Thứ Tư, 28 tháng 5, 2025

Truyện ngắn của hội viên mới Ngô Thị Thu Vân ở TP Hồ Chí Minh

Truyện ngắn của hội viên mới
Ngô Thị Thu Vân ở TP Hồ Chí Minh

Tác giả Ngô Thị Thu Vân quê ở Bến Tre, sinh năm 1958 tại Sài Gòn, hiện sống và làm việc tại TP Hồ Chí Minh. Bà chính thức sáng tác từ năm 2000, sinh hoạt tại Hội Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu – Bến Tre.
Tác phẩm của Ngô Thị Thu Vân đã xuất bản: Muộn – tập truyện ngắn – NXB Trẻ 2009, Đôi bờ – tập thơ – NXB Văn hóa Văn nghệ 2010, Đêm Sài Gòn đầy gió – tập truyện ngắn – NXB Hội Nhà văn 2014, Gia tài của mẹ – NXB Quân đội nhân dân 2017, Đến thu này thì mộng nhạt phai – tập truyện ngắn- NXB Hội Nhà văn năm 2022.
Các giải thưởng Ngô Thị Thu Vân được nhận: Tặng thưởng Truyện ngắn hay Báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật năm 2006, Giải nhì Cuộc thi Thơ khu vực Đồng bằng sông Cửu Long năm 2009, Giải khuyến khích Cuộc thi Truyện ngắn khu vực Đồng bằng sông Cửu Long năm 2008, Giải ba Cuộc thi Truyện ngắn viết cho thiếu nhi tỉnh Bến Tre năm 2001, Giải Khuyến khích cho tập truyện ngắn Đêm Sài Gòn đầy gió của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam, Giải ba Cuộc thi viết “Về nhà” do NXB Hội Nhà văn – Chi nhánh miền Nam phối hợp cùng Vanvn.vn – Cơ quan ngôn luận của Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức năm 2022, Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam.
Nhà văn Ngô Thị Thu Vân đã được kết nạp Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2024.
Cô Miên
Tôi gặp chị trong một hội thảo văn học khu vực, được ban tổ chức xếp ở cùng phòng với nhau. Giống như sự tình cờ, cũng giống như có ai xếp đặt trước. Nói rằng chúng tôi đã quen nhau thì không phải, mà không biết nhau cũng không đúng. Bởi cách đây một năm, cũng trong một hội thảo, tôi và chị đã từng thấy nhau. Lần đó đoàn của tôi và đoàn của chị ngồi cách nhau một dãy ghế. Hôm nay, ở nơi “xứ lạ quê người” vậy là đủ để tay bắt mặt mừng chị chị em em rồi.
Tên chị là Cô Miên – Nguyễn Thị Cô Miên – chị giải thích: Cô miên là ngủ một mình. Cái tên ấy đã vận vào đời chị như một định mệnh. Bốn mươi lăm năm có mặt trên cõi đời này, cộng lại đã có hơn ba mươi năm chị phải ngủ một mình, mặc dù chị cũng có chồng tử tế.
Cái đêm đầu tiên ngủ một mình là nỗi kinh hoàng đeo đẳng chị như một ám ảnh. Đó là năm chị vừa tròn sáu tuổi. Là con bé Miên bé bỏng. Buổi sáng hãy còn hớn hở vui đùa nhìn mọi người tấp nập áo đỏ áo xanh. Tối đến tiệc tan, mọi người lần lượt ra về. Nó ngạc nhiên khi thấy một người đàn bà ở lại nhà nó. Người đàn bà đã nằm đúng vào vị trí của Miên bên cạnh ba trên chiếc giường đôi của hai cha con trong căn phòng quen thuộc.
Sáu năm trước, thương Miên phải một mình bơ vơ trong giấc ngủ trẻ thơ, ba đã bế Miên từ chiếc nôi con đem lên giường đặt nằm cạnh ba. Người đàn ông vụng về, loay hoay, xoay trở mãi tới sáng cũng vừa lúc chỉ còn đúng một chỗ khô trên chiếu để con nằm. Sáu năm sau, cũng chính tay ba bế chị từ chiếc giường ấy mang ra phòng ngoài đặt lên chiếc giường đơn sắt lạnh. Ba hôn lên trán Miên trước khi quay đi. Lần đầu tiên Miên nghe hơi thở ba nặc nồng mùi rượu.
Cái bóng đèn cà na nhuộm màu đỏ suộm gắn trên vách tỏa ra một thứ ánh sáng nặng nề khó chịu. Miên nhắm mắt lại. Nỗi sợ hãi làm nó muốn ngộp thở. Nó nghe hai chân mình trơn lạnh. Có một cái lưỡi dài đỏ tươi và nhớp nháp đang từ từ liếm láp từ chỗ bàn chân dần lên tới gối. Nó muốn nhấc chân lên, muốn co người lại, nhưng tất cả đều không thể. Nó nằm bất động, mồ hôi vã ra rồi đuối sức thiếp đi. Trong giấc ngủ chập chờn, nó ngửi thấy mùi ngai ngái, tanh nồng của con ma da hút máu rút ruột người. Nó nghe chỗ cuống họng đau điếng. Nó dùng hết sức lực còn lại la thật lớn: “Ba ơi! Cứu con”. Đèn bật sáng. Người đàn bà kia bước vào, ngồi xuống cạnh Miên. Mùi phấn thơm trên người bà ta trộn lẫn với mùi tanh nồng của con ma da làm Miên buồn nôn. Nó quay mặt vào vách, nhưng rồi lại quay ra. Dẫu sao, sự có mặt của bà ta bây giờ cũng làm nó đỡ sợ. Nó hỏi: “Ba đâu?”. “Ba mệt, có dì ở đây, Miên ngủ đi”. Rồi hình như bà ta còn nói gì nữa. Miên không hơi sức đâu để nghe, để giận, để ghét, để buồn, để tủi. Miên thiếp đi.
“Chị Miên lạnh hả?”. Chị không trả lời tôi. Giọng chị xa vắng miên man như từ cõi nào: “Không ai chết vì ngủ một mình. Cho nên chị vẫn sống đến bây giờ…”.
Ngày đầu tiên đến trường, Miên dậy từ rất sớm. Ba đi công tác chưa về. Dì lui cui dưới bếp chuẩn bị bữa ăn sáng cho Miên. Dì nhỏ nhắn, nước da đen tái. Hàm răng đều và trắng quá làm đôi môi thêm thâm sì mỗi bận dì cười (mặc dù dì rất ít khi cười ). Thấy Miên xuống, dì nhìn Miên vẻ thân thiện. Miên liếc xéo, dậm chân thình thình đi lại chỗ sàn nuớc. Đã thấy dì để sẵn kem và bàn chải ở đó. Miên vừa đánh rang, rửa mặt, vừa vẫy nước tung tóe ra sàn nhà…
Dì có tài nấu ăn rất khéo. Cứ nhìn thấy cái trứng ốp-la nằm gọn trong  cái dĩa thì biết. Quả trứng tròn vành vạnh. Xung quanh rìa vàng giòn. Bên trong màu trắng đục. Ở giữa, lòng đỏ được ôm gọn mô lên phập phòng bóng nhẫy, ngó như cái nón rộng vành của chú Chệt mua ve chai ngoài đầu hẻm. Đó là món ăn mà Miên rất thích. Nhưng lần nào ngồi vào bàn ăn, Miên cũng đều giãy nãy, khua dĩa, quăng dao. Để rồi lần nào Miên cũng ăn hết một cách ngon lành (khi dì biết ý bỏ đi nơi khác). Điều đó không qua được mắt dì, nên cứ vài bữa dì lại dỗ:  “Miên ráng ăn trứng cho có dinh dưỡng mà học giỏi…”.
Trong khi Miên ăn, dì lặng lẽ lấy giẻ lau khô chỗ nước hồi nãy Miên cố tình vung vẫy. Rồi dì đưa Miên đi học. Nói là đưa chứ thật ra là dì chỉ lẽo đẽo theo Miên. Từ nhà đến trường chưa đầy một cây số. Hôm ấy vào đợt bão. Gió lao rao mang hơi nước lành lạnh. Bầu trời oằn xuống nặng trĩu. Không gian phủ lên vạn vật một màu khói lam huyền ảo. Miên tha thẩn nhìn những cánh phượng cuối mùa sau một hồi chao lượn ngả nghiêng trong gió sớm, lã chã rơi xuống mặt đường nằm chỏng chơ tội nghiệp. Những cánh phượng như những cánh bướm già nua bèo nhèo nhuộm đỏ cả một quảng đường. Một chiếc xe đò trờ tới. Anh lơ vỗ vào thùng xe xèng xèng, miệng hô lớn: “Dô…dô…”. Con bé đi bên cạnh Miên níu tay mẹ sợ hãi. Từ phía sau dì bươn bả chạy tới nắm lấy tay Miên. Miên giằng tay ra nhìn dì vẻ bình thản rồi nhìn sang con bé bên cạnh bĩu môi: “Vậy cũng sợ”. Rồi Miên te te đi một nước.
Bất chợt chị quay sang tôi: “Ngày đầu tiên đi học của Nghi ra sao kể chị nghe với”. Biết kể sao với chị bây giờ. Đó là một ngày nắng dịu dàng và gió cũng dịu dàng. Ba cõng Nghi trên lưng băng qua mấy quảng đồng trong văng vẳng tiếng trống trường. Má theo sau hai cha con, tay xách cặp, vai đeo lủng lẳng cái bình nước bằng nhựa. Ngày đó đọng lại trong ký ức của Nghi bây giờ là mùi mồ hôi nồng nàn trên lưng ba. Ánh mắt dịu dàng khích lệ của má. Và nụ cười xinh xắn của cô giáo. “Nghi ngủ rồi à? Tôi giật mình: “À chưa! Nghi đang nhớ lại ngày đi học đầu tiên. Nhưng chẳng nhớ được gì rõ ràng để kể lại cho chị Miên nghe. Trí nhớ Nghi thiệt tệ”.
Hồi bằng tuổi Nghi bây giờ chị từng được xem là cô gái thông minh mạnh mẽ. Chỉ một mình chị biết là chị yếu đuối, kém cõi. Nhưng thôi, mọi người đã nghĩ như vậy thì chị hãy cứ thông minh mạnh mẽ. Để làm được điều đó chị phải gắng sức. Ở nhà, chị tự chăm sóc cho mình, tự làm thêm mọi công việc có thể: may vá thêu thùa, kết hoa vải, may thú nhồi bông… để kiếm tiền đóng tiền học, mua sắm quần áo sách vở. Đến trường, chị tự đề ra mục tiêu phải học thật giỏi. Quả thật suốt mấy năm trung học chị đều làm cán bộ lớp, cán bộ đoàn. Mà đã là “sếp” lại càng phải tỏ ra  “mạnh mẽ”.
Công việc làm ăn của ba ngày càng phát đạt. Ba bận rộn suốt ngày ở công ty. Lâu lâu hai cha con mới ngồi ăn chung với nhau một bữa cơm. Những lần như vậy ba thường hay hỏi: “Miên học hành ra sao? Có cần tiền không? Có thiếu gì không? Dì cháu vui vẻ chứ…?”. Lần nào chị cũng trả lời ba: “Tất cả bình thường. Miên không cần gì, không thiếu gì. Dì đối với Miên rất tốt”. Lần cuối cùng ba hỏi chị những câu đại loại như vậy và chị cũng trả lời ba đại loại như vậy. Đó là năm chị sắp hết lớp mười hai. Ba xoa đầu chị: “Vậy là tốt rồi. Ba rất mừng khi thấy Miên của ba là một cô gái mạnh mẽ, biết tự lập”. Rồi ba buông đũa, lên lầu. Chị nhìn theo ba ứa nước mắt. Dì nhìn chị ái ngại.
Dì bây giờ trông đầy đặn hơn xưa nhưng vẫn ít nói ít cười, vẫn rụt rè trước sự mạnh mẽ của chị, vẫn thỉnh thoảng: “Miên ráng ăn trứng cho có dinh dưỡng mà học giỏi”. Suốt những năm tuổi thơ, những lời thậm thụt của mấy bà hàng  xóm kiểu như: “ Mấy đời bánh đúc có xương…” khiến chị luôn cảnh giác với dì. Chị như  con nhím cố xù gai để đối phương không dám đụng vào mình. Nhưng sự cam chịu, nhân nhượng, nhẫn nại, khoan dung độ lượng của dì làm chị dần dà cảm thấy đó không phải là cách. Nhưng phải thay đổi thế nào thì chị lại không nghĩ ra. Thành thử, tình cảm giữa dì và chị không thừa lạnh nhạt nhưng cũng không đủ mặn mà.
Dì không sinh nở được.  Đó là cái cớ để ba dần dần thờ ơ với dì. Ba thường xuyên vắng nhà vì công việc. Còn chị, ngoài giờ học ở trường chị đi sinh hoạt đoàn, đi diễn văn nghệ, đi học ngoại ngữ, đi dạy kèm… Hầu như chị chỉ về nhà ăn tối và đi ngủ. Dì trở thành cái bóng lặng lẽ trong ngôi nhà mênh mông quạnh vắng. Ba bây giờ thỉnh thoảng mới về nhà, ở với dì một ngày, ngủ với dì một đêm để dì đừng quên dì là đàn bà có chồng.
Giải nhì toàn quốc môn văn năm cuối cấp ba là cái vé ưu tiên để chị bước vào cánh cổng trường đại học tổng hợp mà không cần thi cữ. Nhưng như vậy thì trong lúc bạn bè tất bật luyện thi chị biết làm gì bây giờ. Vậy là chị lại nộp hồ sơ thi thêm hai trường nữa. Kết quả chị đậu cả hai trường. Có một trường đậu thủ khoa. Đối với gia đình và bạn bè, chuyện chị thi rớt mới là chuyện lạ. Còn đậu đại học dù là thủ khoa mấy trường đi nữa cũng là bình thường. Ngoài xã hội, chị không đủ tiêu chuẩn để được tuyên dương rầm rộ trên báo đài vì chị không khuyết tật, không ở nhà rách, không bán khoai lang. Thành thử, chỉ có mình chị là tự biết mình đã phải nỗ lực như thế nào để có được kết quả ấy.
