Thứ Tư, 28 tháng 5, 2025

Truyện ngắn của hội viên mới Dương Phượng Toại ở Quảng Ninh

Truyện ngắn của hội viên mới
Dương Phượng Toại ở Quảng Ninh

Tác giả Dương Phượng Toại còn có bút danh Cẩm Phượng, sinh ngày 27.6.1950, quê quán xã Cẩm La, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Ông sáng tác tiểu thuyết, truyện ngắn, ký và thơ, hiện là Trưởng ban Văn học Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Yên.
Dương Phượng Toại đã xuất bản 21 tác phẩm, trong đó có: Người đàn bà cọp vồ – Tập Truyện ngắn – 2008; Chuyện tình miền nắng xanh – Tập truyện ngắn – 2020; Điển cố làng – Tập truyện ngắn – 2021; Nợ ánh trăng vàng – Tiểu thuyết – 2023; Bay qua vòm trời – Tiểu thuyết – 2024; Những cánh buồm nâu -Tiểu thuyết – 2025.
Ông cũng được nhận nhiều giải thưởng như: Giải A – Thơ, Truyện ngắn và Ký – Báo Hạ Long và Hội VHNT Quảng Ninh 2004; Giải B và A – Thơ Giải thưởng Lê Thánh Tông, Quảng Ninh năm 2005, 2015; Giải Ba -Cuộc thi sáng tác VHNT chuyên đề Giao thông Vân tải của Bộ GTVT và Hội Nhà văn Việt Nam (2014-2015); Giải B Văn Nghệ Hạ Long lần thứ IX (2017-2022)…
Nhà văn Dương Phượng Toại vừa trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam 2024.
Suy nghĩ về nghề văn, ông quan niệm: “Nghề văn là cao quí, với tôi là nghiệp văn. Văn chương như cỏ cây, hoa nụ khiến cuộc đời tươi đẹp hơn, góp phần trừ ác, khuyến thiện. Khi xa mặt đất này, lặng lẽ, âm thầm ta hoá vào nắng gió thành khúc vĩ thanh trong đất trời hoa cỏ. Mặc cuộc đời ai kẻ nhớ người quên!”
VÙNG NẮNG TRONG MƯA
Đăng vươn vai, tay gạt phải bình hoa trên chiếc bàn con cạnh đầu giường. Anh vội đỡ lấy. May không vỡ. Nhưng đây là đâu? Đang ở đâu? Ngồi tựa lưng vào tường, anh nhắm mắt mường tượng lại… Sớm nay, Mịn cùng anh đưa hàng sang phố, ra bến ô tô. Năm nay được mùa biển, nên mối hàng dễ thu mua hơn. Toàn cá chim, tôm he, mực khô to bẹ. Con nào cũng trắng phấn vì được nắng. Cảnh nhà còn chật vật, vợ chồng Đăng phải bươn trải hết chăn nuôi lợn gà, ngan vịt, lại trồng trọt các loại cây ăn quả, rau xanh… Chỉ được một vài vụ, rồi không thể theo kịp hàng hoá từ các ngả thiên hạ dồn về la liệt các chợ quê. May mắn, Mịn có cậu em họ làm đầm tôm cấp cho ít vốn thu mua hàng hải sản. Thu tận gốc, bán tận ngọn. Một vụ, hai vụ. Cơ chừng làm ăn tốt. Nhưng Mịn bỗng dưng mắc bệnh vôi hoá cột sống, hai năm nay không thể đi xa giao hàng được nữa. Chỉ một mình Đăng rong ruổi dặm đường lên các tỉnh miền ngược.
Xe chuyển bánh. Mịn vẫn đứng dưới gốc cây phượng vẫy theo. Bữa nay sao Mịn lại bịn rịn thế? Ba chục năm trời sống bên nhau, chưa lúc nào anh thấy Mịn thanh thản. Khuôn mặt trái xoan xinh đẹp ngày xưa nhoà đâu mất dưới làn da rám nắng. Tuy bệnh tật, Mịn vẫn cố gắng cáng đáng đồng áng, lo toan tứ bề, không hề kêu ca như mấy mụ vợ hàng xóm suốt ngày la lối chồng con. Nhà Đăng là trưởng họ lâu đời, Mịn phải cật lực gánh vác sự nghiệp nặng nhọc với bao tập tục còn lưu cựu. Ngay việc cúng bái cũng đã tướp mồ hôi. Hầu như tháng nào cũng có giỗ. Giỗ cụ tổ, giỗ ông bà, cha mẹ, bà cô, ông mãnh… Bát hương mới thay đầu năm, cuối năm đã đầy tú lụ chân nhang. Chạn bát đĩa không kịp ráo. Tất tật, Mịn chạy vạy, sắp đặt sao cho mâm ngũ quả đầy ắp mùa nào thức ấy, sao cho cỗ bàn ngon lành vừa lòng các ông bà, cô dì chú bác, đặc biệt là bà chị khó tính, gắt như mẻ. Đăng khuyên vợ: Tâm thành, chỉ cần thẻ vàng nén hương, bát cơm con cá. Đừng bày vẽ cho vất vả! Em vẫn biết vậy! Người âm không ai trông thấy. Nhưng anh tính, còn người trần? Chả lẽ thắp hương, nhìn nhau uống nước suông? Em cứ áy náy thế nào…
Bà chủ nhà nhẹ gót trên cầu thang và dừng lại trước bậc cuối. Trông bà rạo rực như một người mẫu sắp bước ra sàn diễn. Bộ y phục màu vàng ngà bằng một loại vải mỏng đắt tiền dán lấy tấm thân trắng rất gợi cảm. Nơi ngực lộ một khoảng rộng đủ thấy bà là một thiếu phụ có tuổi nhưng tràn trề sung mãn: Thế nào, tỉnh chưa? Chiều qua anh say ghê quá. Chìm như một chiếc thuyền đắm! Bà nhẹ nhàng hỏi và đến ngồi xuống bộ sa lông mút màu mận chín.
-Đây là đâu? Điện thoại? Đăng giật mình, quờ tay tìm xung quanh rồi lần các túi áo: Điện thoại của tôi đâu? Ô hay? Em không thấy chiếc điện thoại nào! Hay rơi ngoài đường mà anh không biết? Bà là chủ ngôi nhà này à? Cho tôi ra xe về kẻo muộn… Anh cứ yên tâm tĩnh dưỡng cho khoẻ đã nào. Đi đâu mà vội. Đây là nhà em! Bà chủ cười rất tươi, tất tưởi săn đón: Quanh năm vất vả cũng phải giành cho mình chút nghỉ ngơi đàng hoàng chứ… Đăng uể oải: Cũng muốn lắm. Nhưng nhà nông chúng tôi chưa có điều kiện. Trăm thứ  trông vào đồng ruộng!… Quan sát khắp lượt, anh buột miệng: Nhà chị thật sang trọng và chị thật sung sướng, không khổ như vợ tôi… Trong héo ngoài tươi. Chẳng sung sướng gì đâu anh ạ! Trên đời được cái nọ mất cái kia. Nhưng có lẽ không gì khổ bằng sự thiếu thốn tình cảm! Chị nói gì tôi không hiểu? Bao nhiêu người chúng tôi đang sấp ngửa vật lộn với cơm áo, có ao ước một góc như chị cũng không được!… Ấy chết! Em chưa nói gì với anh. Em tên Sương, Bích Sương. Còn ít tuổi hơn anh. Xin đừng gọi em như vậy, ngượng chết! Chị là chủ, tôi là khách! Không! Anh chưa thể hiểu hết cuộc đời em. Nhưng em biết anh rất rõ! Thì ra anh chưa cảm thấy có gì khác trong ngôi nhà này? Em đang làm việc trên kia, tầng thứ ba. Nơi ấy, các con nhang đệ tử đang chờ em!Thế ra chị là… Vâng! Một bà bói! Một Tiên cô Thượng Ngàn cứu khổ cho các số phận. Nhưng lúc này trước mặt anh, em là một người bằng xương bằng thịt! Quần áo đây, em vừa cho đệ tử mua về. Anh đi tắm và thay trút bộ nhà quê ấy đi!
Bộ nhà quê? Không hiểu vì tự ái hay vì cánh cửa mở ra, một làn gió nóng từ ngoài ùa vào, người Đăng chợt rịn mồ hôi? Bà ta nhìn anh âu yếm. Đôi mắt buồn ánh lên kỳ lạ, như sai khiến, như hút hồn, làm anh có cảm giác mềm ra như một thứ quả chín. Đăng đứng dậy. Mãi sau anh mới hiểu: Thì ra anh bị ngất vì say nắng ngoài bến ô tô. Bà chủ đã gọi tắc xi chở anh về ngôi nhà này…
Lạ thật! Tự dưng lại lạc vào đây! Hình ảnh ngôi nhà nhỏ với người vợ thương yêu lại hiện lên. Bao năm tình phu thê êm ấm, được ba mặt con, vợ chồng vẫn chèo chống con thuyền gia thất vượt qua bao ghềnh thác. Dẫu chưa được nhà cao cửa rộng, nhưng con cái không đứa nào thất học. Con Xinh đã vào đại học. Con Lành, thằng Tươi sắp hết cấp ba… Ngày ấy, Đăng và Mịn đến với nhau như có duyên trời sắp đặt. Nhà Đăng trồng nhiều bưởi. Một hôm hai chị em Đăng gánh bưởi giúp mẹ sang bán bên chợ huyện. Đang cố sức gồng gánh bưởi nặng trên vai lội qua chỗ lội, Đăng gặp một cô gái. Cô tủm tỉm cười tỏ vẻ ái ngại, rồi trêu: Ôi! Con trai đi chợ! Đăng đỏ rừ mặt, chưa kịp đáp lại, cô đã ghé vai vào gánh hộ… Những đêm trăng, con trai con gái các làng ven sông thường chèo thuyền nan hò râm ran trên sóng nước. Dưới ánh trăng khuya, dòng sông lóng lánh vẩy vàng, tiếng hò theo những con thuyền cứ thế thả trôi về phía nhau: Sông dài con nước trôi nghiêng. Yêu em đến nát mạn thuyền vẫn yêu… Đăng nhận ra trong đám bạn hò có cô gái gánh bưởi hộ hôm nọ… Bao chàng trai trong làng theo đuổi, nhưng Mịn chỉ một lòng yêu Đăng…
Năm con Lành hai tuổi, một nỗi oan ập xuống đầu Mịn. Hanh, chị gái Đăng lấy chồng gần nhà. Lão chồng suốt ngày cờ bạc, thua, xúc trộm cả thóc đem bán, Hanh phải tháo đôi hoa tai vàng sang nhờ mẹ đẻ giấu vào mõ tre trong buồng. Lúc cần, vàng đã không cánh mà bay. Bà mẹ không nói gì. Nhưng Hanh thì tru tréo: Chỉ có mợ! Xưa nay nhà này không mất cái gì! Mợ có lấy thì đưa trả tôi, tôi kín tiếng đi cho… Không! Nào em có biết hoa tai hoa mắt nào của chị! Ái dà… cái nhà mợ này! Mợ bảo ai hoa mắt? Tôi mới nói thế mà mợ đã cãi xoen xoét. Sanh không lỗ cá đi đằng nào? Tôi bọc nó bằng miếng áo mưa màu xanh… Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng! Mịn đành lẳng lặng ngậm nỗi oan với bao lời cạnh khoé, đay nghiến của bà chị. Tiếc của, Hanh bổ đi khắp nơi xem chân gà, quẻ bói. Thầy bói phán: chỉ có người trong nhà. Chưa đủ, Hanh còn ra chùa thắp hương cầu đảo. Mịn đau đớn tưởng đứt từng khúc ruột. Hiểu tính vợ thực thà, Đăng chỉ biết khuyên Mịn: “Một câu nhịn chín câu lành em ạ! Cái kim bọc giẻ lâu ngày cũng ra. Mình cây ngay chẳng sợ chết đứng!” Bốn năm sau, một cơn bão lớn làm sập đổ bức tường sau nhà. Khi đào móng xây lại bức tường đó, sang làm giúp, chính tay Hanh bê gạch, thấy trơ một lỗ chuột to bằng miệng cái ống bơ. Lũ chuột vọt nhảy tứ tung. Đăng xông vào đập chết và đào tiếp cái lỗ. Bất ngờ một bọc vải mưa nhỏ màu xanh lòi ra. Hanh rú lên vồ lấy, hối cập xé mở. Đôi khuyên tai vàng chói. Trời ơi! Hoá ra chuột tha cái bọc vào hang? Rõ oan rõ khổ em dâu tôi! Một mất mười ngờ. Vội giận mất thương! Thôi, cho chị xin lỗi mợ!
***
Thấm thoắt đã một tuần. Đăng nôn nóng như kẻ bị giam lỏng trong ngôi nhà ba tầng sang trọng suốt ngày đêm nghi ngút khói nhang và thơm nức mùi hoa quả như cõi bồng lai. Ngày nào người đàn bà cũng cơm bưng nước rót tận nơi và thường ngồi nói chuyện với anh lúc rỗi khách đến xem. Bà bảo đây là những giờ phút thư giãn hiếm hoi của bà bao năm nay. Giọng bà buồn bã: “Xem nhiều, tiền lắm cũng vậy thôi!” Nhiều lúc bà quá tự nhiên ngồi áp vào Đăng. Làn da mát lạnh. Hơi thở nóng rực. Sự khêu gợi toát ra. Nhưng anh cố giữ khoảng cách giữa hai người. Câu chuyện đang dở, bà lại thoắt nhanh như một đám mây bay lên tầng trên. Anh lắng nghe và đứng ngoài cầu thang quan sát thấy đủ thứ hạng người. Họ từ các nơi kéo về toà cao ốc ở cái thành phố này xem bói như những đội quân đi tìm hy vọng. Người nghèo khó, kẻ giàu sang. Người nón mê cắp nách. Kẻ lên xe xuống xe. Cô gái thất tình. Người mẹ có con chết vì nghiện hút, HIV. Gã đàn ông lẳng lơ bị cô gái trẻ lừa trắng tay. Thằng du thủ du thực, bộ râu như người rừng, chắc từ bãi vàng về? Bà Việt kiều đi tìm mộ cụ cố. Có cả những cô giáo, những ông, bà giám đốc, trưởng phòng, những vị thiếu tá, đại tá quân đội, công an… cũng đến tìm chốn tâm linh. Tiếng khóc ri rỉ, sấm sướt, não nề. Chuỗi cười vỡ ra thoả mãn sau tiếng “roeng” của đồng tiền gieo quẻ. Chả biết thế nào, mà Đăng nghe bà xướng gọi thẳng đuột ra tăm tắp và những người kia cứ gật đầu lia lịa rồi xì xụp chắp tay tôn kính, không ngớt lời A di đà Phật. Người đặt vào đĩa năm, bảy nghìn. Kẻ dâng lên mâm xấp dày xấp mỏng. Ban thờ Mẫu sặc sỡ, ngồn ngộn sắc màu hoa trái, vàng mã, đôla âm phủ. Căn phòng thành một động tiên huyền ảo bởi những dây đèn màu nhấp nháy, những ngọn nến lung linh vũ điệu cháy hết ngày này sang ngày khác.
Đêm nay bà lại ngồi kể về cuộc đời bà. Mắt bà long lanh, lắm lúc chợt nhìn loé ánh chớp cuồng si, man dại. Giây lát ấy, Đăng cảm thấy lạnh ghê người. Tiếng bà trong vắt, lên bổng xuống trầm như dòng suối chảy qua các ghềnh đá, không muốn dừng, không biết cơ nào ra tới sông tới biển.
Bích Sương từng có tuổi đôi mươi rất đẹp của một cô giáo dạy tiểu học trường làng. Số phận dun dủi cô giáo đến với một chàng trai làm nghề đắp cạp chắn cá ven sông. Lý do thật đơn giản: anh ta vớt được cô suýt chết đuối khi cô sang chợ lội qua con mương đào. Nước chưa sôi gạo đã đổ. Tháng trước quen nhau, tháng sau nhà anh ta đã đưa lễ sang dạm hỏi. Cô giáo đành bỏ cả trẻ, cắp nón về nhà chồng. Anh ta yêu vợ cực kỳ. Không cho đi đâu xa, không cho làm việc gì nặng nhọc. Coi vợ như con chim lồng để ngắm. Ngoài sông về là cặp kè vợ như con sam đực ngậm đuôi con sam cái. Anh ta ngồi quạt cho cô ngủ, xúc cho cô từng thìa cơm tận miệng, chải đầu cho cô, giặt cho cô từ chiếc quần lót… Vậy mà một lần cô sang thăm nhà mẹ đẻ về muộn, hắn bắt gặp cô sánh vai cùng một anh bạn xóm bên nói cười rôm rả dưới trời chiều ngập ngoạng… Đêm ấy, hắn gạn gùng tra hỏi, bất chấp mọi lời thanh minh. Cô khóc tức tưởi: Oan em quá anh ơi! Oan khuất gì? Gái có chồng còn đi đôi với giai! Tao sẽ dạy cho mà khôn! Hắn nổi khùng đánh cô thừa sống thiếu chết, không cho khóc. Hắn kéo cô ra cầu ao dìm xuống chỉ hở khuôn mặt ngửa lên xâm xấp nước: Rày còn đi với thằng nào nữa không? Cô sặc sụa van xin. Mãi, hắn mới bế lên, bắt thay ngay quần áo và một cơn cuồng dục diễn ra. Hai bầu vú cô, hắn điên cuồng bóp vặn như người đi giặt vắt hai túm áo… Sau đó là những chuỗi ngày ê chề với những trận đòn vô cớ. Anh chị em trong nhà biết chuyện, can ngăn. Hắn vẫn chứng nào tật ấy. Hắn càng căm hơn, cho rằng vợ đã đi khắp nơi bêu xấu chồng…
-Nếu cứ thế này, em sẽ thân tàn ma dại! Bích Sương nén giọng thút thít, nhìn Đăng mong được sự cảm thông: Lừa một đêm mưa to gió lớn hắn đi chắn lưới, em dắt đứa con trai đã lên năm tuổi trốn đi. Qua đò, cứ thẳng một mạch theo đường quốc lộ. Không biết đã qua những đâu, suốt đêm hôm ấy hết ngày hôm sau. Thỉnh thoảng phải trú ẩn dưới những căn hầm chữ A bên đường để tránh tàu bay Mỹ ngoài biển rạt qua vào đất liền bắn phá. Hai mẹ con lúc lẻn xuống ruộng bẻ bắp nhai sống, lúc vào nhà dân xin ăn. Đỡ đói. Đỡ khát. Lại đi. Một đêm giữa đường, gặp một chiếc xe tải dừng lại. Người lái xe thò cổ hỏi: Này mẹ con cô gái. Đi đâu mà dắt díu nhau khuya khoắt thế này? Có nhờ xe tôi chở? Đây là đâu hở anh? Ở chốn nào đến mà không biết đây là đất Hải Dương? Em ở Quảng Ninh! Sao phải đi đêm đi hôm cho khổ? Em thực thà, ấm ức: Chồng em nó đánh em ác lắm! Em sẽ chết mất! Ai nuôi thằng con cho em? Trời đất. Người đẹp thế này mà thằng chồng khốn nạn? Xe tôi đi Lào Cai. Xa lắm! Cô vào kia mà nhờ người ta qua đêm! Anh ta lên ca bin định cho xe chạy. Nghĩ thế nào lại bước xuống: Thân gái dặm trường. Thôi, lên xe. Về nhà tôi hẵng tính!…
Tiếng Bích Sương vẫn rầm rì trong ngôi nhà cao tầng. Nhưng đầu óc Đăng vẫn để đâu đó ngoài xa… Tình vợ nghĩa chồng, đầu gối tay ấp, như bếp lửa. Thổi nấu rồi thì ủ than qua đêm, nồng nàn đầu hạ cuối đông. Nhớ những mùa cấy gặt xong, Đăng theo Mịn ra rừng ngập mặn hái củi, bắt cáy còng, bắt những con cua bể to như bàn tay ẩn dưới gốc những cây chang, cây vẹt. Ngày tám tháng ba lại hì hụi chèo thuyền, đón xe mang sản vật bãi triều lên tận Hải Dương, Hưng Yên… đổi lấy thóc gạo đem về chống đói. Ánh mắt sáng và hiền, mùi mồ hôi chua nồng, mùi tóc đượm mùi hoa bưởi của Mịn vẫn ấm áp bên Đăng. Em là người tuyệt vời của anh. Em không thể là người khác được! Anh sẽ về với mẹ con em! Độ này nắng hanh và gió heo may rải khắp đồng. Em đã đóng tiếp được nhiều cá, mực khô chưa… Giá có chiếc điên thoại di động lúc này…
Bích Sương từng nhiều lần nhẹ nhàng mở cửa phòng vào ngồi cạnh giường Đăng đang nằm. Dưới ánh đèn mờ ảo, ánh nhìn của Sương vô cùng say đắm. Chao ôi! Trông anh thật đàn ông! Nét mặt tuy khắc khổ, nắng gió, nhưng toát vẻ cương nghị, đàng hoàng. Giá ngày ấy ta được con người này thì cuộc đời đâu đến nỗi dạt trôi!
Sau một ngày ngồi hầu các phiên cúng, người Đăng mỏi mệt, rã rời. Anh nằm thiu thiu, mơ màng. Phải tìm cách nào ra khỏi đây thôi! Vị thần nể cả cây đa, đệ tử xung quanh xun xoe kẻ thưa người dạ, cung phụng ăn uống đủ đầy mọi thứ, mà anh vẫn không thể quen nổi. Tâm trí cứ lan man, ngơ ngẩn đâu đâu. Chiều qua, anh định ra chợ, ra xem phố xá một chút. Nhưng tay vệ sĩ to béo, bộ ngực nổi u như hai gò đất sét vội đóng cổng và cản anh lại. Vẫn giọng nói như làn hương trong căn phòng sực nức, Bích Sương nhìn anh muốn xoáy sâu vào cơ thể: Không! Anh đừng đi đâu. Ngồi xuống đây! Phải ở đây với em, kẻo em chết mất! Như thanh sắt cưỡng lại cục nam châm, Đăng cố tỉnh táo: “Chớ sa sảy mê đắm Đăng nhé! Phải trở về với Mịn!
-Ngôi nhà này có được là nhờ sự thông tuệ phát sáng của em. Bích Sương tiếp tục dòng chảy: Đó là chuyến lên Yên Tử Sơn. Đến suối Giải Oan, vừa đặt chân lên hòn đá mép suối, không hiểu sao em lại khóc như mưa. Bỗng em hoa mắt, ngã nhào xuống dòng nước réo ào ào. Ai đó đã cứu em. Mãi lâu em mới tỉnh. Người em bỗng nhẹ như lông hồng trôi trong màn sương mờ ảo của một thế giới khác. Nhưng đầu óc em sáng láng, thấu suốt được ý nghĩ của người bên cạnh. Em nhìn mặt, em cầm tay họ mà thao thao phán đoán mọi điều không hề vấp váp. Lại đúng mới khổ chứ! Mọi người lấy làm lạ, vây quanh chắp lạy như tế sao. Họ thấy như chính em đang ở trong góc nhà họ, tỏ hết những gì đã diễn ra.
Vậy là Trời Đất, Phật Thánh đã cho em ăn lộc! Cô giáo làng đã lột xác thành một tiên cô, một nhà ngoại cảm! Tiếng tăm đồn xa. Con nhang đệ tử từ các nơi ùn ùn đổ đến, khiến công an phải can thiệp, theo dõi năm lần bảy lượt. Họ cho người vào thử em. Đều đúng. Họ kháo nhau: Một người có giác quan thứ sáu tuyệt vời! Em thấy mình là một tiên nữ đứng trên chín tầng mây nhìn xuống mà phán xét, an ủi những cuộc đời. Nhân gian thật mênh mông. Nhưng con người, số phận họ cũng thật gần trong gang tấc. Em đọc vị ra tất cả cho họ. Tự thân em cũng không hiểu sao mình lại nói được như vậy? Nhiều lần có những tay công an lẫn trong đám đông lố nhố đến thử, định đưa em vào tròng cho dễ khép tội mê tín dị đoan. Nhưng em đã nhìn ra họ từ xa trong nét mặt, ánh mắt và cử chỉ. Trước thủ thuật đi đầu đón tắt của em, họ đã bị khuất phục. Một lần họ bí mật theo dõi nhưng lại được chứng kiến một cặp giả dạng vợ chồng đến cửa em. Nén hương vừa thắp lên, em gọi rõ: Người đàn ông bên cạnh “ghế” là người có quyền to chức trọng đang nhúng tay vào một dự án giao thông lớn của Nhà nước! Lạy cô linh thiêng! Dạ… dạ… anh ấy… là giám đốc một Công ty… Chúng con đến cậy cửa cô. Mong cô che chở… “Nhà ghế” là bồ của ông ta! Còn “ghế”? Em nhìn thẳng vào lão đàn ông: Vợ “ghế” đang trông coi một cơ nghiệp toà ngang dãy dọc ở quê! Người đó sắp phát điên! Lạy cô cứu giúp! Người đàn ông tái mặt. Ông ta bỗng tắc nghẹn và im lặng. Ánh mắt đã tự thú. Hai kẻ tình nhân nhìn em cầu cứu, như xin đừng nói gì nữa. Em phải vờ vĩnh, bóng gió bằng những lời thơ ứng khẩu tựa suối nguồn tuôn chảy để che lấp những khoảng tối sa đắm cho họ còn có cơ hội sám hối. Cứu một người khỏi vòng tội lỗi là phúc đẳng hà sa! Em nghĩ vậy và phán tiếp: Cung số của các ghế phải thế! Nợ tiền kiếp phải làm, phải trả đó thôi! Nhưng các ghế cũng nên biết rằng đây là chốn đồng sang bóng lịch sự, đâu phải nơi lừa đảo, u mê. Các người hãy tự rửa sạch lòng mình!… Họ co rúm, quì mọp dưới chân em: Lạy Tiên cô giáng trần sáng suốt chở che, phù hộ độ trì, chỉ đường vạch lối, giải mát cho chúng con tai qua nạn khỏi. Vận xấu tan đi. Điềm lành sẽ đến. Cửa nhà êm thấm, như áo một mắc, như hoa một cành!…
Bích Sương thở dài, ánh mắt buồn sâu thẳm như hốc đêm: Người đời thật lắm tham vọng! Nhan nhản kẻ chỉ cốt cầu cạnh cho riêng họ! Biết làm sao được? Vậy mới là đời! Cuối cùng, chỉ em là người không lý giải, không cứu được chính mình, vẫn chưa đoán nổi cho mình cuộc sống sẽ về đâu! Đôi mắt đen nhánh cong vút hai làn mi giả rơm rớm. Giọng bà ta chợt thảng thốt: Đường đời trăm ngả anh ơi! Em bơ vơ một phận đàn bà. Chồng chẳng ra chồng. Con chẳng được con. Những người đàn ông đi qua đời em, em cả tin dạt vào tưởng nhờ cậy được. Ngờ đâu đấy lại là những cụm bèo tướp túa, dơ bẩn. Họ chỉ là loại công cụ để thể nghiệm dục vọng và ghen tuông. Họ biến em thành một bát cơm nguội, thành cái máy hái tiền để cuỗm đi. Họ hành hạ em đến chán ra rồi bỏ về với vợ cái con cột. Gã chồng hờ làm nghề lái xe thỉnh thoảng vẫn mò tới quấy nhiễu, vòi vĩnh em như quỉ ám nhà chay. Con trai riêng em bị ghẻ lạnh, ruồng rẫy. Biết thân biết phận, nó đã tự lập và bỏ vào Đắc Lắc trồng cà phê. Đến bây giờ em vẫn chưa được biết mặt con dâu và thằng cháu nội. Có khổ thân em không? Thằng con có với lão lái xe thì thành đứa hư đốn, nghiện ngập. Lên cơn, nó lại về giơ dao đòi tiền. Anh biết đấy. Nước mắt có bao giờ chảy ngược?
– Lòng thương đã vô tình… Đăng cắt ngang dòng suối chảy.
– Đã vô tình đưa con sa vào vòng lao lý! Em hiểu. Anh cứ để em nói tiếp: Thánh thiện và quỷ dữ cùng lúc đến giằng kéo em. Rất ảo, rất mơ hồ mà rất thực. Em vừa bay lên đỉnh phù vân của ngàn lời tâng bốc thì cũng vừa lúc rơi xuống vùng đau đớn của tuyệt vọng, cô đơn. Tiên gì cũng phải sống bằng trái tim! Anh biết không? Bao cụ già lưng còng, bao người đàn bà mặt mũi hốc hác đến cậy cửa em, mong sự cứu rỗi. Họ đinh ninh em là một pho tượng pha lê. Từ xa xôi các làng mạc, đô thị, họ cũng nhìn thấy ánh sáng pho tượng toả trong chốn sơn lâm cùng cốc này. Nhìn họ mà lòng em cồn cào nỗi đau ngày nào. Em thấy đời em trong dáng hình họ! Em đã tưới mát tâm hồn họ bằng những lời vỗ về, an ủi của cơn mưa vàng tuôn ra từ trí óc phán đoán và thậm chí bịa đặt. Một chuỗi bịa đặt có lý không ai cãi. Xót xa và thương hại. Em mượn cớ tản lộc Thánh để phân phát cho họ những đồng tiền kiếm được. Mỗi lần như vậy, lòng em mới nhẹ đi, như bù lấp vào khoảng trống dối trá vừa mắc phải. Các con nhang đệ tử khuyên em làm một ngôi nhà, đúng ra là một ngôi điện thờ Mẫu tối cao cho mọi kẻ trú chân. Đó là ngôi nhà anh và em đang ngồi đây!… Đôi mắt dài, đẹp sắc sảo lại nhìn Đăng không chớp: Anh ở lại nhé! Anh cần hưởng những gì kể ra trước đó là người được hưởng. Như vậy là có hậu. Khổ trước sướng sau vẫn tốt hơn phải không anh? Nhưng sao chị lại tìm tôi và nhằm vào đúng tôi, một người xa lạ? Không! Anh không hề xa lạ. Con người ta trên mặt đất này sao lại xa lạ với nhau khi cùng thở một bầu trời? Họ cần phải có nhau mới tồn tại, mới sống động cõi trần thế chứ anh! Xét cho cùng, chẳng thứ gì bằng tình người! Em vẫn thiếu một thứ thiêng liêng mà em hằng kiếm tìm và khao khát, hy vọng bấy lâu. Đó là tình yêu rung cảm. Cõi Người chen chúc. Nhưng tìm được tri âm thật khó!
Đăng nhìn thẳng Bích Sương: Bà nói gì tôi… tôi không hiểu? Tôi chưa rõ bà là ai? Em rất gần anh từ thuở thiếu thời! Lạ quá! Tôi không quen cô gái nào… như bà! Tôi chỉ có Mịn của tôi! Không! Mịn chỉ là do Mẫu sai đến thay em trong quãng đầu đời xuân sắc em còn đang chới với trong bể khổ… Hình như bà đang mơ một giấc mơ ban ngày? Đăng giễu cợt và nghĩ bụng: Sao người đàn bà này lại có thể liều lĩnh đến thế? Định toan tính gì đây?
-Đời chẳng qua là những giấc mơ! Mọi đau đớn, cay đắng, mọi ngọt bùi, sướng khổ… rất may tạo hoá cho con người chút thời gian hưởng thụ, chiêm nghiệm mọi cảm giác, mọi sự kiện rồi đưa nó qua đi, để ta tồn tại và biến đổi. Chứ nếu tất cả đọng lại khô cứng, thì đời người sẽ vô nghĩa và chết mất! Nhưng… ai cũng cần có mái ấm. Tôi khuyên bà… thứ nhất… tu tại gia… Anh đừng nói nữa. Em hiểu anh định nói gì… Không gian lắng lại, dồn nén sự im lặng giữa hai người. Đăng nhớ: Mịn đã từng dở sống dở chết vì những lời bói toán do bà chị mang về. Dạo ấy, đau khổ và dằn vặt, nhiều đêm mất ngủ, Mịn vột dậy lang thang ra cánh đồng. Anh đi theo, kéo vợ ngồi xuống bờ cỏ. Trời đêm vòi vọi muôn triệu vì sao. Mịn ôm chặt lấy anh như con thuyền nép bến, nhỏ bé, tan loãng trong vô tận…
Đăng giật mình. Bỗng những tràng sấm vang động, rung chuyển không gian. Căn phòng tối sậm. Một cơn mưa đang chạy giữa bầu trời, nghe như tiếng thuỷ triều vùng cửa sông dâng rào rạt. Màn mưa giăng trắng xoá. Tiếng mưa ào ào như sàng gạo trên mái nhà. Giờ này không biết Mịn đang làm gì? Quê mình có mưa không? Có kịp chạy mưa cho đám cá, mực phơi ngoài sân? Có ra đồng thăm lúa? Hay đang tựa cửa ngóng chờ Đăng về với tiếng cười từ đầu ngõ?…
Tiếng Bích Sương như một ngọn gió lạ từ cơn mưa: Cho đến bây giờ, anh vẫn chưa nhận ra cô bé học trò cùng trường sao? Ồ cô bé học trò nào nhỉ? Hoá ra bà chủ quí phái lại đồng hương với tôi? Anh thật vô tâm. Chính em là con bé Cậy học dưới anh một lớp đây! Dạo ấy, hai lớp liền vách nhau, thường ra chơi cùng giờ với nhau… Anh học rất giỏi văn. Cô Điệp luôn đọc những bài văn mẫu của anh!
– À! Cô bé Cậy! Nếu không nhầm… cô ở xóm Láng Bè, làm Liên đội trưởng lớp 3A hay 3B gì đó? Lâu quá, tôi không nhớ nổi. Bây giờ cô khác lạ. Rất khó nhận ra!
– Đời em năm chìm bảy nổi bao bến nước… Hồi học trò khờ dại ấy, tiếc quá! Em từng đứng xa nhìn anh như nhìn một thần tượng… Giá ngày ấy em liều dấn bước… Vậy mà đã hơn ba mươi năm. Em tưởng anh…?
– Cuộc đời… chẳng ai tự đặt được số phận cho mình. Ai ngờ cô học trò ấy lại ở đây, một thầy bà trong ngôi biệt thự sang trọng này! Còn tôi, hoàn cảnh lúc đó rất đỗi khó khăn. Nhà đông anh em, lại cha già mẹ héo. Cùng một ngày cầm hai giấy gọi lên đường: đại học và đi lính. Tôi đã chọn con đường nhập ngũ. Chiến tranh kết thúc. Tôi trở về. Mịn vẫn chờ tôi. Chúng tôi bằng lòng với cuộc sống thanh đạm nhưng… Bích Sương cầm bàn tay trái của Đăng đặt lên đùi mình, có vẻ như một vô thức: Tuổi anh mệnh đẹp, tài cao, nhưng cái tài bị đứt đoạn. Nếu anh ở đây căn quả sẽ khác…
– Cô xem bói cho tôi? Đăng rút tay về. Anh là người cao số! Anh không biết em từng là cô bé đem trái tim ngây thơ nghiêng về phía anh? Em từng là kẻ cô đơn và tham vọng, day dứt vì anh! Em đã phát hiện ra anh ở bến xe… Bây giờ Mẫu mới dành cho chúng ta! Bằng mọi giá em phải tìm và nắm giữ được anh! Bích Sương thổn thức: Em rất cần anh. Đây là ngôi nhà cao tầng nhưng thiếu cây trụ chống.   Còn anh? Cây tùng phải có dòng suối mát chảy quanh! Anh phải thay đổi một cuộc sống mới. Em sẽ chu cấp cho cả gia đình anh…
– Không! Bà đang là một Tiên cô với nỗi lòng đầy mâu thuẫn?
– Đấy là việc khác! Nhưng anh ơi… Tiên cô đâu phải là con búp bê bằng nhựa!
Một khắc choáng váng. Đăng đứng dậy. Đến cửa sổ nhìn qua ô kính. Cơn mưa rừng to quá. Cơn mưa chạy nhanh muốn nuốt cả cái thành phố này trong bụng nước ngợp ngàn, tuôn đổ. Màn mưa mỏng dần, lộ ra đằng xa kia một khoảng sáng thấp dưới chân mây xám… Đúng rồi… Góc trời này đang mưa. Nhưng đằng kia… Cánh đồng… Dòng sông… Đích thị là quê anh! Nơi đó vẫn một vòm nắng chói chang! Anh chợt thấy mình bay ra khỏi ngôi nhà cao tầng, nhìn lại lần cuối rồi giang đôi cánh bơi trong màn mưa, hướng về khoảng nắng vô tận.
NƯỚC ĐỔ THÔI ĐÀNH
Bằng hí húi dưới bếp. Con Xuân chợt gọi: Mẹ ơi! Lại đây! Xem này! Có một trang Fây búc tên Băng Băng. Có cả ảnh! Nom đúng dì Băng! Không sai! Bằng chạy lại. Bức ảnh một người đàn bà đội mũ phớt trắng, ngực hở đến già nửa, nhoẻn miệng cười, như thách thức. Mẹ thấy không? Trăm phần trăm! Ừ! Đúng rồi! Còn ai vào đây nữa! Người ngợm gì mà không biết xấu hổ! Đến sáu, bẩy năm đấy mẹ nhỉ? Bẩy năm con ạ! Xuân bặm môi: Bây giờ mới thấy dì tự dưng ló mặt ra! Vẫn đẹp như ngày xưa! Chỉ tội… Bằng buột miệng: Rõ khốn nạn! Cha chết cũng không mang cái đầu về mà chịu tang! Mất tăm mất dạng từ bấy đến giờ…
Xuân xoay “chuột” kéo trang xuống bên dưới. Liên tiếp những tấm ảnh cũng khuôn mặt ấy, khi thì cô gái chống hông, quay nghiêng, quần jin cộc; khi thì người đàn bà váy ngắn, ngực khoe, đứng bên giàn hoa vàng; khi thì có người đàn ông ôm sau lưng, khi ngồi song hàng với một ông Tây bên hai tách cà phê. Cả những bức họ hôn nhau, đắm đuối. Một người đàn bà ấy. Nhưng những người đàn ông thì luôn thay đổi. Mẹ xem! Hết ông nọ ông kia! Chàng nàng quên cả lối về… Có nhắn gì không? Còn gì để nhắn hở mẹ? Nhắn thăm bà, thăm các cháu. Nhắn về quê ăn Tết… Ôi! Chả cần! Xuân thở dài đánh thượt…
Bằng quay ra, tiếp tục công việc dưới bếp. Đang vui chuẩn bị bữa cơm chiều, lòng chị chợt chùng xuống. Hôm nay đã lâu lắm mới có giỏ cua đồng, Xuân đi dạy học về qua chợ Vị Dương mua được. Chị bóc mo, nửa đem rang, nửa giã nấu canh mồng tơi. Cái món đơn giản và rẻ thôi mà sao nay nhà quê khó kiếm? Đồng ruộng nơi đâu cũng ô nhiễm, cằn cỗi vì phân hóa học, thuốc trừ sâu, diệt cỏ. Cá rô, cá mại, ếch nhái, cua rạm dần dần tiệt giống. Đến cả con chèo đò, con chuồn ớt, chuồn vôi cũng vắng bong. Đủ thứ thay đổi! Cánh đồng thẳng cánh cò bay biến mất. Con sông trước cửa đình làng cũng lệch dòng. Không trách lòng người cũng thay đổi! Nỗi buồn nỗi đau ấy lại trỗi dậy. Kể ra ngôi nhà này vẫn ấm áp. Kể ra chị em con Xuân vẫn có bố có dì. Kể ra chiếc giường không trống trải như sào ruộng hoang hoải đêm đêm. Và kể ra, không nên xây tòa nhà cao tầng này, cứ để ngôi nhà tường gạch vôi ngói cũ ngày xưa dưới không gian xóm quê đầy bóng mát và hương đồng gió nội, mùa nào thức ấy… Tết đến xuân về vui già vui trẻ có nhau… Dài dặc hơn sáu năm trời trôi qua, chị vẫn ngỡ đây là một cơn mơ…
Những tháng năm ấy… Người đàn ông ấy là của chị. Anh chị yêu nhau trên bến sông quê, nơi đậu của những con thuyền vận tải ràn rạt cánh buồm nâu. Hiệp là thuyền trưởng một đoàn thuyền vận tải thuyền buồm chuyên chở cát đá và hàng hóa cho những công trình, cho các miền quê. Mỗi chuyến sông biển về, chàng trai thêm rắn rỏi, phong trần và già dặn. Gương mặt anh lúc nào cũng rạng rỡ, cùng đôi mắt như cười. Còn Bằng, một cô gái chèo đò nan bán hàng tạp hóa trên sông, xinh đẹp, chất phác. Vẻ đẹp thuần hậu đến cả tin với đôi lúm đồng tiền luôn như lòng một đóa hoa lún nhẹ nơi khóe miệng. Mỗi lần vào bến, hạ buồm xuống, Hiệp thường đem cây đàn ghi ta ra ngồi trên nóc mui thuyền gẩy những bản nhạc. Tiếng đàn bập bõm, nhưng rất rõ những nốt nhạc. Khi “Làng tôi”, khi “Tình ca”, rồi “Thành phố bên bờ biển cả”… Dưới chiếc đò nan nhỏ, Bằng lại hướng về phía tiếng đàn. Cái Nam bên cạnh lại oang oang: Chàng lại bật bông đấy bay ơi! Trên nóc mui, mỗi lần nhìn thấy chị, anh lại bắc tay lên miệng gọi to: Quà ơi… Đến đây nào… Chị chèo lại. Anh và các chân sào mua những bao thuốc lá Sông Cẩu, Sa Pa, những tuýt thuốc, bàn chải đánh răng, bàn cạo râu hoặc những phong kẹo lạc… Đêm trăng sáng. Hai bên giữa đoàn thuyền vận tải và những chiếc đò nan nhỏ bé đậu dập dìu sát nhau lại ngân nga tiếng hò biển và những khúc hát… Ban đầu, bên anh thường cất tiếng hò trước: -Ơ ớ hò… Trăng lên đỉnh núi trăng treo.  Người đâu chẳng thấy hò theo câu nào… Bằng và mấy đứa bạn gái cùng bầy đò nan bèn đáp lại: Trăng lên đỉnh núi trăng tà. Anh yêu em thật hay là yêu chơi? Tiếng hò trầm đục trên thuyền vận tải lại tỏa lan: Đêm nay có biển có trời. Một câu hò hẹn, suốt đời đâu quên. Bạch Đằng nước chảy trôi nghiêng. Thương em đến nát mạn thuyền… vẫn thương!…
Những chuỗi cười khúc khích vỡ giòn trên mặt sóng lăn tăn ánh trăng. Từ những câu bông đùa, tán róc, những câu hò đối đáp bâng quơ, đưa đẩy… hai người đã có cảm tình với nhau. Một đêm mùa hạ trên bến sông, anh đã ngỏ lời với chị. Chị gật đầu, run rẩy như cánh buồm mũi rung rinh trước gió. Hiệp ôm chặt Bằng, thổn thức: Thương em đến nát mạn thuyền vẫn thương!… Chúng mình là của nhau nhé! Bằng gật đầu. Cánh buồm mũi nép vào cánh buồm nòng, để sắp sửa chuyến ra khơi. Dòng sông đổ ngập ánh trăng…
Đám cưới được tổ chức vào cuối mùa thu. Sau cưới một tháng, có lệnh lên đường nhận hợp đồng mới chở xi măng cho đảo Bạch Long Vĩ, Hiệp lại dong buồm rẽ sóng. Biển đang hiền lành, mơn man mạn thuyền với những khúc hát của các chàng trai thì gió đột ngột đổi chiều. Một cơn lốc khổng lổ bất thình lình ập đến, Năm con thuyền nối đuôi nhau giở tay không kịp. Sóng gió cuồn cuộn, chồm lên kinh khủng, nuốt chửng ngay đoàn thuyền. Thuyền của Hiệp bị đánh tan tành, mỗi mảnh một nơi. May sao vớ được tấm ván cầu, anh liền ôm lấy. Một cú sóng hất tung tấm ván và anh lên, trôi vun vút, đánh vèo vào một dải cát. Lúc tỉnh dậy, anh đã thấy mình nằm trên giường một Trạm xá. Những khuôn mặt xa lạ vây quanh. Sống lại rồi! Quê ở đâu? Anh cố gắng mở to mắt, thều thào: Hà An… Quảng… Ninh… Hôm sau anh mới biết mình bị cơn lốc bốc vào tận cửa Lạch Trường Thanh Hóa! Chuyến ấy, người làng vận tải bủa đi các nơi tìm kiếm. Chờ mãi một tuần mới thấy các chàng trai trôi dạt sống sót trở về. Nhưng không có anh. Bằng sốt ruột đòi đi tìm lần nữa. Người vào phương nam. Kẻ ra phía bắc. Hiệp trở lại được nhà thì hai hôm sau đoàn người đi tìm mới quay về. Làng vận tải mất tích bốn người…
Cuộc đời Bằng kể vẫn bình thường làm ăn, nếu không xảy ra sự kiện người chú ruột Bằng định cư ở Ca Na Đa về nước. Cuối những năm tám mươi, trào lưu vượt biên ở các làng xã vùng biển này ngấm ngầm lan rộng. Các nhà có máu mặt bí mật gom người gom vàng đóng tàu thuyền vừa buồm vừa lắp máy, tổ chức vượt biên bằng đường biển. Họ lấy bóng đêm và sóng làm bùa hộ mệnh. Nhiều đoàn thông đồng bén giọt. Nhưng cũng không ít đoàn bị lộ. Đoàn vừa nhổ neo đã bị bắt ngay trong vịnh. Đoàn vừa ra khỏi phao số 0, không ngờ gặp giông, quay trở lại, hoặc bị bão dập tơi bời. Người thoát sang Hồng Kông. Người nhếch nhác về làng. Ông chú Bằng bị bắt đi bắt lại, tới lần thứ tư. Trong một đêm mưa tầm tã, ông lấy trộm hẳn con thuyền vận tải mới lắp máy của vợ chồng Bằng đang nghỉ nước kém đậu ngoài bến Cô Tô, do một cậu chân sào trông giữ. Ông trói cậu ta vào cọc bến, nhét túi một bức thư: “Trời cho lần này trót lọt, chú sẽ không bao giờ quên các cháu!” Rồi nổ máy thực hiện cuộc vượt biển. Chuyến đó thành công. Qua các trại tỵ nạn Hồng Kông rồi sang nước thứ ba. Mười tám năm sau, thấy tình hình đất nước mở cửa, ông về thăm quê hương.
Thời gian này Băng, em gái Bằng đang học Trung học phổ thông. Băng xinh đẹp, phơi phới một hoa khôi trong làng, nhưng tính tình lại khác hẳn Bằng. Băng biếng học, ham chơi, thích rông rài theo những cuộc du ngoạn của đám học sinh cùng nhóm vào Thác Mơ, lên hồ Yên Trung, ra Bãi Cháy hằng mấy buổi mới về. Cha mẹ Bằng rất buồn và lo lắng. Cha từng trói Băng vào chân giường, đánh nhừ tử. Vẫn không trói được tính bay nhảy, chứng nào tật ấy của Băng. Nhân dịp về nước, ông chú lặng lẽ đến các xưởng đóng tàu thuyền tậu một con thuyền máy cỡ lớn, dắt về bến, làm luôn đăng kiểm, bàn giao cho vợ chồng Bằng: Chú nói trước sau như một! Nhờ vía con thuyền của các cháu mà chú thím có ngày hôm nay! Không được từ chối! Thấy Băng, cô cháu gái bất hảo như vậy, ông bèn bảo cha Bằng: Cho nó theo em. Sang Tây, sẽ giáo dục, cải tạo được! Ông chạy làm thủ tục cho Băng nhanh chóng. Cuối cùng Băng cũng định cư tại Ca Na Đa.
Ở nước ngoài Băng vẫn ngựa theo đường cũ, càng được thể ăn chơi. Cô giao du với cả trai Việt và trai Tây. Mối tình đầu, lấy một chàng trai Việt gốc Nam Định. Được hai năm, ly hôn. Mối tình hai với một chàng người Anh. Chưa nóng giường, cũng hai năm, chia tay. Từ đó cô không liên lạc gì với ông chú nữa. Băng nhắn thư về nhà: Không hợp tính nhau thì bỏ, khỏi phải sống như tra tấn nhau. Ở bên Tây yêu thì ở, chán thì đường ai nấy đi! Đơn giản! Không cổ hủ phong kiến như bên ta! Rồi đùng cái, Băng lại kết hôn với một chàng người Pháp. Hôm về thăm quê, Băng đưa cả người chồng Pháp về. Anh chồng cao to, đẹp trai, tóc xoăn, mắt xanh, mũi lõ, nom vẻ hiền lành. Băng giới thiệu với cả nhà: Anh ấy tên Jon, làm công việc chuyên sưu tầm văn hóa cổ điển phương Đông. Hơn con mười sáu tuổi. Không quan trọng. Cha Bằng ngạc nhiên: Nó biết cả chữ Nho à? Giỏi! Giỏi thật! Chồng Băng đọc được các câu đối, đại tự trong nhà, trong từ đường họ và ngoài chùa làng. Một hôm anh ta ngỏ ý muốn mua cái hộp trầu bằng gỗ dổi sơn đen, cái cối giã trầu cổ bằng đồng và cả mấy cái đĩa Cây Trúc… Ông bán, vì nể tình. Anh ta còn ra hiệu mua cả một đoạn sòi chắn giọt gianh mái ngói và cái khung cửa buồng gỗ lim. Đoạn sòi chắn mái và cái khung cửa buồng này cùng với ngôi nhà gỗ lim cổ năm gian từ thời cụ nội, đầu thế kỷ 19. Băng thông dịch lại lời chồng, đại ý: Sưu tầm những cái này mang về Pháp, vì nó giống như kiến trúc nhà nông thôn của vùng quê Jon… Đến đây thì ông bố vợ xua tay, lắc đầu nguầy nguậy: Không được! Không được! Ai lại tháo thứ ấy ra khỏi nhà, khỏi buồng mà bán bao giờ! Mày chặt luôn mấy ngón tay bố đi!
Cũng vào thời kỳ này, nghề vận tải sông biển gặp rất nhiều khó khăn. Sau khi các hợp tác xã làng vận tải thuyền buồm giải thể, hàng loạt phương tiện thuyền buồm như những bầy dơi bị bão, vỡ đàn tan nát. Cánh buồm cánh dơi không còn thích hợp. Hàng trăm phương tiện thuyền thủ công nằm bãi, phơi mưa nắng thành gỗ mục, củi đun… Thuyền gỗ, buồm vải vắng bóng khỏi sông nước. Tàu vỏ sắt, máy công suất lớn ra đời. Lúc này con Xuân mới năm tháng tuổi, Bằng phải bỏ con  cho mẹ già trông để chạy chợ, tiếp tục chèo thuyền nan buôn bán đong từng bữa gạo, bữa khoai qua ngày đoạn tháng. Làng nghề vận tải thuyền buồm khủng hoảng, lao đao trong vòng xoáy biển đổi. Không có phương tiện đi biển, Hiệp phải đi lái thuê cho các chủ tàu, chủ xà lan chở cát đá, vật liệu xây dựng, chở than sang Trung Quốc bán rồi chở hàng lậu về cho các cơ sở. Cũng nhiều nhà nhờ phương tiện mới và chiến dịch “than thổ phỉ” mà phất lên. Làng cũng nhờ đó thêm phần thoát nghèo và đổi mới diện mạo. Nhưng sau đó ít lâu thì một loạt các “đại gia than nhựa” kẻ vỡ nợ, người ngồi tù. May, Hiệp không rơi hoàn cảnh đó. Nhưng anh và Bằng, lại rơi vào một cảnh ngộ khác!
Chả lẽ đời là một chuỗi đổi trắng thay đen, ngay trong ngôi nhà này? Chớp mắt, những gì vừa mới hôm qua còn thân thiết, ruột thịt, nay xấp một cái, bỗng dưng tan đàn sẻ nghé, như bỡn! Bằng đang miên man trong dòng suy nghĩ. Con Xuân lại gọi: Mẹ đến mà xem con bé người Tây lai! Giống chú Jon. Nhưng đôi mắt thì giống dì Băng lắm! Lại ông nào nữa đây? Ôi! Ông này nữa! Đây là ông… bố! Con bé sững lại, như đang ăn bị nghẹn. Bằng lao đến. Ảnh Hiệp hồi trẻ. Ánh mắt như cười. Bố mày chứ ai! Vâng, nhưng là ảnh cũ. Đây nữa mẹ này! Bức này ảnh mới, bố béo trắng! Chàng thủy thủ ngày xưa đen sạm, giờ mập mạp trong bộ vét xám nom đầy phong độ đàn ông… Nhưng với Bằng lúc này sao xa lạ và đáng ghét! Chị bỏ vào bếp, thái tiếp mớ mồng tơi. Tiếng xoàn xoạt mau và mạnh hơn. Con dao như nghiến xuống mặt thớt. Thà nghèo khó mà tình người còn hơn bỏ ngãi tham giàu! Giàu có, sang trọng gì cái thứ người bỏ cửa bỏ nhà, bỏ cha bỏ mẹ, bỏ chị bỏ em, bỏ vợ bỏ con, cốt sướng lấy thân mình! Bằng lầm bầm một hồi với những dòng hồi ức…
Mấy năm sau, Băng lại về quê, dắt theo đứa con gái tây lai. Ở lại hẳn một thời gian dài, Băng cho bố mẹ một khoản tiền sửa chữa, nâng cấp ngôi nhà cổ. Cô gọi cậu em út lại: Giao cho cậu trông nom hương khỏi tổ tiên. Còn đây chị cho cậu mua xe máy, bù vào công dạy toán chị. Nhưng chị chả có học! Sòng phẳng nhá! Còn vợ chồng Bằng, Băng cho cả tiền xây cất ngôi nhà mới. Ban đầu Bằng kiên quyết không cầm. Anh chị chỉ cần ở vậy thôi. Không cần nhà cao nhà to làm gì cho phí. Cốt sao ổn định nghề nghiệp và nuôi chị em con Xuân ăn học tới nơi tới chốn! Không dám suy bì so vai với dì đâu!
-Chị yên tâm. Ở nước ngoài em làm ăn được mà. Dì Băng bây giờ khác với con Băng lêu lổng xó quê ngày trước! Còn gì hơn chị em khúc trên khúc dưới hở chị! Chỗ này chỉ là cái móng tay! Nhưng nhà quê cả đời kiếm đâu ra! Với lại em thích sòng phẳng. Công chị bế em vẹo cả xương sườn. Con lươn sau lưng chị, ông già quất roi tre dây còn không? Tại chị đánh ngã em dưới gốc ổi nhà bà Nhuận…
Băng năn nỉ, thuyết phục nhiều ngày, cuối cùng anh rể Hiệp cầm tiền. Hiệp bàn với vợ: Thôi chả gì bằng tình nghĩa chị em. Sông có khúc người có lúc! Dì ấy thương vợ chồng mình lớn trước khó trước, chịu bao vất vả để còn ở quê cùng cậu Bài nuôi thầy mẹ. Ta cứ nhận cho dì nó vui lòng! Từ nay sẽ khác đi chứ!
Băng ép anh chị phải xây ngay tòa hai tầng cho Băng nhìn thấy. Tự Băng thuê thợ và đặt mua vật liệu. Ngôi nhà lên thật. Hai tầng cao, tường sơn vàng kem, cửa kính cửa hoa lấp lánh. Ngôi nhà như một bông hoa nổi bật giữa xóm. Mặc dù đã chuẩn bị tâm lý, nhưng hôm về nhà mới, Bằng vẫn không khỏi ngỡ ngàng. Vẻ mặt ngớ ngẩn. Chân tay lính quính. Như bước trong cơn say sóng!
Rồi trước lúc đi một tháng. Một buổi tối sau bữa giỗ ông nội, chờ họ hàng tản về hết, Băng tập họp cả gia đình trong nhà. Đóng chặt cửa, Băng nhìn lướt qua mọi người: Hôm nay… Thưa cha mẹ, anh chị và các em! Con xin bàn một việc hệ trọng. Thời buổi bây giờ khác xưa một trời một vực. Thế giới cũng thay đổi. Các nước cũng thay đổi để tiến kịp thời đại. Nhà ta cũng phải thay đổi để mọi người cùng giàu có… Các anh các chị, các em các cháu phải rũ bỏ dần công việc đồng áng, sông nước nặng nhọc, quanh năm đầu tắt mặt tối, chân lấm tay bùn, khô mái chèo cháy nồi cơm. Một hạt thóc gánh bao nhiêu thứ đóng góp, rủi may. Được mùa mất giá. Được giá mất mùa. Nông dân quê ta khốn khó vô cùng. Ở bên ấy, con đi nhiều, tiếp xúc nhiều, trải nghiệm nhiều bài học và thấy nhiều người Việt thành công. Họ lần lượt đưa được gia đinh, người thân, anh em, con cháu ra nước ngoài sống sung sướng. Một ngày làm việc bằng một tháng, một năm bằng một đời ở quê… Băng đưa mắt nhìn thẳng vào Bằng: Việc này có quan hệ mật thiết đến chị Bằng anh Hiệp! Chị phải nghe em! Chị để em lo! Em làm hôn thê giả với anh Hiệp để đưa anh ấy sang chỗ em! Lao động người mình như anh Hiệp bên ấy rất có giá. Làm chơi ăn thật! Sau đó…
Bằng choáng váng: Ô! Sao lại vậy? Dì có điên không đấy? Em không điên! Mà rất tỉnh! Tỉnh để lo tương lai cho cả nhà, cho anh chị! Nhà ta từ xưa tới nay “đầu không khăn, đít không khố”, không quan chức gì cả, nên phải thay đổi cung cách làm ăn và giành lấy đẳng cấp cuộc sống để ai cũng giàu cũng mạnh. Nghèo bây giờ chúng nó khinh. Khinh từ trong ổ khinh ra! Khinh từ họ hàng khinh đi.
-Dì nói thế nào chứ? Ai người ta khinh? Nhà mình cũng có ai khinh dì đâu! Giờ lại tự dưng chia loan rẽ thúy nhà tôi à? Nghĩa là làm sao?
-Anh chị ra ủy ban, lên Tòa án huyện nộp đơn ly hôn… Giọng Băng thêm rắn đanh: Giả ly hôn thôi! Anh chị giả vờ bỏ nhau. Sau đó một năm em về, anh Hiệp làm hôn thê giả với em. Em cẩu anh sang đó. Cẩu anh rể xong, em lại làm ly hôn… Có nói dài chị cũng không thể hiểu được ý đồ của em. Cứ thế mặc em lo. Rồi sẽ cẩu được cả chị sang. Anh chị lại về đoàn tụ với nhau, không suy suyển tí nào!
-Dì nói gì chị không hiểu. Đau đầu quá! Ở quê giờ sinh sống đâu có đến nỗi… Thế này là quá tốt rồi! Thôi! Đừng đứng núi này trông núi kia cao. Đời người mấy lúc đâu em, mà những toan với tính…
-Chị xưa lắm! Yên tâm đi! Để em lo! Thôi! Cứ thế! Tuyệt đối bí mật! Cấm không ai được hở miệng ra ngoài! Chết cả nút! Coi như chưa có chuyện gì xảy ra!
Con em này đúng là tác quái! Từ bé nó đã nghịch ngợm, đanh đá. Đi học, vứt cả sách ốc đánh vật với bọn con trai. Sức con gái, mà nó dám bơi vượt cả sông Chanh. Bữa ấy, đến giữa chừng, nó lên chân cây đèn, ngửa mặt thở. Những tưởng kiệt sức. Vậy mà nó lại bơi tiếp sang bên kia… Ông già đánh đòn như két bay, nó vẫn đâu hoàn đấy. Chả trách lớn lên nó coi trời bằng vung! Cả vú lấp miệng em. Đằng này nó cả vú lấp miệng chị! Nó làm thật! Chả hiểu chạy chọt giấy tờ tiền nong thế nào, nó lại về nước và làm đủ chuyện xáo trộn cái gia đình này…
Nồi canh sôi trào bọt ra miệng nồi, tỏa hơi nghi ngút. Bếp sủi xèo xèo cắt ngang mạch suy nghĩ. Bằng vội bắc ra. Hương vị cua đồng quyện mùi mồng tơi thơm phức, ngọt nồng, quyến rũ. Ở nhà, nó cũng mê món canh này lắm! Lâu lâu lại sang bắt vạ chị. Bằng với lên chạn lấy bát đũa, dáng lảo đảo như say. Nhà này nó là cái vẩy tê tê mọc ngược! Vừa giận vừa thương lẫn lộn. Xét cho cùng… nó cũng khổ. Cha mất, không thấy mặt lần cuối, không được đưa ra đồng! Nhưng sao nó lại nỡ vô tình với chị gái nó đến vậy? Chồng ai không cướp! Lại cướp ngay chồng chị? Để không dám vác mặt về quê!
Hơn năm sau, Băng về người không. Với mớ giấy tờ đủ cả thủ tục kết hôn, xuất cảnh, nhập cảnh bên Việt Nam và Ca Na Đa. Giấy kết hôn in hai thứ chữ tiếng Anh và tiếng Việt, rõ ràng những dòng họ tên Lê Thị Băng, tuổi… Vũ Văn Hiệp, tuổi… Rồi… Quảng Ninh… Toronto…
Đêm cuối cùng trên quê hương, Hiệp dỗ dành, ôm chặt Băng như ngày đầu mới ngỏ lời: Yên tâm đi! Anh sẽ lại về! Vì làm ăn, vì tương lai nên dì ấy mới yêu cầu. Chiều dì cho xong việc. Chỉ làm giả với dì ấy thôi! Sang đấy một thời gian lại làm ly hôn. Anh lại về đón em… Em cần có nhau chứ có cần giàu sang đâu! Thôi! Dì nó đã cố công lo toan, chạy vạy. Giấy tờ thủ tục đâu đấy cả rồi. Cả núi tiền. Không thể bỏ được! Nước đổ thôi đành. Rồi ta lại xum họp…
Đêm ấy, Bằng khóc tưởng hết nước mắt. Chiếc gối và vai Hiệp ướt đẫm. Lần cuối cùng chị còn biết mùi mồ hôi chồng trong vòng tay. Khi tình yêu tột độ nồng nàn để xiết chặt niềm tin thì cũng là lúc trái tim manh nha trước vực thẳm. Chị đã không thể hiểu đây là màn kịch độc do em gái đạo diễn và Hiệp đã bị hút vào tham gia một vai diễn!
Từ lúc tắt máy tính, Xuân lên phòng, cũng không vui gì. Hai tiếng Băng Băng đã đánh thức hai mẹ con một nỗi buồn vô hạn, một nỗi đau rất khó lành. Hơn bẩy năm nay, ngôi nhà vắng bóng người trụ cột. Mẹ, một mình thui thủi. Con, hai đứa không được gọi tiếng bố. Chả biết bố tính sao lại đi theo dì Băng? Chả biết bố lấp lú đến đâu mà không nỡ gọi về một cuộc điện thoại hay một tin nhắn? Chả biết bố bị dì Băng kiểm tỏa tới mức nào mà quên đi quê hương bản quán?
Xuân lại từ trên tầng chạy phăm phăm xuống: Tức lắm mẹ ạ! Sao họ lại có thể cạn tàu ráo máng với mẹ như vậy? Con không chịu được. Phải đòi bố về! Nó nghiến răng ấn nút máy tính. Mạng bật lên. Trang Facebook Băng Băng hiện ngay trước mặt. Qua một vài bức ảnh mới pots lên toàn những ngọn núi cao, trắng tuyết. Một bức ảnh nữa. Chợt Xuân sát vào màn hình, thất thanh: Bố! Nhưng sao bố lại ngồi xe lăn? Bằng giật thót, chạy đến, vấp vào chiếc đòn ghế: Đâu? Què à? Đúng rồi! Cụt cả hai chân đây này! Chị choáng váng, vội chống tay xuống bàn, thảng thốt: Tại ả tại anh. Giờ mới chường cái mặt ra!… Thế là hết ư con?…
Ngón tay Xuân lướt láu táu trên bàn phím: “Bố tôi làm sao thế này?” Enter. Vài giây, một ô trả lời xuất hiện: “Tai nạn khi du lịch leo núi… Coi như chúng tao chết rồi! Đừng hỏi nữa!” Ngả bửa người ra ghế, Xuân đứng phắt dậy vươn tay ấn công tắc điện. Màn hình tắt đánh phụp. Nó chụm hai bàn tay ôm mặt rồi thất thểu lê bước lên cầu thang….
Bằng lặng người, dựa vào tường. Nước mắt lại trào ra. Mâm cơm vừa dọn để đấy, cũng không thiết gọi. Chị ân hận: Giá ngày ấy mình cứ làm ầm ĩ, phá cho vỡ chuyện… Mọi sự sẽ không đến nỗi… Ba tháng. Một năm. Rồi bẩy mùa đón giao thừa, bẩy mùa tết đến xuân về trên bến sông quê. Không một hồi âm. Không nhớ bao đêm trăng Bằng ra bến sông nhìn chân mây xa thẳm. Tình yêu trong lòng như hòn đá ném xuống đáy sông. Đâu rồi con thuyền quen thuộc với hai lá buồm cánh dơi lướt trên mặt sóng nhuốm hồng? Đâu rồi những giọt ghi ta phập phùng, thực thà từng nốt nhạc trên mui thuyền? Đâu rồi tiếng hò biển ngân nga, lúc vang trên mặt nước, lúc chìm dưới mái chèo ướt ánh trăng? Ơ… ớ… hò… Trăng lên đỉnh núi trăng tà… Anh yêu em thật hay là yêu chơi… ớ hò…
Ngày cha mất, cả nhà cố đợi, để hôm sau mới khâm liệm, để hy vọng. Nhờ những đứa em gia đình người chú, nhờ những người quen trong làng ngoài xã có người thân bên đó, Bằng vẫn không dò được tung tích em gái và chồng. Một tù tội? Hai mất tích? Dư luận được thể cứ như sóng mà cồn lên: Đến cơ nhà ấy bị đổ đốn. Thúy Vân nẫng của Thúy Kiều… Em vợ cướp anh rể! Tại chị tin em, tin bợm mất bò… Mất sào ruộng trước cửa không bằng mất nửa… Đá cũng phải đau! Đám trẻ con trong xóm còn rồng rắn hát: Tò vò mà nuôi con nhện. Đến khi nó lớn nó quện nhau đi. Tò vò ngồi khóc tỉ ti. Nhện ơi nhện hỡi nhện đi đằng nào? Tòa nhà cao tầng lòe loẹt giữa xóm chẳng khác gì cây nêu cho kẻ qua người lại nhìn lên thành bia miệng tiếng đời! Không có thứ cây gì vừa trồng đã mọc nhanh như thành như lũy để che khuất nó đi?
Tấm ảnh Hiệp ngồi xe lăn, tiều tụy và thảm hại lại hiện rõ mồn một…
Bằng đứng dậy. Chị thắp ba nén hương, ngước lên bàn thờ. Lạy giời lạy Phật, lạy đất lạy sông xui khiến con bé trở về, Hiệp trở về. Vại vỡ rồi thì cứ về đi, về đi! Dẫu có què quặt, ngồi xe lăn như ông Vấn thương binh, cũng đón! Thôi thì người ta đi trận mạc mà thương tật. Chồng mình do cả nghe, “cóc chết ba năm quay đầu về núi”, cũng được! Em gái có về, trả anh rể đầu ngõ cũng được! Nếu không trả cũng xong! Miễn sao ngôi nhà cổ của cha mẹ lại ấm áp, xum vầy, ăn với nhau bữa cơm ngày giỗ, ngày tết dưới bàn thờ ông bà ông vải… Chị lấy lồng bàn đạy mâm cơm. Đợi ít nữa thằng Thu đi học về. Chắc nó đã đến nửa đường? Nồi canh cua đồng mồng tơi sẽ nguội mất! Chị vội gọi lên phòng, giọng dứt khoát: Xuân ơi! Xuống mở máy tính, lên mạng ngay cho mẹ! Mau! Mẹ chỉ cần nhắn một câu. Một câu thôi. Con cứ bấm cho mẹ thế này: Nước đổ thôi đành! Dì với bố ở đâu? Còn biết đường biết lối thì Tết này dắt nhau về!.
14/1/2025
Dương Phượng Toại 
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...