Khúc đồng dao của người không có tuổi
Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa
Như thời đã đi qua, như thời rồi sẽ đến.

Dưới đây báo Văn nghệ xin
giới thiệu một bài viết của nhà thơ Nguyễn Ngọc Phú, bài viết mới nhất về Nguyễn
Trọng Tạo trên văn nghệ để chúng ta cũng hồi nhớ về một con người tài
hoa của mảnh đất xứ Nghệ địa linh. - Văn nghệ.
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo
(1947-2019)
|
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo có bài thơ
khá nổi tiếng (sau ông lấy tên chung cho tập thơ của
mình) là “Đồng dao cho người lớn tuổi”. Đọc xong, tôi nghĩ ông
nhà thơ này đúng là không có tuổi chứ không phải lớn tuổi. Ở tuổi trải
qua bao kinh nghiệm sống thế mà nhịp thơ trở lại đồng dao - Đồng
dao như một thời thơ ấu. Sau, tôi mới biết trong gia tài văn chương nghệ
thuật đa tài của ông là nhạc, thơ, họa. Ông còn là người viết văn
xuôi và đặc biệt viết cho các em ở lứa tuổi thiếu nhi cả thơ và truyện. Tôi
nghĩ, riêng ông đã có một “nhịp” riêng. Không chỉ là nhịp đồng
dao ở cụ thể bài thơ đó mà “Đồng dao” cả trong âm hưởng thơ ông, nhạc của ông và cả các bìa sách ông vẽ nữa. Cái nhịp tưởng như tưng tửng,
phiêu bồng và khoáng hoạt ấy lại chứa đựng sau đó là những chiêm nghiệm sâu sắc từng trải bao nhân tình thế thái. Cái nhịp đồng dao ấy cũng là tiết tấu của cuộc sống thường ngày của ông. Kể cả khi bên bàn rượu với
bạn bè cứ rủ rỉ giọng trầm đặc sệt quê Diễn Châu thế mà có khi
kéo dài thâu đêm suốt sáng…
Còn nhớ những ngày mới nhập ngũ tôi về đoàn 22 huấn luyện tân binh (Ở huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh). Sau đó được lựa chọn đi học trường hạ sĩ. Cái trường ấy rèn luyện tân binh khắc nghiệt
có tiếng. Tôi vẫn còn ám ảnh Cái “dốc hạ sĩ” màu đất đỏ quyệt dính bết như một con trăn lớn chảy từ đỉnh xuống chân núi - Cái ngọn
núi cao nhất hiểm trở nhất của Hương Sơn hồi ấy. “dốc hạ sĩ” khi mưa
thì đường trơn lầy lội như ai đó đổ mỡ, thế mà lớp học viên chúng tôi tuần nào
cũng phải leo lên để vào rừng chặt nứa về làm doanh trại. Một lần quá mệt nhóm
ba đưa chúng tôi thường gọi là “tổ tam tam” nằm gối đầu lên bó nứa mệt bả hơi
thở ra cả làn khói sương trắng mùa đông lạnh giá. Bỗng nghe ai đó ở lưng chừng
dốc xướng lên câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo trong bài thơ “tổ ba người”: “Ở nhà
có mẹ có cha - về đây có tổ ba ba chúng mình”. Thế là bao mệt nhọc trút đi hết, hào hứng trở lại. Người khỏe kéo người yếu, người
khéo tay giúp người vụng về bó gác nứa chắc gọn lăn xuống dốc và theo đà người trượt xuống luôn. Không biết cái nhịp thơ dân dã như ca dao ấy đã thấm vào bao giờ mà “tổ ba người” trở thành bài thơ phổ biến. Sau này, tôi được biên chế về sư đoàn 341B làm đường tàu thống nhất thì Nguyễn Trọng Tạo là đội trưởng của đội tuyên văn trên sư đoàn. Một sự tình cờ may mắn, do có
vài bài thơ in báo quân khu 4, tôi được quân lực điều về ban sáng tác của đội
văn nghệ trung Đoàn 22 thuộc Sư Đoàn 341B. Tại đây, thỉnh thoảng về Sư đoàn tham dự các mùa hội diễn văn nghệ thường kỳ tôi được biết ông. Thật ra là
ngắm ông từ xa. Một trung úy đẹp trai, tóc xoăn lòa xòa dáng người gầy. Rồi cái lần đội văn nghệ chúng tôi đang tập thì nhà
thơ Nguyễn Trọng Tạo dẫn hai sĩ quan quân đội ghé thăm. Đó là trung tá nhà văn
Hữu Mai và thiếu tá nhà văn Hải Hồ cả hai đang đi thực tế viết
về các đơn vị làm đường sắt thống nhất. Tôi nghe các ông loáng thoáng nói chuyện
với nhau mới biết là Nguyễn Trọng Tạo đang viết tiểu thuyết “chính ủy và
tôi” - mà nhân vật chính là chính ủy trung đoàn tôi. Chao ôi, tiểu thuyết
nghe đến đó tôi đã giật mình ngưỡng mộ ông bởi nhìn những pho sách dày cộm hàng trăm trang tôi đã thấy ngợp choáng. Nhưng không hiểu
vì sao mãi đến bây giờ tôi vẫn chưa thấy cuốn tiểu thuyết này ra đời và cũng
chưa có dịp hỏi ông. Chính ủy trung đoàn thì tôi biết đó là
trung tá Lê Thế Thụ. Một con người cân đối dáng rất đẹp nghe nói trước là lính của đội quân danh dự quốc gia chuyên đón tiếp các nguyên thủ.
chính ủy nói chuyện rất hay, hùng biện lắm có sức hút hấp dẫn bởi ông truyền cảm
hứng bằng lối ví von bằng chất văn nghệ, văn chương…
Năm 1982 tôi đi ôn ở trường văn hóa
quân đội và thi đậu vào học viện KTQS. Một lần về Hà Nội ghé qua anh Lê
Trọng Hà, một người sáng tác nhạc hồi đội văn nghệ trung đoàn với tôi đang học ở học viện âm nhạc. Anh Hà rủ tôi đến khu Vân Hồ có trại viết
quân đội thăm nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đang ở đó. Khu nhà cấp bốn, mỗi phòng
hai nhà văn quân đội, ông ở cùng phòng với nhà thơ Nguyễn Hoa. Căn
phòng chia đôi một bức vách chỉ chừa một lối đi cho cả hai người,
Nguyễn Trọng Tạo ở phòng trong. Trong khi nhà thơ Nguyễn Hoa đang sốt sắng đun nước niềm nở pha trà mời khách thì ông lấy tờ báo văn nghệ trên bàn và khoe
với chúng tôi bài thơ mới đăng chiếm gần trọn một trang báo - Bài “Tản mạn thời tôi
sống”. Thật ra hồi đó anh Hà đã chơi thân với ông vì cùng sáng tác nhạc và Nguyễn
Trọng Tạo đã khá nổi tiếng với ca khúc “Làng quan họ quê tôi”.
Còn tôi, sau khi nghe anh Hà giới thiệu ông cười: Học xe tăng à, có phải em
là tác giả bài thơ “Xe tăng qua miền quan họ’ mà An Thuyên phổ nhạc
phải không?. Thế là tôi thân ông. Có thể nói “Tản mạn thời tôi sống” của ông
cùng với bài thơ “Nói với con” của Thạch Quỳ đã gây được tiếng vang trong dư luận
bạn đọc. Đây là những cột mốc đánh dấu thời
kỳ văn học đổi mới: “Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa - Như thời đã đi
qua như thời rồi sẽ đến”. Cái điệp khúc như một thông điệp dự cảm riết ráo ấy đã dự báo khá chính xác “Thời tiết nhân văn thế sự” của đời sống xã hội bấy
giờ với bao mâu thuẫn nội tại. Chỉ có nhà thơ với ăng - ten khá nhạy cảm
của mình mới bắt được những tín hiệu và phát sóng: “Thời tôi sống với bao nhiêu
câu hỏi - câu trả lời thật không dễ dàng chi” cái chất đồng dao thế sự với những trực cảm đau đáu hướng tới cái lõi nhân bản,
nhân văn đầy chất phản biện qua ngòi bút của Nguyễn Trọng Tạo được láy lại khi ông viết bài thơ: “Tin thì tin, không tin thì thôi”. Để nói ra được điều
này trái tim của thi sĩ rớm máu chứ không phải một lối “Buông xuôi” tưng tửng. Bởi “Nhưng tôi người cầm bút, than ôi - không thể
không tin gì mà viết”. Và ông đặt niềm tin vào con người, đặt cược
niềm tin vào ngòi bút để không hổ danh, hổ thẹn. Kể cả trong những cuộc vui đến
mức: “Tôi uống, đền đài ngả nghiêng say” khi “Tôi còn cái xác không hồn
- Cái chai không rượu tôi còn vỏ chai” (chia). Còn và mất, được và cho
luôn là những hàm nghĩa ân tình khi ông thú nhận: “Chia cho em một đời
thơ - một lênh đênh, một dại khờ, một tôi”. Cái một, cái riêng, cái tôi là
bản thể của sự sáng tạo. Ông không chỉ một trong thơ mà cả trong nhạc, họa và một
cả trong tính cách đời sống thường ngày. Có thể nói: Nguyễn Trọng Tạo là người
cực đoan nhưng không bảo thủ. Ông luôn ưu ái phát hiện nâng đỡ các tác giả trẻ.
Thành phố Vinh cuối những năm 80 khi
thời kỳ bao cấp cấm vận giao lưu hàng hóa thắt chặt đời sống
khó khăn đến nỗi: “Dân xứ Nghệ mặt vàng như nghệ”. Tôi thường ra
Vinh để mua đồ máy cho dân biển quê tôi vì hồi đó sau khi học xong học viện
KTQS tôi ra quân vì mê văn chương và không phù hợp với kỹ thuật. Một
lần đến hội văn nghệ Nghệ Tĩnh tình cờ gặp nhà thơ Thạch Quỳ, Ông rủ
tôi về nhà ở trong khu tập thể nhà lắp ghép phố Quang Trung. Cô Nhã (vợ ông)
có mở quán rượu nhỏ. Những khi đi chợ nhờ ông xem quán hộ. Rượu thì mấy loại với
giá khác nhau. Ông là thầy giáo dạy toán cực thông minh nhưng không nhớ nổi. Cô
Nhã đành buộc ở cổ chai loại một là một vòng lạt, loại hai là hai vòng để ông
bán theo giá từng loại. Nhớ được rượu, nhưng nhiều khi bạn văn và những
người hâm mộ vào quán, nhà thơ cao hứng đọc thơ và chia sẻ rượu khách mời đến khi say thì chẳng nhớ đã thu tiền hay chưa. Thế là lỗ dù vui, rất
vui. Tôi hỏi ông: Lâu nay có gặp nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo không. Thạch
Quỳ thủng thẳng: Thỉnh thoảng Tạo có ghé qua đây uống rượu đọc thơ, nghe
nói có căn phòng được quân khu 4 phân cho ở gần đường mương. Tôi liền
rủ Bùi Sĩ Hoa (ở đài PT-TH tỉnh Nghệ An). Một bạn thơ đã quen nhau
khá thân hồi ở quân đội. Tôi học khoa tăng-thiết giáp, Hoa ở tiểu đoàn huấn luyện
xe tăng, lúc đó làm công vụ cho tiểu đoàn trưởng. Bữa nào có ăn tươi
(nghĩa là tiểu đoàn mổ lợn), Hoa đạp xe sang rủ tôi đến tiểu đoàn bộ đánh
chén (chủ yếu là lòng lợn ưu tiên cho thủ trưởng). Hoa lúc đó đã có bài thơ viết
về chuyến tàu đêm chở lính lên biên giới được giải thưởng cuộc thi thơ tạp chí
văn nghệ quân đội. Chúng tôi ghé qua hội văn nghệ rủ thêm thi
sĩ Tuyết Nga lại nhà Nguyễn Trọng Tạo. Nói là nhà nhưng chỉ là căn phòng cấp bốn.
Tôi có mang mực biển cửa sót ra vì thế trưa đó ông và cả ba “Cây bút trẻ” ăn cơm
uống rượu khá vui. Phải nói rằng Nguyễn Trọng Tạo khá tinh tế trong ẩm thực từ
cọng rau thơm đến quả ớt. Ông bảo: Học được ở nhà thơ Phùng Quán. Ông uống rượu để nhấm những câu chuyện về thi ca. Uống lai rai, uống bền
và sâu. Cung cách uống của ông thì khá bình dị nhưng khi nâng tay đưa
chén rượu lên lại như là một nghi lễ. Ông bảo, uống rượu với Văn Cao tuyệt lắm.
Ông Văn có nhận xét về rượu rất chí lý và đầy ấn tượng: “Rượu bàu đá dày, rượu làng vân mỏng”. Qua câu chuyện
thi - tửu trưa ấy, tôi biết ông rất mê Hàn Mặc Tử - Một nhà thơ tài
hoa mà đoản mệnh. Tôi hỏi: Câu thơ nào của Hàn ám ảnh ông nhất. Nguyễn Trọng
Tạo đọc ngay: “Trăng trăng trăng và trăng trăng trăng” - Mung lung và rợn
ngợp. Tuyết Nga hỏi: Câu thơ nào Nguyễn Du mà ông thích nhất. “Mai sau dù có
bao giờ”. Trời! toàn hư từ - Bùi Sĩ Hoa kêu lên. Lại nhớ cái đêm tôi ở lại
phòng ông. Gường tầng. Khách đến nằm tầng trên, ông tầng dưới vì đêm ông thường đọc sách rất khuya nếu... không say. Tối đó ông đạp xe chở tôi đến nhà Phan Hồng Khánh thường gọi là “Khánh
tây” bởi anh vốn là con lai mẹ Việt, bố Pháp. Khuôn mặt anh rất Tây, râu quai
nón đen rậm rịt tướng mạo thì dữ nhưng người lại hiền khô, ít nói.
Và thơ hay lại chỉ một thể thơ lục bát thật nhuyễn và đắm đuối. Chúng tôi ngồi
nhâm nhi ly rượu trắng với mấy củ lạc rang và đọc thơ. Rất Ít khi thấy
các ông nói chuyện về thế sự đời thường. Hình như nghệ thuật là
cái lồng thủy tinh trong suốt để nhốt mình vào đó, để được thở
không khí trong sạch của văn chương. Phan Hồng Khánh có những câu thơ bất ngờ gần
với lối ví von liên tưởng của ca dao. Một ông “đồng dao”
và một ông “ca dao” đều tìm về cội nguồn, mạch nguồn dân tộc. Tôi không hiểu vì
sao Nguyễn Trọng Tạo ít khi phổ nhạc thơ mình mà hay phổ thơ người khác nhất là
những bài thơ viết về hồn quê đầy chất dân gian. Ông nâng niu chắt chiu chắp
cánh thăng hoa cho mạch cảm xúc của người khác như là một sự cộng
hưởng liên tài. Mãi vẫn chưa cạn đêm, từ nhà Phan Hồng Khánh ra còn tỉnh táo. Phí của. Ông lại rủ tôi đến Thạch Quỳ. Nhà Thạch
Quỳ thì lúc nào cũng rộng mở cửa đón bạn, nhất là những bạn xa xuống ga
tàu Vinh về nhà ông kể cả đêm khuya. Hôm đó Thạch Quỳ mới viết sang tôi thơ
“tôi” đang sướng gặp bạn, đọc luôn: “Tôi cao hơn đất đá mọi công
trình”. Tôi ngồi “hầu rượu” mà như trôi đi trong không khí đầy cảm hứng của hai
nhà thơ đàn anh tài năng. Bất chợt Nguyễn Trọng Tạo bảo tôi và được
Thạch Quỳ hưởng ứng: Em phải gác lại mấy cái máy đẩy, máy nổ mà đi học trường
viết văn Nguyễn Du. Kiếm tiền thế là đủ rồi. Vâng, phải đi học chứ!.
Tôi ra Hà Nội học. Một chiều, đại học
văn hóa cạnh trường tôi tổ chức đêm thơ nhạc mời mấy nhạc sĩ nổi tiếng.
Tôi đang viết bài ở tầng hai thì nghe bác bảo vệ gọi xuống có
khách. Khách là nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, tối đó ông được mời với “Làng quan họ quê tôi“. Ông bảo tôi đưa đến thăm giáo sư Hoàng Ngọc Hiến. Thầy
Hiến và cô Nga (vợ thầy) quý ông lắm, hai người hàn huyên trò chuyện
như hai người bạn lâu ngày. Một ông “Văn học phải đạo“từng bị tai tiếng”
và một ông “Tản mạn thời tôi sống” cũng bị tiếng tai, cả hai khá tâm đắc
với những đổi mới của văn học đương đại. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến mở
ngăn kéo lấy ra một tập bản thảo chép tay đưa cho Nguyễn Trọng Tạo:
“Truyện ngắn tay này khiếp lắm. Nhưng mà tôi viết lời bạt chúc
cho tác giả: “Không thuận buồm xuôi gió” trong tập truyện ngắn sắp xuất bản ở nhà Trẻ (NXB Trẻ ở Sài Gòn). Tôi liếc nhìn tên tác giả: Nguyễn Huy
Thiệp - Một người đang nổi tiếng “Tướng về hưu”. Chiều đó tôi mời ông đi ăn cơm bụi. Quán cơm sinh viên, nhưng tôi quen nên được
bà chủ dành cho một bàn phía trong. Bữa cơm hai anh em thật đạm bạc như ngày
nào ở thành phố Vinh mà ông đã nấu đãi tôi. Vẫn cái món: Canh riêu cua, cà pháo và đĩa cá tràu kho tương cùng chai rượu nút lá chuối. Ông bảo
tôi đọc thơ gật gù nghe và nhận xét: Chú mày “Nạt thơ”. Có một điều thú vị ông
và tôi đều viết trường ca về ngã ba Đồng Lộc. Trường ca của ông “Con đường
của những vì sao” viết trước tôi hàng chục năm khi cuộc chiến vừa mới kết thúc,
khi ám ảnh chiến tranh còn “Sặc khói bom trong ngực”. Ngã ba lúc đó còn ngổn ngang hố bom, đất đai chưa kịp lợp lại màu xanh
lá vỏ. Mộ mười cô TNXP còn là mộ đất, xung quanh là vườn rào bằng tre.
Trường ca “Ngã ba Đồng Lộc” của tôi viết khi nơi đây đã xây dựng hoàng tráng
thành khu tưởng niệm di tích ngã ba Đồng Lộc. Mỗi người có một cách đi riêng.
Ông là người trong cuộc, đã đến Đồng Lộc những ngày ác liệt với một người bạn
phóng viên báo quân khu 4, sau này là nhà văn Đào Thắng. Tôi rất thích chương
“khúc hát 10 cây xanh” viết theo thể thơ lục bát như một khúc vĩ thanh
trong trường ca của ông…
Khi viết những dòng này về ông
là khi tôi vừa biên tập xong tạp chí Hồng Lĩnh số tháng 12 năm 2018 có chùm thơ 6 bài của ông. Nhà thơ quê cha ở Diễn Châu (Nghệ An) và quê mẹ ở Can
Lộc (Hà Tĩnh). Khi chọn bài thơ “Nhớ rú cài” tôi nhận thấy ở ông
tình quê thật đậm đà và sâu sắc: “Quê cha lèn hai vai - Quê mẹ chân rú cài - Nghệ
An và Hà Tĩnh - Là tình tôi nhân hai - Lâu lâu tôi về ngoại - Cậu dì chẳng còn ai
- Lâu lâu tôi nhớ lại - Một căn nhà ngói dài” và; “Những bài thơ rú cài - Nặng nhớ
lèn hai vai - Những nỗi niềm nội ngoại - Nối người trong, kẻ ngoài”
Những lần về Hà Tĩnh bao giờ ông
cũng nhờ chúng tôi đưa đến thăm nhà địa phương học Thái Kim Đỉnh -
Người bạn thân thiết với nhà thơ Trần Hữu Thung cùng quê với
Nguyễn Trọng Tạo và được nhà thơ xem như người bạn vong niên
của mình. Thái Kim Đỉnh là người hiểu cặn kẽ thông tỏ từng mạch
sông, thế núi của quê hương Hà Tĩnh. Lại một điều rất ngẫu nhiên mà đến nay
chúng tôi rất biết ơn nhà thơ là người thiết kế măng-sét trên bìa tạp
chí Hồng Lĩnh phát triển sáng tạo từ măng-sét của của họa sĩ Từ
Thành. Ông kể: Hôm đó đang hút thuốc đun hin, Ông nảy ra sáng kiến cho hai
chữ cái đầu là H (Hồng) và L (Lĩnh) tràn ra vượt ra khỏi bìa như dự cảm về sự
phát triển tương lai của tạp chí. Và thế là hình thành một măng-sét mới vừa
phóng khoáng vừa bay bổng lãng mạn như núi Hồng, sông La. Những ngày này ông đang bạo bệnh, chiến đấu với những vi-rút gặm nhấm cơ
thể ông không thể nhìn bằng mắt thường như ngày trước ông đã chiến đấu với các
vi-rút gặm nhấm tâm hồn con người như trong “tản mạn thời tôi sống”
- của cái thời: “Giá chợ đen ngoảnh mặt với đồng lương” hay:
“Bạn bè thân thọc súng ở bên sườn”. Cầu mong cho ông: “Bạn hãy
quên vất vả hàng ngày - Bao lo lắng đời thường làm tuổi xanh ta bạc tóc - Chỉ
hy vọng và niềm tin giúp ta thêm sức lực - câu thơ này xin bạn nhớ giùm cho: -
Nhưng bông boa vẫn cứ nở đúng mùa”. Vâng, mùa của thời gian và mùa của tình yêu
cuộc sống, của những khúc “đồng dao không có tuổi“...
8/1/2019
Nguyễn Ngọc Phú
Nguồn: Văn nghệ số 51/2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét