Thứ Tư, 28 tháng 5, 2025

Đất mẹ

Đất mẹ

1. Dưới trời xanh mây trắng, kế nước trôi một dòng, trong cái nắng chang chang của miền Bảy Núi, có hai người đang đi.
Một da trắng, một da vàng. Người da vàng đi trước, mồ hôi đọng lên chòm râu dưới cằm ông tỏng tỏng. Ông già chừng năm mươi tuổi, mặc bà ba đen nguyên bộ, bụng quấn khăn rằn, đầu đội nón lá, chân mang dép nhựa. Màu đen bắt nắng, nó nhân cái hanh hao lên hai lần rồi cộng với số tuổi của ông, xong đè lên mỗi bước chân của ông nặng trĩu. Nặng nhưng ông vẫn đi, dẻo dai hết biết. Vai ông đeo cái balo quân đội cũ mòn, nghe màu thời gian chà xát lên lớp vải rằn ri.
Nhà văn trẻ Vương Đình Khang sinh năm 1988, hiện sống và làm việc tại Tp. Long Xuyên, An Giang; Giải Nhất cuộc thi viết “Đoàn viên sau đại dịch”, báo Tuổi Trẻ năm 2021, Giải Ba Cuộc thi Truyện ngắn Đồng bằng Sông Cửu Long năm 2023, Giải Nhất Cuộc thi Truyện ngắn “Yêu lại Tiếng Việt” năm 2024.
Người da trắng đi sau. Kể ra thì là da trắng, dù nắng Nam Bộ thui thằng nhỏ gần thành màu nâu rồi. Người da trắng quốc tịch Mỹ, chừng hai mươi bốn, hai mươi lăm tuổi. Tóc nó dài, xoăn tít thò lò, ấp ủ mùi nồng nàn châu thổ sông Cửu Long. Cái áo thun ba lỗ đã ra màu cháo lòng. Nó mang… dép tổ ong. Sau lưng thằng nhỏ ngoại quốc là cái balo tổ bố, cao hơn đầu, nặng trịch. Lâu lâu, nó lại nhăn mặt rên ư ử vì bàn chân đã phồng rộp. Nhưng nó vẫn đi, không hề than vãn, vì nó biết có than ông già vẫn không dừng lại.
Người da vàng đi miết, người da trắng đi mãi. Dòng kinh cặp con đường lộ chưa hề ngừng trôi.
– Ông Ba, con khát quá trời quá đất!
Người da trắng gọi ới lên phía trước. Ông già da vàng quay đầu, nạt ngang:
– Mới đi có ba tiếng mà Tèo, mày uống hết bình nước rồi, khát gì nữa?
Thằng Mỹ tên Tèo. Cái tên nghe không có miếng ăn nhập với ngoại hình của nó. Nó mang một đôi mắt nâu Châu Á, gương mặt đặc sệt Châu Âu, hàm râu quai nón lỉa chỉa kiểu Châu Mỹ, nhưng cách nó nói chuyện thì y rang Châu Đốc. Nó nói tiếng Việt sõi dữ thần. Có điều giọng nó lơ lớ, ngang tràng, hơi đi ra từ mũi với những tâm tiết đánh lưỡi điệu đà phức tạp. Mà cách dùng từ và câu cú của nó rõ ràng là tiếng Việt pha đầy phương ngữ như người Nam Bộ thực thụ. Kỳ diệu, ông già hiểu hết trơn.
Ông già nhớ lại tối đêm hôm trước, khi lần đầu tiên gặp thằng Tèo. Bữa đó, ông nghe tiếng lạt sạt ngoài bờ rào. Có tiếng chó sủa văng vẳng, rất dai rất dữ. Phía bờ dậu dâm bụt chắc là có thứ gì đó khiến tụi chó làm ầm lên như vậy. Ông liền bước ra ngoài ngó. Lúc thảy ánh sáng từ cái đèn pin cổ lỗ sĩ ra cổng rào bằng tre, ông giật mình, xém hét lên the thé.
Từ ngoài bờ rào thò lên một bóng đen cao lêu nghêu gần hai mét. Đầu cổ nó bù xù, người ngợm ướt đẫm, lem nhem nhầy nhụa. Trên vai nó còn vác một cái bao lớn. Đôi mắt long lánh, chớp chớp phản chiếu ánh đèn vàng. Nó đưa tay vẫy vẫy khiến ông Ba lạnh toát sống lưng. Ông té bịch xuống đất ngó trân trân. Cặp giò ông run lên dờn dợn.
– Hê-lô ông? Cho con vào được không?
Ông Ba tim vẫn còn đập thình thịch, đưa tay lau mồ hôi trán chờ coi bóng đen kia nói gì tiếp nữa? Nó là người hay ma mà biết hê-lô?
– Con là Tây Ba-Lô, cho con vô nhà đi?
Thằng quỷ? Nhát ma tao xong còn đòi vô nhà? Ông gật đầu, đưa tay run run ngoắc nó. Bóng đen đẩy cửa đi vào trong vùng ánh sáng yết ớt của cái đèn pin cà tàng. Lúc đó mới hiện ra rõ ràng một anh chàng da trắng lôi thôi, lếch thếch. Người nó đầy sình bùn, quằn quện tèm lem, từ trên đầu xuống tới ngón chân đều ướt chèm nhẹp. Nó đi bước nhào là nghe chép chép, nước nhễu tong tỏng tới đó. Ông già ngó thằng nhỏ người Tây nhăn mặt. Nó thanh minh liền:
– Trời tối quá, con té xuống… à cống.
Ông Ba thầm đoán là chắc là nó muốn nói tới cái mương. Nó cười toe toét đưa hàm răng trắng bóc đang đánh bò cạp. Ông già thấy tội, liền dắt thằng nhỏ ngoại quốc vô nhà. Nó khui balo ra lau lau, dọn dọn rất lâu. Tắm táp, phơi mớ đồ ướt xong, thằng nhỏ ngó ra thấy ông già đang ngồi uống trà ngoài hàng ba. Nó đi ra, tiếp tục cảm kích bằng thứ tiếng Việt giọng mũi.
– Bây tên gì? Nước nào?
– “Bây” là “con” đúng không? Con tên Tèo. Con ở Mỹ.
Ông Ba nghe tên thằng nhỏ thì cười sặc cả nước trà. Gì mà Tèo? Nhìn từ trên xuống dưới mày cũng không có xíu dính dáng tới Tí Tèo gì hết. Thấy ông già bất ngờ, nó chỉ vô đôi mắt rồi cười toe, nhắc về người mẹ Việt Nam của nó. Mắt nó màu nâu sẫm, chắc là một nửa trong đó mang dòng máu Châu Á. Ông Ba đoán chắc má dạy nó tiếng Việt nhiều, nói giỏi dễ sợ. Ông Ba hỏi bây đói không?
Tèo chưa kịp trả lời thì tiếng ọt ọt nhảy ra từ bụng nó. Ông Ba lắc đầu đi vô nhà, bới tô cơm nguội rồi đổ chao ra chén. Tèo chụp đôi đũa và ngon lành. Chèn, cầm đũa gọn hơ ta? Biết ăn chao luôn?
Sau đó thằng nhỏ ngoại quốc kể cho ông già Nam Bộ nghe về hành trình đi bộ xuyên miền Tây của nó. Nó nói đi “phiêu lưu”. Nó đã đi từ Sài Gòn dài về tới Long Xuyên, rồi từ đó đi lạc ra tới tận Thoại Sơn, mở đầu của chập chùng vùng bảy núi. Ông già há hốc miệng, hỏi lại coi mình có nghe lầm không? Mày đi bộ thiệt hả? Đi bộ hơn 200km rồi? Dữ thần à! Chắc phải mất sáu bảy ngày đêm. Ủa mắc gì mày không đi xe? Rồi ăn đâu? Ngủ đâu? Tèo đưa tay vén lọn tóc xoăn ra khỏi miệng, nhai ngồm ngoàm mà trả lời:
– Đi bộ… sướng! Con ngủ trong lều – anh chàng liếc qua cái balo – rồi đánh đàn kiếm tiền ăn cơm – lại liếc qua cái bao guitar bên cạnh. Con “đi bụi” mờ!
Chèn ơi, nó biết xài chữ “đi bụi” nữa. Cả tiếng lóng nó cũng biết nói. Ông Ba tưởng tượng về hình ảnh một bà má Việt Nam hiền hậu nhỏ xíu đứng cạnh thằng Tèo da trắng, tóc nâu, cao lêu nghêu. Thằng nhỏ đang cười nói vui vẻ thì đanh mặt lại, hỏi rõ ràng nghiêm túc:
– Ông Ba có biết chùa Long Ấn ở đâu không?
Chùa Long Ấn… Đó là một cái chùa nhỏ xíu nằm trên núi Dài. Sao thằng nhỏ người Mỹ này biết chỗ heo hút đó?  Hình như đâu phải danh lam thắng cảnh? Nghe tên cái chùa, ông Ba hơi dợn sống lưng. Mắc mớ gì nó đòi đi chỗ đó? Chỗ này là Núi Sập, cách núi Dài hơn năm mươi cây số. Đâu có gần?
Tèo trở lại cười hê hê thân thiện. Ông Ba nghĩ thầm mấy thằng Tây balo này quái thiệt chớ? Khoẻ thân hỏng muốn, sao đi chơi cái kiểu gì cực khổ gần chết? Ngay cả bản thân ông sống ở xứ Thất Sơn mà còn chưa đi xe được giáp vòng Bảy Núi. Đằng này nó đi bộ? Rồi chừng nào tới? Tới rồi sức đâu mà ngắm cảnh?
Ăn xong, Tèo đòi rửa chén để trả ơn bữa ăn. Ông già nói bây ăn có một hai cái chén mà bày đặt rửa, xạo xạo mày. Ông chỉ tay: nhà tao có một cái giường thôi, nên Tèo có thể trải chiếu ngủ dưới đất. Tèo nháy mắt, con có lều mà! Nói xong nó ra hàng ba căng chiếc lều vải vồng lên như cái bánh ú, thò đầu ra vẫy tay bái bai ông già. Đêm rơi tõm xuống con mương trước nhà, chỗ khi nãy thằng Tèo hụt giò. Sương phủ trắng mái nhà ngói xanh rêu. Ông Ba thao thức, trằn trọc cả đêm không tài nào chợp mắt. Ông chìm vô rồi lại bơi ra khỏi những cơn mơ hư hư thực thực. Hình ảnh cái chùa cổ núp sau tượng Mẹ Quan Âm chớp tắt trong vòm rừng, vừa xanh rì, cũng vừa đỏ loét.
Sáng, thằng Tèo dậy rất sớm. Nó lụm được mấy cây củi khô bắt lửa ngon lành (làm như có ai chặt sẵn xếp ngay ngắn kế nhà). Anh chàng chụm bếp, nấu nước bằng cái ca nhôm dã chiến ngay giữa sân. Nó pha cà phê. Trong khi chờ nước sôi, Tèo hít đất, gập bụng, hì hục tập thể dục. Bà Tám hàng xóm đi chợ ngang giật mình, sao nay nhà ông Ba có thằng Mỹ bự con dữ vầy nè? Tèo luộc trứng gà, ăn uống xong thì dọn hành lý chuẩn bị chào ông Ba. Khi nó mở miệng gọi, chợt thấy ông bước ra, vai vác cái balo lính bay màu. Ông nhập ngũ hả?
– Tao dắt bây đi Núi Dài.
Tèo trợn mắt kinh ngạc. Sao tự nhiên ông lại đòi dắt mình đi? Ông có đi bộ nổi không? Nó mới mở miệng định hỏi thì ông già đóng cửa, đi thẳng ra khỏi rào, coi như không cho phép thằng Tèo từ chối. Khi bà Tám nhìn thấy ông hàng xóm cùng với thằng nhỏ người Mỹ xấp xải ra đầu xóm, ông nói với qua bờ dậu dâm bụt, nhờ bà Tám ngó dùm cái nhà mấy bữa nghe. Nói xong ông đi luôn không quay đầu lại. Tèo lẽo đẽo ôm đàn, vác túi lịch kịch chạy theo sau. Nó nghĩ thầm người già Việt Nam ai cũng nhanh nhẩu như vậy sao trời?
2. Vậy là cuối cùng hai người, một già một trẻ, giăng nắng trên con đường lộ cặp mé kinh nóng hầm hập này. Ông Ba và thằng Tèo đã cuốc bộ ra khỏi xóm lưng chừng núi Sập, hướng theo mấp mô ổ gà chạy về núi Chóc. Sau đó phải đi qua Óc Eo, Ba Thê, núi Tô, Tri Tôn, Châu Lăng, đi miết mới tới núi Dài. Hành trình hơn năm chục cây số, đi xe máy chắc hai tiếng. Đi bộ thì hai ngày. Còn đi bộ mà vác đồ khệ nệ, thanh cảnh tình tang như hai thầy trò hả? Ai biết bao lâu?
Thằng Tèo vẫn chưa hết thắc mắc vì sao ông già lại chịu cực khổ, đích thân dắt mình đi. Nó nhớ lại hành trình từ hồi về Việt Nam tới giờ, người Nam Bộ ai ai cũng hào sảng, thân thiện, tốt bụng. Chắc ông già sợ mình lạc như hồi hôm nên bỏ công giúp đỡ tới cùng? Hay là vì ông có máu “đi bụi” giống mình? Ông muốn đi chơi? Nghĩ tới đó Tèo chắc rằng mình đoán đúng, thôi không nghĩ nữa. Nó mở ra nhìn bản đồ, trên đó thấy đường sá chằn chịt, sông ngòi chồng chéo. Hơn phân nửa không có tên. Tèo dẹp luôn, nhìn theo cái bản đồ sống là ông già Nam Bộ đương đội nón lá đi lệch xệch phía trước.
Trưa, ông mặt trời vén mây, bước ra ngó hai thầy trò. Nắng trời rọi thẳng xuống đỉnh đầu một già một trẻ. Ông Ba chỉ cắm đầu đi, làm như không ưa nói chuyện phiếm. Mặt ông luôn nhăn nhăn và miệng thì cộc lốc. Cổ họng thằng Tèo khát khô, mồ hôi mồ kê nhễu tong tỏng xuống đường. Nó ngó qua con kinh cập mé, nghĩ xứ này nơi đâu cũng là sông hết trọi?  Nó nheo mắt thấy căn nhà gần nhất cũng cách cả trăm mét, cửa đóng then cài, không bóng người. Bình nước đã uống hết, sao ông Ba không thấy mệt cà? Ông già đi chậm nhưng dai sức, đi hoài không hề giảm tốc độ.
Đuối quá rồi, thằng Tèo nhìn ra con kinh màu nâu lững lờ trôi. Nó ngỏ ý hỏi muốn uống nước có được không? Ông già ngần ngừ. Đã rất lâu rồi, ông không thấy ai vốc nước kinh mà uống. Ờ, sao kì vậy ta? Ông nhớ hồi nhỏ mình vẫn uống ực ực mà. Sao sống ở xứ kinh rạch mà lại khát nước được? Ông ngó qua bên kia thấy có bà già đang giặt đồ. Ngó qua mé nọ thấy có người mới quăng rác xuống cái chủm, rồi có thằng nhỏ đang tè xuống sông. Dù vậy, ông vẫn nhìn Tèo gật đầu. Nó còn chờ gì nữa, bỏ balo, cởi áo, bay thẳng ra bờ kinh cắm đầu xuống hớp ừng ực. Người nó dài sọc, chổng mông uống nước nom y như con chó. Cái thằng ngộ, sao bình đây kìa bây không múc nước? Tèo nghĩ là uống vậy mới đã, mới gần thiên nhiên. Ông già thấy nó uống ngon lành, khát quá, cũng đưa tay xuống dòng nước nâu đục phù sa, vốc lên mà uống. Nước bây giờ đảm bảo dơ hơn hồi xưa, nhưng sao vẫn ngọt lành dữ vậy? Có mấy chục năm mà thói quen uống nước trời nó mất đi hồi nào không hay. Lúc Tèo ngóc đầu lên thì một ghe chở lúa đi ngang. Vài anh trai trên đó thấy thằng Tèo thì chào um sùm “Hê-lô, hê-lô!!!”. Nó vẫy tay: “Việt Nam đẹp quá!” làm tụi kia cười rộ lên. Ông Ba khó khăn:
– Má mày, gặp người già không chào, đi chào thằng Mỹ!
– Ông Ba, sao ông hay nói “Má” đầu câu vậy? Kêu má có nghĩa là gì? “Má” là “Mẹ” đúng không?
Ông Ba ngần ngừ, không lẽ nói với nó là mình bị liệu tật chửi thề? Kì chết. Rồi ông cười tinh quái:
– Cách nói thân thiện của người miền Tây thôi mày.
Thằng Tèo tin liền. Ông Ba bây giờ là “thổ địa” của nó mà. Nó lầm bầm “Má mày, má mày…”. Ông Ba nhịn cười tới ứa nước mắt, cái thằng ngu dễ sợ. Hai thầy trò lội bộ quá trưa thì tới chợ Ba Thê, bụng bắt đầu sôi ục ục. Vậy là tìm chỗ ăn cơm.
Chợ Ba Thê hiện ra trong mắt thằng Tèo là một mái chợ quê nho nhỏ, lụp xụp những căn sạp lợp tôn giống hệt nhau. Những thịt cá, rau củ quay quắt vì nhiệt độ xứ nhiệt đới. Mùi tanh của thuỷ sản hoà vô nước thải bốc lên. Những cái nón lá nhấp nhô, những nụ cười tươi rói hiện ra trên gương mặt hoặc rám nắng, hoặc trùm kín mít. Nó cời cời vào giữa chợ, xung quanh đôi ba người vẫy tay. Người Việt khoái nói “hê-lô” với ngoại quốc, trong khi nó thì thích nói “xin chào” với người Việt. Ngó vòng quanh một hồi thằng Tèo tự nhiên thấy thân thuộc, những người đàn bà này có nét hệt như mẹ mình. Nó vác cây đờn guitar xin ngồi kế một cô bán trái cây. Bà cô liền đưa ghế cho nó, vô cùng tử tế. Rồi nó móc đờn tưng tưng điêu luyện. Ông Ba lại thắc mắc sao mày ngồi giữa chợ đờn chi vậy? Thằng Tèo trả lời đàn để bà con cho tiền mua cơm ăn. Con “cháy túi” rồi!
Ông Ba có tiền mà, nhưng để chống mắt coi trò này có xin tiền được thiệt không? Dễ gì mà… Vừa nghĩ tới đó thôi là tự nhiên bên đường có bà bán chuối nướng chỉ trỏ thằng Tèo ra vẻ khoái chí lắm, lội qua bỏ vô cái nón dưới đất của nó mười ngàn. Ông Ba bất ngờ hết sức. Tại sao hồi đó mình cầm cây đờn kìm đi bán vé số, nhiều bữa đàn thấy mẹ, ca khan hết cổ mà không ai giúp hội? Nó mới đờn có năm phút thôi mà lạ vậy? Thằng Tèo bắt tay bà già. Bà cười hi hí híp cả mắt.
– Bà tên gì?
– Tui… tên Bảy.
– Máaaa Bảy!
Bà già chuyển từ hí hí sang há há. Chèn ơi, nó biết kêu má Bảy luôn kìa? Nói tiếng Việt giỏi quá trời! Bà Bảy liền chạy lịch kịch mang qua cho nó thêm hai trái chuối nướng. Nó nháy mắt với bà: “Máaa Bảy, cảm ơn!”.
Nửa chợ Ba Thê xúm lại coi thằng Tèo đàn. Tiền trong nón nó càng lúc càng nhiều. Nó hỏi có ai hát boléro được không? Một anh xe ôm đưa tay xung phong hát bài “Qua cơn mê” bằng chất giọng nhừa nhựa nghe não nghe nề.
“Rồi đây sau cơn mê
Sông cạn lại thành dòng
Xuôi về ngọt quê hương…”
Nó đàn ngọt sớt, còn lẩm bẩm hát theo nữa chớ. Nó nói mẹ con dạy chỉ cần biết đàn boléro, về miền Tây ở đâu cũng có người hát được. Cả chợ nghỉ bán, nhốn nháo hết trơn. Họ hỏi thăm coi hai ông cháu đi đâu? Xong rồi nghe nói đi bộ lên chùa trên núi Dài, ai cũng ồ lên. Thằng Mỹ biết hành hương kìa! Họ dúi vô tay hai ông cháu nào là cam, nào là mận. Họ gởi bịch nước mía, cái bánh tét. Hai ông cháu ngập trong quà bánh, ông Ba thắc mắc nếu mình đi một mình thì có quà không ta? Chắc là không. Mặt ông Ba trở nên quạu đeo, nó có cái gì mà xúm lại dữ? Nó cũng là con người như mình thôi mà. Ông cũng đi hành hương, sao không thấy ai khen?
Rồi thằng Tèo cất cây đàn vô giữa chừng, chào tạm biệt bà con, đi tiếp. Ông Ba nghĩ nó đàn tới chiều chắc kiếm ít gì cũng năm trăm ngàn, sao lại ngưng? Nó trả lời: “Đủ ăn cơm rồi, nghỉ thôi ông!”. Thằng lạ bây? Chê tiền? Thằng Tèo cười thân thiện:
– Má ông Ba, ông dạy con chữ “Má” hay quá!
3. Hai người quyết định ăn bún cá. Món đặc sản xứ này, Tèo nhất quyết phải ăn cho biết. Tô bún với cái đầu cá lóc vàng ươm màu nghệ được bưng ra. Thằng nhỏ hỏi ông già líu ríu rau này là rau gì, cái này là thân cây chuối thiệt hả? Ông già vừa ăn vừa lèm bèm là mày lo ăn đi, hỏi hoài hỏi quỷ! Thế nhưng ông vẫn trả lời. Nhìn xa xa cũng giống ông cha với đứa con ngu ngơ lắm!
Hai người rong ruổi tiến về chợ Óc Eo, cứ mệt thì nghỉ, khoẻ thì đi. Bóng cây, bờ kinh, nơi nào nằm được là cứ nằm ra đó. Tính ra là vô cùng thanh cảnh, tự do. Gió đưa hương lúa chín về ngang, lại có đàn cò trắng chấp chới bay xa xa. Có gốc me dốt, thằng Tèo nhón người hái mấy trái nhai nhóp nhép rồi nhăn mặt chua quá! Ông Ba trề môi có gì lạ đâu mà mày hái chi vậy? Liếng khỉ dễ sợ! Khi qua mấy khu dân cư, ai cũng nhìn thằng Tèo thích thú, còn ông già không ai thèm ngó hết trơn. Vì thế mà ông già càng bực mình, càng đi nhanh.
Ông già dẻo dai, đi miết. Còn Tèo nó đi mấy ngày nay rồi, bắp chân đã căng cứng. Lòng bàn chân nó cà vào đế đôi dép tổ ong phồng lên đau nhói. Ông Ba hỏi giày mày đâu? Nó nói sứt mỏ rồi nên mua dép đi cho khoẻ. Ông kêu để tao chỉ cho mày một tuyệt chiêu. Ông vô tiệm tạp hoá mua một gói vuông vuông, màu sắc sặc sỡ. Tèo hỏi cái gì đây ông?
– Băng vệ sinh phụ nữ! Bộ đội toàn lót cái này dưới đế giày hành quân.
Thời ông Ba còn tại ngũ thì chưa có món này, nhưng về sau thời bình ông biết tụi lính trẻ chơi trò tiểu xảo này dữ lắm! Ông xé lớp keo, dán dính vô lòng đôi dép mủ, lại dán luôn cho thằng Tèo. Tèo mang vô thấy êm hẳn, chờn ơi, ngon lành hơn mang giày chạy bộ mắc tiền nữa ông? Hay quá! Ông thúc thằng Mỹ đi tiếp, đi tới xế chiều, sụp tối, bìm bịp kêu văng vẳng ông mới chịu dừng. Hai thầy trò ngồi bóp chân trong quán cà phê, chân thằng Tèo bị bể chỗ phồng ra, tứa máu dính lem nhem vô miếng băng. Nó gỡ ra khỏi dép để dưới đất. Bà chủ quán đi ngang nhìn thấy liền la oai oái, nói ai chơi kì vậy? Thằng nhỏ ngơ ngác, sao bà giận dữ? Ai làm gì đâu? Ông Ba mặc kệ, hỏi phải đây là chợ Óc Eo không? Bà chủ quán đang quạu vụ miếng băng, chỉ tay vô tấm bảng chỉ đường khu di tích Óc Eo kế bên, không thèm đáp.
Tèo nhớ tới khu di tích Óc Eo, nơi xưa lơ xưa lắc là vùng đất của người Phù Nam, chủ nhân đầu tiên của đất Thất Sơn. Nó đòi đi xem, ông già nói ngược đường. Năn nỉ ỉ ôi, ông Ba mới nhăn mặt, gật đầu, rẽ ngang qua khu phế tích xưa cũ. Gần mười cây số chớ đâu có ít? Ông Ba không ngờ là xa quá, đi tới tối mịt mới thấy cái cổng chào.
Vương Quốc Phù Nam, hơn một ngàn rưỡi năm trước tồn tại ở đây, khi mà đất đai đa phần còn là đầm lầy rừng rậm. Cả một nền văn minh biến mất, chỉ còn lại tàn tích. Khu di tích tối thui lọt thỏm giữa đồng trống, bóng mấy đọt cây xa xa đen sì phất phơ. Bây giờ chừng tám giờ, chung quanh vắng te, ánh sáng leo lét từ ông trăng trên đầu soi lờ mờ dáng một già một trẻ.
– Đóng cửa rồi, thôi đi ra!
Ông Ba trợn mắt nhìn thằng Mỹ bắt trớn phóng lên chụp vào thành rồi đu lên trên. Tèo thì thào: đưa dùm con hành lý đi! Ông Ba vừa nhón lên đưa vừa ngần ngừ… Mày khùng hả? Lỡ công an bắt tội ăn trộm rồi sao? Xong ông quay đầu nhìn, vắng hoe, làm gì có ai mà bắt? Tèo chìa tay chờ nhưng ông già cứ đứng im re. Tèo lại nói:
– Ông sợ thì ra chợ ngủ đi! Tối con cắm trại trong này.
Xong nó nhảy hẳn vô trong cái bịch, rồi im re luôn. Ông Ba nghe gió hú u u, mấy đọt cây xa xa nhảy nhót như có ai lướt ngang. Khu này hơn ngàn rưỡi tuổi rồi, toát ra thứ không khí lành lạnh dờn dợn. Ông nhìn lối ra, thấy mịt mùng không bờ bến. Tự nhiên mồ hôi lạnh ông rịn rịn, da gà da vịt nổi cục. Ông đứng trân không dám nhúc nhích.
– Tèo ơi… tao… vô với! – ông già nói như sắp khóc. Ông Ba nghe rõ ràng tiếng thằng quỷ nhỏ cười hí hí bên kia bờ tường.
Hai ông cháu đi xuyên qua khuôn viên cây cảnh, thưở xưa, sâu dưới đây từng là miếu mạo, lăng tẩm, đền đài. Những công trình kiến trúc vang vọng một thời xa vắng. Màn đêm bao trùm (dĩ nhiên, tại đâu có dám mở đèn soi), ông Ba ngó thấy vài căn nhà trưng bày, một khu di chỉ khảo cổ che mái tôn rất lớn. Thằng Tèo nhất quyết tới đó coi mặc cho ông già mếu máo. Ông sợ cái gì cổ cổ, xưa xưa, làm như có vong trong đó. Ông già ngó mấy cái hố đào lem nhem, vài cục đá, bức tượng kỳ quặc, dăm ba mống nhà bằng gạch. Ủa, gì đâu mà di chỉ? Thằng Tèo nói cái này hình như là lăng mộ nè. Cái kia hình như tượng thờ. Cả ngàn mấy năm trước mà làm được gạch rồi, ghê thiệt! Ông già chửi eo éo trong bụng nửa đêm đi coi nhà mồ rồi trầm trồ vậy thằng quỷ? Nó nói đọc trong sách, khu này vua chúa ở đó nghe. Thì ra nó có nghiên cứu sẵn hết trọi. Nó biết còn nhiều hơn ông Ba thổ địa nữa. Mắt nó nhìn vô vật nào cũng trở nên long lanh, hiếu kì, vô cùng mê mẩn. Coi đã, nó đi vòng quanh vườn cây. Bảo vệ hình như ngủ mất đất. Hông ấy ai ra bắt nó lại đi, chớ để nó đi rong vầy sao?
Cuối cùng, mệt, thằng Tèo cũng chịu dừng chân. Nó đòi căng lều ngủ ngay gốc cây cho… mát. Ông Ba cảm thấy như ngồi trong tủ lạnh, mát cái nỗi gì? Nó mặc kệ, cứ vừa vén lều chui vô vừa tủm tỉm. Y như rằng, ông già chui vô theo. Mắt ông còn liếc ngang thấy bên gốc cây nọ có cái miếu nhỏ nhỏ, không biết thờ ai. Thần nào cũng được, miệng ông Ba “Mô Phật” liên tục.
Cả đêm ông trằn trọc, nghe rõ ràng có tiếng ai thì thào. Sợ rúm quéo một hồi mới hay là tiếng ngáy thằng Tèo. Ông tính thụi nó một cái cho bỏ tức, nhưng sợ nó la lớn bảo vệ tới. Cuối cùng gần sáng ông mới thiếp đi. Lúc mặt trời lên tỏ, ông bò ra đã thấy thằng Tèo đi lò dò qua khu nhà trưng bày. Ông thấy nó đang nói chuyện với chú bảo vệ. Không ngờ một hồi thằng nhỏ chạy lon ton qua khoe mới xin được ca nước sôi, để con pha cà phê “hai đứa mình” uống nha. Chèn ơi, sao chú bảo vệ không bắt nó cái tội leo rào đi chú?
Hai người trở ra lộ trình cũ thì mặt trời đã lên cao. Vừa đi ông Ba vừa chửi rủa thằng Tèo làm chuyện ruồi bu. Nó cười hề hề “Vui mà ông!”. Chuyến hành trình tiếp tục. Hai thầy trò vừa đi vừa nói, mà chủ yếu là một người hỏi đủ thứ, một người nhăn nhó trả lời. Tèo đụng cái gì cũng thắc mắc, từ nết ăn nết ở, cây cầu, con chó… cái gì nó cũng chỉ trỏ hết trơn. Ông Ba cảm thấy vô cùng bực mình, ba cái thứ quỷ này ở đâu mà không có? Cái đất này nghèo thấy bà, làm sao sánh được với xứ của nó mà nó bày đặt tìm hiểu? Con gái xứ này chân lấm tay bùn, đen nhẻm không son phấn, mắc gì nó khen đẹp? Cây cầu khỉ ọp ẹp, trời mưa đi té nhào đầu, mắc gì nó khen hay? Tôm tép, cá đồng ba mớ, nhìn chèo queo làm sao ngon bằng tôm hùm, cá biển mà nó chặc lưỡi? Nó đang móc mỉa xứ này hay là nó khen thiệt?
Lại kể chuyện đi suốt một ngày đường nữa, rong chơi qua những nẻo đường vừa quen vừa lạ. Trong đầu thằng Tèo, những miền ký ức xa xăm nào đó của mẹ nó hiện ra qua đôi mắt màu nâu sẫm. Còn ông Ba, cảnh vật miên man vẽ lên khung vải cũ bằng những mảng màu mới. Đi qua xóm làng, đồng lúa, núi đồi. Kìa lờ mờ trong cái nắng bạt ngàn là núi Tô, núi Ba Thê? Kia xa xa có phải núi Cấm không? Đó có phải là cái cầu cá tra còn sót lại? Cái vó cá chỗ này đâu mất rồi? Khi họ đi thời gian trôi tới hay lội ngược về? Không biết, nhưng chiều hôm đó, họ ở chân núi Dài.
Núi Dài – Ngoạ Long Sơn. Con rồng cuộn mình nằm ngủ, ôm quanh rừng tầm vông xanh thẳm. Thằng Tèo chọn một vòm la đà. Nó dựng lều xong thì ông Ba xách về chai rượu đế.
– Nhậu!
Nước mắt quê hương, ngọt lành hay nóng hực cũng tuỳ vào tâm thế của người uống. Ông Ba lấy ngót bằng ba ly liên tiếp. Thằng Tèo chép miệng, chà, cũng ngon dữ à nhen! Ông già cười, chứ sao nữa! Hai người xổ ra thứ âm thanh hoan hỷ khề khà. Xong một trong hai người cười mà làm như khóc. Rồi uống tới cạn chai, cũng một trong hai người, khóc mà như cười. Đêm ôm lấy rừng tầm vông.
Trời trở gió. Thằng Tèo ôm đàn gảy. Nó hát vang trong tiếng guitar thùng bằng thứ tiếng Việt lơ lớ: “Bằng lòng đi em về với quê anh, một cù lao xanh một dòng sông xanh…”. Ông Ba ngồi bó gối, nhìn một chiếc lá tầm vông phai úa trên đầu.
Có tiếng xe máy trờ tới, ba thằng ất ơ nhảy xổ ra. Lời bài hát đẹp như tranh cắt ngang bằng ba chữ, cũng là tiếng Việt với nhau, nhưng nó khác một trời một vực:
– Có tiền không?
Ông Ba lắc đầu. Một trong ba thằng du đãng đưa tay xô ông già rồi nhào qua cái balo thằng Tèo lục soát. Thằng du đãng vừa mở được dây kéo thì nghe cái “tưng”, cây đàn trên tay Tèo đập thẳng vào đầu nó như trời giáng. Miệng thằng Tèo văng tục: “Má tụi mày!”. Đám giang hồ hoảng hồn, liền nhào vào thằng Mỹ. Cơ bắp Tèo có ở không đâu chớ? Nó đấm vào giữa mũi con chấu chấu đang tính đá xe. Thằng còn sót lại kinh sợ, biết sợ rồi sao? Đoạn sau không tả nữa, cuộc chiến còn có một bên ra đòn mà thôi. Ông Ba lồm cồm ngồi dậy ngó chiếc xe đang cán qua cán lại ba con châu chấu.
Sau đó, năm người được đem hết lên đồn công an. Anh cán bộ trẻ ngồi ngó ba thằng cướp mặt mày sưng vù, lỗ mũi ăn trầu, một trong ba đã gọi điện cầu cứu. Trong khi đó, hai nạn nhân khoẻ mạnh ngồi cạnh bên uống trà, nói chuyện. Lời khai của Tèo rõ ràng ngay thẳng, nhưng nó nói sõi chứ không biết viết tiếng mẹ đẻ. Với ông Ba, anh cũng phải viết từ đầu chí cuối vì ông già không biết chữ luôn. Tới khi điểm chỉ, Tèo ngó thấy ông lúng túng, cuối cùng chấm bằng ngón trỏ tay trái. Ngón trỏ tay mặt đã cụt hai đốt, không có vân tay. Nó đã thắc mắc hổm giờ mà không dám hỏi. Cán bộ nói hai ông cháu cứ về, lần này coi như bỏ qua, ba thằng xin đểu vốn từ trước đã có tiền án. Đi du lịch phải cẩn thận không được bạ đâu ngủ đó. Tèo nhai đi nhai lại: ủa sao không tạm giam, em đánh người mạnh lắm đó! Phải tạm giam chớ anh? Anh công an ngần ngừ một hồi chưa hiểu tại sao nó xin ở tù?  Nó nói luôn:
– Rừng lạnh quá, cho ông cháu em ngủ nhờ được hông?
Cuối cùng, lần đầu tiên trong đời, ông Ba ngủ trong đồn công an. Nhưng sướng là có giường chiếu, gối mền hẳn hòi. Thôi cũng được. Ông Ba sực nhớ một chuyện, hỏi:
– Lúc nãy làm như tao nghe bây chửi “má tụi mày”. Sao hôm qua mày nói không hiểu chữ “má”?
Thằng Tèo tủm tỉm khoái trá. Ông già lắc đầu, thằng quỷ nhỏ!
Khuya, không hiểu sao cả hai thầy trò không ai ngủ được. Cả hai cùng nằm dàu dàu, ngó ra ô cửa, trăng treo vàng vọt trên đỉnh núi Dài. Đích đến cuối cùng đã cận kề.
4. Trời hửng sáng. Rượu đã bay hơi đâu hết, Tèo và ông Ba tìm đường lên núi. Chùa Long Ấn đâu đó giữa lưng chừng sườn đèo. Con đường mòn len lỏi, như con rắn uốn quanh thân con rồng lớn. Trên đường đi, Tèo không nói, ông già cũng nín thinh. Tâm trạng của hai kẻ hành hương dường như còn đang lạc ở đâu đó dưới rừng tầm vông. Nắng sớm chấp chới. Trời mở ra một khoảng rộng ngó xuống trăm ô ruộng xanh nõn. Mái ngói cong vút rêu phong của chùa che nghiêng vòm mây. Chùa Long Ấn tĩnh tại trước mắt.
Tèo mừng ra mặt như muốn khóc. Đi ngắm cảnh thôi mà, sao lại xúc động? Nó tính đi thẳng vào trong nhưng ngó qua ông già thì còn đang đứng trân, run run như cây khô trước sân Phật. Ông Ba, phai nhạt bộ râu dài, mặt xanh lét, mồ hôi chảy vài giọt ở thái dương. Chín ngón tay rưỡi bấu cứng vào vạt quần bà ba nhàu nhĩ. Mắt ông nhắm nghiền như cách con nít nằm sấp chờ ba vung roi mây vào đít. Thằng Mỹ nhìn ông, ngạc nhiên, chờ lời giải thích. Tiếng trả lời bật ra mềm nhũn, đúng ra đó là một câu hỏi:
– Tại sao tao mất một ngón tay bây biết không?
Thằng nhỏ người Mỹ đứng giữa sân ngó ông già Nam Bộ ngơ ngác. Sau lưng nó là mẹ Quan Âm. Rồi ông già kể, cho nó và cho Phật nghe. Chỗ này, ngay chính chỗ này, thời đó, có một trận càn lớn lắm. Lính Mỹ quyết lùa cho hết quân kháng chiến. Bảy thằng lính trẻ chống trả tới cùng, bị dồn hết vô chùa. Sáu thằng ngã xuống. Mười bảy, mười tám, thằng lớn nhất cũng chỉ hai mươi bảy. Có thằng lính may mắn trốn được sau lưng Mẹ Quan Âm, nhìn máu me văng tung toé. Kẹo chì nó đi qua da thịt đâu phải chỉ để lại cái lỗ sâu hoắm? Anh Tài vừa khoác vai nó hồi sáng, bây giờ anh nằm ở đây nè, đầu mất một mảng. Thằng Long mới vừa khoe hình người yêu hôm qua, nói hoà bình sẽ cưới, bây giờ cánh tay nó nằm ở kia… Sáu người anh em thương nhau như ruột thịt. Sáu người lận đó! Thằng lính không biết băng đạn nó còn mấy viên. Nó nhào ra xả cho hết, không bắn thì chết. Bắn vì bản năng sinh tồn. Toàn bộ tám người lính Mỹ hồn lìa khỏi xác giữa sân chùa. Thằng lính duy nhất còn sống, quỳ trân ngay chỗ này nè, giữa mười bốn thi thể con người tan nát, nham nhở. Tổng cộng mười lăm người lìa đời trước mắt Phật.
Ông Ba kể tới đó, nước mắt ầng ậc, gương mặt nhăn nhúm, cái hàm giật giật. Ông kể mà đoạn cuối tan nát nhạt nhoà. Trong trí ông chỉ còn những cái chớp đỏ tươi, những đôi mắt trợn trừng, những mảnh da thịt rách toạc. Đoạn cuối, cơn ác mộng xé tan tâm hồn thằng lính một đoạn dài cuộc đời. Kẹo chì nó đi tới đâu là đời hoá ra sỏi đá tới đó. Chắc thằng lính không có sức chống lại kẹo chì. Nó chết theo mười bốn người kia, Việt có, Mỹ cũng có. Chết queo rồi. Ngón tay siết cò đã biến mất. Nó giải ngũ, thành anh hùng. Hay thành thằng đào ngũ hèn nhát?
Ông Ba khóc, tiếng hức hức lèn vào giữa những cái chớp mắt của Tèo. Mặt Tèo chuyển từ cơn ngỡ ngàng thành cảm thông rất chân thành. Ông già đang thú tội trước mặt một thằng Mỹ con? Lạ hươ lạ hoắc, không cùng dòng máu? Khác xa thế hệ, ở một nền văn minh không có lúa nước? Hay ông thú tội với Mẹ Quan Âm? Ông đi bộ mấy ngày đường, leo tới tận đây để thú tội hay sao? Trong giây phút đó, Tèo đã hiểu tại sao tự nhiên ông già đòi đi bộ theo mình tới Núi Dài. Ông đi tìm lại chỗ ông đã chết. Đi bằng hai chân.
Vậy rồi, Tèo mở balo, thứ mà hôm qua nó bảo vệ tới mức đánh luôn tụi du côn vì dám đụng vào. Nó moi ra một cái bao lớn niêm phong cẩn mật. Nó xé nilon qua ba lớp. Nó bứt tung lớp giấy dầu. Nó lại moi hết túi khí đệm hơi. Cuối cùng, Tèo đem từ sau lớp vải nhung ra một chiếc hũ men trắng. Ông Ba nhìn thằng nhỏ, rồi nhìn qua cái hũ.
– Mẹ con nè ông Ba.
Ông Ba há hốc miệng nhìn sợi dây liên kết Tèo với vùng đất này: một bà mẹ Việt Nam. Tèo, bằng cái giọng Việt phát âm qua mũi, nhưng nó vừa biết nhấn nhá như người bản xứ, chữ “mẹ” rõ ràng dấu nặng, không phải “mé”, không phải “me”.
– Mẹ trước khi chết, nói muốn về ngắm nhìn quê hương.
– Quê bây ở đâu?
Tèo chưa biết trả lời ông già ra sao. Nước Mỹ, hay Việt Nam? Đầu nó thoáng qua hình ảnh người mẹ tóc đen nhỏ xíu lọt thỏm giữa rừng tóc vàng da trắng. Người mẹ khi đặt chân sang xứ khác, lạ lẫm và cô đơn như cánh cò bị vây kín bởi cao ốc, công trình, nhà máy. Người mẹ tới lúc lìa đời chỉ biết mỗi “hello” là “xin chào”, “thank you” là “cảm ơn”. Người hứng chịu những kỳ thì sắc tộc, những ganh ghét màu da. Người mẹ ôm Tèo trong tay, nghe trăm ngàn lời sẻ chia, ca ngợi chồng bà bằng thứ ngôn ngữ bà chưa từng thấu hiểu. Buổi lễ truy phong anh hùng chiến tranh cho ba nó, chỉ có bà quạnh quẽ như cái cù lao lạc giữa ngã ba vàm. Nó là thứ duy nhất bà ôm trong tay, giữ chặt.
Người ba nó chưa từng gặp mặt là một anh hùng. Ông ngã xuống trong một trận giao tranh máu lửa ngay tại xứ sở này. Hay nói chính xác hơn là ở núi Dài, trước ngôi chùa này, ở đúng cái sân này. Chùa Phật Ấn. Nghe đâu bên kia chiến tuyến là một thằng lính trẻ, một tay diệt hết cả toán lính Mỹ. Trái đất tròn vo, thằng lính trẻ đó bây giờ đang khóc nấc trước mặt nó đây. Vậy là thắng hay thua cũng đều là anh hùng. Anh hùng với những lý tưởng khác nhau. Anh hùng là chiến thắng hay chiến bại?
Tèo không biết. Chiến tranh khó hiểu thiệt! Nó chỉ biết ý niệm của đời người là được về lại quê hương. Như mẹ nó vầy nè. Tèo đưa bàn tay to bè thừa hưởng từ gien người da trắng, nắm lấy bàn tay nhăn nheo da vàng còn bốn ngón của ông Ba. Nắm chặt lắm, nắm như truyền hết ấm áp trong người nó sang đó. Có những sự thật mình phải làm lơ mà sống.
– Không có mấy người như ông thì quê mình đâu còn đẹp vậy? Đi bộ mấy ngày nay, ông không thấy quê đẹp lắm sao? Nếu ông không làm, thì ai làm?
Ông Ba ngó đầu ngước lên nhìn thằng cháu khác dòng máu cao lớn. Mẹ Quan Âm cúi đầu nhìn xuống hai người. Hai kẻ lạc loài, à mà không, đâu có lạc loài? Quê hương họ ở ngay đây mà? Những điều ông gặp trên suốt đường đi, với cái nhìn của ông là đói nghèo, lạc hậu, là bình thường, thì trong mắt đứa con lai xa quê như thằng Tèo là bình dị, dân dã, là cái hồn của xứ sở. Mình đã hy sinh cuộc đời để bảo vệ quê hương đó sao?
Họ đi ra triền núi, phóng mắt xuống biển lúa mênh mông. Những con kinh xanh thẳm màu nước biên biếc. Những cụm mây thong thả về ngang triền đèo. Tâm sự trong lòng mỗi người có bay đi theo mây hay không, chắc chỉ có người đó biết. Có thể liền bây giờ, hoặc là ngày mai, ngày mốt, hoặc là trăm ngàn ngày nữa. Ông Ba bỗng nghe lòng mình được an ủi. Thằng Mỹ gỡ cái nút thắt trong lòng mình rồi sao? Tèo mở cái hũ ra, nắm bột trắng trong tay thả cho bay theo gió. Ông già hoảng hồn: “Mày làm gì vậy Tèo?”.
– Cho mẹ con đi chơi!
Ông Ba tần ngần nhìn cái thằng lập dị. Xong rồi ông cũng nắm vào tay từng nắm, tiễn bà mẹ nhỏ bé của nó một đoạn rất xa. Bà sẽ đi từ đây, từ núi Dài. Bà sẽ đi ngang qua Bảy Núi, đi xuyên An Giang. Bà sẽ về dọc Cần Thơ, Vĩnh Long. Bà thăm Sài Gòn, Đồng Nai. Bà bay cùng nắng gió miền Trung, qua đèo Hải Vân về Huế. Bà sẽ đến tận Hà Nội, sẽ ghé thăm Hà Giang. Đất nước nối liền một dải rồi, ai mà cản ngăn bà nữa. Rồi ở một nơi nào đó, có khi hạt bụi của bà sẽ gặp lại hạt bụi của ông chồng ngoại quốc quá cố? Tèo nhìn ông Ba, toe hàm răng cười, nói cái câu nó vẫn lập lại hằng trăm lần suốt mấy ngày nay:
– Việt Nam đẹp quá!.
31/1/2025
Vương Đình Khang
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...