Lãng Du trong văn học Mỹ
Henry James (1843-1916)
là nhà tiểu thuyết và phê bình Mỹ gốc Ireland. Ông là em nhà
triết học chủ nghĩa thực dụng William James (1841-1910). James
xuất thân từ một gia đình đại tư sản. Ông sống chủ yếu ở châu Âu và
nhập quốc tịch Anh năm 1915. Ông chịu ảnh hưởng của văn học cổ điển,
thích đọc Balzac, Mérimée, Flaubert, George Eliot, George Sand. Ông
kết bạn với Howells, I. Turgeniew, Flaubert, Maupassant,
Daudet. Ông chịu ảnh hưởng của Hawthorne. Những truyện
ngắn đầu tiên của ông đặt trong bối cảnh nước Mỹ. Cuốn
Roderick Hudson (1876) kể về thành công và thất bại của nhà điêu khắc J. theo
quan niệm của Turgeniev, coi nhân vật quan trọng hơn cốt truyện. Ông
chủ trương nghệ thuật vị nghệ thuật, đề cao lối sống quý tộc Anh.
Một số tác phẩm giai đoạn đầu
của James đề cập tới mối tương quan phức tạp “giữa hai bờ đại
dương”- giữa tân lục địa -nước Mỹ và châu Âu -lục địa già nua. Những
tác phẩm mang tính thế giới chủ nghĩa của Henry James là Những bài
du ký, Người Mỹ, Chân dung một vị phu nhân. Người Mỹ (The
Armerican,1877) và Chân dung một vị phu nhân (Portrait
of a Lady, 1881) biểu hiện rõ ảnh hưởng châu Âu đến cách
suy nghĩ của người Mỹ. Giai đoạn thứ hai của James chủ yếu là vấn
đề nữ quyền và cải cách xã hội trong Người Boston (The
Bostonians,1886) và mưu đồ chính trị trong Công chúa Casamassima (The
Princess Casamassima, 1886). Giai đoạn thứ ba là thời kỳ James
đã điêu luyện trong nghệ thuật viết tiểu thuyết. James trở nên nổi
tiếng bởi ba cuốn tiểu thuyết về những đề tài quốc tế Những vị đại sứ
(The Ambassadors,1903); Bát vàng (The Golden Bow,
1904); Đôi cánh chim câu (The Wings of the Dove, 1902).
James là người mở đường cho
tiểu thuyết tâm lý hiện đại trong văn học phương Tây. Ông và Mark
Twain là hai nhà văn lớn của văn học hiện thực Mỹ nửa sau thế kỷ 19.
Jack London (1876-1916)
là tiểu thuyết gia của văn học hiện thực Mỹ. Ông tên thật là John
Griffith London, sinh ở San Francisco trong một gia đình nghèo. Rời
ghế nhà trường ông sang miền Klondike thuộc Canada. Cuộc đời ông
ba chìm bảy nổi. Ông làm nhiều nghề khác nhau như bán báo, công
nhân, cảnh sát hàng hải, thủy thủ trên chuyến tàu sang Nhật Bản, đi săn hải cẩu
ở biển Thái Bình dương, sinh viên, đi tìm vàng ở Alaska, phóng viên ở Mexiko.
Jack London chịu ảnh hưởng đồng thời của Darwin, Karl Marx, Herbert
Spencer, Nietzsche.
London nổi tiếng ngay từ
tác phẩm đầu tay của mình với tập truyện ngắn Đứa con của Sói (The
Son of the Wolf, 1904)với bối cảnh là vùng Klondike ở Alaska và Yukon ở Canada. Hai
tác phẩm phản ánh “luật chó sói” của trật tự xã hội tư bản là tiểu
thuyết kể về chuyến đi tìm vàng “Tiếng gọi nơi hoang dã”
(The Call of the Wild, 1903) và tiểu thuyết kể về sự giành giật sự sống trong
thiên nhiên, nơi chỉ kẻ mạnh nhất tồn tại “Răng nanh trắng”
(White Fang, 1907). Tiểu thuyết tự truyện Martin
Eden phản ánh “giấc mơ Mỹ”- đi từ nghèo hèn lên đài danh vọng, đồng thời cho thấy
những căng thẳng nội tâm của Martin Eden, khi là người của tầng lớp trên nhưng
chối bỏ các giá trị vật chất của tầng lớp quý tộc.
Cuộc sống sôi động, phiêu bạt
khắp nơi, kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau của Jack London chính
là tư liệu sống để ông viết những tiểu thuyết hấp dẫn. Có thời gian ông là tác
gia có nhuận bút cao nhất. Sức sáng tác của Jack London mãnh liệt
như cuộc đời sôi động của ông. Ba yếu tố làm nên con người Jack
London là đọc sách ngấu nghiến, cuộc sống phiêu bạt đó đây cùng với ước nguyện
mãnh liệt muốn trở thành nhà văn nổi tiếng.
Ông nhanh chóng trở thành
nhà văn nổi tiếng đương thời. Cuộc đời sáng tác của ông chỉ có 18
năm (1898-1916), nhưng ông để lại cho đời sau 19 bộ tiểu thuyết, 150 truyện ngắn,
3 vở kịch v.v…
Jack London là nhà văn được
công chúng trong và ngoài nước yêu chuộng. Ông có ảnh hưởng lớn đến những
nhà văn tiến bộ sau này.
Khát vọng mãnh liệt chính là
động lực ghê gớm
Một hôm đi lang thang, vô
tình Jack London bước vào một thư viện công cộng. Hình như linh tính
dẫn bảo. Cuốn sách đầu tiên mà chàng thanh niên nghèo đói cầm là cuốn
“Robinson phiêu lưu ký”. Chàng đọc say mê như bị hút hồn và tỏ ra hết sức xúc động. Từ
đó chàng coi nơi đây là “nơi trú ngụ”, chàng ham đọc sách như một kẻ đói khát,
chàng đọc từ Darwin tới Karl Marx, Nietzsche. Jack
London thấy, xuất hiện đằng sau những trang sách là một thế giới kỳ diệu .
Năm 1898, Jack London quyết
định sống bằng viết văn chuyên nghiệp. Lòng khao khát trở thành tiểu
thuyết gia nổi tiếng nên Jack London viết sách ngày đêm. Có
lần vợ nói:
- Em chẳng còn gì
để mặc.
Jack London đang mải viết,
ông nói với vào phòng:
- Em im lặng
để anh viết nào.
Chỉ trong vòng 5 năm
(1898-1903), Jack London cho ra đời 6 bộ tiểu thuyết, 125 truyện ngắn.
Nhà văn Mỹ William
Faukner (1897-1962) sinh ngày 25.9.1897 ở New Albany, bang Mississipi, miền Nam
nước Mỹ trong một gia đình sống đã lâu đời ở nơi đây. Faukner hiểu biết sâu sắc
các cảnh quan, phong tục và tính cách, nên tác phẩm của ông làm người đọc cảm
thấy xốn xang nỗi niềm nhớ mảnh đất quê hương miền Nam của nhà
văn.
Hai tác phẩm nổi tiếng của
Faulkner là “Âm thanh và cuồng nộ” (The Sound and the Fury, 1929) và Khi
tôi hấp hối (As I Lay Dying, 1930).
Faulkner là nhà văn cách tân
táo bạo: các sự kiện đan xen nhau, diễn ra trong những thời điểm khác nhau. định
mệnh, sự tha hoá của con người là yếu tố thứ hai tạo nên phong cách của
Faukner, làm cho ông trở thành người tiên báo của tiểu thuyết hiện đại.
Ông có ảnh hưởng lớn đến sự chuyển mình của tiểu thuyết ở châu Âu. Ông được giải
thưởng Nobel văn học năm 1949.
Ngày xưa … ngày
nay
Một nữ đôc giả sau khi đọc
các tác phẩm của Faulkner đã viết thư hỏi nhà văn, phải chăng con người bây giờ
ác độc và tồi tệ hơn ngày xưa nhiều. Faulkner viết thư trả lời:
- Con người
ngày nay không tồi tệ hơn con người ngày xưa, nhưng những bản tường trình ngày
nay viết về những hành động ác độc của con người thì đáng tin cậy hơn ngày
xưa, chi tiết hơn ngày xưa nhiều, hay hơn ngày xưa rất
nhiều.
Khách đỡ lời- chủ chống chế
Trong một buổi tiệc do
Faulkner chiêu đãi. Ông đứng đón chào khách tới. Một ông khách tới,
Faulkner nhớ mặt khách, nhưng không nhớ tên và nghề nghiệp. Ông nói:
- Xin chào
ông chủ tịch hội những người chống uống rượu.
Khách đỡ lời:
- Cũng
tương tự như vậy ông Faulkner. Tôi là chủ tịch hội chống mại dâm.
Faulkner chống chế:
- Đúng rồi. Tôi
nghĩ mình không thể mời ông làm một chuyện gì đó.
LỜI BÌNH: Nước Mỹ
rộng bao la, khí hậu đa dạng, khoáng sản nhiều, thể chế dân chủ nên dân di cư
thoả sức thỉ tí tài năng. Vì vậy chỉ mới hơn hai trăm năm, nước Mỹ
ngày nay chẳng thua nước nào trên thế giới về kinh tế, văn hoá, kỹ thuật… chỉ không
có bề dày lịch sử, văn hoá.
Văn học Mỹ có nhiều nhà văn
đoạt giải Nobel. Họ mỗi người một vẻ. Trong khi sáng tác của James
mang tính thế giới chủ nghĩa thì đề tài chính của Faulkner là gia
đình, cộng đồng đất đai, chủng tộc, tham vọng, tình yêu, truyền thống của con
người phương Nam nước Mỹ. Khác hai nhà văn trên là Jack
London. Ông lại kể về giấc mơ Mỹ (làm việc cật lực để đi
từ nghèo hèn đến đài danh vọng).
Văn học Mỹ sôi động, muôn
màu muôn vẻ trong sự cách tân, đề cập những vấn đề nóng bỏng của xã hội, nhằm
đưa ra những cảnh báo, dự cảm tương lai để kịp thời có những giải pháp, những
điều chỉnh phù hợp, tạo đà cho sự phát triển của đất nước. Văn hoá Mỹ (Armerican
Culture) còn đang trong giai đoạn định hình chưa rõ nét. Thời gian sẽ trả lời
chúng ta.
Nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch
Nga Aleksandr Sergeevich Puskin (1799-1837) là người đặt nền móng
cho văn học hiện thực Nga thế kỷ 19. Pushkin đi từ lãng mạn “Người
tù Kapkazơ” đến chủ nghĩa hiện thực: nhân vật con người thừa trong tiểu thuyết-thơ
“Epghêni Ônêghin”; vấn đề cá nhân và nhà nước trong “Kỵ sĩ đồng”; số phận con
người nhỏ bé trong “Tập truyện của Benkin”; quyền lực của đồng tiền
trong “Con đầm pích”; khởi nghĩa nông dân trong “Con gái viên đại úy”.
Hài hước sâu cay, đầy khí
khái
Có lần trong giờ học văn, thầy
giáo ra đề “Mặt trời” để các trò làm thơ. Một học trò con
nhà quý tộc đọc:
- Mặt trời mọc ở
đằng Tây.
Cả lớp cười ồ. Thầy
vội lái chuyện nên nói:
- Ai chẳng biết mặt
trời mọc ở đằng Đông. Giờ trò nào làm tiếp.
Puskin giơ tay, rồi đọc:
- Mặt
trời đang mọc ở đằng Tây
Thiên hạ sống trên trái đất
này
Hốt hoảng nhìn nhau rồi
tự hỏi:
“Thức dậy hay là ngủ tiếp
đây!?”
Puskin có vị trí đặc biệt trong
đời sống tinh thần ở Nga, thơ ông mang “tâm hồn Nga, thơm phức hương vị Nga”;
tiểu thuyết, kịch, bút ký là tiếng nói, “tiếng dội từ người dân
Nga”.
Nikolai Vasillievich
Gogol (1809-1852) là nhà văn, nhà
viết kịch nổi tiếng của văn học Nga nửa đầu thế kỷ 19, thủ lĩnh trường
phái hiện thực phê phán. 1830, Gogol làm quen với giới văn nghệ sĩ. 1831, Gogol
kết thân với Pushkin ở Petersburg. Từ 1835 ông chuyển
sang viết văn chuyên nghiệp.
Tác phẩm và dư luận
Sau khi hài kịch Quan
thanh tra và tiểu thuyết Những linh hồn chết tập
I xuất bản, dư luận xã hội mâu thuẫn trái ngược nhau: nhiều người khen, nhưng cũng không ít người chê, họ cho rằng các nhân
vật trong hai tác phẩm ấy quá lố lăng, họ kết tội nhà văn đã vẽ nên bức tranh
châm biếm cuộc sống xã hội Nga quá đáng. Gogol buồn nản,
ông đã đốt bản thảo tập II Những linh hồn chết vào rạng
sáng ngày 11.2.1852.
Dưới con mắt xanh của nhà
phê bình văn học Danois George Brandes thì
Gogol có công lớn trong việc xây dựng văn học hiện thực phê phán ở
nước Nga, Brandes viết:
- Gogol dấu
trong ngực mình tất cả nguyện vọng của cả một dân tộc.
Không sinh vì nghệ, nhưng nổi
danh và tử vì nghệ
Gogol dự định tạo nên sự
tương phản gay gắt giữa “nhân vật hư đốn” và “nhân
vật đức hạnh” ở tập I và tập II Những
linh hồn chết. Nhưng dự định trên không thành hiện thực , vì
khi hoàn thành tập II, Gogol không gửi đi xuất bản mà âm thầm vất vào lửa kết
quả của mười năm lao khổ sáng tác (1842-1852). Và nước mắt ràn
rụa chảy trên má nhà văn mà thời cuộc chưa có dịp hiểu thấu và đánh giá
đúng. Đúng chín ngày sau khi đốt bản thảo, ngày 20.2.1852, Gogol ra
đi vào cõi vĩnh hằng.
Ở đất nước phương
xa, có một nhóm nhà văn Anh – trong đó có Henry James, John Galworthy, Athur
Conan Doyle đã nhận ra điều đó và viết trong tuyên cáo:
- Vinh
quang thay cho con người tiên phong đã dũng cảm mở đường cho những
người khác và đã mạnh dạn tiến lên hàng đầu. Gogol là con người
tiên phong đó và những nét đặc trưng nhất của nền văn học Nga có thể trước hết
được tỏ rõ trong những tác phẩm của ông.
Bá tước Leo
Nikolajewitsch Tolstoi (1828-1910) chịu ảnh hưởng sâu sắc triết học
của trào lưu tinh thần Ánh sáng Pháp, đặc biệt là của J. J.
Rousseau. Theo Tolstoi thì tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình
yêu. Sáng tác của Tolstoi gắn bó với tâm tư, nguyện vọng của hàng
triệu người trên trái đất. Nó vẽ lên bức tranh tuyệt vời về đời sống
xã hội Nga. Lời thú tội (viết năm 1879, in năm 1884) bộc
lộ nỗi niềm dằn vặt triền miên trước bao cảnh bất công trên con đường
đi tìm chân lý với học thuyết không dùng bạo lực của người nghệ sĩ
Tolstoi. Lucerne (1857) phản ánh tính ích kỷ và chủ nghĩa
vật chất trong xã hội tư bản. Nghệ thuật là gì? (1897)
nêu rõ quan điểm của Tolstoi: bác bỏ Nghệ thuật vị nghệ thuật. Phục sinh (1899)
là sự rút ra bài học đạo đức.
Sẽ… và đâu
có cần
- Khi nào
mình lớn, mình sẽ làm điều đó.
Cái gì ông biết mình không
thể có được, ông nói:
- Lớn rồi, đâu có
cần đến cái đó.
Yêu thích… và yêu quý…
Tolstoi và gia đình sống ở
trang trại thừa hưởng của ông cha để lại. Nhà văn Sologub tới thăm
gia đình Tolstoi ở Jasnaja Poljana. Ông
nói:
- Ông là người hạnh
phúc, ông có tất cả những gì ông yêu thích.
Tolstoi mỉm cười đáp:
- Không,
tôi không có tất cả, nhưng tôi yêu quý tất cả những gì tôi có.
Tính cách Nga
Người Nga cởi mở, giản dị,
chân thật. Tolstoi cũng vậy. Trang trại của gia đình Tolstoi cách Mạc Tư Khoa
200 km. Thỉnh thoảng ông đi bộ từ nhà lên Mạc Tư Khoa, vai đeo
ba lô trông như một khách bộ hành nông dân. Ông cứ thủng thẳng đi từ
địa điểm này đến địa điểm kia, tối nghỉ quán trọ. Có lần
ông đi bộ tới một nhà ga và mua vé loại ba. Trong lúc chờ tầu, một
phụ nữ bảo:
- Ông già kia
giúp tôi với. Lấy cho tôi cái túi quên ở toilette.
Nhanh lên nhé, kẻo tầu chạy
mất.
Tolstoi nhanh chân tới lấy
chiếc túi đưa cho bà kia. Bà dúi vào túi ông già một đồng tiền kim loại và nói:
- Tôi có một
chút để cám ơn ông, ông già tốt bụng.
Một khách đi cùng chuyến tầu
nói với bà kia:
- Bà có biết bà
đưa cho ai năm cô pếc (tiền Nga) không? Ông ấy là Leo Tolstoi đấy.
Bà kia nói:
- Sao tôi lại thế
nhỉ? Xin lỗi Leo Nikolajewitsch nhé, cho tôi xin lại năm cô pếc đi.
Tolstoi nói:
- Tại sao, tôi có
làm điều gì xấu đâu. Đấy là tiền công mà.
LỜI BÌNH: Nền
văn học Nga là một nền văn học có nhiều nhà văn lớn. Ở đây chỉ giới thiệu ba
nhà văn với những bút pháp khác nhau. Họ đề cập tới những vấn đề rầt khác nhau
của nước Nga. Qua đó để bạn đọc thấy được sự đa dạng, phong phú của văn học
Nga, thấy được sự đóng góp của văn học Nga trên văn đàn thế giới.
Thơ Pusklin giầu chất họa nhạc;
tiểu thuyết và kịch Puskin căng thẳng kịch tính, dục vọng điên cuồng, xung đột
dữ dội. Tinh thần công dân, chủ nghĩa nhân văn, tính nhân dân, tính
lịch sử trong sáng tác của Puskin đã trở thành những truyền thống của văn học
Nga.
Truyện lịch sử miêu tả cuộc
đấu tranh của người Cossak chống bọn phong kiến Ba Lan Taras
Bulba là một trong những truyện hay nhất của
Gogol. 1842, Gogol làm chấn động cả nước Nga với tiểu
thuyết châm biếm xã hội, miêu tả những đức tính tốt cũng như
các thói xấu của người Nga, đồng thời miêu tả cuộc sống cơ cực của người dân
Nga Những linh hồn chết tập I.
Tác phẩm của Gogol được
dịch ra nhiều thứ tiếng ngay từ khi ông còn sống. Sự nghiệp
văn chương của ông có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của văn học Nga.
Sáng tác của Tolstoi gắn bó
với tâm tư, nguyện vọng của hàng triệu người trên trái đất. Nó vẽ
lên bức tranh tuyệt vời về đời sống xã hội Nga. Tiểu thuyết
Chiến tranh và hoà bình là bản anh hùng ca về tinh thần yêu nước của nhân dân
Nga trong hai cuộc chiến tranh 1805 và 1812, tiểu thuyết Anna Karénina nói về mối
quan hệ khăng khít giữa gia đình và xã hội, cùng những mâu thuẫn gay
gắt giằng xé nhau ở Nga. Hai tiểu thuyết này đã mang lại
cho Tolstoi vinh quang và danh tiếng trên thế giới.Sự thâm nhập một cách nhuần
nhuyễn bản chất quá trình phát triển xã hội trong quá trình phát triển tâm lý
là đặc điểm nghệ thuật sáng tác của Tolstoi. Sáng tác của ông đánh dấu đỉnh cao
của văn học hiện thực phê phán Nga, nó là một bộ phận của tinh hoa văn học thế
giới.
Lãng du trong văn học
Colombia
Những nhà văn nổi tiếng của Colombia là
Simon Bolívar, Camilo Torres, Antonio Narino, Francisco de Paula
Satander, José Eusebio Caro, José Asuncíon Silva, Guillermo Valencia. Ở
thế kỷ 20, Colombia có nhà văn Tomás Carrasquilla viết về
người dân miền núi Antioquia, José Estuacio Riviera viết về rừng rậm ở
Amazon. Nhà văn Colombia nổi tiếng thế giới là Gabriel Garcia
Marquez. Tiểu thuyết „Trăm năm cô đơn“ viết bằng tiếng Tây Ban Nha của
Marquez là tiểu thuyết được nhiều người đọc nhất kể từ sau Đại chiến thế giới
thứ hai.
Gabriel Garcia
Marquez (sinh năm 1928) có 16 anh em. Ông là
con cả của bưu tá làng Arakataka, tỉnh Colombia. Học xong
trường dòng năm 1943, Marquez vào học trường Sipakuira ở ngoại ô thủ đô Bogota của Colombia. Tiếp
theo ông học luật ở Đại học Colombia. Tác phẩm đầu tay của
Marquez là truyện vừa „Người từ chối thứ ba“ (1947). Năm
1954, Marquez là phóng viên hải ngoại của tạp chí “Người quan sát“ ở
Rom, Paris, Barcelona, Caracas, New York. Ông đăng 14 bài về việc
tàu chiến Colombia chở hàng lậu. Ông trở thành “ngôi sao“ phóng sự. Tạp
chí bị đóng cửa, ông thất nghiệp. Năm 1958, sau mười mấy năm chờ đợi, Marquez kết
hôn với Mercedes Barcha Pardo- người mà ông đã yêu khi nàng mới 13 tuổi. Năm
1961, Marquez chuyển đến Mexico. Năm 1967 ông sang Tây Ban Nha,
hiện nay ông đang sống ở Mexico City. Những tác phẩm khác
của Marquez là truyện vừa „Ngài đại tá chờ thư“ (El colonel no tiene quien le
escriba, 1958); tiểu thuyết „Mùa thu của trưởng lão“ (El otono del
patriarca, 1975); tiểu thuyết „Ký sự về cái chết được
báo trước“ (Cronica of a death foretold,1982); tiểu thuyết „Tình
yêu thời thổ tả“ (El amor en los tiempos de colera, 1985); tiểu thuyết „Tướng
quân giữa mê hồn trận“ (El general en su laberinto, 1989); tiểu
thuyết „Tình yêu và lũ quỷ khác“ (Of love and other
demons,1994) tự truyện„ Sống để kể lại“ (Vivir para contarla, 2003.
Hình tượng châu Mỹ
Latinh
Khi bố mẹ chuyển từ làng
Arakataka lên thành phố, cậu bé Garcia ở với bà ngoại, cậu được bà ngoại kể
cho nghe vô vàn truyện cổ dân gian, truyền thuyết. Cậu còn được ông
ngoại (đại tá về hưu) kể về tuổi trẻ chinh chiến của ông. Hình như
những cái đó ăn sâu trong tâm khảm con người nhà văn Marquez. Chúng
xuất hiện như những ngôi sao dẫn đường cho Marquez tìm về lịch sử dân tộc
mình. Chúng thôi thúc nhà văn trong sáng tác tiểu thuyết „Trăm năm
cô đơn“. Tiểu thuyết ám chỉ nỗi cô đơn của người da đỏ bản xứ ngay
trên quê hương trong thời thực dân Tây Ban Nha. Vào một ngày tháng 1
năm 1965, Marquez nói với vợ:
- Anh đã
tìm được giọng điệu rồi! Anh sẽ kể lại câu chuyện này với
gương mặt khô cứng như gỗ của bà ngoại khi kể cho anh nghe những câu chuyện kỳ
lạ.
Sau mười tám tháng miệt mài,
Marquez hoàn thành tiểu thuyết „Trăm năm cô đơn“ (Gien anos de
soledad, in năm 1967). Tác phẩm kể về các thế hệ của
dòng họ Buendia trong ngôi làng hẻo lánh Macondo. Jose
Arcadio Buendia cùng vợ là Ursala chạy trốn từ nơi khác tới
Macondo. Buendo say mê nghiên cứu áp dụng những thành tựu của
nền văn minh hiện đại. Khi Macondo phát triển thì cũng là lúc ngôi
làng này bị lôi cuốn vào những biến động kinh tế, chính trị, nội chiến,
sự xâm nhập của các công ty độc quyền Bắc Mỹ cùng những tội ác của chủ nghĩa đế
quốc đối với thổ dân châu Mỹ. Trong bối cảnh ấy,
mỗi người trong dòng họ Buendo rơi vào những cảnh đời khác nhau. Khi về già
Jose Arcadio Buendia trở nên điên dại bị trói vào gốc cây sồi cho đến
chết.Bà vợ Ursala khi về già thì bị mù và lẩm cẩm. Bà chết sau trận mưa kéo dài
11 tháng 2 ngày ở tuổi 115. Các thành viên khác trong gia đình cũng
chết dần chết mòn: Con trai cả Jose Arcadio chết vì một phát đạn, con trai thứ
hai Aureliano tự sát mà không chết. Cô em Amaranta chết khi vẫn còn
trinh nguyên. Arcadio là con trai của Jose Arcadio chống lại chính phủ nên bị
hành hình. Ba con của Arcadio là Jose Arcadio II, Aureliano II và Remedios
–la-belle xinh đẹp. Aureliano II lấy Fernanda
sinh ra Armaranta Ursula. Loạn luân xảy ra, khi Ursula yêu cháu trai mình và
sinh ra một đứa con có đuôi mà giờ đây „nó chỉ là một bộ da phồng khô cứng mà
loài kiến khắp nơi trên trái đất đã kéo tới... khiêng về tổ“. Cái
đuôi kia báo hiệu sự tuyệt diệt của dòng họ Buendia. Đúng như lời
tiên tri trên những tấm da thuộc viết bằng tiếng Pali của
ông già Melquiades: sau 100 năm ngôi làng Macondo cùng những người trong dòng họ
Buendia biến mất sau một cơn giông bão..
Tiểu thuyết kể về làng
Macondo huyền thoại là biểu tượng của châu Mỹ La Tinh, lịch
sử ngôi làng cùng dòng họ Buendia là biểu tượng cho lịch sử châu Mỹ Latinh.
Trong tiểu thuyết có sự pha trộn giữa các yếu tố hiện thực và hoang đường. Làng
Macondo chính là ngôi làng Arakataka -quê hương của Marquez. Nhân
vật, sự việc trong tiểu thuyết cũng là người thật việc thật: cụ
già bán sách cổ người Cantalunha chính là ông già Melquiades, Gabrien
chính là tác giả, Anvaro chính là nhà văn Anvaro Cepeda Samudio.v.v.
Ngôi làng tưởng tượng Macondo do Marquez hư cấu, sau 100 năm ngôi làng xưa nay
là thành phố Macondo cùng dân và dòng họ Buendia „bị gió
cuốn đi và bị xoá sạch khỏi ký ức của con người“. Lối viết này được các nhà lý
luận văn học gọi là chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (magical realism).
Sách xuất bản năm 1967 và
bán hết trong vòng một tuần, việc đó đã gây ra “chấn động văn học“. Về cuốn tiểu
thuyết, Neruda nói:
- Có thể
đây là phát hiện vĩ đại nhất bằng tiếng Tây Ban Nha kể từ thời Don
Kijote (của đại văn hào Tây Ban Nha Cervantes).
Chủ tịch Fidel
Castro của Cuba nhận xét người bạn thân của mình:
- Sự nghiệp
văn chương của Marquez là bằng chứng xác thực nhất của tình người và lòng đa cảm. Các
tác phẩm của ông mang đậm bản sắc châu Mỹ Latinh, toát lên sự giản dị
của tâm hồn, lòng trung kiên và tình yêu vô bờ của ông đối với mảnh
đất này (Colombia).
15 năm sau - năm
1982, Marquez nhận giải thưởng Nobel văn học vì tưởng tượng và hiện thực hòa
vào nhau trong tiểu thuyết của Marquez, phản ánh cuộc sống và những xung đột của
cả châu lục Mỹ Latinh.
LỜI BÌNH: Tây Ban Nha
dùng chiến tranh chinh phục bốn nước Colombia, Ecuador, Venezuela, Panama trong
thời gian 1508 tới 1525. Bệnh dịch, công cuộc khai thác và chính cuộc
chinh phục này đã đưa lại một thảm họa về nhân chủng làm giảm sút số lượng người
bản xứ. Từ đầu những giai đoạn Chinh phục và Thuộc
địa, đã có nhiều phong trào phản kháng chống lại ách cai trị Tây Ban Nha, đa số
chúng đều bị đàn áp. Sau mấy trăm năm là thuộc địa Tây Ban Nha, thế kỉ 19 đánh
dấu một giai đoạn đầy biến động của lịch sử. Bốn nước này luôn ở trong
tình trạng bất ổn: khủng hoảng chính trị và chế độ độc
tài quân sự. Nửa đầu thế kỉ 20, các tướng lĩnh quân đội vẫn kiểm soát nền chính
trị, thời gian cầm quyền của các vị tổng thống hợp hiến thường rất ngắn ngủi.
Câu chuyện trong tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn” đồng thời cũng là câu chuyện chung của cả Châu Mỹ Latinh. Với tư cách là kẻ chinh phục, Tây Ban Nha đo người da đỏ bản địa “bằng những thước đo dành riêng cho họ Sự diễn dịch cái hiện thực mà chúng tôi sống bằng những mô hình không phải của chúng tôi chỉ khiến chúng tôi trở nên xa lạ hơn, kém tự do tự tại hơn, và cô đơn hơn bao giờ hết“ (ltrích diễn từ của Marquez trong lễ nhận giải Nobel văn học). Người da đỏ trở nên cô đơn ngay chính trên mảnh đất quê hương mà tổ tiên để lại. Họ cô đơn không phải một ngày, mà là hàng ba trăm năm.Và ngày nay vẫn sống cô đơn trong xã hội Colombia hiện đại.
Câu chuyện trong tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn” đồng thời cũng là câu chuyện chung của cả Châu Mỹ Latinh. Với tư cách là kẻ chinh phục, Tây Ban Nha đo người da đỏ bản địa “bằng những thước đo dành riêng cho họ Sự diễn dịch cái hiện thực mà chúng tôi sống bằng những mô hình không phải của chúng tôi chỉ khiến chúng tôi trở nên xa lạ hơn, kém tự do tự tại hơn, và cô đơn hơn bao giờ hết“ (ltrích diễn từ của Marquez trong lễ nhận giải Nobel văn học). Người da đỏ trở nên cô đơn ngay chính trên mảnh đất quê hương mà tổ tiên để lại. Họ cô đơn không phải một ngày, mà là hàng ba trăm năm.Và ngày nay vẫn sống cô đơn trong xã hội Colombia hiện đại.
Người Colombia ngày
nay xuất thân từ ba nhóm chủng tộc: người Indian bản xứ, người
gốc Phi, người Tây Ban Nha.. Theo thống kê năm 1989, trong 31 triệu
200.000 người của nước Colombia thì 58% là người lai giữa Indian và Tây
Ban Nha (gọi là mestizo), 20% người da trắng, 14%người da trắng lai da đen, 7%
người da đen và người da đen lai da trắng,1% người Indian bản xứ. Những
bộ tộc Indian bản xứ còn sống sót sau 300 năm thực dân Tây Ban Nha bị xua đuổi
tới những vùng xa xôi, khó canh tác, từ chỗ là chủ nhân ông vùng đất ngày nay
gọi là Colombia họ trở thành nhóm thiểu số (1% dân số), phải sống
cô đơn thành từng nhóm rải rác, cô lập trong những vùng mà không ai thâm nhập
vào được: bộ lạc thổ dân Quimbaya sống ở sườn phía tây của dãy núi Cordillera
Central. Các bộ lạc khác như Chibcha (chiếm 1/3 dân số
thời kỳ tiền Colombia), bộ lạc Carib, bộ lạc Yagua, bộ lạc Motilón, bộ lạc
Chimila, bộ lạc Sanha sống rải rác ở miền đông đất nước hay ở bán đảo
Guajira.
Lương Văn Hồng
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét