Thứ Tư, 28 tháng 5, 2025

Truyện ngắn của hội viên mới Phùng Phương Quý ở Phú Thọ

Truyện ngắn của hội viên
mới Phùng Phương Quý ở Phú Thọ

Tác giả Phùng Phương Quý sinh năm 1953 tại xã Phú Lộc, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Ông sống ở nhiều nơi, sáng tác rất sung sức nhiều thể loại.
Tác phẩm của Phùng Phương Quý đã xuất bản: Mưa trên lá cọ (tập thơ) NXB Thanh niên 2001; Mùa trăng suông (tập truyện ngắn) NXB Văn hóa dân tộc 2004; Cánh rừng còn sót lại (tiểu thuyết) NXB Hội Nhà văn 2006; Thủ lĩnh bản Nun (truyện dài thiếu nhi) NXB Văn hóa dân tộc 2006; Khắc khoải tiếng rừng xưa (tập ký) NXB Thanh niên 2011; Lao xao chuyện đời (tập truyện ngắn) NXB Hội Nhà văn 2013; Ma rừng (tiểu thuyết) NXB Công an Nhân dân 2016; Góc làng (tiểu thuyết) NXB Quân đội Nhân dân năm 2017; Cơm Bắc giặc Nam (tiểu thuyết) NXB Quân đội Nhân dân 2018; Dòng đời & Chiến trận (tiểu thuyết) NXB Quân đội Nhân dân 2019…
Ông được nhận Giải thưởng Hội VHNT các DTTSVN năm 2007 và Giải B Giải thưởng 5 năm VHNT tỉnh Phú Thọ cho tiểu thuyết Cánh rừng còn sót lại; Giải C 5 năm VHNT tỉnh Phú Thọ 2015 tập truyện ngắn Lao xao chuyện đời; Giải B Giải thưởng VHNT Xuân Hồng 5 năm tỉnh Tây Ninh 2016; Giải A văn học hàng năm của tỉnh Phú thọ cho 2 tiểu thuyết: Góc làng năm 2017, Cơm Bắc giặc Nam năm 2018.
Quan niệm văn học, Phùng Phương Quý cho rằng: “Nghề văn là một nghề cực khổ nhưng cao quý. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì nghiệp viết luôn ám vào tôi như một thứ “ma túy” đáng yêu. Không kiên nhẫn và đam mê, thì không thể theo nghề viết văn được.”
Nhà văn Phùng Phương Quý đã được kếp nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 2024.
GIẤC THANH MINH
Chiếc bàn gỗ tròn kê giữa sân, dưới những vạt nắng xuyên qua tán lá của hàng cây xanh. Chắc phải mười giờ mâm cỗ mới được bày biện xong. Cái đầu heo đặt ở chính giữa cùng vài thứ bánh, bia, rượu, nước ngọt, trái cây, bên cạnh là nồi cháo lòng to tổ chảng. Nhang, đèn đã đốt lên, có ông mặt trời chang chang trên đầu chứng giám. Phía đầu xóm, mấy nhà tập trung lại, hùn nhau cúng thanh minh, thuê giàn karaoke di động về, hò hát ầm ĩ từ sáng giờ. Bà Hảo đứng chắp tay kính cẩn, rì rầm khấn vái. “Kính thỉnh các bác, các anh mũ tai bèo, mũ sắt, cùng những người khuất mày khuất mặt đang nằm trên đất này. Hôm nay nhân tiết thanh minh, gia chủ lòng thành….”.
Binh nhất áo vá nằm vắt vẻo trên cây mít già, lẩm nhẩm hát. “Quần nhau với giặc, áo con rách thêm, nên các mẹ già lại phải thức thâu đêm vá í áo. Chiếc áo ấy, bấy lâu nay con quý hơn cơm gạo…”, bỗng hắn hỉnh mũi, hít hít, rồi la lên.
– Có mùi nhang! Các cậu ơi!
Hạ sĩ đầu băng kín một mắt, phủi bụi bám đít quần, đứng dậy, ngó dáo dác. Tiếng nói vọng từ trên ngọn dừa.
– Chú ý! Chú ý! Có tiếng máy bay phản lực từ hướng đông bay tới! Nhìn rõ rồi, là máy bay MiG 31.
Áo vá vẫy tay.
– Xuống đi trinh sát độc thủ! Còn một tay mà khỏe leo trèo thế! Giờ toàn máy bay của ta thôi mà!
Trinh sát nhảy từ trên ngọn dừa xuống nhẹ nhàng, cánh tay áo cụt bay lất phất như cánh chim.
– Tớ cứ quen như hồi còn đánh nhau, vốn dị ứng với tiếng máy bay. Trận chống càn năm ấy, đang quan sát trên ngọn dừa, thằng cường kích A4 quất cho tớ một loạt đại liên, nên mới rơi xuống đứt luôn đấy chứ!
– Lúc ấy nếu cậu cố bám cây dừa, từ từ tụt xuống thì đã không chết!
– Tổ sư nó! Đạn bắn nát một bên cánh tay, bám thế đếch nào được nữa!
Áo vá xoay người lại, một miếng vá màu xanh mới đè lên vai áo quân phục bạc phếch.
– Là trinh sát giỏi, có ngửi thấy mùi gì không?
– Mùi cháo lòng, mùi thịt heo luộc, thơm quá! Ôi giời ơi! Cái bụng tôi đau quặn. Đói quá!
Hạ sĩ buộc lại nút băng trắng trên đầu thật chặt, nắm gạc bông bịt trên mắt trái, máu đỏ bầm. Cả ba dàn hàng ngang, tiến dần về hướng có mùi nhang thơm ngát. Gần nửa thế kỷ cư trú ở khu đất này, từ khi còn là khu đồi hoang cho tới đầu thập kỉ 80 vợ chồng bà Hảo dắt nhau từ thành phốvề khai hoang lập trại, mấy người lính được hưởng hoa trái và nồi cháo gà đúng một lần khi gia đình này dựng căn nhà tranh nhỏ. Ngạc nhiên thật, mấy chục năm nay tự nhiên bày cỗ cúng thanh minh, mà lại cỗ to nữa chứ. Thủ tục khấn bái rườm rà quá, làm mấy người lính sốt ruột. Cốt ở cái tâm thôi mà! Nói nhiều thì cũng vậy thôi. Nghe bà chủ lầm rầm khấn, chắc còn vài người nữa. Mâm cỗ được chuyển từ trên chiếc bàn ngập nắng xuống bãi cỏ dưới gốc cây mít già. Tán lá xanh ưỡn mình chống chỏi với ông mặt trời nóng nực.
– Uống rượu trước hay bia trước?
Hạ sỹ đưa mắt hỏi cả nhóm. Binh nhất áo vá ồn ào.
– Nóng nực quá! Làm ngụm bia trước cho mát! Cứ từ từ nhấm nháp, bữa nay quá nhiều đồ ăn.
Gió thổi ào ạt, mát rượi. Quen tay, mấy chiếc mũ tai bèo vẫn phe phảy đuổi lũ ruồi háu ăn đang liều mạng lao tới. Bỗng hạ sỹ nức lên khóc, giơ tay chùi nước mắt, miếng thịt sỏ vừa đưa lên miệng vội đặt xuống tàu lá chuối.
– Sao khóc?
– Tớ nhớ mẹ! Hồi còn ở nhà, mỗi lần ăn đụng thịt lợn Tết, bao giờ bà cũng nhặt nhạnh đám xương vụn nấu cho mấy anh em nồi cháo. Chẳng được như nồi cháo này, nhưng lúc đó thấy ngon kỳ lạ.
Trinh sát chép miệng.
– Ừ! Cái thời ấy đói hoa mắt, có khoai lang ăn đã tốt rồi, nói gì cháo xương lợn. Thôi ăn đi! Nhớ mẹ thì ngày giỗ về thăm.
Áo vá xoa tay lên vết áo thủng trên ngực trái.
– Ước gì mẹ tớ vá cho miếng áo rách này! Ở đây có tí kim chỉ nào đâu!
Lỗ thủng trên ngực áo là nỗi buồn khó quên của chàng binh nhất mười chín tuổi, trong một đêm tổ ba người của anh đi công tác bị bọn lính Đại Hàn phục kích. Chúng rắp tâm bắt sống các anh nên bí mật tiếp cận. Không có tiếng súng, chỉ những tiếng bịch, hự, gầm gừ. Chàng binh nhất áo vá bị vật ngã ngửa, một cánh tay của tên lính chèn ngang cổ họng. Vùng vẫy, giãy giụa, rồi sức thanh niên thần kỳ giúp anh thúc đầu gối lên bụng đối phương, hất hắn ngã ra. Bất ngờ  và nhanh như cọp, hàm răng chắc khỏe của anh ngoạm chặt yết hầu tên lính, cảm thấy vị mằn mặn nóng hổi của máu kẻ thù. Hắn rú lên ằng ặc, nhưng vẫn kịp phóng mũi dao găm vào ngực trái anh. Trên ngực áo hằn một vết rách nhỏ và mỏng. Hai đồng đội nhờ bóng tối mà thoát vào rừng. Bọn Đại Hàn rút lui, nhưng không làm sao tách thi thể của anh ra khỏi xác tên lính. Hàm răng anh nghiến chặt, khiến bọn chúng phải dùng dao găm khoét yết hầu tên lính, để lại.
Thịt đầu heo luộc chấm muối ớt rất ngon, nhưng cay quá, ai cũng xuýt xoa. Rượu Bàu Đá ngọt nước mà nặng, mới đi một li đã sốc tận óc.
– Chào mấy anh! Cho em vui với!
Giọng phụ nữ xứ Nẫu véo von như chim. Trinh sát đứng dậy, nhìn sang hướng hai giờ, phát hiện một thiếu phụ chừng ba mươi tuổi, mặc chiếc áo màu đỏ cam.
– A! Chị hàng xóm! Mời nhập mâm! Xin lỗi bọn tôi dùng trước mất rồi!
Áo vá đon đả mời, tháo chiếc dép cao su đưa cho người nữ lót ngồi. Chị này quen lắm, nhà ở mãi cuối bãi, nơi có cây vú sữa to, sum suê màu lá tím biếc. Không biết làm gì, chỉ thấy chị áo đỏ hay lang thang tìm kiếm trong rừng.
– Cho em xin lát bánh tét! Lâu quá chưa được ăn…
– Uống bia! Uống ly bia cho mát nhá!
– Dạ thôi! Uống vô say sỉn dị lắm! Cho em miếng lỗ tai heo nữa.
Chị áo đỏ vẻ no nê, bắt đầu líu lo chuyện. Chị kể mình là cư dân đầu tiên ở đây, trước cả ba anh lính mũ tai bèo. Năm “sáu lăm”, tụi lính Đại Hàn mới về đây, hung hãn như  cọp, hở ra là chúng bắn giết, hãm hiếp. Chị áo đỏ từ ấp chiến lược vác cuốc về đào khoai lang, ai dè đụng lính Đại Hàn. Bốn thằng lực lưỡng túm lấy chị, tát liên tiếp lên mặt. Tên thông dịch hỏi chị vô rừng liên lạc với “vi-xi” phải không? Căn cứ “vi-xi” ở chỗ nào?
– Hỏi cái đầu cha tụi bây! Tao đi đào khoai chớ biết vi xi ở đâu.
Một báng súng dộng vô ngực chị đau nhói, tức thở. Tên lính khác túm ngực áo chị xé toang. Những tiếng cười khả ố vây quanh, rồi cả đám đè chị ra, cưỡng hiếp. Lâu lắm, chị không biết thời gian bao lâu trôi qua, chỉ cảm nhận những cú thúc thô bạo phía bụng dưới. Chị lả đi, rã rời, vừa thoát khỏi sức nặng đám người thú thì đầu chị choáng váng, nổ bung ra cùng một tiếng súng. Tụi lính vùi vội vàng thân thể chị dưới rãnh đất giữa hai luống khoai, nửa cánh tay còn hở trên mặt đất. Hôm sau, một nhóm phụ nữ cũng mò về đào khoai, phát hiện cánh tay áo đỏ thì sợ quá, bỏ chạy. Người chồng cùng hai đứa con chờ hoài không thấy vợ về, gặp nhóm phụ nữ thì hỏi.
– Mấy chị lên Cát Phong, có gặp vợ tui trển hông?
– Hông thấy! Ủa, mà cổ mặc áo gì?
– Dạ áo màu đỏ cam!
– Thôi rồi…! Lên rẫy khoai mang xác cổ về.
Nhưng khi người chồng tìm đến nơi, đám thú rừng đã hoàn thành bữa tiệc của chúng, dưới rãnh đất chỉ còn vương vãi mấy mảnh vải áo màu đỏ.
– Em có chiếc gương để trong túi áo, lũ thú rừng lôi xác em đi, hông biết rớt ở đâu. Nhiều lúc muốn soi gương xem mặt mũi mình ra sao. Em đi tìm miết mà hông thấy!
– Thảo nào! Thấy chị cứ lúi húi tìm kiếm suốt ngày!
Hạ sỹ chép miệng. Anh cũng có một chiếc gương nhỏ hình chữ nhật, đằng sau có tấm ảnh 3×4 của người yêu tặng. Lúc bay lên cùng quả đạn cối nổ gần, chắc chiếc gương văng đâu mất, nếu không anh sẽ tặng lại chị áo đỏ. Phụ nữ không có gương lược thì chán chết.
Bỗng chị áo đỏ hét lên, ôm chặt lấy Áo vá, tay chỉ về phía gò mối. Mọi người cùng ngoái lại nhìn. Nơi ấy xuất hiện một người đội mũ sắt, quân phục mầu xám rách tả tơi, cặp mắt một mí hau háu nhìn mâm cỗ. Kẻ lạ mặt bước ra khỏi gò mối, gập lưng chào mọi người. Chị áo đỏ lại hét lên.
– Lính Đại Hàn! Nó hung dữ lắm đó!
– Je song ham ni da! Je song ham ni da! (Tôi xin lỗi!)
Tên lính lại cúi gập người, lập đi lập lại câu tiếng Hàn. Chẳng ai hiểu gì hết, vì có ai biết tiếng Hàn đâu. Thực ra tên lính Đại Hàn đang nói câu xin lỗi, vẻ mặt hắn hiện ra rất rõ điều đó. Chắc hắn muốn xin lỗi vì những tội ác của đồng đội gây ra trên mảnh đất này mấy chục năm trước. Chị áo đỏ hốt hoảng vì nhận ra bộ quân phục và chiếc nón sắt khi mình bị bọn lính Đại Hàn cưỡng bức, nhưng chợt bình tĩnh lại khi thấy bộ dạng đói khát và hối hận của tên lính.
– Nó đói khát hung rồi! Cho nó chút gì ăn đi mấy anh!
Lời đề nghị của chị áo đỏ được hưởng ứng. Áo vá vẫy tay kêu tên lính lại gần.
– Tới đây! Đừng sợ! Chiến tranh qua lâu rồi, tất cả chúng ta giờ chỉ là hư ảo thôi!
Tên lính hình như hiểu được câu nói đó, qua cử chỉ của người lính Bắc Việt. Mấy chục năm trước, lính Đại Hàn điên cuồng tìm diệt những đơn vị chủ lực miền Bắc trên chiến trường Trung Nam bộ, giờ thì họ ân cần mời hắn nhập cuộc mâm cỗ ngày Thanh Minh. Hắn lại cúi đầu, chắp tay rồi ngồi khép nép bên cạnh.
– Uống gì? Rượu hay bia?
Hắn chỉ vô lon bia Sài gòn xanh, đưa hai tay đón lấy, giật nắp rồi nhìn khắp mọi người như biết ơn. Cái cần cổ gầy guộc, cáu bẩn ngửa lên, cục yết hầu nhấp nhô liên tục. Cánh tay quệt ngang miệng, lau sạch đám bọt bia trắng đục. Áo vá nhìn chăm chú cục yết hầu nhọn hoắt của tên lính. Không phải yết hầu bị anh cắn hồi ấy. Chị áo đỏ gắp cho tên lính miếng thịt heo. Hắn cúi đầu “ne ne”, rồi mới đưa lên miệng. À! Chị áo đỏ thốt lên. Nhớ rồi! Nhớ ra rồi! Sau vụ chị bị lính Đại Hàn hiếp giết khoảng ba tháng, có một trung đội “hổ xanh” trở lại đây và bị quân giải phóng bao vây, pháo kích. Lúc đó chị ngồi dưới gốc cây vừng, sợ hãi bịt hai tai lại, nhưng mắt thì quan sát thấy đám lính Đại Hàn bị chết, bị thương la liệt. Tên lính này bị hắt văng xa cả chục mét, rớt xuống cái Lỗ Lớn, một hố nước nhỏ bằng cái ao nông dân đào để lấy chỗ tát nước lên ruộng. Hắn bị chìm dưới nước, nên đồng đội không tìm thấy xác. Hơn nửa thế kỷ nằm lại xứ người, cũng tội nghiệp hắn.
– Có vợ con ở bển hông?
Chị áo đỏ hỏi, chỉ vào mình rồi vòng hai cánh tay đung đưa như bồng em bé. Tên lính cười, lắc đầu. Trinh sát thôi giơ chiếc đồng hồ cũ lên tai lắc lắc, lẩm bẩm.
– Không vợ con càng may chú mày ạ! Trai thời chiến, càng nhẹ thân càng tốt. Tớ hồi mới nhập ngũ, bố mẹ cứ ép cưới vợ, tớ chẳng dại. Phải cưới rồi, bây giờ dở dang đời con người ta không?
Hạ sỹ chỉ vào nồi cháo, nhắc tên lính.
– Ăn cháo đi! Cháo lòng lợn ngon lắm!
– Ne! Ne!
Trên bầu trời xanh chợt hiện lên một vệt khói trắng dài, rồi tiếng máy bay phản lực rít lên, xoẹt qua. Cả đám cỗ nhoáng nhoàng đứng dậy. Tên lính Đại Hàn chạy vụt nấp sau gò mối. Chị áo đã thấy thấp thoáng dưới gốc cây vú sữa. Áo vá kéo Hạ sỹ tránh trong tán lá mít, để mặc cậu trinh sát tót lên ngọn dừa cao. Họ cùng ngửa cổ nhìn lên trời, hỏi.
– Tình hình thế nào?
– Bố khỉ! Máy bay ta!
Trên ngọn dừa tiếng Trinh sát vọng xuống. Mọi người phá lên cười. Lại cứ tưởng địch sắp càn. Làm bữa ăn mất cả ngon.

Ông Hảo cựa mình trên chiếc võng, ngáp một tiếng thật to.
– Cúng xong chưa hả bà?
– Xong lâu rồi!Ông ra dọn vô nhà giùm tui với!  Chô cha! Heo nhà mình đẻ rồi ông ơi! Mười bốn con lận!
Ông Hảo chống gối đứng dậy.  Mừng hung rồi! Năm nay bò đẻ, heo đẻ, hai vợ chồng già ấm túi, mặc sức mà chăm. Ngoài sân gió thổi hiu hiu mát, cái nắng dường như dịu đi. Trên chiếc bàn gỗ, mấy nén nhang đã cháy hết, tàn nhang cong vòng rất đẹp, cây đèn cầy vẫn cháy phần phật trong gió. Lạ thiệt, gió vầy mà lửa không tắt, cứ như bốc cháy từ một ngọn lửa bất tử. Ông lượm hai lon bia rơi dưới sân đặt lên mâm, bưng vô nhà. Hơi nóng từ nồi cháo lòng vẫn bay thơm phức, vẳng tiếng cười thích thú.
Trời Thanh minh đầy nắng. Đã bốn tháng rồi chưa có trận mưa nào. Cầu trời mưa xuống một trận thiệt lớn.
BẢN NĂNG KÉP
Ta nắm tay đấm vào đầu để nhớ lại. Đuổi ngay cái dự án khu công nghiệp ra khỏi bộ nhớ. Mười phần trăm là cái gì. Mười lăm phần trăm cũng chả là cái gì. Lại hai mươi à? Cút xéo ngay cái phần trăm hoa hồng của chúng mày. Tao đếch cần! Tao thích bia hơi, thích tăng gô.
Kí túc xá vắng như chợ chiều. Mình sửa sang xong từ chập tối mà chưa biết đi đâu. Còn mỗi con Lan béo dang tay dang chân ngủ tít, vú vê tràn cả ra giường. Đồ con gái vô ý tứ. Cứ tối thứ 7 là mấy con ranh cùng phòng biến mất với đám bạn trai già, trẻ, sồn sồn. Mình thật cô đơn. Thật ra thì mới chia tay thằng “công tử hàng Bạc” tháng trước. Thằng này ngụy quân tử, chỉ ra vẻ hào phóng mấy hôm đầu khi chưa dụ được mình lên giường, sau này đi chơi, ăn đêm, nhà nghỉ…tất tật tiền túi của mình. Đến lần nó ngửa tay xin tiền mua thuốc lá thì mình hô biến.
Gái quê ra thành phố làm sinh viên, bố dặn đi dặn lại: “Giấy rách phải giữ lấy lề”. Mình đã cố giữ được hết năm thứ nhất. Bố mẹ làm sao hiểu được mình cần những gì, cứ than thở là mỗi tháng mày mang đi khỏi nhà ba tạ thóc. Nhưng con không thể gái quê mãi được, con cần rất nhiều thứ để thành thị hoá. Mình uất lắm. Bọn con nhà giàu nhìn mình không được nửa con mắt. Học giỏi ư! Học bổng ư! Ném ra đường con ơi. Con gái không biết làm đẹp, không tận dụng sắc đẹp cho thiên hạ chết thì mình chết đi cho rồi. Vậy nên mình cần một bộ váy áo hàng hiệu, một con “dế” chưa lỗi model, một chiếc xe máy tương đối xịn. Nhưng mỗi tháng có hai triệu bạc trong tay, lại trăm thứ tiền, ăn đói nhịn khát. Mình than thở với con Gầy, nó ngạc nhiên. Mày không biết cách thật hả? Tao mà xinh như mày tao có nhà lầu rồi. Ừ nhỉ! Con Gầy trông dễ coi nhưng gầy nhẳng, mà nó có đủ những thứ mình mơ ước. Nó rỉ tai mình:
– Mày còn trinh không?
– Hỏi gì lạ thế? Để làm gì?
– Còn thì đem mà bán!
Mình xanh mặt. Con ranh xúi dại, làm thế đến nữa thằng nào nó rước? Nó trấn an. Chỉ một lần thôi lo gì. Ba năm sau không thằng nào đụng đến lại lành như mới. Mình run.
– Thế…bán bao nhiêu?
– Hai chục “chai”! Nhưng phải lót tay bà mối này một “chai” đấy.
– Chai gì?
– Đồ nhà quê! Là hai chục triệu.! Chơi không?
Mình bị choáng. Hai chục triệu với mình quá lớn. Có thể sắm được con xe máy tử tế và chú dế xịn. Mình tưởng tượng lúc cưỡi xe về nhà, hàng xóm xúm lại khen chiếc xe đẹp, đúng lúc chú dế trong túi quần rung rung. “A lô! Anh ở đâu? Em vừa mới chạy xe từ trường về nhà đây!” Mệt quá! Bố mẹ sẽ vừa mừng vừa hốt hoảng hỏi tiến đâu mà mua sắm như địa chủ thế? Mẹ ơi! Con tiết kiệm học bổng mua đấy. Làm như con đi ăn cướp không bằng. Cứ nghĩ đến những thứ ấy mình nôn nao không ngủ được. Rồi mình quyết định liều. Có một lần thôi sợ gì. Mỗi con Gầy biết nhưng đã trám một triệu kín miệng nó rồi.
Kẻ mua trinh là một ông trông còn già hơn cả bố mình nhưng béo tròn, lùn tịt. Con Gầy bảo lão là chủ một doanh nghiệp nhỏ. Mấy tháng nay lão bị nhà nước sờ gáy liên tục nên muốn xả xui. Căn phòng lão đưa mình vào luộm thuộm, bẩn thỉu. Chiếc giường trải tấm đệm màu sọc dưa có lót một tấm rap trắng. Mình liều cởi hết quần áo rồi nằm co trên giường run rẩy chờ bị “làm thịt”. Nhìn thân hình nung núc như chiếc dò mỡ đứng cạnh, mình định vùng dậy chạy trốn, khổ nỗi lỡ dại cởi hết ra rồi. Lão già uống hai viên thuốc gì đó, không có vẻ gì là vội vàng, bắt đầu vuốt ve bầu ngực thanh tân. Mình nhắm mắt chịu đựng. Cố lên! Lão già này chỉ tí là xong thôi, hé mắt mình nhìn thấy chiếc phong bì dày vẫn nằm trên mặt bàn. Hai chục triệu đấy cô ạ.
Lão già dùng đủ chiêu trò. Mình co rúm người lại. Lão mơn trớn lâu quá, cho đến lúc mình ngất ngư đờ đẫn, rồi chẳng thấy đau đớn gì cả.
Con Gầy trấn ngay một “chai”. Mình mua được chiếc xe Weva nội và con dế Nokia nắp trượt có chế độ MP4. Bây giờ thì hết rồi. Thằng công tử hàng Bạc đào mỏ hết. Con Kiều “lộn ngược” mấy hôm nay bĩu môi gọi chiếc xe của mình là xe bắt lợn. Tức lộn ruột. Tao sẽ có con Attila tay ga! Mình nhổ vào mặt nó lời thách thức.
Mở volum to lên chút nữa cô em! Anh thích bản nhạc này. Ôi! Bản tăng gô quyến rũ. Lâu lắm rồi, như từ thời cổ tích có một thằng con trai vô tư yêu đời mê mẩn những giai điệu tăng gô.“Tình như áng mây tình đến cùng ta âm thầm không lời/ Tình như cánh chim tình đến cùng ta đâu ngờ là tình/ Tình như mây gió thoảng vào trong tim”.
Ha! Nhớ rồi! Đây là bản Âm thanh trầm lặng. Thế ra đời ta có một thời yêu nhạc. Yêu như phải bùa phải bả. Sau này làm quan, tai chỉ quen những bản hành khúc ở các cuộc mít tinh, hội nghị. Quen thuộc nhất vẫn là bản Tiến quân ca. Ngày nào cũng nghe, tuần nào cũng nghe. Lâu cũng phải nghe Hồn tử sĩ khi một ngài, một ông đành đoạn đi xa. Càng lên cao, những bản tăng gô yêu thích càng biến dần theo năm tháng.
Bức tranh trên tường kia vẽ cái gì? Trừu tượng à? Lập dị à? Gớm chết! Toàn gam màu đỏ chỉ đạo, loằng ngoằng nét trắng nét đen, hình dáng rắn cạp nong. Cốc bia sóng sánh màu vàng hổ phách. Bọt trào lên trắng ngậy, lép bép vỡ tan thân phận người. Sung sướng quá. Từ đời kiếp nào ta mới được uống bia hơi, thứ bia bình dân năm ngàn đồng một cốc, thứ bia ám ảnh một thời thèm khát xếp hàng mướt mồ hôi mới mua được một cốc kèm gói lạc rang. Ta nhiều tiền cỡ tỉ phú mà có bao giờ được uống bia hơi!? Đời quan chức tiệc tùng liên miên, thừa mứa bia Đức, rượu vang Pháp, uyt-ki  Mỹ…Có đòi bia hơi cũng chẳng ai nó cho.
Bức tranh lập dị hình như he hé một con mắt chột. Nó nhấp nháy đểu cáng. Sếp lớn hôm nay “trốn trại” đi uống bia hơi kia đấy. Có khả năng cuộc vận động tiết kiệm vì người nghèo có kết quả. Vậy thì sếp uống thoải mái đi. Với số tiền nội, tiền ngoại trong chiếc ví da cá sấu kia, uống bia hơi ngày này tháng nọ hết đời cháu, chắt cũng đủ mà.
Đời tự do sung sướng thật. Không xe hơi, không thư kí không người giúp việc, không có những cuộc điện thoại nhì nhằng hết việc công đến việc tư, hết nhờ vả đến áp lực. Cả bốn máy di động đều tắt. Đố thằng nào tìm được ta. Chỉ có bia hơi và nhạc không lời, chút hạnh phúc đời thường chợt bắt gặp. Không, là ta liều đi tìm chứ. Ồ, lại chuyển nhạc rồi. Tăng tăng tăng tắng tằng tăng…Hề! Ta biết rồi! Bản Paloma. Bia nữa đi em ơi! Chiếc cốc này là cốc thứ mấy? Một , hai, ba, bốn…chín…mười. Dụi mắt đã. Ta say rồi ư? Không thể! Một, hai, ba…bốn…năm…! Tại sao lại năm? Tại sao lại mười? Bức tranh đỏ loét kia chọc mãi vào mắt nhức xót. Kìa nó lại hiện ra cái miệng rộng, hàng răng móm dở. Cười gì mà cười? Cái mồm chui ra từ chỗ nào? Chuyệnh choạng, phấn khich. Nào mời ông bạn. Sao răng lợi cái còn, caí mất thế này? Ăn tạp hả? ăn tạp là chết. Không biết câu phương ngôn của bọn ta à. Muốn ăn nhiều thì ăn ít thôi. Nghe có vẻ vô lí nhưng đúng đấy. Cốc bia đổ vào cái mồm móm dở nhưng lại tràn ra khắp bức tranh, tong tỏng xuống nền gạch gốm.
– Sao thế anh? Anh không được khoẻ ạ?
Cô tiếp viên dịu dàng hỏi, còn đưa bàn tay mềm mại ra dìu ta trở về ghế ngồi. Tay ta vô tình chạm vào một vùng da thịt mịn màng, ấm nóng. Choáng váng. Nghẹt thở. Ta nhìn xuống thấy cặp đùi con gái non tơ, tròn và trắng. Chiếc váy ngắn tung tẩy, lả lơi. Tội lỗi quá. Ta nhắm mắt lại mà máu trong đầu vẫn chảy giần giật. Làm quan to thế này, nói chưa bao giờ đụng chạm da thịt em út chẳng ai nó tin. Nó sẽ bảo là đồ đạo đức giả, đồ thần kinh mãn. Nhưng cả đời ta tu dưỡng, ép xác cho mục đích chính trị. Chưa bao giờ ta đựơc nhìn cặp đùi con gái gần như thế này. Đạo đức của người cán bộ, của người đảng viên không cho phép. Những nguyên tắc, điều lệ ta thuộc lòng cháo chảy như con chiên thuộc kinh Cựu ước. Những lời thề ép ta như ép dò mỡ. Những thông tư, nghị quyết chói ngời đấu đỏ ở giữa chữ kí của ta bay vút lên như cánh đại bàng. Tất cả trói buộc chân tay ta, bịt tai che mắt ta lại. Làm gì có cơ hội như lúc này.
– Thay bản nhạc khác đi! Tăng gô! Ta chỉ thích tăng gô thôi. Chát! Chát! Chát bùm bum! Lại một bản gì nghe rất quen.
Ta nắm tay đấm vào đầu để nhớ lại. Đuổi ngay cái dự án khu công nghiệp ra khỏi bộ nhớ. Mười phần trăm là cái gì. Mười lăm phần trăm cũng chả là cái gì. Lại hai mươi à? Cút xéo ngay cái phần trăm hoa hồng của chúng mày. Tao đếch cần! Tao thích bia hơi, thích tăng gô. Tăng tăng tăng, tằng tăng tắng…Ngon như là trái táo chín/ Thơm như là nhành hoa kín/ Mong manh như dây tơ chìm/ Nhẹ lan như làn mây tím… Há! Há! Há! Nhớ rồi! Nhớ rồi cô em ơi. Thật mệt quá. Để nhớ lại một bản nhạc thời cổ tích thật mệt óc. Bia nữa đi! Em có biết bản nhạc này tên gì không? Bản tăng gô ạ! Trời ơi! Thì rõ ràng là điệu tăng gô rồi. Em là dân nhà quê lên phố hả? Thế thì được. Bài này tên là TÌNH VÔ GIÁ, nhớ chưa? Sau này gặp một thằng cắc cớ hỏi như anh thì nói là Tình vô giá nhé. Tình cho không biếu không/ Ân tình ai cũng cho được nhiều/ Tình cho không không thiếu/ Chớ nên mua bán tình yêu.
Đời ta cũng bao lần từ chối tình yêu rồi đấy. Nhiều lắm. Có những em đẹp cỡ hoa hậu. Có em tuổi còn nhỏ hơn con gái ta. Có những em lẳng lơ đa tình. Tất cả trong tầm tay ta cả, nhưng ta từ chối hết. Sự nghiệp là quan trọng nhất. Bố ta bảo thế. Bao nhiêu hưng phấn tình yêu ta đem về đổ cho bà vợ phốp pháp mắc bệnh cao huyết áp ở nhà. Thế là lại được thêm cái tiếng chung thuỷ. Ta không hề tiếc tình cho không biếu không, dù em nào đến bên ta cũng nói thế. Nhưng ta biết các em cần gì. Em L hoa hậu thích làm Trưởng phòng Tổ chức cán bộ huyện. Em H 8x ở quê đi tìm việc làm thì thích chân thư kí văn phòng uỷ ban. Em M lẳng lơ đa tình chẳng thích cái quái gì cả, chỉ muốn dựa bóng cây đề cho cánh công an, phòng thuế đừng dòm ngó cái công ty ma của em.
Nhưng giờ này (theo thì hiện taị), ta đang muốn bứt phá. Ta muốn làm cái bản năng của thằng đàn ông. Quyền chức cũng chỉ là cái bản năng kép của con người nhiều tham vọng mà thôi. Ta đang là sư tử sổng chuồng, muốn ăn thịt con mồi khi ta đói bụng. Bức tranh quái dị hình như tối sầm lại không rõ hình thù gì nữa. Thấp thoáng trước mắt là cặp đùi con gái trắng, mũm mĩm. Cặp đùi ấy có biết ta có rất nhiều tiền không? Ta đang muốn ném tiền qua cửa sổ để được chiêm ngưỡng cặp đùi kia từ trên xuống dưới. Ta muốn kéo áo khỏi quần để che đậy cục thịt cứng ngắc đang trồi lên sau lần vải. Thôi kệ nó. Có gì mà phải che dấu. Bản năng mà. Thực ra là ta ngượng với bức tranh trước mặt.
Mình gửi xe rồi đứng quan sát trước một quán bia. Hình như mình phát hiện ra con mồi. Lạy chúa phù hộ. Ngay trong góc trái quán bia có một tên đàn ông trung niên ăn mặc lịch sự ngồi một mình. Ông ta nhịp chân theo điệu nhạc, mắt nhìn chằm chằm vào đùi con bé tiếp viên mặc váy ngắn, trước mặt xếp không biết bao nhiêu là cốc. Mình thật sáng suốt khi mặc váy ra đường. Phải chọn điểm tập trung sự chú ý của đôi mắt đỏ ngầu kia. Mình giả bộ lơ ngơ tìm chỗ ngồi, chắn ngay lối đi qua của con bé tiếp viên. Chân mình dài, đùi mình thon, mắt nai vàng trên khuôn mặt tròn gợi cảm. Cảm thấy hai đùi nóng bỏng, hình như còn nóng lên cả lớp vải phía trên. Cặp mắt con mồi đã chiếu lửa vào mình.
– Xin lỗi! Em có thể ngồi đây được không ạ?
– Không sao đâu cô gái. Cám ơn cô đã ngồi cùng bàn. Cô có biết bản tăng gô này không? Tôi nghĩ mãi không ra, nhờ có cô bước vào mà nhớ được đấy. Romeo và Juliet! Một thuở cho mình. Mình anh và em… Cô em uống gì. Xin mời thật lòng.
–  Cho em xin cốc cam nóng!
Mình nhìn kĩ người đàn ông trung niên với vẻ phong độ toát lên trên thân hình tráng kiện và bộ mặt no đủ. Chỉ có đôi mày rậm và cặp mắt sâu. Bọn bạn gái nhiều kinh nghiệm bảo đó là loại đàn ông háo sắc. Nhưng cái miệng rộng với cặp môi dày và hàm răng trắng khoẻ trông lại rất có duyên.
– Hình như anh đang cô đơn?
– Không! Cô đơn thế nào được khi có những bản nhạc tăng gô ta ưa thích và một cô gái đẹp ngồi cùng bàn. Cảm ơn em đã che giúp ta bức tranh quái gở kia.
Mình quay đầu lại. Trên tường là bức tranh sơn dầu khổ 80×120 phối màu loạn xạ. Nhấp ngụm nước cam, chiếu ánh nhìn ướt át vào đôi mắt sâu. Mình chờ đợi.
– Hình như cô em đang cô đơn? Câu hỏi được lập lại.
– Vâng! Em rất cô đơn.
– Ta thì không! Ta chỉ cảm thấy… thiếu thốn cái gì đó. Kinh khủng.
– Em có thể giúp gì cho anh?
Một tiếng ợ cố nén, sặc sụa mùi bia. Anh là lão thầy tu mới trốn ra khỏi chùa. Ép xác ở chùa lâu năm ắt cần nhiều thứ. Nếu cô em có thiện ý, anh có rất nhiều tiền. USD; EURO; TỆ…anh có hết. Nói thật với em, anh chỉ thiếu tình.
Mình đã hiểu. Mình đã gặp may. Mình đã thắng. Ít ra thì người đàn ông này cũng thơm tho dễ chịu hơn lão béo đã mua trinh mình dạo trước. Em đưa anh về nghỉ nhé? Ông ta lè nhè. Về đâu? Mình dạn dĩ bước sang khoác tay dìu ông ta đứng dậy, cố tình ép bầu vú tròn lên cánh tay rắn chắc. Cánh tay ấy run rẩy.
– Nhờ em đưa ta về khách sạn nào lịch sự một chút. Em đừng lo, anh rất nhiều tiền.
Mình nhẹ nhàng gật đầu như một người vợ ngoan. Thân hình ông ta to lớn, lảo đảo muốn ngã. Mình cố lấy tấm thân mảnh mai chống đỡ. Bỗng ông ta gạt tay mình ra.
– Anh muốn đi… đi tiểu..
Ông ta vội vàng dúi ngay vào cột điện, đái tồ tồ. Mùi khai nồng nặc làm mình phải bỏ tay ra bịt mũi. Ông ta quên cả kéo khoá quần, loạng choạng bước xuống đường, giơ tay vẫy. Tắc xi!
Ánh đèn pha chói mắt. Tiếng động cơ gầm rú điếc tai. Chân chống xe máy quẹt xuống đường toé lửa. Bọn bay đêm rồi. Mình cố kéo tay ông ta quay vào. Nhưng ánh đèn ngược chiều chói hắt vào mắt sáng rực. Tiếng xe rú lên, loảng xoảng…Tất cả tối đen.
Rất đông người dân xúm xít quanh vụ tai nạn. Người ta đến xem là chính. Tiếng chửi rủa bọn con nhà giàu rửng mỡ đêm nào cũng đua xe trên đường phố. Tiếng giục nhau náo loạn. Mày thử sờ xem hai bố con nhà ông kia còn sống hay chết. Còn thở à? Gọi tắc xi đưa người ta đi cấp cứu ngay! Hai thằng kia lao vào cột điện toác đầu rồi, sống thế nào được nữa. Có ai gọi 113 chưa? Sao lâu thế!.
28/1/2025
Phùng Phương Quý
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...