Lãng du trong văn học Ai Cập
Nhà văn, nhà viết kịch Ai Cập
Naguib Mahfouz (1911-2006) sinh trong một gia đình viên
chức nhỏ. Năm 1934 ông tốt nghiệp lọai ưu khoa Triết học Đại học Tổng
hợp Cairo.Tác phẩm đầu tay của Mahfouz là tập truyện ngắn “Tiếng thì
thầm cuồng dại” (Hams al-junun, 1938). Tiếp theo ông xuất bản 2 tiểu thuyết lịch
sử nói về thời huy hoàng hàng ngàn năm của Ai Cập: “Radubis”
(1943); “Cuộc đấu tranh của Phib” (1944). Ngoài tiểu
thuyết lịch sử, Mahfouz còn viết tiểu thuyết xã hội. Sau đại chiến
thế giới II, ông chuyển sang đề tài hiện đại với Bộ sách gồm ba tiểu thuyết về Cairo (The
Cairo Trilogy) 1. “Giữa những lâu đài”; 2. “Chính quyền bền
vững”; 3. “Ngôi nhà em yêu”. Trong thời gian 1961-1967
ông viết theo bút pháp: đề tài gay cấn, ngôn ngữ đối thọai cô đọng. Tiểu thuyết
“Tấm gương” kể về 55 nhân vật đại diện cho các tầng lớp người khác nhau trong đất
nước Ai Cập. Những tác phẩm khác đáng lưu ý của Mahfouz là tiểu thuyết “Số
phận trớ trêu” (1939); tiểu thuyết “Chim cút mùa thu” (1962); tiểu
thuyết “Ánh sáng của Thượng đế” (1964); tiểu thuyết “Tiếng huyên náo
trên dòng sông Nil” (1966); tiểu thuyết “Tình yêu trong mưa” (1973);
sử thi “Anh hùng ca Harafish” (1977).
Sự nghiệp văn chương của
Mahfouz gồm 30 tiểu thuyết, 18 tập truyện ngắn và kịch. Mahfouz nổi
tiếng trong nước và ở nước ngoài chủ yếu qua 60 bộ phim, trong đó có
25 phim do ông viết kịch bản. Ông được đánh giá là nhà văn hiện đại
lớn nhất của Ai Cập. Các tác phẩm của ông phản ánh số phận của đồng bào, giúp họ
nhận biết vị trí của mình trong xã hội và gìn giữ bản sắc văn hóa độc đáo của
Ai Cập. Ông nhận giải thưởng Nobel văn học năm 1988 vì sáng tác của
ông tác động tích cực đến đời sống xã hội quê hương ông.
Lợi đấy, nhưng cũng hại lắm
Naguin Mahfouz là cây đại thụ của
văn học Ai Cập, nhà văn hiện đại lớn nhất thế giới Arập. Ông là người
gắn bó tâm tư tình cảm, hơi thở và nhịp sống của nhân dân Ai Cập qua bộ tiểu
thuyết Cairo (gồm 3 tập:
1. “Giữa những lâu đài”;
2. “Chính quyền bền vững”;
3. “Ngôi nhà em yêu”.
Bộ tiểu thuyết đề cập đến tầng lớp trung lưu và những người lao động nghèo ở Cairo. Tác phẩm này được coi là một biên niên sử về đời sống Ai Cập. Các nhà phê bình văn học gọi ông là "Balzac của Cairo".
1. “Giữa những lâu đài”;
2. “Chính quyền bền vững”;
3. “Ngôi nhà em yêu”.
Bộ tiểu thuyết đề cập đến tầng lớp trung lưu và những người lao động nghèo ở Cairo. Tác phẩm này được coi là một biên niên sử về đời sống Ai Cập. Các nhà phê bình văn học gọi ông là "Balzac của Cairo".
Có một nhà báo hỏi ông:
- Giải Nobel có ảnh hưởng thế
nào đến cuộc sống và những sáng tác về sau của ông?
- Vâng, giải thưởng đã khuyến
khích công việc sáng tác của tôi. Nhưng đáng tiếc là vinh dự này đến với tôi muộn
quá, khi tôi đã ở dốc bên kia của cuộc đời.
Từ khi đoạt giải Nobel, tác
phẩm của ông đã có những ảnh hưởng gì đến nền văn học Ai Cập?
