Với người Việt Nam,
Việt Bắc còn gọi là Tây Bắc, là ngôn từ có âm thanh sâu lắng và ý nghĩa văn hóa
vô cùng trọng đại. Không chỉ là biểu tượng của thủ đô kháng chiến thời chống
Pháp mà còn là mạch nguồn cảm xúc của nghệ thuật, thi ca trong mấy mươi năm chiến
đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc đầy gian nan máu lửa mà oanh liệt hào
hùng. Chính nỗi đau thương mất mát trong đấu tranh và niềm tự hào về thành tựu
chiến thắng vẻ vang đã tạo nên nguồn cảm hứng cho Lãnh tụ và văn nghệ sĩ. Những
tác phẩm : Cánh rừng Việt Bắc (Hồ Chí Minh), Việt Bắc (Tố Hữu), Tiếng hát con
tàu (Chế Lan Viên), Cô gái Hưng Yên đi mở mang Tây Bắc (Huy Cận), Truyện Tây Bắc
(Tô Hoài),… và họa phẩm của Tô Ngọc Vân, được khơi dòng sáng tạo từ vùng đất lịch
sử nơi đỉnh đầu tổ quốc. Hùng vĩ ngự trị cả một vùng sông núi hiểm trở bao la
phía Bắc Hà Nội, Việt Bắc nằm liền kề hữu cơ sáu tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng
Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang và Thái Nguyên. Nơi đây còn hằn in rõ nét dấu ấn lịch
sử chói lọi của nhiều chiến công lừng lẫy trong thời kỳ kháng chiến chín năm chống
thực dân Pháp của quân dân ta. Việt Bắc được gọi là Thủ đô kháng chiến, hay Thủ
đô gió ngàn, nơi trú đóng đầu não của chính phủ cách mạng Việt Minh trước cuộc
khởi nghĩa năm 1945 trong thời kỳ 9 năm kháng chiến chống Pháp. Trong giai đoạn
lịch sử đặc biệt, Bác Hồ và các cơ quan Chính phủ tại Việt Bắc đã chỉ đạo bước
đi của cách mạng. Trong những tháng năm ở Việt Bắc, Bác luôn giữ bí mật để bảo
toàn lực lượng. Luôn di chuyển các cơ để kẻ thù không thể chủ động đánh được
ta. Ngay cả tên những Thư ký của Bác cũng gọi một cách bí mật. Tám Thư ký của
Bác được đặt tên một cách ý nghĩa như một phương châm chiến đấu là: Trường, Kỳ,
Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi. Ở đây, Bác có bài thơ được coi là quan điểm
để Bác hành động: “Trên có núi, dưới có sông/ Có đất ta trồng có bãi ta chơi/ Gần
đường tới Trung ương/ Tiện đường sang Bộ, Tổng/ Nhà kín mái thoáng mát/ Gần
dân không gần đường”. Câu sau cùng là cả một triết lý: ‘Gần dân chính là sức mạnh
của cách mạng’. Không gần đường để tránh sự lùng sục của địch. Nơi đây, Bác
phong Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp (mới 37 tuổi), đồng thời cùng
Trung ương quyết định tấn công Điện Biên Phủ 1954. Ta nhớ lại người chiến sĩ trẻ
mới 20 tuổi Hoàng Đăng Vinh cùng 5 người khác vào bắt tướng De Castries đầu
hàng tại Điện Biên Phủ… Trước đó,Việt Bắc cũng là nơi ghi dấu sự kiện Bác Hồ tiễn
cụ Bùi Bằng Đoàn đang giữ chức Trưởng ban Thanh tra Đặc biệt Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và Trưởng ban Thường trực Quốc hội Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa về xuôi để dưỡng bệnh mà Bác không cho cụ từ chức, sau đó có tặng cụ
bài thơ tứ tuyệt: “Xem sách, chim rừng vào cửa đậu/ Phê văn, hoa núi ghé nghiên
soi/ Tin vui thắng trận dồn chân ngựa/ Nhớ cụ, thơ xuân tặng một bài”. Bài thơ
cô đọng chỉ trong 4 câu mà nói lên được cả tâm hồn lớn của Bác với người bạn đồng
chí và tinh thần lạc quan cách mạng của nhà lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc. Việt
Bắc cũng là nơi hội Văn hóa cứu quốc, các văn nghệ sĩ, những trí thức lớn đi
theo cách mạng đã quây quần xung quanh Bác. Cảm động nhất là phiên họp Chính phủ,
Quốc hội, cũng có dinh Chủ tịch, dù chỉ là túp lều được làm bằng tre và nứa.
