Thứ Tư, 28 tháng 5, 2025

Truyện ngắn của hội viên mới Lưu Vĩ Lân ở TP Hồ Chí Minh

Truyện ngắn của hội viên
mới Lưu Vĩ Lân ở TP Hồ Chí Minh

Nhà văn Lưu Vĩ Lân sinh năm 1961 tại Đà Nẵng, hiện sống và làm việc tại TP.HCM. Lưu Vĩ Lân làm báo và quản lý báo chí, mãi đến lúc về hưu ông mới bắt đầu viết văn. Sinh ra và lớn lên trong vùng chiến tranh khốc liệt; tuổi thơ đã chứng kiến, nếm trải mùi chiến tranh nên ông có cái nhìn đa chiều, khách quan về cuộc chiến. Gan góc cùng với sự chiêm nghiệm và triết luận thấu đáo, nhà văn Lưu Vĩ Lân liên tục cho ra đời các tác phẩm đồ sộ, giành được nhiều giải thưởng văn học danh giá.
Cá tính mạnh nhưng ẩn dật, luôn bảo vệ quan điểm lập trường đến cùng, có lối đi riêng và làm việc vô cùng kỷ luật- điều rất cần ở một nhà văn chuyên nghiệp đã làm nên tên tuổi nhà văn Lưu Vĩ Lân.
Lưu Vĩ Lân đã xuất bản: Trở về chiến trường xưa, NXB trẻ, 1992, sách biên khảo hướng dẫn du lịch; Agenda xuân hạ thu đông, NXB Văn hóa Văn nghệ TPHCM (sách biên khảo tình hình thời sự); Bức tĩnh vật của sương khói, tản văn, NXB Văn hóa Văn nghệ TPHCM 2011.; Mật đạo, tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn 2018; Ngẫu tượng, tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn 2019; Nghiệp chướng, tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn 2020;  Quỹ chủ, tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn 2022; Ẩn tàng, tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn 2024.
Lưu Vĩ Lân đã đạt được các giải thưởng văn học: Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM năm 2021 với tác phẩm Nghiệp chướng; Giải A Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam cho tác phẩm Nghiệp chướng; Giải sách hay 2022 cho bộ ba tiểu thuyết Mật đạo – Ngẫu tượng – Nghiệp chướng; Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ ba (2018 – 2022) cho tác phẩm Nghiệp chướng.
Nhà văn Lưu Vĩ Lân vừa trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam 2024.
TRƯƠNG ANH QUỐC giới thiệu
SÁM HỐI HIROSHIMA
Chiếc oanh tạc cơ “Kẻ Báo Thù” tăng tốc để lấy lực cất cánh trong tiếng bíp bíp hỗn loạn của mật mã báo động “Ngày Tận Thế”, bí số 0/1.
Nó gầm lên, rung bần bật trên đường băng rồi nhẹ nhàng thu càng nhấc mình lên khỏi phi đạo, một cảm giác nhẹ hẫng, thinh lặng xâm chiếm cả khoang máy bay, cơ trưởng biết chân mình đã không còn chạm đất, nhân gian bé tí lùi xa bên dưới. Trong một khoảnh khắc tiếng bíp hỗn loạn như biến mất khỏi tâm khảm ông. Một tiếng chuông khẽ của máy đo cao độ tự động báo máy bay đã đạt cao độ 1000 thước, cơ trưởng bắt đầu “gặp mây”, từng lọn, từng lọn mây ve vuốt chào đón cái thằng người tục lụy đằng vân lên trời. Khi tiếng chuông thứ hai vang lên báo máy bay đã đạt 10 ngàn thước, qua cửa sổ buồng lái cơ trưởng cảm nhận một đại dương mây vĩ đại trùm lấy ông trong thinh lặng tột cùng của trời đất.
Đó là cảm giác bình yên cuối cùng mà cơ trưởng dành cho mình.
“Giữ nguyên cao độ chờ lệnh…”, tiếng của thiếu tướng chỉ huy “Biệt đội Báo thù số 13” vang lên trên tần số sóng của căn cứ mật nằm trong rừng già phía bắc đất nước, như vậy là ông ta chưa cất cánh… Mười lăm oanh tạc cơ của biệt đội đã cất cánh cùng lúc mà mỗi chiếc trang bị hai hỏa tiễn tầm trung mang đầu đạn hạt nhân đã mở khóa và 3 quả bom hạt nhân trong khoang bụng. Tất cả nhận lệnh phi hành đơn tuyến, tỏa ra bầu trời phía bắc để xâm nhập vào không phận đối phương từ phía trên. Chiếc thứ 16 mang bí danh “Phi tuần Bất tử” chỉ cất cánh khi các tướng lĩnh, chính trị gia có tầm quyết định được lệnh ra đi. Nó sẽ bay về một căn cứ bí mật ở Bắc Cực để tiếp tục chỉ huy cuộc báo thù… Có tất cả bảy phi đoàn mang mật danh “Biệt đội Báo thù” với các ký số lẽ:1,3,5,7,9,11,13 nằm rãi rác bí mật bao quanh lãnh thổ đất nước. Lúc này tất cả họ gồm 105 oanh tạc cơ đã ở sâu trong bầu trời, mang trong bụng tổng cộng 525 đơn vị vũ khí hạt nhân mà mỗi đơn vị có sức công phá gấp mười lần quả bom đã ném xuống Hiroshima. Đây là các chuyên bay không bao giờ hạ cánh…
Tiếng bíp bíp của mật mã ngày tận thế vẫn rung lắc liên hồi trong khoang bay, nó không còn là âm thanh nữa mà là các sóng địa chấn đập từng hồi xuyên qua da thịt, lỗ chân lông và dộng thẳng vào tim can của 4 con người đang điều khiển con tàu. Họ sắp đáp trả kẻ thù bằng những vũ khí tận thế. Đối phương là một liên minh quân sự bao vây quanh tổ quốc ông, chúng đã bắt đầu khởi động các tên lửa hạt nhân từ mặt đất, tàu ngầm, núi cao, rừng thẳm… Khi nào chuỗi vệ tinh thám thính của vành đai an ninh quốc gia trên bầu trời nhận ra một điểm nhỏ ở vị trí đối phương khai hỏa, tên lửa rời mặt đất thì mật mã 0/1 sẽ chuyển thành 1/0: đó là mệnh lệnh hủy diệt và tiếng bíp sẽ chuyển thành tiếng hú…
Cho đến lúc này vẫn là “bíp, bíp, bíp…” thúc hối nhưng không dồn dập.
Cơ trưởng đưa mắt nhìn qua các đồng đội, tất cả đều dưới ba mươi, cơ phó ngồi ngay cạnh nín thở xem xét các thông số bay và liên tục nhìn qua cửa sổ quan sát xung quanh. Lúc này các oanh tạc cơ mang vũ khí báo thù như của ông mới là mục tiêu tìm diệt đầu tiên của kẻ thù, bắn rơi “kẻ báo thù” trước rồi mới tấn công là quy luật mang tính sống còn của một cuộc chiến hạt nhân, triết lý của nó là: ta chắc chắn hủy diệt được địch, địch chắc chắn cũng hủy diệt được ta. Nên phải bịt vế sau trước, rồi mới đánh vế trước sau.
Ở ngay sau lưng cơ trường là sĩ quan dẫn đường. Anh ta phải định vị chắc chắn 3 thành phố quan trọng nhất đã được giao, phải hủy diệt hai cái nhỏ bằng hai quả tên lửa mang đầu đạn hạt nhân và ba quả bom hạt nhân còn lại sẽ trút xuống chùm đô thị lớn ven biển của đối phương. Anh ta là người chỉ đường cho thần chết tìm đến sinh mạng của số người lớn gấp 10 lần cư dân của cuộc hủy diệt Hiroshima và Nagasaki.
Người thứ tư là sĩ quan vũ khí, biệt danh “Grandpa of Little Boy” tức Ông ngoại của “Chú nhóc”, tên gọi mật của quả bom nguyên tử đầu tiên mà loài người dùng ở Hiroshima. Anh ta là chuyên gia về hạt nhân và sẽ biết cách kích hoạt, khởi động các quả bom và tên lửa hạt nhân để chúng nổ tốt nhất khi gặp mục tiêu.
Cuộc chiến tranh kéo dài hai năm giữa liên minh đối phương và liên minh các quốc gia bạn của đất nước cơ trưởng đã đến hồi kiệt quệ và ngập trong hận thù. Người ta không chỉ đánh nhau, ném bom, bắn tên lửa… mà người ta còn bao vây kinh tế để gây kiệt quệ cho nhau. Kinh sợ hơn cả lại là cuộc chiến tranh thông tin: người ta bôi xấu nhau, tạo các cuộc thảm sát, hố chôn tập thể, tra tấn, giết chóc để tạo thêm sự thù hận và để đả kích, để gây tâm lý hoang mang bế tắc… Tất cả như củi được tiếp tục đút đáy nồi thù hận đang sôi sùng sục và giờ đây dường như cái nồi thủ hận đó đã được tiếp thừa năng lượng để trào ra, tràn ra, hủy diệt tất cả…
“Báo cáo chỉ huy, sao yên lặng quá vậy…”, tiếng của cơ phó vang lên trong bộ đàm khi anh ta dù vẫn giữ nét mặt lạnh như tiền nhưng cứ dáo dác tìm quanh bầu trời. Điều làm anh ta sợ hơn cả lúc này là bị tên lửa đối phương bắn ngay trên bầu trời và cái kho vũ khí hạt nhân nằm dưới chân mình sẽ bao trùm đất đai của tổ quốc. Nhưng cái quay đầu trừng mắt của cơ trưởng làm cơ phó tái mặt cúi gầm. Mệnh lệnh cảm tử, cái mà biệt đội đặc biệt này phải học thành máu thịt của mình là những điều lệnh ma quái và phi nhân tính nhất, nhưng họ không bao giờ được quên, và một trong những điều đầu tiên phải khắc cốt ghi tâm là: không được tâm tình trong thời khắc này, chỉ có ban và nhận mệnh lệnh gọn, rõ, gắt, họ phải hành động như một con rô-bốt, không nhân tính.
Biệt đội Báo Thù dành cho sứ mạng “Ngày Tận Thế” được tuyển chọn từ những quy trình khắc nghiệt nhất, hầu hết họ phải từ các trường thiếu sinh quân, tức mang chất lính từ nức mắt. Họ chỉ phục vụ trong niên hạn 10 năm, trước 30 tuổi là phải rời biệt đội, nếu còn sống. Trong suốt thời gian này họ phải sống khép kín như những ẩn sĩ. Đầu tiên: không yêu đương, gia đình, con cái, vì không ai chịu nổi việc thực hiện nhiệm vụ nếu có một ánh mắt trẻ thơ lẩn quất trong đầu. Thứ hai, sống tập trung kín đáo trong một căn cứ mật, chỉ quan tâm đến tổ quốc, đồng đội và kẻ thù. Không xem bất cứ báo chí, truyền hình, sách vở nào của bên ngoài và của đối phương. Thứ ba, sống từng ngày, không có kế hoạch gì cho tương lai, tổ quốc và quân đội sẽ đảm bảo hết, còn họ không cần quan tâm gì hết, chỉ nghĩ đến việc báo thù nếu tổ quốc bị tấn công, mà chuyện này luôn rình rập và có thể xảy ra ngay ngày mai. Thứ tư, tuân lệnh, tuân lệnh, và tuân lệnh, không thắc mắc bất cứ điều gì, hành động ngay khi chiếc nút đỏ khởi động được ngón tay của tổng tư lệnh nhấn vào. Và điều sau cùng là học chết từng ngày, họ thuộc nằm lòng đoản khúc của người báo thù hát thầm trong giai điệu cảm tử như một bài kinh ai điếu cho kẻ tự hủy:“…Dù có gì thì cũng chỉ là một chớp mắt/ Sẽ biến mất hết/ Chỉ còn lại sự êm dịu bất diệt…”. Mỗi ngày họ đều hát bài kinh này trước khi ngủ và sẽ hát cùng nhau vào thời khắc cuối khi khai hỏa vũ khí.
Chỉ những cấp chỉ huy mang tính quyết định như cơ trưởng mới được gia hạn cho niên hạn thứ hai, tức ngoài ba mươi và chỉ được lưu nhiệm không quá tuổi 36, tức trước khi bước vào tuổi trung niên, thời điểm bắt đầu diễn ra hội chứng “khủng hoảng giữa đời người”. Loại hội chứng mất phương hướng khi người ta dần bước qua đỉnh cao của tuổi trẻ, những lý tưởng tuyệt đẹp nhất từng theo đuổi cũng bắt đầu lung lay, không còn tin vào những điều chắc chắn và bắt đầu thắc mắc về cái chết.
Nhiều người bên ngoài cứ ngỡ rằng biệt đội tận thế là những anh hùng lẫm liệt, oái oăm thay sự thật ngược lại, họ được huấn nhục và đào luyện thậm chí là tẩy não để thấy mình nhỏ bé, tầm thường, phù du và cát bụi. Bởi vì làm gì có anh hùng trong thời khắc tận thế nữa. Anh hùng là một ý niệm của cuộc sống, của trần thế. Nên trong cuộc chơi cuối cùng này không có anh hùng, mà cũng chẳng có anh hùng nào chịu nổi trách nhiệm nhấn nút cho tận thế. Cuộc chơi vì vậy chỉ dành cho hận thù, khao khát báo thù và nhận diện rõ sự tầm thường của thân xác mình. Họ hành động vì ý thức ta chẳng là gì và chúng, đối phương cũng chẳng là gì, nên không cho phép chúng hủy diệt chúng ta mà không bị hủy diệt. Phải nhận thức rõ: không hủy diệt cũng bị hủy diệt…
Cho nên, khi có dịp rời căn cứ ra ngoài đời, người ta không bao giờ ngờ những con người nhỏ bé, dáng dấp nhẹ nhàng, thậm chí khúm núm, ăn nói lơ đãng thậm chí hiền hậu có đôi chút khờ khạo, không hề có chút sành điệu ấy, lại là những thành viên của một lực lượng tinh nhuệ hàng đầu của quân lực. Những cơ hội hiếm hoi, cơ trưởng được về phép thăm gia đình, ông luôn nhận được cái nhìn thương cảm của mọi người dành cho chàng quân nhân có quân phục cũ kỹ, buồn bã, không phù hiệu, cấp bậc, dáng dấp như một lính anh nuôi. Cha của ông thường hỏi thì thầm trong bữa ăn: “Con chăm lo kho quân nhu cho quân đội cẩn thận nhé… Cha thấy con hơi lơ đãng đó…”. Ông chỉ biết dạ nhỏ đáp lời cha… Còn người con gái hàng xóm ngày xưa mà ông từng mơ ước, nay đã là thiếu phụ hai con, gặp lại trên đường, nhìn ông xót xa: “Em tưởng anh vào trường thiếu sinh quân để làm một vị tướng anh hùng chứ…”, nàng ngập ngừng tiếp: “…đâu ngờ nghe bác trai nói anh…. anh… chỉ là lính lo hậu cần quân nhu cho đơn vị…”. Ông đứng yên gần như lặng câm nhìn nàng, rồi bật quay đầu trở bước khi nàng ngoắt tay gọi: “… Hai con ơi đến đây chào bác nè… Đây là hai con gái của em nè…”. Nàng chưng hửng ôm lấy hai con nhìn theo bóng ông. Ánh mắt của người đàn bà và những cháu bé âu yếm là điều đầu tiên cấm kị. Không được nhìn vào đó. Đó là điều lệnh quan trọng hàng đầu của chỉ huy biệt đội tử thần…
Cơ trưởng biết mình đã chọn và được chọn cho một số phận kinh hoàng, một cuộc đời không có đời, một con người không sống trong nhân thế này… Vì ông được chuẩn bị cho một kết thúc.
Tiếng hú, tiếng hú, tiếng hú… vang rền như nén chặt cái không gian bé tí của buồng lái. Bốn con người đã phải tập nghe tiếng hú của mật mã 1/0 này mỗi ngày thứ hai đầu tuần thế mà đã giật nẩy lên như lửa chạm vào da thịt. Âm thanh lửa hỏa ngục, đúng vậy. Thế là hết thật rồi… Mật mã ngày tận thế đã chuyển qua pha: Giờ tận thế, bí số 0/1 đã chuyển thành 1/0, tiếng hú… Địch đã khai hỏa!
“Các tử thần, hãy cất lưỡi hái… báo thù, báo thù, báo thù…”, tiếng của thiếu tướng chỉ huy trưởng nghe như tiếng ma trơi vang lên qua bộ đàm, tần số sóng của ông đã chuyển qua kênh tuyệt mật, vậy là chiếc “Phi tuần bất tử” của ông đã cất cánh. Kể từ bây giờ, tất cả những gì trên mặt đất sẽ bị hủy diệt.
“Khởi động quy trình báo thù…”, cơ trưởng nói như một con rô bốt. Năm bước trong Bảy bước của quy trình khai hỏa từ: định vị, xác định tọa độ, mở nắp an toàn, kiểm tra nút khai hỏa, cả bốn thành viên của tổ bay cùng đặt tay vào nút sẵn sàng cùng khai hỏa khi nhận mệnh lệnh sau cùng.
“Số 1, xác nhận tìm thấy nút đỏ…” cơ trưởng hô to
“Số 2, xác nhận…”, giọng của cơ phó
“Số 3, xác nhận…”, giọng của sĩ quan dẫn đường
“Số 4, xác nhận…”, giọng của sĩ quan vũ khí.
Ngay lúc đó tiếng hú chậm dần và nhỏ đi để chuyển qua bài kinh hát nhẹ nhàng như lời ru của mẹ: “…Dù có gì thì cũng chỉ là một chớp mắt/ Sẽ biến mất hết/ Chỉ còn lại sự êm dịu bất diệt…”
Cơ trưởng biết lời kinh là điểm không quay lại nữa rồi, lúc này các hỏa tiễn hạt nhân tầm ngắn, tầm trung, tầm liên lục địa của đối phương đã bay đầy trên bầu trời hướng về phía tổ quốc. Giờ phút vĩ đại nhất và tầm thường nhất của nhân loại đã bắt đầu, ông nói thật nhẹ: “Số 2 thực hiện quy trình bước 6”. Có tiếng sột soạt, tiếng bật lửa và một mùi thơm dịu nhẹ nghe như mùi thảo mộc, mùi cỏ khô cháy trên cánh đồng ngày cha mẹ đốt rơm rạ sau thu hoạch, báo một mùa no đủ cho mùa xuân sung túc… Mùi thơm đó bay ra từ một điếu thuốc đặc biệt sau cùng biệt danh là “Nén nhang Hiroshima”. Điếu thuốc được tẩm ướp, điều chế đặc biệt, được đặt trong một hộp sắt kín có kèm theo một bật lửa vĩnh cửu. Nó chỉ được bóc ra, châm lên và chuyền tay nhau hút vào giây phút cuối cùng trước khi chuyển vào bước thứ 7, bước cuối cùng của quy trình kết liễu. Điếu thuốc ru ngủ, an thần, vỗ về những tâm hồn đớn đau của một số phận bi thảm đã chọn. Trong hơi thuốc say say, cơ trưởng thấy mình đã thoát ra khỏi cái buồng lái tởm lợm của tử thần, của trần gian thù ghét và bốc lên thật nhẹ giữa những đám mây bồng bềnh đang bay quanh ông. Ông bình thản chờ đợi, quên hết, quên hết chỉ căng nhẹ đầu ngón tay dựa trên cái nút đỏ khai hỏa. Ông sẽ nhấn quyết liệt và hân hoan để đập tan hết những khổ đau này.
“Hãy kết liễu…” tiếng thiếu tướng chỉ huy trưởng vang trong bộ đàm nghe nhẹ nhõm, chứ không đanh thép hay tàn khốc như mong đợi: “…Cảm ơn các chiến hữu, hẹn gặp lại ở một cuộc đời khác… Vĩnh biệt!”. Ông đã phạm quy khi nói những lời tâm tình trong quy trình của hỏa ngục này, nhưng dù được đào tạo và chuyên đi đào tạo để ông và đội quân của ông sống, suy nghĩ như những tử thần, như quỷ dữ, thì từ sâu thẳm… thằng người trong ông vẫn tồn tại.
Khi bốn ngón tay đã nhấn vào nút khai hỏa, bước cuối cùng của quy trình 7 bước, cả chiếc oanh tạc cơ đồ sộ rung lên bần bật rồi nhẹ hẫng đi khi hai hỏa tiễn hạt nhân rời khỏi cánh và lần lượt ba quả bom hạt nhân được nhả ra khỏi khoang bụng bay về mục tiêu thì cả bầu trời bỗng như nứt toác ra. Cùng lúc cả chục tên lửa từ phía địch và từ đất của ta bay lên đan chéo bầu trời, có vài tên lửa đạn đạo bay xuyên lục địa trên quỹ đạo từ tầng bình lưu xuyên qua mây chui tọt xuống và cắm thẳng xuống mặt đất. Các cột nấm hạt nhân khủng khiếp đỏ lửa trổi vọt lên nhiều nghìn mét và lan ra cả một vùng đất. Màn hình thông tin trong buồng lái thu nhận những lời kêu cứu, chửi bới, nguyền rủa, kêu la của hàng chục ngôn ngữ khác nhau… Bên dưới kia các đô thị vĩ đại bị san bằng, các đập thủy điện khổng lồ tan chảy như thác tràn xuống đồng bằng, các nhà máy điện nguyên tử bùng nổ đẩy tro phóng xạ lên góp phần với phóng xạ của hàng ngàn quả bom hạt nhân cùng lúc nổ khắp địa cầu. Có những báo cáo cuối cùng vì động đất vượt khỏi mọi thang độ ricter vang lên và ngoài đại dương những con tàu và bờ biển duyên hải của nhiều nước đang kêu gào vì bị những cơn sóng thần khổng lồ cuốn phăng đi…
Sau cùng, mây hạt nhân tràn hết bầu trời bên dưới. Sự yên lặng của tận thế đây sao? Cơ trưởng trong cơn say thuốc, say hấp hối vẫn trườn mình nhìn ra khỏi khung cửa máy bay, cả thế gian đã bị phủ kín bởi những đám mây phóng xạ đen ngòm dầy đặc và dần dâng cao đến cao độ 20 ngàn thước của phi cơ. Ông không còn thấy gì nữa, và không chắc mặt đất, trái đất xanh tươi đẹp đẽ của mình có còn ở bên dưới lớp mây đó không.
Tiếng tong, tong, tong khe khẽ nhưng thúc hối đâu đó lại vang lên trong tai. Gì nữa đây, ông đang say thuốc, say cái chết, say tận thế mà sao còn tiếng báo hiệu gì nữa đây. “Chuông báo cạn nhiên liệu…”, tiếng của viên sĩ quan dẫn đường ngồi phía sau thoi thóp nói, ông quay lại cơ phó và viên sĩ quan vũ khí, hình như họ đã ngất lịm. À ông còn sống, ông nhận ra, và vẫn còn phải ra một quyết định sau cùng nữa mới được yên nghỉ. Ông gài bộ phận lái tự động, hướng chiếc oanh tạc cơ về dãy núi hùng vĩ nơi có quê hương của mình, nó sẽ đâm xuống đó khi máy bay cạn xăng. Ông sống tầm thường nhưng thích chết trong dãy núi vĩ đại đó. Ông ngất lịm đi.
Đèn bật sáng, có tiếng mở cửa, tiếng bước chân rầm rập ập vào buồng lái. Nhiều chiếc bóng xuất hiện, chồm tới tháo dây an toàn, xốc nách bốn cái thân thể mềm quặt dìu ra ngoài. Là người được dìu ra sau cùng, cơ trưởng chưa kịp tỉnh hồn để nhận ra thiên đàng hay địa ngục đang chờ mình sau ánh sáng chói mắt của khung cửa. Ông giật mình, không phải rồi, đây là một không gian quen thuộc sáng loáng ánh kim loại và các máy móc thiết bị, à đây là cái nhà tập luyện khổng lồ nơi đặt các máy mô phỏng như các phòng lái để các chiến binh tập trận giả định các tình huống chiến đấu. Ông như bị một cú đập vào đầu, tỉnh người ra thì thầm: thì ra vẫn là trần thế, ông nhớ về cuộc tập trận giả định mang bí số “Sẵn Sàng 1/0” bắt đầu vào sáng hôm nay. Tất cả những chuyện vừa rồi là giả định sao, ông thấy bụng mình quặn lên, ông gục xuống ở nấc thang cuối cùng của chiếc cầu thang và nôn thốc nôn tháo, một bãi nôn tởm lợm mật xanh, mật vàng…Viên sĩ quan quân y cúi xuống đưa chai nước vào miệng ông, một ngụm nước mát lành êm ái ve vuốt cổ họng và thân xác kiệt quệ của ông, sau cùng viên quân y tính gài chiếc mặt nạ ô xy để hỗ trợ thở, nhưng ông gạt ra. Ông đứng thẳng dậy đưa mắt nhìn, đầu kia ba đồng đội của ông đã được nằm trên băng ca chuyển về phía các xe cứu thương đang đợi.
“Không ai chịu nổi điều này hết, không ai chịu nổi hết, không ai…”, bỗng nhiên ông thấy mình bật khóc và nói lảm nhảm như mê sảng. Trong làn nước mắt giàn giụa, lờ mờ trước mắt ông một hình ảnh quen thuộc bước đến và dừng lại. Thiếu tướng chỉ huy trưởng Biệt đội Tử thần số 13. Mặc kệ, ông vẫn khóc, vẫn lảm nhảm nói…
“Thiếu tá, chúc mừng ông đã đứng để rời khỏi đây chứ không phải bị khuân đi như thế…”, tiếng của thiếu tướng vang lên. Rồi ông ta tiến sát đến bên cơ trưởng đưa tay lên ngực hình như để gắn một huy chương, tiếng ông vang lên: “Ông đã hoàn thành xuất sắc 15 năm phục vụ Biệt Đội… Đây là huy chương anh dũng để tưởng thưởng”. Vừa xong, chỉ huy đưa tay lên cổ áo bộ quân phục của cơ trưởng giật phăng cái huy hiệu hình đầu lâu nằm trên cột nấm hạt nhân, biểu tượng của Biệt Đội.
“Từ nay anh đã chấm dứt không còn dính líu gì đến biệt đội nữa. Anh sẽ đi an trí hai năm trên cao nguyên cho đến khi quên hết những chuyện này và nhớ rằng không được tiếp xúc với báo chí quốc tế hay làm những gì giống như quyển sách mà an ninh quân đội vừa tìm thấy trong tủ anh”.
Ông tướng nhấn vào tay cơ trưởng quyển sách ông đã giấu kín dưới đáy tủ, cuốn “Sám Hối Hiroshima”. Một loại “cấm thư” không được thử đối với lực lượng.
Hai quân cảnh kè sát cơ trưởng dẫn ra một xe quân sự bít bùng. Cơ trưởng biết mình sẽ gặp số phận giống như Claude Eatherly, tác giả của quyển hồi ký “Sám Hối Hiroshima”. Ông ta là phi công Mỹ ném quả bom nguyên tử đầu tiên xuống thành phố Hiroshima năm 1945 giết chết hơn 200 ngàn người trong nháy mắt. Sau đó, ông lên tiếng tố cáo chiến tranh hạt nhân và cả đời ông đã bị không lực Hoa Kỳ gần như giam giữ trong các bịnh viện tâm thần…
MIA… MIO–POW… POP
Cái nắng và nóng thật ác nghiệt của vùng Khâm Đức mùa hè. Các hạt ánh sáng, “các photon”, như bị hơi nóng hun đỏ trên nền áp suất cao tạo ra một động năng điên loạn kích động chúng nẩy tưng trên vùng đất khô cằn của cao nguyên miền Trung. Rồi từng vạt gió Lào khô khốc tạt xuống như một lò sấy làm chúng đã khô nay càng héo úa. Lạ là, trong cái chảo lửa của lò luyện ngục đó, các “photon xác ướp” ấy dường như càng chuyển động nháo nhào, điên loạn hơn, chúng cọ xát vào nhau, vào không khí, tạo ra những âm vọng như những nốt nhạc, hay xác ướp của nốt nhạc thì đúng hơn. Cái âm thanh ma quái đó kêu ong ong bên tai những cơ thể mệt lã, mất nước, ngộp thở…, đang miệt mài đào xới giữa cái nắng, nên nghe như tiếng tù và của thần chết.
Tâm ngồi vật xuống một căn lều nhỏ tạm bợ, tháo chiếc nón tai bèo, lột cái khăn phủ gáy rồi thở hổn hển, mắt lóa đi vì nắng. Nắng là ánh sáng, là nhiệt lượng, là khí, là các tia cực tím, là một phổ quang học… Nhưng ở đây, thứ vật chất kỳ lạ ấy như được hóa lỏng, loại chất lỏng như thủy ngân lỏng bỏng trôi dạt trong không gian, ở sát mặt đất nó hóa khí và tạo ra các ảo ảnh mờ nhạt, đàng xa kia giữa cái thung lũng trụi vì bị chiến tranh và sự khắc nghiệt của khí hậu giày xéo, thứ vật chất ấy như hóa thành một quả tạ ảo đè ép lên lồng ngực của con người…
“Đeo cái kính râm này vào Tâm”, tiếng của Tom vang bên tai và có cái gì đó cài vào tóc. Đưa tay lấy xuống Tâm nhận ra chiếc kính mát Ray-Ban kiểu Classic Aviator. Trời, một cái kính mát Đại hàn tôi còn chưa mua nổi, You lại đưa cái kính tiền triệu vầy sao. Tâm trao lại cho Tom, lắc đầu.
“You giỡn hả! Nắng vầy hư mắt hết đó!”, tiếng Tom khó hiểu.
Tâm xua tay, lắc đầu: “No, no… thank you, but… No!”.
“Nhưng… nhưng… tại sao? Tôi cho bạn mượn thôi mà!”. Giọng Tom hơi lạc đi vì ngạc nhiên…
“You thấy cả trăm người Việt đang đào bới ngoài kia có ai đeo kính mát không…”, Tâm quay lại nói. “Tôi là cán bộ, thông dịch cho đoàn… giờ lại đeo cái kính mát như một ông… tướng Mỹ…”, Tâm vừa nói vừa mường tượng hình ảnh hình như của ông tướng MacArthur, anh hùng của Mỹ trong chiến tranh Thái Bình Dương, thường đeo loại kính này, không tiếp lời chỉ lắc đầu nhìn Tom… “…Ngó không được chút nào, Tom à”.
Tom gục gật, dường như y cũng ái ngại nãy giờ, nhưng y đâu có đủ một trăm cái Ray-Ban để phát cho mọi người, Tom chỉ dư một cái để cho đối tác, người bạn đồng hành, đồng trang lứa này mượn mà thôi. Nhưng, Tom hơi bất ngờ vì nỗi sợ kỳ lạ…, sợ mang cặp kính mát kiểu tướng Mỹ của Tâm.
Hai đứa cùng sinh năm 1957, năm cuộc chiến Việt Nam chưa chính thức bắt đầu với người Mỹ và tròn 18 tuổi năm cuộc chiến ấy kết thúc. Cả hai cùng thoát khỏi cuộc chiến…nhưng không thoát khỏi cái bóng của nó. Giờ ở năm 1992, mười bảy năm sau khi cuộc chiến kết thúc họ từ hai phía lại quay về vùng chiến địa này: Khâm Đức, Tây Quảng Nam, đường mòn Hồ Chí Minh nơi có một cuộc quyết chiến kinh hoàng hồi 1968, khi Việt Cộng quyết định nhổ bỏ hoàn toàn các trại tiền tiêu của lực lượng CIDGS  đang chặn ngang đường thâm nhập của họ…
“Dân tôi lúc này ăn chưa no, mặc chưa ấm…lấy gì mà quan tâm tới mắt mũi…”, giọng Tâm nhẹ nhàng như giọng của một người bạn, không chút than oán. Chiến tranh đã kết thúc mười bảy năm nhưng hòa bình đâu đã đến. Hậu chiến cũng là một… cuộc chiến, Tâm nhận ra. Và ngay ngoài kia xa xa cách lều Tom và Tâm đang đứng cũng đang diễn ra một… cuộc chiến hậu chiến. Cả trăm dân công Việt, những người dân nghèo của núi rừng từng điêu tàn vì cuộc chiến khủng khiếp tranh giành vùng cao nguyên này, giờ đang đào từng nắm đất, đưa vào một loạt các cái rây treo lủng lẳng dưới những tấm bạt tạm bợ, rồi rây, rồi lắc để rũ bỏ đất cát, sàng lọc thời gian, để trơ lại trên rây những miếng, những cục, những thứ lớn hơn lớp bụi của cái thung lũng đau khổ này để mong tìm ra một lóng xương hóa thạch rời ra từ thân thể của một chàng trai Mỹ trẻ trung nào đó, từng đến đây và bỏ xác ở chốn này. Ở vùng núi Phước Sơn xứ Quảng này, người ta đi đãi cát tìm vàng, còn họ đãi cát để tìm lại nỗi đau, những mẩu xương sót lại từ cuộc chiến. Tranh cãi về sự tồn tại của các mẩu xương đó là một cuộc chiến hậu chiến… Tâm quá hiểu khi đang là thông dịch viên cho đoàn Việt Nam phối hợp với phía Mỹ trong chương trình tìm kiếm POW – MIA, kiểu viết tắt của Mỹ, POW là Prisioners of War tức tù binh chiến tranh và MIA là Missing in Action, hàm nghĩa mất tích khi đang hoạt động, tức các quân nhân Mỹ chưa kiểm đếm được bị xem là mất tích. Còn Tom là một chuyên viên khám nghiệm tử thi của đoàn Mỹ. Không biết y có là CIA hay FBI hay tình báo của quân đội Mỹ không, vì Tâm biết, phía Việt Nam cũng vậy, các cán bộ của đoàn đều có gốc an ninh, riêng Tâm cũng là một thông dịch viên có lý lịch tin cậy và được hệ thống an ninh gật đầu mới được chọn theo đoàn. Hai bên đều gờm nhau nhưng cũng tìm cách kết bạn với nhau. Chắc tình bạn giữa Tâm và Tom cũng thế. Cái kính mát có thể cũng trong thế giằng co đó nên…phải cẩn thận. Một món quà của ngờ vực.
“Ông Mỹ đóng chuồng gà”, đó là biệt danh đám trẻ xóm đường rầy  gọi Lết. Tên đầy đủ của Lết là Gonzalez, nhưng ở cái khu dân cư tồi tàn, tạm bợ dọc đường xe lửa bỏ hoang từ thời Tây chạy xuyên qua thị xã Đà Nẵng này, với chất giọng Quảng khá thô không có chiếc lưỡi đủ mềm để uốn cho hết cái tên ba âm và phải cong lưỡi ở âm chót đó, nên họ gọi Lết cho thẳng miệng.
Lết xuất hiện lấm la, lấm lét ở khu này hồi năm 1970. Gặp Lết, cậu bé 13 tuổi tên Tâm ngày ấy ngỡ ngàng nhận ra: nước Mỹ không phải chỉ là mấy ông Mỹ trắng “tóc vàng sợi nhỏ” như Phạm Duy ca, hay luôn cao lớn, bảnh tỏn, túi đầy sô-cô-la và người Việt nào gặp cũng khúm núm, kể cả mấy ông sĩ quan VNCH. Dưới mắt cậu cái ông Mỹ này không hấp dẫn nhưng lại dễ gần. Anh ta không quá cao to, tóc không vàng, da không trắng, mà cũng không đen thui như mấy ông lính Mỹ da đen thường gặp ở cái xóm đĩ gần đó. Sau này, khi anh ta bắt đầu dạy tiếng Anh cho thì Tâm mới biết anh ta gọi mình là Spic tức người Mỹ gốc Châu Mỹ La Tinh, mấy ông bạn lính Mỹ da đen thì gọi là Blue Boy hay Nigger, còn ông Mỹ da trắng thì phải gọi là Honky, hay Mister Charlie, hay Sylvester, còn nếu là sĩ quan có quyền thì phải gọi trịnh trọng là… The Man. Lết cười khì khì khi giải thích và nói: “Tiếng lóng của lính Mỹ da đen đó em…”.
Lết là lính của sư đoàn 23 bộ binh Hoa Kỳ còn có tên gọi là Americal. Sư đoàn này được phân công trấn giữ vùng đồng bằng khô cằn của xứ Quảng với bộ chỉ huy đóng ở căn cứ Chu Lai, một vị trí nằm chếch về phía Nam Đà Nẵng, còn các đơn vị khác thì nằm rải rác ở Hội An, Duy Xuyên. Lết thuộc lữ đoàn Khinh Binh 196  thuộc sư đoàn Americal đóng quân ở Duy Xuyên và chính từ đây, từ vùng đồng bằng sát Đà Nẵng, quân đội Mỹ đã tạo một hành rào chiến lược kéo dài lên tận núi rừng phía Tây nhằm cắt ngang đường mòn Hồ Chí Minh mà cùng đích là cái thung lũng Khâm Đức xa xôi man rợ này. Chính vào cái năm 1968 đó, đơn vị của Lết được trực thăng vận từ Duy Xuyên đổ xuống Khâm Đức để giải vây cho căn cứ này khi Việt Cộng bao vây tiêu diệt nó. Chàng trai Gonsalez chưa tròn 20 tuổi vừa được bổ sung vào sư đoàn đã chứng kiến hỏa ngục Khâm Đức và hiểu thế nào là một trận đánh rừng núi cháy bỏng của cuộc chiến Việt Nam. Xuất thân trong một gia đình nhập cư nghèo nàn chàng trai gốc La Tinh hiền lành này đăng lính với hy vọng đổi đời chứ không nghĩ rằng sẽ phải… đổi mạng để… đổi đời, và càng không nghĩ ra nổi mình sẽ phải chịu đựng một vết thương và nằm chờ chết dưới cái nóng như điên loạn của vùng cao nguyên khô cằn xa xôi này…
Một năm sau Lết đào ngũ và tấp về cái xóm đường rầy vốn toàn là dân tứ xứ tản cư chiến cuộc dồn về đây với phương tiện kiếm sống chính là bám vào cuộc chiến của Lết: đi hốt rác cho các căn cứ Mỹ, đi dọn phòng, giặt đồ cho lính Mỹ, đi dẫn gái cho lính Mỹ và cuối cùng lập các ổ điếm tạo thành các khu R&R  tư nhân cho lính Mỹ da màu, thấp kém, giải khuây sau một trận chiến. Lết gá nghĩa với Hoa, một thôn nữ thất tán ruộng vườn vì chiến cuộc lên thành và trở thành gái loại xoàng, họ che một mái nhà tạm bợ giữa khu ổ chuột đó và được cư dân cùng cảnh ngộ trong xóm che chở. Lần này, một người Mỹ đào ngũ sống bám vào cái xóm nghèo vốn chuyên sống bám vào chính người Mỹ.
Với chiếc quần tà lỏng, cái áo phong phanh cũ mèm và cái nón sùm sụp vừa để che nắng vừa che bớt khuôn mặt, Lết trở thành một cư dân của xóm đường rầy. Sáng sáng chàng xuất hiện đi loanh quanh trong mấy con hẻm ngoằn ngoèo kiếm việc làm, lúc thì lợp lại cái mái lều xiêu vẹo của người này, đóng giúp cái tủ hỏng của nhà kia…, để kiếm chút tiền còm giúp vợ bớt phải tiếp khách. Đặc biệt nhất là chàng làm chuồng gà rất đẹp. Dân cư vùng này ai cũng có cái chuồng gà nhỏ sau hè để nuôi vài con gà đẻ trứng hay chuẩn bị vỗ béo vài chú gà tơ cho ngày cúng giỗ ông bà. Cái chuồng gà của họ rất tuềnh toàng tạm bợ như cuộc đời họ và chàng Lết xuất hiện với tay nghề và cái nhìn mới của một nông dân Texas, chàng biết tận dụng các palet gỗ thừa thải ra từ các căn cứ Mỹ gần đó để đóng các chuồng gà xinh xắn, vừa thoáng sạch, vừa có máng để đổ thức ăn, vừa có ô cửa để lấy trứng, vừa dễ dọn dẹp vệ sinh… Bà con xóm giềng cứ trố mắt lên vì cái chuồng gà tân tiến ấy và Tâm, lần đầu trong đời nhận ra cách người Mỹ làm một chuồng gà, hiện đại, tươm tất, chỉnh chu khác thường. Có thể nói, ngoài chiến tranh, vũ khí, con lai vất va vất vưởng…, thì đây là cuộc chuyển giao công nghệ đầu tiên của người Mỹ cho người Việt bình dân. Cuộc chuyển giao các khí cụ hòa bình ít cay đắng. Lết có biệt danh “Ông Mỹ chuồng gà” từ đó.
Nhưng, Tâm chỉ bắt đầu thân với Lết khi chàng trở thành thầy dạy tiếng Anh cho mình. Tay học sinh lớp sáu bắt đầu học ngoại ngữ này cứ ngắc ngứ mãi về thứ tiếng khó nuốt mà phải cứ học. Nhà nghèo không có tiền để đi học ở Hội Việt Mỹ, một trung tâm dạy tiếng Anh do người Mỹ điều hành, đã quá mừng khi gặp Lết và bắt đầu bặp bẹ trao đổi thông tin bằng tiếng Mỹ với một… người Mỹ thứ thiệt chứ không thông qua thầy cô giáo Việt Nam chỉ nói tiếng Mỹ bằng giọng Pháp. Họ trở thành bạn bè, thầy trò từ đó… Sau này, khi vào đại học Tâm chọn khoa Anh ngữ cũng là nhờ cuộc gặp gỡ với Lết dù kịp nhận ra rằng thứ tiếng Mỹ mà “thầy Lết” nói không phải là tiếng Mỹ thứ thiệt.
Năm 1972, người Mỹ lục đục rút đi, ông chú của Tâm là thượng sĩ lính quân cụ của quân đội VNCH thúc Lết ra trình diện để hồi hương chứ ở hoài đây sao. Lết yên lặng. Ông chú cũng lắc đầu: thôi kệ nó, nó ở đây cho vui cũng được. Ông cảnh sát ở cái bót cảnh sát gần đó cũng sống trong khu đường rầy thì góp chuyện: tôi cũng nói nó rồi mà nó lại lắc đầu…, thôi kệ nó, xem nó như mấy thằng Tây gốc Phi đi lính Lê Dương cho Pháp đào ngũ ở lại xứ mình hay thậm chí đi theo Việt Minh luôn đó… Còn mấy bà hàng xóm buôn bán linh tinh quanh vùng thì bảo vệ: nó về bỏ con Hoa và thằng Cún cho ai. Con nhỏ từ khi có con với nó đâu còn đi khách được nữa, nó ghen quá trời, giờ con nhỏ phải đi giúp việc nhà kìa. Hai vợ chồng nó sống vầy cũng như tụi mình thôi, về Mỹ làm chi, lại đi đánh nhau ở xứ khác chứ hay ho gì… Còn bà Sáu Mỹ, biệt danh của một chủ chứa gái cung cấp cho Mỹ, thì cười hềnh hệch táo tợn: cho nó ở lại đây để gieo giống, đổi giống đi, chứ mấy ông yếu xìu, nhỏ con, xấu xí và gia trưởng thấy mồ đi… Thế là mấy bà ngồi lê đôi mách cùng khoái chí cười òa.
Thực ra, chính Tâm là người mà Lết giải thích lý do không trình diện hồi hương: “tao ra trình diện quân cảnh sẽ hốt và dẫn tao về LBJ liền. Mày biết đó là gì không? Là tên viết tắt của tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson đó…”. Chưa nói hết câu Lết đã cười xòa: “Tao giỡn đó, đó là tên của trại Long Bình Jail, tức nhà tù Long Bình, viết tắt là LBJ tình cờ giống tên ông tổng thống đã phát động cuộc chiến này…”. Thì ra ở phía Nam gần Sài Gòn người Mỹ có cái căn cứ Long Bình khổng lồ và trong đó cũng có một trại tạm giam quân nhân Mỹ bị kỷ luật hay đào ngũ. “Tao sẽ bị đưa về Mỹ, bị ra tòa và có thể bị kêu án cả chục năm. Chưa biết sau đó tao có bị trục xuất về nguyên quán ở một nước phía Nam nào đó mà tao còn không biết cả tiếng nói của họ…”. Sau dòng tâm sự của kẽ cùng đường, ánh mắt màu nâu nhạt của Lết tối sầm đi và đậm đặc lại như màu món ca cao sữa ngon lành trong khẩu phần ăn của quân nhân Mỹ mà Tâm thèm muốn chết nhưng lâu lâu mới được uống một lần. “Nỗi buồn màu sô-cô-la…”, Tâm lầm bầm rồi phì cười đưa cho ông thầy ly trà đá vàng vọt: “Thôi, anh Lết uống ly trà lạnh cho mát lòng giữa mùa hè đi. Thế nỗi buồn sô-cô-la bằng niềm vui trà đá đi…”. Hai thầy trò cùng cười khì kết c buổi học…Tâm còn phải chạy đưa cô bạn gái mới cua được đi ăn chè. Tuổi 16 đang yêu mà… Cứ thế, Tâm quên bẵng mất Lết.
Tháng 5 năm 1975, từ cái xóm nghèo đường rầy, Tâm được mấy anh cán bộ nằm vùng từ ngoại ô theo đoàn quân giải phóng vào tiếp quản Đà Nẵng kêu ra Phường làm việc. Người lao động nghèo, có học chút chút là thành phần cơ bản, gia đình buôn thúng bán bưng không có ai đi lính, đi cảnh sát hay công chức cho chế độ cũ, nghĩa là không dính dáng gì đến bộ máy cai trị của VNCH, Tâm trở thành một cán bộ Phường. Đang học lớp 12, chuẩn bị thi tú tài, Tâm bỗng nhiên là cán bộ có học thức nhất cơ quan lúc đó. Người ta tính toán sau vài lớp bồi dưỡng chính trị, rồi xác minh lý lịch, rồi kết nạp đảng…, Tâm nắm chắc cái ghế Phó chủ tịch Phường… Đùng một cái Lết xuất hiện. Buổi chạng vạng cuối tháng 6 nóng như đổ lửa của thành phố Đà Nẵng, bóng của người quen cũ đứng lù lù bên cái chuồng gà mà anh ta đóng ngày nào. Bà Hoa ôm thằng Cún giờ đã hơn ba tuổi khép nép bên cạnh. Họ như ba bóng ma của một quá khứ vừa kết thúc trồi lên giữa cái hiện thực đang biến đổi dữ dội này. Họ như một vết ngứa cũ trên một làn da mới. Chẳng có một chút thích hợp nào, chẳng có một chút vừa vặn nào trong cái dòng lịch sử đang muốn quên phứt họ đi…
“Anh còn ở đây à…”. Tâm thì thầm, đứng nguyên ngoài hè nói chuyện, bóng tối chập choạng đang đến sẽ che bớt cho buổi gặp gỡ, không cần phải đưa vào nhà thêm kẹt sau này.
“Ảnh biết đi đâu giờ Tâm ơi…”, bà Hoa phân trần, còn Lết thì lặng câm. Quả thật, không cấm khẩu, lặng câm thì biết nói gì trong cái tình cảnh oái oăm này chứ. Ít có số kiếp nào rơi vào sự tréo ngoe lịch sử như anh bạn mình thế này: lính Mỹ trốn Mỹ tá túc với đám dân nghèo ở cái xứ “đồng minh” của Mỹ. Thế cũng tạm đi. Giờ cái xứ ấy đã lọt vào tay “kẻ thù” của Mỹ, phía từng là đối thủ của mình và biết đâu mình từng nổ súng sát thương vài người trong số họ ở trận Khâm Đức năm nào… Giờ hết biết trốn đi đâu… Tiến không được, thoái cũng không xong, lặn xuống thì cá mập mà bay lên thì chim ưng…Bí rồi anh bạn “Nỗi buồn sô-cô-la” của tôi ơi.
“Thôi vầy…”, Tâm nghĩ ngợi một lúc rồi thông minh hẳn lên, nói “… chị ở miền quê giặc giã tản cư lên đây, giờ chính quyền muốn di dân đi kinh tế mới bớt. Lên Kontum. Mai chị ra phường tôi hướng dẫn chị đăng ký đi. Chị khai gia đình có ba người. Nói ông Lết là Tây Lai nghen. Chiến tranh, chạy giặc giã, giờ giấy tờ gốc gác thất tán hết cứ khai lại đi, nói ổng là con của mấy thằng Tây đen Lê Dương. Nó rút hồi 1954 bỏ ổng lại thành Tây lai mồ côi. Đặt tên ổng là Nguyễn Văn Lết hỉ? Rồi cả nhà lên vùng Kinh Tế Mới lập nghiệp. Người ta cấp đất cho cày bừa. Toàn dân tứ xứ chẳng ai biết ai… Làm lại cuộc đời…”. Chị Hoa bế thằng Cún mà cũng ráng chồm tới ôm lấy Tâm xiết chặt: “Em ơi, em chỉ đường thoát cho vợ chồng chị rồi, từ hôm bộ đội vô tới giờ ổng trốn luôn trong góc lều, còn chị thì không biết đường nào mà tính nữa…”. Bả vừa nói vừa ôm chặt lấy tâm run run. Bà này, lấy Tây Mỹ riết rồi cũng quen kiểu ôm ấp thể hiện thân tình của họ, chứ Tâm thì ngại quá khi cái thân thể tròn lẵng của bả cứ cọ sát vào cơ thể của thằng thanh niên tuổi cường tráng làm nó xém run lên mấy lần, vậy là ngoại tình với vợ bạn rồi phải không! Người Việt quê mùa “Nam nữ thọ thọ bất tương thân”, ai mà ôm ấp vậy. Cha cũng không bao giờ đụng đến con gái dù rất thương yêu…
Ba chuyến xe chở người đi vùng Kinh Tế Mới nổ máy lên đường với băng rôn, khẩu hiệu tiễn đoàn còn giăng mắc, Tâm đứng ở góc sân trụ sở Phường vẫy tay chào theo vì là cán bộ phụ trách buổi tiễn đưa. Cái vẫy tay ấy không trống rỗng hình thức, nó vẫy thẳng đến một gương mắt lấp ló ở băng cuối của chiếc xe với cái mũ xùm xùm…Ánh mắt màu “nỗi buồn sô-cô-la” như lóe lên giữa một đám đông hỗn độn. Bàn tay vẫy của Tâm ghim vào ánh mắt đó. Xe dần xa… ánh mắt chuyển dần từ lo âu, sợ hãi từ màu đùng đục qua trong hẳn lên. Có một chút lấp lánh xuất hiện trong đó. Có một hy vọng. Có một lối thoát… Khi xe sắp bẻ ngoặc cua để ra khỏi sân của trụ sở Phường, một bàn tay thò lên từ cửa sổ vẫy nhẹ đáp lại cái vẫy tay của Tâm. Một lời từ biệt thấp thoáng…
“Thôi được, You sợ cái “kính tướng Mỹ” thì để tôi đeo, You đeo cái này, trông xivin  hơn!”. Tiếng Tom chưa chịu bỏ cuộc. Hắn đưa cái kính mát gọng nhựa đang đeo cho Tâm và đeo cái kính Ray-Ban. Tâm ngẫm nghĩ: người Mỹ thật kiên trì trong lòng tốt. Cũng vì vậy họ kiên trì tin là cái gì tốt cho họ là tốt cho người khác. Đó là bi kịch thứ nhất. Tiếc là họ không đọc Kinh Dịch: “Vật cùng tắc biến, vật cực tắt phản”, người Châu Á tin rằng cái gì đạt đến đỉnh, đến thái quá thì sẽ quay ngoắt ngược lại. Sự kiên trì yêu của họ đến một lúc nào đó sẽ trở thành nỗi thất vọng và họ sẽ quay lại… “kiên trì ghét”, ghét thậm tệ, ghét đến mức phủi tay tất cả… Lúc đó họ chuyển ngược lại: ghét người mình đã yêu và yêu người mình từng… ghét thậm tệ… Đó là bi kịch thứ hai…
“OK Tom, tôi đeo cái này, cảm ơn bạn…”, Tâm thoáng cảm động vì thâm tình của một người bạn mới. Họ đứng trên, trùm khăn che gáy, đội mũ tai bèo chận lên trên, cả hai cũng đeo kính râm cẩn thận rời căn lều tiến ra phía thung lũng nơi các dân công đang đào xới liên tục tạo ra các đám bụi nhỏ lốc lên khi vài cơn gió nắng từ núi thổi về.
“Cái ngọn đồi kia là cao điểm Ngok Tavak, nơi trú đóng của lực lượng biệt kích Mỹ-VNCH”, Tom chỉ về phía xa sau thung lũng Khâm Đức giải thích: “Tháng 5 năm 1968, nó bị pháo kích và tấn công suốt hai ngày đêm và từng đoàn quân Bắc Việt biển người tràn ngập…”, Giọng Tom ngậm ngùi…: “ một toán biệt kích của phe tôi thoát chạy về đây và bị phục kích. Ba người lính bị loạt AK bắn gục đâu đó trong mấy cái hốc đất quanh đây… Đồng đội thoát chạy về báo cáo như vậy… Tụi tôi đi tìm vết tích của ba đồng đội “Missing In Action” đó Tâm”. Rất tiếc khi nghe câu chuyện, Tâm thầm nghĩ.
“Nhưng You có chắc là các báo cáo đó chính xác không?”, Tâm buộc miệng. “Mọi lực lượng Mỹ sau trận chiến luôn phải làm “report” về cuộc đụng độ…”, Tom giải thích, bỗng dừng lại quay ngoắt qua Tâm ánh mắt ngạc nhiên nói: “Ba quân nhân không trở về đơn vị sau cuộc phục kích… Họ biến đi đâu mới được chứ Tâm. Sao You hỏi vậy…?”.
Tâm yên lặng, chiến tranh là một cuộc thất tán lớn, kinh nghiệm chứng kiến trong cuộc chiến hai mươi năm đó đã chỉ ra điều này, mọi thứ tan hoang, tháo chạy, đào ngũ, đầu hàng, chiêu hồi, mất dấu vết, chia lìa, chết chóc, biến mất, mồ côi, góa bụa, thương tật, đui mù, câm điếc, tê liệt, lê lết… Làm sao mà đếm nổi, thống kê nổi, phân loại nổi, đơn giản hóa nổi… mọi nạn chân của một cuộc chiến như thế. Trong một khoảng khắc Tâm nhớ đến Lết, không biết anh ta hiện giờ đang ở đâu. Hồi che giấu cho Lết cũng có vài người sống trong xóm đường rầy ấy ganh ghét lời ra tiếng vào, dù chẳng ai tin và quan tâm đến câu chuyện, nhưng khi có lời tố cáo vu vơ thì cán bộ ấy phải dừng thăng tiến để xác minh. Tâm mất cái đề cử đi học để trở thành phó chủ tịch Phường. Tâm thôi việc ở Phường xin đi học tiếp và lần này quyết học tiếng Mỹ thứ thiệt để xem thầy Lết dạy cho mình đúng sai cỡ nào… Tâm phì cười vì cái ý nghĩ trẻ con hơn 15 năm trước…
“You cười cái gì?”, Tom hỏi.
“Tôi cười… buồn. Người Việt vui cũng cười mà buồn cũng…cười…”, Tâm nói và nhớ đến bài viết của cụ Nguyễn Văn Vĩnh tựa đề “An Nam ta gì cũng cười…”. Bỗng không thấy cần phải đùa nữa, Tâm quay qua đối diện với Tom hỏi: “Này Tom, You có tin là ngoài MIA còn có… MIO không?”.
“You tính đùa gì nữa đây!”, tiếng Tom hơi thảng thốt.
“Ở đời con người luôn được quyền chọn lựa, tôi nghĩ nếu có những người lính “Missing In Action” thì cũng có thể có những người lính…“Missing In Option” chứ!”. Hai chữ “Action” và “Option”, đọc là “Ắc-Xần” và “Ốp-Xần” có âm cuối vần với nhau. Về nghĩa thì “Missing In Action” hàm nghĩa “Mất tích khi công tác”, còn “Missing in Option” nôm na là “Mất tích do chọn lựa”.  “Cuộc mất tích được chọn lựa”, hay! Tâm thầm khoái chí : lâu lâu mình cũng chế ra được cách chơi chữ Mỹ. Mà thật vậy, Lết đã “Chọn Option” kia mà. Thấy Tom hơi ngớ ra, Tâm tiếp: “ Họ chọn cách biến mất mà. Đó là quyền tự quyết của họ”. Chơi chữ MIA với MIO, có thể không chính xác lắm, Tâm thừa nhận, nhưng nó tạo ra một liên tưởng thú vị.
Tom yên lặng. Đứng im lìm. Không phản ứng gì…
“Cũng như vậy Tom à, cho tôi chơi chữ thêm một lần nữa nhé”, Tâm nói tiếp: “You có tin là ngoài POW thì còn có…POP không?”. Lần này Tom không lặng yên, hắn dướng mắt nhìn Tâm chờ đợi…
“Nếu ngày xưa họ là POW, là Prisoner Of War, là tù nhân của chiến tranh thì ngày nay, sau khi cuộc chiến kết thúc gần hai thập kỷ vẫn tồn tại một loại P nhưng hơi khác, đó là… POP, Prisoner of Peace – Tù nhân của hòa bình!”. Tom hơi sửng người lắng nghe.
Tâm muốn kết thúc câu chuyện rắc rối này, nên nói nhanh và quay đầu đi về phía công trường đang đào bới, mặc cho Tom đứng lặng người suy tư: “Chúng ta là những POP đó, Tom ạ!”.
13/1/2025
Lưu Vĩ Lân
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...