Thứ Ba, 27 tháng 5, 2025

Góp tết năm Tỵ

Góp tết năm Tỵ

Tháng chạp trên cổng chào “lì xì” câu: Chúc mừng năm mới! Kiệt lại gần nhìn lên góc phía trên cổng chào ghi tên thôn như “thờ” quê hương.
Chiều, loa đài truyền thanh gắn trên cổng chào kêu gọi “góp tết”. Giọng nữ đọc: Góp tết là góp lời ca tiếng hát, góp những nụ cười, góp giá trị vật chất bằng khoản ủng hộ – suất quà, góp sự biết ơn, góp sự động viên, góp niềm hy vọng. Mỗi hành động nhân ái trao đi, dù trực tiếp hay gián tiếp, đều đã góp một phần giúp tết của một ai đó trọn vẹn hơn…
Kiệt suy nghĩ, năm nay sinh viên nghỉ tết sớm hay muộn?
Nhà túng thiếu, ngày đi học, tối Thương đi làm thêm, “bưng, bê, kê, dọn” nhà hàng, tiệc cưới.
Trung dự đám cưới nhà hàng ở thành phố, cầm ly bia đi mời, cụng ly bàn trước, rót bia đầy ly đi qua mời bàn sau, chân bước lùi quay người thì bé Thương bưng dĩa thịt bò đi đến, lưng của Trung tông dĩa thịt bò…đổ ụp xuống sàn.
Thương nhìn dĩa thịt bò mặt tái mét không còn chút máu.
Bao nhiêu ánh mắt dự đám cưới dồn về chỗ “tai nạn” dĩa thịt bò.
Thương đứng trân người. Có người phụ nữ thấy tội đến biểu, hốt vào bưng xuống bếp.
Thương nói:
-Con sợ quản lý bắt đền quá!
-Để cô nói cho!
Người phụ nữ đến chỗ người quản lý nhà hàng tiệc cưới đang ở cách xa nửa hội trường, chỉ tay nói chuyện dĩa thịt bò “nằm” dưới nền gạch.
Người quản lý đi nhanh đến chỗ “sự cố”, nhìn dĩa thịt bò nằm úp dưới nền gạch, trợn mắt nhìn Thương. Chỉ tay biểu Thương ngồi xuống hốt dĩa thịt bò.
Nhiều người dự đám cưới nhìn Thương ngồi hốt đĩa thịt bò khóc, thiệt là tội nghiệp, thiếu điều chảy nước mắt theo.
Thương bưng dĩa thịt bò đổ tháo xuống nhà bếp, lên thưa người quản lý…về.
Mới vô chưa làm ra tiền bị đuổi việc (hợp đồng xin việc nêu rõ). Lần đầu bưng bê, Thương gặp sự cố, nỗi khổ này ăn sâu vào tâm trí không bao giờ quên.
Hôm sau Thương bưng chén cơm lên “mất bình tĩnh với dĩa thịt bò” rớt xuống, may là chén cơm chưa chan nước mì tôm làm canh, nhấc lên khỏi bàn ăn là run tay rớt xuống cạnh mặt bàn.
Bàn tay “lên tiếng” xin lỗi do lưng tông vào đĩa thịt bò, để quên đi nỗi sợ. Thương chảy nước mắt nghĩ đến ba bệnh, nhà thiếu trước hụt sau, mới đi làm thêm mà đuổi việc, nước mắt chảy dài.
Những ngày sau sự cố, không nghĩ thì thôi nghĩ đến mắt Trung không còn chỗ trống, nhìn gì cũng tìm thấy nỗi đau của mình. Cũng vì công việc cái lưng mình mang ác với đứa nhỏ bưng dĩa thịt bò…
Trung tìm con nhỏ xin lỗi, cho tiền?
Trung đến chỗ tiệc cưới hỏi thăm địa chỉ cô bé, đại diện nhà hàng nói, vào làm mới hơn nửa tháng, bị “sự cố” hôm sau đến cấn trừ tiền đền công đền tiền dĩa thịt bò rồi trả lại hồ sơ xin việc.
Trung ra cổng “tâm sự” với bảo vệ. Người bảo vệ nhận ra cách đây ngày rưỡi con bé đạp xe lỏng ốc giò, đi về hướng vô hẻm nhỏ, trong đó có khu trọ vào hỏi thăm. Trung tìm đến, dãy trọ khóa cửa không có người để hỏi.
Ngày sau Trung đến sớm ngồi ăn bánh canh hẹ trước dãy phòng trọ (còn ngủ). Ăn sáng xong, Trung ngồi lau miệng, uống nước ngồi lâu thêm nửa tiếng nữa, rồi dắt xe máy đề nổ, bỏ số, cánh cửa phòng trọ bé Thương vừa mở hé một nửa.
Nửa buối sáng bà chủ trọ đến chống nạnh đòi tiền. Không còn tiền trả tiền thuê trọ, bà đuổi thẳng thừng. Thương dọn đồ…
Thương đạp chiếc xe đạp lỏng ốc giò về ngôi nhà lô mái ngói nứt đường súc. Thương đến tủ thờ thắp nhang cho mẹ.
Chạng vạng, hai ba con ngồi ăn cơm, Thương kể đầu đuôi câu chuyện bị cái lưng tông dĩa thịt bò ở nhà hàng tiệc cưới, người ta bắt đền, may trừ vào mấy ngày công con làm, chớ không tiền đâu mà đền. Ăn nửa chén cơm, Kiệt chảy nước mắt nói, để ba đi xin, ba có nghề đi xin (hồi trước Kiệt theo đoàn hát đóng kép chính diễn tuồng cải lương thảm đi xin trước hàng trăm khán giả. Vừa đi vừa hát, ngửa nón xin tiền. Mà trước đó có người nhín bán vài ký gạo, bợ con gà mái hột dầu sắp đẻ mang đem bán lấy tiền mua vé vào cổng, còn bỏ túi, tối đó coi tuồng cải lương thảm, bỏ vào cái nón để ngửa). Bé Thương gào khóc, ba không được đi xin, con làm nuôi ba. Hai cha con khóc thảm thiết.
Hồi nhỏ bé Thương qua nhà hàng xóm chơi. Bạn trai sinh ra không biết mặt ba, đang học nói thì mẹ lấy chồng không cho một đồng, ở với bà cố. Chiều bà cố tập đứa chắt vo gạo nấu cơm, về nhà Thương giành cái nồi bưng đi vo gạo, mẹ không cho Thương giậm cẳng. Bạn của ba mẹ đến chơi thấy con bé ngồi vo gạo dễ thương, nựng.
“Hồi nhỏ bưng nồi đi vo gạo, khâu bưng bơ cứng lắm, chắc do lưng tông mạnh”. Kiệt nghĩ vậy, cũng từ đó mắc chứng “ngủ không hết nửa đêm”, thức nhớ cải lương, tay ôm nón lá vừa hát vừa đi vòng xuống sân khấu, cúi đầu đưa nón rách đến trước mặt từng người…xin.
Hồi theo đoàn cải lương, ban đầu Kiệt đóng kép độc về sau lên kép chính.
Thời viết chữ k có bụng (k), trên tấm băng rôn viết chữ “rồng bay phượng múa”, hàng trên Nam nghệ sỹ, hàng dưới Tuấn Kiệt treo từ các ngã đường.
Tuấn Kiệt diễn kép độc qua kép chính “bán mình” cho nhân vật, hay ở chỗ từ ông tướng được kẻ hầu người hạ, ép bản thân “đi xuống” nghèo khổ, cảnh đời nghiệt ngã. Kép chính đóng vai… nghèo, thành công trong đau đớn. Người “coi đông như đám hát” ai cũng nhìn theo tướng đi yếu hung rồi của kép nghèo đưa tay chùi nước mắt, cho tiền. Nhờ “cảnh” đi xin nuôi đoàn cải lương gặp đợt mưa chín chiều, “đói” vì không bán được vé.
Đoàn cải lương tan rã, Tuấn Kiệt cưới vợ sinh ra Thương. Ban đầu sống nhờ trong bếp nấu cha mẹ, rồi xây nhà ra riêng.
Lúc đầu làm nhà 2 chái, thợ hồ bàn, nhà có phòng lồi nhìn sang ngôi nhà. Xây nhà “lở” ra phòng lồi, chi phí phát sinh từ mở móng đến máng thượng, mái che cửa sổ. Trước ba Thương làm công nhân, mẹ Thương tối nói trên đài truyền thanh của thôn, ban ngày nội trợ. Khi làm nhà “lở” ra phòng lồi chi phí phát sinh, mẹ Thương ban ngày đi làm công nhân kiếm tiền trả nợ…phòng lồi, bị sập công trình đè…
Vợ mất, Kiệt buồn, chiều nhậu. Uống rượu miết, bệnh, cái mặt nặng trịch (nặng như mặt nạ ông tướng).
Đoàn cải lương dân góp tứ xứ, người ở đồng bằng, người miền núi. Trung-hồi trước theo đoàn cải lương đóng vai quân sĩ. Đoàn cải lương tan rã, Trung chuyển sang làm nghề tổng thầu xây dựng cổng chào. Cuối năm Thìn đầu năm Tỵ làm cổng chào gần nhà Tuấn Kiệt, nhận ra người quen, Trung vào thăm. Lần Trung thăm Tuấn Kiệt, bé Thương không có ở nhà…
Lúc ra về, Trung đứng cạnh cổng chào chờ xe buýt, phía dưới là quán nhậu bình dân. Có người nói “xấu cổng” chào:
-Giá trị cổng chào bằng xây chục nhà tĩnh nghĩa? Tôi nói đâm ra mích lòng nhiều người.
Tiếng người kia cãi lại:
-Nói như anh mới đạt đến trình độ lý luận cơ sở, làm sao “cãi thắng” cổng chào!
Đang bàn chuyện cổng chào, cặp vợ chồng bán chợ “chạy” (xe máy lấy hàng vùng biển: cá, tôm, mực, nước mắm, chở ngược lên miền núi bán dạo, rồi mua hàng xuôi về bán lại), đang chở con heo lưng gãy sụp ổ gà, con heo la éc, éc…mấy người nhìn ra…im lặng. “Con đường không tôn trọng cổng chào, để heo la éc, éc”, Trung nhìn theo vợ chồng bán chợ chạy nghĩ vậy.
Lát sau, tiếng người cãi ráng:
-Tôi thầu phần xây móng cổng chào, chi phí xong còn dư …chầu nhậu. Trời đánh tránh bữa ăn, anh nói vậy là “đánh” bữa nhậu”.
Trung nghe cười, nhậu vào rượu nói.
Trung nhận tổng thầu rồi cho các B phẩy thầu lại…Trước trên sân khấu đóng vai quân sỹ, giờ ngoài đời chỉ tay năm ngón…
Trung đi ngang qua nhà hàng, nhớ lại, hôm đó người ta đi dự tiệc cưới đông như đám hát. Ở một góc nhỏ hơn mười bàn tròn, hơn trăm con mắt ngó, đều “đổ thừa” cái lưng tông thật mạnh đổ dĩa thịt bò. Dự đám cưới chỗ mối ngoại giao xây dựng cổng chào.
Thương dự định tháng lương bưng bê trả tiền thuê trọ rồi đem về quê.
Dép cũ của ba đứt, nhìn đôi dép rọ màu đỏ bầm…đau thương, chiếc đực chiếc cái (chiếc số 41, chiếc kia số 43, người mua ve chai đạp xe ngang qua ngõ rớt trong ra, ba lượm ghép lại), Thương tính mua cho ba đôi dép mới. Ai ngờ…
Thương xuống phố tìm phòng trọ rẻ tiền. Sống trong những ngày túng thiếu, có hôm ăn nửa bữa cơm nguội (nấu nồi cơm trưa, còn cơm nguội ăn buổi chiều, có lần trưa hết gạo nấu ít, buổi chiều ăn cơm nguội không đủ no). Với cô bé vẫn đỡ khổ hơn sau những ngày sập công trình mẹ mất đến bữa ăn nhìn “thiếu” chỗ mẹ ngồi, nước mắt chan cơm. Thương đau xót đi học cao đẳng bằng tiền viếng mẹ, nhưng tin vào tương lai.
Thương sợ nghề bưng bê chuyển sang bán miếng chà nồi, chà xoong. “Nồi, chảo cháy khét thấy bắt ghét, chà sơ qua một lần như mới”. Cái loa trước cổ xe đạp rao. Bán ế tiền lãi không đủ mua hộp cơm.
Phòng trọ không có thứ gì, chỉ có chiếc chiếu trải. Đi bán ế, chiều về trễ, đói bụng, chớ tô mì tôm nóng hổi lên đặt trên đòn ngồi cúi đầu ăn đỡ đói.