Cũng họp Hội đồng Chính phủ Quốc hội, vừa họp vừa nhóm lửa, nướng khoai, sắn để
ăn; uống nước chè tươi từ núi rừng Việt Bắc: “Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay/
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày/ Khách đến thì mời ngô nếp nướng/ Săn về thường
chén thịt rừng quay/ Non xanh nước biếc tha hồ dạo/ Rượu ngọt chè tươi mặc sức
say/ Kháng chiến thành công ta trở lại/ Trăng xưa hạc cũ với xuân này” (Cảnh rừng
Việt Bắc). Bên cạnh nhà thơ - chủ tịch Hồ Chí Minh, những văn nghệ sĩ cách mạng
cũng lấy Việt Bắc làm nguồn cảm hứng để sáng tác. Tố Hữu, ngọn cờ đầu của thi
ca kháng chiến suốt cả hai mùa đấu tranh chống Pháp và Mỹ đã để lại cho kho
tàng văn học nước nhà nhiều tác phẩm bất hủ viết về Việt Bắc. Trường ca Việt Bắc
viết theo thể thơ lục bát truyền thống, là những giai điệu xuất sắc mang hơi hướng
thơ ca dân gian qua lời tiễn đưa của kẻ ở lại núi rừng và cán bộ, chiến sĩ rời
chiến khu về thủ đô: -‘Mình về mình có nhớ ta/ Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng/
Mình về mình có nhớ không/ Nhìn cây nhớ núi, nhìn sống nhớ nguồn’//- ‘Ta về,
mình có nhớ ta/ Ta về ta nhớ những hoa cùng người’làm tái hiện lại những kỷ niệm
cách mạng đầm ấm và cuộc sống kháng chiến gian khổ mà vui vầy. Tác giả đồng thời
cũng gợi lên viễn cảnh sáng tươi của đất nước và ca ngợi công ơn của Đảng và
Bác Hồ với dân tộc : ‘Lòng ta ơn Đảng đời đời/ Ngược xuôi đôi mặt một lời song
song’. Xúc cảm về Việt Bắc cũng là nỗi nhớ của người dân địa phương về Bác Hồ:
‘Nhớ ông Cụ mắt sáng ngờ/ Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường/ Nhớ người những
sánh tinh sương/ Ung 2dung yên ngựa trên đường suối reo/ Nhớ chân người bước
lên đèo/ Nười đi rừng núi trông theo bóng người’. Cảm xúc lớn từ rừng núi Chiến
khu Việt Bắc trước tiên hẵn đã bắt nguồn từ chiến thắng Thu-Đông (7/10/1947 -
22/10/1947) được kể lại qua câu giữa chuyện thắm thiết tình đồng chí yêu thương
giữa anh bộ đội và người cán bộ: ‘Anh là vệ quốc quân/ Tôi là người cán bộ/
Hai đứa mỏi nhừ chân/ Nghỉ ngơi ngồi một chỗ// Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh
vàng nghệ/ Anh vệ quân quân ơi/ Sao mà yêu anh thế’ (Cá nước), là tiếng hát lạc
quan trong gian khổ: ‘Rét Thái Nguyên, rét về Yên Thế/ Gió qua rừng đèo Khế
gió sang/ Em là con gái Bắc Giang/ Rét thì mặc rét, việc làng em lo…’ (Phá đường).
Cảm xúc nồng ấm từ Việt Bắc là giọng hò kéo pháo (Voi), là nỗi lòng của bà mẹ
đau đáu nhớ con đi đánh giặc cũng như anh bộ đội nhớ mẹ ở làng quê (Bầm ơi, Bà ủ),là
âm vang rầm rập những bước chân của người chiến sĩ lên Tây Bắc trong tư thế
chàng dũng sĩ Hercules: ‘Núi không đè nổi vai vươn tới/ Là ngụy trang reo với
gió đèo (Lên Tây Bắc). Đó cũng là cảm xúc tỏa ra nguồn ‘Sáng tháng Năm’ từ căn
nhà đơn sơ của Bác, là niềm hân hoan và tự hào trước chiến công lẫy lừng Điện
Biên Phủ (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên), là niềm vui chiến thắng và hòa bình cùng
nhịp sống rộn rịp của cả nước (Ta đi tới). Và củng từ chiến khu kháng chiến
này, cảm xúc ngập tràn về nỗi nhớ nhung và lời hẹn ước trước khi người cán bộ
và chiến sĩ giã từ thủ đô gió ngàn Việt Bắc. Đoạn thơ hay nhất trong trường ca
bất hủ kết tinh từ cảm xúc nồng nàn của Tố Hữu là đoạn thơ tác giả vẽ lên bức
tranh Tứ bình về cảnh núi rừng Việt Bắc, đẹp hài hòa giữa thiên nhiên diễm lệ
và con người tràn đầy sức sống trong cả bốn mùa. Giữa bức tranh có hơi thở nồng
ấm của con người Việt Bắc đang hoạt động trong kháng chiến: ‘Đèo cao nắng ánh
dao gài thắt lưng’, câu thơ hay nhất của đoạn thơ (strophe) được ông hoàng thơ
tình Xuân Diệu đánh giá là tuyệt bút vì mang màu sắc Việt Bắc. Trong những ngày
xuân, nghệ sĩ nhớ: ‘mơ nở trắng rừng’ cũng là nỗi bồi hồi ‘nhớ người đan nón
chuốt từng sợi giang’, câu thơ gợi lên đức cần mẫn, chịu khó của con người cần
cù tài hoa đáng nhớ như nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng ca ngợi: “Tay người như
có phép tiên/ Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ”. Cũng từ cảm xúc thi ca nơi
suối nguồn Việt Bắc, câu thơ hay khác: ’Nhớ cô em gái hái măng một mình’ của
nhà thơ đã nói lên hình ảnh cô gái Việt Bắc trẻ trung, xinh đẹp đi hái măng một
mình giữa rừng mà như chẳng cô đơn vì con người ấy đang làm chủ thiên nhiên và
cuộc đời. Câu kết của đoạn thơ nói lên vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Bắc: ”Nhớ
ai tiếng hát ân tình thủy chung” đã thể hiện hoài niệm trong sáng dào dạt tính
nhân văn của tác giả, thật thấm đẫm tình người. Thủ đô kháng chiến Việt Bắc
còn gây nguồn cảm xúc cho họa sĩ Tô Ngọc Vân (1906-1954) sáng tác nhiều bài thơ
bằng màu sắc về Hồ Chủ tịch, về bộ đội và nhà văn Tô Hoài (1920-2014) viết
‘Truyện Tây Bắc’ kể chuyện tình gian nan mà trong sáng giữa cô gái đẹp Mỵ và
chàng trai A Phủ cùng là người H’Mông tại Hồng Ngài. Hầu hết những tác phẩm văn
học viết về chủ đề Việt Bắc của các nhà thơ Huy Cận (1919-2005) với: Cô gái
Hưng Yên đi mở mang Tây Bắc, Chế Lan Viên (1920-1989) với Tiếng hát con tàu
cũng lấy cảm hứng từ chiến khu Việt Bắc lịch sử đã có những vần thơ hay, khỏe
khoắn về đề tài xây dựng đất nước khi hòa bình được thiết lập trên miền Bắc xã
hội chủ nghĩa đều được đưa vào chương trình văn học các lớp phổ thông. Những
chiến tích lịch sử Thu Đông, trận sông Lô, Phố Ràng, Bông Lau, trận Chợ Đồn, Chợ
Rã, đèo Bông Lau... cũng được nhắc đến trong bài học lịch sử, văn học nước nhà.
Ngày nay, giữa không gian lồng lộng sáng tươi của một đất nước thanh bình thịnh
vượng, mỗi khi có dịp nhắc đến Việt Bắc, ta không tránh khỏi cảm thấy bồi hồi
hoài niệm, trong lòng lâng lâng tràn ngập một niềm tự hào về thủ đô kháng chiến,
một thủ đô gió ngàn hùng vĩ, liệt oanh còn rạng rỡ hình ảnh vĩ đại cao quý của
Hồ Chủ tịch, cùng các tướng lĩnh, của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân và nghệ sĩ yêu
nước trong thời đấu tranh chống Pháp. Cùng với nhân dân, bằng cảm xúc nồng cháy
tự trái tim mình, nghệ sĩ - nhà thơ nhà văn đã đan kết với chiến khu lịch sử Việt
Bắc năm xưa với một ân tình chung thủy gắn bó keo sơn - Tình Việt Bắc.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Chùm truyện ngắn thiếu nhi của Yury Koval
Chùm truyện ngắn thiếu nhi của Yury Koval Yury Iosifovich Koval (1938-1995) là một trong những nhà văn thiếu nhi nổi tiếng và được yêu thí...

-
Lời kỹ nữ - Xuân Diệu A.TÁC GIẢ: I. Cuộc đời: Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng T...
-
Hoa muộn - Nơi mùa xuân đi qua Vũ trụ này không có bắt đầu và không có kết thúc. Hay nói đúng hơn, con người không biết nó bắt đầu từ đâu ...
-
Qua bài thơ "Không đề" hiểu thêm tính sâu sắc của Văn Cao Nếu như ai đã từng thả bộ trên đôi bờ của một con sông, sẽ thấy mỗi b...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét