8 bài phân tích tác phẩm
Hoàng Hạc lâu: tên một di tích văn hóa nổi tiếng ở phía Tây
Nam huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Nằm trên bờ sông Trường Giang, lầu
Hoàng Hạc còn là một danh lam thắng cảnh sơn thủy hữu tình, nơi mà Lý Bạch đã
có cảm hứng viết về cuộc chia tay với cố nhân. Đây cũng là nơi truyền thuyết
xưa nói rằng Phí Văn Vi buồn vì thi hỏng tu luyện thành tiên cưỡi hạc vàng bay
lên tiên. Đến thăm lầu Hoàng Hạc, nhà thơ Thôi Hiệu đã nhớ đến huyền thoại xưa,
nuối tiếc điều tốt đẹp đã qua và suy ngẫm về cuộc sống. Nhà thơ đã thổi linh hồn
vào lầu Hoàng Hạc, nhắc lại chuyện người xưa để thể hiện một quan niệm nhân
sinh sâu sắc. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm "Lầu
Hoàng Hạc" của nhà thơ thời Đường mà Toplist đã tổng hợp trong bài viết dưới
đây.
1. Thôi Hiệu là người có bản tính lãng mạn, thơ Thôi Hiệu phóng
khoáng, tao nhã. Ông có rất nhiều những tác phẩm hay nhưng nổi bật lên đó là
khúc nhạc phủ Trường Can Hành và bài thơ Hoàng Hạc Lâu đã đưa ông lên đỉnh cao
sáng chói của nghệ thuật thơ Đường.
Bài thơ như một bức tranh thiên nhiên đẹp nói về cảnh ở Hoàng
Hạc lâu. Đứng trước lầu Hoàng Hạc, nhà thơ đã nhớ đến huyền thoại xưa, nuối tiếc
điều tốt đẹp đã qua và suy ngẫm về cuộc sống. Thơ Đường vốn súc tích, cô đọng
và đa nghĩa. Lầu Hoàng Hạc là một di tích lịch sử nổi tiếng của Trung Hoa gắn với
huyền thoại Phí Văn Vi thành tiên.
Một cảnh đẹp xưa nay hiếm thấy vậy nên tác giả đã đặt mình
vào thiên nhiên để miêu tả khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ của Hoàng Hạc lâu, một
di tích đã có nhiều di tích lịch sử cũng như những chiến công của người Trung
Hoa, nó là chứng nhân lịch sử chứng kiến nhiều chiến công. Mở đầu bài thơ tác
giả đã nhắc lại nguồn gốc của lầu Hoàng Hạc từ xa xưa:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
(Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu).
Lầu Hoàng Hạc trơ chọi giữa một khoảng không gian rộng lớn
mênh mông, giữa một vùng đất trời rộng lớn không có bóng dáng con người, lầu
Hoàng Hạc vẫn đứng sừng sững giữa một không gian rộng lớn, hiu hút, trải qua
bao tang thương của những cuộc chiến tranh, giờ đây lầu Hoàng Hạc đứng chơ vơ,
cô quạnh bên bãi vắng sông trôi khiến thi nhân chạnh lòng nhớ cổ thương kim.
Ngay từ hai câu thơ khởi đề ta đã gặp một tâm trạng. Nhà thơ
không tả về hiện tại cái đang có mà nhớ về một cái đã có và đã mất: Người xưa
đã cưỡi hạc vàng bay đi mất. Nơi đây còn trơ lại lầu Hoàng Hạc, một dấu tích lịch
sử những kỷ niệm xa xưa. Lầu Hoàng Hạc có con chim Hạc vàng, Cánh hạc vàng trở
về trong tâm tưởng chỉ để con người thêm khắc khoải, thấm thía sự mất mát...
Hai câu đầu đã thể hiện một sự trống vắng, sự hẫng hụt trong tâm hồn. Nhưng
trong hoài niệm của con người, cánh hạc vàng kia vẫn còn day dứt:
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tỉa, không du du.
(Hạc vàng một khi đã bay đi, không trở lại nữa,
Mây trắng nghìn năm lởn vởn hoài).
Hình ảnh hạc vàng gắn liền với khung cảnh thần tiên. Hạc vàng
bay mất không bao giờ quay trở lại mang theo tất cả những gì là huyền ảo nhất,
thơ mộng nhất của lầu Hoàng Hạc. Chỉ còn mây trắng vẫn bay giống như ngàn năm
trước. Khung cảnh được miêu tả bằng cảm xúc ngậm ngùi, nuối tiếc của nhà thơ.
Nhà thơ chìm đắm trong tâm trạng hoài cổ, giữa không gian tịch mịch cô liêu.
Tâm trạng của nhà thơ lúc này cũng đang hòa quyện với khung cảnh
thiên nhiên ở lầu Hoàng Hạc tâm trạng buồn rầu cô đơn hiu quạnh, trống trải
trong tâm hồn nhà thơ đó chỉ là những kỷ niệm về những thứ đã qua, tác giả tiếc
nuối những quãng thời gian đó nhưng giờ đã mất đi và vĩnh viễn không quay trở lại,
tác giả chỉ luyến tiếc và trống trải trong tâm hồn của mình. Vẫn nói chuyện hạc
vàng bay đi và không trở lại nhưng ở đây không chỉ có sự đối lập giữa quá khứ
và hiện tại mà còn có sự đối lập giữa cõi tiên và cõi tục.
Hạc vàng đã bay về cõi tiên nên nơi đây, dưới còn trơ lại lầu
Hoàng Hạc, trên trời mây trắng bay chơi vơi, dường như còn mong nhớ tiếc nuối
điều gì đó. Bốn câu thơ đầu tập trung tả cảnh và lý giải tích lầu Hoàng Hạc.
Bàn chuyện xưa và nay để thể hiện tâm trạng, nghĩ suy. Đó là một nghĩ suy mang
triết lý nhân sinh sâu sắc - triết lý về sự còn - mất, về sự vô hạn và hữu hạn
của trời đất và nhân sinh. Cái gì đã qua đi thật khó trở lại, thời gian cũng vậy,
vậy nên người xưa mới từng nói: “thời gian quý như vàng”.
Thiên nhiên đẹp như một bức tranh sơn thủy hữu tình với đường
nét, màu sắc hài hòa: nắng chiếu trên hàng cây trên bến Hán Dương; màu xanh mướt
của thảm cỏ non trên bãi xa Anh Vũ:
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
(Tinh xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu).
Câu thơ mở ra một không gian rộng lớn và thanh bình yên tĩnh.
Một bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời với những ánh nắng sương mai soi rọi xuống
dòng sông như một tấm gương khổng lồ với hàng cây tươi tốt soi bóng. Giữa mặt
sông trong lành đó là màu xanh tươi mơn mởn của cỏ cây mùa xuân. Sau những khoảnh
khắc đắm hòa mình cùng huyền thoại, nhân vật trữ tình lại trở về với hiện thực.
Và đã tạo nên một bức họa thật đẹp. Bức họa về một lầu Hoàng Hạc soi bóng dòng
Trường Giang cùng với hình ảnh của cây cối, của cỏ xanh.
Tâm trạng thương nhớ quê hương da diết của Thôi Hiệu. Hình ảnh
trên sông là nhân tố gợi ra những nỗi nhớ khôn nguôi trong lòng nhà thơ. Khung
cảnh chập chờn, mông lung của cảnh vật đã hòa mình cùng với tâm trạng của nhà
thơ:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
(Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Nỗi nhớ quê hương da diết cùng với tâm trạng buồn cô đơn, ngắm
cảnh nảy tình của nhà thơ đã tạo cho bài thơ những đặc sắc và ấn tượng, để lại
nhiều day dứt trong lòng người đọc bởi một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp và
những nỗi nhớ thương của tác giả đối với cảnh vật đang tồn tại xung quanh con
người mình.
Bài thơ Hoàng Hạc lâu đã để lại những giá trị to lớn trong nền
văn học Việt nam với bức tranh thiên nhiên đẹp, và tâm trạng của con người với
cảnh tức cảnh sinh tình.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
2. "Trước mắt có cảnh nói không được,
Vì thơ Thôi Hiệu ở trên đầu”
Đó là hai câu thơ của Lý Bạch nói vì sao mình không làm thơ để
vịnh lầu Hoàng Hạc. Lý Bạch là một trong những nhà thơ cự phách đời Đường. Hai
câu thơ trên cho thấy “thi tiên” Lý Bạch là một con người cực kì khiêm nhường,
đồng thời khẳng định “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu là một áng thơ kiệt tác.
Nguyên tác là thơ thất ngôn bát cú. Thi sĩ Tản Đà sáng tạo dịch
thành thơ lục bát. Nhiều nhà thơ Việt Nam đã thử bút dịch bài thơ này, nhưng
theo ý kiến của Xuân Diệu thì bản dịch của Tản Đà là xuất sắc hơn cả.
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa!
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?
(Tản Đà dịch)
Lầu Hoàng Hạc là một thắng cảnh ở Vũ Xương thuộc tỉnh Hồ Bắc,
Trung Quốc. Lầu đẹp, cảnh nên thơ, lại được bao phủ bằng một lớp sương mờ huyền
thoại, nên càng trở nên hấp dẫn. Tương truyền Phí Văn Vi, tu tiên đắc đạo, thường
cưỡi hạc vàng đến đây chơi. Có biết bao tao nhân mặc khách đã đến thăm lầu, ngoạn
cảnh và đề thơ. Thôi Hiệu chỉ để lại gần 40 bài thơ, nhưng chỉ có “Hoàng Hạc
lâu” là được truyền tụng hơn cả.
Dào dạt qua những vần thơ là cảm hứng hoài cổ của một thi
nhân, du khách. Hai câu đầu, thi hứng khơi nguồn từ chuyện “Hạc vàng” trong huyền
thoại, từ đó nói lên sự xúc động đến ngạc nhiên khi nhà thơ nhìn thấy lầu xưa.
Lầu đứng chơ vơ. Mái lầu như chìm trong tĩnh mịch, hoang sơ. Bao hoài niệm về
"tích nhân” về Hoàng Hạc dâng lên dạt dào, man mác:
"Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ”.
Niềm thương nhớ cảm hoài một lúc một dâng cao. Hạc vàng cùng
tiên đã bay đi, chẳng bao giờ trở lại nữa "nhất khứ bất phục phản".
Như ngẩn ngơ! Như chìm đi trong mộng tưởng. Như man mác một mối sầu thương.
Nhìn mây trắng phủ trên mái lầu vàng, lơ lửng bay trên bầu trời xanh (bạch
vân... du du), nhà thơ như sực tỉnh:
"Hạc vàng đi mất từ xưa!
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay”
“Hạc vàng” với “mây trắng”, quá khứ với hiện tại, cái mất đi
từ nghìn xưa với cái hữu hình “còn bay”... hô ứng nhau, đối ứng nhau, tạo nên
những vần thơ đẹp vô cùng gợi cảm. Trong phần "đề” và “thực” của bài thơ,
ba từ “Hoàng Hạc” ba lần xuất hiện trên cái nền “mây trắng ngàn năm bay chơi
vơi” (câu thơ dịch của Khương Hữu Dụng); màu sắc hài hòa tuyệt đẹp làm gợi lên
một cảnh quan mỹ lệ nên thơ.
Đặc biệt câu thơ thứ 4 “Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản” gồm
6 thanh trắc xuất hiện liên tiếp, luật bằng trắc của thơ Đường bị phá cách. Âm
hưởng câu thơ như bị “thắt” lại nhằm biểu hiện cái cảm giác ngẩn ngơ, bâng
khuâng, tiếc nuối của du khách khi ngắm lầu vàng. Ngòi bút của Thôi Hiệu rất
điêu luyện trong phối thanh hòa sắc để tạo nên những vần thơ đẹp “thi trung hữu
họa, thi trung hữu cầm” cho ta nhiều rung cảm.
Ngắm trời xanh, mây trắng, lầu vàng, mỗi bước chân của thi
nhân như dẫn hồn mình phiêu du vào thế giới thần tiên, mộng ảo. Rồi nhà thơ
bâng khuâng đưa mắt ra bốn phía, ra chân trời xa. Mặt sông lúc trời tạnh, sáng
trong như tấm gương phản chiếu cây cối vùng Hán Dương rõ mồn một, cỏ thơm trên
bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi.
Cảnh vật sông nước, cỏ cây như chan chứa xuân sắc, xuân tình.
Hai câu luận được cấu trúc đăng đối hài hòa, cặp từ láy "lịch lịch - thê
thê” là hai nét vẽ tinh tế khắc họa cái "hồn” của cảnh trí non sông. Ngòi
bút của Thôi Hiệu đã làm sống dậy cỏ cây thiên nhiên bằng đường nét và gam màu
tươi sáng nhiều ấn tượng:
"Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu”
Trải qua trên 1200 năm, không biết đích xác Thôi Hiệu đã đến
chơi lầu Hoàng Hạc vào thời gian cụ thể nào, nhưng qua hình ảnh “tình xuyên lịch
lịch...” và “phương thảo thê thê”, người đọc cảm nhận được đó là một mùa xuân
đẹp, thanh bình. Câu thơ như một bức tranh thủy mặc, đường nét xa - gần, đậm -
nhạt, màu sắc trong và dịu, tinh tế và biểu cảm. Câu thơ dịch của Tản Đà thật
vô cùng linh diệu, nó làm tái hiện lại “điệu Đường”, “hồn Đường” trong nguyên
tác:
"Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non”
Thi nhân đứng một mình trên lầu cao. Trời đã về chiều. Lầu
Hoàng Hạc mờ dần trong bóng hoàng hôn. Lòng man mác sầu thương. Du khách nhìn
mãi... nhìn mãi... khắp bốn phía chân trời, vẫn chẳng thấy quê hương mình ở
đâu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị?”. Câu hỏi tu từ khơi gợi bao nỗi niềm nao
nao, bâng khuâng. Người đọc như hòa điệu, đồng cảm với nỗi u hoài, thương nhớ
quê hương của nhà thơ:
"Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?”
“Trên sông khói sóng” (Yên ba giang thượng) là một hình ảnh đầy
thi vị, huyền ảo, gợi tả cảnh sông nước phủ mờ sương khói lúc hoàng hôn. Câu
thơ tả ít mà gợi nhiều. Một nỗi buồn thương thấm thía. Một tình quê vơi đầy
lâng lâng. Hình ảnh ấy, thi liệu ấy đã được tái tạo, được nhập thân vào hồn thơ
dân tộc ta, làm nên vẻ đẹp phong vị Đường thi cổ kính, hoa lệ:
- “Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"
("Tràng Giang" - Huy Cận)
- “Yên ba thâm xứ đàm quân sự...”
("Nguyên tiêu" - Hồ Chí Minh)
Thơ Đường rất gần gũi và quen thuộc với nhân dân ta. Nó là
món ăn tinh thần của các nhà nho, các nhà thơ Việt Nam. Phần lớn các bài thơ kiệt
tác của văn học trung đại dân tộc ta đều được sáng tạo theo thi pháp Đường thi
- dân tộc hóa, tạo nên bản sắc Việt Nam.
Bài thơ “Hoàng Hạc lâu" của Thôi Hiệu xứng đáng là một
viên ngọc quý trong kho tàng văn học phương Đông. Cảnh lầu đẹp nên thơ được
khơi gợi dưới một lớp sương mờ huyền thoại. Cảm hứng hoài cổ man mác, tình quê
bâng khuâng vơi đầy... Tất cả làm nên vẻ đẹp nhân văn của thi phẩm này, và hồn
thơ dào dạt của li khách đã in dấu đậm đà trong lòng mỗi chúng ta.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
3. Thôi Hiệu (704 - 754) người Biện Châu, tỉnh Hà Nam, đậu tiến
sĩ năm 725. Ông còn truyền lại hơn 40 bài, trong đó nổi tiếng nhất là bài Hoàng
Hạc lâu. Tương truyền Lý Bạch đi chơi Vũ Xương; lên xem lầu Hoàng Hạc thấy bài
thơ này của Thôi Hiệu bèn cầm bút đề vào vách: “Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
- Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu” (Trước mắt có cảnh đẹp, nhưng không làm được
thơ vì đã có thơ của Thôi Hiệu ở trên đầu). Bài thơ vừa là một bức tranh mô tả
cảnh đẹp ở lầu Hoàng Hạc vừa bộc lộ nỗi nhớ quê hương của nhà thơ.
Lầu Hoàng Hạc là một di tích văn hóa nổi tiếng ở phía tây nam
huyện Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc, nay ở gần thành phố Vũ Hán. Tương truyền Phí Văn Vi
hành tiên thường cưỡi hạc vàng bay về đây nên được đặt tên là lầu Hoàng Hạc (lầu
hạc vàng).
Đến thăm di tích này, nhà thơ chỉ thấy còn trơ lại lầu Hoàng
Hạc, không thấy chim hạc đâu, người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi mất rồi, không
bao giờ trở lại nữa, còn chăng chỉ có đám mây trắng ngàn năm còn bay mãi chơi
vơi. Cái mất đi thì không bao giờ tìm thấy được nữa, cái còn thì cũng là cái gi
đó bập bềnh nổi trôi như đám mây trắng trên bầu trời kia. Đứng trước lầu Hoàng
Hạc nhà thơ thấy lòng bâng khuâng, tiếc nhớ:
“Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
(Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay)
Tả cảnh lầu Hoàng Hạc trong đó âm vang cả một tấm lòng bâng
khuâng, tiếc nhớ của nhà thơ. Trở lại với thế đứng ở lầu Hoàng Hạc, nhà thơ đưa
mắt nhìn cảnh vật xung quanh và nhận ra Hán Dương, những hàng cây đất Hán Dương
phản chiếu rõ mồn một trên dòng sông tạnh và nhìn thấy bãi Anh Vũ cỏ thơm mơn mởn
xanh tươi:
“Tình duyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu”
(Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non)
Cảnh ở đây thật có hồn, thật tĩnh lặng, không có một âm thanh
nào, tất cả đều im ắng. Phải chăng tâm hồn nhà thơ đang lắng sâu vào cảnh vật?
Cảnh hoang vắng mênh mang lại chìm ngập trong bóng hoàng hôn vàng vọt đã gợi
cho nhà thơ một nỗi nhớ quê hương và nhà thơ bâng khuâng tự hỏi: “Nhật mộ hương
quan hà xứ thị?”
(Chiều tối tự hỏi đâu là quê hương?) “Đâu là quê hương?” lời
hỏi ấy chứa chan biết bao tấm lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương và ẩn
chứa một nỗi buồn. Nỗi buồn ấy càng được gợi sâu thêm bởi hình ảnh của khói và
sóng trên sông: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (Khói và sóng trên sông khiến
cho người thêm mối sầu)
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?”
Hai câu kết đóng bài thơ lại, nhưng nỗi buồn vẫn như âm vang
bất tận, tràn ngập trong không gian, đọng mãi trong lòng người đọc tưởng như
không bao giờ dứt được.
Hoàng Hạc lâu là một trong những bài thơ nổi tiếng của Thôi
Hiệu ở đời Đường đến Thi tiên Lý Bạch cũng phải khâm phục. Bài thơ mô tả khái
quát cảnh ở lầu Hoàng Hạc, nhưng chủ yếu bộc lộ nỗi hoài vọng xa xưa và nói lên
nỗi nhớ quê nhà tha thiết của người lữ khách.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
4. Văn học Trung Quốc đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của thơ Đường,
những nhà thơ nổi tiếng với nhiều tác phẩm tiêu biểu phải kể đến Đỗ Phủ, Vương
Xương Linh, Nguyễn Duy, Lý Bạch,... Thôi Hiệu cũng là một nhà thơ lớn và để lại
nhiều tác phẩm bất hủ. Bài thơ "Hoàng hạc lâu" là một trong những thi
phẩm xuất sắc nhất của ông.
"Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ"
Hoàng Hạc lâu vốn là chốn thần tiên, một thắng cảnh đẹp huyền
ảo lung linh chốn trần gian. Tác giả mượn tích xưa "hạc vàng" để nói
về nỗi tiếc nuối trước thời huy hoàng đã qua. Một mình sừng sững giữa khoảng
không bao la rộng lớn, lầu Hoàng Hạc vẫn mang cái vẻ kiêu hùng nhưng có nét gì
đó thê lương, trơ trọi.
Trải qua bao cuộc chiến tranh, qua bao bể dâu mất mát, đứng
giữa chốn này đây, người thi sĩ thấy lòng mình lắng lại, có chút gì đó xao xuyến
khi nghĩ về dáng vẻ xưa. Hạc vàng ai đã cưỡi bay đi mất rồi, giờ chỉ bóng cô tịch
của lầu xưa, niềm khắc khoải ngậm ngùi tiếc nuối những gì đã qua, sự mất mát,
trống vắng, hụt hẫng còn lại trong lòng người bao nỗi nhớ, tiếc khôn nguôi.
"Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay"
Cánh hạc vàng bay đi mang theo bao nhiêu điều đẹp đẽ, huy
hoàng của chốn tiên cảnh nơi đây. Vẫn là lầu Hoàng Hạc, vẫn chốn này nhưng cảnh
chẳng còn đẹp như xưa, chẳng còn mộng như xưa. Duy chỉ có trên bầu trời kia,
áng mây trắng vẫn còn bồng bềnh như mộng tưởng ngàn năm trước chẳng đổi dời.
Phải chăng đó chính là tiếng lòng, là trái tim của nhà thơ vốn
vẫn vẹn nguyện dành cho nó một tình cảm tuyệt đẹp nhất, dịu hiền và trân quý nhất,
bởi vậy mà càng nhìn vào thực tại càng đau đớn lòng. Sự được rồi mất, có rồi
không, như ảo ảnh, hư vô - một quy luật tự nhiên được tác giả gửi gắm qua từng
hình ảnh, từng câu thơ nghe sao thấm thía, quặn thắt lòng.Sử dụng bút pháp tả cảnh
ngụ tình điêu luyện, tác giả đã tạo nên những nét vẽ vô cùng đặc sắc mà chứa
nhiều ý vị.
"Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xưa Anh Vũ xanh dày cỏ non"
Trên bến sông Hán Dương có nắng vàng rọi chiếu hàng cây xanh,
những bãi cỏ non trải dài vô tận thật đẹp đẽ biết bao. Lầu Hoàng Hạc như đang
nghỉ ngơi, đắm mình trong vẻ đẹp của đất trời, của thiên nhiên có dòng sông phẳng
lặng, có cây cối um tùm, có cỏ xanh mơn mởn, có nắng vàng rực rỡ. Tất cả tạo
nên một bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp, mê hoặc lòng người nhưng lại gợi buồn,
gợi nhớ. Và càng nhìn, càng ngắm thì nỗi nhớ quê nhà lại càng trào dâng da diết:
"Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai."
Buổi chiều thường là khoảng thời gian gợi thương, gợi nhớ.
Bóng hoàng hôn bên lầu tịch dương khiến nỗi cô đơn càng khắc khoải, nỗi nhớ quê
nhà càng bâng khuâng, đau đáu. Thực tại có thiên nhiên, có bóng chiều với làn
khói yên hoa mờ ảo tuy đẹp nhưng gợi buồn, buồn vì tiếng lòng của người thi
nhân đang rợn ngợp tình quê, cảnh bây giờ cũng mang màu nỗi nhớ, mang màu tâm
trạng: "Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai".
Bài thơ Lầu Hoàng Hạc của Thôi Hiệu tuy ngắn gọn mà giàu giá
trị nhân sinh, lời ít, ý nhiều, câu chữ cô đọng, hàm súc, đăng đối, tạo nên sức
hấp dẫn riêng. Bài thơ trở thành một dấu ấn đẹp đẽ của nền văn học thời Đường,
được nhân dân yêu thích và truyền tụng rộng rãi tạo nên sức sống lâu bền cho
thi phẩm.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
5. Thôi Hiệu sinh ra và lớn lên vào những năm sơ - thịnh Đường,
tính tình phóng khoáng, thích đi ngao du sơn thủy. Một lần đến chơi thành Vũ
Xương, tỉnh Hồ Bắc, Thôi Hiệu lên ngắm lầu Hoàng Hạc. Cảnh vật xung quanh thu
vào tầm mắt, nhà thơ cảm thấy có một nỗi buồn thấm thía mơ hồ thấm vào cõi
lòng.
Ông xúc cảm viết bài Hoàng Hạc lâu, khiến mọi người cảm phục.
Quan sở tại đã cho khắc bài thơ lên vách lầu Hoàng Hạc. Sau này, tương truyền
có lần “thi tiên” Lý Bạch đến lầu Hoàng Hạc, toan cầm bút đề thơ, nhưng không
sao viết được vì đã có thơ Thôi Hiệu đây rồi.
Bài thơ này đã lưu truyền ở Việt Nam từ rất lâu và được một số
người chuyển dịch sang tiếng Việt. Trong đó, có lẽ thành công hơn cả là bản dịch
đầy tài hoa của nhà thơ Tản Đà:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?
Huy Cận đã chịu ảnh hưởng hai câu kết trong bài thơ này khi
viết hai câu kết của bài Tràng giang:
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Thôi Hiệu và Huy Cận đều có chung một nỗi nhớ của người xa
quê. Có điều, Thôi Hiệu nhận nhìn thấy khói và sóng trên sông mà này sinh ra
tâm trạng ấy, còn Huy Cận “không khói hoàng hôn” (tức là không có cái gì gợi nhớ),
nhưng “cũng nhớ nhà”. Đó là cái độc đáo của Huy Cận. Nhưng dẫu sao, thì hai câu
thơ của nhà thơ Việt Nam nói trên vẫn đậm đặc chất Đường thi, chất Thôi Hiệu
trong cốt cách, trong tinh túy.
Hoàng Hạc lâu đúng là một kiệt tác. Bài thơ mạnh mẽ sinh động,
đặc biệt thành công về mặt âm điệu. Thành công này có được do kết hợp hài hoà
giữa việc sử dụng thành thục luật Đường thi và sự phá luật khi cần thiết để diễn
tả hay nhất những cảm xúc.Bốn câu đầu bài thơ tập trung khá nhiều đặc sắc về mặt
âm điệu. Câu đầu tiên của bài thơ là một câu phá luật. Chữ thứ hai lẽ ra là
thanh trắc ở đây lại là thanh bằng.
Chữ thứ tám lẽ ra phải vần với chữ thứ tám các câu 4, 6, 8 và
có thanh bằng, ở đây lại thất vận và dùng thanh trắc. Sự thay đổi trên làm cho
câu thơ có một nhạc điệu man mác, đặc biệt thanh trắc của chữ thứ tám dường như
kéo dài thêm mỗi âm điệu của câu thơ, diễn tả rất đạt nỗi bàng hoàng đến ngẩn
ngơ trước một thực tại: người tiên và hạc vàng đâu còn nữa. Câu thơ dịch của
Tàn Đà. “Hạc vàng ai cưỡi đi đâu” thật thần tình.
Nó không hề đánh mất mà đã chuyển đến người đọc Việt Nam trọn
vẹn cái hay của câu thơ Thôi Hiệu cả về tứ thơ lẫn âm điệu.Câu thơ thứ hai phát
triển tiếp tục ý tứ của câu thứ nhất trong sự đối lập xưa và nay, còn và mất.
Đây cũng là một sáng tạo của Thôi Hiệu vì thơ Đường không đặt ra yêu cầu đối giữa
hai câu phá đề và thừa đề ở câu thơ này. Thôi Hiệu không chú ý tạo sự đối lời
mà hướng tới sự đối ý: người tiên, chim hạc không còn nhưng lầu Hoàng Hạc còn
đó.
Chữ “trơ” trong câu thơ, tác giả hạ thật đắt, vừa gợi thế đứng
một mình cô độc trên lầu Hoàng Hạc nơi trần thế không có gì vĩnh hằng, vĩnh cửu
này, vừa diễn tả cảm xúc ngậm ngùi luyến tiếc trước cảnh đó người đâu. Có một
cái gì như là bàng hoàng, ngẩn ngơ lại như là trầm tư, suy ngẫm trước mối quan
hệ xưa nay - còn mất ở đời.
Câu thơ thứ ba, thứ tư lại hướng về mối quan hệ giữa cái vô
cùng và cái hữu hạn đám mây trắng kia là của hôm nay hay của nghìn đời xưa? Hạc
vàng bay đi rồi trở lại hay mãi mãi không trở về? Sự trăn trở đầy triết lý được
diễn tả trong những câu thơ âm điệu khá độc đáo.
Sáu trên bảy tiếng của câu thứ ba là thanh trắc làm cho câu
thơ phá luật tạo âm điệu không êm dịu, nhẹ nhàng như diễn tả sự bừng tình của
nhà thơ sau một hồi đắm chìm trong cảm xúc bàng hoàng để nhận ra sự thực đau đớn:
hạc vàng một khi đã bay đi không bao giờ trở lại. “Hoàng Hạc nhất khứ bất phục
phản”).
Câu thứ tư mang âm điệu êm dịu khác hẳn câu thứ ba. Năm trên
bảy chữ có thanh bằng nhất là ba tiếng cuối cùng của câu (không du du) có thanh
bằng liên tiếp (người Trung Quốc gọi là lối tam bình điệu) đã góp phần diễn tả
rất đạt những đám mây trắng nhẹ nhàng bay trên không trung. Chính hai tiếng
“Thiên tài” đã mang lại cho hỉnh ảnh “đám mây trắng” chiều sâu của sự suy tưởng:
đám mây trắng chỉ mới xuất hiện hôm nay hoá ra đã có từ nghìn năm, trong cái hữu
hạn của ngày hôm nay đã chứa cái vô hạn của muôn đời.
Trong bốn câu thơ đầu, thực tại và quá khứ, cảnh vật và cảm
xúc, tả thực và suy tưởng xen kẽ nhau trong những vần thơ biến hoá về âm điệu,
vừa quy phạm, vừa tài hoa. Điều kỳ lạ là điệu văn của cả bốn câu đi thẳng một mạch
từ chữ đầu cho đến hết câu 4 với hai tiếng “Hoàng Hạc” nhắc đi nhắc lại khiến
người đọc hình dung ra được cái cảnh những đám mây trắng nhẹ nhàng lơ lững bay
trên không trung đưa bốn người lữ khách bay theo.
Bốn Câu thơ cuối đưa người đọc từ sự suy tư, đắm chìm trong
những cảm xúc đầy triết lý trở lại với cuộc sống thực - để ngắm nhìn hàng cây,
bãi cỏ, để cùng băn khoăn một nỗi băn khoăn trần thế - “Nhật mộ hương quan là xứ
thị - chiều tối rồi, quê hương ở nơi đâu? Bức tranh thiên nhiên trong hai câu 5
và 6 hiện lên với những chi tiết thực, hàng cây đất Hán Dương soi bóng rõ mồn một
xuống lòng sông tạnh, bãi Anh Vũ cỏ thơm mơn mởn xanh tươi.
Cảnh sắc tươi tắn, bình dị và giàu sức sống khiến cho bài thơ
miêu tả một di tích, một cổ lâu mà vẫn gần gũi cuộc đời thực tại. Hai câu kết
đưa người đọc trở lại với nỗi trăn trở và cảm xúc của một người khách xa nhà.
Điệu văn ở câu 5 và 6 “chậm lại và đi song song với nhau nghiêm trọng, tề chỉnh
và tiếp tục nặng nề đi đến câu cuối bài tận cùng bằng vẫn trầm tĩnh thanh duy
nhất (sầu) diễn tả mối sầu miên man, dằng dặc đến vô cùng” (Trần Trung San).
Bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu là bài thơ hay vì “âm diệu
uyển chuyển nhịp nhàng, lúc mau, lúc khoan, khi bổng khi trầm như ru hồn người
ta theo với âm ba của những vần trong bài thơ. Bài thơ có bốn vần bằng (lầu,
du, châu, sầu). Vần trầm bình thanh (sầu) ở cuối cùng, sau ba vần đều là phá
bình thanh (lầu, du, châu), nối tiếp nhau, diễn tả được mối sầu triền miên, nặng
nề, bất tận của người khách xa nhà trước cảnh khói mây mịt mùng”.
Tài hoa sáng tạo âm điệu của tác già dồn lại trong bốn câu
thơ đầu với nhiêu nét độc đáo. Bài Hoàng Hạc lâu còn đặt ra nhiều thi đề thường
trở đi trở lại trong thơ ca cổ Trung Quốc: cái vô cùng và cái hữu hạn, tình và
cảnh, quá khứ và hiện tại, cảnh tiên và cõi tục, cái còn và cái mất. Đấy chính
là sự thâm thuý, hàm súc của tác giả. Trong thể song hành của hai nửa bài thơ,
nửa đầu nặng về sự phô diễn cảm xúc bàng hoàng, ngẩn ngơ, đau đớn, triền miên
suy tư về quá khứ.
Nửa cuối quay lại với hiện thực trần gian: hàng cây, bãi cỏ
và mây khói mịt mùng trên dòng sông gợi nhớ một miền quê xa vắng. Cảm xúc ở đây
giàu chất nhân bản lành mạnh khiến bài thơ đọng lại mãi trong tâm hồn bao thế hệ
bạn đọc.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
6. Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu là một bài thơ vịnh cảnh tuyệt
tác. Theo Tân Văn Phong đời Nguyên kể lại trong sách Đường Tài tử truyện (Truyện
tài tử đời Đường) rằng Lý Bạch lên lầu Hạc vàng định làm thơ, nhưng thấy bài
thơ Thôi Hiệu đã qua hay nên không làm nữa mà nói rằng: "Nhân tiền hữu cảnh
đạo bất đắc. Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu". (Cảnh bày trước mắt phổ
không được, Thôi Hiệu làm thơ tả hết rồi).
Câu chuyện này là truyền thuyết hay hư cấu của người sau,
cũng chưa chắc là có thực. Nhưng trong thơ Lý Bạch đã có hai bài chịu ảnh hưởng
của bài thơ này. Đó là bài Anh vũ châu (bãi Vẹt) và bài "Đăng Kim lăng Phượng
Hoàng đài" (Lên lầu Phượng Hoàng ở Kim lăng). Từ đó ta biết giá trị nghệ
thuật và ảnh hưởng to lớn của bài thơ này. Nghiêm Vũ, đời Nam Tống, đã nói
trong sách "Thương lang thi thoại" là ''Đường nhân thất ngôn luật
thi, đương dĩ Thôi Hiệu Hoàng hạc lâu cư đệ nhất" (Thơ luật bảy chữ đời Đường,
phải xếp bài Hoàng hạc Lâu của Thôi Hiệu là hàng thứ nhất).
Từ đó bài Hoàng hạc lâu càng trở nên nổi tiếng. Lầu Hạc dựng
trên mỏm đá Hạc vàng bên sông Trường Giang nên gọi là lầu Hạc vàng. Sách Hoàn
Vũ ký ghi là lầu Hạc vàng. Sách Tế hai Chí ghi là Vương Tử An thành tiên đã cưỡi
hạc vàng từ trên lầu mà hạ bút, mượn truyền thuyết mà làm thơ. Chuyện ngày xưa
tiên cưỡi hạc vàng bay đi là chuyện vu vơ. Nhưng rồi hạc vàng ra đi không còn
trở lại để lầu Hạc vàng trống trải bên sông, làm cho câu chuyện lại thành
không.
Hạc vàng bay đi rồi, năm năm trông lên trời chỉ thấy mây trắng
trôi, gây cho ta một nỗi cảm khoái, từ chuyện tiên hạc trên trời nghĩ đến
chuyên trên đời. Đó là một nỗi nhớ cảm khoái mà những ai trên lầu trông cảnh
mây trời sông nước đời đời vẫn có, đã được ngọn bút tài tình của nhàthơ làm cho
hiện rõ, để sống mãi với đời.
Người xưa cho rằng: "Văn dĩ khí vi chủ" (thơ lấy
hơi làm chính). Đọc bốn câu đầu ta thấy như nhà thơ phóng bút một hơi mà thành.
Mạch thơ cuồn cuộn như nước chảy mây tuôn, cuốn hút người đọc một cách tự
nhiên. Lặp chữ, trùng ý là điều tối kỵ trong thơ cũ, thế mà nhà thơ đã ba lần
dùng lại hai chữ hạc vàng, nhưng mạch thơ dồn dập tự nhiên, làm cho người đọc một
hơi đọc hết không cảm thấy sự trùng lặp gượng ép nào.
Thơ luật bảy chữ có luật niêm văn chặt chẽ. Nhưng như Tào Tuyết
Cần đã mượn lời Lâm Đại Ngọc trong Hồng lâu mộng mà nói: "Nhược thị quả hữu
liều kỳ cú, liên bằng trắc hư thực bất đối đô sử đắc đích". (Nếu quả như
có câu thơ lạ, thì không cần bằng trắc, hư thực, không đối cũng đều được).
Bốn câu đầu của bài thơ quả là đã bất chấp niêm luật và đối của
thơ luật. Nhà thơ đã theo nguyên tắc làm thơ trước hết lập ý và không để việc
gò chữ mà hại đến ý, cho nên đã viết nên những câu thơ lạ hết sức tài tình ít
thấy trong thơ luật. Sách Đường thi biệt tài của Thẩm Đức Tiềm đã xác nhận
"ỷ đắc tượng tiên thần hành ngữ ngoại, tung bút tả khứ toại thiên cổ chi kỳ).
(Dựng ý trước hình ẩn thần ngoài chữ, phóng bút mà viết nên những câu lạ nghìn
đời).
Bốn câu đầu, nhà thơ đã phá vỡ khuôn khổ cũ thơ luật một cách
tài tình, nhưng cứ thế mà phá vỡ tiếp thì bài thơ không còn là thơ luật nữa, mà
trở lại là một bài thơ bảy chữ cổ. Nhung nhà thơ đã kịp thời quay lại với khuôn
khổ, để bài thơ không trở lại thể thơ cổ và vẫn là một bài thơ luật mới mẻ và kỳ
lạ hết sức tài tình.
Bốn câu cuối giữ đúng luật bằng trắc và đối. Nhưng nhìn vào
bài thơ ta thấy như bài thơ được chia làm hai nửa, mỗi nửa một thể thống nhất để
bài thơ trở thành luật. Nhà thơ đã giữ đúng cấu trúc của bài thơ luật. Bây giờ
chúng ta hãy đi sâu vào cấu trúc của bài thơ để hiểu rõ nội dung của bài thơ và
nghệ thuật chuyển ý của nhà thơ. Hai câu đầu là hai câu mở đề (Khai, khởi đề):
Hạc vàng, người xưa đã cưỡi đi
Lầu Hạc vàng trơ lại đất này.
Nhà thơ bắt đầu tả lầu Hạc vàng bằng một truyền thuyết, vừa
nói về cội nguồn xa xưa của lầu với một sắc thái huyền thoại thần tiên thiêng
liêng và sức sống của lầu đã bền bỉ chịu đựng và chiến thắng mọi sự hủy hoại của
thời gian mà tồn tại đến bây giờ nhưng với một thực trạng đáng buồn, trống trải
cô quạnh.
Hai câu ba tư là hai câu thừa, cũng gọi là thực, đi vào mô tả
hoặc giải thích đầu đề. Dương Tải đời Nguyên trong sách Thi pháp gia số đã nêu
ra một yêu cầu cho hai câu thừa là: "Thủ liên yếu tiếp phá đề (thủ liên) yếu
như ly long chi châu, bão nhi bất thoát". Hai vế này phải tiếp theo ngay
hai vế phá đề (hai vế đầu) như rồng đen ngậm ngọc, ngậm chặt không rời. Nhà thơ
đã chuyển hai câu ba, tư theo đúng yêu cầu đó, tả những điều trông thấy trên lầu
mà không xa rời khung cảnh và không khí của truyền thuyết.
Một đi, Hạc vàng không trở lại,
Ngàn năm mây trắng vẫn bay bay.
Từ truyền thuyết hư vô trở lại với tòa lầu trống trơ, từ tòa
lầu trống trơ nhìn lên trời thẳm, nhìn lên hư vô, cánh hạc vàng vẫn là truyền
thuyết xa xưa không còn thấy được, nên lại trở về với thực tại, với những vầng
mây trắng vẫn nằm trôi hờ hững: Cây in sông tạnh Hán Dương đó Cỏ mịn bãi thơm
Anh Vũ đây.
Hai câu năm, sáu là hai câu chuyển, cũng có lúc là luận,
nhưng ở đây là chuyển tiếp ý thơ, Dương Tải liên tiếp yêu cầu "Dữ tiền
liên chi ỷ tương lai yếu biến hóa, như tật lôi, phá sơn, quan giả kinh ngạc"
(Phải khác ý với hai vế trên, phải biến hóa, như tiếng sét phá núi làm cho người
đọc phải ngạc nhiên).
Nhà thơ đột nhiên kéo ta từ cõi mơ tưởng mông lung về với cõi
thực, với những sông bãi, cỏ cây, phục sẵn một ý ngầm khơi gợi nỗi nhớ. Mấy chữ
"Phương thảo thê thê" là lấy từ bài Chiêu ẩn sĩ trong sở từ
"Vương tôn du hê bất quy, xuân thảo sinh hề thê thê". (Chàng đi chơi
chừ không về, cỏ xuân mọc chừ mượt mà). Hai câu cuối là câu hợp, thuận theo ý
thơ trên mà đưa bài thơ vào kết cục.
Ngày hết, quê nhà đâu ấy nhỉ,
Trên sông khói sóng não người thay,
Cảnh hoàng hôn vốn gợi nỗi nhớ nhà, lại thêm khói sóng mịt mờ
dào dạt trên sông làm ai mà chẳng não lòng. Rõ ràng nghệ thuật điêu luyện tài
tình đã đưa nhà thơ đến thành công viết nên bài thơ tuyệt tác bậc nhất một thời
chói lọi thơ luật Đường, sống mãi với thời gian.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
7. Nhà thơ Thôi Hiệu là một người có tính lãng mạn trữ tình, thơ
ông thường toát lên phong cách phóng khoáng, dứt khoát tao nhã, thể hiện phong
cách riêng.
Thôi Hiệu có nhiều bài thơ hay để lại nhiều ấn tượng khó phai
trong lòng người đọc. Trong đó, bài thơ Hoàng Hạc lâu là bài thơ tiêu biểu thể
hiện cho phong cách và tên tuổi của Thôi Hiệu. Bài thơ cũng là đỉnh cao của nghệ
thuật thơ đường.
Trong bài thơ tác giả Thôi Hiệu thể hiện bức tranh thiên
nhiên vô cùng tươi đẹp, nỗi buồn của tác giả khi đứng trước lầu Hoàng Hạc gợi
nhớ cho tác giả nhớ tới một huyền thoại bất tử thời xa xưa. Nó gợi lên trong
lòng tác giả những suy nghĩ tiếc nuối một thời vàng son của nơi đây.
Lầu Hoàng Hạc là một nơi gắn liền với di tích lịch sử nổi tiếng
của Trung Quốc về huyền thoại Phí Văn Vi khi bà hóa thành tiên. Trước một bức
tranh thiên nhiên cảnh đẹp nhân gian hiếm thấy tác giả đã gợi nhớ về khung cảnh
thiên nhiên hùng vĩ xưa kia.
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
(Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu)
Trong những câu thơ này ta thấy hình ảnh lầu Hoàng Hạc đứng một
mình bơ vơ lạc lõng trước không gian mênh mông bao la, không một bóng người xuất
hiện. Chính sự đơn độc đó là cho tác giả cảm giác được nỗi buồn hiu hắt, man
mác trong lòng.
Hình ảnh lầu Hoàng Hạc vẫn đứng sừng sững trong một không
gian bao la, ngút ngàn trải qua hàng trăm năm lịch sử, thể hiện cho sức sống
trường tồn theo thời gian của nó. Thể hiện sự hiu quạnh bên bãi sông vắng lặng
khiến lòng người chạnh thương nhớ thời xưa.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản, Bạch vân thiên tỉa, không du
du.(Hạc vàng một khi đã bay đi, không trở lại nữa, Mây trắng nghìn năm lởn vởn
hoài).
Hình ảnh chim Hạc gắn liền với những khung cảnh thần tiên,
vua chúa thời xưa. Hạc vàng giờ bay mất lên trời không biết khi nào mới có dịp
trở lại nơi xưa khiến cho mọi việc trở nên huyền ảo, hư hư thực thực vừa thơ mộng,
vừa thần tiên là xót xa lòng người.
Mọi thứ hiện lên trong trí nhớ, tiềm thức của tác giả thể hiện
sự ngậm ngùi thương tiếc của nhà thơ Thôi Hiệu. Nhà thơ đắm chìm hoài cổ trong
không gian tĩnh mịch, tưởng nhớ về nơi xưa. Một nơi đã từng là lầu son gác tía.
Nhưng hiện tại chỉ còn là nỗi hoang vu, trống trải, thể hiện
sự cô đơn lạnh lẽo của nơi này, khiến cho tác giả cảm thấy có chút xót xa cay đắng,
ngậm ngùi trước hoàn cảnh thực tại của nơi đây. Hạc vàng đã bay đi lên trời
thành tiên chỉ còn trơ lại lầu Hoàng Hạc bơ vơ, cô đơn lạnh lẽo.
Thông qua những câu thơ tác giả Thôi Hiệu muốn thể hiện triết
lý nhân sinh sâu sắc, đó chính là sự còn mất của thời gian. Có những điều tưởng
không còn đã lâu nhưng vẫn tồn tại trong lòng người mãi mãi. Có những thứ còn lại
những không thể như xưa, vì thời gian không trở lại bao giờ, những gì đã đi qua
không bao giờ lấy lại được nữa.
Tác giả Thôi Hiệu đã vô cùng tinh tế khi vẽ lên một bức tranh
thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, phong cảnh hoang sơ nhưng sơn thủy hữu tình thể
hiện sự quan sát tinh tế, phong cách, độc đáo của tác giả. Trong những câu thơ
tiếp theo tác giả Thôi Hiệu thể hiện tình cảm nhớ quê hương da diết, sâu sắc.
Hình ảnh trên sông với những lớp khói hư thực càng làm cho tâm hồn tác giả cảm
giác như buồn hơn, mênh mang hơn, da diết nhớ:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
(Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Trong mỗi câu thơ nỗi nhớ quê hương gợi lên tha thiết cùng với
tâm tâm trạng cô đơn, lạc lõng trước cảnh núi non hùng vĩ làm cho bài thơ càng
trở nên da diết, gây day dứt trong lòng người đọc, về một bức tranh thiên nhiên
đẹp nhưng vô cùng buồn ảm đạm.
Bài thơ “Hoàng Hạc lâu” thể hiện những giá trị to lớn của
mình trong nền thi ca nước nhà. Nó đã phác họa bức tranh thiên nhiên vô cùng
tươi đẹp nhưng cũng ảm đạm buồn làm ám ảnh người đọc. Thể hiện tâm trạng nhớ
nhà nhớ quê hương sâu sắc của tác giả Thôi Hiệu khi phải xa xứ.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
8. Tác giả Thôi Hiệu là một nhà thơ sáng tác ít, các tác phẩm của
ông lại để lại nhiều tiếng vang, dấu ấn mạnh mẽ trong thời kỳ phong kiến bởi
phong cách độc đáo thu hút người đọc.
Bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” là một bài thơ thể hiện nỗi buồn của
tác giả, những câu thơ nhẹ nhàng, sâu lắng thể hiện tâm trạng man mác trước thời
cuộc, thể hiện sự da diết của con người đang mang trong lòng nhiều nỗi thương
nhớ, chua xót.
“Hạc vàng ai cưỡi đi đâu“ Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Tác giả Thôi Hiệu đã tinh tế khi mượn tích cổ điển “Hạc vàng”
trong truyền thuyết của nàng Phí Văn Vi năm xưa, khi hóa tiên. Hoàng Hạc Lâu
chính là nơi lưu truyền một câu chuyện mang đậm tính điển tích về một nhân vật
lịch sử đã hóa thành tiên tại nơi đây. Thể hiện sự hào hùng, bi tráng của điển
tích đó nhắc cho người đọc nhớ lại thời oanh liệt, vàng sơn đã từng diễn ra tại
nơi đây.
Tuy nhiên trong những câu thơ thứ hai thì giọng thơ thể hiện
sự trầm buồn, cô liêu. Tác giả đã sử dụng từ “Trơ” để thể hiện sự cô độc của
mình tại nơi vốn nổi danh này. Trước kia nơi đây lung linh biết bao nhiêu thì
nay trở nên hoang tàn bấy nhiêu
“Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay”
Hoàng Hạc lâu từ hàng nghìn năm nay vẫn gắn liền với điển
tích hóa tiên của người con gái trong lịch sử. Nhưng, con Hạc vàng đó đã hóa
tiên từ lâu rồi, giờ chỉ còn lại nỗi buồn nhớ về một thời vàng son, lịch sử.
Tác giả cảm thấy xót xa, buồn vương thể hiện cho những năm tháng đã mất. Hiện tại
trở nên buồn bã, thê lương, vắng vẻ tiêu điều, hiu quanh tới não lòng. Tác giả
đã khôn khéo sử dụng câu hỏi tu từ để hỏi người khác hay hỏi chính bản thân
mình về sự hoang sơ hôm nay.
Chỉ bằng vài vần thơ nhưng tác giả đã tinh tế làm nổi bật lên
tâm tư, tình cảm của bài thơ, thể hiện tâm trạng và sự hối tiếc trong lòng tác
giả. Tác giả mang nặng nỗi buồn về nhân tình thế thái, về quá khứ và hiện tại
đã thật khác nhau.
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”
Trong những câu thơ này tác giả đã bày tỏ tâm trạng nhớ nhà,
nhớ quê hương một cách da diết mãnh liệt. Hai câu thơ hiện lên vẻ đẹp liêu trai
khiến cho người đọc cảm nhận về một vẻ đẹp thiên nhiên vô cùng tuyệt vời. Như một
bức tranh hoàng hôn có sự huyền bí, những đậm nét buồn man mác. Hình ảnh “quê
hương” xa dần khuất bóng dần trong chiều hoàng hôn, khi mà ánh nắng dần tắt,
bóng tối gần bao phủ không gian nơi đây.
Những làn khói sóng, vừa là cho không gian trở nên bao la huyền
ảo, vừa hư vừa thực như một bức tranh chốn bồng lai tiên cảnh. Những làn khói
phủ sương mờ đó càng làm cho tâm trạng người du khách là tác giả trở nên buồn
hơn, thê lương hơn. Nỗi nhớ thương quê nhà càng trở nên da diết, quay quắt hơn.
Bài thơ “Hoàng Hạc lâu” là một bài thơ hay đại diện tiêu biểu
cho phong cách thơ đường. Nó thể hiện nỗi lòng của tác giả trước cảnh vật hiện
tại, nuối tiếc quá khứ hào hùng, lung linh. Thể hiện tình yêu quê hương, nỗi nhớ
quê của tác giả trong chiều hoàng hôn mờ sương.
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
12-2-2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét