Ai cũng
có một thời để nhớ...
Đặng
Thanh Lương
Mới thế mà đã hơn năm
mươi năm kể từ cái ngày các cô, các cậu học sinh lớp chuyên văn, chuyên toán của
trường năng khiếu Lệ Chi (Gia Lâm) rời ngôi trường thân yêu sau một năm cùng
ăn, cùng học, cùng ngủ và cùng đùa chơi. “Bao tháng ngày xa vắng
trôi/ Còn đâu nếp trường xưa”, lời bài hát đó cứ văng vảng bên tai
tôi mỗi khi tôi nghĩ về quãng thời gian tuy ngắn ngủi nhưng đầy thơ mộng của tuổi
mới lớn. Nó chợt đến rồi cũng chợt đi như một giấc mơ trong cuộc đời của mỗi
người. Nhưng cũng có lẽ vì nó sượt qua rất nhanh trong cuộc đời của hơn 50 cựu
học sinh ngày ấy mà ngày hôm nay họ đang náo nức tìm lại những dấu vết của ngôi
trường xưa, tìm lại những kỷ niệm một thời mới lớn, của tuổi thơ, của sự khờ dại,
của sự trong trắng tinh khôi.
Thời
đó [1], chiến tranh leo thang đang diễn ra rất dữ dội, giặc Mỹ ném
hàng nghìn, hàng vạn tấn bom xuống miền Bắc. Đêm đêm, thay vì được ngắm trăng
sao, chúng tôi - những cô cậu học sinh lại phải giương đôi mắt trẻ thơ lên nhìn
bầu trời đầy tia chớp của súng đạn, để xem giặc đánh ở đâu? để ngóng về miền
yêu thương xem người thân của mình ở đó có được bình yên hay không? rồi phải ẩn
mình tránh những mảnh bom, mảnh đạn mồ côi xé vào không trung, rơi lộp bộp xuống
đầu. Mặc cho bom nổ, súng gào, nhưng những đứa trẻ “Lệ Chi’ hồi đó vẫn hàng
ngày cắp sách đến trường. Máy bay đến, chúng ẩn mình xuống hầm chữ A. Máy bay
bay đi, chúng lại hiện lên, chăm chú nghe các thầy cô giảng bài. Đôi lúc để
tránh những giây phút căng thẳng sau tiếng bom rền, thầy giáo lại bắt nhịp “Kìa
dải Trường Sơn uốn mình quanh ven bờ biển Đông/ Tiếng sóng ngoài khơi dồn xa xa
những thuyền xuôi dòng/ Kìa từng vạt lúa đùa trong nắng phất phơ nhẹ
rung/ Kìa lấp lánh than trên tầng, dưới trời trong…”. Những đứa trẻ
Lê Chi chúng tôi đã lớn lên cùng với những “quỹ tích” hình viên đạn, với những
bài ca tiếng hát át tiếng bom, và những lời ru chan chứa tình yêu thương đất nước.
Hồi đó, chúng tôi đã sống và học hồn nhiên như thể không có chiến tranh. Vẫn “Say
ngắm từng gian lớp xinh/ Lòng xao xuyến tình thơ”.
Lớp chúng tôi nằm ở rìa làng, nhà lá 3 gian, 2
chái đầu hồi là phòng ở của các bạn nam, gian giữa là giảng đường. Có những
hôm mệt không lên lớp, mấy thàng con trai nhìn trộm qua vách nứa nhòm các cô bé
trong lớp nghếch mắt mơ màng ngắm nhìn gì đó ngoài cửa sổ. Vào mùa thu hoạch,
chúng tôi lại dở trò tinh nghịch đi trộm ngô đồng hoặc tử tế hơn đi mót khoai
lang. Ngày ấy, chúng hồn nhiên đâu có biết “dân gian” đã để lại trong những ruộng
khoai đã thu hoạch những củ khoai to, ngon để chiều đến, mọi người cùng nhau ra
mót. Chúng tôi những đứa trẻ “năng khiếu” đã nhanh tay nẫn mất của “gian”. Có lẽ
các ông bà nông dân trong làng ngày ấy vì thương những đứa trẻ xa nhà và lại là
“của quý” của quốc gia nên đã không nỡ mách thầy cô giáo; không đem chúng ra
đình làng để hỏi tội. Những ngày như vậy, chúng hì hụi luộc luộc, nướng nướng
cùng nhau nô đùa như những đưa trẻ chăn trâu tinh nghịch của làng quê. Có thằng
“dại gái” cất đi một ít mang ra làm quà cho các bạn nữ bị “quản thúc” trong
làng [2]. Có lần nhà trường tổ chức cho học sinh đi bắt sâu. Chưa thấy sâu
phá hoại ngô lúa ở đâu, đã thấy những “quỷ” học trò bới nát những bẹ ngô non ra
tìm sâu. Những đưa học sinh thành phố như chúng tôi được một bữa trải nghiệm rất
thú vị[3].
Ngày ấy, mấy ai đã biết
yêu là gì? chỉ có kiểu gán ghép vớ vẩn của bọn trẻ con, Đa phần dành cho các bạn
to con trong lớp, như Bình Xô Viết được gán với Nga - thiếu nữ miền
Nam, Đó là bạn Đức, bạn Mỹ… Tên họ thường được xướng lên mỗi khi tụ tập đông vui
như “Bình - Nga - Xô Viết - Nga”. Có thể tôi chỉ biết những câu chuyện
bề nổi còn những cơn “sóng ngầm” đâu có biết? May ra trong đợt tựu trường gặp
nhau sau 50 năm xa cách, cái gì cần lộ sẽ lộ ra vì rằng tất cả các cụ bây giờ
đã “An toàn”? và cũng có thể là bởi vì “Bao tình thơ ngây những lúc vui
chơi/ Cùng ngồi quanh bóng mát cùng reo cười/ Cây bàng năm xưa lá tốt
xanh tươi/ chạnh lòng ai nhớ tiếc khó nguôi…”. Tôi còn nhớ những hôm sinh
hoạt chung cả trường, bạn Đồi thường biểu diễn tiết mục ảo thuật “cắt cổ”. Tất
cả đều hồi hộp và giật thót tim khi nhìn thấy đầu của Đồi vẫn “lơ lửng” ở trên
vai khi chiếc dây thừng vừa băng qua cổ. Rồi tiếng sáo chiều ai đó thổi vi vu
trong những buổi chiều tà, khi khói lam chiều bay bồng bềnh trên những cánh đồng.
Cũng với cây sáo trúc, chỉ trong một thời gian ngắn, N.H.V. Hưng đã trở thành
tay thổi sáo “cự phách” của trường. Nếu tôi nhớ không nhầm ngoài những bài truyền
thống, Hưng còn hay thổi bài “Tiếng Đàn Ta lư” bài có nhiều “Tính, Tính Tính,…”
ấy, mà Hưng rất thích. Nhà toán học tương lai ấy còn đủ tài đệm sáo cho bạn Gái
họ Đới của chúng ta hát say sưa[4]. Tôi nhớ có những buổi trưa, tan trường,
bụng đói như cào nhưng vẫn phải chờ cơm. Phần vì thiếu củi, phần vì luộc mãi bột
mỳ không chín, cả trường đứng vây quanh bếp, chầu chực vớt những cục bột mỳ
chín dở vừa nướng vừa ăn cho đỡ đói lòng. Rồi những đêm đông về, gió bấc thổi từng
cơn, luồn qua vách nứa, rít qua mái nhà tranh làm cho chúng tôi co dúm lại; và
xa xa đâu đó vọng về những câu thơ thầy dạy trong tiết lịch sử: “Đoàn tù
chân không, nối gót lê trên đường/ Lá rơi xuống suối vắng đêm trường…” mà lòng
cảm thấy nao nao. Dạo ấy, thấy tôi - một cậu bé mới lớn mà đã mồ côi
mẹ, Chị Chấn thương tôi lắm. Hồi sống trong nhà dân ở “Keo Sủi”, hai nhà ở gần
nhau, Tôi thường qua nhà chị chơi. Bên đó có cả chị Tuyết. Hai chị coi tôi như
em trai trong nhà. Tình cảm của các chị, tôi vẫn lưu trong lòng. Tình thương của
chị đã truyền vào chiếc chăn bông mầu đỏ chị nhường cho để sưởi ấm lòng tôi qua
mỗi đêm, trong mùa đông đầu vắng mẹ. Ngày về nước tôi đã đi tìm các chị nhưng
không thấy. Năm 1979 nghe nói gia đình nhà chị Chấn buộc phải về nước. Nên tôi
cũng chưa một ngày gặp lại. Ngày đó, có một bạn gái mảnh mai cũng
hay sang nhà các chị chơi. Dù mới quen, chưa nói được gì, nhưng không hiểu sao,
hình ảnh người con gái ấy luôn ở trong ký ức tôi, mỗi khi nghĩ về trường xưa, mỗi
khi nghĩ về thời thơ ấu ấy - “xa vắng càng thiết tha mong/ Bên mấy
khung song thưa/ Say ngắm từng gian lớp xinh/ Lòng xao xuyến tình
thơ”.
Còn
một kỷ niệm nữa gắn liền chúng tôi đó là bài hát “ Cây bút chì” mà Thầy Phùng
Gia Anh đã dạy cho học sinh: “ Em có những cây chì, tím đỏ vàng xanh/ Em vẽ,
em tô nên thành bức tranh/ Bức tranh có những cánh chim câu trắng
bay lượn trên trời bao la/ qua bao mái nhà, nhấp nhô gói đỏ…”. Chúng tôi
đã hát bài đó không biết bao lần trên sân trường Lệ Chi thân yêu. Nó đem lại
cho chúng tôi niềm hứng khởi, niềm tự hào, cả niềm tin chiến thắng. Tôi đã mang
bài hát đó tặng cho các học sinh phổ thông của xứ sở Moldova xa xôi, nơi tôi đã
trải qua cả cuộc đời sinh viên ở đó. Thật ấm áp và thật tình người khi nghĩ về
những kỷ niệm xưa ấy.
Giờ đây, các cô, các cậu
học sinh Lệ Chi bé nhỏ ngày nào đã trở thành những người ông, những người bà với
mái tóc đã điểm mầu. Dù thời gian có phôi phai, dù có người đã đi xa, dù có những
điều chưa làm được như ý muốn, nhưng tôi vẫn tin rằng ở đâu đó, trong tâm khảm
của mỗi người vẫn còn ghi lại những dấu ấn tuổi thơ của những ngày họ hồn
nhiên, ngây thơ sống chung dưới mái trường Lệ Chi xưa.
Cảm
ơn các bạn và hãy nhớ bài hát “Trường xưa” thủa nào của nhạc sĩ vô danh này nhé
- “Bao tháng ngày xa vắng trôi
Còn đâu nếp trường xưa
Xa vắng càng thiết tha mong
Bên mấy khung song thưa
Say ngắm từng gian lớp xinh
Lòng xao xuyến tình thơ
Bao tình thơ ngây những lúc vui chơi
Cùng ngồi quanh bóng mát cùng reo cười
Cây bàng xưa kia lá tốt xanh tươi
chạnh lòng ai nhớ tiếc khó nguôi…”
Chú thích:
[1] Giai đoạn 1967-1968.
[1] Giai đoạn 1967-1968.
[2] Lớp văn và nhà ở của các bạn nữ ở trong làng trên một khu
đất cao, gần nhà bếp.
[3] 50 năm trước chúng ta đã từng trải nghiệm thực tiễn,
dưới bom đạn, làm nghề nông… cái đó có gì mới mà ngành giáo dục lại hô hào phải
cho học sinh trải nhiệm như một “sáng kiến” hay một “phát minh mới”.
[4] Xin lỗi nếu tôi nhầm với ai đó.
Thu Hà Nội, 2017 Đặng Thanh Lương |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét