Thứ Tư, 28 tháng 5, 2025

Truyện ngắn của hội viên mới Cao Thanh Mai ở Cần Thơ

Truyện ngắn của hội viên mới
Cao Thanh Mai ở Cần Thơ

Tác giả Cao Thanh Mai tên thật Lương Thị Bích Chi, sinh ngày. 21.3.1960, quê quán xã Phú Đức, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long hiện sống tại quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ. Tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Trường Đại học Cần Thơ, bà dạy học phổ thông và Trường Quân sự Quân khu 9.
Những tác phẩm chính của Cao Thanh Mai đã xuất bản: Trầu không xanh lá (Tập truyện ngắn, 2015); Chim cánh cụt biết bay (Tập truyện ngắn, 2018); Biển về bên sông (Tập truyện ngắn, 2018); Về miền xa lắc (Tập truyện ngắn, 2021); Tự tình với quê (tập tản văn, 2023); Ngày ấy chưa xa (Tập truyện ký, 2024). Bà được nhận Giải tư Cuộc thi viết về đề tài Nông nghiệp – nộng thôn và nông dân Việt Nam năm 2016 với truyện Trầu không xanh lá.
Suy nghĩ về nghề văn, Cao Thanh Mai cho rằng: “Không có tác phẩm văn học nào thành công được viết ra từ sự hời hợt cả. Càng có ý thức, trân trọng, nghiêm túc với nghề, nhà văn không bao giờ tự bằng lòng với kết quả mình đạt được. Thái độ nhìn nhận sự việc xảy ra trong cuộc sống cũng là một phần trong tích cách của nhà văn”.
Nhà văn Cao Thanh Mai vừa trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2024. 
MỘT CUỘC ĐỜI
– Số phận con người đôi khi bẽ bàng quá hả chị Tư? Tui đâu ngờ con Linh đi trước tui. Có nó, hai bà cháu sớm hôm hủ hỉ cũng đỡ buồn. Nó vắn số quá, biết làm sao được hả chị?
Giọng bà Sáu chùng xuống như sợi dây đờn bầu bị giãn, dù có cố căng chỉnh lại vẫn không thể tròn trịa hơn. Giá mà lúc này, ai đó buông một tiếng đờn giọng bà sẽ càng nỉ non, thống thiết. Thanh âm khàn đục hợp với cảnh và tình. Ngồi nhìn di ảnh đứa cháu gái vừa mất cách đây ba tháng mà bà cứ tưởng nó đang lui cui dưới bếp nấu cho bà bữa cơm, canh chừng siêu thuốc bắc. Hay nó đang ngồi ngoài sàn nước giặt cho bà bộ đồ còn nói vói vô:
– Nội cứ ngồi đó nhe, chút híu nữa xong rồi con lấy cơm nội ăn. Nó dễ thương vậy đó chị. Cứ luôn tay luôn chưn, đùng một cái bị chứng bịnh nan y. Nhà nghèo, bịnh nan y coi như cửa tử mở sớm chớ trông mong gì nữa chị ha?
Bà Sáu nói chuyện với bà Tư hay nói với chính mình? Thân già lụm cụm rồi đơn độc biết sống sao đây? Tay bà cầm lá trầu têm nửa chừng, chẳng buồn đưa lên miệng. Ngày chở con Linh về tới nhà thấy con nhỏ như nằm ngủ say. Bà lần bộ ván tới chỗ cháu nằm, rờ lên tay nó, lạnh ngắt. Cơn cớ gì nó không chịu ngồi dậy nói chuyện với bà như mỗi trận mưa tuôn? Nó hay ngồi ôm bà từ phía sau, ngã đầu vô vai bà hít mùi trầu cay, vôi nóng. Nó nói:
– Con ở với nội hoài vầy chớ lấy chồng chi cho cực nội ha?
– Mồ tổ cha bây, có thương thằng nào nói tao gả chớ nói dèm chi bây?
Bà Sáu vừa nhai trầu vừa thong thả trả lời cháu. Linh muốn nói, sợ nội tủi thân:
– Con đi lấy chồng ai trèo cau hái trái cho nội ăn trầu?
– Tao bắt thằng chồng bây trèo, làm rể mà!
– Người ta không quen đâu nội ơi!
Vậy đó, có những câu chuyện hai bà cháu cù cưa, đưa đẩy mà vui cửa vui nhà. Vậy mà giờ đây…! Bà bỏ lững câu nói sau tiếng thở dài, nước trầu chảy theo hai bên mép như hai sợi râu dài của anh hề trên gương mặt đầy nếp nhăn, phấn sáp. Cũng vì nghèo, chú Ba Sang của nó đi chài lưới bị vọp bẻ té sông chết đuối trôi gần tới đầu vàm, bà con chèo xuồng ngang thấy xác kéo lên bà mới hay. Mẹ nó bị khủng hoảng tinh thần bỏ đi biệt tích tới giờ. Kể ra con Linh ở với bà tính tới ngày chết hai chục năm, chín tháng, mười lăm ngày. Bà tưởng nó ngủ trưa ngon giấc cứ lâu lâu nắm tay kêu “dậy nấu cơm chiều đi con. Nội đói bụng rồi”. Nó nằm im, cho tới lúc người ta đưa nó vô hòm bà mới giật mình té quỵ. Tất cả ma chay đều nhờ hàng xóm thương tình phụ giúp, cháu bà có mồ yên mả đẹp. Nó yên phận nó. Lời bà như cơn gió thoảng qua:
– Tại sao ông trời bất công với con nhỏ quá chị Tư? Tui già vầy ổng hổng bắt tui đi để cháu tui lại, nó còn trẻ, hiếu thảo quá mà chị!
Bà Tư Xinh, người hàng xóm thuở cơn hàn, tay run run chống cây gậy, gượng từng bước tới bàn thờ con Linh đốt cho nó cây nhang. Bà lâm râm:
– Linh ơi! Sống khôn chết thiêng, về phù hộ nội con mạnh giỏi nghe Linh! Bả nhớ bây dữ lắm đó!
Bà Tư nghẹn lời. Từng tuổi này bà mới nghe nói tới bệnh ung thư quái ác nó cướp đi sanh mạng đứa cháu dâu tương lai dễ thương nhất của bà. Nói nào ngay, bà Tư cũng có ý qua thưa chuyện với bà Sáu cưới con Linh cho cháu nội bà nó đang chốt ở đồn biên phòng ngoài Hòn Núi chi đó. Hôm rồi con dâu bà nói thằng Nam nhắn về như vậy. Hai đứa thương nhau hồi còn học chung, Linh thương bà nội già sống một mình không nỡ đi lấy chồng. Ngày Nam đi bộ đội hai đứa hứa sẽ chờ ngày Nam về nhờ nội đem trầu cau qua nhà thưa chuyện. Bà Tư chưa kịp mở lời ai ngờ con Linh đi lẹ quá. Bệnh này trời kêu ai nấy dạ. Nhà giàu hết tiền của còn không giữ được mạng sống nói gì con Linh nghèo rớt mùng tơi cháu bà Sáu Hóng ở ngọn Kinh Cùng này. Số phận con người đôi khi nó thiếu công bằng. Nếu trách trời bất công cũng đúng.
… Sáu Hóng, ông nội Linh, hồi đó người ta kêu là “cu tí chăn trâu” không sai chút nào. Sáu nhỏ con, chăn trâu chuyên nghiệp đến làng trên xóm dưới đều biết tiếng. Còn Sáu Sảnh, một điền chủ khá nổi tiếng, ruộng nhiều, trâu hàng mấy chục con. Nên việc “phát hiện” ra Sáu Hóng quả là có con mắt nhìn người. Nghề này không phải qua trường lớp, chủ dặn vài việc cơ bản, ai cũng làm được. Tất nhiên, mới đầu khá lúng túng vì chưa kinh nghiệm, sau quen dần chỉ là rất vất vả mà Sáu trụ được với “nghề” mấy chục năm phải nói rất đáng biểu dương. Hơn nữa, trâu là con vật gần gũi với người, cũng hiền, dễ làm quen. Vậy rồi thân thiện, biết ý nhau. Chỉ cần Sáu lên tiếng là nó hiểu. Ngôn ngữ “giao tiếp” giữa Sáu và lũ trâu, người ngoài khó tiếp cận được. “Nghé ngọ… nguậy” là gì, Sáu nói không ai hiểu. Vậy mà con nghé biết chạy lại bên Sáu như người bạn thân thiết. Vì lẽ đó mà Sáu gắn bó với chúng không rời.
Dành cả cuộc đời theo đuổi một nghề duy nhất, Sáu sực nhớ ra, ngoài lũ trâu Sáu có để ý một người. Chỉ là thầm kín thôi. Nhưng nó lạ lắm. Vì đôi lúc gặp cô Năm Bầu ở đợ nhà ông Tư Tam xóm Tắc Ông Me hay đội cơm cho dân cấy ăn, Sáu quên mất đang điều khiển “dí vô, phá ra” mấy con trâu trục đám ruộng bên cạnh. Lấy hết can đảm, Sáu ngập ngừng thưa với bà chủ lúc ngồi dưới bụi trâm bầu rằng, nhờ bà chủ sắm giùm đôi bông mù u để dànhcưới vợ sau này.
Ông bà chủ là người đại diện nhà trai cầm trầu cau đi hỏi Năm Bầu đang ở đợ nhà Tư Tam. Năm Bầu cũng mồ côi, ông bà Tư Tam lượm về đặt tên nối theo thứ tự con ông bà trong nhà, gánh cái xấu vì vợ Tư Tam sanh hoài mà nuôi hổng được. Mang tiếng con nuôi nhưng chẳng khác chi ở đợ. Khi đi lấy chồng Năm Bầu mới biết mặc bộ lãnh Mỹ A mát lạnh cỡ nào, gượng gạo đi bên Sáu Hóng tay xách cái tụng đệm đương bằng lát loại người ta treo bán lủng lẳng ngoài chợ, đựng mấy bộ đồ vải dầy cui bà chủ thương tình may cho. Đúng là cảnh tình vợ chồng Sáu Hóng – Năm Bầu bần cố nông thiệt sự. Bà con lối xóm đứng trong nhà ngó ra thương đứt ruột. Nhưng ai cũng nghèo có giúp được gì đâu. Hai vợ chồng cục đất chọi chim không có, lấy nhau là do trời sắp đặt số phận thôi. Ông trời có úp sai vung bao giờ?
Cái tên Sáu Hóng là do lúc chạy giặc trào Pháp, ông Sáu Sảnh thấy một cậu bé chừng mười tuổi ốm nhom, da mốc đen, hơi chậm chạp, cứ lẽo đẽo theo gia đình ông, hỏi ra cậu bé không còn người thân quen ruột thịt, không biết quê quán cha mẹ còn sống hay đã chết. Thuộc thành phần cù bất cù bơ. Cái đầu nhanh nhạy của Sáu Sảnh nghĩ ngay tới đàn trâu nhà mình không người trông giữ. Ông hỏi có chịu về ở với ông không? Thằng nhỏ đang ủ rủ bỗng tỉnh ra, gật đầu đồng ý không cần suy nghĩ lâu. Cuộc đời chăn trâu của Sáu bắt đầu từ đó. Để phân biệt, ông chủ đặt thêm Hóng cho Sáu. Cái tên Sáu Hóng gắn liền với Sáu cho tới chết. Ông bà chủ thương tình cho lấy họ Đinh có được danh phận làm người. Ngày Sáu Hóng lấy vợ ông bà còn che thêm cái chái cạnh chuồng trâu cho hai vợ chồng tá túc. Lúc ngồi chầm lá lợp cái chái, Sáu Hóng nghĩ:
– Mình sống sao cũng được, quen rồi. Cổ về đây chưa quen mùi trâu biết có ngủ được hông nữa?
Ông bà chủ tuy có bóc lột sức lao động của Sáu nhưng đời người như Sáu được vậy là may lắm rồi. Có người còn vất vưỡng đầu đường xó chợ khổ hơn nhiều. Cưới xong Sáu vẫn đi thả trâu cho nhà chủ, Bầu chạy về nhà ba má nuôi làm lụng giống thuở chưa chồng. Ngày ăn cơm chủ, tối về vợ phụ chồng lùa trâu vô chuồng, thắt con cúi đốt un lên cho đỡ muỗi, xong xuôi hai vợ chồng mới ngả lưng. Gà gáy canh tư, chồng dậy hốt “c…ứt”, xỏ vàm cho trâu chuẩn bị ra đồng. Vợ lui cui giặt bộ đồ dính phèn dầy mo cứng quéo cho chồng rồi xấp xãi tới nhà ông bà Tư Tam quét dọn, chuẩn bị cơm sáng cho mấy cô cậu chủ ăn đi học. Làm cực mà tiền hổng được nắm trong tay. Hai bên ông bà chủ đều nói:
– Tụi bây ăn cơm có người lo, nhà không có giữ tiền làm gì? Với lại có xài gì đâu mà cần tiền. Tao cất đây khi nào cần tao đưa!
… Vợ chồng Sáu bàn mượn miếng đất trống nhà chủ lên liếp làm rẫy kiếm thêm chút đỉnh tiền dành khi có con sau này. Trời đất phù hộ, hơn năm sau Năm Bầu đậu thai. Con nhà nghèo, biết thân phận, má nó nghén chỉ thèm bần chấm mắm cá linh ăn hoài không thấy no. Hằng ngày vẫn è ạch đi làm, gần tới ngày sanh bà chủ mới cho nghỉ để chuẩn bị nằm ổ. Bà mụ Chín mát tay lắm, trong xóm ai đau bụng đẻ là bà xăng xái chạy tới liền. Mụ vườn làm việc nhơn nghĩa, giúp không chớ dân nghèo lấy tiền họ có đâu mà trả, thêm cái tội. Thành ra mấy đứa nhỏ, đứa cũng kêu bà là ngoại Chín. Cháu ngoại bà chắc lên tới hàng trăm đứa. Sáu Hóng lúc này bận bịu hơn vì vợ không phụ cỏ rơm cho trâu, quét dọn chuồng như trước nữa. Sáu cũng xin ông bà chủ mấy gốc trâm bầu chẻ phơi khô để sẵn cho vợ đẻ nằm. Hai vợ chồng nói với nhau đời mình khổ quá lựa tên đèm đẹp đặt cho con mong nó thoát cái kiếp lận đận như mình. Bất kể trai hay gái cũng đặt là Giàu, đứa sau cũng vậy đặt là Sang. Người ta có giàu mới có sang! Ơn trời thằng nhỏ đẻ ra mạnh cùi cụi, da ngâm đen giống hệt ba. Thằng nhỏ sanh ra trong cái chái bên cạnh chuồng trâu mà tên Giàu, ai nghe cũng lắc đầu không hiểu trong đầu Sáu Hóng nghĩ gì. Bạn thằng Giàu dĩ nhiên là mấy con trâu trùi trũi, bụng căng tròn. Mỗi lần má nó cất tiếng “bớ Giàu ơi!” là ba nó phì cười. Cái mơ ước của ba má nó phi thực tế như vậy đó.
Hồi chưa giải phóng, Sáu cũng muốn tham gia du kích địa phương, thấy Sáu không được nhanh nhẹn mấy anh kêu Sáu ở nhà cần gì sẽ gọi. Bên quốc gia thì nói Sáu khù khờ quá bắt đi quân dịch súng chẳng biết cầm thì bắn ai? Thế là Sáu tiếp tục làm “Cu Tí chăn trâu” tới khi bàn giao cho thế hệ thứ hai được một năm thì giải phóng. Lúc đó thằng Giàu được mười lăm tuổi. Đúng là cách mạng làm thay đổi cuộc đời những người như Sáu!
Gia đình chủ được cách mạng vận động chia lại cho vợ chồng Sáu Hóng hai công đất coi như bù đắp công lao đóng góp mấy chục năm trời. Ngay cái bữa đoàn cán bộ vô đo đạc cắm mốc phần ruộng giao cho hai vợ chồng, Sáu mừng khóc hu hu như đứa trẻ. Năm Bầu cứ ngó lên trời, rồi cúi xuống lượm cục đất chọi thử con chim bay ngang coi có đúng là đất mình không? Hai vợ chồng đi lòng vòng miếng ruộng cứ trợt lên trợt xuống, tới trưa trờ trưa trật mới chịu vô nhà mà chưa hết ngỡ ngàng. Cũng từ đó thằng Giàu được má nấu cơm nóng cho ăn chớ không còn cảnh ăn toàn cơm nguội má nó xách từ chỗ nhà chủ về nữa. Nó được cho vô lớp bình dân vì quá tuổi tới trường tập làm quen với a, bờ, cờ… với những con số rối não. Năm Bầu sanh đứa thứ hai đặt tên Sang như đã hứa. Nhà Sáu Hóng chật hơn vì có thêm con nhỏ. Đàn trâu lứa già đã bán bớt, Sáu Sảnh không cho phát triển đàn nữa vì Sáu Hóng giờ đã riêng tư, lại có tuổi chăm sóc không được như trước. Thằng Giàu cũng hụ hợ chớ không nối nghiệp cha nó.
… Năm thằng Giàu mười tám tuổi, học đùa qua đùa lại hết lớp 6 bổ túc văn hóa thì đi bộ đội theo lệnh gọi nhập ngũ của địa phương. Thành phần gia đình bần cố nông được ưu tiên không phải xét lý lịch ba đời như người khác. Thằng Sang còn nhỏ, ở nhà có đứa để ba má sai chuyện lặt vặt trong nhà, nó yên tâm lên đường. Ông Sáu bước sang tuổi sáu mươi do làm lụng vất vả người khọm xuống, thêm chứng đau lưng khó đi lại, mỗi bước đi nghe lắc rắc, lục cục cứ như trong mấy khớp xương thiếu nhớt, nhất là chỗ bánh chè. Bà Sáu cũng vậy, hai lần sanh đẻ đi làm sớm không kiêng cử nên tay chưn cũng bắt đầu nhức mỏi. Thế rồi ông Sáu ngã bệnh, khi thằng Giàu chưa xong nghĩa vụ quân sự. Ngày hay tin ông Sáu bệnh nó lên gặp thủ trưởng xin phép tranh thủ về thăm ba. Ông Sáu thấy con về, nắm tay không cầm được nước mắt. Dặn con sau này nhớ chăm sóc má với em Sang. Nó có lớn chớ không khôn như đứa trẻ khác. Mười hai tuổi chưa qua nổi lớp ba. Bảng cửu chương học hoài chưa thuộc, ông lại không biết chữ nên con dốt theo.
Số phận, đôi khi thấy nó xử hẹp với những người nghèo lắm! Bắt con người ta trả mãi chưa xong cảnh lao đao, lận đận. Ngày xuôi tay, ông Sáu ngó mắt lên thấy ông trời dòm xuống chói chang. Hai hàng nước mắt ông chảy nửa chừng, bà Sáu thấy vậy lấy cái khăn quẹt trầu của bà lau cho ông. Vậy rồi ông nhắm mắt lịm dần. Thằng Sang mếu máo cầm bàn chân cha đóng đầy phèn giựt tới giật lui kêu ông tỉnh dậy chơi với nó. Thằng Giàu gỡ tay em cũng khóc theo. Bà Sáu ngó tới ngó lui, gió thổi ào ào qua cái chuồng trâu nhà chủ.
Theo lời mai mối, thằng Giàu cưới vợ chui khi đang nghĩa vụ quân sự trước ngày ông Sáu mất có ba ngày. Địa phương biết là vi phạm luật nhưng xét hoàn cảnh quá khó khăn nên cũng đành “nhắm mắt làm ngơ”. Giàu hết phép. Vợ trẻ còn ngượng nghịu chưa biết hôn chồng thì phải xa. Trước lúc đốt đuốc cho tỏ đường quê đưa chồng đón xe trở về đơn vị, vợ còn nghe chồng dặn “nhớ dòm ngó giùm thằng Sang nghe, vì em nó khù khờ quá”. Vợ ngơ ngác gật đầu nhận “nhiệm vụ” mà quên mình cũng ngác ngơ không kém. Trời thương tình kẻ nghèo khó, chín tháng sau một đứa bé chào đời. Đó là con Linh. May mắn hơn ông bà, cha mẹ nó lành lặn để làm người. Linh như một thiên thần được trời ban xuống để xoa dịu những đau khổ thiệt thòi của gia đình ông bà Sáu cả cha mẹ nó nữa. Nhưng ông trời cũng lấy đi của nó những người thân như chú Sang cù lần, khờ ịch. Má của Linh cũng bỏ nó ra đi không lời từ biệt. Nghe nói ba nó hy sinh ở bên Campuchia từ khi nó mới biết đỏ đẻ kêu ba. Cái bằng “Tổ quốc ghi công” cũng cũ rồi vẫn treo trên vách. Bao năm qua không có đàn ông như nhà không có cột cái. Bây giờ Linh cũng bỏ bà mà đi. Hỏi trên đời này còn ai thống khổ hơn bà Năm Bầu ở ngọn Kinh Cùng nầy không chớ?
Nghĩ cho cùng ông trời đôi khi cũng bất công lắm. Chỗ cần mưa thì ổng nắng. Chỗ nắng lại cầu mưa. Nhưng nắng mưa là chuyện của trời. Hơi đâu trách phiền ổng. Chuyện giàu nghèo, nhân nghĩa ở đời mới đáng nói. Thương bà Năm Bầu vợ ông Sáu Hóng quá. Đời bà hai chữ gieo neo nó trói buộc chặt quá mà bước chân bà đã ngắn dần, nhìn ông trời xa thiệt là xa, mặt đất thì mênh mông chỉ cúi xuống là chạm. Bà quẹt nước mắt nói với bà bạn già thuở còn ở đợ:
– Chị Tư à! Sau này… thôi thì trăm sự tui cậy nhờ chị vậy!
MÁ ƠI BA À
Thế hệ của tôi và Hoa, một phần tư đời người sinh ra và lớn lên trong chiến tranh. Đứa mồ côi mẹ, đứa thiếu thốn tình thương cha. Có đứa bơ vơ như con cò trắng ngơ ngác giữa cánh đồng mênh mông lúa, dáo dát tìm bầy giữa buổi chiều nghiêng. Nghe tiếng súng nổ quen tai hơn lời ru của má, chẳng được ba ẵm bồng vì đi công tác xa. Người lên tận miền Đông gian lao mà anh dũng, người tuốt miệt Cà Mau “thủ đô kháng chiến” miền Tây. Má ở nhà không chịu thua ba, cũng tham gia chiến đấu ngoan cường. Con thơ dại lắm khi mở mắt thức dậy thấy mình đang chạy tản cư lênh đênh trên một con sông nào đó hoặc dưới bến nhà người dân trong vùng giải phóng. Hay tới ở nhờ nhà của những bà má chiến sĩ khắp mọi nơi. Như tôi, như Hoa có biết bao bà nội đùm bọc, cưu mang, chở che dù không cùng huyết thống, nhưng chung lòng yêu nước, căm thù giặc tận xương tủy. Những “bà nội nuôi” thương mấy đứa bơ vơ như ruột thịt của mình để ba má nó yên tâm đi chiến đấu. Nhờ vậy cuộc kháng chiến mau giành thắng lợi.
Bốn tuổi Hoa mồ côi mẹ. Năm đó, tôi lên năm cũng phải xa ba. Ba tôi bị giặc bắt giam không biết ngày đoàn tụ. Còn bao đứa trẻ cùng thế hệ chúng tôi ra đời trong hoàn cảnh như vậy. Không một hình ảnh thân thương nào của người thân còn đọng lại trong ký ức. Những gì thuộc về mẹ, Hoa nói “quên sạch trơn rồi”. Đó là một thiệt thòi, một mất mát đau buồn nhất của đời người. Nhà Hoa có ba chị em. Mỗi đứa cách nhau hai tuổi. Ba chị em Hoa đang ở đậu nhà bà nội Tư. Chị Hai Liên sáu tuổi đã thay má chăm hai đứa em thơ. Ngày hay tin má mất đúng lúc chị Hai đang pha nước cơm với đường chảy cho em Phụng uống thay sữa. Em Phụng bỗng dưng không chịu uống nước cơm, tiếng con bé khóc ngằn ngặt làm dì Hai Hường ngồi nhìn thêm xa xót. Nhận được tin má hy sinh, dì Hai xuống xuồng bơi riết tới nhà bà nội Tư, nơi chị em Hoa đang tá túc xem tình hình thế nào. Nhìn cảnh ấy dì rất đau buồn. Giao ba đứa nhỏ cho ba nó thì không thể. Còn ở với má Tư càng không ổn. Dì sẽ đưa ba chị em Hoa theo. Dì Hai nghĩ, mình và má nó cũng có thể ở nhà lo cho con, việc ra chiến trường đã có đàn ông cầm súng. Nhưng kẻ thù đâu để mình yên. Đi chiến đấu đánh đuổi kẻ thù, giành độc lập tự do cho đồng bào mà sao con cháu mình khổ quá. Giặc cứ càn quét hoài, bỏ bom, đặt mìn khắp nơi làm sao bà con mình sống yên được. Dì Hai trăn trở, bàn với má Tư:
– Má à! Con dẫn con Hoa theo, ở nhà nhờ má lo giùm hai chị em nó nghe. Mình Liên giữ Phụng đủ cực rồi, con Hoa ở lại nó càng thêm vất vả.
Má Tư thấy sự bất tiện và đầy nguy hiểm nhưng dì Hai Hường quyết tâm nên bà không dám phản đối. Bà thấy tội ba đứa nhỏ quá. Ba nó theo cơ quan Cơ yếu của Quân khu ở tận rừng Cà Mau tới giờ chưa về thăm con lần nào. Má nó vừa hy sinh. Giờ chị em lại tan đàn xẻ ghé. Hổng chừng ba nó chưa hay tin? Biết làm sao được. Chiến tranh mà! Bà vừa ngoáy trầu vừa nghĩ ngợi mông lung. Trên đường Hai Hường đi công tác lỡ lọt vô ổ phục kích của giặc thì sao? Như hiểu được suy nghĩ của bà má chiến sĩ có tấm lòng nhân hậu, dì Hai Hường trấn an:
– Không sao đâu má! Nếu có đi công tác con sẽ gởi Hoa vô nhà dân ở đỡ. Chỉ cầu mong chị Sáu linh thiêng phù hộ ba chị em nó bình yên chờ ngày thống nhất gặp lại ba nó thôi. Ngày chị Sáu mang bầu con Phụng, anh Sáu đi miết tới giờ. Cha con gặp nhau có khi còn không nhận ra chớ chẳng chơi đâu.
Má Tư dừng tay ngoáy trầu, kêu Hoa lại, vuốt tóc, dặn dò con bé:
– Nhớ ngoan nghe lời dì Hai nghe con. Chị em con vẫn ở đây với bà, chừng nào nhớ, nói dì Hai dẫn về thăm nội, thăm chị em nghe!
Hoa dạ. Ba chị em bịn rịn ôm nhau cứ nghĩ đi đâu đó vài ba ngày rồi về. Nào ngờ cuộc chia ly ấy kéo dài mười năm cho tới ngày 30 tháng 4 miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Những cuộc chia ly như thế chỉ có người lớn mới hiểu, trẻ con chỉ buồn chút rồi thôi. Hai Liên ngồi nghe như hiểu hết câu chuyện, chạy nhanh ra mé rạch sau nhà nội Tư hái mấy trái bình bát chín hườm hườm vô đưa cho Hoa:
– Em cầm theo nè, chờ chín rồi mới ăn được nghe. Muốn ăn sớm thì rút cuống ra cho hột muối vô nó mau chín hơn.
Hoa gật đầu rồi theo dì Hai Hường xuống xuồng xuôi rạch Vịnh Chèo mà đi. Sau này lớn hơn một chút, Hoa mới biết dì Hai có chồng đi tập kết ra Bắc, nghe nói ngoài đó dượng Hai có gặp được Bác Hồ. Còn Bác Hồ là ai nó đâu có biết. Nhớ lại hồi năm lên tám, Hoa được phát một miếng vải có hai màu đỏ – đen đeo trên ngực trái, thấy ai cũng khóc, nó khóc theo. Dì Hai nói: “Bác Hồ mất rồi con ơi, đồng bào miền Nam mình không có dịp được đón Bác vô thăm cho thỏa nỗi mong chờ rồi”. Hoa là đứa trẻ “may mắn” được để tang Bác Hồ! Mấy năm sau đó dì Hai cũng không còn nhận bất cứ tin tức gì về dượng Hai nữa. Hy sinh, mất tích hay đã lập gia đình ngoài đó? Dì Hai mất liên lạc luôn. Đêm đêm dì Hai thường ôm Hoa vô lòng, vuốt lên mái tóc khét nắng của nó dặn:
– Ráng chịu cực khổ chút nghe con, chờ ngày độc lập sẽ gặp được ba với chị em con!
Hoa lặng thinh, ngủ ngoan trong tay dì. Hoa đâu biết, chính lúc đó dì Hai khóc nhớ dượng Hai, nói với Hoa cũng là an ủi chính mình. Miền nào cũng có cả một trời thương đau, nhung nhớ. Dì hướng về miền Bắc nơi có ngọn đuốc soi đường, có Bác Hồ lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn dân chống Mỹ đầy gian lao. Dì thầm ao ước ngày thống nhất dì sẽ được dượng về rước ra thăm Thủ đô một lần cho thỏa.
Cơ quan Dân y của dì nhận được lệnh cử cán bộ đi miền Đông để bồi dưỡng thêm về chuyên môn. Lúc này chiến trường miền Nam còn ác liệt lắm. Người chiến sĩ đã tuyên thệ dưới cờ Đảng thì không từ chối bất cứ nhiệm vụ gì. Nhưng dì lại đắn đo. Gởi Hoa lại cho ai đây? Nó còn nhỏ quá. Lúc này chưa thể gởi vô tập thể. Hiểu được tâm trạng của dì Hai Hường, dì Tư Vân cùng cơ quan đã nhận Hoa làm con nuôi, hứa sẽ thay dì Hai chăm sóc Hoa chu đáo. Vậy là Hoa có thêm một người mẹ. Nhưng Hoa vẫn là đứa trẻ mồ côi. Năm Hoa mười tuổi, nhờ ở chung với các dì trong cơ quan nên cũng hiểu phần nào về thân phận mồ côi của mình. Mỗi lần giặc ruồng bố, Hoa được gởi vô nhà dân để giữ an toàn. Hoa ngoan và biết nghe lời chỉ biểu của các dì. Có lần đi công tác qua đồn giặc, dì Tư đã nhét tài liệu vô lai áo của Hoa để tránh tai mắt của bọn chúng. Việc làm này đó có phần nguy hiểm, nhưng trong hoạt động cách mạng người chiến sĩ phải tận dụng mọi cách để qua mắt kẻ thù. May mắn thay hai dì cháu đã về tới cơ quan an toàn. Hoa cười ngất kể, mỗi lần làm lý lịch tới mục kê khai năm tham gia cách mạng, đáng lẽ Hoa phải khai từ năm lên tám mới đúng. Tất nhiên đó chỉ là một kỷ niệm vui thời niên thiếu.
Thế rồi Hoa được dì Tư Vân bàn giao lại cho bà nội Năm Hậu, cũng là một bà má chiến sĩ khác. Dì Tư được điều về Cà Mau công tác. Cuộc đời Hoa cứ cuốn theo vòng xoáy của cuộc kháng chiến và sự thay đổi nơi ăn ở đã tạo cho Hoa sự thích nghi với cuộc sống. Nghĩ về cuộc đời mình, Hoa nói, mình vẫn còn may mắn hơn nhiều người khác. Một đứa trẻ chín, mười tuổi bơ vơ không người thân thích mà suy nghĩ có quá già so với tuổi không? Hoa cũng không biết tin chị Hai Liên và em Phụng ở quê như thế nào. Còn ba thì vẫn đâu đó trong rừng tràm, rừng đước Cà Mau. Sau này gặp lại dì Tư Vân có kể, dì gặp ba và báo tin má Hoa đã hy sinh, chôn ở nghĩa trang Vĩnh Viễn. Ba nói có nhận được tin báo rồi, vì nhiệm vụ ba chưa thể về thăm chị em Hoa và đi tìm mộ má. Dì cũng kể về Hoa cho ba nghe. Ông ngồi yên lặng. Hoa sống nhờ vào tình thương của mọi người. Hoa là đứa con của tập thể cơ quan Dân y. Hoa ao ước gặp ba một lần để hỏi:
– Ba à! Con họ gì để khai lý lịch đi học?
Ai cũng muốn Hoa khai theo họ của mình. Nhưng con bé nhất định lấy họ Nguyễn. Hỏi lý do tại sao lấy họ đó thì không biết. Thực ra, Hoa họ Dương lót chữ Mỹ.
Nhận thấy cuộc chiến còn kéo dài, phải cho con em cán bộ đi học biết chữ để sau không phải chịu thiệt thòi. Hoa được chọn gởi xuống Cà Mau. Đó là căn cứ cách mạng nơi có nhiều cơ quan Quân khu đóng quân, trường học tập trung cho con em cán bộ để cha mẹ yên tâm công tác. Lần này Hoa chính thức đi xa.
Rời khỏi Vịnh Chèo vào một sáng máy bay quần đảo trên đầu. Hoa tiếp tục cuộc đời lưu lạc của mình, chưa biết điểm dừng chân. Cứ ai dắt thì theo. Dì Bảy Hội cũng là cán bộ cơ quan Dân y, người trực tiếp đưa Hoa xuống Cà Mau bằng đường hợp pháp. Hoa quen sống ở cơ quan cùng cậu dì nên tuổi thơ Hoa cũng trôi theo sự thay đổi của tình hình chiến sự. Lục tìm trong quá khứ chỉ thấy nước mắt rưng rưng của đứa trẻ ốm nhom ốm nhách, tóc chấm vai, lúc nào cũng phản phất một nét buồn tận sâu trong đáy mắt. Những lúc nhớ chị và em, Hoa xin đi hái lục bình, bông súng, cù nèo mọc chung quanh nơi cơ quan đóng quân để giấu những giọt nước mắt nhớ thương. Khi yên tiếng súng, xách thùng theo mấy dì, mấy chị đi bắt cá, mò tôm cải thiện bữa ăn. Nghe nói ba còn sống, Hoa mừng lắm. Vậy là mình còn người thân. Cuộc đời theo cách mạng của Hoa đã bước sang một trang mới. Dì Bảy gởi Hoa vào học trường Lê Văn Tám. Đây là trường dành cho con cán bộ ngành cơ yếu. Hoa hòa nhập môi trường mới, bắt đầu tập đánh vần, đếm số, học cửu chương. Ở rừng U Minh học sinh phải học dưới những làn mưa bom, đạn pháo. Một buổi chiều giáp tết, cuối năm 1974. Ở vùng miệt thứ U Minh, tràm trổ bông trắng khắp cánh rừng, toả hương thơm dịu nhẹ, bỗng pháo bầy từ thứ 11 bắn vô trong lúc thầy trò đang ăn cơm và một trái pháo rớt cạnh nhà ăn tập thể. Thầy Bình và hai bạn gục chết bên mâm cơm chan đầy máu. Những kỷ niệm chia ly chẳng bao giờ xoá nhoà trong tâm trí Hoa và những người từng chứng kiến cảnh đau lòng ấy. Đó cũng là động lực giúp những học sinh mới có tí tuổi đầu đã sống xa gia đình có ý thức rèn luyện và nỗ lực học tập tốt hơn. Hoa nhận được nhiều phần thưởng, trở thành cháu ngoan Bác Hồ. Vinh dự hơn Hoa được kết nạp đội Thiếu niên Tiền phong trong rừng U Minh vào một ngày bông tràm nở trắng màu tinh khiết. Mỗi lần họp mặt trường xưa, ai cũng ngậm ngùi thương tiếc: “Thầy tôi chết, bạn tôi cũng mất. Rừng U Minh chất ngất hờn căm. Đất U Minh thầy bạn tôi nằm. Hận thù ấy ngàn năm vẫn nhớ”
Hoàn cảnh đã tạo cho con người kinh nghiệm và bản lĩnh sống. Hoa đã lớn lên trong mùa cách mạng. Khi đã có những đổi thay trong cơ thể người thiếu nữ, tự dưng Hoa nhớ má, nhớ chị Hai Liên và em Phụng nhiều hơn. Má thì ở đâu đó trong vời vợi xa. Tìm má ở đâu? Hoa tìm má trong những giấc mơ. Ai là người trong ba chị em giống má nhất để Hoa nương vào đó mà tưởng tượng, ngắm nhìn? Con gái mất mẹ thiệt thòi nhiều lắm. Ở tập thể cơ quan, dù yêu thương và quan tâm nhưng các dì còn bao công việc đâu thể giúp được mãi. Hoa phải tự lực mọi thứ cũng như đỡ đần các dì những công việc nhỏ hằng ngày. Rồi Hoa nghĩ phải chi có má, má sẽ ôm mình vào lòng mà che chở, động viên, chỉ cho Hoa biết những biểu hiện khác lạ đầu đời con gái. Có những đêm pháo sáng đầy trời, Hoa lại ước gì má hiện ra trên kia cho Hoa thấy một lần cho thoả nỗi nhớ thương. May sao, cũng tại đây Hoa gặp được cậu Út Dân em của má. Cậu tìm tới thăm cháu và dặn: “Sau này có về quê đi tìm mộ má, nhớ là khi chôn má con cậu có để chai Penicillin ghi rõ họ tên, quê quán, ngày mất trong đó nghe”. Hoa đâu ngờ đó là lần cuối gặp cậu Út. Cậu đã hy sinh gần sát ngày cách mạng thành công, cách trường học của Hoa một cánh rừng tràm bông trắng muốt, dập dờn ong bay lượn mà xa cậu lại nghìn trùng. Hay tin cậu Út mất, Hoa khóc: “Cậu ơi! Khi chôn cất cậu có ai làm dấu để sau này người nhà nhận biết không?”. Câu hỏi ấy gởi vào hư vô. Đến khi Nhà nước có chế độ ưu đãi những gia đình có công với cách mạng, bà ngoại Hoa được tặng một danh hiệu vô cùng cao quí “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, khi bà đã cống hiến cho cách mạng người chồng và hai đứa con rứt ruột đẻ ra. Nỗi đau xé lòng của ngoại như bất cứ người mẹ Việt Nam anh hùng khác trên cả nước này khi nhận những tấm bằng “TỔ QUỐC GHI CÔNG”. Cho đến ngày ngoại không còn sức núm níu lấy tia hy vọng nào về cậu Út, bà mới đành buông tay. Ngoại ra đi với hai giọt nước mắt như hai hạt ngọc đang mòn dần theo. Đến giờ gia đình vẫn chưa tìm thấy xương cốt của cậu Út để mang về đặt cạnh mộ ngoại cho bà vui. Nhưng chắc ông bà ngoại, cậu Út cùng má đã được sum hợp với nhau rồi?
Sau giải phóng Hoa được tiếp tục đi học trường Nguyễn Việt Hồng và đặt ra cho mình một việc phải làm đó là đi tìm ba, chị Hai và em Phụng. Dò hỏi thăm tin tức về ba mới hay ba đã có gia đình riêng, có về Vĩnh Viễn đón chị Hai và em Phụng. Một cảm giác hụt hẫng, Hoa miên man suy nghĩ: Còn mình thì sao? Bây giờ có hỏi lại Hoa cũng không biết lúc đó, bằng cách nào, tiền đâu để đi từ trường Nguyễn Việt Hồng về tới Phương Bình tìm đúng nhà ba mà trong trí nhớ được các dì dặn “ba con tên Sáu Ngôn, công tác cơ yếu, quê ở Phương Bình”. Giây phút gặp lại nhau, xúc động thì ít mà ngỡ ngàng thì nhiều. Ông sáu Ngôn đâu ngờ con gái vẫn còn sống và tìm đến nhà ông. Tiếng ba vẫn còn ngượng nghịu trên vành môi. Hoa bất ngờ hỏi:
– Ba à! Sao ba không đi tìm con?
Câu hỏi của Hoa khiến ông Sáu Ngôn đau điếng, ông lặng người đi. Thẫn thờ một lúc thật lâu ông mới cất tiếng:
– Ba có hỏi thăm con. Những người đưa con đi theo, người thì hy sinh, người chuyển vùng công tác, công việc cơ quan nhiều ba chưa đi được. Ba về Vĩnh Viễn biết chị em con còn ở đó với bà nội nuôi nên dễ gặp hơn. Con tha lỗi cho ba nghe!
Có lẽ lời giải thích của ba phần nào làm Hoa nguôi ngoay sự tủi thân của mình. Hoa không trách ba đi thêm bước nữa, dù sao má cũng không còn. Chỉ buồn sao có ba đứa con gái mà chỉ đi tìm hai đứa. Vậy nếu Hoa không đi tìm thì có phải Hoa mãi mãi bơ vơ côi cút không? Vì xa cách quá lâu, ba chị em gặp lại nhau thật sự có chút xa lạ. Nhưng tình máu mủ ruột rà cũng dễ dàng xóa bỏ mọi cách ngăn. Hoa đã có sự trưởng thành, chững chạc hơn cả chị Hai Liên. Đây là nhà của ba, có dì ghẻ và mấy đứa em. Niềm vui chỉ ban đầu, biết không thể ở cùng ba được mãi, ba chị em dắt nhau tìm về quê ngoại theo lời chỉ dẫn của ba. Trường Long, trước cũng là vùng căn cứ cách mạng, một xã được Nhà nước tặng Anh hùng thì đủ biết mảnh đất này hứng chịu bao nhiêu bom đạn tàn phá tan hoang xơ xác đến mức nào. Và cũng có bao người đã đổ máu xương để gìn giữ quê hương khi giặc điên cuồng muốn tiêu diệt những người yêu nước. Ngoại gặp lại ba đứa cháu mồ côi của mình, bà đã nghẹn ngào dang tay đón nhận, rồi chia đất cất nhà cho cháu có chỗ ở ổn định cuộc sống sau này. Xong việc nhà Hoa trở lại trường nhập học. Theo địa chỉ còn lưu giữ được, Ban quản lý nghĩa trang xã đã thông báo đến gia đình việc di dời hài cốt liệt sĩ về nghĩa trang huyện. Hoa xin phép nhà trường nghỉ học về nơi quy tập có mộ má nằm. Chị Hai Liên báo cho ba biết và ông cùng đồng hành. Mấy chị em Hoa, tay cầm nắm nhang tới trước lư hương đặt giữa nghĩa trang khấn nguyện:
– Má ơi! Má sống khôn chết thiêng hãy về phù hộ cho chị em con tìm gặp mộ của má nghe. Cậu Út có dặn con lúc tẩn liệm má, cậu đã ghi tên, quê quán rồi bỏ lọ thuốc vô trong túi áo của má đó. Đừng đi đâu bỏ chị em con bơ vơ lần nữa nghe má!
Hoa cảm thấy bần thần, không hiểu sao mình có thể nghĩ ra được những điều vừa khấn. Có lẽ má đã thấu hết lời con trẻ nên khi mở nắp mộ ra Hoa xác định được chính xác má mình. Vỡ òa niềm vui an ủi trong giây phút gặp má chỉ còn bộ xương khô dưới đáy mộ. Lúc này ba mới nắm chặt tay đứa con gái. Một luồng hơi ấm từ ba chạy khắp cơ thể Hoa. Nhưng sự tủi thân không hề vơi đi khiến Hoa khóc nức nở. Tiếng “má ơi” thật sự lần đầu được cất lên trong không gian bi thương làm Hoa nghẹn lại giữa chừng.
Má đã yên mồ mả, ba có thêm những đứa em. Biết không thể phụ thuộc vào ba, chị em Hoa tự bơi giữa dòng đời trong đục. Học xong cấp ba trường Bổ túc công nông Hoa xin về cơ quan Dân y, nơi gắn bó với tuổi thơ Hoa trong kháng chiến. Biết được hoàn cảnh Hoa không thể tiếp tục học cao hơn như các bạn, cơ quan sắp xếp Hoa vào làm việc. Cứ thế mà lớn lên, mà trưởng thành. Rồi chuyển công tác, được đi học nâng cao trình độ chuyên môn, cũng đứng ở vị trí lãnh đạo cho thấy sự phấn đấu không ngừng nghỉ của Hoa. Đến giờ, theo lời người phụ nữ đi gần trọn cuộc đời chưa cảm thấy ân hận một điều gì. Nếu gọi đi theo cách mạng là cống hiến thì quá to tát. Có ra chiến trường đâu, có đổ xương máu đâu? Tuổi thơ bơ vơ nay ở với người này, mai người khác, bom đạn khắp nơi, có lẽ má che chở nên vẫn an toàn.
Giặc Mỹ đã cướp đi người mẹ hiền từ nhưng gan dạ, chấp nhận hy sinh góp phần cho cuộc kháng chiến thành công. Còn thanh xuân của Hoa là những ngày lặng thầm dõi theo tiếng súng ở biên giới Tây Nam Tổ quốc. Lúc biết bồi hồi thương nhớ cũng là lúc đưa tiễn người yêu xung phong vào một đơn vị bộ đội ra chiến trường. Hôm chia tay anh nói:
– Tụi anh phải đi đánh Pôn Pốt trả thù cho hàng vạn bà con mình bị chúng giết hại. Ngày xưa ông ngoại, má em, cậu út, ba anh hy sinh mình chưa đủ tuổi cầm súng chiến đấu để trả thù. Nay thấy dân mình chết dưới bàn tay khát máu, tàn bạo của Pôn Pốt thì làm sao yên mà ngồi trên ghế giảng đường để học tiếp nữa. Em yên tâm đi anh sẽ trở về. Nhớ học cả phần anh đó!
Khát vọng đem lại bình yên cho quê hương đất nước của thế hệ mới là thế. Bộ đội Việt Nam đã giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng kinh hoàng rồi. Giờ đây họ đã ổn định và phát triển cuộc sống ngày ấm no hơn. Nhưng đâu đó trong sâu thẳm trái tim Hoa vẫn còn những nhịp đập bồi hồi khi nhắc về tuổi thơ mất mẹ, về mối tình đầu của mình. Má hy sinh ở Vĩnh Viễn đã được quy tập về nghĩa trang huyện. Minh vĩnh viễn yên nghỉ ở nghĩa trang biên giới xa xôi. Nơi những người lính luôn ngày đêm canh giữ vùng đất biên cương Tổ quốc. Ông ngoại, má, cậu Út, ba của Minh, cả Minh nữa và những người không tiếc máu xương mình cho những cuộc chiến tranh không mong muốn này. Hỡi những người thân yêu! Tất cả hãy thanh thản yên nghỉ nghe. Lòng đất mẹ lúc nào cũng bao dung dang rộng vòng tay để ôm trọn những đứa con của mình. Những lúc bồi hồi Hoa nhớ ngày xưa Minh hay nói:
– Bộ đội mình lãng mạn ghê, ra trận lo căng mắt canh quân thù không dám chớp, thời gian đâu mà ngắm ánh trăng treo đầu súng. Nhưng không có lạc quan, yêu đời thì làm sao vượt qua gian khổ để đánh giặc được. Lúc ra trận anh sẽ ngắt những bông hoa treo đầu súng để khi bắn được thằng giặc nào coi như mình tự thưởng hoa điểm mười luôn.
Sự tếu táo của Minh luôn làm Hoa ấm lòng cũng không khỏi lo âu. Điều lo sợ nhất đã trở thành hiện thực. Minh hy sinh trên đất bạn. Ngày ấy, Hoa đón nhận tin buồn khi đang nghe bài hát “Như hoa phong lan chờ đợi. Mưa nắng không phai nhòa. Đường về nhìn nhụy hoa ngát hương. Anh ơi! Em sẽ đón anh về”. Bài hát được phát ra từ loa phường đang tập trung thanh niên lên đường nhập ngũ. Cuộc sống thời bao cấp chưa bao giờ dễ chịu, thiếu thốn đủ mọi mặt, nhưng đường ra trận vẫn rộn ràng. Đúng là “kẻ thù buộc ta ôm cây súng”. Từ nhỏ Hoa đã thiếu thốn tình thương của má, giờ Minh cũng hy sinh nữa. Lẽ thường Hoa sẽ chọn cuộc sống khác. Nhưng rồi năm tháng trôi qua Hoa vẫn chưa tìm được bến đỗ cuộc đời mình. Chị Hai Liên và em Phụng đã có gia đình riêng, Hoa lấy đó làm hạnh phúc, có các cháu làm niềm vui. Vui nhất là bạn bè thời “kháng chiến” vẫn luôn ở bên động viên an ủi. Ngày giỗ, tết, thương binh liệt sĩ Hoa đi thăm má ở nghĩa trang. Minh ở xa, chỉ đốt nhang khấn nguyện “Hoa luôn nhớ lời hẹn ước, sống trọn vẹn với mối tình đầu của mình. Minh hãy tin điều đó. Hoa phong lan mãi mãi đợi chờ, anh bộ đội hãy yên lòng ngủ thật ngon nghe!”
14/1/2025
Cao Thanh Mai 
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...