Thứ Tư, 28 tháng 5, 2025

Truyện ngắn của hội viên mới Nguyễn Thị Như Hiền ở TP Hồ Chí Minh

Truyện ngắn của hội viên mới
Nguyễn Thị Như Hiền ở TP Hồ Chí Minh

Tác giả trẻ Nguyễn Thị Như Hiền sinh năm 1990, quê quán Quảng Nam, hiện là Biên tập viên văn xuôi Tạp chí Văn Nghệ TP.HCM.
Tác phẩm của Nguyễn Thị Như Hiền đã xuất bản: Mưa qua triền rang (Tập truyện ngắn – NXB Thế giới 2023), Ngồi bên hiên nhìn nắng (Tản văn – NXB Văn học 2024). Chị được nhận Giải Ba Cuộc vận động sáng tác Văn học về đề tài thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam (2021 – 2023), Giải A Cuộc vận động sáng tác Truyện ngắn và ký với chủ đề “Hình tượng người công an cơ sở vì bản làng bình yên, vì nhân dân phục vụ” của Bộ Công an năm 2023,  Giải Nhất Cuộc thi viết “Hương vị Tết” của Báo Người Lao Động năm 2023, Giải Nhì cuộc thi viết “Hào khí Miền Đông” của Báo Thanh Niên năm 2023, Giải Khuyến khích Cuộc thi viết “Nghĩa tình Miền Tây” của Báo Thanh Niên năm 2022, Giải Khuyến khích Cuộc vận động sáng tác văn học nghệ thuật chào mừng 35 năm tái lập tỉnh Phú Yên năm 2024.
Nhà văn trẻ Nguyễn Thị Như Hiền vừa trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2024.
Yêu thích thơ văn từ thủa nhỏ nhưng Nguyễn Thị Như Hiền đến với văn chương hơi muộn. Với nội lực mạnh mẽ, cô đã nhập cuộc dấn thân và bứt phá, chỉ trong một thời gian ngắn đã có số lượng tác phẩm đáng kể và giành được nhiều giải thưởng uy tín.
Sống và làm việc giữa đô thị phồn hoa đã lâu nhưng Nguyễn Thị Như Hiền vẫn còn rặt quê kiểng, giọng văn như còn mang đậm chất phù sa của nước sông Thu Bồn và mùi rau rừng chân núi Cà Tang quê nhà, nơi thi sĩ Bùi Giáng từng một thời chăn dê ở đó.
TRƯƠNG ANH QUỐC giới thiệu
SÔNG CHẢY VỀ ĐÂU  
1. Chị Hậu rụt rè ngồi xuống chiếc ghế sofa bóng lộn, đưa mắt nhìn khắp căn nhà rồi nhìn bà chủ. Bà ta không nhìn chị, vừa đưa tay vuốt ve con chó nhỏ tí lông trắng như bông đang cuộn tròn trong lòng vừa bảo chị chỉ cần lo cơm nước ngày ba bữa, giữ nhà cửa sạch sẽ và đặc biệt phải chăm sóc chu đáo cho con cưng của bà là được. Chị Hậu ngơ ngác hỏi đứa bé học lớp mấy rồi ạ? Bà cười giòn, đôi môi đỏ chót cứ như bông hoa lòe loẹt mọc nhầm chỗ. Đâu, con phốc sóc này nè! Giao nhiệm vụ cho chị xong bà đứng dậy rời đi. Con chó phóng từ trên ghế xuống quấn lấy chân. Bà cúi xuống, bế nó lên hôn chụt một cái: “Ngoan, con ở nhà, chiều mẹ về”. Chợt có một tràng ho trên tầng vọng xuống. Sực nhớ, bà quay qua nói với chị: “Bà cụ ở trên lầu, để ý bà nhé”.
Chị Hậu ra đóng cửa, con chó béc giê hung tợn đang xích nằm một chỗ bất chợt vụt dậy, sủa ầm ĩ. Nhìn hàm răng nhọn hoắt, nước dãi từ miệng nó nhễu ra chị rùng mình. Nó mà phập một cái chắc tận xương. Bà chủ quay qua la con chó, bảo với chị: “Bình thường nó hiền lắm. Khách tới nhà có dù là người lạ có thấy nó sủa tiếng nào đâu. À, do chị ăn mặc tềnh toàng quá. Giống chó này khôn, nó ngửi được mùi nhà quê đấy!”.
Chị đứng ngoài sân ngó ngược lên căn nhà ba tầng bề thế. Chị ước chừng, nó phải to gấp mấy chục lần căn nhà ở mé sông của chị. Căn nhà ở quê bé tí, chỉ gấp đôi cái chòi chăn vịt của người ta một tí. Quanh năm chẳng có gì ngoài gió. Gió thổi thông thốc từ lòng sông thổi tận vào giường ngủ mát rượi. Hai đứa con của chị nằm dưới sàn đem truyện ra đọc, quay qua quay lại đã thấy lăn ra ngủ. Chồng chị thường ngồi ngó ra sông vừa hút thuốc vừa nói với chị mấy chuyện cũ rà cũ rích. Tới bữa chị bày cơm, ngó ra sông ngồi ăn. Lạ thiệt, cơm với mấy con khô, kho quẹt chấm với rau đồng mà bữa nào cũng ngon lành. Chắc là nhờ gió! Vậy mà chỉ sau một đêm, căn nhà của chị bị sông nuốt chửng. Nghe tiếng mọi người hô hoán, cả nhà chị chỉ kịp chạy lên bờ rồi nghe ầm một tiếng. Sông kéo không chỉ một mà nguyên một dãy nhà. Sáng ra người ta chỉ trỏ, tìm dấu vết của nhà chị Hậu, nhà bà Bảy, nhà ông Ba… Hôm đó sông đầy gió nhưng chị không thấy mát. Gió bời bời thổi, lòng chị xơ rơ như đám ruộng hạn mặn ngoài đồng cháy xém. Bị sông nuốt mất nhà, chị đành gửi hai đứa con đứa lớp 9 đứa lớp 7 cho người bà con lên thành phố giúp việc nhà. Vả lại nhà chị đông người, đâu thể dồn hết ở ké nhà người ta được. Chồng chị dưới quê đi mần mướn, ai kêu gì làm nấy đắp đổi qua ngày. Biết đâu, ngày nào đó, chị và chồng kiếm đủ tiền dựng lại căn nhà nhỏ cho con.
2. Chị vào nhà, thấy bà cụ vịn cầu thang lần từng bước đi xuống. Chân bà run bần bật như cây tre ngoài bờ sông mỗi bận gió thổi. Bà bảo khát quá, trong phòng chẳng có miếng nước nào. Chị vội chạy lại đỡ, lỡ mà bà té lăn ra đấy có phải khổ không. Con chó tinh nghịch thấy bà chạy lại quấn vào chân, nó nhây nhây vào gấu quần, cào cào vào chân khiến bà rúm người lại. Bà la oai oái, bảo chị lôi con chó ra giúp bà. Chị bế con chó lên, nó ngọ nguậy liên hồi trên tay. Bà bảo chị cho nó vào phòng, nhốt lại. Phòng của nó trên tầng, sát phòng bà ấy. Chị lên lầu, mở cửa ra, cái phòng lạ lẫm đủ bảy sắc cầu vồng. Dưới đất ngổn ngang mấy trái banh, mớ đồ chơi nhỏ xinh như của con nít. Rồi cả cái chuồng chó được đóng bằng gỗ, sơn phết cầu kỳ. Chị nhìn như bị bỏ bùa mê. Con Mến, thằng Thương con chị từ nhỏ tới giờ còn chưa có được món đồ chơi xinh như thế.
Bà cụ vẫn lấm lét nhìn sau lưng khi chị bước xuống cầu thang. Bà thở phào khi chị bảo đã chốt cửa rồi. Bà thở hắt ra, khổ, bà sợ chó hơn sợ cọp. Chị ngạc nhiên bởi thấy con chó nhỏ xíu, chắc chẳng cắn đâu. Bà kéo ống quần, chìa cái chân xương xẩu, quắt queo như que củi nhưng đầy sẹo cho chị thấy. Bà nói chó cắn đấy. Bữa xưa xa lắc đó cũng chặp trưa như vậy nè. Bà gửi con cho hàng xóm rồi tranh thủ đi bán mớ cá mới bắt được ngoài đồng. Bà cắp cái rổ ngang hông, ngắt tàu lá chuối che mớ cá lại. Không hiểu sao bữa đó đang bán bà nóng hơ cái ruột, bán mới được nửa thì quanh về. Về tới nhà thấy thằng con đang đứng khóc, có con chó to như con bò mới đẻ đứng gầm ghè nhìn cái bánh đang ăn dở trên tay thằng bé. Hoảng quá, bà vứt thúng cá, chạy lại đuổi con chó. Ai ngờ, nó xộc thẳng vào bà. Bà chỉ kịp bế con lên đưa lên đầu, vụt chạy. Con chó rượt theo. Bà sợ con té, ra sức vịn chặt con nên con chó cứ mặc sức nhằm chân bà mà cắn như vớ được miếng mồi ngon. Khi hàng xóm chạy ra thì chân bà đã ướt ròng ròng. Máu chảy ra ướt đẫm ống quần bà ba.
Từ đó bà đâm ra sợ chó còn hơn con nít sợ ma. Thấy chó là né, là chạy. Vậy mà nhà này lại nuôi đến hai con chó. Con ngoài kia xích rồi, vả lại bà cũng chẳng lân la được ra ngoài ấy với cái chân yếu như vầy. Giờ trong nhà có con chó bé tí như trái bưởi này. Biết là bé mà vẫn sợ lắm. Thằng con bà, cái thằng mà hồi xưa bà bế hai tay đưa nó lên để khỏi chó cắn ấy bảo là có con chó mà cũng sợ, chẳng được cái tích sự gì. Nghe xong câu đó mà lòng bà đau hơn bị chó cắn ngày xưa nữa!
3. Tám giờ tối bà chủ về. Bà la chị oai oái khi thấy con chó bị nhốt trong phòng. Bà bảo thử nhốt chị trong phòng một ngày có bí bách, khó chịu không, con bà làm sao chịu nổi. Chị lí nhí trả lời bà cụ sợ chó. Ôi dào, sợ thì kệ, do bà yếu bóng vía chứ con chó này hiền hơn cục bột. Bà hỏi chị đã cho chó ăn chưa. Chị nói đã lấy cơm cho ăn rồi. Bà chủ mở cái tủ lạnh 4 cánh, khói lạnh bốc ra mờ cả gương mặt bà. Thịt bò nhé, bò này nhập khẩu, mắc gấp mấy lần bò ngoài chợ. Rồi bà gõ móng tay sơn đỏ chót lộc cộc lên mấy chồng đồ hộp xếp đầy trên cái tủ sát tủ lạnh bảo rằng pa tê, thịt hộp, thức ăn cho chó. Toàn đồ nhập cả đấy… Mỗi bữa lấy ra nấu mềm cho Cindy ăn. Nấu thịt bò nhiều vào, ăn mấy thứ kia ít thôi, hầm nhừ ra. À, cho ít dầu mỡ thôi nhé. Giống chó này mà cho nhiều dầu là ăn không tiêu đâu. Bà chủ đóng phập cánh tủ, ngúng nguẩy đi lên lầu. Chị hỏi với theo, bình thường cụ ăn gì? Thì nấu cơm, múc thịt bò hầm cho bà ăn. Bò Mỹ nhập khẩu, nhất rồi còn gì.
Chín giờ ông chủ về, cái bụng to kềnh. Trước khi ông bước chân vào nhà thì cái bụng vào trước. Chị đon đả định bụng dọn cơm cho ông ăn thì ông phất tay, xách cặp thẳng lên lầu. Nghe đâu ông làm chức gì lớn lắm. Chị nghĩ, phải rồi, ông nào bụng bự mà chẳng làm to. Còn bà chủ thì làm chủ một spa làm đẹp có tiếng. Hèn gì người bà cứ mướt rượt, đứng gần thơm hơn cả xà bông gội đầu. Làm một tuần, chị chẳng thấy bà chủ ăn bữa nào ở nhà. Khi chị hỏi thì bà bảo bà không ăn cơm, cơm gạo làm người ta béo núc béo nịch. Bà chỉ ăn rau, ăn quả, thỉnh thoảng ăn hạt, đặt đầu bếp nấu sẵn mang tới tận spa. Chị lấy làm lạ. Làm người ai lại đi chê cơm! Ông chủ cũng chẳng ăn. Thành ra cơm nhà này nấu ra chỉ để cho chó, cho bà cụ và chị ăn.
Bà cụ hễ thấy chị bưng cơm có thịt bò hầm lên là nhăn mặt. Bà nói cái thứ này làm bà đi tước ngày mấy lần. Già rồi, bụng yếu, hễ cứ ăn đồ bổ béo là cứ sôi ầm ầm như nồi nước già lửa. Bà bảo bụng mình chỉ hợp với mấy món mằn mặn, kiểu như có cá đồng kho keo, mớ khô chiên cũng được. Khổ nỗi, con dâu bà đâu cho ăn mấy thứ đó. Nó chu môi bảo bà sướng mà không biết hưởng. Bò nhập khẩu từ Mỹ hẳn hòi nhé. Nó cứ nhắc đi nhắc lại cái điệp khúc nhập từ Mỹ đó. Với con dâu bà, Mỹ là nhất. Ăn đồ Mỹ, mặc đồ Mỹ, xài tiền Mỹ là ba cái nhất của cuộc đời! Từ hồi bà đẻ, có biết Mỹ nó nằm ở xứ nào đâu.
Bà hỏi chị, theo dòng sông có phải rồi mình cũng tới được Mỹ không? Hồi đó bà từng chèo ghe xuôi thèo dòng sông. Sông từ nhánh nhỏ chảy ra nhánh lớn, rồi sông phình ra mênh mông chứ chẳng biết sông trôi đến phương nào. Có khi đi mãi, đi mãi rồi cũng tới được Mỹ. Bà có hai đứa cháu nội. Con dâu bà đặt tên ngộ lắm, bà trọc trẹo cả lưỡi không được. Có tiền, hai đứa học trường quốc tế. Mẹ chúng bảo chúng hạn chế nói tiếng Việt, phải nói tiếng Anh để mai mốt đặng đi nước ngoài. Bà ngồi lạc lõng nhìn chúng nó xí lô xì là. Mỗi bận đi đâu về, chúng “hé lô bà nội” rồi chui tọt vào phòng. Mẹ chúng khen chúng giỏi nhưng lòng bà nhìn hai đứa cháu như khúc ruột bị cắt đứt khỏi người mình, càng nhìn càng xa lạ. Bây giờ chúng đi du học tận bên Mỹ rồi. Hai đứa ấy chẳng bao giờ gọi cho bà. Có khi bà chết, chúng ở bên Mỹ còn chưa về.
4. Bà cụ hỏi chị có nghe một bài hát có câu “đỉa lềnh như bánh canh” không? Đấy, một nhánh sông quê bà chẳng hiểu ở đâu mà lắm đỉa như thế. Đi ngang ngó mặt nước phẳng lờ, thử thò chân xuống khuấy mà xem, đỉa nghe mùi tanh nổi lên đặc lờ. Ở quê bà lưu truyền câu chuyện lạ lùng lắm. Có người đàn bà làm đồng bị đỉa chui vào người mà không biết. Bụng to dần, to dần lên, ai cũng nghĩ chị ta có bầu, cho đến khi đỉa từ cửa mình chị ta rớt ra. Kinh hoàng, chị ta nhảy sông. Cái bụng bầu đỉa ấy dưới lòng sông hàng ngày vẫn sinh ra hàng sa số những con đỉa tới tận bây giờ. Bà biết tỏng, chuyện người ta bịa để dọa trẻ con hoặc giả chẳng có lí do gì để giải thích được cho chuyện khúc sông ấy lắm đỉa. Mà lạ, chỉ nhánh sông đó lắm đỉa, còn nhánh khác thì không.
Chẳng ai dám thò chân xuống nên dưới lớp bùn, ven bờ cỏ triền sông tôm ốc nhiều lắm, thò tay xuống là lạo xạo ốc. Bà nghĩ ra cách giã lá thuốc đắng nát ra, vắt lấy nước rồi kiếm ít mớ thuốc lá ngâm vào, bôi từ bẹn đến lòng bàn chân, bôi từ nách xuống bàn tay. Thò chân xuống, chẳng con đỉa nào dám bâu. Vậy là tha hồ mà mò cua bắt ốc. Nhưng mà bắt được chừng nửa tiếng thôi, hễ thuốc trôi đi là đỉa lập tức xúm vào. Có bận bắt mê quá, khi giở chân lên thì đỉa bám đầy chân đen thui. Leo lên gỡ thì máu chảy ròng ròng, bà phải lấy thuốc lá rịt vào máu mới ngừng chảy. Thấy bà mò tôm ốc như thế ai cũng can, lỡ ngã xuống đỉa xúm vào hút máu là toi mạng. Bà cười, bắt thế mới nuôi được thằng Biển.
Bà bảo, sau lưng nhà bà là một nhánh sông khác. Con sông hiền lành, mấy cụm lục bình ngẩn ngơ trôi. Mỗi ngày, bán tôm cá xong, bà ngồi ở mé sông lặt rau vừa ngó thằng con lặn ngụp dưới sông. Cuộc đời bà bé mọn, suốt đời quanh quẩn với bùn đất, với mấy cây lục bình, đêm nghe tiếng dằm đập nước trên sông mà buồn rười rượi nên bà đặt tên con là Biển, để mai này cuộc đời nó được đi đây đi đó với người ta. Thế mà, con bà đi thật! Nó đậu đại học, lòng bà mát hơn cả gió sông buổi chiều. Nó lên thành phố học, ra trường kiếm được việc làm rồi quyết định ở luôn trên đó. Nó quay về bảo bà bán căn nhà ở mé sông đi. Ừ thì bán vì lòng má có bao giờ muốn xa con! Thằng Biển đi kiếm người mua nhà, thậm chí nó quyết định bớt một phần tư giá khi người ta lưỡng lự. Nó không nhìn thấy mắt bà nhìn nhà, nhìn sông như người mất hồn. Nó đâu biết, bán nhà rồi, sợi dây mong manh là dấu chỉ để ba nó tìm về cũng đứt lìa. Mà ba nó, trong chừng ấy nào có hồi nào có ý định quay về?
Kiếp thương hồ lênh đênh, ba thằng Biển ghé bến sông một tháng đôi lần. Ghe là cái tiệm tạp hóa mà xà bông, nước mắm, chiếc chiếu, cái nồi… thứ gì cũng có. Chủ ghe trẻ măng, mỗi lần bà ghé đều nở nụ cười thật tươi. Lẽ ra, bà đừng nhìn vào nụ cười ấy, đừng e thẹn đáp lại mấy câu bông đùa của người ta. Một bữa quá trưa, người ta nói đói bụng, bà đùa lên nhà bà dọn cơm cho ăn. Vậy mà người ta lên thật. Cơm mắm kho chấm với bông súng, người ta ăn đến ba bát đầy. Rồi cứ thế, bụng bà lùm lùm sau lớp áo. Người ta hứa hẹn, đi thêm mấy chuyến hàng, kiếm tiền về cưới bà. Cho đến khi tiếng trẻ con khóc vang bến sông, đến khi thằng Biển lẫm chẫm, đến khi cầm cuốn tập đánh vần mà người ta vẫn không quay về. Người làng nói bà dại quá, “dò sông dò biển dò nguồn – mấy ai biết bụng lái buôn mà dò”.
Thì thôi, bà bươn bả nuôi con. Rau ngoài đồng, tôm cá ngoài sông, con người ta nghiêng mình theo đất mà sống nên má con bà cũng chẳng chết đói. Bà dồn hết hy vọng cho thằng Biển, hy vọng đời nó đừng bé mọn như đời bà. Nhưng bà đâu biết, một mai thành biển lớn con người ta thường quay ra chê bai vùng sông nhỏ bé. Biển là con bà, là núm ruột của bà, vậy mà giờ đây núm ruột của mình nghĩ gì bà cũng đâu có biết. Thằng Biển giàu lắm, bà thấy nó có những cục tiền dày cộm chất trong tủ. Bà cũng không hiểu lắm mấy chuyện làm ăn của con nhưng lâu rồi má con bà đâu có nói chuyện. Bà thèm cái cảm giác bà ôm thằng con bé xíu trên tay, nó thỏ thẻ thương má nhứt trên đời! Rồi tiếng thương ấy cũng vụt bay như cánh chim bìm bịp trên sông. Hồi mới đón bà lên phố, bà thèm mắm kho, nấu một nồi to ăn cho đã thèm. Con dâu chê đã đành, thằng Biển cũng trề môi bảo má ăn mấy thứ hôi rình, bây giờ ở phố còn ai ăn mấy thứ quê mùa đó nữa! Lòng bà xao xác, hồi nhỏ xíu, mỗi bận đi học về hễ bà nấu mắm kho là thằng Biển nhảy cẫng lên sung sướng.
5. Chắc má con cũng thương con dữ lắm hen bà!  Bà cụ ngó mặt chị, cái con nói gì lạ, má nào mà chẳng thương con. Chị nói mình đâu có má, đúng hơn má sinh chị xong, cho người ta như cho con chó, con mèo rồi đi biệt. Nghe má nuôi nói, tại má ruột chị nghèo quá. Cái ghe rách nát tơi tả không che được mấy cơn mưa lùa sao mà gánh được thêm một đứa con. Má nuôi an ủi mà sao lòng chị xơ rơ như cái cây bị sâu gặm trụi lá. Bộ nghèo là bỏ con cho người khác sao má? Mà má nuôi cũng thương chị dữ lắm. Năm chị mười hai tuổi thì má nuôi mất, chị lại mồ côi lần nữa. Có đôi khi chị cũng có ý nghĩ điên rồ là xuôi theo dòng sông tìm má. Má nuôi nói má ruột sống trên một chiếc ghe nhỏ, trên mặt có vệt sẹo dài kéo từ tai xuống tận cằm. Mà người có vết sẹo vậy có mấy ai. Nếu đi tìm hoài chắc rồi cũng có ngày tìm thấy.
Không còn má nuôi, chẳng có má ruột chị vẫn lớn lên như cây bần cây đước cắm rễ ngoài cửa sông. Rồi chị lấy chồng, đẻ hai đứa con. Buồn một điều là má chồng cũng chết sớm nên chị không có má để thương. Thiệt lạ, cái phận mồ côi cứ bám riết lấy chị. Kiểu như không nhắc thì thôi, hễ nhắc tới là kiểu gì chị cũng ngồi bên bờ sông mà rấm rứt. Chị rút ruột mình để sống cho con Mến, thằng Thương. Nếu sông không nuốt mất ngôi nhà của chị thì chẳng đời nào chị chấp nhận xa con lên phố kiếm tiền. Cách vài bữa, chồng con chị lại gọi lên. Dù chẳng hối chị về nhưng chị biết mấy cha con mong chị dữ lắm.
Nghe bà cụ đi tước chị nấu cháo trắng với muối cho bà ăn ba ngày là khỏi. Lạ đời, cái món nấu dễ ẹt đó lại là thứ lành tính nhất với người hay đau bụng. Hạt gạo vo thật kĩ, nấu thật lâu trên bếp, để bung ra hòa quyện với nhau rồi thêm tí muối. Bụng bà cụ êm, chị kiếm khô sặc, kiếm mắm nấu cho bà cụ một nồi mắm kho bông súng. Bữa đó bà cụ ăn mà nước mắt chảy ròng ròng. Tay bà run run, bảo mười năm rồi mới được ăn lại. Bà nói cỏ cây sống được nhờ đất, bà sống được là nhờ mắm nhờ khô. Chị lấy khăn lau nước mắt cho bà, gắp cho bà miếng cá trong nồi mắm, bảo bà ăn mạnh đi. Bà thích thì ngày nào chị cũng nấu cho bà ăn. Thịt bò hay mấy thứ cao sang chị không nấu được chứ mấy thứ này chị nhắm mắt cũng nấu được.
Những buổi chiều, chị dắt bà ra ngoài sân hóng gió. Chân bà cụ run lập cập như máy cày. Bà nói chân yếu từ hồi bị chó cắn, sau khi sinh thằng Biển chưa đầy tháng đã phải dầm sông mò ốc, hết mùa này sang mùa khác như thế nên lặm nước, thấp khớp đủ kiểu. Con dâu mua thuốc Mỹ cho bà uống mà cũng chẳng đỡ. Chị ngồi bóp chân cho bà, thủ thỉ mấy cái bệnh đau xương như vầy phải chịu khó đi lại, ra vườn mới mong khỏe, chứ ngồi một chỗ, ở trong phòng suốt ngày sao mà khỏe lên được. Bà cụ thở dài, sáng sớm chúng nó đi, chiều tối chúng nó về, người giúp việc thay hết người này đến người kia có ai để ý đến bà đâu. Chỉ non một tuần ra nắng, bà cụ khỏe lên trông thấy, cơm ăn được, tối ngủ ngon giấc, xương không còn kêu răng rắc như cành cây bị bẻ như trước nữa.
Bà chủ một bữa đột ngột về sớm, bà sừng cồ như con chó béc giê bị xích ngoài cổng. Bà lôi ầm ĩ tên chị ra chửi. Bà nói nuôi ong tay áo, đã dặn đi dặn lại mà không nghe. Cindy thì bị nhốt trong phòng, thịt bò thì không nấu cho nó ăn. Đã thế còn mùi mắm, ối trời ơi mùi mắm! Bà dốc ngược nồi mắm chị nấu trên bếp vào bồn cầu, vừa bịt mũi vừa nhấn nút. Chị đứng trân trân nhìn nồi mắm bị cuốn vào dòng nước rồi kêu lên òng ọc. Bà chủ cấm tiệt chị sau này không được nấu mắm, chiên khô trong nhà này nữa. Không lo chu đáo cho con Cindy thì bà đuổi thẳng. Nói rồi, bà tức giận bước lên cầu thang, bước qua bà cụ đang run run đứng vịn bờ tường xem có chuyện gì dưới bếp. Chị ngước nhìn lên, thấy bà cụ hai tay bấu chặt bờ tường mới đứng vững, gương mặt bà trắng bệch.
Nhưng mà sao chị có thể làm ngơ khi thấy bà cụ ôm bụng mỗi lần ăn thịt bò Mỹ hầm. Chị lén lút nấu thịt heo kho mặn, nấu cháo thịt bằm cho bà ăn. Bà lắc đầu khi cơm còn non nửa, chị ép ăn cho hết. Chị ngồi bóp tay bóp chân, thủ thỉ vui buồn. Mỗi sáng khi cho con Cindy ra vườn chơi theo lệnh bà chủ chị đều dìu bà cụ ra vườn. Bà hãi con chó, chứ nơm nớp lo. Chị nói yên tâm, có chị đây rồi thì không con chó nào dám cắn bà đâu. Nắng sớm chiếu trên đôi gò má hom hóp đầy vết nhăn của bà. Bà nói hồi đó, bà ưa ngồi nhìn nắng sớm rải loang loáng trên mặt sông như người ta vãi lúa ngày mùa. Nắng ở đâu cũng đẹp mà nắng ở sông là đẹp nhứt trên đời. Chị ngồi im nghe, chị cũng nhớ sông thao thiết. Sông mùa này gió nhiều lắm. Chị thèm chiều chiều lặt rau muống nấu canh chua, bày xuống cái sàn gỗ rồi mấy bà con xúm xít lại ăn. Tự nhiên nước mắt chị chảy dài. Phải chi nhà chị không bị cuốn xuống sông. Phải chi ngày ba bữa chị được nấu cơm cho con Mến thằng Thương. Lòng má xa con héo hắt như cái cây bị bứng lìa khỏi đất…
Bà cụ đưa bàn tay nhăn nheo chùi gò má đầy vết tàn nhang của chị, bảo chắc nhiều người cũng buộc lòng phải bứt khỏi sông mà đi gá nghĩa ở mảnh đất khác. Giá mà hồi đó bà đừng bán căn nhà ven sông ấy thì bây giờ có chỗ để về. Chị nói, mai mốt chị kiếm đủ tiền dựng lại căn nhà mé sông, xin ông bà chủ cho bà về quê chơi một chuyến. Con Mến thằng Thương thèm gọi tiếng bà ngoại dữ lắm. Con nấu mắm kho ăn với lục bình, chiên khô ăn với mắm me rồi bày ra cái sàn ngó ra bến sông rười rượi gió. Mắt bà già hấp háy vui. Bà rưng rưng, tổ cha bây, biết tao còn sống tới hồi đó không!
6. Bà chủ mặt buồn thiu ngồi ghế sofa vừa vuốt vuốt lông Cindy vừa bảo mình vừa đi đám cưới hết cả chục triệu. Hết thôi nôi tới sinh nhựt, rồi cưới hỏi, đám ma. Toàn chỗ sang trọng, mỗi lần đi mất đứt mấy triệu mà nhà mình tới hồi nào mới thu lại được. Hai đứa con học xong chắc định cư, chẳng mơ tới ngày tụi nó đám cưới mà gỡ. Ông chủ ừ hử, vuốt vuốt cái điện thoại ra vẻ chẳng quan tâm lắm. Bà chủ nhíu mày, rồi hất cằm lên lầu hỏi: “Bà cụ năm nay nhiêu?”. Ông chủ cũng nhíu mày, không nhớ nữa, để xem, 79 rồi, sang năm là tròn 80. Bà chủ gật gật, vậy sang năm làm tiệc mừng thọ 80, chắc hốt kha khá. Rồi mắt bà lóe lên khi nhìn con Cindy trong tay.
Một buổi chiều, ông bà chủ về thật sớm rồi kêu thợ tới nhà trang điểm thật đẹp, ăn bận cầu kỳ. Bà chủ nói với chị, tối nay bà tổ chức sinh nhựt. Chị thoáng nghĩ trong đầu, chắc sinh nhựt bà chủ. Trước khi hai người lên xe, chẳng hiểu sao bà chủ bảo với chị vào kiếm bộ đồ kha khá mặc vào, bà chở tới chỗ đó phụ được gì thì phụ. Khi chị đi ra, bà chủ bĩu môi khi thấy chị mặc bồ đồ bà ba. Chị biết nhưng chị có bộ nào khá hơn bộ này đâu. Cánh cửa sắt khóa lại lạnh lùng, mình bà cụ ở nhà. Máy lạnh ô tô phà ra hơi lạnh khiến chị rùng mình. Con Cindy hôm nay được mặc một bộ áo đầm cầu kỳ, cùng tông màu vàng với bà chủ, cổ nó còn đeo cái vòng bằng ngọc trai mà bà khoe mua mấy chục chai chứ ít gì. Trên đầu nó còn thắp cái nơ cũng màu vàng nốt. Ai mắt kém, tưởng bà chủ bế con cũng nên.
Chị hết nhìn góc nọ đến góc kia của nhà hàng, cái gì cũng xịn, cũng bóng loáng, cũng đẹp đẽ. Năm sao mà lại! Chị đứng xớ rớ chẳng biết làm gì vì đã có mấy cô cậu thanh niên trẻ măng mặc đồ vest phục vụ. Bà chủ lăng xăng, cười với người này, bắt tay người kia. Khách tới dự tiệc, ai cũng đẹp, cũng thơm. Họ cúi xuống nựng con Cindy một cái như người ta nựng con nít. Bỗng đèn điện vụt tắt, sân khấu sáng đèn và tiếng nhạc vang lên làm chị giật mình. Màn hình chạy chiếu mấy hình ảnh của con Cindy. Hình nó lúc mới đẻ như một túm lông màu trắng, hình nó đang chạy chơi ngoài công viên, lúc nó ngoạm trái banh, cả hình lúc nó nằm ngoan trong vòng tay bà chủ. Tiếng MC vang lên: “Hân hoan chào mừng tất cả quý vị đến với bữa tiệc sinh nhật con cưng của chị Thu Hoài. Em bé Cindy”. Chị giật thót mình lần nữa. Hôm nay là sinh nhựt của con chó! Tiếng vỗ tay vang lên rào rào, rồi tiếng cụng bia tanh tách. Chị thấy nhức đầu, ra ngoài bãi xe ngồi chờ tiệc tàn. Gió thổi qua làm chị buồn xao xác. Mà buồn vì cái gì thì kẻ ít học như chị không cắt nghĩa được.
7. Tiệc tàn thì tới nửa đêm. Khi mở cửa vào nhà, chị kinh hoàng khi thấy bà cụ nằm ngã dưới cầu thang. Ông bà chủ lật đật gọi xe cấp cứu. Bà cụ được đưa tới bệnh viện quốc tế, ông chủ yêu cầu dịch vụ tốt nhất. Sau một ngày cấp cứu thì bà cụ cũng tỉnh. Bụng chị nóng hơ như có đám cháy ở trong. Biết thế chị ở nhà với bà cụ chẳng đi sinh nhựt làm gì. Tới đó có làm gì đâu mà cụ ở nhà chẳng ai trông. Bà cụ đưa mắt tìm, gương mặt giãn ra khi nhìn thấy chị. Bà thều thào kể muốn đi xuống bếp tìm nước uống, ai ngờ trượt chân ngã cầu thang. Bác sĩ nói cú ngã làm bà cụ gãy chân, chấn thương cột sống, gãy xương vai, đủ kiểu. Xương người già giòn như bánh tráng, phải lâu lắm mới lành lại. Chị thở hắt ra, nhìn bà cụ mà nước mắt cứ chảy. Ông bà chủ phải về đi làm, chị ở lại bệnh viện chăm. Ông chủ bảo chị đừng lo, dịch vụ ở đó tốt lắm. Chị ngồi bên thủ thỉ đủ điều, nói cụ khỏe để còn về quê, còn ngồi ngắm sông, còn ăn mắm đồng nữa chứ! Cụ cười hom hem. Nụ cười méo xệch như cố lắm mới kéo nổi đôi môi để chị an lòng.
Nằm mấy tuần mà bà cụ chẳng khá hơn, còn có dấu hiệu xấu đi. Người bà đã gầy giờ như tờ giấy dán vào giường bệnh. Chị bóp chân mà như bóp khúc củi khô quắt queo. Lòng chị rối bời, hoang mang như cái ngày má nuôi bệnh nặng. Nỗi lo mất mát ngập ngụa trong lòng. Nửa đêm chị choàng tỉnh, chạy lại giường bệnh, thở phào khi thấy bà còn thở. Thấy đôi mắt thâm quầng của chị, bà cụ lắc đầu. Cái lắc đầu vì bất lực hay vì điều gì chị chẳng biết.
Một bữa bà ra hiệu cho chị ngồi xuống giường bệnh, bảo chị kê sát tai. Bà thì thầm, giở cái nệm của bà ở nhà lên, lần trong cái bọc ni lông màu xanh, trong đó có mấy chỉ vàng… Nước mắt bà ứa ra rớt trên gò má tom hóp. Vợ chồng nó giàu lắm, đừng đưa chúng nó làm gì, về quê đi, cất lại cái nhà ven sông, đừng rời xa con cái, tội nghiệp, đừng như bà… Giọng bà đứt quãng, như con cá mắc cạn cố hớp từng giọt không khí. Bà siết chặt tay chị, về đi, sống ở đây buồn quá!
Rồi bà cụ chìm vào mê man. Đêm đó bà cụ mất. Vợ chồng ông bà chủ thuê xe đưa cụ về nhà. Chỉ sau một cuộc điện thoại, bên nhà đòn tới dựng rạp, dựng cổng, bày biện tang lễ sang trọng. Hoa tươi màu trắng trải từ cổng tới tận quan tài. Tiếng kinh tụng cầu siêu vang lên ba ngày không dứt. Chị như người mất hồn, đứng dựa tường nhìn người ta lo ma chay cho cụ. Trên di ảnh, bà cụ trông thật sang trọng, bà vận chiếc áo dài màu tía, cổ đeo vòng tròn ngọc trai. Sao mà khác với bà cụ gầy guộc mỗi ngày chị đút cháo, đút cơm đến thế. Đôi mắt cụ nhìn chị như trân trối. Chị sực nhớ đến lời dặn của cụ trước khi mất. Nhân lúc người ta không để ý, chị lên phòng, theo lời cụ lần dưới nệm lấy ra một cái bọc ni lông màu xanh. Tim chị đập như trống. Chị luống cuống mở từng lớp ni lông được quấn kĩ bằng những dây thun, là vàng, chị đếm đi đếm lại, có mười chỉ vàng…
Sau tang lễ, bà chủ cong môi ngồi cộng sổ tính tiền. Hai trăm triệu, lời được hai trăm luôn đó. Bà mừng rỡ nói với ông chủ nhưng ông vẫn chỉ ừ hử ngồi quẹt điện thoại rồi buông một câu: “Hai trăm thôi à!”. Bà chủ bảo giá sang năm làm thọ có khi gom được nhiều hơn. Chị đứng tần ngần một lát rồi tới xin phép ông bà chủ cho chị nghỉ, chị về quê không ở đây nữa. Bà chủ ngước lên nhìn chị, rồi bà gật đầu cái rẹt. Ừ, mai nghỉ đi. Rồi xoèn xoẹt đếm 5 triệu đưa chị, trả tiền công một tháng.
Chị lại bàn thờ thắp nhang, xá bà cụ ba cái. Thưa bà, mai con về với sông, bà có linh thiêng thì theo về với con! Mắt chị nhòe đi. Trước mắt chị hiện ra dòng sông quê mát rượi, căn nhà nhỏ xíu ngó mặt ra sông. Trên cái sàn gỗ, chị sẽ bày canh chua, mắm kho, rồi con Mến thằng Thương sẽ vừa ăn vừa cười giòn trong gió sông lồng lộng…
NHỮNG CƠN GIÓ BĂNG ĐỒNG
Út xắn quần cao quá đầu gối, cầm đôi dép trên tay rồi tất tả ra đồng tìm Hai. Gió thổi lao xao, cánh đồng non mượt mát rượi làm Út thấy dễ chịu. Nửa năm rồi Út mới tạm gác công việc để về thăm quê. Chỉ có vài đám ruộng thắt thẻo dưới chân núi vậy mà ngày nào Hai cũng cắm cúi. Hai gọi điện lên kể bữa đó sạ lúa xong chiều trời bỗng trút mưa to, thóc giống dồn lại một chỗ nên hôm rày Hai phải dặm. Út đến tận nơi rồi mà Hai vẫn không hay, cứ thoăn thoắt nhổ từng cây lúa chỗ ken dày cắm vào chỗ đất trống bên cạnh. Út ứa nước mắt. Cái dáng Hai gầy guộc, liêu xiêu sao mà giống má quá chừng!
– Hai ơi… lên bờ về đi, sắp tối rồi. – Út gọi.
Hai giật mình, thẳng người lên, nheo nheo mắt nhìn. Thấy Út, Hai mừng rỡ, lội nhanh vô bờ. Mớ mạ trên tay Hai thả xuống nước, khoác vội nước dưới ruộng rửa bùn đất dính đầy trên tay.
– Út về sao không nói Hai hay. Sao bảo tuần sau mới về? – Hai vừa nói vừa định cầm lấy tay Út nhưng sực nhớ mình vừa dặm lúa nên lau vội vô tà áo ngả màu.
Út đi trước, Hai đi sau men qua mấy bờ đất mấp mô về nhà. Cỏ tốt bời bời làm bàn chân mát rượi như đặt trên lớp thảm nhung. Tự nhiên Út nhớ ngày má còn sống, má đi trước, hai chị em Út lò dò theo sau. Cánh đồng cũng non mượt, gió cũng mát rượi như vầy mà giờ nhìn trước nhìn sau chỉ còn hai chị em.
– Tự nhiên Út nhớ tô canh rau bợ với cua má nấu quá Hai à.
Chỉ là Út buột miệng vậy mà Hai bảo gì chứ canh rau bợ thì dễ ẹt. Út chưa kịp cản thì Hai đã lội xuống mương. Rau bợ kết thành đám, mọc lan kín cả một khúc mương. Hai nói giờ đâu còn ai ăn rau bợ như hồi xưa đâu Út. Nay người ta ăn rau bán ở chợ à, mớ rau đồng như rau bợ, rau ngổ cứ mọc thành bãi, thành ruộng cũng không ai thèm ngó. Hai vươn tay ngắt những lá rau bợ thật non bỏ vào nón. Hai nói một lát Hai chạy ra chợ, chắc có cua đồng. Út nói đâu cần cực dữ vậy Hai, ăn gì cũng được mà. Hai cười, Út thèm rau bợ chứ thèm gì khác cực mấy Hai cũng nấu.
Út biết Hai nói thiệt. Cách đây mấy năm, Út cũng về thăm nhà vầy nè. Một buổi trưa hiu hiu gió thổi, Út kể bâng quơ mấy bữa ở thành phố tự nhiên Út thèm lá me non nấu canh cá. Út đâu biết trong lúc mình nằm ngủ trưa, Hai rón rén mở cửa ra cây me đầu làng. Cây me này lâu năm, cành lá xa tít. Vậy là Hai trèo lên cây. Hai có tuổi rồi, đâu có như mấy đứa con nít chuyền cành thoăn thoắt. Khi rướn người kéo một nhành me thì Hai bị té. May sao cành thấp, chỉ bị trẹo chân với xay xước ở tay. Vậy mà Hai giấu Út. Đến buổi tối khi Hai bê tô canh chua lá me bày lên bàn Út mới thấy vết xước. Út gặng hỏi mãi, Hai mới nói thật. Út làm mặt giận, định không ăn, bảo Hai mai mốt đừng có như vậy nữa. Út không ăn tô canh chua này thì có sao đâu. Hai cười, vuốt tóc Út. Hai nói mình nghèo, chỉ biết trút lòng thương Út bằng mấy món ăn này thôi.
Buổi tối, Út choàng tay ôm rồi đưa tay sờ lên mái tóc ngắn ngủn của Hai. Mớ tóc cắt cao trên ót, đã thấp thoáng nhiều sợi bạc. Út nhận ra Hai dùng kéo tự cắt chứ không ra tiệm. Út nói sao Hai không để tóc dài lại đi, rồi coi trong làng có ông nào được được thì về ở chung để có người nương dựa. Chỉ cần tử tế để những lúc ốm đau có người mua cho viên thuốc, nấu cho chén cháo. Út ở trên thành phố, nói Hai lên đó ở chung cho có chị có em thì Hai không chịu. Út thì có chồng rồi, đâu thể về mà sống với Hai. Hai lắc đầu, bảo mình già rồi, không nghĩ gì tới chuyện chồng con nữa đâu.
Út nhớ hồi mình học cấp hai, tụi bạn Út gọi Hai là “ô môi”. Bởi ô môi mới cắt tóc ngắn, mới chặn đường đánh nhau với mấy thằng ngang ngược trong xóm. Một bữa, Hai còn nắm tai thằng Toàn, tay kia chỉ vào mặt nó đừng có đụng tới con Út, mày còn đánh em tao lần nữa, tao xẻo tai mày. Hai còn dùng kéo, cắt xoẹt mái tóc của con Loan hồi Út học lớp mười nữa. Con Loan chung lớp với Út, nó bảo Út học không bằng nó mà toàn nịnh nọt thầy cô. Nó ghét Út, một bữa nó cậy mấy thằng quậy phá nhất lớp chặn đường, lấy một nắm ké gai vò lên đầu Út. Trái ké gai nhỏ xíu, tua tủa gai làm tóc Út dính vào nhau không cách nào gỡ ra được. Bữa đó Út khóc khi thấy từng lọn tóc mềm mượt đã biến thành từng một đám rối bù khi Hai cắt xuống. Út hoảng loạn không muốn đi học, trong chiêm bao còn nghe thấy tiếng cười sằng sặc của tụi nó khi vò mớ ké gai vào tóc mình. Hai nói đừng lo, có Hai rồi. Vậy là Hai ngồi canh ở con đường con Loan đi học về, chận xe đạp lại, hất tung cái mũ rồi xẹt kéo ngang vai nó. Từ bữa đó, không đứa nào dám đụng đến Út nữa vì ngán chị Hai ô môi của Út. Tụi nó đồn chị Hai đàn bà mà cốt đàn ông. Còn nói chị Hai có võ nữa, đụng tới con Út không khéo bả bẻ giò bẻ cổ.
Út mơ hồ nhớ Hai cũng từng có mái tóc rất đẹp. Má hay lượm mấy trái bồ kết nấu chung với lá bưởi cho Hai gội đầu. Hai chị em cách nhau mười lăm tuổi. Hồi Út học cấp hai, Hai cũng gần chạm ba mươi. Hai thương mái tóc của mình và Hai cũng hiền lành như tóc. Vậy mà một bữa, Hai xén ngang mái tóc của mình khi nghe tin Út bị đánh. Hai nói nhà mình không có ba, không có anh trai nên tụi nó đâu có sợ. Để Hai hù tụi nó ít bữa, chứ bị ăn hiếp hoài sao Út học được! Hai chưa kịp để lại tóc dài thì má mất. Từ đó đến nay, tóc Hai cứ bị xén ngang khi còn chưa kịp dài. Hai từ dạo má mất cũng trở nên gai góc đi nhiều. Hai nói để tóc dài thấy mình yếu đuối. Giờ má mất rồi, Hai phải mạnh mẽ để còn lo cho Út.
Lớp mười hai, những buổi tối Út cắp cặp qua xóm bên học thêm để ôn thi đại học. Xóm vắng mênh mang, nhà cửa thưa thớt. Con đường đi qua nhà thầy không xa nhưng phải qua những đoạn tối om với tiếng tre kèn kẹt trong gió. Út cũng rờn rợn nhưng ráng bấm chặt tay mỗi lần đi ngang để mình đỡ sợ. Một bữa không trăng, trời tối như hũ nút, Út cầm đèn pin đi mà như chạy. Qua cánh đồng vắng, Út rợn người bởi tiếng ếch nhái râm rang. Út chạy, vấp té xuống ruộng, quần áo sách vở ướt mem. Bỗng một cánh tay kéo Út dậy…
– Hai đây. Đi đứng sao mà để rớt xuống ruộng vậy Út…
Bữa đó Út mới biết, mấy tháng nay tối nào Hai cũng đi theo sau lưng Út. Hai không nói để đứa em gái tự vượt qua nỗi sợ của mình. Hai đứng nhìn Út bước vô nhà thầy rồi quay về nhà. Tới giờ Út học xong, Hai đứng đợi sẵn ở những đoạn đường tối om. Từ bữa đó Út biết, những con đường thăm thẳm mình đi, chỉ cần quay đầu nhìn lại sẽ có Hai ở đó.
Út lên thành phố rồi, Hai nhìn qua nhìn lại, căn nhà nhỏ xíu mà thấy trống mênh mông. Cái chõng tre ngày má còn sống nằm vẫn để nguyên như thế. Út nói, để vậy cho đỡ nhớ má, như thể má đi chơi bên hàng xóm chút xíu rồi về.
Hai nhớ những ngày má đau yếu, má kéo tay Hai nói nhỏ: “Hay kể cho Út nghe đi. Để cho Út biết…” Hai lắc đầu. Hai nói đã giấu chừng ấy năm rồi thì thôi im lặng luôn để cho Út yên ổn. Thà chẳng biết sự thật để Út hồn nhiên, vui vẻ còn hơn ôm nỗi đau đáu, khổ sở cả đời.
Út nói Hai thương Út còn hơn cả má nhưng Út đâu biết rằng đã có lúc Hai định tước đi cuộc sống của Út, muốn từ chối vĩnh viễn mầm sống nhỏ nhoi khi còn chưa kịp tượng hình. Hồi đó Hai mới mười lăm tuổi. Một cô gái mười lăm tuổi sống ở một miền quê thắt thẻo thì có biết gì! Bữa đó Hai ngồi xe lên thị trấn mua sách vở cho năm học mới. Cái chợ nhỏ xíu, cũ kĩ nơi này chỉ có vài cây bút, quyển tập không đủ nên tụi bạn rủ nhau bắt xe đò lên thị trấn mua sách giáo khoa với vài dụng cụ học tập. Hai đâu biết rằng, chuyến xe đầu đời qua khỏi con dốc làng đã khiến cuộc đời Hai vĩnh viễn rẽ sang hướng khác. Bữa đó xe hư phải dừng lại sửa vài tiếng đồng hồ. Khi chiếc xe đỗ xịch trước ngã ba làng thì trăng đã lấp ló trên ngọn tre. Hai ôm mớ sách mới thơm tho nhảy chân sáo về nhà. Hai nhớ rõ, lúa đang ngậm đòng đòng, mùi thơm như sữa non quyện vào trong gió. Lúc đi ngang qua cánh đồng, một bóng người khật khưỡng khiến Hai giật mình. Hai nhanh chân bước nhưng người kia đã kịp đưa tay kéo ngược mái tóc dài của Hai giật lại. Hai té sấp xuống bờ ruộng, mấy cuốn sách xổ tung, có cuốn rơi xuống ruộng. Âm thanh của cuốn sách mới tinh rơi xuống nước cơ hồ như chính Hai đang rơi xuống vực. Tay của kẻ kia như gọng kìm nắm tóc Hai kéo đến giữa cánh đồng. Hắn đè lên Hai, phà hơi thở nồng nặc mùi rượu lên mặt Hai. Hai chết điếng, giãy giụa. Kẻ kia một tay bịt chặt miệng Hai lại, một tay nhơ nhớp bắt đầu sờ soạng lên người. Rồi Hai nghe cơ thể mình rách toạc, cơ hồ như tiếng giấy bị xé khi Hai cùng tụi bạn vội vàng tìm giấy nháp trong giờ kiểm tra… Một vùng cỏ non nát nhừ y như cơ thể Hai vậy. Hai ứa nước mắt nhìn mấy quyển sách mới tinh Hai nâng niu bị bùn đất vấy bẩn, có quyển đã ngấm sũng nước nằm phơi dưới trăng. Không biết Hai nằm đó bao lâu đến khi sực tỉnh thì đã nghe ếch nhái râm rang, mùi hương lúa ngậm sữa làm Hai nhức nhối. Hai gượng dậy, từng tế bào cơ thể tê dại.
Má hốt hoảng khi Hai lê tấm thân rướm máu về nhà. Sau này má nói gương mặt Hai lúc đó chẳng khác gì gương mặt của một xác chết. Khi biết con gái vừa trải qua những gì má đau đớn, ngã sụp. Phải mất một lúc lâu má mới kéo Hai ra giếng tắm gội. Hai giật lấy cái gàu nước trên tay má mà múc hết gàu này đến gàu khác xối lên tóc lên người lên ngực lên cơ thể mình. Hai như mầm non, như cái cây đang ngăn ngắn màu xanh bị người ta giẫm đạp…
Má soi đèn pin, lội ra giữa cánh đồng. Giữa bóng đêm thâm u, nhìn một bãi cỏ nát nhừ quyện với mấy trang sách giáo khoa mà nước mắt má ròng ròng. Hồi ba mất, má cũng không khóc nhiều đến như thế. Hai không biết kẻ kia là ai. Trong hơi thở nồng nặc mùi rượu, trong những động tác hung bạo Hai vẫn nhận ra hắn ta không phải người trong làng. Hắn như thể là con quỷ hung ác bất ngờ xuất hiện gieo rắc kinh hoàng rồi lặn vào bóng đêm, mất hút. Hai thường xuyên chiêm bao, trong giấc mơ có kẻ phà mùi rượu nồng nặc, có kẻ xuyên vào người Hai đau đớn, rồi hắn cười sằng sặc, bước vào bóng tối…
Má dặn Hai quên cái đêm ấy đi, cứ coi như chưa có chuyện gì. Cái làng xa xôi giữa chập chùng núi non nhưng miệng đời thì ác nghiệt lắm. Lỡ người ta biết, sự thương cảm một người con gái bị hãm hiếp sẽ qua nhanh, rồi thì người ta sẽ chỉ nhớ một đứa con gái bị vấy bẩn. Nhưng Hai làm sao mà quên được. Nỗi ám ảnh đó như đóng đinh vào tim và não Hai mất rồi! Năm học mới khai giảng, Hai bỏ học, thường ngồi trước hiên nhà thẫn thờ. Hai nhìn tà áo dài trắng tinh mới may xong chưa một lần mặc đến lớp. Một bữa, Hai nổi lửa đốt hết mớ sách lấm lem bùn má gom lại trong cái đêm thâm u đó, Hai đốt luôn bộ áo dài. Khói cuồn cuộn bốc lên trời.
Một bữa, má chết lặng khi thấy Hai kéo nhành chùm ruột xuống mà hái từng trái ăn ngon lành. Bình thường Hai không thích ăn chua mà giờ nhai như thể đang ăn một trái ổi giòn rụm. Má kéo Hai vào nhà, lật áo lên xem. Vòm ngực chưa tròn trịa nhưng đầu vú đã sẫm màu. Cái bụng nhu nhú. Má gào lên, sao ông trời lại nỡ ác nghiệt như thế.
Hai từng nghe bà Tám trong làng nói bà thường cho mấy con chó cái nhà bà uống rau răm để xổ con ra. Tụi chó vài ba tháng lại chửa, đẻ hết lứa này đến lứa khác bà nuôi không xuể. Vậy là Hai một bữa qua vườn bà Tám xin một nắm rau răm thật to về lặt lá, giã nát, vắt lấy một bát to. Loại rau răm thân tía bà Tám trồng lâu lăm, nhón thử một lá cho vào miệng đã cay xè. Mùi bát nước rau răm xộc lên mũi, Hai nhắm mắt uống ừng ực. Cả buổi chiều, Hai nằm lên võng đợi chờ cái khoảnh khắc mình được giải thoát khỏi cái thứ lưu lại trên cơ thể mình sau buổi tối đó. Cơn đau bụng quặn lên, tử cung co thắt từng chặp. Má hốt hoảng về thấy máu ướt cả quần Hai, chảy thấm xuống võng nhỏ thành giọt xuống nền đất. Vậy mà, cái thai vẫn bám chặt tử cung không chịu rời.
Hai từng nghe mấy bà trong xóm ngồi nói chuyện, bảo khi có bầu thì đừng ăn đu đủ non, lá ngót, trái dứa kẻo động thai. Rau răm không được thì Hai nhai rau ráu từng trái đu đủ còn hạt non xèo, trắng nõn. Hai vò từng nắm lá ngót bỏ vào miệng nhai rồi múc nước giếng để tống hết xuống bao tử. Hai ăn hết trái dứa này đến trái dứa khác đến tưa hết miệng lưỡi không nuốt nổi cơm. Hai chỉ muốn đẩy nhanh cái bào thai ra khỏi người mình càng nhanh càng tốt. Hai hoảng sợ, Hai oán giận…Hai điên cuồng leo ổi leo me, Hai chạy sấp ngã trên cánh đồng, Hai nhảy từ trên cây cao xuống đất, Hai đấm thùm thụp vào bụng mình mỗi lần đi tắm…
Đã có lúc Hai mơ hồ nghĩ đến cái chết. Hai thấy có người đào huyệt mộ của mình giữa cánh đồng, họ chôn Hai với mùi lúa non đang thì ngậm sữa.
Một buổi trưa đang nằm thiêm thiếp trên võng, Hai nghe một cái quẫy nhẹ trong bụng mình. Hai choàng tỉnh, sờ tay lên bụng. Lại thêm một cái quậy nhẹ y như thể một con tôm đang búng. Một cái, hai cái… Rõ ràng bụng Hai đang cử động…Hai bàng hoàng nhận ra mình đang mang trong mình một mầm sống. Một đứa trẻ đầy đủ tay chân, hình hài. Hai ứa nước mắt, đưa tay vỗ về bụng.
Má nói thôi thì chuyện đã lỡ, đẻ nó ra đi rồi má nuôi. Má bảo Hai đừng đi ra ngoài, cũng đừng đi chợ hay qua nhà bà Tám chơi nữa. Má vốn hay đi đồng đi ruộng lại đột nhiên hay lê la hàng xóm. Đang ngồi nói chuyện, má lấy mấy trái chanh lột vỏ ăn ngon lành mà không cần muối. Má đi chợ cũng giả vờ nôn khan, đi làm đồng thì mệt mỏi lên bờ ngồi… Má lấy một cái áo, quấn quanh bụng mình. Chỉ mấy ngày sau, cả làng đồn ầm má chửa hoang. Một bữa, má rơm rớm nước mắt kể hai tháng trước đi làm đồng về trễ gặp gã say rượu giở trò làm bậy. Mấy người đàn bà sững sờ nhìn nhau, nhưng có người lại nghi ngờ, hay là má lang chạ với người đàn ông nào trong xóm…
Má lấy chiếc áo khoác rộng thùng thình bảo Hai mặc vào rồi dắt Hai bắt xe đò lên thành phố trong ánh mắt nghi ngại của người làng. Họ nói má xấu hổ vì chửa hoang nên bỏ làng bỏ xóm ra đi. Má lơ ngơ dắt Hai giữa bến xe xa lạ, rồi lần tìm được một phòng trọ công nhân giá rẻ. Má xin phụ rửa chén cho quán cơm chờ ngày Hai sinh nở. Từng đồng tiền kiếm được chia ra đóng trọ, mua cho Hai từng lốc sữa. Bụng Hai to dần sau lớp áo, má vuốt vuốt bụng Hai, nói nghĩ ra mấy cái tên thiệt đẹp đặt cho cháu ngoại.
Vài tháng sau, Hai trở dạ sinh Út. Má đặt Út lên ngực Hai. Một sinh linh bé bỏng, đỏ hỏn. Cái miệng chúm chím, chóp chép tìm sữa. Rồi như bản năng, cái miệng ấy ngậm đúng quầng vú của Hai. Bất giác người Hai run lên như đang trong cơn sốt bốn mươi độ. Hai đưa bàn tay vỗ nhè nhẹ lên lưng đứa bé. Hai không nhận ra rằng, chưa lúc nào Hai dịu dàng đến thế.
Chăm sóc Út khiến lòng Hai dịu lại khi nghĩ về cái đêm ác nghiệt đó. Nụ cười của Út khiến Hai mỉm cười. Trái tim đầy thương tổn và chằng chịt nỗi đau của Hai êm như vạt cỏ sau mưa khi ngửi mùi Út, khi được thơm lên đôi má bầu bĩnh, khi thức đêm ru hời ôm Út… Hai ứa nước mắt nhìn má bế Út suốt đêm không ngủ đi qua đi lại trong căn phòng trọ chật hẹp. Má nói đặt tên ở nhà là Út, đặt tên khai sinh là Hoài Thương, ý là thương hoài thương mãi.
Mấy tháng sau má và Hai bế Út về làng. Lúa lại làm đòng, mùi thơm ủ trong gió. Hai rón rén, sợ hãi bước qua chỗ đó. Cái cựa quậy rất khẽ của Út trong lớp khăn buộc kĩ khiến Hai mạnh dạn bước. Hai mơ hồ nghĩ đến cái ngày mình sẽ nắm tay Út đi trên cánh đồng xanh rì mát rượi.
Người làng kéo đến xem mặt Út. Mấy bà nhiều chuyện bàn ra tán vào một thời gian cũng thôi. Bà Tám nói Hai khéo chăm em. Cái cách Hai bồng em, cưng em, dỗ dành em y hệt một người mẹ chăm chút con mình. Hai khựng lại rồi nói nhỏ. Em út mình không thương thì biết thương ai. Má đi làm đồng, chạy chợ, bòn mót trên mấy thửa ruộng cạn xợt để kiếm tiền. Út dần lớn lên, hai chị em quấn quýt với nhau như sam.
Út học mẫu giáo, mỗi ngày Hai hai bận cõng Út qua cánh đồng. Mùa mưa trơn trượt, bóng Hai liêu xiêu, áo mưa dính sát vào người tất tả đi đón Út. Hồi đó toàn đường đất đầy sình mà chân Út chưa từng lấm bẩn. Hai cũng bắt chước má, kiếm từng bó rau đồng, chạy chợ từng bữa thêm với má cho Út ăn học.
Má bảo Hai lên thị trấn hay thành phố kiếm nghề để học. Nghề gì cũng được, làm móng, gội đầu, may vá cho có cái nghề rồi kiếm tấm chồng. Má nói coi Út như em, đừng vướng bận quá nhiều để lỡ dở cả một đời. Hai lắc đầu bảo lên thành phố, nhớ Út thì biết làm sao! Út ngây thơ đâu hiểu, má biết bao nhiêu lần nhìn Út mà thở dài.
Út nói Hai bớt thương Út đi để còn lo cho cuộc đời mình. Út lớn rồi, Út có thể tự đi một mình chứ không còn cần Hai đứng dõi theo như cái hồi còn cắp sách qua nhà thầy học phụ đạo. Hai cười, chưa ai kỳ cục như Út, làm sao bớt thương máu mủ ruột rà của mình.
Mà cũng đâu cần phải là máu mủ mới thương tận cùng gan ruột. Những ngày má đau yếu, má cầm tay Hai nói ngày má lượm Hai ở bụi tre đầu làng tay Hai nhỏ xíu như que tăm, cứ nắm lấy tay má không buông. Tiếng khóc Hai nghèn nghẹt như con mèo hen khiến trái tim người đàn bà không sinh nở được như má mềm lại. Ba gật đầu đồng ý nuôi Hai. Nhà nghèo, má nuôi Hai bằng chén nước cơm pha đường, bằng lon sữa bò tằn tiện từ từng đồng bán rau, bán lúa… Hai bị người ta bỏ suốt một đêm lạnh lẽo nên nhiễm lạnh sưng phổi, bệnh lên bệnh xuống. Má rộc người chăm Hai cho có da có thịt. Rồi khi đời Hai biến cố, má như con gà xòe cánh để Hai rúc vào tránh hết tai ương.
Má nói cánh đồng làng mình hai mùa mưa nắng. Mùa nắng, những cơn gió khô khốc thổi ngược thổi xuôi như vừa đi qua một đám cháy khiến cỏ cây héo rũ, từng đường cày như nung lửa. Nhưng rồi cái nóng ghê người ấy cũng nhường chỗ cho cơn gió mát lành ủ hương lúa trổ đòng. Mình thương cánh đồng tận cùng máu thịt thì sẽ đợi được tới ngày những cơn gió mát rượi băng đồng…
14/1/2025
Nguyễn Thị Như Hiền
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...