Thương chuyển sang trưa, chiều, bán vé số.
Bán vé số ngày nào bán đắt thì Thương ăn hộp cơm đầy đủ 3 món: xào, trứng vịt, nước béo. Ngày nào bán còn vé nhiều thì ăn hộp cơm thiếu (trừ tiền trứng vịt, chỉ gắp chút xào, chan nước béo).
Cô bé mang tiền bán vé số về quê “quyết tâm” mua nồi cơm điện cho ba. Nồi cơm hư nấu bị sình một bên (sôi một bên), chưa cạn nước bật qua nút hâm, bên sống bên chín. Ba Thương lấy chiếc đũa bếp chèn vô không cho bật qua nút hâm. Nấu cơm điện mà như nấu cơm củi đứng canh. Bữa quên rút chiếc đũa bếp, nút đỏ “đốt” nồi cơm cháy.
Bữa Thương về thấy đít nồi dính miếng cơm cháy đen.
Thương bán vé số dạo từ quán cá ồ nướng bờ kè đến quán bò. Thấy người chạy bàn bưng dĩa thịt bò, tay Thương run thiếu điều rớt tập vé số.
Qua tháng ngày cái lưng “thay mặt” xin lỗi nỗi sợ bàn tay, nhưng không ai cho ý kiến nói rõ lỗi tại cái lưng nên Thương không thể nào “tắt nguồn” nỗi sợ?
Thiệt tội bé Thương, ám ảnh dĩa thịt bò “bỏ đói” một ngày rưỡi.
Thương chuyển nghề gánh bán nước dừa. Thương nghĩ, trên bước đường đời mình mạnh hơn số phận không may. Buổi sáng đi học, trưa, chiều, bán nước dừa dạo. Đang gánh dừa, có gọi mua, Thương đặt gánh, lấy buồng dừa ra, chưa kịp để xuống thì có trái dừa rụng khỏi buồng lăn lốc cốc ra đường. Thương chạy theo, “xe rau” chạy ẩu lao đến thắng kít, kít, kít…Bình thùng xe ba bánh tông Thương đang ôm trái dừa, ngất xỉu.
Trung chạy xe gắn máy đến, thấy nhiều người vây quanh hô cứu, cứu. Trung dừng xe, có người nhờ chở đến bệnh viện. Trung ngồi trước, có người ẵm cô gái lên xe rồi ngồi sau ôm.  Bánh xe cán đinh xẹp lốp. Xe cấp cứu của Trung, đứng bánh.
Cặp vợ chồng đang chở chợ “chạy” đi qua, có người đón lại nhờ chở người cấp cứu. Chiếc xe máy chở cả người lẫn thịt cá đến bệnh viện.
Vết thương nhẹ, hôm sau Thương xuất viện.
Bà cố nhà ở bên kia cổng chào qua thăm, rờ mình mẩy Thương từ trên xuống dưới không có chỗ nào xước chảy máu, nói “trong cái rủi có cái may” rồi về.
Có lần bà cố qua nhà gói bánh đám giỗ mẹ Thương. Tay gói bánh ít, bánh nậm, bà cố vừa kể chuyện nuôi đứa chắt. Bà ngoại của nó là con gái của bà. Mẹ thằng nhỏ được bà ngoại sinh ra, không biết mặt cha. Thế hệ con gái của bà và mẹ đứa chắt sai lầm ở tuổi mới lớn làm mẹ.
Sau khi sinh thằng nhỏ cũng không biết mặt cha, đang học nói mẹ nó theo một người đàn ông đi xa, bỏ lại đứa chắt cho bà cố.
Đến tuổi đi học, ngày đầu đến trường, hôm sau thấy trường học là nó nằm dài xuống đất khóc. Về nghỉ vài bữa bà cố dẫn đến, thấy lớp học là nó lăn ra khóc, sổ mũi, bệnh luôn.
Năm sau dẫn đi học, nhìn từ xa thấy trường học nó cũng nằm dài…Có đứa nhỏ nói: “Bạn này năm trước bị cô nhốt trong nhà vệ sinh”.
Thì ra ngày đầu đi học, thằng nhỏ chơi phá nước, nói không nghe, cô giáo nhốt trong nhà vệ sinh nên ám ảnh đi học.
Bao lần cứ thấy trường học là nằm dài, bà cố nghĩ đến tương lai, bà cõng vô tận lớp học, thưa với cô giáo rồi ngồi giữ. Lần sau bà ra ngồi trước cửa lớp lấp ló cho đứa chắt thấy nửa cái mặt để nó không chạy ra ngoài…Tháng sau nó mới chịu ngồi học.
Học tiểu học, đứa chắt hiền khô, trong xóm có người nói “bê đê”, người thì nói “giỡn chút cho vui”, bằng từ: “phụ nữ một nửa”. Biết họ tên là Đào Trưng, Kiệt bỏ thêm chữ thị vô: Đào (thị) Trưng. Từ đó nó rất thích đi học nhưng lại sợ đến trường. Bà cố lại khổ nữa, năn nỉ lối xóm đừng chọc nữa…
Nuôi đứa chắt, bà đi mua nhôm nhựa (ve chai), có ngày không đủ tiền nuôi đứa chắt, chiều, bà cố xin tô nước luộc gà. Có ngày được nửa tô nước luộc đầu heo mang về…chan cơm nguội.
Rồi sau bà làm phụ hồ, sức khỏe yếu nên chủ thầu tính một ngày bằng nửa công (làm một ngày được trả nửa tiền công lao động so với người khác). Làm phụ hồ từ sáng đến chiều mới về, trưa bà dặn nó qua quán tạp hóa đầu xóm mua nợ mì tôm, khi thì bó bún khô về nấu nước sôi chớ ăn. Phụ hồ đúng tháng, bà đem tiền trả nợ…gối đầu.
Có lần bà bị gạch đè dập bàn chân nằm nhà, thằng nhỏ ra quán tạp hóa mua nợ. Bà chủ quán ghi sổ nợ mấy trang vở học trò. Không chỉ thằng nhỏ mà nhiều người túng thiếu cũng xin nợ… Cụt vốn, bà bán hàng tạp hóa không đòi mà âm thầm dẹp quán. Kiệt nghe kể, nói tội bà bán quán nợ hơn thằng nhỏ mua nợ.
Rồi đứa chắt nhổ giò phát tướng. Sức ăn của nó thêm một nửa. Tô rưỡi cơm nguội, gói rưỡi mì tôm…mới no. Một nửa gói mì tôm để cho hôm sau, bay mùi mì tôm dưới bếp.
Mùa mưa, đài báo bão sắp đổ bộ vào đất liền. Đứa chắt vỗ ngực ra trai, cột lại mái tôn quyết tâm giữ bằng được “nhà nghèo” của bà cố giữa tâm bão.
Thằng nhỏ có mẹ lấy chồng không cho một đồng tốt nghiệp cao đẳng nghề. Nó có năng khiếu vẽ chữ “rồng bay phượng múa”, người ta đặt hàng vẽ làm đẹp cổng chào thôn. Nó còn chế tác mão, mặt nạ ông tướng…thu nhỏ với nhiều màu sắc bắt mắt, bán cho du khách mua quà lưu niệm.
Ngày mẹ nó theo chồng không cho một đồng, bà cố tính sẽ dắt chắt đi ăn xin, giờ thành thợ giỏi, tiền công cao lắm.
Kiệt coi nó là “thần tài”. Gần đây bỏ nhậu, Kiệt thấy gương mặt nhẹ trở lại, mong mau tối mau sáng, Thương học ra trường lấy chồng mình “đi” cũng vui vì con có chỗ có nơi. Mà bây giờ biểu Thương cũng không dám thương bạn hàng xóm mẹ theo chồng không cho một đồng, gương mặt hiền khô nhưng đẹp trai. Nó quen, yêu rồi bỏ hai đứa bạn gái trong chưa đầy một tháng rưỡi.
Già chừng tuổi bà cố vẫn khắc ghi mình là “con nuôi 9 hóc”. Cuộc đời bà bước ra từ chiến tranh. Khi đó, một Trung đoàn quân ta đang đóng quân ở bờ suối thôn 9 hóc (thôn có 9 địa danh, bắt đầu từ chữ hóc) thì bất ngờ bị địch pháo kích. Anh chiến sỹ thuộc Trung đoàn chạy về phía xóm nhà bị cháy rụi thì thấy người chết nằm la liệt. Một đứa bé khoảng 8 tháng tuổi đang ôm xác mẹ bên vũng máu khô. Đứa bé cũng bị thương khắp người. Anh ôm cháu bé đưa về trung đoàn và cùng đồng đội đặt tên là “Lượm”, rồi đưa về cho vợ chồng hiếm muộn. Người dân thôn 9 hóc quyên góp gạo, thức ăn nuôi…
Lớn lên, bà Lượm theo về quê chồng sinh con đẻ cháu. Sau ngày đất nước thống nhất, dịp tết bà quay lại nơi ngày trước bà ôm xác mẹ bên vũng máu khô. Thôn 9 hóc là thôn cách mạng, trong hóc có 10 nhà thì 9 nhà liệt sĩ.
Qua năm tháng miền quê thay đổi, có năm bà về quê bị “mất thôn” (sáp nhập hai thôn lại lấy tên khác), nhưng nền nhà cũ vẫn tìm ra nhanh vì ở cạnh cổng chào.
Mỗi thôn đều “trang trí” cổng chào. Hồi đứa chắt còn nhỏ bà dắt nó về đây, thấy cổng chào nó nói, cổng chào biết “đi dạo”.
Giáp tết bà cố đi chợ mua nếp, rọc lá chuối, chẻ lạt tre, biếu cháu Thương qua ngồi đòn tập gói bánh tét. Trải lá chuối ra rồi múc chén rưỡi nếp trải dài theo lá chuối, sau đó cho nhưn (nhân) lên, tiếp tục múc chén rưỡi nếp trải lên trên để khi gói nhưn bánh không bị nghiêng.
Bà cố biết gói bánh tét hồi ở thôn 9 hóc. Điệu bộ bàn tay “nựng” bánh của bà cố, sau khi túm lá chuối bó một đầu rồi dựng cây bánh lên dùng tay vỗ nhẹ xoay tròn cho nếp dính đầu lá rơi ép xuống, gọi là “nựng”.
Bí quyết bó bánh tét riết chỗ nuộc lạt nhăn lá. Thương tập gói bánh tét, để lộ nụ cười khi bánh tét bị “rách miệng”, lấy lá chuối trùm lại, rồi dùng lạt bó chặt gọi bánh tét trùm đầu. Bà cố chỉ Thương gói bánh tét bó “làm đẹp” nuộc lạt năm Tỵ.
Thằng chắt ngồi nhịp đùi coi bà cố chỉ Thương gói bánh tét (đứa chắt nghĩ, sự cố bánh tét bị “rách miệng” chọc cười, khi nghĩ tới là cười qua tết). Bà cố khen đứa chắt “tướng đàn ông”.
Chiều, Thương, “thưởng tết” ngay lập tức kho cá tan xương cho ba ăn. Cá liệt rửa sạch bắt chảo dầu lên bếp, chờ dầu sôi gắp cá thả liệng, thả liệng…rồi đem kho nghệ, hâm đi hâm lại. Cá qua ba lửa…tan xương.  Món này Thương học được ở đầu bếp nhà hàng làm đổ dĩa thịt bò.
Loa đài truyền thanh của thôn gắn trên cổng chào thông báo mời xem chương trình văn nghệ góp tết Ất Tỵ.
“Không biết hẹn lúc nào mà hai đứa đi qua cổng chào mang theo bánh tét góp tết năm Tỵ. Chưa thấy một lần đứng cạnh nhau nói chuyện mà hai đứa mặc áo dài cải lương đi bên nhau thân mật quá! Mà tụi nhỏ ngày nay nói chuyện bằng tay, nhắn tin trên điện thoại qua lại”. Kiệt nghĩ rồi nhìn trên cổng chào, chữ chúc mừng năm mới bằng màu vàng vạn thọ trên băng rôn màu đỏ.
Những năm Kiệt theo đoàn cải lương, trên bước đường bôn ba, cuối năm về quê “góp tết” bằng lời ca tiếng hát đậm tình tình quê.
Tháng giêng bông vạn thọ nở “rách miệng” thanh niên trong xóm rong chơi như ăn tết lại thì thằng nhỏ có mẹ lấy chồng không cho một đồng làm nghề thợ giỏi đầu năm mới, bé Thương vào thành phố học. Kiệt cười, đã thấy “một nửa” tương lai của hai đứa trẻ.
18/2/2025
Mạnh Hoài Nam
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...