- … một cái lợi mà giải
Nobel này mang lại là nhờ có nó mà nhiều tác phẩm văn học Ảrập được dịch sang
các ngôn ngữ khác.
Năm 1954, ở tuổi 43, Mahfouz
kết hôn với Atiyyatallah Ibrahim. Họ có hai đứa con - Fatma và Umm Kulthoum. Đó
là tất cả những gì ít ỏi người ta biết về đời tư của cây bút nổi tiếng nhất Ai
Cập. Mahfouz phải hứng chịu khá nhiều phản ứng dữ dội sau khi được
giải thưởng Nobel văn học.
- Từ khi đoạt giải Nobel đến
nay, sự kiện nào là quan trọng nhất đối với ông?
- (chỉ vào cổ) Đây, một cú đánh
mà tôi nhận được năm 1994 (Mahfouz muốn nói đến lần ông bị ám sát hụt. Một tín
đồ Hồi giáo cực đoạn đã cố đâm dao vào cổ. Tay phải nhà văn đã bị tê
liệt một thời gian dài sau đó).
LỜI BÌNH: Hơn 10.000 năm trước
đây, châu thổ sông Nil là nơi khởi đầu một nền văn minh sớm của thế giới. Cùng
với sự xuất hiện nền văn minh Ai Cập cổ là các công trình xây dựng vĩ đại trên
một khu vực tập trung dày đặc. Ai Cập cổ đã để lại và đóng góp cho nhân loại một
trong Bảy kỳ quan thế giới cổ đại, đó là Kim tự tháp Giza và tượng
nhân sư Sphinx khổng lồ. Sông Nil đoạn chảy qua Ai Cập dài
1.200 km. Nhà nước Ai Cập cổ đại có 30 pharaon xuất hiện từ thiên
niên kỷ 4-3 trước Công nguyên. Ai Cập là một trong những
cái nôi của văn minh nhân loại, có nhiều thành tựu rực rỡ về khoa học và nghệ
thuật. Những điều trên ai cũng biết, nhưng rất ít người nước ngoài thông thạo
tiếng Arập tới mới có thể dịch thơ văn Arập sang tiếng Anh để cả thế giới có dịp
thưởng lãm thơ văn Arập. Văn đàn Arập hiện đại cứ như một ốc đảo. Trường
hợp Naguib Mahfouz là một ngoại lệ. Ông là người con ưu tú của Ai Cập.
Ông là nhà văn đưa tiểu thuyết thành thể loại trụ cột trong nền văn học Ai Cập. Với
30 tiểu thuyết, ông trở thành “một sứ giả nghệ thuật, bến đỗ đầu tiên “ để
độc giả tiến vào văn học hiện đại Ai Cập.
Ông nhận thức rất rõ vai trò
của một nhà văn trong việc kế thừa tinh hoa văn hoá dân tộc, giới thiệu để thế
giới biết tới dân tộc mình, vì vậy trong diễn từ nhận giải Nobel văn học,
Naguib Mahfouz viết:
- Tôi là con của
hai nền văn minh (bảy nghìn năm văn minh pharaon và một nghìn bốn trăm năm văn
minh Islam) đã kết hôn với nhau ở một thời kỳ nào đó trong lịch sử.
Ông kể hai giai thoại, một về
văn minh pharaon:”Xin quý vị hãy lắng nghe một biến cố lịch sử được ghi lại như
sau: một văn bản viết trên giấy papyrus kể lại rằng,
một vị pharaon biết được mối quan hệ tội lỗi giữa mấy
cung nữ và mấy bậc quần thần. Mọi người chờ đợi đấng quân
vương sẽ kết liễu đời họ theo lệ tục thời đó. Nhưng không, ông cho gọi
quan hình luật đến bảo điều tra sự việc mà ông biết. Ông nói
là ông muốn biết Sự Thật để phán quyết của mình đưa ra có Công
Lý.” Rồi Mahfouz kết luận:
- Thái độ
này của vị Pharaon lớn hơn việc tạo dựng đế chế và xây nên Kim Tự Tháp…Đến một
ngày nào đó Kim Tự Tháp vĩ đại cũng sẽ biến mất. Nhưng
Sự Thật và Công Lý sẽ mãi mãi còn chừng nào Nhân Loại còn có đầu óc suy nghĩ và
ý thức.
Một về văn minh Islam (Hồi
giáo): “ …, tôi giới thiệu nền văn minh này ở một tình huống kịch tính đầy cảm
động: Trong một trận đánh thắngquân Byzantium, người cầm quân đem tù
binh đổi lấy một số lớn sách cổ Hy Lạp viết về triết học, y học và toán học. Đây
là một bằng chứng đánh giá cao trí tuệ của con người.”
Mahfouz cho rằng, đó là những
minh triết của văn minh Arập, “là hành động cao thượng và dũng cảm.” Không
những giới thiệu tinh hoa văn hoá Arập, Mahfouz còn đề xuất cách giải
quyếtvấn đề nổi cộm, nóng bỏng mang tính sống còn của nhân loại ngày
nay. The ông, các nhà khoa học đang nỗ lực làm sạch môi trường
khỏi ô nhiễm công nghiệp thì các nhà trí thức cũng phải nỗ lực làm sạch
nhân loại khỏi sự ô nhiễm đạo đức. Cuối cùng ông nhận
xét: “Trong hỗn độn của thế giới ngày nay, Cái Ác là một
kẻ trác táng huyên náo, ầm ĩ. Con người nhớ về nỗi đau nhiều hơn là
niềm vui. Ông kết thúc diễn từ bằng thơ của Abul-Alaa
Al-Ma’ari:
Nỗi buồn vào giờ chết - Hơn
gấp nhiều lần - Niềm vui vào giờ sinh.
Ngày nay nhắc tới nước Anh
là người ta liên tưởng tới kịch của Shakespeare(1564-1616), vì kịch của
Shakespeare là đỉnh cao của nghệ thuật sân khấu thế giới. Kịch
của ông ngày nay vẫn được diễn, quay thành phim, nó có ảnh hưởng lớn đến sân khấu
hiện thực.
Cuộc đời sáng tác của ông
chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất từ 1600 trở về trước (chủ
yếu là hài kịch và kịch lịch sử), giai đoạn thứ hai từ 1600 tới 1608 (chủ yếu
là bi kịch), giai đoạn thứ ba từ 1608 tới 1612 với không khí thần thọai nên
thơ. Ngoài kịch Shakespeare còn viết 150 bài thơ sonnette là thơ
tình và thơ tư duy.
Người viết sách này đã từng
xem những vở kịch sau của Shakespeare trong thời gian học ngữ văn Đức ở ĐHTH Karl Marx (1968-1974) thành phố Leipzig (Đức): “Giấc mộng
đêm hè” (A Midsummer Night’s Dream, 1595); “Người lái
buôn thành Venice” (The Merchant of Venice, 1596), “Richard
Đệ nhị” (Richard II, 1595), “Julius Ceasar”
(1599); “Romeo và Juliet” (Romeo and Juliet, 1594); “Hamlet”
(1600); “Macbeth” (1600); “Vua Lear” (1605); “Othello” (1604); “Đêm
thứ mười hai” (Tweilfth Night, 1602).
Shakespeare là văn hào lớn
cuối cùng của tư tưởng nhân văn trong trào lưu văn nghệ phục hưng ở
châu Âu từ giữa thế kỷ 14 tới đầu thế kỷ 17. Đề tài kịch của
ông lất từ cốt chuyện của Đan Mạch, Italia, Anh .v.v. nên đa dạng,
phong phú, đả phá tư tưởng phong kiến, tôn giáo, phản ánh sự thống trị của đồng
tiền trong giai đọan đầu của chủ nghĩa tư bản.
TỪ VUA LEIR TRUYỆN
CỔ DÂN GIAN ANH ĐẾN BI KỊCH VUA LEAR CỦA SHAKESPEARE TRONG VĂN
HỌC ANH
Năm 1585, ở tuổi 21,
Shakespeare rời quê hương Stratford đến kinh thành London với
hai bàn tay trắng và lòng đam mê sân khấu. Cũng giống Molière,
Shakespeare cũng là diễn viên (năm 1594 ông là diễn viên đoàn kịch của bá tước
vùng Leicester), tác gia kịch bản kiêm đạo diễn. Để lấp khoảng
trống kiến thức của mình, ông có cuốn sách gối đầu giường là Biên
niên sử nước Anh, Ailen, Scốtlen (England, Irlang,
Schottland). Bổ sung cho kiến thức văn hóa cổ đại La Mã,
ông đọc bộ sách nổi tiếng Truyện danh nhân của Plutarque.
Shakespeare học hỏi được rất nhiều ở bộ tự điển sống – học giả Italia Giovannie
Florio đang sống lưu vong ở London. Bá tước Southampton
đã bắc nhịp cầu để Shakespeare đến với xã hội thượng lưu
quý tộc London. Vốn kiến thức về nước Pháp, văn hóa Pháp,
Shakespeare có được nhờ việc kết giao với một thương gia Pháp đang sống ở London. Không
những thế, Shakespeare còn lắng nghe học hỏi nghề ngfhiệp sân khấu ở nơi các diễn
viên, ở công chúng xem kịch. Tất cả những điều nói trên là nguồn sữa tươi mát
vô tận cho những cảm hứng sáng tạo của kịch gia Shakespeare. Kịch
của Shakespeare mang *hồn thời đại, luôn đáp ứng
được mong đợi của người xem.
Nguyên thủy Vua
Leir (Lear) là truyện cổ dân gian Anh. Vua Leir có 3 con gái là
Gonorilla, Regan, cô út tên là Cordeilla. Theo truyền
thống cổ xưa ở nước Anh (Pháp, Đức cũng vậy), khi vua cha già yếu thì chia đều
giang sơn cho các con. Theo tục lệ đó nên giang sơn vua Leir chia làm 3 phần đều
nhau cho 3 con gái. Trong truyện cổ dân gian Anh thì câu chuyện xoay quanh Thiện-Ác. Làm
việc Thiện sẽ được thưởng công xứng đáng.
Làm việc Ác sẽ bị trừng phạt. Vào năm 1135, Georffrey of Monmouth xuất bản Historia regum Brintanniae von Leir, đây là một biến thái (Maerchenvariant của King-Leir - truyện dân gian Vua Leir). Để thử thách tình thương của 3 con gái với vua cha. Vua Leir đặt câu hỏi, Ai trong số 3 con yêu quý vua cha nhất? Hai cô chị dùng mọi lời lẽ để tỏ lòng yêu quý cha. Cô út trả lời ngắn gọn: Con quý cha như muối ăn. Nhà vua chia giang sơn làm hai và sống với hai con gái lớn. Vua nổi giận vì lời nói mộc mạc chân thành của cô con út (vì vua quen nịnh với những mỹ từ, lời nói mộc mạc chân thành chỉ dùng nơi sinh hoạt bình dân). Cô con út không được chia phần nên sống trong cảnh nghèo túng. Hai chị lấy chồng, truất hết mọi thứ. Vua Leir rơi vào cảnh cô đơn túng quẫn. Cô út lấy vua nước Pháp liền cùng chồng là Aganippus giúp vua cha lấy lại giang sơn. 3 năm sau, vua Leir băng hà. Vợ chồng cô út nối ngôi. Đây là kết thúc có hậu kiểu truyện cổ dân gian: họ vui sống bên nhau tới khi tóc bạc, răng long.
Làm việc Ác sẽ bị trừng phạt. Vào năm 1135, Georffrey of Monmouth xuất bản Historia regum Brintanniae von Leir, đây là một biến thái (Maerchenvariant của King-Leir - truyện dân gian Vua Leir). Để thử thách tình thương của 3 con gái với vua cha. Vua Leir đặt câu hỏi, Ai trong số 3 con yêu quý vua cha nhất? Hai cô chị dùng mọi lời lẽ để tỏ lòng yêu quý cha. Cô út trả lời ngắn gọn: Con quý cha như muối ăn. Nhà vua chia giang sơn làm hai và sống với hai con gái lớn. Vua nổi giận vì lời nói mộc mạc chân thành của cô con út (vì vua quen nịnh với những mỹ từ, lời nói mộc mạc chân thành chỉ dùng nơi sinh hoạt bình dân). Cô con út không được chia phần nên sống trong cảnh nghèo túng. Hai chị lấy chồng, truất hết mọi thứ. Vua Leir rơi vào cảnh cô đơn túng quẫn. Cô út lấy vua nước Pháp liền cùng chồng là Aganippus giúp vua cha lấy lại giang sơn. 3 năm sau, vua Leir băng hà. Vợ chồng cô út nối ngôi. Đây là kết thúc có hậu kiểu truyện cổ dân gian: họ vui sống bên nhau tới khi tóc bạc, răng long.
Vào cuối thể kỷ 16, văn nghệ
sĩ Anh làm sống lại đề tài King Leir. J. Higgins viết bi
kịch The Mirour for Magistrates, containning the fallesof
the first infomate Princes of this lande năm 1574. Dựa trên cốt truyện
dân gian Vua Leir các nhà văn Anh khác như E. Spencer, cũng có sáng tác xoay
quanh chủ đề này. Năm 1606, Shakespere cũng dựa trên cốt
truyện dân gian King Leir viết bi kịch King
Lear. Đây là một biến thái mang hồn thời đại mà Shakespeare
đang sống của King Lear (King Lear-Maerchenvariant).
Các sử gia Anh gọi
thời kỳ Nữ hoàng Elisabeth I là thời kỳ Nước Anh vui vẻ (The
merry England). Nhờ hoạt động thương mại, nên London kinh
đô nước Anh trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của nước Anh và
của cả châu Âu với những biến động dữ dội (mâu thuẫn giai cấp gay gắt) của
thời kỳ quá độ (Uebergangsphase) từ chế độ phong kiến sang tư bản chủ
nghĩa. Tuy phát triển sau Italia, Pháp, Tây Ban Nha, nước Anh
thế kỷ 16 đã nhanh chóng trở thành một quốc gia tư bản điển hình:phân
hóa xã hội, cách biệt giàu nghèo, đồng tiền chi phối nhân phẩm .v.v. Ánh
sáng và bóng tối thể hiện rõ nét. Tình hình trên để lại dấu ấn trong
văn học nghệ thuật Anh đương thời. Tính thần bí, tôn giáo trong văn học nghệ
thuật nhường chỗ cho giáo dục luân lý, đạo đức. Kịch là thể loại
thích hợp nhất lúc này, vì nó tác động trực diện tới công chúng. London chỉ
có 2 vạn dân, nhưng có tới một chục rạt kịch. To là rạp Thiên Nga và
Địa cầu. Rạp Địa Cầu của Shakespeare có tới 3.000 chỗ ngồi. Bi
kịch Vua Lear là một trong bốn bi kịch lớn của Shakespeare (Hamlet:
trả thù, Othello: lòng ghen tuông, Macbeth: nỗi tham vọng, vua Lear: sự phản trắc). Nó cho ta thấy phản trắc hoành hành: Vua Lear bị
hai con gái đuổi ra khỏi lâu đài giữa đêm gió gào bão rít, sau khi chia hết gia
tài cho người con này. Bá tước Gloucester chứa chấp nhà vua, bị đứa
con ngoài giá thú mà ông thương yêu, tin cậy Edmund tố cáo tội chứa chấp vua
Lear nên bị con rể vua Lear là Cornwall chọc mù cả hai mắt và
bị đuổi đi. Khi điên, ở trong túp lều rách nát giữa đồng với những kẻ
áo manh –những người bần cùng trong xã hội, vua
Lear tỉnh ngộ, trở nên sáng suốt hơn, thấu hiểu nhân tình thế thái
mà kêu gọi công bằng xã hội:
-Ôi những kẻ áo
manh,…làm sao các người chống chọi nổi với
thời tiết phũ phàng cay nghiệt?…Hỡi những kẻ sống
xa hoa, hãy lấy đây làm thuốc đắng. Hãy dấn thân mà chung nếm khổ với
kẻ nghèo hèn, hãy biết san sẻ bớt những của thừa dùng cho trời khỏi
mang điều bất công vô lý.
Cảnh những đứa con bất hiếu
như Goneril, Regan, kẻ phản nghịch như Edmund bị trời chu đất diệt mang ý nghĩa
giáo huấn về luân lý đạo đức, về tình trong đạo làm người. Nó như lời cảnh báo
xã hội đương thời: Trời có mắt, có tai. Phản trắc là con
đường nhanh nhất để gia tăng của cải, uy quyền, nhưng cũng là con đường dẫn tới
tự hủy diệt nhanh nhất. Trời không dung tha cái Ác, trừng phạt những
kẻ phản trắc!
Shakespeare mượn cốt chuyện
xưa, thêm nhân vật và tình tiết. Câu chuyện mang dáng dấp chuyện xưa
lại mang hơi thở của thời nhà văn sống. Nên tuy là cốt chuyện xưa, nhưng vở bi
kịch này lại mang hồn thời đại, bi là chính, nhưng có cả yếu tố hài: Ác áp đảo
hoành hành mọi chỗ, mọi nơi, nhưng luật đời nhân quả vẫn còn đó. Trong bi kịch
Vua Lear có hai tuyến nhân vật tạo nên sự tương phản (Kontrast) giữa
tốt và xấu, giữa Thiện (Cordelia, Kent, Edgar) và Ác
(Goneril, Regan, Edmund, Cornwall), nhưng rồi Goneril giết Regan và tự
sát. Edgar đánh bại Edmund. Cornwall bị
đâm chết bởi người hầu trung thành với Gloucester. Nhưng thời
Shakespeare, tuy Ác thất bại, nhưng Thiện cũng chưa phải là thắng, nên
Shakespeare để Kent hỏi, khi vua Lear ôm xác con gái Cordelia trên
sân khấu:
- Đây có phải
là một kết thúc đã được hứa hẹn hay không? (Is this the promised
end?)
Nhìn cảnh Cordeila bị treo cổ,
vua Lear chết, Kent đi vào cõi vĩnh hằng, Edgar thốt lên :
- Chúng
ta phải gánh vác trách nhiệm của thời khắc đau buồn này. Hãy nói những
gì ta nghĩ, chứ không phải những gì ta buộc phải nói. (The
weight of this sad time we must obey, Speak what we feel, not what we ought to
say).
LỜI BÌNH: Khoảng
thời gian 1580-1642 là thời kỳ phát triển mạnh mẽ và đạt tới đỉnh cao nhất
trong lịch sử sân khấu Anh. Trước Shakespeare nền kịch Anh có 2 xu
hướng với những đại diện là John Lyly, với chủ đề cảnh thơ mộng, tình yêu éo le
với kết thúc có hậu kiểu thần thoại, truyền thuyết (như vở hài kịch Campaspe của
Lyly) và Christopher Marlowe (1564-1593) với chủ đề hận thù (làm cho
sân khấu đầy nước mắt và máu) và khát vọng (kích động tham vọng
chinh phục như Câu chuyện bi kịch của Tiến sĩ Faustus - The tragical
history of Dr. Faustus). Hai kịch tác gia này là tác gia lớn của kịch
trường nước Anh trước Shakespeare. Shakespeare biết kế thừa gia sản
hai khuynh hướng trên, vận dụng sáng tạo và thành công, tạo nên phong cách
riêng – phong cách Shakespeare.
Shakespeare là văn hào lớn
cuối cùng của tư tưởng nhân văn trong trào lưu văn nghệ phục hưng ở
châu Âu từ giữa thế kỷ 14 tới đầu thế kỷ 17. Đề tài kịch của
ông lất từ cốt chuyện của Đan Mạch, Italia, Anh .v.v. nên đa dạng,
phong phú, đả phá tư tưởng phong kiến, tôn giáo, phản ánh sự thống trị của đồng
tiền trong giai đọan đầu của chủ nghĩa tư bản.
Trong lịch sử của ngành kịch
phương Tây có hai khuynh hướng:
1.xây dựng nhân vật như mẫu
người phát ngôn cho tinh thần, tư tưởng của thời đại. Khuynh
hướng này được gọi là Schiller hóa.
2. cá thể hóa nhân vật triệt
để như Hegel từng đòi hỏi (nhân vật phải là “một con người hoàn mỹ, có sinh
khí”). Khuynh hướng này được gọi là Shakespeare hóa.
Mỗi nhân vật của Shakespeare
là “một con người”, rất khác nhau trong suy nghĩ, trong tính cách, trong lối sống. Tất
cả tạo thành “vạn tâm hồn” và thể hiện rõ nét tinh thần thời đại. Hoàn cảnh của
nhân vật trong kịch Shakespeare đã được điển hình hóa trên cơ sở chất
liệu hiện thực. “Cùng báo thù cho cha, nhưng Hamlet rất khác với
Lauste, cùng có tình yêu mãnh liệt nhưng Juliet đâu có giống Orphelia,
cùng tham quyền cố vị nhưng Richard III tàn bạo, xảo quyệt, đầy nghị
lực”.
Lãng Du trong Văn Học Ấn Độ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét