Thạch Lam, những điều còn nhớ
Thế Lữ thường nói về Thạch Lam bằng những lời rất ưu ái: “Một
tâm hồn rất trong sáng, hồn hậu, một con người điềm tĩnh và có bản lĩnh.” Có một
thời gian dài hai người cùng làm việc với nhau ở báo Ngày Nay. Lúc đó tờ báo có
uy tín khá rộng rãi, hầu hết những cây bút chủ lực trên văn đàn như Xuân Diệu,
Huy Cận, Anh Thơ, Tô Hoài, Nguyễn Nhược Pháp, Nguyên Hồng, Chế Lan Viên... đều
được báo Ngày Nay giới thiệu. Tờ báo có một quy định chặt chẽ, tất cả những người
trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn đều phải thay nhau làm chủ bút sáu tháng. Đó là một
cách “đào tạo” rất đặc biệt. Vì trong thời gian đó năng lực và trách nhiệm của
người chủ bút được bộc lộ hết. Trong thời gian làm báo, có lần Thế Lữ được giao
việc kiểm tra lại và hủy bỏ số bài lai cảo gửi đến báo với số lượng lớn. Buổi
đêm về nhà đọc lại, anh phát hiện một truyện rất hay của Tô Hoài bị bỏ qua.
Ngay đêm đó Thế Lữ đi xe kéo đến nhà Thạch Lam. Sau khi đọc bản thảo truyện ngắn,
Thạch Lam nói: “Suýt nữa chúng ta bỏ qua một bản thảo quý.” Và ngay sau đó truyện
ngắn này đã được in trên Ngày Nay.
Tôi quen biết Thế Lữ khi anh đã có những hoạt động trên kịch
trường, tuy vẫn còn làm việc ở báo Ngày Nay. Rất nhiều bạn bè trong nhóm Tự Lực
Văn Đoàn như Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nhất Linh đều phản đối, không muốn cho Thế Lữ
làm kịch. Họ sợ “mất” con người văn chương của Thế Lữ. Tuy bề ngoài vẫn lịch sự,
nhẹ nhàng, nhưng bên trong có ý không tán thành. Vì họ nghĩ rằng tôi đã “dụ dỗ”
anh Thế Lữ đi theo sân khấu. Đành rằng tôi sẵn có máu ham mê sân khấu, kịch trường
từ nhỏ. Nhưng nếu như chiếc cầu nối giữa cuộc sống của tôi với sân khấu không
phải là anh, nhà thơ Thế Lữ, thì có lẽ cuộc đời tôi đã đi theo một hướng khác.
Trái với cả nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Thạch Lam và Tú Mỡ rất lại ủng
hộ việc làm kịch của Thế Lữ. Một số vở kịch của Thế Lữ như Lọ vàng, Ông ký
cóp, Gái không chồng... Thạch Lam đều đi xem và sau đó có viết bài nhận
xét. Tôi gặp Thạch Lam lần đầu trong một đêm kịch. Sau giờ biểu diễn, anh Thế Lữ
dẫn đến trước mặt tôi một người bạn. Anh nói khẽ khàng nhưng không giấu vẻ xúc
động và trân trọng: “Đây là nhà văn Thạch Lam.” Trước mắt tôi, một người thanh
niên cao, gầy, có cặp mắt rất sáng, gương mặt trắng trẻo, đượm buồn, trông
nhanh nhẹn và rắn rỏi. Thế Lữ kể với tôi hồi đó có một thứ dụng cụ để thử bóp
tay bằng lò xo. Khi thử sức mình Thạch Lam thường bóp vào những số mà chỉ mấy
anh “tây đen” mới đạt tới.
Từ khi làm bạn đời với anh Thế Lữ, tôi lại càng có nhiều dịp
gặp gỡ Thạch Lam. Ngày ấy, để đến được với sân khấu, đến được với nhau, tôi và
anh Thế Lữ phải nỗ lực rất nhiều để vượt qua những khó khăn, trở ngại trong cuộc
đời. Thời gian đầu chung sống, chúng tôi chưa có nhà riêng. Thạch Lam đã mời vợ
chồng tôi đến ở chung với gia đình anh. Chúng tôi sống cùng với gia đình Thạch
lam khoảng gần một năm. Đó là năm 1941, căn nhà của Thạch Lam ở làng Yên Phụ,
ven Hồ Tây. Nhà lá đơn sơ, gồm hai gian, cửa nhà nhìn ra hồ, có một mảnh vườn
nhỏ, có cây liễu rủ rất đẹp. Thạch Lam rất yêu cây liễu này – chính anh đã trồng
và chăm sóc nó. Có lần, trời mưa bão, một cành liễu bị gãy khiến anh xót mãi. Đồ
đạc trong nhà rất đơn sơ, chỉ có hai cái giường và một bộ bàn ghế đã cũ, ở
ngoài hiên có kê một cái chõng tre. Bạn bè đến chơi thường ngồi ở đó chuyện
trò. Tính tình Thạch Lam rất điềm đạm, không bao giờ to tiếng. Anh thường chỉ
nói sau khi đã suy nghĩ chín chắn trong mọi chuyện. Anh trầm lặng, ít nói đến mức
bị nhiều người tưởng là kiêu kỳ. Tuy ít nói nhưng Thạch Lam là người rất hóm hỉnh.
Nhà tôi kể lại rằng, khi bác sĩ báo cho Thạch Lam biết anh bị lao phổi, anh
cũng chỉ thở dài, rồi im lặng. Thời gian ở nhà Thạch Lam, chúng tôi ăn cơm cùng
một mâm với gia đình anh. Lúc này, vợ chồng anh đã có hai con. Cháu gái đầu lòng
và cháu trai thứ hai. Mỗi buổi sáng, Thạch Lam thường mặc đồ tây, quần áo chỉnh
tề đi đến tòa báo làm việc, tối mới về nhà. Thạch Lam và nhà tôi thường xuyên
nói chuyện với nhau thâu đêm suốt sáng về chuyện văn chương. Vợ Thạch Lam là một
người đàn bà tính tình xởi lởi, chị hơn Thạch Lam mấy tuổi. Tôi nghe kể Thạch
Lam lấy chị, ngoài tình yêu còn có tình cưu mang.
Thỉnh thoảng Thạch Lam lại rủ bạn bè về thăm trại Cẩm Giàng,
quê hương thời thơ ấu của anh và nơi đó cũng là nơi mẹ anh sinh sống. Nhà ở Cẩm
Giàng của gia đình Thạch Lam gồm có năm gian nhà gỗ, mái lợp rạ, đẹp, thoáng
mát và rất giản dị. Bà Thông Nhu, thân mẫu của Thạch Lam là một người cao lớn,
thông minh, sắc sảo và rất có uy tín với đàn con thành đạt của mình. Bà có thói
quen là cứ đến tối lại chuẩn bị một ngọn đèn rất sáng cho các con ngồi học. Sau
này cụ đi tu ở chùa Hai Bà Trưng, rồi vào Đà Lạt và mất ở đó.
Từ khi biết mình bị bệnh lao phổi, Thạch Lam vẫn sống bình
thường, hầu như không bao giờ anh nhắc nhở gì đến căn bệnh hiểm nghèo mà mình mắc
phải. Khi bệnh trở nặng, anh phải nằm bẹp một chỗ, khoảng gần một tháng rồi
mất. Khi chị Thạch Lam có mang cháu thứ ba, mẹ anh đi xem tử vi, ông thầy bói
nói là, nếu lần này vợ anh đẻ con trai thì anh sẽ không sống nổi. Khi người nhà
báo tin vợ đẻ con trai, Thạch Lam không nói gì, chỉ lặng lẽ cười. Sau đó mấy
ngày bệnh tình anh xấu hẳn đi. Mẹ anh cho người đến nhà hộ sinh đón vợ con về.
Khi bà chị bế đứa con trai mới sinh đến cho Thạch Lam xem mặt, Thạch Lam còn
nói: “Thằng này rồi sẽ cao đến một mét bảy.” Lúc Thạch Lam hấp hối chúng tôi
cũng có mặt ở nhà anh (thời gian này chúng tôi đã có nhà riêng). Trước khi mất,
Thạch Lam gọi bà chị gái, bảo chị “đỡ em ngồi lên cao một chút để nhìn thấy cây
liễu...” Em út Thạch Lam là bác sĩ Nguyễn Tường Bách, sau khi xem bệnh cho anh
vội quay mặt nhìn ra hồ. Thạch Lam gọi tên người em mấy lần, nhưng Bách không
quay lại. Chúng tôi nhìn thấy nước mắt giàn dụa trên mặt anh.
Khi Thạch Lam mất, nhà tôi rất buồn. Anh đau ốm suốt. Anh Tú
Mỡ rất lo cho nhà tôi. Anh Tú Mỡ bảo tôi nên chuyển nhà đi chỗ khác, vì nhà của
chúng tôi cũng ở trong làng Yên Phụ, gần nhà Thạch Lam. Sau đó, Tú Mỡ tìm cho
chúng tôi một căn nhà ở đường Láng và nhất định bắt chúng tôi phải chuyển đến ở.
Mãi những năm sau này nhà tôi vẫn hay nhắc nhở đến kỷ niệm những ngày cùng sống
và làm văn chương với Thạch Lam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét