Thứ Ba, 27 tháng 5, 2025

Hai pho tượng

Hai pho tượng

Bác cố giữ cây vối này. Cháu sẽ thu mua và lo đầu ra cho bác! Ngày trước làng Liên Trung cháu nhà nào cũng có một hai cây. Nước vối uống ngon mát mà dễ tiêu bác nhỉ? Chả nghi ngờ hóa chất hóa cheo gì như cái anh Trà chanh với C2, C3… Vừa thoăn thoắt nhét đám lá và nụ vối vào chiếc bao xác rắn rồi chằng buộc lên yên xe máy, chàng trai trẻ vừa liến thoắng: Tiếc quá! Làng cháu sau này chỉ còn độc cây vối cổ thụ của nhà cụ Thân. Năm ngoái cụ ấy qua đời, tự nhiên cây vối cũng héo rũ rồi chết đứng. Cái cây nó cũng có tình có nghĩa! Người mất cây cũng chết theo…
– Anh vừa bảo sao? Ông cụ Thân? Có phải ông Thân răng vàng ở làng Liên Trung anh không? Ông Thân có hai người con gái…
– Vâng! Đúng rồi! Ông Thân có chiếc răng vàng. Sao bác biết? Nhà cụ ấy có hai người con gái như hai pho tượng thạch cao chuyên ngồi xó nhà… Hai cô chết rồi! Ông cụ mới hết tội! Nghĩ cũng khổ. Độc thân… Chết chẳng có vợ con bên cạnh…
– Ừ! Khổ thân! Tôi có biết ông cụ Thân dưới làng anh cũng đã lâu lắm! Vẫn nhớ ông có hai cô con gái ngồi hai góc nhà…
– Bác ơi! Người ta bảo đấy là tội trời hành! Trước khi chết mấy năm, không hiểu sao ông cụ này cứ xuống hồ, xuống ao lặn ngụp cả ngày như trẻ con đi lặn mò trai mò hến…
Thông tin tình cờ do chàng trai mua hoa vối khiến tôi chợt nhớ tới sự việc cách nay hơn ba chục năm…
Năm ấy, Ủy ban xã giới thiệu hai ông cán bộ trên Hà Nội đến nhà tôi để nhờ cha tôi giúp tìm hiểu về đời sống dân gian và vốn văn hóa cổ. Vì cha tôi là một nhà nho có tiếng hàng tổng. Sau đó hai người ở lại nhà tôi hàng tháng trời. Họ là hai nhà nghiên cứu khoa học tự nhiên và xã hội. Một ông nghiên cứu về chất đất và nước vùng chua mặn, một ông nghiên cứu về xã hội nông thôn để họ cùng viết một cuốn sách gì đó về lịch sử và hình thái phát triển nông thôn Việt Nam… Cha tôi đã đưa hai ông ra các cánh đồng, các di tích nhà thờ họ, đình chùa, đền miếu còn sót lại trong vùng xem và dịch giúp các văn bia, câu đối, đại tự. Họ rất tiếc về một số ngôi đình to đẹp ở đây đã bị băng hoại, sụp đổ. Hai ông nói rằng: do thiên tai, giặc giã là một lẽ, nhưng còn do ngay cả tư tưởng và bàn tay con người. Qua những câu chuyện giữa họ và cha tôi, đây là một vùng quê có một nền văn hóa liên quan và tiêu biểu của làng Việt đồng bằng Bắc Bộ. Nghe vậy, trong suy nghĩ của một cậu học trò cấp II, tôi mừng lắm. Quê mình rồi đây sẽ có tên trong sách và trên bản đồ lịch sừ và văn hóa quốc gia.
Sang những ngày đầu mùa hè, gia đình tôi bận công việc thu hoạch hoa màu đồng áng, cha không thể đi tiếp. Tôi được cha cử dẫn hai ông xuống cơ sở các xã.
Hôm ấy, chúng tôi đến thăm nhà ông chủ tịch xã Liên Trung, một xã lớn ở gần cuối huyện. Ngôi nhà gỗ lim năm gian của ông nằm giữa xóm, khuất dưới bóng cây um tùm trong bờ tre dây chằng chịt. Đứng ngoài ngõ gọi mãi không thấy ai thưa. Đang do dự thì… hình như có tiếng ú ú ơ ớ trong nhà vọng ra. Chúng tôi đánh liều cởi nút lạt buộc, nâng bức ngõ gai ra bên cạnh bờ giậu râm bụt rồi đi vào trên lối mòn đầm đất mịn rắc. Hai bên lối mòn cỏ mọc cao đến đầu gối. Vào sân, vẫn không thấy một bóng người. Tôi cất tiếng: Có ai trong nhà không? Có khách đến thăm đây… Không một tiếng động tĩnh. Lại hỏi: Ông bà chủ đi đâu rồi…?
– Ngông… ngông ngó ngà… ngâu… Ngông ngó ngà … ngâu…
Chúng tôi nhìn nhau: Như vậy là có người trong nhà. Chắc họ ốm đau gì… nên nói líu cả miệng? Ố áu… nghi ngắng ngồi!… Ố áu nghi… àm nguộng ngồi…
Tiếng nói như đồng vọng từ hang đá.
Chúng tôi nghiêng tai lắng nghe, phát hiện ra họ nói ngọng! Tiếng người trẻ thì đúng hơn! Cả dãy cửa gỗ ba gian cùng đóng, chỉ có một cánh gian giữa mở hé.
Trong nhà tối đen. Tôi bước lên thềm đứng ngoài hiên, mạnh dạn thò cổ vào: Có ai trong nhà không đấy? Một lát, có tiếng vọng ra, đúng là nghe như tiếng vọng từ vách hang đá: Ố úng áu ngông ngõ ngà! Nghi ày uộng ừ ngửa nghêm… ngồi… ừ ngửa nghêm… ngồi…
Chả lẽ ma? Tôi lùi một chân xuống thềm. Nhưng hai nhà nghiên cứu lại bước qua ngưỡng cửa: Ta cứ vào trong xem sao. Có tiếng nói nghĩa là có người ở nhà… Sao lại nói ngọng ghê nhỉ? Cậu thế nào chứ chúng tôi chả nghe ra cái gì cả! Vừa bước vào gian giữa, trước bộ phản gỗ giáp bàn thờ tối lờ mờ, đứng đảo mắt soi tìm các gian, chúng tôi lại giật mình vì tiếng hô rất đồng thanh: Ào ác ngác! Ố ngúng ngáu nghi ngày uộng ưa ới nghề! Ào ác ngác! Ố ngúng ngáu nghi ngày uộng ến ưa ới nghề! Tôi dịch cho hai ông biết: Họ bảo: Bố chúng cháu đi cày ruộng đến trưa mới về! Hai ông rút khăn mùi xoa lau mồ hôi mặt: Đã trót đến đây, ta cứ hỏi họ. Chia nhau đi tìm xem họ ở đâu nói vọng ra. Một ông ghé sát tai tôi: Nghe kinh bỏ mẹ chú em ạ. Như tiếng ma ấy! Thì bác cứ bình tĩnh. Ban ngày làm gì có ma! Tôi trấn an, mặc dù trong bụng cũng đang run. Ác ngác ngồi ngơi… Ác ngác ngồi ngơi! Lại một tràng tiếng vọng đồng thanh cất lên. Để vững tâm, chúng tôi bám sát nhau đi vào một góc nhà tối om. Ai đấy? Đang ở đâu! Người trẻ hay già?
– Úng áu ồi ở ây ơ à! Úng áu ồi ở ây ơ à! Vẫn đồng thanh, vọng từ hai bên góc nhà. Nói như bây giờ, tiếng vọng như từ hai cái loa thùng sterio tách nhạc, nhưng bị méo tiếng một cách tệ hại! Chúng tôi dàn hàng ngang huơ tay rờ rẫm. Liên tiếp mấy con chuột to như củ khoai từ hốc tối vột ra, chạy cả vào chân. Ông “nghiên cứu tự nhiên” nhảy cẫng lên, suýt ngã. Áu ây ngơ ngà! Ac ac ừng ợ… Tôi cố lấy bình tĩnh tiến thêm bước nữa vào xó tối. Chợt nhà “nghiên cứu xã hội” giật nẩy người khi cúi xuống chạm vào một khối trăng trắng:
– Ôi! Người ngồi đây. Sao lạnh thế?
Tôi dụi mắt. Góc tối dần sáng ra khi mắt tôi đã quen dần. Ôi! Tôi cũng bật kêu lên. Trước mặt tôi từ từ rõ một khối hình người ngồi thù lù, trần nhồng nhộng. Ngồi tư thế xếp bằng như một pho tượng ông Phỗng! Đàn bà! Giời ạ! Đàn bà hẳn hoi. Mặt tròn. Cổ rụt. Hai bầu vú thay lay chảy dài trên cái bụng to như quả bóng. Lại có tiếng chuột nhảy tanh tách, chí chóe. Tôi vã mồ hôi, ướt lưng áo. Sao lại có người ngồi thế này ở một góc nhà nhỉ? Như một đống bột nặn! Ào ác ngác! Ac ac ừng ợ…Pho tượng lên tiếng. Chúng tôi đáp lại: Các bác chào cháu!
Nhà “nghiên cứu tự nhiên” bảo tôi ra mở cửa. Tôi quay lập cập nghển lên tìm then chốt, mở ba, bốn cánh cửa ra. Ánh sáng bên ngoài ùa vào. Cảnh vật trong nhà rõ hơn. Bàn thờ là một chiếc hòm cái trên bày bộ bài vị, bộ đỉnh hương đồng đen nhẻm, đôi ống hương gỗ cắm mấy thẻ hương đã bợt bạt, đôi lục bình sứ nhỏ cắm mấy cành hoa giấy vàng đỏ. Bên trái là chiếc giường gỗ còn buông chiếc màn màu cháo lòng… Tất cả như đọng lại hình bóng quá vãng một thời sung túc của ngôi nhà. Ông “nghiên cứu xã hội” kéo tôi sang góc bên kia. Nhưng lần này đi và tìm dễ hơn vì có ánh sáng bổ sung. Cũng một pho tượng nữa, người trần nhễ nhại như thế. Cũng đàn bà con gái! Trắng toát! Lại tiếng vọng như từ vách hang đá cất lên: Ào ác ngác!
Hai nhà nghiên cứu nhìn nhau rồi hỏi tôi: Lạ nhỉ? Ở đây có sự lạ lùng thế này mà chú không biết? Làm sao mà biết được hử các bác! Từ làng trên xuống đây những hai chục cây số. Hôm nay cháu mới biết là một!
***
Chúng tôi ra ngoài thơ thẩn một lúc trên sân ngắm hàng cau đang mùa trổ hoa. Áo cau bung mở những chùm hoa trắng ngà, thả hương thơm ngát trong gió. Mé tây, một cây vối già đơm chi chít nụ hoa tỏa bóng râm mát cả một góc sân vườn. Tiếng ong bay vù vù xao động những đốm nắng khiến không gian càng tịch mịch lạ thường. Ngôi nhà gỗ cổ này cũng thuộc hàng đẹp. Toàn gỗ lim, bộ cửa đóng bức bàn đã bợt màu dầu, trơ vân thớ nứt nẻ. Hai bên hiên dãy tường hoa rêu phủ loang lổ mặt ngoài. Các bậc thềm nhiều chỗ đã long vữa. Chiếc sân lát gạch chỉ, phía ngõ và chỗ xuống nhà bếp lợp rạ bị vỡ vụn mấy khoảng, những viên gạch lún sâu xuống, cỏ bò nham nhở các khe vữa. Trên nóc nhà, mái ngói cũng xập xệ đôi hàng, gian giữa võng xuống như lưng ngựa, chắc do cây bắc nóc đã bị cong. Chủ ngôi nhà này lâu nay chắc không thiết tu sửa? Ông xã hội đoán vậy.
Đang bàn tán thì ngoài ngõ có tiếng đàn ông: Ai vào nhà lại mở ngõ không đóng lại thế này? Mấy con gà khéo lại ra hết! Tôi ngoảnh ra: Ôi! Chào… chào ông! Chúng cháu đến thăm nhà ông đây mà… Người đàn ông vừa bê bức ngõ đóng lại như cũ vừa hỏi vào: Các ông ở đâu? Ai mách đến đây! Nhà tôi khuất nẻo mãi trong xóm… Tôi nhanh miệng: Dạ! Do bà con chỉ dẫn bác ạ! Cháu ở xã trên. Còn đây là hai ông cán bộ ở Hà Nội về nghiên cứu. Chắc bác đi cày ruộng? Ừ! Khốn nạn! Cái khoẳm bị gẫy. Đang mùa ăn mùa làm! Đành cho con trâu nó nghỉ một buổi. Tôi về đẽo cái khoẳm khác. Mời các bác vào trong nhà… Người đàn ông trạc tuổi sáu mươi, nom vẻ khắc khổ, già trước tuổi. Tóc bạc lâm râm đến một nửa. Đôi gò má cao gồ lên. Đôi mắt sâu trũng. Mé hàm trên gắn một chiếc răng vàng chóe. Nhưng dáng ông chắc khỏe của một lão nông tri điền.
Theo ông, chúng tôi vào nhà. Ào ố nghi ngàm nghề… (Chào bố đi làm về). Dàn song ca lại cất lên, vọng từ góc nhà. Khổ lắm các ông ơi! Thông cảm cho tôi. Hai đứa con gái tôi đấy. Chúng nó đánh bệt đã ngót hai chục năm nay… Cứ một chỗ thế thôi!… Vừa phân giải với khách ông vừa rải chiếc chiếu cũ sờn mép lên tấm phản mời chúng tôi ngồi. Vói tay nhấc trên bàn thờ bốn cái bát cùng chiếc ấm đất, ông đặt xuống giữa chiếu: Giới thiệu với các bác các chú tôi tên Thân. Sinh năm Thân nên các cụ gọi vậy!… Ông rót nước ra bát và đưa lại chỗ từng người: Nước vối nấu sớm vẫn còn ấm. Nước vối này để nguội uống mới ngon. Nhiều khi tôi đóng chai buộc nút chặt, ngâm dưới giếng, trưa làm đồng về kéo lên uống, mát tận ruột gan. Mời các bác các chú!
Chúng tôi cũng giới thiệu từng người và mục đích chuyến thăm rồi kể lại việc đến nhà, không gặp ông, chỉ thấy hai cô gái ngồi ở góc nhà. Sao lại vậy? Chuyện dài lắm các bác các chú ạ! Ông thở đánh sượt, quay ra rít một hơi điếu cày. Đi đâu… quên một chút. Về đến nhà lại nẫu ruột! Thế bác gái đâu? Bỏ đi rồi! Đâu ra tỉnh mỏ gì đấy làm ăn. Từ lúc lũ vịt tám tuổi… Vậy bác “gà trống nuôi con”? Mười năm rồi! Số tôi nó khốn nạn lắm! Cũng chỉ tại cái dại hăng, cái yên hùng! Người ta được vợ được con, hoặc được vợ mất con, được con mất vợ. Đằng này… dở sống dở chết cả hai!
Nán khách lại đến trưa. Ông Thân bắt đầu câu chuyện của mình.
***
Năm ấy, chiến dịch cải tạo tàn dư văn hóa phong kiến, bài trừ và chống mê tín dị đoan rầm rộ khắp các làng xã. Một loạt đình chùa, miếu nghè, quán xá bị phá và bỏ hoang phế. Một số được cải tạo lại để sử dụng vào các việc công cộng. Chỗ lấy làm kho lương thực, chỗ lấy làm mậu dịch, quầy bán hàng hợp tác xã mua bán, chỗ lấy làm nơi học trò cấp I ngồi học. Làng Đống An cũng có đủ đình chùa, miếu đền trong các xóm. Ngôi chùa ở xóm Thầu Dầu ọp ẹp còn nửa mái, đã lâu không bóng sư sãi nào về tụng kinh gõ mõ. Ngôi đình ngự đầu làng thuộc hạng to đẹp, đồ sộ trong số chín ngôi đình trên vùng quê này cũng bị toang hoác cửa nẻo.
Hôm ấy, cuộc họp quyết định để hay phá ngôi đình làng Đống gần nửa đêm mới kết thúc. Ông chủ tịch xã tuyên bố: Việc gì khó có Thanh niên! Giao cho Đoàn Thanh niên phải đi đầu trong phong trào bài trừ và chống mê tín dị đoan! Tuần sau, đồng chí Thân bí thư Đoàn báo cáo kết quả!
Trước đó, đám trẻ chăn trâu thường dắt trâu vào sân đình cột để bày các trò chơi. Chúng trèo lên thềm lên bệ tượng đánh đạp, tập trận ầm ĩ. Rét quá, mấy đứa rủ nhau đem gộc tre khô vào gian bên đốt sưởi. Mấy đứa nam nghịch ngợm chất hẳn củi trong hóc cột rồi lấy mũ nón quạt như hun đốt lò gạch. Ngọn lửa theo ruột cột thẳng đứng bốc cao ngùn ngụt lên đỉnh cột, liếm ra xung quanh, bén vào các vì kèo. Hãi quá, chúng bỏ chạy tán loạn, dắt trâu về, mất hút vào các ngõ xóm. Người lớn đi qua thấy khói lửa trong đình nghi ngút, cũng chẳng ai vào. Mấy cụ già xót quá bèn chống gậy ra quát mấy nhà bên cạnh: Thế này thì thần thánh không để yên làng rồi! Chúng bay có ra cứu không thì bảo? Mãi lâu mới có mấy ông trung tuổi bắc thang bê nước trèo lên dội và lấy bùn nhét các hốc cột. Đám cháy xèo xèo một lúc, tưởng đã tắt. Không ngờ cột gỗ lim rỗng ruột, than còn âm ỉ bên trong, ngún suốt đêm như đống rấm ủ. Sáng ra, khói vẫn bốc mù mịt. May sao động bấc, rét dữ, lại có cơn mưa nặng hạt. Chỗ cháy bị tắt nhưng một mảng cột kèo bị sập xuống. Một góc mái đình treo chênh vênh. Từ đó ngôi đình bị bỏ hoang. Trẻ trâu thừa cơ tiếp tục biến sân đình thành trận địa và dàn đủ trò thứ trò chơi.
Thời gian này Thân đã lấy vợ. Làm bí thư đoàn xã, Thân rất năng nổ, nhiệt tình với mọi công việc. Anh luôn xung phong đi đầu trong vận động tuyển quân, dẫn dân công làm thủy lợi, đắp đê biển. Nhiệm vụ nào Thân cũng hoàn thành xuất sắc. Với giọng nói hơi thé, nhưng vang, Thân có thói quen luôn chém tay xuống, thể hiện thái độ quyết đoán, quyết tâm. Cả ngày anh vắng nhà, nửa đêm mới về, lật chiếc lồng bàn ra, lùa vội mấy bát cơm rồi súc miệng sòng sọc bằng những ngụm nước vối. Lúc ấy vợ mới biết chồng về.
Mặt trời lên đầu ngọn tre. Thân dẫn đầu một toán thanh niên nam nữ hăng hái ra đình. Mấy cậu chí chóe đùn đẩy, lừa nhau đứa lên trước đứa tụt sau. Riêng Thân cởi phanh ngực bắc thang trèo lên hồi phía gốc cây đa, thẳng tay quai những nhát búa tạ đầu tiên xuống đao đình. Rầm. Mảng đao đình bị bạt phăng xuống gốc đa. Bụi gạch vữa bùng lên dưới nắng. Chiếc búa tạ mượn của ông phó Rèn trong tay Thân quai vòng tròn những nhát rất điệu đàng, giáng xuống mái ngói, những xà gỗ lim rắn đanh. Mái đình đổ ầm ầm. Cho hết nọc hết đuôi phong kiến! Cho hết chỗ mấy con mẹ chuyên ra đây lên đồng lên bóng. Cô Đôi, Ba Thoải với Hoàng Bảy, Hoàng Chín hết chỗ múa may quay cuồng…
Vừa làm Thân vừa lẩm bẩm và hò hét thúc cả toán xông vào đống đổ vỡ. Buốn đái, Thân vạch quần đứng trên bệ tượng đái tồ tồ vào bờ tường, rồi lái sang pho tượng gỗ. Đám con gái nhìn thấy, xấu hổ quay đi hét toáng lên: Ôi! Mất lịch sự quá! Mất lịch sự quá! Đái vào tượng! Phải tội đấy! Thân bô bô: Đ. mẹ! Gỗ chứ cái quái gì. Vua quan với chúng mày đứa nào chả phải đái! Cởi áo quần, thằng nào con nào chả tuồng giống nhau! Mót quá! Đố chúng mày nhịn được! Hăng máu, Thân lên gân bê luôn pho tượng ra sân: Quân bay! Nghe lệnh ta truyển. Xúm lại khiêng! Không ai đến. Đ. mẹ cái bọn dát như cáy! Mỗi thế cũng sợ. Gỗ chứ có phải người đâu mà sợ! Củi hết! Thân liền xắn tay dạng chân bê ngang, sùi cả bọt dãi, quẳng pho tượng xuống hồ nước trước cửa đình! Tùm! Ánh nắng khép lại mặt hồ…
Ngôi đình bị sạt một góc. Hôm sau tự dưng vắng lặng. Việc phá dỡ dừng lại vì lúc gà gáy, một cơn giông lớn trút mưa như thác dội. Lúa ngoài đồng đang vào độ chín. Công việc mùa màng ập đến. Cha chết không bằng hết bữa. Đình miếu không bằng bồ dốc. Giáp hạt, cả làng xách rá vay nhau. Cốt phải gặt lúa chiêm về sân kho hợp tác đã mới có thóc chia cho người cùng rơm cho trâu. Người làng không ai ngỏ đến ngôi đình nữa. Có ngỏ đến lại sợ mang tiếng dây dưa tàn dư mê tín dị đoan. Thế rồi, vào một hôm lúc nửa đêm, người ta nghe rõ những tiếng cột gỗ, xà ngang xà dọc gãy răng rắc, đổ rầm rầm. Ngôi đình như một người khổng lồ sụp xuống.
Sau đó ít năm, Thân lên chức chủ tịch xã. Ngôi đình đã tàn tạ chỉ còn trơ khung cột, tảng đá trên nền gạch ngổn ngang. Thân hạ lệnh thanh niên khuân cột đình vào một chỗ, thuê thợ xẻ xẻ lấy gỗ đóng bàn ghế cho trường học. Cây cột cây xà nào còn chắc gỗ đem dựng nhà thường trực ủy ban và hội trường nhà văn hóa xã. Sau chiến dịch này, Liên Trung bỗng nổi danh như cồn là địa phương tiên tiến mọi mặt và có hội trường Nhà văn hóa rộng đẹp nhất khu vực. Các đám cưới của thanh niên được mang ra hội trường tổ chức theo nếp sống mới, bỏ ăn cỗ, chỉ bày bánh kẹo, thuốc lá Sông Cầu, rồi hát hò chúc mừng cô dâu chú rể hạnh phúc trăm năm! Chủ tịch Thân được cử đi báo cáo điển hình ngoài tỉnh về phong trào bài trừ, chống mê tín dị đoan và xây dựng nếp sống văn hóa mới!
***
Ở đời không biết đường nào mà lường các bác các chú ạ! Thiên địa tù mù! Chả có sách biết thế! Ông Thân dừng lại chêm một mồi thuốc lào vào lõ điếu cày, châm lửa, thả khói, rồi kể tiếp:
– Có ai ngờ nhà tôi phải gánh chịu một tai họa! Ấy là sau vụ phá đinh… vợ tôi có chửa. Lấy nhau ba, bốn năm giời, nay vợ có chửa, mừng lắm! Nhưng khi đẻ ra, lại là hai cục bột người này đây! Sinh đôi mới chết chứ! Con người ta ra khỏi lòng mẹ thì khóc oa oa, đằng này con mình im thin thít, chỉ ngọ nguậy mấy cái rồi nằm yên, thao láo hai cái mắt lên nhìn. Cả hai đứa cùng vậy. Giống y nhau. Cũng chả thiếu thứ gì, tóc tai, mũi miệng, rốn riếc, bướm bung, chân tay đủ cả… Nhưng cơ thể thì mềm oặt. Chân tay như sợi bún. Da dẻ trắng tinh như cục bột. Tôi đành bảo vợ: có đầu có đuôi nuôi lâu cũng lớn! Năm qua tháng lại, chúng cũng lớn như con người ta bằng sữa mẹ, bằng cơm cháo, nước nôi. Nhưng lên năm tuổi thì chúng tự nhiên bò vào mỗi đứa một góc nhà, ngồi xếp bằng tròn như thế, rồi không dậy, không ra nữa. Phát vào mông, vào lưng cũng không nhúc nhích. Cứ thế vợ chồng tôi hàng ngày đút cơm đút cháo cho chúng trong góc nhà tối om. Như nuôi hai con vịt trong bầu vậy. Quần áo không mặc, cứ trần như nhộng thế thôi. Năm hai đứa lên tám thì cô ấy bỏ đi. Đợi mãi cũng chẳng thấy về nữa! Cô ấy đã trút cái gánh này cho tôi. Tôi phải nuôi nấng, hầu hạ cho đến bây giờ… mười chín đôi mươi tuổi đầu chứ ít ỏi gì đâu! Giời hành tội! Chả vứt được cho ai. Dù sao chúng nó cũng là con mình đẻ ra! Ai trong cảnh này thì mới hiểu cho tôi! Đêm đêm nghĩ ngợi muốn vỡ đầu óc. Có lẽ thần thánh đã phạt tôi? Chả ai hộ cả! Tôi khóc một mình trong bóng tối. Cạn nước mắt rồi, không thể khóc được nữa!
Thảo nào trong khi kể chuyện, giọng ông tỉnh khô, như không có gì cảm xúc. Bao nhiêu cảm xúc ông đã trút vào những tháng năm đau đớn ấy. Đói cũng phải chạy cho chúng ăn no, không chúng đòi như lợn rãu ăn. Ăn rồi thì phải ỉa đái. Có bịt được đâu! Các bác biết không? Tôi phải nhờ người lên tận Thổ Hà đặt mấy cái chậu gốm có vung ngồi, lỗ thoát cẩn thận cho chúng. Phải mang nước vào tận nơi lau rửa, tắm táp, cứ như ông từ trong chùa hàng ngày lau tượng bụt vậy. Ngôi nhà sạch sẽ thơm tho thế này, các bác đủ thấy công phu chăm dưỡng chúng nó đến dường nào! Chẳng còn thì giờ đâu mà tu sửa sân sướng, cửa rả… Giời hành, phải chấp nhận thôi! Lời ra tiếng vào chả còn chỗ nào mà chứa. Thôi thì… Biết kêu biết cậy ai đây? Nghe ông nói, chúng tôi ai nấy đều mủi lòng thương cảm. Không biết nói gì hơn ngoài những lời động viên như bao lời an ủi khác: Cố gắng vượt qua! Cố gắng đứng dậy bán sầu mua vui!
– Vâng! Cảm ơn các bác… Giọng ông trở nên thủ thỉ: Không hiểu ngày xưa các cụ tổ nghĩ ngợi, lo liệu thế nào lại chuyển được toàn gỗ lim gỗ sến khoát lớn khoát nhỏ cất dựng đình chùa tận vùng đảo xa này. Đình làng là nơi thờ cúng Thành hoàng, là nơi sinh hoạt cộng đồng, việc đó ai cũng rõ. Đình làng tôi còn là nơi các cán bộ Việt Minh bí mật nằm dưới gầm sạp, hoạt động ngay trong vòng kiểm tỏa của thực dân Pháp và bọn tề ngụy. Bố tôi cũng từng hoạt động ở đó. Vậy mà… Chỉ một thời gian ngắn sau cuộc bài trừ phong kiến, chống mê tín dị đoan, đình Đống An to nhất tổng đã biến khỏi đất làng. Trong đó có cái tội lớn nhất của tôi. Tôi đã hăng máu xung phong, giơ nhát búa rèn đầu tiên giáng xuống Thánh Thần! Thú thật sau ít bữa, nghe mẹ và vợ ra giữa trời xì xụp thắp hương, khấn vái, đêm nằm nghĩ lại cũng thấy gai người. Song tôi lại phuổi ngay: Gỗ đá ấy mà! Làm gì có thần tà ma quỷ! Chết là hết! Nhưng tôi đã nhầm các ông ạ! Tôi đã không làm được gì, đã phá cả một cơ ngơi của tổ tiên từng gây dựng để giữ bờ cõi này bao đời! Chỉ vì sự ấu trĩ tăm tối của một kẻ yêng hùng!… Nghĩ mỗi thế thôi cũng dã buốt cả đầu óc. Nghĩ lại thì vại vỡ, sự đã rồi! Tôi mất tuổi xuân! Tôi phải đeo tội lỗi để nuôi hai pho tượng sống này…
Ông nói nhiều lắm, như những lời sám hối và thú tội. Có lúc ông kể đến nỗi như một sự nhập đồng. Ông quì ngay trên tấm phản lạy lên không trung, lạy vào bàn thờ, lạy về phía hai cô con gái ngổi nhồng nhỗng trong hai góc nhà, lạy cả chúng tôi! Nhà “nghiên cứu xã hội” ngả sang đỡ ông đứng dậy: Chúng tôi hiểu nỗi lòng của ông! Hãy bình tâm lại đã ông…
***
Bẵng hơn ba chục năm. Nhanh thật! Tôi có qua làng Liên Trung, nhưng không có dịp nào đến lại ngôi nhà ông Thân. Tình thật sau hôm nhìn thấy hai pho tượng sống đó, nhiều khi nhớ lại tôi vẫn còn cảm giác kinh kinh, sờ sợ. Nếu không có cậu thanh niên mua hoa vối, có lẽ ngôi nhà cùng bố con ông đã chìm sâu trong quá vãng. Nay chợt có người đánh thức, hình ảnh lại hiện lên rất rõ. Hai cô gái, hai pho tượng trắng nhễu nhện lại lởn vởn… rồi tan loãng trong sương mù.
Chằng xong bao vối, cậu ta bảo tôi: Người làng cháu họ bảo ông cụ này trước đây phá đình, còn bắc chim đái vào tượng Thành hoàng. Thế thì sợ quá bác nhỉ? Cháu thì vẫn tin khoa học là chính, nhưng vấn đề tâm linh mẹ cháu dặn chớ coi thường. Cháu tin là chả có thần thánh nào ra tay phạt vạ đâu, nhưng do đầu óc ông ấy với bà vợ bị ám ảnh, nên mới đẻ ra hai cô gái ấy. Còn ông cụ chắc trong tâm bị dằn vặt ghê lắm nên mới đâm ra lú lẫn, suốt ngày lặn ngụp xuống ao.
– Ừ! Anh bạn trẻ ăn nói chí lý lắm!
Cũng từ dạo ấy gia đình tôi và hai nhà nghiên cứu tự nhiên và xã hội cũng không liên hệ gì với nhau. Tên của hai ông tôi cũng quên béng đi mất. Gõ trán mãi không ra. Không hiểu quý danh họ là gì và cũng chẳng có số điện thoại để liên lạc. Không biết hai ông ấy có còn công tác, còn sống và có viết được cuốn sách như dự định không? Chắc gì họ còn nhớ hình ảnh ngày xa ấy về hai người đàn bà, hai pho tượng sống ngồi xó nhà cùng câu chuyện của ông Thân?.
5/3/2025
Dương Phượng Toại
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...