Trong mát giếng quê
Trong ký ức tuổi thơ tôi, làng có tới dăm cái giếng, lúc nào
cũng đầy ắp, nước trong và mát. Ngày ngày, dân làng đều tập trung ở đây, người
thì gánh nước, rửa rau; người thì chuyện trò rôm rả. Các cụ già thường ngồi bên
thành giếng uống chè tươi, khì khà điếu thuốc lào thông lòng từ nước giếng. Bọn
trẻ con luôn đùa nghịch đuổi bắt quanh giếng, và chốc chốc lại ngã oạch một cái
vì nền đất trơn ướt.
Giếng quê
Một bờ đất đơn sơ chiếc gàu tre nhỏ bé
Nghiêng nghiêng một cành khế
Ôi nước giếng quê hương
Nước gương trong xanh mát như dòng sông êm trôi…
Xưa, nội làm bánh đậu ngọt bọc lá dong bán vào buổi sớm cho các
tỉnh thành làm quà sáng. Để làm bánh, cần phải có nước giếng ban mai ngọt và
thơm quấy cùng bột và hấp cách thủy. Các cô chú đều dậy sớm ra giếng gánh nước
về vo và xay gạo. Dậy sớm lấy nước cũng là thói quen của nhiều người trong làng
vì nhà nào cũng có việc, thành thử quanh giếng luôn xôn xao từ sớm tới chiều.
Buổi trưa nắng như thế vẫn có người gánh nước, để thùng nước khỏi sánh người
dân đặt vào trong đó mấy cái lá môn khiến nước chỉ xao động chứ không rơi giọt
nào, hơn thế nắng chiếu qua kẽ lá lung linh rất đẹp.
Khắp miền quê đất Việt, nơi đâu cũng dễ dàng bắt gặp hình ảnh
của cái giếng làng bên gốc đa, si, sung, ruối, vả. Cùng với cây đa đình miếu
chùa chiền, giếng làng là phần không thể thiếu tạo nên vẻ đẹp hồn hậu của làng
quê. Cây cho bóng mát, sân cho nơi hội họp và giếng cho nước sạch ăn uống, tắm
giặt, trồng trọt, chăn nuôi.
Xưa, làng nào cũng có vài cái giếng, gồm giếng đình, chùa, đền,
miếu hàng ngày cho bát nước ngọt để cúng trên linh đường, và vào ngày hội cho mọi
người tắm rửa tượng và làm cỗ và một giếng nữa cho các sinh hoạt dân gian ở nơi
tiện đường qua lại nằm ngay đầu làng hòa vào bóng mát cổ thụ và ẩn dưới bóng của
các công trình.
Làng giàu xây giếng gạch có chạm khắc quanh miệng giếng, kè
đá trong lòng giếng; làng nghèo thì chỉ làm giếng đất đơn sơ. Giếng đất hiện giờ
không nhiều, phần lớn là giếng gạch đá trong đó giếng đá có tuổi thọ cao nhất
trên 300 năm là giếng rồng chầu ở làng Mông Phụ Sơn Tây Hà Tây. Vì giếng nước
phục vụ cộng đồng là của chung trong làng, nên mọi người cùng góp công góp của.
Ai khá góp tiền ai khó góp sức.
Trước khi xây giếng, làng tìm chỗ đất thích hợp, mời thầy địa
lý đến xem mạch nước rồi mới cho đào. Xưa dân làng phải đào giếng bằng tay, cuốc
xẻng, sâu từ 7 tới 10 mét và vì thế cần những lực điền khỏe nhất làng. Người dân
chọn một buổi tối hanh khô, úp một vài bát ăn cơm lên mặt đất ở nhiều điểm
trong mảnh đất đã chọn, sáng hôm sau sẽ kiểm tra trong lòng bát nào tụ nhiều
hơi nước là ở phía dưới đất sẽ có mạch nước mạnh nhất, lúc ấy sẽ cho đào sâu xuống.
Khi đào xong, thợ đào giếng sẽ xếp đá tổ ong xung quanh be bờ và bao miệng để đất
cát nước bẩn không rơi vào được.
Hàng năm nhằm đảm bảo nước sạch, làng sẽ cử người thau giếng
và thả bèo để rễ bèo hấp thu cặn bẩn cùng cá rô ta và cá chuối ăn bọ lăng
quăng. Cũng giữ lại cây dương xỉ hoặc rêu bám trên thành giếng tránh sói lở.
Về hình dạng, ở miền bắc, giếng có hình tròn ra đời vào khoảng
thế kỷ 15 - 17, được xây bằng đá ong, đường kính 10 mét, có bậc lên xuống, lòng
giếng sâu 7 mét, chia làm ba cấp rải đá sỏi. Tại miền trung, như ở cố đô Huế,
giếng hình vuông, lòng kè gạch hoặc đá bên dưới lát bốn thanh rằng bằng gỗ lim,
sâu khoảng 8 mét, hầu hết ra đời vào triều Nguyễn tiếp thu nét ưu việt trong kỹ
thuật đào giếng Chăm.
Dù khởi nguồn từ một mạch ngầm bé xíu có khi chỉ bằng que tăm
song giếng làng không bao giờ cạn. Mùa hè cho nước mát, mùa đông nước ấm. Trời
bức đến mấy chỉ cần uống một ngụm hay tắm một gầu nước là cảm thấy trong dạ mát
mẻ. Trời lạnh, múc ít nước phả vào tay cũng thấy ấm hơn. Bao người đã từng được
nuôi ăn từ nước giếng từ thuở ấu thơ, và rồi lớn lên tung tăng chạy nhảy bên bờ
giếng.
Với trẻ em, chúng thích nhất là được mẹ cho tắm ở giếng, tựa
lưng vào bờ mà kỳ cọ. Múc gầu nước đổ từ trên đỉnh đầu xuống mắt mũi miệng, để
nước luồn từng chân tơ kẽ tóc, đọng trên hàng mi, lách vào hốc tai hốc mũi. Dội
qua dội lại không biết đã múc bao nhiêu gầu chỉ biết da thêm trắng, môi má hồng
hào. Những buổi trưa nóng nực, nông dân và khách độ đường dừng chân múc nước giếng
phả vào hai cánh tay, uống dăm ba ngụm nước, giọt nước đi tới đâu biết tới đấy
mát rượi, ngọt lịm đỡ khát, thân thể khỏe hẳn, chân lại bước tiếp.
Các cụ già thường bảo không có gì ngon bằng nước giếng, mặc
dù giờ đây đã có nước máy song nước nặng mùi và các chất khử trùng, uống sống
không được, mà đun sôi thì nhạt nhẽo. Những ai xa quê mong ước đầu tiên vẫn là
được tắm trong dòng nước giếng quê hương, nghe cả hồn quê lắng đọng trên da thịt,
nếm từng hương vị ngọt ngào thanh khiết của giếng làng thấm trong mọi giác
quan.
Xưa, để trữ nước, nhà nào cũng lấy nước đổ đầy chum vại. Đâm
quen, người dân rủ nhau gánh nước. Ngày gánh, đêm gánh, ai nấy xắn quần quá gối,
chạy băng băng, vừa làm vừa hát hò trêu ghẹo, phần lớn các câu dân ca tục ngữ đều
nảy sinh từ đây. Đặc biệt, chiều ba mươi tết, người dân gánh nước mới đông, cả
đoạn đường làng gần như ngắn lại vì người qua kẻ lại vui tươi. Những nhà ở xa
không gánh được thì mua nước, và người bán cũng lấy nước từ giếng. Hình ảnh người
dân khom khom quẩy đôi thùng ròng ròng trên đường làng sao mà thương đến thế,
trong đó có dáng mẹ dáng chị ta liêu xiêu gánh nước vai gầy.
Không chỉ phục vụ dân sinh, nhiều giếng làng đã đi vào huyền
thoại như giếng trước đền Thượng ở thành Cổ Loa với câu chuyện Mỵ Châu Trọng Thủy,
giếng ở chùa Dâu Bắc Ninh với câu chuyện nàng Man Nương, giếng trong câu chuyện
cổ tích cô Tấm với câu hát cho cá ăn đã trở thành lời ca mẹ hiền ru thuở nào:
Cái bống là cái bống bang, lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta...
Giếng làng luôn gắn liền với tâm linh của người dân. Theo triết
lý phương Đông, giếng là nơi tích tụ linh khí của trời đất, dòng sữa của đất mẹ
ngọt ngào, mắt của rồng, tâm điểm của long mạch, nơi có con rồng ở
mà rồng là biểu tượng của nước, sự phát tiết và duy trì sự sống vì thế giếng ở
đâu ở đấy nhân gian an lành, thịnh vượng. Vì giếng sinh từ đất, cấu trúc hình
tròn, vị tanh hơi ngọt, mát lạnh nên là biểu tượng âm tính. Những người có tính
nóng nảy (thừa dương) khi uống nước giếng thấy hiền hòa, vì nước giếng đã cân bằng
âm dương trong cơ thể họ.
Nước giếng còn là nước cam lồ chữa mọi thứ bệnh. Là thứ nước
không biết cạn nên ai cần nước cứ đến mà múc, muốn bao nhiêu cũng được, càng
múc càng trong. Nước giếng còn tượng trưng cho sự may mắn, hạnh phúc và tươi trẻ.
Do đó giếng là linh hồn của xứ sở, cái quyết định tiên quyết tới sự sống còn của
làng.
Ngoài là nguồn nước ăn chính, cái giếng còn là trung tâm của
mọi câu chuyện: Người dân luôn tụ tập, vui chơi, nói chuyện về gia đình, giỗ tết,
cưới xin, công việc quanh bờ giếng làng… Lũ trẻ luôn theo cha mẹ anh chị ra giếng
đứng xem, ngồi trên các bậc thang dẫn xuống lòng giếng mà chờ đợi người lớn
xong việc thì bám gót lẽo đẽo theo về. Nhiều giếng không có bậc thang, dân làng
phải nối sợi dây chão thật dài buộc vào gầu thòng xuống múc nước. Quanh thành
giếng lúc nào cũng vang tiếng gàu đập cùng cục, tiếng nước nhỏ tũm tõm, tiếng
cười nói mang đủ thanh điệu.
Những buổi lấy nước cũng là lúc trai gái tranh thủ nước trong
như gương để vấn lại mái tóc, chỉnh lại vạt áo, tư thế trước khi về
nhà. Nam nữ cũng thường làm quen hẹn hò, đợi đêm thanh vắng ngồi bên
nhau tâm sự: Hẹn nhau bên bờ giếng/ Chờ nhau lúc rạng trăng/ Nàng vân vê dải
yếm/ Chàng nắn sửa vành khăn/… Ai cúi mình bên giếng?/ Ai thả gầu múc trăng?/
Ai cười yêu nửa miệng …/ Bốn mắt đọng trăng rằm… (Giếng làng - Bàng Bá Lân)
Chàng trai buông lời ướm hỏi: Tới đây dây vắn gầu thưa/ Hỏi rằng bên ấy giếng kia ai đào
Cô gái cảm mến, liền đáp: Giếng này là giếng làng đào/ Ngày đêm canh giữ lúc nào cũng trong.
Chàng trai biết như thế là cô gái chưa có người yêu và dễ cho
hai người tiếp cận thân thiết hơn.
Cũng có trường hợp cô gái chưa ưng nên anh đành chịu: Giếng
này là giếng cựu trào/ Hồi tôi còn nhỏ tôi nào biết đâu.
Khi hai người đã bén hơi, chàng trai ướm: Hôm qua tát nước
đầu đình/ Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen/ Em được thì cho anh xin/ Hay là
em để làm tin trong nhà.
Với ý hỏi rằng, đã quen nhau lâu như vậy, liệu hai người có
thể có tình cảm không.
Nghe chừng xuôi lòng, cô gái đáp: Năng mưa thời giếng
năng đầy/ Anh hay đi lại mẹ thầy năng thương.
Thế nhưng vì anh phụ tình nên giận dỗi cô gái trách: Em
tưởng giếng sâu em nối sợi dây dài/ Đâu ngờ giếng cạn em tiếc hoài sợi dây.
Khi cô gái sang ngang, chàng trai mới tiếc: Tiếc thay
cái giếng nước trong/ Để cho bèo tấm bèo ong lọt vào.
Không chỉ sôi động hoạt động văn nghệ, cũng hiếm ở nơi nào
phong cảnh lại hài hòa đằm thắm như ở giếng làng. Quanh giếng bao giờ cũng rợp
mầu xanh của bưởi, khế, mít, na, mồng tơi, râm bụt... Bờ giếng rêu mọc thành mảng
xanh êm ả. Với những giếng diện tích rộng, mặt nước nở đầy sen súng, luôn thấy
những con chuồn chuồn đỏ tươi đậu trên những cọng lá nổi dập dềnh.
Những chú cá nhảy lên đớp bóng buổi trưa hè, và lượn lờ khi
có người ra giếng lấy nước hoặc vãi chút bỏng rang mời gọi. Nhìn xuống lòng giếng,
sẽ thấy những đám mây trôi bồng bềnh. Mặt trời, mặt trăng, ông sao, nắng mưa đều
rơi xuống giếng. Rồi chim muông chạy nhảy, người đi làm đồng về, bóng xe cộ…
Mái đình, chùa miếu, tán đa, rặng liễu đều soi bóng nước. Bốn mùa giếng vẫn
không thay đổi, nước vẫn tĩnh lặng, hoặc chỉ gợn đôi chút khi có lá rơi, khi
con cá con tôm lên hít khí trời. Có thể nói giếng tích tụ hình bóng của làng,
chứa đựng xuân hạ thu đông và tâm tình của con người.
Có rất nhiều hình ảnh đẹp cho thấy giếng là quê hương, máu thịt;
giếng cũng biết thương nhớ: Ông tơ anh bảo Trăng đầu giếng/ Bà nguyệt em
cười Nắng ngọn đa (Nghĩa chẳng già - Chí Tuệ).
Vừa bằng cái nong, làng đong không hết (câu đố đồng
dao).
Giếng nước gốc đa nhớ người đi lính (Đồng chí - Chính Hữu)
Qua giếng, người xưa cũng nhắn nhủ rất nhiều điều về cuộc sống,
cách ứng xử, thói quen và lẽ đời:
Cơm trắng cá tươi/ Cơm trời nước giếng
Ăn trái nhớ kẻ trồng cây/ Uống nước nhớ người đào giếng
Ra về nhớ nước giếng khơi/ Nhớ điếu ăn thuốc nhớ cơi ăn trầu
Đàn ông nông nổi giếng khơi/ Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu
Đàn bà như hạt mưa sa/ Hạt rơi xuống giếng hạt ra ngoài đồng
Cá trê chui ống lọt về giếng khơi/ Mới hay lấy vợ trên đời chẳng
tại trời, tại không tiền nằm không…
Dân gian cũng dùng hình ảnh giếng để phản ánh công lao của
người có công như: Họ Dương lập làng, họ Hoàng đào giếng.
Cũng qua hình ảnh cái giếng Cổ Loa - nơi ghi lại mối tình Mỹ
Châu Trọng Thủy đau đớn đã trải hơn 2.000 năm, thi nhân A Nam Trần Tuấn Khải muốn
nhắc thế hệ sau nhớ mãi về những bài học lịch sử: Nỏ thiêng hờ hững dây
oan nghiệt /Giếng Ngọc đầy vơi giọt lệ phai…
Thi hào Nguyễn Du còn mượn nước giếng xưa có ý khuyên ta nên
giữ cốt cách đẹp, luôn nghĩ về những điều hay sẽ như nước giếng kia bốn mùa
không đổi thay: Trăng sáng chiếu giếng xưa/ Nước giếng không gợn sóng/ Không bị người khuấy động/ Tâm này thật chẳng động/ Nếu bị người khuấy động/ Lay động rồi lại dừng/ Một cõi tâm lắng đọng/ Như trăng soi giếng xưa.
Với cách nhìn hóm hỉnh, nữ sĩ Xuân Hương đã đưa cái giếng hóm
hỉnh theo, nhìn vào đó cứ như thể thấy người phụ nữ đêm nồng dám thách thức ánh
mắt của “ông”, thế có gớm ghê chưa: Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông/ Giếng
tốt thanh thơi giếng lạ lùng/ Cầu trăng phau phau đôi ván ghép/ Nước trong leo
lẻo một dòng thông/ Cỏ gà lún phún leo quanh mép/ Cá diếc le te lách giữa dòng/ Giếng ấy thanh tân ai cũng biết/ Đố ai dám thả nạ dòng dòng… (Vịnh cái giếng).
Hình ảnh giếng làng của ngày nay vẫn đẹp, hơn thế còn đầy suy
tưởng, lãng mạn và tình cảm: Trầm tư giếng bạc đầu mây trắng/ Nhạt nhòa
đêm sáng mẹ gánh ngày thiếu nữ qua vai…/ Nước trong ngần gội xanh tóc ai/ Còn
rưng rức hương nhài hương bưởi/ Hoàng hôn xuống buông mành nguồn cội /Sương tẩy
trần tắm đóa uyên nguyên…/ Buồn chạnh buồn tên giếng nhớ quên/ Vẫn chung thủy chờ
người mọi ngả/ Vẫn chia ngọt từng bữa nghèo quen lạ/ Trắng trong ơi… sỏi đá cũng
se lòng (Giếng làng của Phan Thành Minh)
Nhờ máy móc hiện đại, giờ đây người ta có thể đào giếng
khoan. Mỗi nhà có một cái giếng riêng, song mọi người vẫn nâng niu trân trọng
giếng làng. Nhiều địa phương vẫn gìn giữ được những giếng cổ như giếng đình Hiệp
Thuận, đình An Thịnh, đình Đại Phùng, giếng đền Lý Nam Đế Giang Xá, đền Linh
Tiên Hà Tây, giếng Mắt rồng Vĩnh Phúc, giếng chùa Bút Tháp Bắc Ninh, chùa Phổ
Minh Nam Định, chùa Keo Thái Bình… Mỗi lần qua đó, vẻ đẹp của giếng, dư âm lịch
sử cùng các sinh hoạt dân gian đặc sắc vẫn neo giữ hồn ai.
1/9/2010
Chu Mạnh Cường
Theo https://baothaibinh.com.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét