"Hồ Xuân Hương - Hoài niệm phồn thực"
Hồ Xuân Hương được biết đến với các bài thơ Bánh trôi nước,
Mời trầu, Đề đến Sầm Nghi Đống vốn được giảng dạy trong nhà trường. Thơ của
bà thường được giảng là than cho thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến và lời
khẳng định về bản thân, thể hiện cái tôi riêng của Hồ Xuân Hương.
Trong thơ ca Trung đại, cái tôi của tác giả thường được giấu
đi, đại từ nhân xưng thường bị ẩn, hoặc có xuất hiện cũng là một cái ta chung
chung đại diện. Hồ Xuân Hương, với hệ thống tư tưởng sẵn có trong thơ ca Việt
Nam lúc bấy giờ, lần đầu đã tự khẳng định cái tên của mình, tự xưng tên Xuân
Hương trong bài Mời Trầu. Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy viết “Hồ Xuân Hương
đã vi phạm một loạt những điều cấm kỵ”, và những vi phạm, những cấm kỵ đó được
ông trình bày rất rõ ràng, chi tiết trong quyển Hồ Xuân Hương - Hoài niệm
phồn thực. Trái ngược với hình ảnh Hồ Xuân Hương gắn cùng niềm bi ai sầu khổ về
số phận bảy nổi ba chìm, Đỗ Lai Thúy đã chỉ ra một Hồ Xuân Hương khác, một Xuân
Hương mạnh mẽ tuyên chiến với trật tự xã hội cũ. Một khía cạnh vô cùng thú vị
được ông khai thác, đó là hoài niệm phồn thực trong thơ bà.
Sơ lược về Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương ra đời vào cuối triều Lê, trải qua đời Tây Sơn
rồi triều Nguyễn, một giai đoạn với nhiều cơn biến loạn dồn dập. Bà quê gốc ở
Nghệ An, sinh trưởng ở phường Khán Xuân gần hồ Tây, thành Thăng Long. Vào giai
đoạn cuối Lê đầu Nguyễn, khu vực ven hồ Tây rất phát triển, có nhiều đền
chùa, trở thành một trung tâm văn hóa nghệ thuật sáng bừng cả đất kinh kỳ. Khí
vị phong lưu còn lưu truyền đến ngày nay qua bài Chiến tụng Tây Hồ phú của
Phạm Thái, một bài phú có điểm qua các địa điểm nổi tiếng của Hồ Tây lúc bấy giờ.
Hồ Xuân Hương nổi tiếng với hai hình mẫu thơ. Hình mẫu đầu
tiên là thơ Nôm, một khối lượng lớn tác phẩm được nhân gian truyền tụng. Thơ
Nôm của bà được phổ biến rộng rãi, có nhiều bài chắc chắc là của bà viết, nhưng
không thiếu những bài là do bị lẫn vào, được người đời thêu dệt thêm, hoặc thơ
khuyết danh được gắn với danh tiếng bà.
Hình mẫu thứ hai là Hồ Xuân Hương của tập Lưu Hương ký,
tập thơ tìm thấy năm 1962 bởi ông Nguyễn Thanh Mại. Trong đó, phong cách thơ của Lưu
Hương ký khác hoàn toàn với thơ Nôm, bài trong Lưu Hương ký thường
cảm thán nỗi lòng và gửi rất nhiều tình quân, nhưng tình quân trong tập sách ấy
lại rất khác với những tình quân Hồ Xuân Hương viết và tặng sau này. Hơn nữa,
thái độ với những người đàn ông thể hiện trong tập Lưu Hương ký so với
trong thơ Nôm cũng hoàn toàn khác nhau. Có những bài thơ Nôm nguyên gốc của Hồ
Xuân Hương không có mặt trong Lưu Hương ký, nhưng do phong cách giống nên
ông Hoàng Xuân Hãn đã gộp chung chúng lại vào tập thơ này. Tập thơ này hiện giờ
rất ít người nghiên cứu và truy tìm nguồn gốc, ngược lại, phần thơ Nôm của bà lại
rất được chú ý. Thơ Nôm của bà cũng là lời khẳng định về một phong cách riêng
biệt trong thơ Việt Nam. Từ khi thơ Nôm của Hồ Xuân Hương xuất hiện, trật tự
thơ cũ của Việt Nam đã hoàn toàn thay đổi. Giới hạn nghiên cứu của sách Hồ
Xuân Hương - Hoài niệm phồn thực chỉ ở các bài thơ Nôm của bà mà thôi,
không đề cập đến Lưu Hương ký vì hai phong cách thơ quá đỗi khác biệt.
Các nghiên cứu về Hồ Xuân Hương xưa nay thường mang nhiều định
kiến. Bà nhận được nhiều đánh giá không xác đáng vì bởi thơ của bà chạm đến các
vấn đề nhạy cảm, thậm chí là cấm kị, chẳng hạn như vấn đề dục, hoặc vấn đề chống
lại sự áp đặt quyền lực của người nam lên người phụ nữ lúc bấy giờ. Ông Đông
Châu Nguyễn Hữu Tiến, người đầu tiên nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương cho rằng đây
là thứ thơ “dâm và tục”. “Dâm” là bởi bà nhìn thấy yếu tố dục ở mọi hoàn cảnh,
mọi đối tượng, “tục” là bởi bà viết thơ không phải để “văn dĩ tải đạo, thi dĩ
ngôn chí” như quan niệm bấy giờ, mà để mắt đến những sự vật bình thường như cái
giếng, quả mít để làm thơ.
Rõ ràng trong quan điểm Việt Nam thời phong kiến, dục luôn là
thứ cấm kị. Nhưng thậm chí ở một đất nước rất cởi mở về vấn đề này với nhiều
tác phẩm giàu tính “sex”, thơ Hồ Xuân Hương vẫn không được chấp nhận đúng mực.
Một nhà nghiên cứu người Pháp tên là Georges’ Cordier khi đọc thơ Hồ Xuân Hương
vào năm 1935 đã nhận định “một vài bài thơ in rõ dấu vết của cái tục tĩu nhớt
nhả, hầu như được che đậy bởi lối hành văn láu lỉnh hoặc ẩn ngữ mập mờ”. Thi sĩ
Tản Đà cũng gọi bà là “Thi trung hữu quỷ”, ngợi ca vẻ mê hoặc trong thơ bà.
Trong chương trình giáo dục hiện nay, thơ bà được gắn với việc đòi quyền lợi
cho phái nữ, kêu than cho số phận phụ nữ bị xã hội đè nén.
Sơ lược về sách Hồ Xuân Hương - Hoài niệm phồn thực
Tất cả những góc nhìn và nhận định về Hồ Xuân Hương trước đây
hoàn toàn không thể lý giải được điều gì chi phối và làm nên sức hấp dẫn cho
thơ của bà. Nếu chỉ là chuyện than thân, khẳng định giá trị bản thân, thì không
lý giải được vị trí đặc biệt của bà so với Bà Huyện Thanh Quan hay Đoàn Thị Điểm,
vị trí đặc biệt của bà là ở chỗ đã thay đổi toàn bộ tư tưởng và tư duy thơ ca
và văn chương Việt Nam trung đại. Cách tiếp cận của nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy
là dựa trên cơ sở văn hóa phồn thực để lý giải tất cả các hiện tượng thơ Hồ
Xuân Hương. Đây là bước đột phá trong nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương sau một thời
gian dài. Quyển sách Hồ Xuân Hương - Hoài niệm phồn thực xuất bản lần
đầu từ lâu, tái bản năm 2010 đã thu hút được nhiều sự quan tâm chú ý của giới
nghiên cứu văn học.
Cấu trúc cuốn sách gồm ba phần:
Phần 1: Lý giải những vấn đề về văn hóa phồn thực, tín
ngưỡng phồn thực, giải thích chúng đích thực là gì và biểu hiện như thế nào
trong văn hóa nhân loại.
Phần 2: Nghiên cứu triết lý phồn thực trong thơ Hồ Xuân
Hương.
Phần 3: Bình phẩm và bàn luận của Đỗ Lai Thúy về một số
bài thơ chọn lọc.
I. Tín ngưỡng Phồn thực.
Tín ngưỡng phồn thực hình thành quanh Linga và Yoni.
Linga là biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam, Yoni là biểu tượng cho bộ phận
sinh dục nữ. Trong văn hóa cổ, người ta thờ cúng sùng bái Linga và Yoni. Có những
nơi thờ riêng Linga, có những nơi thờ riêng Yoni, có những nơi thờ việc phối hợp
Linga và Yoni. Hai biểu tượng này xuất hiện nhiều và được đặt ở những vị trí hết
sức trang trọng. Quan niệm truyền thống cho rằng thờ phụng Linga và Yoni để
mong cầu vạn vật được sinh sôi nảy nở, mùa màng được bội thu. Tín ngưỡng phồn
thực hiện nay còn rất phổ biến, ta dễ dàng thấy ở các lễ hội dân gian truyền thống
hoặc ở các dân tộc thiểu số. Thậm chí, nhiều thứ ngầm được cho là thanh cao hay
hiện đại ngày nay thực ra chỉ là biến thể của tín ngưỡng phồn thực.
Lý giải cho tín ngưỡng thờ Linga và Yoni, Đỗ Lai Thúy cho rằng
xuất phát điểm là do những ám ảnh dục của những người đàn ông trong hang động vẽ
ra. Bắt đầu từ việc thờ những bức tượng Vệ nữ nguyên thủy. Chúng ta thường biết
đến hình tượng thần Vệ nữ trong thần thoại Hy Lạp và La Mã, được mô tả là một
cô gái với dáng vóc rất thon thả và bộ ngực hoàn hảo. Nhưng trên thực tế tìm hiểu
những bằng chứng khảo cổ về các bức tượng thần Vệ nữ có niên đại cách đây hơn
30 000 năm thì hình tượng Vệ nữ nguyên thủy lại rất khác: đó là những người đàn
bà có ngực và mông to lớn quá cỡ, hoàn toàn mất cân xứng về tỉ lệ. Không một
con người thực nào có thể đạt tới tỉ lệ và kích cỡ bất thường đến thế. Đỗ Lai
Thúy giải thích về kích cỡ quá khổ này là do những ám ảnh dục của người đàn ông
trong những chuyến đi săn dài ngày, phải trú trong những hang động một thời
gian dài, họ ham muốn việc giao hợp, và bị ám ảnh đến mức vẽ ra những kích cỡ bất
thường. Bức tượng thần Vệ nữ nguyên thủy là tượng trưng cho ham muốn tình dục
đã bị dồn nén, dần dần họ thờ cúng hình tượng này, đẩy ham muốn của mình lên một
bậc thiêng liêng. Trong xã hội hiện tại của ta hiện nay, cõi tục và cõi thiêng,
cõi thực và cõi huyễn là hoàn toàn tách biệt, nhưng ở xã hội nguyên thủy, chúng
vốn dĩ là một và không có gì đối lập, sự thiêng liêng, Chúa trời và các vị thần
tồn tại trong những điều vô tri nhỏ bé bên cạnh ta nơi trần thế.Việc thờ Vệ nữ
là biểu hiện của việc thiêng hóa những thứ phàm, huyễn hóa những thứ rất thực.
Ngoài biểu hiện ở việc thờ thần Vệ nữ, ta còn bắt gặp tín ngưỡng
phồn thực trong việc thờ sinh thực khí. Sinh thực khí ở đây chính là Linga và
Yoni. Trong một nghi lễ, người ta đem Linga và Yoni ra để thờ cúng, Đỗ Lai Thúy
gọi đó bằng một từ rất hay: “thị phạm ma thuật”. “Thị phạm ma thuật” là triệu hồi
và biểu hiện những thứ thiêng liêng để những người tham gia xung quanh có thể
hiểu được và họ lấy luồng năng lượng từ những biểu tượng ấy để có được may mắn,
phúc lành, sự sinh sôi nảy nở trong suốt một năm. Thờ Linga và Yoni là nghi lễ
rất cổ. Ta có thể bắt gặp khi đến thăm Tháp Chàm, trên phiến đá nghi lễ có biểu
tượng Linga - Yoni, hoặc ở Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam cũng có biểu tượng thờ
Linga - Yoni.
Từ tín ngưỡng cổ xảy ra quá trình phóng chiếu biến đổi. Thậm
chí, các nghiên cứu phân tâm học còn nhận định những biểu hiện thờ cúng tín ngưỡng
hay tôn giáo sau này đều chỉ là sự phóng chiếu của việc thờ sinh thực khí hay của
tín ngưỡng phồn thực mà thôi. Chẳng hạn, việc thờ Chúa, mong cầu tình yêu
thương bao bọc che chở từ Chúa trong Kito giáo sinh ra từ ám ảnh thờ Linga. Một
biểu hiện cụ thể khác là ở các nghi lễ trong phái đoàn Dionysus. Đoàn người thờ
thần rượu nho Dionysus thường tổ chức rất nhiều lễ hội trong năm. Trong các lễ
hội thường có nghi lễ quan hệ tình dục, và một số thầy tu đeo hình Linga trước
ngực.
Ở Trung Quốc, người ta thờ phụng hoạt động tính giao. Linga
và Yoni được trừu tượng hóa thành Dương - Âm. Văn hóa Trung Hoa đã nâng tầm tín
ngưỡng phồn thực, hay cụ thể hơn là hoạt động tính giao lên tầm vũ trụ luận và
cả phương pháp tu hành (khí công). Biểu tượng của Đạo, sự điều hòa âm dương xuất
phát chính từ việc thờ Linga và Yoni. Một cuốn sách nổi bật cho biểu hiện của
tín ngưỡng phồn thực là Tố Nữ kinh, sách được tương truyền ghi chép lại những
đối đáp hội thoại giữa Hiên Viên Hoàng Đế và Tố Nữ, trong đó có bàn rất rộng, từ
quy luật âm dương trong trời đất mà luận về hoạt động tình dục, rồi lại từ việc
giao hợp để bàn về lẽ biến đổi của thiên địa và đạo cai trị thiên hạ.
Ở Ấn Độ, người Ấn Độ thờ thần Shiva. Hình tượng Phật ngồi
trên đài sen thực ra là lấy từ hình tượng Shiva. Nhưng hình tượng Shiva trên
đài sen cũng xuất phát từ tín ngưỡng phồn thực, Shiva là Linga, đài sen là
Yoni, Shiva cũng được coi là thần tính dục. Ở đây, hoạt động tính dục cũng được
nâng tầm lên thành vũ trụ luận và lý thuyết đạo đức học. Quyển sách Kamasutra đề
cập đến vấn đề đạo đức, đẳng cấp, vùng miền, nhân chủng học thể hiện qua việc
giao hợp.
Ở Việt Nam, sẽ không thể nào có một Hồ Xuân Hương nếu trong
tâm thức dân tộc không sẵn có một nguồn tín ngưỡng phồn thực dồi dào. Một pho
tượng đào được ở di chỉ Phùng Nguyên được xác định là có từ năm 4000 TCN, pho
tượng này có chân thon dài và nhấn mạnh vào bộ phận sinh dục. Người ta cũng đào
được ở Văn Điển một pho tượng người đàn ông có bộ phận sinh dục to một cách bất
thường được xác định là có từ năm 1500 TCN. Hoặc trên thạp đồng Đào Thịnh có
niên đại thế kỷ V TCN có những hình ảnh tính giao nằm ở bốn phía, cụ thể là cảnh
người phụ nữ và đàn ông làm tình với nhau. Ngoài ra, văn hóa dân gian đất Việt
có tục thờ cóc, do cóc đẻ nhiều và có tư thế giao hợp khá tương đồng với loài
người. Có lẽ đó cũng lý giải cho câu chuyện mẹ Âu Cơ đẻ ra cái bọc trăm trứng.Hình
tượng cóc hay thạp đồng của Việt Nam đều gắn liền với nghi lễ cầu mưa. Hình ảnh
mưa từ trời cao gieo xuống tưới tắm đất đai làm cây cối muôn loài sinh sôi nảy
nở cũng rất “tính dục” theo cái nhìn truyền thống cổ xưa, trời coi như người
đàn ông, đất coi như người đàn bà. Do vậy, cầu mưa cũng là hình thức thị phạm
ma thuật để cầu cho muôn loài nảy nở sinh sôi.
Nhưng khác với ở Ấn Độ hay Trung Hoa, văn hóa phồn thực ở Việt
Nam không phát triển thành vũ trụ luận mà phát triển theo “phương nằm ngang”
(theo cách dùng chữ của Đỗ Lai Thúy), tức là có tính ăn lan, xen vào giữa cuộc
sống đời thường hằng ngày của người dân Việt Nam. Ví dụ như từ lối ăn nói, cái
giếng, các vật dụng… đều thể hiện tín ngưỡng phồn thực.
Đỗ Lai Thúy chia việc thờ sinh thực khí ở Việt Nam ra làm 3 lớp.
Lớp thứ nhất: Thờ trực tiếp sinh thực khí. Qua nhu cầu văn
minh hóa, theo thời gian người ta đã không thờ trực tiếp sinh thực khí nữa, mà
khoác lên nó một lớp áo mới.
Lớp thứ hai: Mô tả bộ phận sinh dục bằng cách phóng đại. Biểu
hiện rõ ràng ở nước ngoài là hình tượng Vệ nữ nguyên thủy, còn ở Việt Nam,
ngoài tượng còn có cả những mô tả dân gian lưu truyền về ngực của nữ danh nhân
chẳng hạn Bà Triệu.
Lớp thứ ba: Thờ sinh thực khí được thẩm mĩ hóa. Ví dụ như Đài
Nghiên - Tháp Bút, chuông chùa - dùi chuông, bánh chưng - bánh giầy cổ truyền.
Bánh chưng bánh giầy mà chúng ta thấy ngày nay là do đã đi qua ảnh hưởng từ tư
tưởng văn hóa Trung Hoa, còn bánh chưng nguyên gốc vốn giống bánh tét, có hình
Linga, bánh giầy hình tượng trưng cho Yoni. Ngoài ra còn có giò và chả: giò là
Linga, chả là Yoni, hoặc cặp chày - cối: chày là Linga, cối là Yoni, bát cơm ma
chay cắm đũa cũng là hình ảnh Linga và Yoni. Ngoài ra còn có nghi lễ cày tịch
điền vua cày ruộng vào mùa xuân, lưỡi cày khỏe khoắn là Linga, mặt đất màu mỡ
là Yoni; nghi lễ cầu cho việc cây cối tốt tươi, mùa màng thuận lợi, cũng là một
biểu tượng của tín ngưỡng phồn thực.
Trong sách, Đỗ Lai Thúy còn mô tả tục rước Nõ - Nường ở Vĩnh
Phúc, mô tả như sau: gỗ vông làm Nõ tức là Linga, mo cau làm Nường tức là Yoni,
trai tân và gái trinh cùng nhau rước hai thứ này và cùng hát “Tinh tinh tinh
tinh… Phộc”. Đây là một lễ hội mang đầy màu sắc tính dục. Dấu hiệu của tín ngưỡng
phồn thực ăn sâu vào đời sống Việt Nam như vậy chứ không còn là vũ trụ luận hay
tạo ra hệ thống tôn giáo nữa. Đây là điểm khá đặc biệt. Có thể kết luận
tín ngưỡng phồn thực, thứ mà chúng ta rất ít khi để tâm, thực ra ăn rất sâu vào
văn hóa Việt Nam.
II. Thơ Hồ Xuân Hương qua góc nhìn văn hóa phồn thực
Đỗ Lai Thúy gọi Hồ Xuân Hương là “người phát ngôn phồn thực”,
bởi bà sử dụng toàn bộ ngôn ngữ thơ của mình để biểu hiện các sinh thực khí và
hoạt động tính giao. Cũng cần nói thêm rằng những sinh thực khí và hoạt động
tính giao này đã được thiêng liêng hóa bằng ngôn ngữ thơ. Đây là điều táo bạo không chỉ ở thời đại của bà, ngay cả thời hiện đại đây cũng là điều ít ai
dám làm. Đó là một điều cấm kỵ trong xã hội. Nguyên nhân lý giải cho lối viết
thơ này của Hồ Xuân Hương là bởi đây là một thời kỳ rất nhiều xáo trộn của xã hội
Việt Nam, tất cả những giá trị khuôn thước cũ đến ngày nay đã bị đặt ngược lại.
Thứ nhất, Nho giáo đã suy tàn, tất cả những khuôn mẫu Nho giáo được xây dựng dưới
thời Lê Thánh Tông thì đến cuối thời Lê đều đã sụp đổ.
Thêm nữa là sự lên ngôi
của Lão giáo và Phật giáo, không phải là sự hòa trộn cùng tín ngưỡng dân gian
như thời Lý Trần, mà bắt đầu xuất hiện những sự lố bịch.
Thứ ba, có rất nhiều đền
thờ dâm thần được mở ra ở Hà Nội, nổi tiếng nhất là đền thờ bà Banh, hay còn gọi
là bà Đanh. Cũng trong giai đoạn này xuất hiện nhiều truyện tiếu lâm lấy bộ phận
sinh dục ra làm trò đùa, chẳng hạn truyện Trạng Quỳnh hay Ba Giai Tú Xuất đều
xuất hiện ở thời kỳ này.
Thứ tư là sự phát triển thịnh hành của những trò đối tục
giảng thanh hay đối thanh giảng tục, chẳng hạn:
“Khi xưa em trắng như ngà
Bởi chàng ngủ lắm nên đà em thâm
Khi bẩn chàng đánh chàng đâm
Đến khi sạch sẽ chàng nằm lên trên”
(Chỉ cái chiếu)
Thơ ca Hồ Xuân Hương có sự xuất hiện dày đặc của các biểu tượng
thơ thuộc hệ tín ngưỡng phồn thực. Bàn về biểu tượng và việc giải mã biểu tượng
thơ Hồ Xuân Hương trong cuốn sách Hồ Xuân Hương - Hoài niệm phồn thực, ông
Đỗ Lai Thúy đã sử dụng một khái niệm mở rộng, theo đó “biểu tượng” là một danh
từ, một tên gọi, một đồ vật, tuy đã quen thuộc với ta hàng ngày, nhưng gợi thêm
ý nghĩa bổ sung và những ý nghĩa ước định hiển nhiên và trực tiếp của nó. Chẳng
hạn: lá cờ là biểu tượng cho tinh thần quốc gia, hay con chim phượng hoàng là
biểu tượng cho sự tái sinh. Linga biểu tượng cho nam tính, sự mạnh mẽ bộc phát,
mặt trăng biểu tượng cho người nữ. Là những hình ảnh bình thường xung quanh
nhưng lại gợi cho ta nhiều ý nghĩa khác, vì vậy biểu tượng cũng mang tính chất
thị phạm ma thuật.
Thơ Hồ Xuân Hương chứa nhiều biểu tượng, nên cũng mang tính
thị phạm ma thuật. Đọc thơ Hồ Xuân Hương là tiếp xúc nhiều với các biểu tượng
thơ, đòi hỏi phải tư duy qua biểu tượng. Thường người nguyên thủy tư duy qua biểu
tượng, loại tư duy này cũng thường thấy ở trẻ con. Một loại người rất đặc trưng
trong tư duy biểu tượng là nghệ sĩ, đặc biệt là trong lĩnh vực hội họa và thơ
ca. Những nhà thơ và họa sĩ thì sử dụng biểu tượng rất nhiều trong các tác phẩm
của mình. Họ thường sử dụng biểu tượng qua thao tác gọi tên để gợi lên những điều
vượt ngoài cái tên của nó.
Biểu tượng thơ của Hồ Xuân Hương thuộc dạng văn hóa tôn giáo
và chứa nhiều những nguyên mẫu cổ. Nguyên mẫu cổ ở đây chính là Linga - Yoni và
hoạt động tính giao. Văn hóa tôn giáo là hiện thân của văn hóa phồn thực ở Việt
Nam, tôn giáo cổ ở đây là dạng tôn giáo thờ Linga - Yoni. Do biểu tượng thơ Hồ
Xuân Hương thuộc dạng biểu tượng mang tính chất văn hóa và tôn giáo nên thơ Hồ
Xuân Hương được rất nhiều người đồng cảm.
Đỗ Lai Thúy chia các dạng biểu tượng xuất hiện trong thơ Hồ
Xuân Hương ra thành 3 loại:
Biểu tượng Yoni, với các hình ảnh so sánh: Hang Cắc Cớ, Động
Hương Tích, Đèo Ba Dội (Cửa son đỏ loét tùm hum nóc/ Hòn đá xanh rì lún phún rêu),
cái giếng (Cầu trắng phau phau hai ván ghép), cái lỗ (Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ
không), cái quạt (Chành ra ba góc da còn thiếu/ Khép lại đôi bên thịt vẫn
thừa).
Dạng biểu tượng thứ hai là Linga, với các hình ảnh giàu tính
gợi: quả cau (Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi), sừng (Dê cỏn buồn sừng húc dậu
thưa), hòn đá (Đâm toạc chân mây đá mấy hòn), cọc, dùi trống, hay thậm chí là đầu
sư.
Dạng biểu tượng thứ ba là hoạt động tính giao, thể hiện qua
hình ảnh đánh đu:
“Trai co gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.”
Việc dệt cửi:
“Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
Một suốt đâm ngang thích thích mau.”
Việc đánh trống:
“Ngày vắng đập tung dăm bảy chiếc,
Ðêm thanh tom cắc một đôi hồi.
Khi giang thẳng cánh bù khi cúi,
Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi”
Hay các hình ảnh
“Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa”
Ngoài ra, thơ Hồ Xuân Hương còn có dạng biểu tượng gợi dục,
miêu tả thân thể một cách ý vị bay bổng.
“Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm”
“Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng”
Trong quá trình sử dụng biểu tượng của mình, Hồ Xuân Hương
thường sử dụng cách lấp lửng hai mặt, cách nói thường thấy trong các bài đối tục
giảng thanh đương thời. Những biểu tượng Hồ Xuân Hương sử dụng thường mang tính
chất liên quan đến Sáng thế, đặc biệt là các hình ảnh biểu tượng Yoni. Biểu hiện
rõ nhất là qua bài Hang Cắc Cớ.
“Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm đôi mảnh hỏm hòm hom
Kẽ hầm rêu mọc trơ toen hoẻn
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm”
Tuy nhiên, nói về thơ Hồ Xuân Hương mà chỉ nói về sự đa nghĩa
thôi thì còn chưa đủ, vì sau này còn nhiều thơ đa nghĩa khác: thơ Bút Tre, thơ
Bảo Sinh. Thơ Hồ Xuân Hương là tác phẩm nghệ thuật vì nó thể hiện vũ trụ luận,
tất cả các hành động tính giao đều thể hiện qua hang đá, kết nối cùng các thực
tại phía trên: bầu trời, những giọt nước, bản thân ta cũng có thể nhìn ra trong
tự nhiên những hoạt động tính giao này, chính vì thế những bài thơ của bà có vị
trí đặc biệt.
Một biểu hiện rõ hơn là khi Hồ Xuân Hương tả cảnh cõi Phật:
“Người quen cõi Phật chen chân sọc”.
Phật giáo thời bấy giờ luôn được coi là một tôn giáo thiêng
liêng cao quý, của sự thoát dục, vượt trên mọi chuyện phàm trần. Cách viết của
Hồ Xuân Hương không phải là đang hạ bệ Phật giáo, thực ra Phật giáo đang được
đưa về trạng thái nguyên sơ, hình ảnh vị Phật ngồi trên đài hoa sen ban đầu là
biểu tượng Linga và Yoni, hơn nữa nhiều trường phái ban đầu tu tập thông qua hoạt
động tính giao giữa đàn ông với đàn bà mà ngày nay vẫn gọi là Tantra. Đó là
khía cạnh nguyên sơ của Phật giáo. Do đó, những bài thơ đưa hình ảnh đầu trọc
ông sư so sánh với biểu tượng Linga không phải là một sự hạ bệ Phật giáo mà đưa
Phật giáo quay trở về với đúng bản chất mà thôi. Hoặc hình ảnh “Dê cỏn buồn sừng
húc dậu thưa”, sừng biểu tượng cho Linga còn làm người ta liên tưởng đến mặt
trăng, một biểu tượng khác của sự sinh sôi nảy nở, của tính dục. Sừng còn biểu
tượng cho sự sung túc, những tù trưởng dân tộc miền núi thường cắm sừng lên mũ
hoặc dùng làm biểu tượng treo trong nhà để thể hiện quyền uy của nam giới.
Trong bài thơ Đánh đu, Hồ Xuân Hương cũng có nhiều hình ảnh
thể hiện hoạt động tính giao:
“Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông,
Trai co gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân đã biết xuân chăng tá.
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!”
Những cụm từ láy như “khom khom cật”, “ngửa ngửa lòng” cũng rất
nhiều tính gợi tưởng đến chuyện sinh hoạt tình dục. Ở đây rõ ràng có biểu hiện
của việc đối thanh giảng tục hay đối tục giảng thanh. Nhưng những hình ảnh ấy
không hề dâm tục. Quay về thời cổ sơ, giữa tục và thiêng vốn chưa hề có sự phân
định. Thường đánh đu là hoạt động trong lễ hội. Trong lễ hội, người nam và người
nữ có thể được phép vi phạm các cấm kị. Bằng việc miêu tả cảnh đánh đu, bà đã
mang cả lễ hội vào thơ cả của mình với cả những sinh thực khí với tính chất phồn
thực. Bằng bài thơ và lễ hội, bà gắn kết cái thiêng với cái tục với nhau như
văn hóa cổ xưa.
Những triết lý phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hương thường gắn
liền với những triết lý tự nhiên, tức là dựa trên những biểu hiện của tự nhiên
để suy ra những quan điểm tư tưởng của mình.
Nhiều bài thơ của Hồ Xuân Hương phô bày ra những người phụ nữ
rất đẹp, nhưng không lồ lộ sỗ sàng mà có vẻ khép nép trễ nải hớ hênh tự nhiên hấp
dẫn. Nổi tiếng nhất là bài Thiếu nữ ngủ ngày:
“Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc biếng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào nguyên nước chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở, ở không xong”
Một cô gái nằm nghỉ ngủ quên, để lộ vẻ đẹp đặc trưng. “Lược
trúc biếng cài”, “yếm đào trễ xuống”, vẻ đẹp không phải ở sự phô bày chủ ý, mà
là một hoàn cảnh không ý thức, rất tự nhiên. Vẻ đẹp đặc trưng của người phụ nữ
luôn được Hồ Xuân Hương miêu tả nửa kín nửa hở, mà phần hở ra thường chỉ là
phút lơ là không chú ý, vì vậy mà rất duyên dáng, không hề lõa lồ.
Một bài thơ khác là bài Hỏi trăng. Trong bài này, Hồ
Xuân Hương đồng nhất mình với trăng. Biểu tượng trăng thường gắn liền với người
phụ nữ. Trong một bài thơ khác của bà là bài Hỏi đáp với Chiêu Hổ, bà cũng
từng dùng trăng để tự chỉ mình::
“Anh đồ tỉnh, anh đồ say,
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày?”
Hơn nữa, họ Hồ của bà là chiết tự từ chữ “Cổ Nguyệt” (trăng
xưa), và nhà bà ở gần Hồ Tây cũng được gọi là “Cổ Nguyệt đường”. Bài thơ Hỏi
trăng như sau:
“Một trái trăng thu chín mõm mòm,
Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom!
Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,
Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.
Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,
Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom.
Hỡi người bẻ quế rằng ai đó,
Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm”
Hay một bản khác:
“Mấy vạn năm nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn
Hỏi con Thỏ Ngọc đà bao tuổi?
Chứ chị Hằng Nga đã mấy con?
Đêm vắng cớ sao phô tuyết trắng?
Ngày xanh sao lại thẹn vừng son?
Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
Hay có tình riêng với nước non?”
“Phô tuyết trắng” là vẻ đẹp cơ thể, được nói đến trước cả “tấm
lòng son”, vẻ đẹp tinh thần. Bài thơ thể hiện vẻ đẹp thân thể người phụ nữ, đây
vốn là điều cấm kỵ ít được nhắc tới trong thơ cổ. Các mẫu hình phụ nữ trong thơ
xưa thường chỉ được mô tả ở vẻ đẹp tinh thần, vẻ đep thân thể rất hiếm khi được
nhắc tới, hoặc có nhắc cũng phải dùng các hình ảnh ẩn dụ:
“Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”
Chỉ riêng Hồ Xuân Hương là viết một cách trực tiếp và đầy gợi
hình về những đường nét đẹp nhất của người phụ nữ.
Ở bài thơ Đá ông chồng bà chồng, bà đã tạo một loạt những
đối lập âm dương, “phơ đầu bạc” - “gơn má hồng”… dày đặc biểu tượng cho hoạt động
tính giao.
“Khéo khéo bày trò tạo hóa công
Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng
Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc
Thớt dưới sương pha đượm má hồng
Gan nghĩa dãi ra cùng chị Nguyệt
Khối tình cọ mãi với non sông
Đá kia còn biết xuân già giặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung”
Trong đó, câu “Khối tình cọ mãi với non sông” biểu hiện rõ hoạt
động tính giao, nhưng không chỉ thế, còn nói đến sự mài mòn của thời gian. Từ
“cọ” dùng rất đắt giá. Đây cũng là câu được Đỗ Lai Thúy dùng mở đầu quyển
sách Hồ Xuân Hương - Hoài niệm phồn thực.
Nhìn những khối đá hướng ra biển, bà không khai triển những mạch
tang thương có sẵn trong các tích chuyện kể về đá chờ chồng, mà thổi một hồn mới,
một đời sống mới vào đá núi với cảm hứng phồn thực.
Hồ Xuân Hương cũng tỏ rõ sự khinh ghét với sự vô sinh nhân tạo.
Hai loại người bên ngoài tỏ ra rất cao đạo, thoát dục, nhưng bên trong thì lại ứ
đầy ẩn ức dục, đó là các nhà sư và các bậc “quân tử”. Ngay trong bài Thiếu
nữ ngủ ngày, hình ảnh quân tử cũng được nhắc tới đầy ý châm biếm của nữ thi sĩ.
Với các vị sư, bà coi rằng việc tu hành diệt dục là phản tự nhiên, và bên ngoài
họ có thể tỏ ra cao đạo, nhưng có thể làm nhiều điều lén lút sau lưng:
“Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Trái gió cho nên phải lộn lèo”
Hay:
“Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà
Khi cảnh khi tiu khi chũm choẹ
Giọng hì giọng hỉ giọng hi ha ”
Hồ Xuân Hương cũng khẳng định giá trị của người phụ nữ, thể
hiện với các đoạn Đối đáp với Chiêu Hổ, bà rất hay xưng “chị”.
“Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay”
Hoặc với phường học sinh trêu ghẹo:
“Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Ra đây cho chị dạy làm thơ”
Trong bài Bánh trôi nước hay Tự tình, bà cũng
bày tỏ niềm than thân trách phận cho số kiếp phụ nữ. Tuy nhiên, việc khẳng định
giá trị hay than thân chỉ là một phần thái độ sống của bà, một phần biểu hiện
niềm tin mạnh mẽ của bà về tín ngưỡng phồn thực sẵn có. Nội dung này chỉ là một
khía cạnh nhỏ so với tổng thể thơ ca luôn hướng về tín ngưỡng phồn thực của bà.
KẾT LUẬN
Với Đỗ Lai Thúy, Hồ Xuân Hương đã làm một việc “thị phạm ma
thuật”, kéo gần cái thiêng và cái tục lại với nhau. Trong xã hội cổ xưa, cái
thiêng và cái tục hòa làm một, không hề tách biệt nhau. Do những định chế của
xã hội và do một ám ảnh nào đó, thiêng và tục đã tách ra và cách xa nhau.
Thiêng được đặt trên cao, là nơi của văn chương, nghệ thuật, triết học, khoa học,
tôn giáo hướng đến. Cái tục đặt dưới thấp và bị coi rẻ, và không ai để ý, thường
gắn liền với vật chất và tính dục. Hồ Xuân Hương đã kéo gần cái thiêng và cái tục
thành một điểm gây cười. Đây là công thức mang tính thị phạm ma thuật của Hồ
Xuân Hương mà Đỗ Lai Thúy đã gọi tên ra trong quyển sách. Cái cười trong thơ Hồ
Xuân Hương đến từ việc đưa cái thiêng và cái tục gặp gỡ nhau, giao hòa nhau như
nguyên sơ.
Việc tách ra rồi hợp nhất thiêng - tục giữa tiếng cười như
trong thơ Hồ Xuân Hương, thực ra chúng ta có thể bắt gặp trong các lễ hội. Các
lễ hội ở Việt Nam hay trên thế giới, nhiều nơi cho phép người nam và người nữ
có thể gặp gỡ nhau tán tỉnh, thậm chí cùng làm tình, chẳng hạn như trong chợ
tình của người miền núi, hay việc hát giao duyên ở hội Lim. Trong lễ hội, tất cả
được vượt ra khỏi khuôn phép để có thể trở về bản nguyên của con người: sự
thiêng và sự tục thực ra gắn liền nhau.Vậy tại sao thơ Hồ Xuân Hương lại là vấn
đề trong khi lễ hội năm nào cũng được tiến hành? Bởi bà thường xuyên vi phạm cấm
kỵ, thường xuyên gây ra tiếng cười, thường xuyên tạo ra lễ hội. Vì vậy nên thơ
bà bị nhiều những nhà Nho hay những người khép trong định chế coi rẻ, thậm chí
lên án; nhưng những người có xu hướng tự do thì lại rất ưa thích vì thơ bà mang
lại tiếng cười, tinh thần lễ hội, vượt thoát hết khỏi những ràng buộc mà bình
thường ta không dám chống lại. Đỗ Lai Thúy nhận định “thi phẩm của bà là một
mùa hội”. Nhận định này cũng gợi đến những tác phẩm đầy tinh thần lễ hội như Zorba - Con người hoan lạc. Thậm chí quan niệm cổ trong kinh Veda từng viết
“cả vũ trụ này là một lễ hội lớn, một lễ hiến tế lớn”. Bởi vậy, phẩm tính lễ hội
chính là thứ đã làm nên sự hấp dẫn trong thơ Hồ Xuân Hương.
Và nếu tiếp cận thơ Hồ Xuân Hương dưới góc độ tín ngưỡng phồn
thực, ta sẽ có cái nhìn khác về thơ của bà. Ta sẽ không chỉ đọc để tìm sự cười
giải trí đơn giản, mà có thể tìm ra những triết lý những quan niệm mới. Nếu tìm
hiểu vị trí của bà trong thơ ca thời đại, ta sẽ thấy Hồ Xuân Hương đã tạo ra một
triết lý mới trong xã hội lúc bấy giờ. Tất cả những triết lý trước đó của Nguyễn
Trãi hay Nguyễn Du gửi gắm vào thơ đều vẫn còn nằm trong vòng ảnh hưởng của Nho
giáo, nhưng thơ Hồ Xuân Hương đã thể hiện một triết lý mới, một quan niệm mới,
một sự giải phóng cá nhân rất mạnh mẽ. Quan trọng hơn nhiều so với việc tự xưng
tên mình trong thơ, thơ Hồ Xuân Hương còn là một sự tự giải phóng của một cá
nhân, điều vốn là một cấm kỵ lớn của thời đại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét