tim: Nhưng điều mà tôi lấy làm sung sướng nhất là cũng dạo ấy,ở tòa soạn nhận được một bài thơ đầu của bà T.T.Kh (bài thơ Hai sắc hoa tigôn)… bài thơ tả cái tâm sự não nùng,thầm kín của một người đàn bà đã có chồng nhớ lại tình duyên cũ…Bài thơ hay & xúc động đến nỗi chính ông cũng đã phải thừa nhận: tôi thấy chán cả cái nghề viết tiểu thuyết.Bởi tôi nghĩ: Cùng một mối cảm mà T.T.Kh có thể viết nên những vần (thơ) réo rắt mãi trong tâm can người như vậy được, còn câu chuyện của tôi, có khéo kể lắm, thì rồi người ta đọc qua một lần rồi cũng sẽ quên đi…Tôi cầu chẳng bao giờ gặp mặt T.T.Kh để được yêu thơ hơn…Tại sao lại thế? không lẽ ông lại “tiền hậu bất nhất” với chính ông? Chắc chắn không thể như vậy, bởi vì khi viết bài tùy bút này là ông đang ở trong tâm trạng vô cùng đau đớn, xúc động, bồi hồi khi “nhận ra” tình xưa trên những trang thơ đẫm lệ như than khóc cho một tình yêu đã không thể đến được bến bờ hạnh phúc của người yêu cũ. Những bài thơ ấy cũng như là một sự “trở về” vậy, bởi lẽ vì nhiều lý do, kể từ ngày họ phải xa nhau hai người đã gần như mất liên lạc cho nên những bài thơ ấy giống như một cuốn phim đời đầy xúc cảm liêu trai hiện về trong nỗi cô đơn nơi đất khách quê người & đó cũng chính là “động lực” khiến ông viết nên bài tùy bút đầy nỗi niềm tâm sự như một “thông điệp” bày tỏ tấm lòng với “người ấy” của mình…Khi viết những dòng trên,phải chăng đó chỉ là “biện pháp” đánh lạc hướng giúp ông né tránh việc tò mò của người đời muốn biết về danh phận, sự liên quan của hai người cũng như những nội dung thực sự ẩn chứa “bên trong” bức thư của T.T.Kh như ông cho biết:- Nếu tôi là người mê thơ, mê người làm thơ như bây giờ, có lẽ bức thư kia còn lại đến ngày nay, cũng thành có giá.? …
Câu chuyện “Có một người con gái  đến chơi, không chịu nói tên, chỉ để lại một bó hoa Tigôn rồi cáo lui”. Từ đó, không lần nào trở lại. Ai nhỉ? Tuổi tôi lúc đó cũng có đôi ba bạn gái, nhưng thời gian này báo đã đăng mấy bài của T.T.Kh rồi, vậy đó là người đã đọc truyện Hoa Tigôn của tôi hay đã yêu thơ của T.T.Kh mà tìm đến?. .Đọc đến đoạn này chúng ta cảm thấy có một điều gì đó hơi “lấn cấn” & cũng giống như trong bài tùy bút, chỉ khác là hồi đó ông viết: Một buổi trưa có hai người đàn bà….Đọc đi đọc lại đoạn văn trên, chúng ta thấy rõ ràng là không lẽ lại có người đoán ra vì có truyện ngắn Hoa Tigôn nên mới có thơ của T.T.Kh? Vì vào thời đó làm gì đã có đủ mọi nguồn tư liệu như ngày nay để có thể hiểu được “móc xích” của sự việc mà chỉ mình ông & một người nữa ở “trong cuộc”biết?Trong khi chính điều này mới là lý do chủ yếu để tồn tại bí ẩn về  T.T.Kh kéo dài hơn 70 năm qua với nào là Nguyễn Bính,nào là Thâm Tâm,nào là Trần Thị Khánh…Phải chăng vì mang tâm lý chính là “người trong cuộc” nên ông mới vô tình thay độc giả mà “đoán giúp” rằng:-Có sự liên quan giữa truyện ngắn & những bài thơ bằng câu hỏi như vậy?hơn nữa,vào thời gian đó đã & đang rộ lên bao lời đồn đoán làm cho rất nhiều người tin là thật như chúng ta cũng đã biết, vậy thì tại sao “những người phụ nữ” đó không tìm đến để tặng hoa các nhân vật vừa kể ở trên?Vả lại nếu vì hay đã yêu thơ của T.T.Kh mà tìm đến thì tại sao họ không tặng chung cho tòa soạn là nơi đăng những bài thơ mà lại chỉ tặng riêng ông? hay họ chỉ tặng hoa vì đã đọc truyện ngắn Hoa Tigôn của ông?mà nhận xét thật khách quan thì truyện ngắn đó cũng không có gì là đặc sắc nếu đem so với những tác phẩm của nhóm Tự lực văn đoàn cùng thời.Đến đây,chắc hẳn sẽ có người cho rằng,biết đâu truyện dở đối với người này nhưng lại hay đối với người khác thì sao?Chúng ta cần phải nhớ rằng,nếu bỏ qua những tình tiết về những cánh hoa Tigôn thì đây chỉ là một câu chuyện ngoại tình vốn không thể được chấp nhận trong xã hội đương thời cách nay hơn 70 năm,nếu có thì cũng chỉ tạo nên sự tò mò chứ không thể là sự ngưỡng mộ của người đời,đó là một thực tế khó phản bác.Trừ phi người chồng quá tệ bạc thì nhiều nhất cũng chỉ nhận thêm được sự cảm thông mà thôi…Cũng trong bài tùy bút ông viết:Thế nhưng,tôi không khỏi có chút tự kiêu vì đã “tạo” ra được một người đàn bà thi sĩ…Nếu có ai hỏi tôi làm được điều gì thú vị,tôi xin nói ngay rằng:-Tôi đã viết nên truyện Hoa Tigôn…(cần lưu ý chi tiết việc có người đến tặng hoa,nếu có, là xảy ra trước khi có bài tùy bút cũng như bài viết này) đến đây ta thấy được rằng có lẽ câu hỏi đó chẳng qua cũng chỉ là một giải pháp “gây nhiễu” nhằm dấu kín danh phận cho T.T.Kh,trong tâm trạng bồi hồi xúc động & đầy nuối tiếc đã khiến cho ông khó giữ được sự kín kẽ nên có vẻ bị rơi vào tình trạng “dấu đầu hở đuôi” chăng?.Và đây ông viết:“Ở lại vườn Thanh có một mình”.Có thể người này vốn dân thị xã này chăng?Sao tôi không biết,không từng gặp?chi tiết Tuổi tôi lúc đó cũng có đôi ba bạn gái có lẽ cũng nằm trong “giải pháp” nêu trên hơn là sự thật bởi ở cái thị xã bé tí như vậy ai mà chẳng biết về mối tình của ông Thanh Châu & bà Vân Chung dù đôi ba bạn gái đó chỉ là tình bạn đúng nghĩa?Cũng có thể người bạn gái đó được bà Vân Chung nhờ đem hoa đến nhà cho nên gia đình ông Thanh Châu mới không biết mặt?Dù thế nào thì điều này cũng không mấy quan trọng,vì cần phân tích cho hết lẽ nên chúng ta mới đi sâu một chút chứ thật ra cũng không mấy ảnh hưởng đến việc chứng minh rằng bà Vân Chung chính là T.T.Kh như chúng ta đã đạt được từ những phần trước.Bây giờ,khi “đặt” thật gần nhau lời ông viết: Đã thế lại còn Bài thơ đan áo(1938).Ai đã đem bài thơ này của T.T.Kh đăng lên báo Phụ nữ thời đàm (phố Hội Vũ)?** ở phần giữa với câu… đề nghị cho in lại ba bài thơ độc nhất vô nhị của bà,để chúng ta cùng thưởng thức ở cuối bài viết,chúng ta có thấy một điều gì đó bất thường không? Tại sao ông lại dùng từ độc nhất vô nhị? Tại sao T.T.Kh có bốn bài thơ mà ông lại chỉ “liệt kê”có ba? không lẽ chỉ vì ba bài thơ đó được đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy thì mới có giá trị? Trong khi ở trên ông cũng đã khẳng định Bài thơ đan áo là của T.T.Kh? Hơn nữa chúng ta sẽ phải hiểu & lý giải thế nào đây khi Bài thơ cuối cùng của T.T.Kh cũng có câu, như một lời minh chứng cho điều đó?:  
                                                   -Chỉ có ba người đã đọc riêng
                                                    Bài thơ đan áo của chồng em…
Phải chăng,đó cũng là một trong những cách “đánh lạc hướng” để không làm lộ sự liên quan của mình cũng như không để lộ  T.T.Kh là ai sau khi ông đã cố gắng chứng minh rằng mọi lời đồn đoán từ trước đến nay (1990) để “gán ghép” cho một số nhà thơ là T.T.Kh hoặc là người yêu của T.T.Kh chỉ là những lời vô căn cứ & không đúng với sự thật?Bởi lẽ,nếu không có Bài thơ đan áo thì khó mà cắt nghĩa được vì sao T.T.Kh lại phải viết Bài thơ cuối cùng với lời lẽ khá là gay gắt như thế để làm gì?Còn nếu cho rằng là độc nhất vô nhị thì có lẽ chỉ có bài thơ đầu tiên Hai sắc hoa Tigôn mới xứng đáng được mang “danh hiệu” này vì muốn hay không chúng ta cũng phải thừa nhận là hay nhất trong số bốn bài thơ mà T.T.Kh để lại! …Vì vậy câu hỏi tại sao ông lại “lờ đi” Bài thơ đan áo ở cuối bài viết mà lẽ ra ông phải viết là đề nghị cho in lại bốn bài thơ độc nhất vô nhị của bà,để chúng ta cùng thưởng thức chỉ có thể được sáng tỏ nếu chúng ta hiểu & giải thích như trên mà thôi & thực chất tất cả những gì mà ông đã làm kể từ bài tùy bút vào mùa Thu năm 1939 đến nay cũng chỉ nhằm mục đích là để trả lại sự “trong sạch”cho người ông yêu-bà Vân Chung-T.T.Kh trước những lời đồn đại của người đời.Cho nên nếu bảo rằng đây chính là cuộc hành trình “dang dở” của nhà văn Thanh Châu cũng đâu phải là không có lý?...
2-Vì sao nhà văn Thanh Châu cũng không chịu tiết lộ ai là T.T.Kh?:
Ngày xưa T.T.Kh đã viết: -Cố quên đi nhé câm mà nín…như một lời giao hẹn giữa hai người, ngày nay (1994) bà Vân Chung cũng lại viết trong bức thư ngỏ đề ngày mùng 4 tháng 11: trải qua bốn mươi năm,cả hai bên đều đã an phận từ lâu,cả hai bên đều có bổn phận đối với gia đình mình. Và ông Thanh Châu cũng đã viết trong bài tùy bút khi xưa: Tôi thì tôi chưa được biết mặt,biết tên thực của T.T.Kh, tôi chỉ biết rằng đó là một người đàn bà đã viết nên được những vần thơ đẹp trong lúc thực thà cảm xúc.Còn muốn gì hơn nữa? Còn bây giờ (1990) ông đã gần như lặp lại: T.T.Kh là ai? Có lẽ ta cũng chẳng cần biết rõ đó là ai?Tôi không tin rằng ai đó tìm ra bà,nếu bà còn đã đáng bậc bà-không thể được bà sẵn lòng tiếp đón.Một người đã cố tình quên đi,đào sâu chôn chặt mối tình đau xót bất hạnh của mình mà có những bài thơ như thế, chỉ bộc lộ một lần rồi dập tắt hẳn không giống kẻ kém tài, kém đức chỉ mong có nổi bài thơ tình được lên báo,vì danh hay vì lợi. Đó chính là lời tự sự đầy trách nhiệm, đầy nhân cách chỉ có ở những người thực sự đã & mãi mãi yêu nhau trên thế gian này. Đó cũng chính là câu trả lời cho câu hỏi ở trên kia một cách đủ đầy nhất, ý nghĩa nhất khiến cho ta vô cùng trân trọng...
Bây giờ, chúng ta hãy cùng nhà văn Trần Đình Thu “ghé thăm” ông, nhà văn Thanh Châu vào một buổi chiều cuối thu nhạt nắng của năm 2003 trong một căn gác nhỏ ở quận Tân Bình-tp.HCM,một buổi chiều giống như ngày ấy năm xưa bà Vân Chung-T.T.Kh đã mô tả:Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc-Tôi chờ người đến với yêu đương…
“…Khi đó ông đang nằm trên giường bệnh,nói năng rất khó khăn nhưng vẫn cố gắng trả lời những câu hỏi tò mò của tôi.Dù phải chắp nối để nghe cho rõ câu chuyện nhưng tôi cảm nhận được sự thổn thức trong tim ông khi ông nhắc lại mối tình đã tan vỡ gần bảy mươi năm về trước.Có lẽ đó là lần đầu tiên ông tiết lộ vài chi tiết về mối tình bi thương ấy cho một người nghiên cứu như tôi nghe…Tôi đã đưa đích danh Trần Thị Vân Chung ra để hỏi,nhưng trong lòng tôi cứ sợ ông chối,không nhận mình là người yêu của bà Trần Thị Vân Chung…vì thế tôi đã lặng người đi khi ông gật đầu trước câu hỏi đó của tôi.Sợ ông nghe nhầm câu hỏi,tôi phải hỏi đi hỏi lại ba, bốn lần,ghi âm cẩn thận & ông vẫn gật đầu: “Vâng,bà Vân Chung & tôi có yêu nhau”.Sau câu trả lời đó của ông,tôi đi sâu vào chuyện tình & ông đã không ngần ngại kể cho tôi nghe một số tình tiết câu chuyện…Tôi sung sướng tột độ trước những thông tin từ tiết lộ chân thành này của nhà văn Thanh Châu.Cùng đi với tôi có nhà văn Nguyễn Khoa Đăng…Tôi ghé sát vào tai ông & hỏi (vì khi đó ông đã khá nặng tai rồi):- Trần Thị Vân Chung có phải là T.T.Kh không ạ? Hai,ba lần hỏi ông mới nghe rõ & ngó mặt đi chỗ khác:Không!Không phải!Bà Vân Chung không phải là T.T.Kh.Toàn bày vẽ chuyện.
Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng thất vọng ra mặt, nhưng tôi thì khác.Tôi không hề đón chờ câu trả lời “Vâng, Trần Thị Vân Chung chính là T.T.Kh” vào lúc này.Dù rằng tôi phải hỏi bằng được câu hỏi ấy.Câu trả lời,nếu có phải là lúc ông sắp sửa đi xa mãi mãi vào cõi vô cùng.Hoặc có thể là không bao giờ có câu trả lời ấy…”
Nhận định của Trần Đình Thu là hoàn toàn chính xác,với nhân cách & tình yêu sâu nặng mà hai người đã (và có lẽ mãi mãi vẫn dành cho nhau) trong trái tim không ngừng thổn thức để chờ một ngày nào đó có thể cùng nhau trên con thuyền ngược về dĩ vãng,ông Thanh Châu sẽ không bao giờ tiết lộ điều mà họ đã ước hẹn từ những năm xa lắm,ngày xưa…
Nhưng chúng ta cũng đừng nên thất vọng,vì như ông nói:- Toàn bày vẽ chuyện lại không phải là một lời phủ định,vì sao?.Theo nghĩa tiếng Việt thì “bày vẽ chuyện” chỉ là Đừng có mà nhiều chuyện,đừng có mà tò mò-thóc mach (chuyện của người khác)…Còn nói theo ngôn từ Miền Nam là :
- Đừng có mà rách việc…Vậy,chúng ta còn mong gì hơn thế?
 Nhà văn Thanh Châu-Ảnh chụp năm 2003
3- Bí ẩn cuối cùng về bút danh T.T.Kh: Có lẽ bút danh không xa lạ với loài Người kể từ khi xuất hiện chữ viết,nhất là đối với các nhà văn,nhà thơ,nhà báo v.v...Dĩ nhiên là chẳng có qui định nào về bút danh phải thế này hay phải thế kia mà hoàn toàn phụ thuộc vào mỗi cá nhân,ví dụ có người lấy tên con hay tên đệm (tên lót) của hai vợ-chồng hay người yêu làm bút danh,thậm chí lấy một cái tên nào đó chẳng liên quan gì đến tên thật của mình hoặc là dùng bút danh với mấy chữ cái viết tắt,thông thường là dùng chữ cái đầu của Họ-Tên đệm (lót) & Tên thường dùng...đấy là những nét chính của việc dùng bút danh mà chúng ta thường thấy,chưa kể trường hợp người dùng bút danh nếu không muốn cho ai biết "mình là ai" chỉ với mấy chữ cái chẳng theo thứ tự nào thì không biết đâu mà đoán...Ở các phần trên chúng ta cũng đã chứng minh được bà Trần Thị Vân Chung là nữ thi sĩ T.T.Kh!.Còn lại điều bí ẩn cuối cùng chính là cái bút danh này,bây giờ chúng ta hãy cùng nhau khám phá:Trước hết,đây là bút danh thuộc "dạng" dùng những chữ cái đầu tiên của Họ-Tên đệm (tên lót) & Tên thường dùng như chúng ta thường thấy,nhìn vào ảnh minh hoạ chúng ta dễ dàng nhận ra 2 chữ cái đầu là Họ (Trần)-Tên đệm (Thị) nhưng không có chữ V(Vân) điều này không khó để lý giải bởi lẽ khi tác giả đã cố tình dấu kín danh phận thì việc bỏ (thậm chí là dùng chữ khác hẳn) một tên đệm nào đấy là hoàn toàn dễ hiểu & chấp nhận được...nhưng rắc rối nhất lại là: -Tại sao cụm chữ Ch (Tên thường gọi) lại có thể là Kh? Để lý giải được điều này chúng ta phải ngược thời gian về cách nay hơn 100 năm trước,đầu tiên việc dùng tên đệm Thị là chỉ con gái & chữ Văn để chỉ con trai là truyền thống từ xa xưa của các Cụ còn các tên đệm (lót) khác (ví dụ như: Vân,Thuý...) lại đa phần rơi vào những gia đình khá giả ngày xưa (xin lưu ý: Đừng nhìn sự việc theo nhãn quan của ngày hôm nay mà hãy "đặt" mình trong bối cảnh xã hội cách nay trên-dưới một thế kỷ...) Lật lại lịch sử chúng ta cũng sẽ thấy rằng có khá nhiều tên gọi hay địa danh giữa người Việt và người Pháp "đá nhau" như thế nào xoay quanh hai chữ cái C & K (chữ trong ngoặc là người Pháp dùng) ví dụ: Bắc Cạn (Bac Kan)-Móng Cái (Mong Kay)-Lào Cai (Lao Kay) một trong những vấn đề lịch sử để lại như sau: Ngày 12/7/1907 toàn quyền Đông Dương Beau ký sắc lệnh thành lập tỉnh Lào Cai,đăng trên công báo Đông Dương số 1053 ra ngày 18/7/1907 (bản có dấu mang ký hiệu N 1053-mã lưu 400 hiện đang được lưu tại TT lưu trữ Quốc Gia tại Hà Nội) địa danh Lào Cai được chính quyền Pháp sử dụng trong các loại văn bản & con dấu chính thức lại viết & gọi là LAO KAY cho đến tháng 11/1950 (sau chiến dịch biên giới) chính quyền nước VNDCCH mới thống nhất đổi tên gọi là Lào Cai cho đến ngày nay.Trong tác phẩm "Đường Kach Mệnh" của Nguyễn Ái Quốc chúng ta đã thấy chữ C (cách) lại được viết thành chữ K (kach) nhưng có một điều chắc chắn là cụ Hồ không phải là người đầu tiên "nghĩ ra" để viết chữ C thành chữ K mà là do ảnh hưởng từ hệ thống hành chính & giáo dục thời thuộc Pháp...Ông Thanh Châu & Bà Vân Chung cũng từng theo học trong hệ thống hành chính & giáo dục ấy thì không thể không biết và không thể không bị ảnh hưởng…Phải chăng vì thế mà bà Vân Chung cũng "sáng tạo" viết chữ C tên mình thành chữ K & bỏ hẳn chữ Vân để tạo thành cụm chữ cái viết tắt T.T.Kh mà không để lộ Danh tính? 
4- Nhìn lại “chặng đường” đã qua:
Chúng ta cũng vừa “đi” hết chặng đường tái khám phá bí ẩn:
-Ai là T.T.Kh? & đã có thể mở toang được cánh cửa chứa đựng toàn bộ những điều bí mật từ hơn 70 năm qua để tất cả những ai quan tâm đến câu chuyện tình buồn này cùng được biết, cùng thấu hiểu,cùng tiếc nuối cho một mối tình đầy lãng mạn nhưng cũng vô cùng đớn đau của một thời dĩ vãng chưa thể lãng quên & chúng ta cũng có thể tin rằng đến đây điều bí ẩn Ai là T.T.Kh? sẽ chính thức được khép lại…
Kết thúc việc tái “khám phá bí ẩn” này chúng ta chắc chắn đã có được những dữ kiện sau:
A- Cũng như ông Thanh Châu, chúng ta đã chứng minh được rằng:-Mọi đồn đoán về các nhà thơ như Nguyễn Bính,Thâm Tâm hay Trần Thị Khánh.v.v…chẳng liên quan gì đến T.T.Kh!
B- Rõ ràng là khi truyện ngắn Hoa Tigôn của nhà văn Thanh Châu ra đời thì mới xuất hiện bài thơ Hai sắc hoa Tigôn của T.T.Kh & những bài thơ tiếp theo trong hai năm 1937-1938. Sự liên quan ấy đến nay cũng đã được “người trong cuộc”-nhà văn Thanh Châu xác nhận qua bài viết của ông.Như vậy cũng dẫn đến sự liên quan giữa hai tác giả là nhà văn Thanh Châu & Nữthi sĩ ẩn danh T.T.Kh!
C-Từ điều đã biết về mối tình giữa ông Thanh Châu & bà Vân Chung do chính họ xác nhận.Chúng ta cũng đã chứng minh được rằng bà Trần Thị Vân Chung chính là Nữ thi sĩ T.T.Kh,bởi không ai có được một “Nhân thân”quá phù hợp & trùng khớp so với tình yêu ngoài đời thực như Bà, mà điều đó đến nay cũng đã được một “nửa kia” của Bà-nhà văn Thanh Châu gián tiếp thừa nhận.
D-Do hoàn cảnh lịch sử những năm chiến tranh 1954-1975 cũng như một số năm sau đó cho nên ở ngoài miền Bắc đa phần chỉ biết đến hai bài thơ của bà Vân Chung-T.T.Kh là:-Hai sắc hoa Tigôn & Bài thơ thứ nhất,ngược lại ở miền Nam suốt từ sau năm 1954 đến 1975 vẫn đều đặn xuất bản các tác phẩm văn-thơ của thời tiền chiến (giai đoạn 1930-1939) & kể cả giai đoạn sau đến năm 1945…
nên nguồn tư liệu nhờ thế mà không bị gián đoạn & cho đến hôm nay,chúng ta cũng đã biết được một điều chắc chắn là ngoài hai bài thơ nêu trên,bà Vân Chung-T.T.Kh còn có hai bài thơ nữa là:   Bài thơ đan áo & Bài thơ cuối cùng như chính nhà văn Thanh Châu xác nhận,bởi ngoài “sự liên quan” ông còn là một thành viên trong tòa soạn Tiểu thuyết thứ bảy nơi đã đăng báo ba trong số bốn bài thơ đã dẫn vào hai năm 1937-1938!.
E-Đây là thể loại “điều tra” về văn học sử,chúng ta không thể trông đợi những người trong cuộc phải chính thức lên tiếng thừa nhận ai là T.T.Kh thì mới là điều xác tín vì như thế thì lại không đúng với nhân cách cũng như hoàn cảnh thực tế của họ!Chúng ta chỉ có thể nhận được sự thật ở họ một cách gián tiếp mà thôi,vì thế ta phải “đi đường vòng” bằng chính những sự kiện có thật ngoài đời-các tác phẩm của chính họ & của những người liên quan đến câu chuyện để từ đó phân tích,lý giải,phản biện & chứng minh nhằm tìm ra sự thật vốn có một cách thuyết phục nhất có thể,còn nếu vẫn nghi ngờ thì chính chúng ta sẽ lại phải chứng minh những điều ngược lại từ những tài liệu mà ta có!. Bạn có phản biện được không?
VỀ NGUỒN GỐC TÀI LIỆU:
Những tài liệu có liên quan trực tiếp đến câu chuyện tình buồn này đều có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, được trích dẫn qua những tác phẩm,bài viết hay thư tín của các tác giả đã được in ở những nhà xuất bản cũng như các tờ tạp chí,tờ báo có uy tín từ xưa cho đến ngày nay!.Tuy nhiên,có hai bài viết & tác phẩm cho đến nay chưa biết rõ chính xác đã được đăng ở báo nào? Đây là ý kiến của nhà văn Lại Nguyên Ân về vấn đề này gửi cho tôi khi loạt bài này được đăng trên trang Văn chương Việt
*Về bài viết của Bùi Viết Tân (đăng trong Tạp chí Văn nghệ kháng chiến số tháng 5 năm 1951)ông viết:-“…Tạp chí Văn Nghệ kháng chiến nào?Nếu là tạp chí Văn Nghệ của Hội văn nghệ ViệtNam, xuất bản tại Việt Bắc,thì tạp chí này không có số nào ra vào tháng 5/1951, cũng chưa từng đăng bài nào của tác giả Bùi Viết Tân suốt từ số 1(ra năm 1948) đến số 56 (ra tháng 10/1954,là số cuối cùng in ở Việt Bắc). Nói rõ hơn: Sau số kép 27 & 28 (tháng 11 & tháng chạp năm 1950) Văn Nghệ đổi đề tài, trên thực tế là ngừng khá lâu; số 29 được ghi là “loại mới” ra ngày 15/8/1951 & trong năm 1951 chỉ ra thêm được 4 số nữa,tới số 34(ra ngày 15/12/1951)mà thôi.Vậy đào đâu cho thấy số ra vào tháng 5/1951?.Xin nhắc:-Toàn bộ tạp chí Văn Nghệ thời kháng chiến 1946-1954 của Hội văn nghệ Việt Nam đã được làm thành sưu tập, NXB Hội Nhà Văn in từ năm 1996 đến 2006 gồm 7 tập, do nhà báo Hữu Nhuận & tôi sưu tầm và biên soạn, bạn nào cần tìm bài vở xuất hiện ở thời kỳ đó,xin tìm sưu tập đó, hiện có tại các thư viện”
Câu hỏi được đặt ra ở đây là:-Liệu trong thời gian kháng chiến ngoài tạp chí của Hội văn nghệ Việt Nam xuất bản tại Việt Bắc còn có tờ tạp chí Văn nghệ nào khác,in ở Liên khu nào đó ngoài Việt Bắc hay không?và nếu không thì tại sao bài viết ấy ở đâu ra mà lại được các tác giả Thế Phong & Trần Đình Thu cũng như nhiều tờ báo sau này đăng lại? ví dụ như:-Tuần báo Văn nghệ của Hội nhà văn,tạp trí Kiến thức ngày nay v.v…
**Về bài thơ Bài thơ đan áo thì một “người trong cuộc” là nhà văn Thanh Châu viết(năm 1990): “Đã thế lại còn Bài thơ đan áo(1938).Ai đã đem bài thơ này của T.T.Kh đăng lên báo Phụ nữ thời đàm (phố Hội Vũ)?...” Nhà văn Lại Nguyên Ân cho biết về xuất xứ của mấy tờ báo,trong đó có tờ báo mà ông Thanh Châu vừa nhắc đến: “Phụ nữ thời đàm không hề đóng tòa soạn ở phố Hội Vũ bao giờ! Đây là tờ báo tư nhân của ông,bà Nguyễn văn Đa ở 11-13 phố sông Tô Lịch(nay là phố Hàng Lược) ban đầu hoạt động như một tờ nhật báo; số 1 ra ngày 8/12/1930; đến năm 1933 chủ nhân tờ này mời Phan Khôi làm chủ bút, ổi sang tuần báo, ra số 1 ngày 17/9/1933 kéo dài đến số 26(5/6/1934)sang năm 1938 một nhóm theo xu hướng Đệ tam quốc tế đã tục bản Phụ nữ thời đàm tại trụ sở 59 phố Hà Trung-Hà Nội,tờ này chỉ tồn tại được trong gần 4 tháng(25/8/1938-12/1938).
Trên thực tế, không hề có việc Phụ nữ thời đàm đăng bài thơ của T.T.Kh…Tờ báo có thể đã can dự việc đăng thơ T.T.Kh là tờ báo có tên Phụ Nữ đóng tòa soạn tại nhà số 7 phố Hội Vũ-Hà Nội, chủ nhiệm là bà Nguyễn Thị Thảo. Chính Nguyễn Vỹ đã làm biên tập cho tờ này nên khi làm bài thơ “Gửi Trương Tửu” mới có câu “còn tôi bưng thúng cho đàn bà…”(trích theo trí nhớ,có thể chưa chuẩn xác).Tờ này hiện không còn sưu tập nào lưu ở mấy thư viện lớn ở Hà Nội,nên ai nói căn cứ vào nó thì hẳn là nói dựa,lấy nguồn gián tiếp từ các bài hồi ức hoặc bài báo vu vơ nào đó,rất khó chuẩn xác.”
Như vậy ở đây phải chăng đã có sự nhầm lẫn giữa tờ báo Phụ nữ với Phụ nữ thời đàm vì quá lâu ngày của nhà văn Thanh Châu như chính ông đã viết:Nửa đêm chợt tỉnh anh Lư có còn nhớ nhiều không,với sức nhớ của người trên 70 rồi?...
Một câu hỏi nữa là nếu như Chính Nguyễn Vỹ đã làm biên tập cho tờ này (tức báo Phụ Nữ tòa soạn tại số 7 phố Hội Vũ-Hà Nội) thì tại sao khi viết câu chuyện “Thâm Tâm & Sự thật về T.T.Kh” (từ trang 297 đến trang 312) in trong cuốn “Văn-Thi sĩ tiền chiến”-Xuất bản lần đầu năm 1970-Tái bản năm 2007 ông lại không hề nhắc tới việc Bài thơ đan áo đã được đăng ở báo này vào năm 1938?. Phải chăng điều đó cũng là một dạng (trích theo trí nhớ,có thể chưa chuẩn xác) của nhà văn Lại Nguyên Ân?...Ông Hoàng Tiến trong bài viết năm 1989 có nhắc đến Bài thơ đan áo in ở báo Phụ nữ nhưng lại không cho biết trụ sở tòa soạn nằm ở đâu? Theo như kết luận của nhà văn Lại Nguyên Ân thì hiện nay tờ báo Phụ nữ này không còn được lưu trữ tại mấy thư viện lớn ở Hà Nội.Vậy nếu tờ báo này vẫn có thể có ở những nhà sưu tập cá nhân hoặc tại những thư viện nhỏ thì sao?vì vậy nếu cho rằng:… lấy nguồn gián tiếp từ các bài hồi ức hoặc bài báo vu vơ nào đó,rất khó chuẩn xác liệu có quá vội vàng?Hơn nữa nếu không có Bài thơ đan áo thì chắc chắn T.T.Kh sẽ không thể có Bài thơ cuối cùng để làm gì & chúng ta cũng không thể nào phản bác được sự liên quan “cơ hữu” với nhau giữa hai bài thơ nêu trên!...cho nên thực ra việc tờ báo nào đã đăng bài thơ này cũng không hề làm ảnh hưởng đến việc tìm ra sự thật về T.T.Kh!...nhưng dẫu sao việc tìm ra được tờ báo nào thực sự đã đăng tải nó cũng là một việc cần thiết nhằm trả lại một sự thật vốn có của một thời đã qua trong lịch sử báo chí và văn chương nước nhà…
* THAY LỜI KẾT:
Ngày 28 tháng 9 năm 2007 tôi gặp tác giả của “Giải mã Nghi án văn học T.T.Kh” Trần Đình Thu lần đầu,tác giả đã ký tặng vào cuốn sách …Trần Đình Thu chỉ kém tôi vài tuổi cũng coi là cùng một thế hệ,hai chúng tôi cũng còn gặp nhau vài lần nữa,chủ yếu là cùng bàn luận về cuốn sách cũng như về bà T.T.Kh, tôi có nêu lên vài thắc mắc về một số dữ kiện chưa được rõ lắm, Trần Đình Thu kể về cuộc nói chuyện với nhà văn Thanh Châu mà anh đã ghi âm lại, cũng như lần gặp bà Thư Linh người được ví như Nguồn sáng đầu tiên soi rọi vào một “cánh cửa” chứa đựng những bí ẩn bên trong mà sau đó Trần Đình Thu chính là người đã tìm ra chiếc “chìa khóa” để mở cánh cửa này, tuy nhiên có lẽ do lâu ngày “chiếc chìa khóa” ấy vẫn còn bị bám nhiều “bụi thời gian” nên hơi khó mở,nó giống như những thắc mắc mà tôi nêu lên chủ yếu là vì tác giả chưa chú ý phân tích, lý giải thật cặn kẽ cho đến tận cùng về nhiều sự kiện được đưa ra làm dẫn chứng, đặc biệt là những“bí ẩn” đằng sau việc tại sao những người trong cuộc lại phủ nhận mình là T.T.Kh...một cách thuyết phục. Khiến cho độc giả vô cùng hoang mang nhất là sau khi đọc hai lá thư ngỏ gửi từ Pháp về của bà Vân Chung nhân vật mà trước đó đã được tác giả chứng minh chính là Nữ thi sĩ “bí ẩn” T.T.Kh được đăng công khai trên một số tờ báo điều đó cũng dẫn đến sự “phản biện” khá gay gắt của một số tác giả như: -Thanh Hải viết trên báo Pháp Luật-tp.HCM số ra ngày Chủ Nhật 18-3-2007 hoặc từ nước ngoài (Việt Duy-Paris 20/3/2007-newvietart.com).v.v… Trong khi mục đích xuyên suốt của cuốn sách là để nhằm chứng minh một sự việc có thật đã xảy ra cho đúng với sự thật vốn có thì ngoài các sự kiện,các dẫn chứng phải là những Sự Thật thì việc phân tích,chứng minh,diễn giải của người viết phải lấy tiêu chí thuyết phục được mọi người làm yếu tố quan trọng nhất… Trần Đình Thu cũng hoàn toàn đồng ý với ý kiến đó.Tuy nhiên,dù còn tồn tại những điểm nêu trên thì cũng phải nói rằng anh đã làm được điều mà Thế Phong chưa làm được,chỉ riêng việc những “người trong cuộc” không có phản ứng gì đã là một chứng chỉ được “cấp” cho những cố gắng không biết mệt mỏi của Trần Đình Thu rồi (lưu ý là trong bài viết của tác giả Thanh Hải có cho rằng:
-Sau khi tác phẩm “Giải mã nghi án văn học T.T.kh” ra đời thì bà Vân Chung cũng viết thư phản ứng,nhưng tác giả lại không đưa ra được bằng chứng là bức thư ấy đăng ở báo nào,ở đâu & ngày nào?...)…Tôi quyết định viết lại câu chuyện này xem như làm nốt phần việc còn lại là sắp xếp các sự kiện,dẫn chứng cho có lớp lang, dễ hiểu,lược bớt những phần trích dẫn dài dòng không liên quan đến câu chuyện từ những gì Trần Đình Thu đã có công phát hiện, thu thập trong cuốn sách của anh, ngoài ra dưới mỗi sự kiện hay những câu thơ đưa ra làm dẫn chứng tôi có thêm vào những phần bình luận, phân tích, diễn giải, chứng minh của mình sau khi xem lại nhiều lần các tài liệu liên quan mà tôi có hoặc những phân tích,chứng minh của Trần Đình Thu còn thiếu do chưa diễn giải đến tận cùng của sự việc hay còn bỏ sót khi viết cuốn sách nêu trên,nhất là từ lá thư của bà Thư Linh,hai lá thư ngỏ của bà Vân Chung cũng như bài viết cuối cùng của nhà văn Thanh Châu năm 1990…
Tôi cũng đã đến tìm chị Phạm Minh Chi (cháu gọi bà Vân Chung là bác ruột) tại 333/14/8 Lê Văn Sỹ-Q.Tân Bình-tp.HCM, nhưng rất tiếc là theo hàng xóm cho biết thì chị & gia đình đã đi xuất cảnh…ngày 28/5/2013 tôi điện thoại gặp bà Đ.T.M.Đ là chủ mới của căn nhà nêu trên (vì lần trước đến tìm thì bà ấy đi vắng) bà M.Đ cho biết gia đình bà mua lại căn nhà này từ năm 2003, vừa rồi có hai người con của chị Minh Chi từ Mỹ về có ghé thăm, xin được vào nhà như muốn tìm lại những kỷ niệm về một thời thơ ấu…
Trước & sau khi viết xong toàn bộ loạt bài này,tôi cũng đã gặp lại nhà văn Trần Đình Thu & cũng đã gửi đến anh như một “tặng phẩm”… Trần Đình Thu rất ủng hộ,anh bộc lộ nhiều dự định liên quan đến câu chuyện này cho ngày mai của mình…Câu chuyện tình buồn 75 năm về trước sẽ được đưa lên màn ảnh,kịch bản phim truyện “T.T.Kh-Hai sắc hoa Tigôn” do chính Trần Đình Thuviết, biên tập là nhà biên kịch Phạm Thùy Nhân. Chúng ta cùng chờ đón để hòa mình vào với câu chuyện tình năm xưa là lúc bộ phim được hoàn thành vào một ngày không xa…
Khi viết loạt bài này thì nhà văn Thanh Châu đã trở về miền cực lạc được hơn 5 năm, ông mất ngày mùng 8 tháng 5 năm 2007 hưởng thọ 96 tuổi.Còn bà Vân Chung đến nay nếu còn cũng đã 94 tuổi, không biết bà có còn không,một mình trên thế gian này? Đời người như “bóng câu qua sổ” khiến cho ta không khỏi bùi ngùi khi chợt nhớ đến những vần thơ đớn đau thuở nào của bà Vân Chung-T.T.Kh và dường như cũng rất hợp để tiễn ông về với cõi hư không:
                           -Anh hỡi,tháng ngày xa quá nhỉ?
                            Một mùa thu cũ một lòng đau…
Bà Vân chung đã định cư tại Pháp từ năm 1986 nên chúng ta không có điều kiện biết được nhiều về bà,cầu mong bà tuổi già chân cứng đá mềm, sống vui vầy cùng con, cháu ở một chân trời xa tít tắp cho đến ngày theo qui luật muôn thuở của Trời-Đất…như ngày xưa  Hoài Thanh-Hoài Chân khi viết lời giới thiệu về T.T.Kh cũng đã cảm thán rằng:“…Ai biết Con người vườn Thanh bây giờ ra sao? Liệu rồi đây người ấy có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn riêng cho đến khi về nơi chín suối?... ”
Nếu có kiếp sau,xin cầu chúc cho ông,bà gặp lại & thành vợ thành chồng.Bởi vì họ xứng đáng có được một cái kết có hậu như thế với tình yêu đầu đời mang vẻ đẹp thật chân thành,thật nhân văn của tình người & cũng vô cùng lãng mạn như những bông hoa Tigôn bé nhỏ mang hình trái tim e ấp trước sân nhà người con gái đang yêu & được yêu,nhưng họ lại không thể cùng nhau đi đến đích cuối cùng, một bến bờ của hạnh phúc lứa đôi,mà vì thế đã tạo nên một tình khúc buồn suốt 75 năm qua trong cuộc đời này…
Ngày hôm nay,quan niệm “môn đăng-hộ đối” tuy không còn quá nặng nề như ngày xưa,nhưng cũng chưa hẳn là đã chấm dứt & cũng còn có ở đâu đây, những người vẫn phải đớn đau chia tay người yêu để theo chồng về nhà khác hay đưa người “không yêu” về nhà mình với rất nhiều lý do khác nhau,đôi khi cũng chỉ có mình họ biết với những nỗi niềm dấu kín trong tim & mang theo suốt cả cuộc đời…bởi vì Tình yêu đích thực thì ít lắm nhưng những tình cảm “gần giống” với tình yêu vốn lại rất nhiều.Phải chăng cũng vì thế mà ở trên thế gian này có không ít những mối tình dang dở giống như những vần thơ như khóc,như than của T.T.Kh thuở trước?...
Và tôi muốn dành tặng những trang viết này cho tất cả những ai ở trong hoàn cảnh như thế,xem như một lời an ủi chân thành nhất, bất kể họ là đàn ông hay đàn bà thì nỗi bất hạnh vì yêu mà không lấy được nhau, lấy nhau mà không có được tình yêu đôi lứa hoặc phải chấp nhận một tình cảm gần giống với tình yêu thì cũng có gì là khác nhau mấy đâu?...
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
 1-Giải mã nghi án văn học T.T.Kh-NXB Văn hóa Sài Gòn-2007- tác giả Trần Đình Thu
 2-T.T.Kh Nàng là ai?-NXB VHTT-2001-tác giả Thế Phong
3-Việt Nam Thi nhân tiền chiến-NXB Sống Mới-SG-1968-Nguyễn Tấn Long-Nguyễn Hữu Trọng
4-Thi nhân VN-NXB Văn học-2008- tác giả Hoài Thanh-Hoài Chân
5-Văn-Thi sĩ Tiền chiến-NXB Văn học-2007-tác giả Nguyễn Vỹ (in lại từ bản in năm 1970)
6-Thâm Tâm & T.T.Kh -NXB Hội nhà Văn-1991-tác giả Hoài Việt
7-Tuyển tập Nguyễn Bính-NXB Văn học-1986-tác giả Vũ Quốc Ái,Đỗ Đình Thọ,Quang Huy,Kim Ngọc Diệu
8-Thơ Thơ -Xuân Diệu-NXB Hải Âu Sài Gòn-1968
9-Đoạn tuyệt-NXB Hội Nhà văn-2008-tác giả Nhất Linh
10-Gánh hàng Hoa- NXB Hội Nhà văn-2006-Nhất Linh-Khái Hưng
11-Xin hãy kiểm tra lại các nguồn tư liệu-Trang Vanchuongviet.org-Lại Nguyên Ân.
12-Huyền thoại hoa Ti Gôn-NXB Hội Nhà Văn-2008-tác giả Ngọc Thiên Hoa.
Tp.HCM tháng 7 năm 2012-Tháng 8 năm 2015
Đỗ Thế Cường
Theo http://www.vanchuongviet.org/








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Cà phê bên sông Cà Ty – Chùm thơ Thanh Tâm 31 Tháng Mười Hai, 2023 Mây xa nhớ nắng mây đen/ Ta gần mà chẳng ai thèm nhìn nhau… Cà ...