Thứ Sáu, 31 tháng 7, 2020

Cây dừa trong ca cổ, thơ ca - Biểu hiện quê hương, con người Nam bộ

Cây dừa trong ca cổ, thơ ca
Biểu hiện quê hương, con người Nam bộ
Quê hương xứ Dừa không chỉ được biểu hiện bằng thực tiễn nông nghiệp cây dừa có diện tích lớn, năng suất cao… với những sản phẩm công nghiệp của dừa từ các công ty, xí nghiệp, nhà xưởng…; mà còn được biểu hiện ở một bình diện cao hơn là văn hóa xứ Dừa đã được hình thành trong công chúng Nam Bộ. Văn hóa xứ Dừa được thể hiện rõ nét qua thơ ca dân gian được giới bình dân sáng tác, lưu truyền trong suốt chiều dài của quá trình cây dừa định cư và gắn bó với quê hương Bến Tre. Văn hóa xứ Dừa còn được nhiều tác giả, soạn giả tên tuổi trong và ngoài tỉnh Bến Tre sáng tác, ghi nhận qua thơ ca, ca cổ trong thời gian gần đây. Đó chính là những biểu hiện của quê hương, con người Nam Bộ; một phần di sản văn hóa phi vật thể mà chúng ta cần biết trân trọng gìn giữ. 
1. Trên đất Bắc, những lũy tre nghiêng mình trong nắng sớm chiều hôm bao bọc quanh làng và che chở dân tình là biểu tượng của làng văn hóa Bắc Bộ. Với miền Trung, những hàng phi lao nhẫn nại kiên cường ngày đêm chắn gió biển cho dân vững tin vào cuộc sống cũng là hình tượng đẹp của làng văn hóa Trung Bộ; Ở phương Nam, những vườn dừa xanh mướt trái sum sê, góp phần che nắng mưa, nâng đở cuộc sống còn nhiều khó khăn của người dân cũng là biểu hiện đẹp của nền văn minh miệt vườn. Quả vậy, người Nam Bộ nào xa xứ, nếu có lúc chạnh lòng nghĩ về quê hương, họ không thể không nhớ đến những hàng dừa trước ngõ, dọc đôi bờ sông rạch, kinh mương... Dừa mặc nhiên đi vào tâm thức người dân Nam Bộ như những gì thân thương và thiết yếu nhất; như những người bạn tâm đầu ý hợp không thể thiếu trong những cuộc trò chuyện, tâm giao; như không khí để thở cần cho con người cả khi làm việc lẫn trong giấc ngủ; như cơm áo, gạo tiền mà người dân Bến Tre không thể thiếu trong cuộc mưu sinh… Tất cả đã đi vào ca cổ, thơ ca như ghi nhận thành tích của dừa và lòng biết ơn, tự hào của người với dừa trong cuộc sống. 
2. Dừa tạo bóng mát, làm nên sự thơ mộng cho làng quê. Dừa che chở con người trong những lúc lao động, đấu tranh khó nhọc, gian khổ. Dừa mang lại dòng nước ngọt lịm, tinh khiết giúp người bệnh chóng khỏe, người khỏe thêm mạnh hơn. Dừa mang lại quá nhiều lợi ích kinh tế giúp nhà nhà thoát nghèo, sung túc, quê hương đi lên trong ấm no, thịnh vượng. Và hơn hết là sự thủy chung gắn bó lâu đời của dừa với người từ khi cha ông đến khai hoang mở đất. Cứ thế, cũng bằng ấy thời gian, dừa đi vào thơ ca của con người thật nhẹ nhàng và ân tình sâu lắng... Trong lao động, dừa đã âm thầm từng bước giải tỏa những khó khăn, nặng nhọc cho người. Dừa không chỉ mang lại thu nhập mà còn giải quyết hầu hết mọi nhu cầu sinh hoạt đời sống... Trong cuộc sống, dừa cũng là nguyên cớ để con người bộc lộ những suy tư, tình cảm. Có dừa con người có niềm tự hào sở hữu, con người có được những suy nghĩ khoán đạt và tươi vui, con người có được những suy tư hóm hỉnh, yêu đời… Trong chiến tranh, dừa biểu hiện cho quê hương Nam Bộ kiên cường, bất khuất. Dừa là những cánh rừng “che dân quân”, nhưng lại “vây quân địch”; dừa oai hùng lấy thân chắn bom, đỡ đạn; lại nhẹ nhàng phủ nắp hầm ngụy trang; dừa che kín nhà vườn và chở che cho từng thân phận bằng thân và tàu lá của mình... Trong thời bình, dừa mang lại cho quê hương Nam Bộ thơ mộng, trù phú. Dừa làm dịu mát cái nắng ban trưa khắc nghiệt; dừa xuất hiện ở hai đầu cánh võng ru giấc ngủ ban trưa; dừa tô điểm cho thôn quê những mái ngói xinh xắn; dừa tạo không gian cho tình yêu phát triển… 
2.1. Trong lao động, dừa đã âm thầm từng bước giải tỏa những khó khăn, nặng nhọc cho người Với Nam Bộ nói chung và Bến Tre nói riêng, cây dừa là biểu tượng, là người bạn thân thiết của người dân xứ này. Dừa hiện hữu trong mỗi bữa cơm, mỗi góc nhà, mỗi dịp lễ hội... Vỏ, lá dừa khô một thời dành chụm lửa, đốt đuốc soi đường. Nước dừa tươi để kho thịt, kho cá; còn cơm dừa già cho nước cốt dừa để kho cá, tép và nấu canh, nấu chè, nấu kiểm. Thân dừa làm cột nhà, làm cầu qua sông. Con cái lớn lên, ôm trái dừa nhảy ùm xuống sông mà học bơi, học lội. Gốc dừa mát mẻ là nơi hò hẹn yêu thương của trai gái trong làng; hoa dừa để điểm tô thêm ngày cưới, cho ong đi bông lấy mật. Người dân Nam Bộ coi dừa như “người yêu thương” gắn bó mà gần gũi xiết bao. Soạn giả Minh Lời đã từng ca ngợi vẻ đẹp yên bình, trù phú của làng quê Nam Bộ bằng những lời ca du dương, sâu lắng: 
“Theo năm tháng, bên hàng dừa xanh, dưới mái lều tranh 
Đồng quê thảnh thơi yên tịnh 
Cây lành trái đơm, cảnh đẹp hoa thơm 
Hữu tình trăng sáng gió đưa 
Sông quê bến đợi đò xưa 
Quê hương vẫn đẹp xứ dừa thơ mộng 
Phong cảnh đồng quê lòng tôi mến chuộng ơi miền quê ngoại” [1]. Dừa gắn bó với đời sống bình yên của người dân, trước hết, chính là ở các công dụng mà nó mang lại. Trịnh Hoài Đức viết trong “Gia Định Thành Thông Chí” như sau: “Cây dừa ở đất nước ngọt, mặn đều thích nghi cả, quả già, non đều ăn được. Cơm quả già dùng nấu dầu xức tóc, chiên đồ ăn và dùng thắp đèn, thứ nào cũng thích hợp… Vỏ xơ dừa đánh thành dây thừng dùng cho thuyền bè. Sọ dừa chạm trổ thành chén, dĩa, ve, bình, cưa ra làm muỗng, gáo. Có thứ sọ dừa nhỏ như trứng gà, mà hơi dẹp dùng làm bình đựng thuốc súng và muỗng nhỏ để uống nước rất đẹp, được người đời ưa chuộng...”.[2] Những công dụng của dừa còn được người dân Nam Bộ lưu truyền nhau bằng những câu ca, lời thơ mượt mà, thú vị. 
Nào là “nước hoa, dầu dừa”: 
“Không chồng, son phấn qua loa, 
Có chồng, em trang điểm nước hoa dầu dừa.”[3] 
Hay: 
“Mài dừa dưới ánh trăng vàng, 
Ép dầu mà chải tóc nàng tóc anh.”[4] 
Nào là các dụng cụ sinh hoạt từ dừa: 
“Lành làm gáo, vỡ làm muôi.”[5] 
Và cả một tuổi thơ ăm ắp với các trò chơi dựng chòi, bơi lội… với sự giúp sức của dừa: 
“Ôi tuổi thơ, ta dầm mưa ta tắm. 
Ta lội tung tăng trên mặt nước mặt sông. 
Ta lặn xuống, nghe vang xa tiếng sấm, 
Nghe mưa rơi, tiếng ấm tiếng trong. 
Ôi đâu rồi những trò chơi tuổi trẻ, 
Những tàu chuối bẹ dừa, những mảnh chòi nhỏ bé, 
Những vết chân thơ ấu buổi đầu tiên, 
Mấy tấm mo cau là mấy chiếc thuyền.”[6] 
Dừa nhiều công dụng, vì thế dừa cũng chính là một đặc sản mà người dân Nam Bộ - đặc biệt là người dân Bến Tre - luôn rất tự hào khi nhắc đến. Chúng ta sẽ không quá ngạc nhiên khi 2/3 câu ca dao, dân ca viết về cây dừa là để ca ngợi dừa Bến Tre: 
“Hòa Quý với tổng Hòa Thinh 
Dừa khô thổ sản nổi danh Nam Kỳ.”[7] 
(Hai tổng đều thuộc Cù Lao Anh Hóa, Bến Tre) 
“Quê em ba dải cù lao 
Có dừa ăn trái có cau ăn trầu.”[8] 
“Quýt đường, vú sữa ngổn ngang, 
Dừa xanh Sóc Sãi, tơ vàng Ba Tri ”[9] 
(Tên một con rạch dài 9km, hình dáng như một vòng cung, bắt đầu từ xã Tiên Thủy, chảy ngang qua chợ Sóc Sãi rồi đổ ra sông Hàm Luông.) 
“Bến Tre dừa ngọt sông dài 
Nơi chợ Mỏ Cày có kẹo nổi danh.”[10] 
Hay: 
“Bến Tre dừa xanh bát ngát 
Đường đi Ba Vát gió mát tận xương.”[11] 
Hoặc: 
“Thấy dừa thì nhớ Bến Tre. 
Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười.”[12] 
Trong bài “Đêm xứ Dừa nghe Dạ cổ hoài lang”, tác giả Lê Hồng Chinh đã viết: “Dấu chân người năm xưa đi mở đất. Nơi phút giây dừng chân trông về quê cũ. Mọc lên cây Dừa năm tháng vươn cao. Những thân Dừa in trên trời cao. Dáng hiên ngang vung gươm giữ cõi. Bóng Dừa nghiêng soi trên sông nước. Dáng vọng phu chung thủy trước sau. Nhưng ngọn Dừa đêm nay vươn lên trời sao. Viết vào trăng bài ca dạ cổ. Khúc hát thân thương từ những ngày gian khổ. Gửi lại cho đời dịu ngọt hôm nay. Câu hát thương đời lặn lội tìm nhau. Năm tháng nở hoa cùng cây Dừa Châu thổ. Bến Tre ơi! Đêm nay xa rồi nhớ… Dạ cổ hoài lang tha thiết dưới bóng Dừa!”.[13] Tác giả đã cho ta thấy một “văn hóa Dừa” từ thủa hồng hoang, khi ông cha ta “mang gươm đi mở cõi”, dấu chân khai hoang đến đâu, dừa ngay hàng thẳng lối đến đó. Dừa giữ đất khỏi sự xói mòn của tự nhiên, lại cùng cha ông giữ cõi khỏi sự xâm lăng của ngoại xâm. Trải qua bao thế hệ, bao thăng trầm, dừa vẫn hiên ngang sừng sững và vẫn âm thầm dâng hiến cho đời: 
"Dừa ơi dừa! Người bao nhiêu tuổi 
Mà lá tươi xanh mãi đến giờ 
Tôi nghe gió ngàn xưa đang gọi 
Xào xạc lá dừa hay tiếng gươm khua…” [14] 
2.2. Trong cuộc sống, dừa cũng là nguyên cớ để con người bộc lộ những suy tư, tình cảm 
Nói đến quê hương cây dừa, thật thiếu sót nếu không đề cập đến mảng tình yêu đôi lứa. Trai thanh nữ tú hẹn hò, hờn dỗi... đều có sự làm chứng của dừa. Thậm chí, dừa đôi khi còn đóng vai trò là “sứ giả tình yêu” chứng giám thêm cho sự chân thành, thẳng thắn, như cô gái hờn trách chàng trai, nào em có đòi hỏi thách cưới gì cao sang, mà anh cứ lần lữa khiến lỡ làng duyên em: 
“Dừa Bến Tre ba đồng một trái, 
Chuối Bến Tre một nải đồng ba. 
Ai biểu anh đến rồi lại đi ra, 
Để em thương nhớ, em chờ em đợi, nước mắt sa vắn dài.”[15] 
Câu ca dao trên khiến ta liên tưởng đến câu: 
“Ba đồng một mớ trầu cay. 
Sao anh không hỏi những ngày còn không...”, 
biểu hiện cho tình cảm của người con gái Á Đông thật là ý nhị. Những cũng có đôi khi lại là sự lo âu người yêu “tham vàng bỏ ngãi”, mà quên mất công của chàng trai xứ Dừa chăm sóc cho vườn dừa nhà em: 
“Trồng dừa ra đọt chặt tàu 
Sợ em đổi dạ tham giàu bỏ anh.”[16] 
Thế rồi, đôi khi chàng trai chân chất ấy cũng ngẩn ngơ khi bị đẩy vào tình huống bị “hớt tay trên”, khiến anh phải buông câu trách cứ “thẳng ruột ngựa” đúng chất Nam Bộ: 
“Em đi lên xuống cầu dừa, 
Lấy ai có chửa đổ thừa cho anh.”[17] 
Nhưng sau phút giây giận sự trót dại của người yêu, chàng trai ấy vẫn dành cho cô tình cảm chân thành tha thiết. Mọi sự suy tính biện minh, người dân đều dựa vào đời dừa mà luận suy tình cảm trái tim: “Kìa vườn dừa cây cao cây thấp 
Gió quặt quà cành lá xác xơ 
Thương em anh vẫn đợi chờ”.[18] 
Thế thì, còn lý do gì để cô gái từ chối mối chân tình ấy nhỉ? Nhưng tỏ sự ưng thuận, cô đã nhờ cây dừa nói hộ một cách khéo léo: 
“Ăn dừa ngồi gốc cây dừa, 
Cho em ngồi với, cho vừa một đôi.”[19] 
Lại cũng có cô yêu phải anh chàng có tật “đi ngang về tắt”, thì cô chọn giải pháp giải quyết thẳng thừng, dù anh “giận thì giận mà thương thì thương”: 
“Trời mưa lộp bộp lá dừa 
Bợp anh ba bợp cho anh chừa đi đêm.”[20] 
Rồi cô từ chối: 
“Gió đưa gió đẩy lá dừa, 
Muốn ai thì muốn nhưng chừa em ra.”[21] 
Nói thì nói nặng nề thế, để anh bỏ tật mà thôi, chứ lòng cô vẫn luôn chung thủy yêu anh. Yêu nên mới vì anh mà buồn khổ thế này: 
“Dừa xanh trên bến Sông Cầu 
Dừa bao nhiêu trái, dạ em sầu bấy nhiêu.”[22] 
Trong văn hóa dân gian Nam Bộ, hình ảnh cây dừa còn xuất hiện trong những câu ca nói lên kinh nghiệm sống, cũng như lời khuyên răn của người đi trước đối với người đi sau. Hãy nghe người mẹ dặn con gái không được mải hẹn hò mà quên giờ giấc về nhà, mà sự sớm/muộn lại được đánh giá bằng bóng trăng đổ xuống bóng dừa: “Trăng lên khuất bóng cây dừa, 
Làm thân con gái phải chừa đi đêm.”[23] 
Hoặc: 
“Muốn trong bậu uống nước dừa 
Muốn nên cơ nghiệp, bậu chừa lang vân.”[24] 
Và: 
“Dừa tơ bẹ dún tốt tàng, 
Giàu sang có chỗ, điếm đàng có nơi.”[25] 
Trong kinh nghiệm sản xuất, các cụ còn dặn con cháu: 
“Đất thiếu trồng dừa, 
Đất thừa trồng cau.”[26] 
Hay: 
“Dừa giao lá, cá giao đuôi.”[27] 
Hai câu trên nói lên kinh nghiệm trồng dừa và tính kinh tế của cây dừa. Trồng dừa phải bảo đảm mật độ giữa các cây cách nhau một tàng lá, không được trồng quá dày. Ngoài ra, dừa là một loại cây mang lại thu nhập, vì thế nếu đã dư giả thì trồng cau làm kiểng chơi cho vui, còn nếu chưa giàu thì nên trồng dừa để tăng thu nhập. 
2.3. Trong chiến tranh, dừa biểu hiện cho quê hương Nam Bộ kiên cường, bất khuất 
Ngày nay, du khách đến Bến Tre thăm các khu di tích chiến tranh, tiếp chuyện với các cựu chiến binh, sẽ được nghe nhân chứng sống kể về những chiến công gian khó mà hào hùng của cha ông họ nơi xứ Dừa. Đặc biệt, trong câu chuyện của họ nhất định sẽ không thể thiếu hình ảnh cây dừa. Những thân dừa làm hầm tránh bom đạn cho dân quân, làm hầm chông ngăn bước tiến của giặc. Hàng ngàn, hàng vạn cây dừa hiên ngang đứng bên nhau, tạo thành những rừng cây bạt ngàn xanh ngút mắt, như cánh dù xanh khổng lồ giương lên bầu trời để ngăn chặn tầm ngắm của quân thù những lúc chống càn hoặc những buổi biểu tình đòi quyền sống, dân sinh. Dừa được các anh du kích cài lên ba lô, vừa làm cành lá ngụy trang lại vừa là ô che nắng... Dừa đi qua hai cuộc chiến tranh, như người mẹ che chở cho đàn con, sẵn sàng lấy thân mình hứng làn tên mũi đạn. Nhà thơ Lê Anh Xuân đã từng xúc động thốt lên: 
“Ôi thân dừa đã hai lần máu chảy, 
Biết bao đau thương biết mấy oán hờn.”[28] 
Thân dừa chi chít những vết thương, nhưng dừa vẫn vươn lên cao vút, vẫn xanh tươi và dâng hiến cho người những dòng nước ngọt lành, tựa như quê hương hiền hòa, chân thật; nhưng khi cần thì dừa cũng biểu hiện sự bất khuất, trung kiên của “những con người làm nên Đồng Khởi… của những cây dừa để lại cho ta bóng quê”[29]. Qua câu chuyện kể của các cựu chiến binh xứ Dừa, với sự hỗ trợ đắc lực của dừa, dân quân Bến Tre đã sáng tạo ra rất nhiều cách đánh giặc: các cây dừa cao được ngụy trang thành các đài quan sát địch. Thân dừa được vót nhọn, cắm sâu xuống đáy sông để ngăn tàu giặc hoặc cắm thành các hầm chông trên đường đi của giặc để tiêu diệt chúng: 
“Ai xui thằng giặc đi càn, 
Vô sâu ong đốt, ra đàng gặp chông.”[30] 
Ngoài ra, thân dừa còn được sử dụng làm các cọc chống đỡ cho hầm tránh bom đạn; là nơi dán ápphích, truyền đơn. Nhiều chỗ áp-phích mới dán đã bị địch lột bỏ, quân ta đã nghĩ ra cách khắc chữ lên thân dừa, dưới gốc lại cài mìn. Quân giặc toan tính tiếp cận chỉ có từ chết đến bị thương. Dừa góp công vào cách mạng âm thầm mà hiên ngang, hiệu quả: 
“Dừa bị thương dừa không cúi xuống 
Vẫn ngẩng lên ca hát giữa trời 
Nếu ngã xuống dừa ơi không uổng 
Dừa lại đứng lên thân dựng pháo đài.”[31] 
Trong chiến dịch đánh sập cầu Bình Chánh nhằm ngăn bước tiến của địch, ông Lư Hội - Phó Chủ tịch Hội Di sản Văn hóa tỉnh Bến Tre, trong bài viết “Cây dừa Bến Tre” ( Festival Dừa Bến Tre lần III - 2012) kể lại dấu ấn chiến công của dừa rất rõ: “Sau đồng khởi 1960, lực lượng vũ trang nhân dân huyện Giồng Trôm sử dụng nhiều thân cây dừa dài hơn 10 mét kết thành “bè thần”, chờ nước rút mạnh thả trôi sông đánh sập cầu Bình Chánh, cắt đứt huyết mạch giao thông trên tỉnh lộ 26 nối liền Thị xã Bến Tre đến huyện Giồng Trôm- Ba Tri (nay là tỉnh lộ 885), ngăn và làm chậm bước tiến của quân thù từ thị xã Bến Tre đến các tiểu vùng 1, vùng 2 của huyện Giồng Trôm và huyện Ba Tri.”[32]. Quả là: 
“Ta nhắc đến Bến Tre từ mùa xuân ấy 
Đội nắp hầm đứng dậy phá vành đai 
Con sông nhỏ cũng làm nên dây trói giặc 
Súng bập dừa ta nắm chặt trong tay.”[33] 
Trong chiến tranh, cần nhiều những người con đáp lời sông núi, lên đường chiến đấu. Trong ca cổ, dừa cũng có mặt trong các buổi tiễn đưa: 
“Hàng dừa nghiêng nghiêng soi bóng bên hàng kinh xanh. 
Tiễn đưa anh lên đường. 
Tòng quân giữ yên quê nhà.”[34] 
Ở những buổi chia tay, hành trang họ mang theo đầy ắp hình bóng quê nhà, như mẹ già và hàng dừa trước ngõ: 
“Bấy giờ là mùa mưa. 
Bông dừa rơi lưa thưa. 
Ong ruồi xây tổ mật. 
Ôi buổi chiều Lương Hòa. 
Con đường đi trước mặt.”[35]. 
Lá dừa cũng được sử dụng là đuốc soi đường. Ngọn đuốc ấy đi vào thơ ca như một biểu tượng của niềm tin tất thắng, của tương lai tươi sáng: 
“Một lần nào đó trong mơ, 
Gặp người cầm đuốc lá dừa dẫn đi.”[36] 
Biểu tượng “đuốc lá dừa” không lạ với bất cứ người dân nào ở Bến Tre. Đó là ngọn đèn lý tưởng giúp người vượt qua đêm tối, tránh được nỗi sợ đêm đen; nhất là khi có gió mưa thì không ngọn đèn nào có thể thay thế. Lê Anh Xuân cũng đã từng khắc họa hình ảnh cô giáo làng dẫn đường cho bộ đội trong đêm khuya bằng “đuốc lá dừa” và khi bị giặc sát hại, thì hình ảnh của cô trở thành ngọn đuốc của lòng yêu nước, một ngọn đuốc không bao giờ tắt: 
“Bộ đội qua làng đêm mưa ướt, 
Đuốc lá dừa thắp sáng bến đò khuya... 
Có ánh sáng của em soi trên những trang thơ,
Ánh đuốc của quê hương - ánh đuốc lá dừa.”[37] 
2.4. Trong thời bình, dừa mang lại cho quê hương Nam Bộ sự thơ mộng, trù phú Trong sinh hoạt, người dân Bến Tre không ai không thuộc đôi câu thơ, ca ngợi cuộc sống trù phú, thơ mộng của quê hương cây trái với các nông sản nổi danh, với những cây trồng thẳng lối:
“Sum sê xoài biếc, cam vàng 
Dừa nghiêng cau thẳng hàng hàng nắng soi.”[38] 
Cao hơn cả trong tình cảm con người đó là tình yêu quê hương xứ sở. Những người con Nam Bộ khi nhắc nhớ làng quê, không thể không nhắc đến dừa. Bởi dừa đã làm cho quê hương ngày thêm thơ mộng, trù phú, đến mức không thể không bộc lộ bằng tình cảm quý mến bằng những cách nói “thậm xưng”: “Tôi ngỡ lối về cung tiên”, “nàng tiên xứ dừa”… 
“Về đây... quên hết nắng mưa bụi đời. 
Khi yêu, yêu lắm dừa ơi! 
Cả trời, cả đất, cả người Bến Tre. 
Bóng dừa râm mát lối quê 
Người ơi! Tôi ngỡ lối về cung tiên. 
Gái làng đi họp chợ phiên 
Phất phơ tà áo, nàng tiên xứ dừa.” 
Một đoạn khác cũng của nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà: 
Bến Tre gái đẹp, trai hiền. 
Dừa xanh nước bạc, cỏ miền quê hương. 
Ban trưa ghé quán bên đường 
Uống no bóng mát mà thương xứ dừa. 
Ngắm bông sen nở giữa hồ 
Người ơi! Tôi ngỡ gái thơ mỉm cười. 
Bến Tre hỡi! Bến Tre ơi! 
Tôi yêu cả xứ, cả người Bến Tre.”[39] 
Ngay cả đối với khách viếng thăm xứ Dừa, khi về lòng cũng vấn vương bao tình: 
“Thôi từ biệt nhé Bến Tre 
Vườn dừa, mương nước, hàng tre, cánh đồng .... 
Tàu đi xa đảo dừa xanh 
Tiếc mình chưa được làm dân Mỏ Cày 
Vinh quang thay mảnh đất này 
Đã đứng lên giữa những ngày đau thương 
Ta về ta nhớ Hàm Luông.”[40] 
Từ bối cảnh vườn dừa trước ngõ nhà em qua bài ca cổ “Cây dừa trước ngõ”, dù để bộc lộ tình cảm nhớ thương đôi lứa, trong cảm nhận của người con trai không thể thiếu hình ảnh cây dừa, biểu hiện cho sự thơ mộng, đầm ấm của quê hương. Thương người anh thương thêm cây dừa trước ngõ. Nhớ người anh nhớ cả quê hương xứ Dừa thơ mộng, thân thương: “Nhìn cây dừa trước ngõ, mà nhớ thương Anh. Thương ơi là thương, biết mấy cho vừa. Thương cho mối tình, mình đôi… ngã. Thương yêu chưa tròn… đà lìa xa. Lòng em thiết tha... Anh quên mối tình, mình âu yếm…, hẹn hò ngày… xưa... Không em ơi, dầu kẻ chân mây, người nơi góc biến, dù tháng năm dài, anh nhớ mãi chuyện tình mình âu yếm, lời hẹn hò xưa không quên được… bao… giờ. Thân ở miền xa, lòng gởi quê nhà. Chắc chiều chiều em còn tựa cây Dừa trước ngõ, đưa mắt đợi chờ những lúc hẹn hò xưa…”[41] 
Trong những bài bản vắn, cũng có nhiều bài ca nói lên niềm tự hào quê hương Nam Bộ thơ mộng, trù phú. Đặc biệt là những bài ca ca ngợi quê hương xứ Dừa Bến Tre với những lời ca hết sức cô đọng, nhưng chứa đựng một tình cảm yêu thương thủy chung sâu sắc của người con sinh trưởng nơi quê hương xứ Dừa Bến Tre: “Xứ Dừa - ba dãy cù (lao). Có (tên) gọi Bến Tre quê (nhà). Người (ơi) mỗi lúc đi (xa). Nghe sâu (nặng) thiết tha nghĩa (tình).”. Hay ở một bài khác: “Sông (dài) biển rộng soi (hình). Rặng (Dừa) bến nước Hàm (Luông). Đò ghe xuôi (ngược) ngân vang câu (hò). Về (đến) bến phà Rạch (Miễu). Nhìn (thấy) sóng nước xôn (xao). Lòng (thấy) vui sướng nôn (nao). Ơi quê (mẹ) Bến Tre dạt (dào).”[42] 
3. Việc quảng bá văn hóa xứ Dừa, một mặt cần mô hình “du lịch xanh” để du khách được tiếp cận với xứ Dừa, được nằm võng mắc giữa vườn dừa; được uống nước dừa và thưởng thức những món ăn chế biến từ dừa; được ngồi trên xuồng đi dọc các con kênh xanh mát bóng dừa mà nghe ca vọng cổ, nghe câu hát, câu hò, điệu lý nói về quê hương xứ Dừa. Nhưng mặt khác, việc sưu tầm văn chương dân gian và tuyển chọn những bài thơ, bản vắn, câu ca vọng cổ có chủ đề, hình ảnh cây dừa cũng là cách vừa giúp cho du khách tiếp cận loại hình văn hóa Nam Bộ đặc thù, vừa giúp người dân địa phương và du khách thêm yêu mến quê hương xứ Dừa, một quê hương vốn có bề dày truyền thống văn hóa - lịch sử đáng tự hào.
Hoàng Thị Ánh Tuyết
Theo http://115.79.201.206:81/bitstream/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bùi Việt Phương và những vần thơ lạ từ miền núi Bùi Việt Phương thuộc thế hệ 8X. Phương sinh ra và lớn lên ở miền núi, học xong khoa Ngữ...