Thứ Hai, 26 tháng 5, 2025

Tìm lại hạnh phúc

Tìm lại hạnh phúc

Tác giả Nguyễn Ngọc Đào Uyên sinh năm 1983 ở An Giang, đã xuất bản các tập truyện ngắn: Mùa ấm (Nxb Phương Đông), Lặng lẽ bến chờ” (Nxb Văn hóa – Văn nghệ); được nhận: Giải Ba – Cuộc thi “Truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long” lần thứ IV năm 2011, Giải Nhì cuộc thi viết cảm nhận “Tây Nam Bộ – 10 năm thành tựu và phát triển” do Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ tổ chức năm 2012, Giải Ba cuộc thi Truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long lần thứ V năm 2015.
Chiếc xe dừng lại, người trong nhà ùa ra. Bà Hai đứng không vững, run rẩy trong niềm xúc động. Báo bước vội xuống xe, ôm chầm lấy bà, mếu máo:
– Thưa má con mới về. Con có tội với má nhiều lắm, má ơi!
Bà Hai ôm con, nghẹn ngào: “Con về là má mừng rồi. Má tưởng má không đợi được tới ngày này, con ơi con…”. Xóm giềng cũng không ngăn được nước mắt khi thấy cái cảnh mẹ con trùng phùng trong tự do sau mười mấy năm xa cách. Thằng Báo nhìn già đi nhiều quá. Khỏe không mậy? Ở trỏng cực khổ lắm ha con? Thôi hết mưa rồi tới nắng, hết cơn bĩ cực tới hồi thái lai, mày về là vui rồi. Ráng lo mần ăn trả hiếu cho chị Hai, mấy năm nay chỉ vất vả nhiều rồi. Quên hết chuyện cũ đi, ai mà không có lúc sai lầm…
Những câu thăm hỏi, những lời động viên tưởng kéo dài bất tận. Mười hai năm chứ có ít ỏi gì đâu. Mười hai năm nay cô bác có người mới gặp lại Báo nên nán lại thăm hỏi dù trăng mỏng như lá lúa đã nhấp nhổm ngoài sông Cái, dù trong lòng mỗi người thắc thỏm những suy nghĩ riêng. Mừng có, mà e sợ cũng có. Thằng Báo ít nói, hiền như cục đất mà đi tù vì tội giết người thì làm sao mà lường được chuyện đời. Đêm ấy xóm cồn lại một đêm xôn xao vì cái tin Báo mãn hạn trở về, cũng xôn xao y như một đêm của mười hai năm về trước khi cái tin Báo giết người như một cơn sóng dữ ụp lấy cái xóm vốn bình yên. Người ta thất kinh vì tội ác, người ta bàn tán nguyên nhân, kẻ trách móc, người cảm thông xót xa. Ngày ấy chỉ có Báo là lầm lũi lặng im chờ đợi sự trừng phạt của pháp luật vì tội lỗi mình đã gây ra.
Và bây giờ anh cũng lầm lũi lặng im đón nhận mọi thái độ của người đời đối với mình. Nhất nhật tại tù thiên thù tại ngoại. Bao nhiêu năm ở sau song sắt, tuổi trẻ trôi qua một cách nặng nề với bao tiếc nuối, ân hận. Anh đã mong đến cháy gan cháy ruột ngày được tự do để được sống đúng nghĩa, để được chăm sóc mẹ già bóng xế. Thì giờ đây bao khinh khi, kì thị có nghĩa lý gì đâu. Tiệm sửa xe Hai Báo nằm khiêm tốn ở mép đường. Người thông cảm ghé qua với suy nghĩ: “Sửa đâu cũng vậy, sửa đây ủng hộ kẻ hoàn lương”; người nghi kị: “Thôi, thà đi xa một chút, cái thằng người còn dám giết, chắc gì không “luộc” xe mình”. Những lời ấy không phải không đến tai Báo, nhưng anh vẫn điềm nhiên lặng lẽ với cuộc sống “tái hòa nhập”. Anh nói với má:
– Ai nghĩ gì, nói gì là quyền của họ, mình đâu cấm được miệng đời. Con đã từng sai lầm thì người ta dị nghị là phải rồi. Nhưng mình sống không thẹn lương tâm được rồi má ơi, hơi đâu để ý cho buồn.
An ủi má chứ đôi lúc anh cũng chạnh lòng khi nghe những lời châm chọc đầy ác ý. Nhẫn. Nhiều người khuyên anh phải biết nhẫn. Nếu ai cũng biết nhẫn một chút thì bao nhiêu thảm kịch đã không xảy ra. Giá như ngày xưa anh nhẫn một chút trước lời khiêu khích thì kẻ ấy đã không phải chết tức tửi và anh đã không phải trả giá bằng mười hai năm tù tội và nỗi ám ảnh hối hận – có lẽ sẽ đeo đẳng suốt đời. Cái giây phút kinh hoàng khi anh vung cuốc lên, người ấy té ngửa ra bờ đê, máu loang xuống cỏ vẫn chập chờn trong những giấc ngủ nặng nề, đầy ám ảnh, mộng mị. Không bản án nào khủng khiếp bằng bản án của lương tâm. Có đêm anh gặp người ấy về đòi trả mạng, máu trên đỉnh đầu vẫn rỉ xuống chưa khô. Anh nghe lời bà Hai niệm phật, tụng kinh để mong người ấy sớm siêu thoát, để hầu chuộc lại phần nào lầm lỗi. Vậy mà lòng cũng không nguôi ngoai được nỗi buồn.
Chiều nay cũng như bao chiều từ lúc trở về, nhìn mẹ già lụm cụm nhóm bếp anh thấy mắt cay cay – không phải vì đám khói ngún lên từ mớ lá khô nhóm lửa, mà có cái gì hụt hẫng khó gọi tên ngún lên từ đám tàn tro lẩn khuất trong lòng. Hồi xưa Thùy đẹp nhất xóm cồn… “Két… két…” “Rầm” “Á… á…” Mớ âm thanh hỗn độn, dồn dập dội vào nhà. Báo giật mình, bước vội ra đường. Rau củ nằm vươn vãi, chiếc xe đẩy nằm chúi đầu xuống đường, một phụ nữ ngồi bệt dưới đất, hoảng hốt. Người phụ nữ lắp bắp:
– Chạy… chạy luôn rồi! … ẩu…
Báo hiểu chuyện gì. Một chiếc xe gắn máy, chắc là tụi choai choai, vừa phóng ẩu qua đây, cọ quẹt gây ra cảnh người té, xe nghiêng này. Anh đỡ người phụ nữ dậy:
– Cô coi có bị thương ở đâu không?
Lúc này bà Hai mới lụm cụm từ trong bếp ra tới:
– Ủa, Tâm? Có sao không con?
Báo dìu cô ta vào nhà, để bà Hai xoa dầu, chắc đau nên cô đi cà nhắc. Rồi anh trở ra nhặt mớ rau củ vươn vãi chất lại lên xe. Mấy thằng ngựa non háo đá, lên xe là phóng bạt mạng, có nghĩ gì tới hậu quả đâu. Làm người ta té như vậy mà đành lòng bỏ chạy luôn!
Một lúc sau, bớt đau và lấy lại hồn vía, cô gái cảm ơn mẹ con bà rồi đẩy xe về. Nhìn theo cái bóng nhỏ, Báo thấy cô vẫn bước thấp bước cao, anh buộc miệng:
– Bộ cổ đau lắm sao mà đi cà nhắc vậy má?
Bà Hai thở dài:
– Thằng hỏi vô duyên. Con Tâm nó bị tật ở chân từ đó tới giờ. Nó đẩy xe đi bán qua đây mỗi ngày mà mày không thấy hả?
Báo thấy mình cũng hơi vô duyên. Cô ta vẫn đi ngang nhà mỗi ngày tại sao anh không biết? Phải rồi, từ lâu lắm rồi trong mắt anh đâu có người phụ nữ nào tồn tại.
– Tội nghiệp, mặt mũi sáng láng, giỏi giắng mà có tật. Một mình nó nuôi cả nhà. Nhà nó dọn về xóm trên ba, bốn năm nay. Má nói gì nghe không Báo?
Báo giật mình, ậm ờ: “Thì má nói đi, con nghe nè”
Bà Hai có ý giận: “Nói tới đàn bà con gái là mặt mày đơ ra. Chừng nào con mới bình thường được. Chuyện qua lâu rồi. Kẻ mồ xanh cỏ, đứa hai lòng cũng lấy chồng khác rồi. Quên hết đi con. Má chỉ có một mình con, con lấy vợ khác cho má được bồng cháu với người ta!”
Bà rơm rớm nước mắt. Không khí chùn xuống, ngột ngạt, nghe rõ tiếng muỗi vo ve. Anh đứng lên: “Thôi, con ra sông tắm một cái”. Anh bước vội, như chạy trốn bóng ma quá khứ đang bặm môi rượt theo. Trăng lấp loáng trên mặt sông Cái. Báo phóng xuống nước. Mặt sông vỡ tan thành muôn vòng sóng. Nước ôm lấy anh, vỗ về mơn trớn, mềm, mát như tay của Thùy. Ngày xưa, anh và Thùy thường ra tắm sông cùng nhau trong những đêm trăng sáng như thế này. Đáng lẽ phải quên đi mà sao lòng cứ nhớ. Mắt Thùy lóng lánh như mặt nước đêm trăng, đôi mắt mà má anh nói là mắt kẻ đa tình. Anh không tin lời mẹ nói, anh chỉ tin vào tình yêu và lời Thùy hứa “Vợ chồng mình sẽ sống suốt đời bên nhau. Em sẽ sinh cho anh một bầy con”. Giờ Thùy đã có một bầy con, bên kia sông, trong một ngôi nhà khác. Đôi mắt long lanh ấy đúng ra anh phải rất hận. Ừ, thì hận. Nhưng sao vẫn không thể quên. Nhất nhật phu thê…huống chi anh với Thùy đầu ấp tay gối suốt hai năm.
Đêm hôm ấy xóm trên có người khó ngủ. Cô bán hàng phần ê ẩm vì bị té, phần bận lòng hình ảnh của người dìu mình vào nhà. Từ lúc dọn về cù lao này ở, Tâm đã nghe kể về vụ án ly kì, chấn động bậc nhất xứ: vợ ngoại tình, chồng giết chết nhân tình của vợ, vùi xác xuống bờ đê. Lúc nghe kể chị thấy người chồng ấy vừa đáng thương, vừa đáng sợ. Bị ngoại tình ai mà không tức giận. Nhưng bao nhiêu cách, tại sao lại chọn cách giết người trả hận? Thắc mắc, suy nghĩ chút rồi thôi vì chuyện đó đâu liên quan gì đến mình.
Đẩy xe đi bán dạo, mỗi ngày chị đều đi qua nhà của kẻ giết người ấy. Bà Hai hay mua rau, củ, cá thịt từ xe hàng của chị. Thấy bà già yếu một mình nên chị hay cho thêm hoặc bán rẻ, riết thành mối quen. Chị hay ghé gốc xoài trước nhà bà ngồi nghỉ chân, chuyện vãn. Lúc đó Báo còn ở tù. Từ hồi Báo ra tù, chị vẫn ngang đó mỗi ngày nhưng không dám dừng lại dưới gốc xoài nghỉ mệt. Chị hơi sợ. Dù gì đó cũng là kẻ từng giết người. Vậy mà chiều nay anh ta giúp chị, chị còn để người ấy dìu vào nhà. Chắc vì hồn vía lúc ấy đi mất nên chị quên nỗi sợ. Trong lòng Tâm có một cảm giác mơ hồ, khó hiểu. Còn hai cái thằng quỷ nhỏ chạy đâu mà phóng xe bạt mạng, thứ đó không thứ bất lương cũng phường bất hảo…
Sáng hôm sau, cả cù lao xôn xao chuyện nhà hai Bá giàu nhất xứ bị trộm viếng. Mùa này gần tết, bọn ác nó hoành hành dữ lắm. Nhưng mà bên kia sông kìa, chứ cù lao bằng nắm tay này xưa nay có trộm cắp gì đâu. Hay là… Người ta bỏ lửng câu nói. Cũng có người huỵt tẹt: coi chừng là đồng bọn trong tù, rủ nhau về làm ăn, là nó cũng hổng chừng. Báo biết những lời bàn tán, nghe những câu kết tội. Anh lặng im chịu đựng. Tâm cũng nghe những lời ấy. Đi qua nhà, gặp anh ngồi trầm ngâm chị thấy tội tội. Không có lý do rõ ràng, nhưng chị tin chuyện trộm cắp kia không liên quan gì đến anh.
Con đừơng của kẻ hoàn lương sao cứ gập ghềnh. Chị muốn nói một lời động viên, muốn làm một cái gì đó để giúp nhưng không biết nói gì, làm gì. Thành ra xe rau của chị cứ trùng trình, dùng dằng thật lâu dưới gốc xoài nhà bà Hai. Dần dần chị lại có thói quen nghỉ chân, chuyện vãn với bà Hai sau khi đã đẩy xe đi bán một vòng cù lao. Bữa chị gặp Báo lợp dùm nóc nhà ông bảy, bữa chị thấy anh hì hục trèo hái dừa cho dì ba, hôm khác lại thấy anh gánh giúp thím tư đôi nước… Tự lúc nào chị thấy anh cũng hiền hiền, dễ gần. Mà nhất là sau cái lần anh phóng xuống nước cứu con bé con chị năm bị té sông chị đã có cái nhìn rất khác.
Một bữa, bà Hai buộc miệng:
– Sao bây không lấy chồng?
Chị đỏ mặt, cười khẽ: “Thân con tật nguyền, lại nặng gánh gia đình, ai mà dám cưới con dì ơi”. Dù Tâm cười nhưng bà Hai nghe trong câu nói vẫn có cái gì nghèn nghẹn. Còn bà khi làm như vô tình hỏi vậy trong lòng thật ra đã có một suy tính.
Chiều muộn, bà dọn cơm rồi gọi: “Ăn cơm Báo ơi. Má có chuyện muốn tính với con. Chừng nào mày quên con nhỏ phụ bạc, tàn nhẫn đó để cưới dâu khác cho má đây?”. Báo lại ậm ừ, bà quạu:
– Con Tâm xe đẩy, cái chân nó có tật mà tấm lòng nó lành lặng. Một mình nó làm nuôi mẹ già, nuôi một đứa em bị khùng. Còn con vợ cũ của mày, trắng da dài tóc, mặt đẹp như trăng mà lòng nó tối như đêm, có chồng mà còn …
– Thôi, má – Báo cắt lời – chuyện đau lòng má đừng nhắc chi nữa. Con hiểu ý má rồi, người ta như vậy, con má ra tù vào tội, có xứng không mà má nghĩ xa xôi? Má ăn cơm trước nghen, con đi tắm một chút, trời nóng quá.
Anh đi như chạy ra bờ sông. Gió bấc tràn về tự bao giờ, ràn rạt xao xác mấy chòm cây, vậy mà vẫn không làm nguôi được nỗi bức bối trong lòng. Anh nhảy ào xuống. Dòng nước ôm lấy anh, vỗ về, mơn trớn. Bàn tay Thùy cũng dịu dàng mơn trớn như thế này. Và không phải mình Báo được Thùy mơn trớn, dù trăm ngàn lần anh đã nghĩ, đã mong, đã tin mình là người duy nhất. Niềm tin ấy sụp đổ như đất trên bờ sông Cái ụp nhào xuống mặt sông vào một tối. Đêm ấy ngoài chòi rẫy anh về bất ngờ. Cũng bất ngờ khi anh nhìn thấy Thùy và một người đàn ông – chua xót, họ cũng đang tắm sông cùng nhau. Trăng non lả lướt trên mặt sông hôm ấy không trắng bạc mà đỏ ngầu giận dữ, nước sông không êm trôi mà đục ngầu thất vọng. Người đàn ông ấy là chủ cửa hàng vật tư mà hai vợ chồng anh thường đến mua, mua mặc và mua chịu. Thùy ơi, mua chịu tiền thì mình trả được, em “chịu” người ta như vầy rồi tình nghĩa vợ chồng ai trả cho ai? Báo gần như gầm lên báo hiệu cho đôi tình nhân đang quấn nhau như đôi rắn dưới mặt sông biết sự có mặt của mình. Kẻ ấy bơi theo dòng, bỏ chạy. Thùy sau mấy phút hốt hoảng đã nhìn anh lạnh lùng, thách thức:
– Anh biết rồi cũng tốt. Tui muốn ly dị!
Hèn chi mà gần đây anh thấy Thùy ngày càng chăm chút bên ngoài, hèn chi Thùy hay kiếm chuyện giận hờn vô cớ. Khi nghe anh hỏi mấy bộ đồ mới, mấy món nữ trang lạ Thùy vùng vằng: “Tiền tui dành dụm, tiền tui bán bắp. Anh không thích vợ mình đẹp hay sao?”. Hèn chi gần đây Thùy không chịu lên chòi rẫy ngủ cùng anh. Lúc ấy anh mới nhớ ra đôi mắt hao háo của hắn nhìn Thùy mỗi lần vợ chồng anh ghé mua phân, thuốc; anh chợt nhớ ra lúc ấy mắt Thùy cũng lóng lánh như trăng tràn mặt sông. Anh thấm thía lời mẹ nói đôi mắt Thùy là đôi mắt của kẻ đa tình. Đêm đó, gã đàn ông bơi xuôi dòng, lủi vào rẫy bắp mất. Còn Thùy về nhà guộn đồ định bỏ đi. Anh ngăn lại. Cuộc cãi vã làm bà Hai giật mình tỉnh giấc, người già thường ngủ lúc đầu hôm rồi dậy lúc nửa đêm. Cái nếp sinh hoạt người già làm bà Hai không biết bao đêm rồi con dâu mình hay rời nhà ra bến từ lúc bà say ngủ. Nhìn vợ chồng Báo gây gổ, xô đẩy bà ngăn:
– Vợ chồng có gì từ từ nói, kẻo hàng xóm họ cười!
Nhưng bà không ngăn được, tiếng cãi ngày một lớn. Con dâu bà vênh mặt:
– Tui muốn ly dị. Tui không thương anh nữa!
Con trai bà rít lên: “Có ai như cô không? Không biết xấy hổ là gì hả?”. Thêm vài câu bấc chì nữa, bà hiểu ra cớ sự. Bà chua xót, giận dữ:
– Báo! Để nó đi đâu thì đi! Cô đi đi. Nhà này không chứa được loại đàn bà như cô.
– Bà tưởng tui ở đây sung sướng lắm hả? Giỏi thì biểu con bà đừng níu kéo.
Phải là thằng Báo, bà đã tát cho con vợ nó một bạt tay. Nhưng thằng con bà không làm vậy, nó cưng vợ có tiếng mà. Tiếng là dâu nhà ruộng rẫy mà mấy thuở con Thùy phải ra tới rẫy tưới dưa, bẻ bắp. Có khi nào Báo đánh vợ, dù một bạt tay! Vậy mà Thùy còn chưa ưng bụng. Thùy đi. Báo chỉ đứng trân trối nhìn theo, rồi bao nhiêu bực tức dồn hết xuống chân, tống ra thành cú đá sụp cả vách buồng.
Từ đêm đó Báo mất vợ. Vợ Báo bỏ nhà theo trai, cái tin ấy không chân mà đi khắp cù lao. Suốt mấy ngày sau, đi đâu anh cũng nghe người ta xì xào bàn tán. Cô Sáu, bác Ba khuyên:
– Quên thứ đàn bà hư đốn đó đi con, xứ này thiếu gì con gái.
Anh Chín, chú Mười vỗ đùi, nghiến răng:
– Tao mà là mày, tao đập cho gian phu dâm phụ một trận cho hả giận.
Bác Bảy, dì Tám can:
– Đánh làm gì cho bẩn tay mình. Lên chính quyền thưa tụi nó!
Báo không biết nên nghe lời ai, cũng không biết nên làm gì. Tất cả cứ rối tung, rối mù lên. Anh cứ mong đó là cơn ác mộng, tỉnh ra anh sẽ thấy Thùy dịu dàng bên mâm cơm đợi mình. Thùy là dân xứ khác, theo đoàn lô tô về xóm. Lần đoàn lô tô của Thùy về, trai cù lao một phen xôn xao. Mấy đêm đoàn lưu lại là mấy đêm trai làng rậm rịch, tìm cách chọc ghẹo Thùy. Khi lô tô đi rồi, cả xóm té ngửa thấy Thùy ở nhà bà Hai. Thằng Báo lù đù mà vác cái lu. Nó ít nói, khù khờ mà dẫn luôn đứa đẹp vậy. Đến bà Hai còn ngạc nhiên khi Thùy gọi bà là má, xin được theo về cùng con trai bà. Nhìn cặp mắt lóng lánh như trăng tràn mặt nước bà cũng đã sợ con dâu đa tình, nhưng thấy con mình hạnh phúc bà không nỡ cản ngăn. Đi chợ, qua đò có người hỏi:
– Bà biết gốc gác nó không? Sao dám chứa thứ rày đây mai đó?
– Sợ gì? Nghề đó lương thiện mà. Ít bữa hai đứa tìm về quê con nhỏ lạy ông bà. Ai mà không nguồn không gốc.
Khi nói như vậy bà Hai cũng thật lòng tin Thùy sẽ cùng Báo ăn đời ở kiếp. Ai ngờ!
Thùy đi đã mấy hôm, nỗi buồn nặng trĩu trong lòng Báo không cách nào vơi được. Chiều hôm ấy anh ra rẫy bắp, trong đầu cứ lởn vởn lời khích bác của mấy thằng bạn: “Sao không nện cho tụi nó một trận? Hay mày sợ? Tao cũng biết mày hiền, nhưng đừng có hèn!”. Hình ảnh Thùy và người ấy như đôi rắn quấn nhau trên mặt sông cứ chập chờn. Bao nhiêu thất vọng, bao nhiêu tức giận cứ cuồn cuộn trong lòng. Trời đất dung ruổi! Anh gặp thằng gian phu ngay trên bờ bao ngạn. Bao ấm ức bị dồn nén bung ra. Anh và hắn lao vào nhau sau một cuộc khẩu chiến. Báo không thể chịu được cái mặt hất lên kiêu ngạo, tự mãn khi hắn thách thức:
– Ừ, tao ngủ với vợ mày đó! Mày làm gì được tao?
Trong lúc giằng co với tình địch, Báo không nhớ rõ bằng cách nào anh đã chụp lấy cán cuốc. Lưỡi cuốc bổ xuống, kẻ ấy nằm vật xuống bờ đê, máu loang xuống cỏ. Người ấy chết, chết tức chết tửi, không kịp trăn trối lời thù hận hay ăn năn. Còn Báo thì vào tù. Mười hai năm hối hận giày vò, bao nhiêu ước mơ tuổi trẻ bị giam cầm sau song sắt. Hình ảnh khủng khiếp và tội lỗi ấy ám ảnh anh mãi chưa thôi. Thùy thì giờ hạnh phúc bên một người chồng khác nữa, không biết có còn nghĩ gì đến hai gã đàn ông vì mình mà người chết, kẻ vướng vòng lao lý?
… Báo rùng mình, trở về với thực tại. Anh lặn một hơi thật sâu. Dòng nước dịu dàng như cũng muốn giúp anh xoa dịu nỗi đau quá khứ. Ước gì khi ngoi lên những lỗi lầm xưa sẽ như lớp bùn đọng lại ở đáy sông. Trời đã vào đêm. Báo lên bờ và giật bắn người vì một dáng người ngồi thu lu bên mấy bụi cây dại cặp mé sông.
– Ai đó? – Báo lên tiếng hỏi mà lòng nhói lên một hi vọng mỏng như sợi khói.
– Tui đây!
Cái giọng phụ nữ run run làm sợi hi vọng mỏng manh tắt ngúm. Báo thầm đai nghiến mình: “Tại sao cứ trông chờ điều không thể đến hả Báo? Quên đi, bây giờ người ra đã yên ấm bên mái gia đình khác rồi”
– Cô ra đây chi giờ này?
– Tui đem cho dì Hai chai dầu xoa bóp. Dì thấy anh ra sông lâu quá, lo nên nhờ tui ra coi thử. Thấy anh đang suy nghĩ nên tui không dám lên tiếng. – giọng người phụ nữ ngập ngừng cố giải thích lý do, có lẽ chị biết sự có mặt của mình lúc này kì cục quá.
Báo hiểu ngay ý đồ của mẹ, anh thầm kêu: “Má lẩm cẩm rồi”, rồi làm giọng tỉnh queo:
– Trời tối, thôi về nhà đi cô Tâm.
Tâm đứng lên, bước cao bước thấp theo anh. Báo dừng lại, chờ cô đi ngang hàng với mình. Im lặng. Gió bấc xạc xào xô mấy ngọn lau rạt vào nhau, xô cả hai bóng người run run, chập chờn trên mặt đất. Tâm rụt rè:
– Sao anh không lấy vợ?
Báo im lặng, anh nghe người bên cạnh nén một tiếng thở dài.
– Tui nghe dì Hai nói anh còn nhớ chị ấy?– câu hỏi cất lên run run, yếu ớt.
– Chuyện của tui cô đừng quan tâm chi cho mệt. Tui như vầy thì làm sao đem lại hạnh phúc cho người khác? – Báo tỉnh queo.
– Sao anh mặc cảm hoài vậy? Ai cũng có lúc sai lầm. Biết đâu có người để ý đến anh…
Lại im lặng. Gió đuổi dồn mấy ngọn bắp chạy về phía chân trời. Có lúc con người như ngọn gió, thổi dồn mãi một hướng mà không biết cái gì đợi mình phía trước. Vì vô tâm, vì chung tình hay vì cố chấp? Bước chân Tâm chậm lại. Báo cũng chậm lại. Bất ngờ chị nắm tay anh, dứt khoát:
– Nếu anh không chê tui tật nguyền…
– Cô Tâm – không đợi chị nói hết lời, anh cắt ngang – tấm lòng cô tui hiểu, tui mang ơn cô. Nhưng tui không xứng với cô. Tui không thể cho cô một cuộc sống đàng hoàng.
Rồi gỡ tay chị ra, Báo bước đi thật nhanh, như chạy. Gió lướt ràn rạt qua tai anh, lùa về phía chị cái lạnh xơ xác cõi lòng. Chị ngồi xuống bờ cỏ, ôm mặt khóc. Bao tủi hờn của người bị từ chối, bao mặc cảm của cô gái tật nguyền quá lứa lỡ thì, nỗi ê chề vì “cột đi tìm trâu” theo nước mắt tuông trào…
Từ đó gốc xoài nhà bà Hai thiếu hơi một người hay ghé nghỉ mệt. Xe đẩy hàng vẫn qua lại, bà trông mỏi mắt cũng không thấy dáng người bước thấp bước cao thân quen. Ra vô bà cứ thắc mắc, cố ý cho Báo nghe:
– Con Tâm có đau bệnh gì hông mà mấy bữa nay không qua đây?
Anh biết lý do chị không ngang qua nữa. Ờ, mà cũng không hiểu sao mấy bữa nay anh hay ngóng ra con lộ, chờ một cái gì đó thân thương. Cái bóng nhỏ bước không đều chân đã mang một phần suy nghĩ của anh đi mất, anh trở nên ngơ ngẩng, trong lòng có một nỗi hụt hẫng. Anh nhận ra mình đã bắt đầu nghĩ về Tâm từ ngày dìu cô vào nhà chăm sóc, bắt đầu cảm phục khi nghe mẹ kể về hoàn cảnh của cô. Ngày qua ngày, mỗi lần mẹ nói chuyện với cô dưới gốc xoài anh hay giả bộ loay hoay làm việc, mà tai thì để chỗ gốc xoài để nghe tiếng cười, giọng nói. .. Khi trả lời bằng cái giọng cố làm cho dửng dưng anh đã mắng chính mình. Nào phải anh không nghĩ gì đến Tâm. Nhưng mặc cảm tội lỗi còn đó, còn cả tội lỗi với Tâm vì anh chưa quên được Thùy, cả nỗi lo sợ tương lai không đem cho người mình yêu cuộc sống bình yên… Anh đã dối lòng. Tâm không qua đây nữa biết đâu lại tốt hơn cho cô ấy?
Nhưng bà Hai không chịu được cái cảm giác phấp phỏm trông chờ. Một bữa bà mặc bộ đồ mới bương bả đi, không thèm nói đi đâu. Ở nhà anh đoán già đoán non, tự dưng hồi hộp mong mẹ về y như hồi nhỏ chờ mẹ đi chợ về. Trời trưa đứng bóng, bà về tới, leo lên võng nằm, mặt buồn so. Anh không dám hỏi. Sợ! Sợ một sự thật phủ phàng dù anh vẫn mong Tâm sẽ quên mình. Thở dài sườn sượt cả buổi, bà bâng quơ:
– Số mình hẩm hiu. Con dâu trước bạc nghĩa, bạc tình. Tưởng lần này trời cho đứa hiền thảo. Ai dè, trời không thương để giờ nó thành dâu người khác.
Tim đánh “thịch” một cái, muốn ngăn ngực, cố ra vẻ bình tĩnh, anh hỏi: “Má nói gì lạ vậy má?”. Bà lẫy:
– Còn hỏi gì nữa mà hỏi? Mấy bữa không gặp nó, tao qua nhà hỏi thăm mới biết nó bệnh. Bệnh từ cái bữa qua cho má chai dầu xoa bóp. Mày nói gì bậy bạ để con nhỏ đổ bệnh? Mà vậy cũng chưa buồn bằng chuyện này…
– Chuyện gì? Chuyện gì má? – Anh bộp chộp, hỏi dồn.
– Bên kia sông, thằng Tá đánh tiếng qua hỏi nó. Thằng đó không nghề nghiệp, cũng không chịu mần ăn, lông ba lông bông. Con Tâm mà lấy nó khổ cả đời.
– Rồi cổ chịu không? – Báo không nhận ra giọng của mình nữa.
– Hứ! Chịu hay không thì đi mà hỏi. Tao đã nói nó dễ thương mà mày cứ nắm níu không chịu buông hình bóng con Thùy. Con Tâm đang nghĩ, nó nói hổng tin trên đời có ai thương yêu nó thiệt bụng vì nó nghèo lại tật nguyền. Người ta có chịu cùng nó nuôi mẹ, nuôi em hay không. Nó có lý của nó. Nhưng mà…
– Nhưng sao má?
– Dù gì nó cũng ngoài ba mươi rồi. Con người ta ai không cần yêu thương. Hây da, con nhỏ mà lấy chồng tao mất đi một người bạn. Sao trời không cho con đứa con dâu như vậy hả ông trời? Má nghe nói chiều nay nhà trai qua coi con Tâm trả lời đồng ý hay là không.
Báo nghe má nói mà trong lòng như có một cơn dông lớn thổi qua. Đám bụi trong lòng bay mù mịt. Hình ảnh người ấy ngã xuống, máu loang ra cỏ; hình ảnh Thùy kì lưng cho anh dưới sông; hình ảnh đôi rắn quấn nhau trên mặt nước; song sắt buồng giam; Tâm và chiếc xe đẩy… tất cả quay cuồng trong đám bụi mờ mịt ấy. Một lúc sau, cơn dông dịu lại, đám bụi dần tan, chỉ còn hình ảnh Tâm nắm tay anh, dứt khoát: “Nếu anh không chê tui tật nguyền…”. Bà Hai ngưng nói đã lâu, nhìn thằng con ngồi thừ người nghĩ ngợi. Bà đợi. Thời gian trôi chậm chạp, nặng nề. Bà nghe tiếng đồng hồ quả lắc thình thịch, thình thịch. Úi cha, mà nhà bà đâu có đồng hồ quả lắc?
– Mấy giờ rồi hén má?
Hỏi, không cần đợi má trả lời, anh chạy xộc vô buồng, thay cái áo mới. Báo cứ luýnh qua luýnh quýnh, chạy ra chạy vô mấy bận. Lát sau, anh dắt xe đạp đi thẳng ra lộ:
– Con đi đây chút nghe má!
– Đi đâu?
– Lát con về, má biết.
Anh hấp tấp chạy xe đi. Bà bước ra cửa nhìn theo, con bà đang cắm cúi đạp xe về hướng nhà Tâm. Bà nheo nheo mắt, mỉm cười, mong cho mưu kế của bà và má con Tâm thành công. Tụi nhỏ mặt trong như đã mà bên ngoài còn e ngại, làm khổ cho nhau. Thằng con bà qua bao nhiêu khổ sở, dằn vặt sắp đến lúc được một bến đỗ bình yên. Mà thằng thiệt kì, phải đẩy vào thử thách mới dám nói thật lòng mình; thằng như vậy mà con Tâm thương, cũng kì thiệt… Trời đứng bóng mà gió cứ xông xênh… Trước mắt người mẹ là một con đường đầy nắng ấm và gió mát. 
10/3/2025
Nguyễn Ngọc Đào Uyên
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...