Chuông điện thoại vang lên. Chị với tay lên đầu giường cầm điện thoại tắt máy. “Ông xã chị gọi đó”. “Sao chị không nghe?”. Giọng chị càng về khuya càng đục khàn: “Suy cho cùng, ở đời người ta có thể ngộ nhận nhiều thứ nhưng đừng ai dại dột mà ngộ nhận tình yêu. Cái giá phải trả cho nó có khi là cả một cuộc đời Nghi ạ”.
Dì ngả bệnh. Ba hay tin về chạy đôn chạy đáo đưa dì đi khắp nơi tìm thầy chữa trị. Tây y, đông y, thầy bùa thầy ngãi, cô đồng cậu bóng, không ai kêu ra được tên con bệnh của dì. Dì không nóng sốt, không đau đớn, không lú lẩn, chỉ mỗi tội không ăn, không ngủ được. Dì như ngọn nến chập chờn vơi dần từng giọt sáp. Lần cuối cùng chị đến bệnh viện thăm dì, nhìn mảnh hình hài teo tóp, chỉ còn ánh mắt dì nhìn chị là còn một chút mầm sống. Chị thương quá ôm lấy dì áp khuôn mặt mình vào ngực dì xương xẩu. Nghe hơi thở dì gấp gáp, chị bất chợt gọi:”Má!”. Dì mỉm cười, hai giọt nước cuối cùng trong cái thân hình khô đét kia tứa ra ở hai bên khoé mắt. Dì nhẹ nhàng thanh thản ra đi trong tay chị.
Sau đám tang dì, ba lại mang về một người đàn bà. Chị không còn là con bé Miên sáu tuổi bé bỏng yếu đuối năm xưa. Một đứa con gái thông minh mạnh mẽ phải biết đối đầu với hoàn cảnh. Chị ôm quần áo sách vở vào ký túc xá.
Ngày hè. Ký túc xá vắng hoe. Lũ bạn chung phòng đã lần lượt về quê. Còn lại một mình chị. Tắm khỏi phải xếp hàng. Đêm đêm, khỏi phải ngó nhỏ Lan mặc váy củn cởn thoải mái vô tư trèo lên tầng trên đến xốn mắt. Khỏi phải mất ngủ bởi nhỏ Giang và “anh trai miền sơn cước” của nó rù rì đằng sau tấm riđô mỏng lét. Khỏi phải chứng kiến cảnh chúng nó ngồi lê mách lẻo, cãi lộn um sùm. Nhưng chỉ được vài bữa, chị lại cảm thấy cô đơn trống trải, lại thèm cái không gian ồn ào bừa bộn cũ. Chiều. Nắng oi nồng, chị tha thẩn bên gốc phượng già ở cuối sân, lượm những bông phượng đỏ thắm xếp thành một đàn bướm. Phượng đỏ làm chị nhớ xiết bao cái ngày dì lẽo đẽo theo sau đưa chị đi học buổi đầu tiên. Nỗi buồn trĩu nặng làm chị ứa nước mắt. Có tiếng con trai sau lưng: “Nghỉ hè sao bạn không về?”. Chị giật mình: “Không có chỗ về, còn bạn?”. “Không có tiền về”.
Cả hai cùng cười. Rồi anh kể cho chị nghe về quê anh, dãy đất cù lao nằm mấp mé nước sông Tiền. Ở đó, có những ngày gió chướng, bông so đũa nở trắng, cá lòng tong lũ lượt kéo về từng bầy. Có những đêm mưa, ếch ngoài đồng “cặp đôi” mở hội như cái chợ tình. Có những ngày nắng, đi ngoéo cua đồng về cho má nấu canh bồ ngót. Chị ngồi nghe say sưa thấy cái gì cũng lạ, cũng hay, cũng gợi trong chị nỗi khát khao về một gia đình đầm ấm. Cứ thế mỗi ngày, mỗi ngày… anh lấp đầy khoảng trống cô đơn trong chị bằng chút nắng, chút mưa, chút gió mùa trăn trở. Ba chê anh thằng con trai tỉnh lẻ, không sự nghiệp công danh. Chị lặng lẽ xách va ly theo anh về quê, không xe hoa pháo cưới.
Từ ngày bắt đầu biết nhìn nhận sự việc xung quanh. Chị chưa hề thấy cuộc đời này hào phóng ban tặng cho chị một thứ gì dẫu chỉ là một chút. Để có được điều gì đó cho mình chị phải luôn nỗ lực gắng sức. Lần này cũng vậy, để thích nghi được với sự cách biệt thành thị, nông thôn, chị cũng đã gắng hết sức bằng tất cả thiện chí của mình. Nhưng với anh, chị hoàn toàn không thể…
Khi chị bị cuộc đời và gia đình anh (với hơn mười con người lớn bé) vùi dập hiếp đáp, chị ước gì anh có một chút mạnh mẽ, bản lĩnh dám đứng về phía chị. Khi nghèo khổ, khốn khó, chị ước gì anh có một chút tự tin, năng lực và chuyên cần để đưa gia đình vươn tới ấm no. Khi buồn vui, chị ước gì anh biết quan tâm chia sẻ để chị có thể tựa vào anh mà bước đi trên đường đời thênh thang. Những thứ chị không ao ước thì anh lại có thừa. Anh thừa tính gia trưởng độc đoán. Anh biết rõ mình kém cỏi hơn chị nhưng không có dũng khí nhìn nhận sự thật. Anh càng cố chứng tỏ mình, càng làm cho cuộc sống trở nên tồi tệ. Anh không công nhận vai trò “thống lĩnh” gia đình của chị mặc dù anh biết rất rõ anh không đủ năng lực để đảm nhiệm nó một cách hoàn hảo.
Không ai muốn mình trở thành một người đàn bà mạnh mẽ theo cái nghĩa phải đương đầu hứng chịu giông bão cuộc đời, nếu nơi ấy có người đàn ông giang tay ra gánh vác. Sự mệt mỏi chán chường cùng với bề bộn những công việc ở cơ quan và gia đình làm chị suy sụp cả tinh thần lẫn thể xác. Lấy cớ để chị giữ gìn sức khoẻ và có thời gian yên tĩnh làm việc, anh dọn ra ngủ ở phòng ngoài. Thế là chị lại bắt đầu những giấc cô miên một lần nữa trong đời và lần nầy thì mãi mãi. Chị không buồn. Trái lại, điều đó làm chị đỡ cảm giác ngán ngẩm.
Cho đến một đêm, khi nỗi khát khao đàn bà trong chị trỗi dậy, chị đưa tay sờ lên ngực mình lạnh giá. Chợt nhớ hình như đã từ lâu lắm, tiếng gõ cửa phòng chị thỉnh thoảng vào lúc nửa đêm đã không còn. Chị linh cảm về một điều gì đó mơ hồ, cứ tròng trành như con thuyền trôi trong sương đêm.
Nếu còn một chút gì đó để chị hãnh diện về anh thì đó chính là tính thật thà không biết quanh co nguỵ biện. Nên chỉ cần vài câu hỏi “nghiệp vụ”, chị đã được anh thú nhận về cái  “chương trình” mà anh đang “hân hạnh được tài trợ” ở bên ngoài. Chị lắng nghe anh, bình thản đến lạnh lùng. Chị có thói quen không khóc trước mọi đau khổ. Người đàn bà mạnh mẽ thì không nên dễ rơi nước mắt.
“Không còn yêu nhau sao chị không ly dị?”. Tôi rụt rè hỏi chị với một chút tò mò. Chị cười buồn: “Với chị bây giờ, mọi sự xáo trộn trật tự có sẵn trong cuộc sống đều không cần thiết. Bởi vì từ lâu lắm rồi chị có bị ràng buộc bởi điều gì đâu. Chị tự do đi đứng, quan hệ. Tự do một mình trong căn phòng bừa bộn bên những trang viết thâu đêm suốt sáng, và một mình với những giấc ngủ không đầu không cuối, không giờ không giấc.
Giọng chị nặng như ướt nước: “Nghi biết không, chị cũng có mong muốn bình thường như bao người đàn bà khác, được tự tay chăm sóc chồng con, đảm đang việc nhà. Có những lúc buồn tủi, chị cũng thèm được khóc, thèm được dỗ dành. Những lúc bị vùi dập phủ phàng, chị cũng thèm được an ủi, chở che. Đôi khi thấy mình yếu đuối kém cỏi, chị cũng cần được bảo ban, dìu dắt. Không có người đàn bà mạnh mẽ. Chỉ có người đàn bà cố giấu đi sự yếu đuối của mình Nghi ạ!
Chị khóc. Mới đầu là thút thít, sau đó cứ rưng rức từng cơn. Rồi như không nén được nữa, chị khóc ngằn ngặt. Tôi thật sự bối rối. Tôi siết chặt đôi tay mềm mại, nồng ấm của chị như một chia sẻ muộn mằn.
Không biết đêm đã qua chưa?
Những ngày mưa bão
Bão! Đêm mưa. Ngày mưa. Mưa rả rích, ậm ừ, lắt lay. Gió liu riu lạnh. Bầu trời cứ ngân ngấn nước. Mưa có lúc như oán giận, làm mình làm mẩy với ai, có lúc lại như lặng lẽ cam chịu. Nhớ câu hát cũ: “Đời từ muôn thuở tiếng mưa có vui bao giờ”. Vậy mà có đó.
Đó là những ngày mưa bão thâu đêm suốt sáng. Không đi sửa xe được, ba ở nhà lục mấy miếng cây vụn đóng đồ chơi, lấy ống hút dạy cho mấy chị em thắt “bánh ú” kết làm màn cửa, dạy chị hai nhồi bông gòn vào vải vụn làm búp bê, búp bê thiếu nữ Nhật mặc Kimono sặc sỡ. Ba lại tỉ mẩn ngồi xếp con diều bằng giấy tập học trò ho mấy đứa con trai.
Má không ra ruộng hái rau vì trời mưa, chợ ế, ở nhà lục đục đổ bánh xèo bằng bột mì. Bánh xèo da cuốn trong mấy đọt bạc hà non chấm nước mắm tỏi ớt ngon thấu trời đất.
Buổi trưa mấy cha con hè nhau tát nước. Nước trên trời đổ xuống. Nước dưới đất chui lên. Nước từ mấy thửa ruộng rau muống bên kia xóm tràn vào. Mảnh sân trước nhà như một dòng sông nhỏ gặp cơn lũ cuốn. Nước cuộn ào ào đổ xuống cái hà lãng. Thằng út cỡi truồng đứng ngập mông chỗ dòng nước xiết, nước cuộn vào “chỗ nhột”, nhột quá, nó khoái tỷ cười nắc nẻ. Chị hai thấy vậy xăn quần làm thử, bị ba cú cái cốc: “Lớn đầu hổng nên thân. Phụ ba tát nước nè”.
Buổi chiều mưa ngớt hột. Ngoài sân mấy con cá sặt từ dưới hà lãng lội ngược dòng nước lạch bà lạch bạch. Lũ trẻ reo hò. Ba làm chỉ huy thu  “chiến lợi phẩm”. Buổi tối, cơm nóng, cá sặt chiên giòn dầm nước mắm tỏi chấm rau muống luộc. No nê, cả đám lên giường trùm mền nghe má kể chuyện đời xưa. Đời xưa thiệt, đời xưa giả nghe mê hồn.
Má kể: “Hồi đó má còn nhỏ, chừng bằng chị hai bây giờ. Tối nào bà ngoại cũng gói bánh ít để sáng đem ra chợ bỏ mối. Má ngồi chơi bên ngoại trên bộ vạc cau. Ngó xuống đất thấy cái mặt vằn vện bự bằng cái nia chao qua, chao lại trên mặt đất, má sợ quá khóc thét lên kêu ngoại. Bà ngoại nhìn không thấy. Ông ngoại nhìn cũng không thấy. Không ai nhìn thấy. Chỉ một mình má thấy hoài. Cứ trời sụp tối là má hết hồn. Ông ngoại rước ông thầy cúng bên Long Hưng qua. Ổng lấy cây chổi cùn quét chuồng heo đập mấy cái lên đầu má, miệng niệm thần chú “ úm ba la ,úm ba la”. Đêm sau má vẫn thấy. Mỗi ngày cái mặt vằn vện càng thêm rùng rợn. Ông ngoại dọn nhà đi chỗ khác. Má hết thấy.
Căn nhà mới cửa day ra sông cái. Trước nhà là một khoảng sân rộng. Ở giữa sân có cái bàn ông thiên làm bằng mấy miếng vạt cau ghép lại đặt lên trên cái cháng ba cây gòn. Góc sân bên phải – chỗ đường ra mé sông – có cây mận xanh, trái bằng cái chung con rồng, da xanh miết, càng chín càng xanh, vỏ mỏng, ruột xốp, ngọt ngay. Gian nhà dưới cất kiểu chữ đinh, cũng day cửa ra mé sông. Ngoài cửa bước vô là đụng cái bàn ăn hình chữ nhựt kê dựa vô cái “trảng-xê”.
Một đêm, nhà chuẩn bị đám giỗ. Bà ngoại với mấy bà gói bánh ở nhà dưới.  Ông ngoại với mấy ông uống trà ở nhà trên. Má với dì ba ngồi học bài chỗ bàn ăn cơm.
Gió ngoài sông tạt vô dữ quá thổi tắt ngọn đèn dầu làm bằng cái lon thiếc. Má sợ quá khóc rum. Ông ngoại từ nhà trên xuống, bật cái ống quẹt đá xẹt xẹt cả chục cái lửa mới bắt vô được cục bông gòn, ngó quanh quất: “ Ủa! con Ba đâu rồi?”. Cả nhà tá hỏa đi tìm, ai nấy kêu khan tiếng cũng không thấy dì ba trả lời. Ông ngoại ra sân lật úp cái thùng thiết vỗ xèng xèng. Xóm trong túa ra. Xóm ngoài túa vô. Xóm bên kia sông lộp cộp chống xuồng qua. Kẻ trên bờ. Người lội rạch. Đuốc lá dừa đỏ rực nhấp nhá. Tiếng bàn tán xôn xao…
Bỗng má nghe như có tiếng thở đằng sau cánh cửa, tiếng thở nghe quen lắm. Má la lên: “Em nè ba ơi!”. Ông ngoại chạy vô. Người trên bờ ùa vào. Người dưới sông lóp ngóp bò lên. Bà ngoại kéo cửa ra. Dì ba đứng co ro, run lập cập, điếng hồn một hồi mới khóc ré lên. Mấy người đàn bà lao nhao, chỗ này nãy kiếm rồi mà, bà có kéo cửa ra hôn, có sao không, sao nãy không thấy.
Bà ngoại dỗ ngọt dì ba: “Sao nãy giờ má kêu con hổng dạ?”. Dì Ba lí nhí trong miệng: “Nghe má kêu con tính dạ mà bị ai bóp miệng lại, con dạ hổng được”. Mọi người đưa mắt nhìn nhau. Trong bụng ai cũng nghĩ dì ba bị ma giấu mà không ai nói ra. Sau đó, dì ba bị sốt mấy ngày li bì mê sảng ú ớ suốt đêm. Ông ngoại lại bàn chuyện dọn nhà đi chỗ khác”.
Má kể tới đó, mấy thằng nhóc sợ quá lấn nhau, vuột mền, níu qua níu, lợi, cãi lộn um sùm. Má không thèm kể nữa, vố cho mỗi đứa vào mông mấy cái bẹp bẹp. Cả lũ nằm êm re. Chẳng mấy chốc đã nghe tụi nó ngáy o…o…
Chị hai không sợ ma, nhưng không biết sao không ngủ được, nằm lăn qua lăn lại nghe tiếng mưa rơi nghĩ ngợi mông lung. Má lên tiếng: “Sao hổng ngủ đi Hai?”. Chị hai đẩy thằng út ra, nằm chen vào gần chỗ má: “Bộ có ma thiệt hả má?”. “ Ờ! Má cũng hổng biết, nhưng cái mặt vằn vện thì má có thấy thiệt. Dì ba bị ma giấu má cũng có thấy thiệt. Còn chuyện cậu tư… Ờ! bữa đó má hổng có ở nhà chỉ nghe kể lại”.
Chị hai bỗng thấy ớn sống lưng. Chị nhích sát vô người má. Hơi má ấm và tóc má thơm mùi xà bông Cô Ba làm chị thấy dễ chịu. Chị hỏi: “Chuyện cậu tư sao má?”.  Má ngáp cái ơ: “Ờ… Bữa đó, ông ngoại đang lui cui tát nước xuồng. Ông cầm cái bẹ chuối áp sát vô be xuồng tát nước ra sàn sạt. Cậu tư kêu tiếng nghe được tiếng mất: “Ba ơi! Con đi câu với anh hai Bọ nghe”. Ông ngoại lúc này đã ngừng tay. Mưa đêm qua rỉ rả hổng thấy gì mà nước muốn nửa xuồng, tát kiểu này biết chừng nào. Ông quăng cái bẹ chuối lên bờ, đứng dang chân lên hai bên be xuồng, lắc mạnh. Nước sóng sánh tràn ra ngoài. Ông trả lời cậu tư cũng tiếng được tiếng mất: “Ờ! Đi về sớm sớm nghe mậy”. Hồi ông ngoại nói câu đó cậu tư đã xách cần câu với cái đục đi qua khỏi gò đất đằng sau chuồng trâu rồi.
Chiều. Ông ngoại đi thăm ruộng về. Nắng đã tuột khỏi ngọn cây rơm cao lêu nghêu. Mấy con cò trắng táo tác dưới chân ruộng phóng lên lũ lượt có bầy. Nước theo tiếng con bìm bịp kêu đổ về mang theo mấy giề lục bình bông tím trôi lừ đừ. Chuông mõ công phu bên chùa bà vãi Thông chậm rãi buông từng tiếng một. Cậu tư chưa về. Ông ngoại hỏi vói sang nhà ông Năm: “Anh Năm ơi! Thằng Bọ đi câu về chưa anh Năm?”.Tiếng ông Năm ho khùng khục: “Thằng Bọ bữa nay vô trong xẻo Lá phụ giậm lúa với chị hai nó đâu có ở nhà mà đi câu”.
Vậy là mọi người lại một phen thất kinh hồn vía hơ hãi đi tìm. Cũng kẻ trên bờ, người dưới sông. “Sợ nó bị vọp bẻ, chớ cái thằng lội như rái sao mà chết chìm được”, mọi người nhốn nháo.
Má ngừng kể, trở mình đưa tay đấm vô lưng thùm thụp. Chị hai thò tay ra sau lưng má: “Con đấm cho. Má kể tiếp đi”. “ Ờ! Chừng con trăng non mỏng hơn cái lưỡi liềm lú lên khỏi ngọn cây lờ mờ tranh sáng tranh tối thì cậu tư xách cái đục cá thơ thẩn từ hướng vàm Long Thủy đi vô. Cần câu đâu hổng thấy, còn cái đục đựng toàn đất sét. Miệng cậu tư cũng toàn đất sét.
Mọi người tra hỏi, cậu nói, hồi sáng anh hai Bọ rủ con đi câu. Câu đầy một đục cá mới về. Về tới bụi trâm bầu, thấy chị sáu bưng xề bánh cồng bánh cam đi bán. Chỉ rủ ăn. Ngon quá, con ăn mấy cái cũng hổng nhớ, rồi lăn ra ngủ. Chừng thức dậy, thấy cứng ngắc một họng, móc ra toàn đất sét. Ông ngoại chạy qua nhà chị sáu. Chỉ nói, bữa nay con chỉ bịnh, chỉ hổng có đi bán.
Từ đó con nít trong xóm bị cấm không cho chơi chỗ bụi trâm bầu. Còn người lớn hổng ai cấm cũng làm như không có chuyện gì cần đi ngang chỗ đó. Bụi trâm bầu tha hồ mọc, gốc cả người ôm, rã tàn kín mặt ao”.
Mưa đã ngừng rơi, chỉ còn tiếng gió thổi rung rinh mấy tàu lá dừa làm rớt nước xuống mái nhà nghe lộp độp rời rạc. Bên ngoài đi -văng tiếng ba chép miệng: “Thôi nghỉ được rồi ông trời ơi. Mưa bão hoài chết đói hết con người ta”. Chị nghe má thở đều đều, thỉnh thoảng hắt một hơi mạnh ro ro trong cổ họng , biết má đã ngủ say.
Rồi trời cũng thôi bão. Nắng như những sợi tơ trời vàng óng giăng kín cả không gian. Vạn vật trở nên tươi tắn ấm áp. Khoảng sân trước nhà khô ráo mịn màng. Ba lại xách thùng đồ nghề ra lề đường đội nắng, đội gió, bàn tay lấm lem dầu mỡ. Má lại công chuyện suốt ngày không hở tay.
Không còn bão, không còn những ngày mưa lê thê, có nghĩa là không còn những ngày ba nghỉ làm ở nhà cắt giấy tập dán diều, lấy gỗ vụn đóng đồ chơi, làm trâu làm bò cho mấy thằng nhóc cỡi. Má không còn ở không đổ bánh xèo da gói đọt bạc hà chấm nước mắm tỏi ớt. Tối không còn trùm mền nghe má kể chuyện đời xưa, đời xưa thiệt – đời xưa giả. Thằng út tiếc quá ước gì bão hoài, bị má la: “Trông bão hoài đặng chết đói hả?”. Ba bênh thằng Út, rầy má: “Nó còn nhỏ, biết gì mà lo”.
Ba mươi năm sau, xóm nhỏ ngoại ô trở thành thị tứ. Không còn dấu vết mấy thữa ruộng rau muống. Hai cái ao sen lớn cũng không còn. Hàng phuợng vĩ già nua bị cắt ngọn cho dây điện cao thế chạy qua. Chỉ thấy toàn nhà cửa. Nhà lầu, nhà trệt, nhà lớn, nhà nhỏ, chen chúc, chồng chéo nhau như những đường chỉ tay ngoằn ngoèo trong sách tử vi của ông thầy Huỳnh Liên.
Ngày mưa bão, ba ngồi trong ngôi nhhà khang trang uống trà, nhìn ra khoảng sân ngắm những chậu bông giấy đỏ rực, tím ngắt. Giàn thiên lý trổ bông thơm ngát. Mấy giò phong lan đung đưa. Lan Vũ nữ nhảy múa xập xình. Lan Hồ điệp rập rờn như cánh bướm. Má nằm trên ghế bố coi truyền hình. Cô đào Lệ Thuỷ hơn năm mươi tuổi, giọng ca vẫn còn mượt mà truyền cảm, vóc dáng vẫn còn xuân sắc, diễn vai Tô Ánh Nguyệt, tới cái khúc ngồi thêu áo gối uyên ương, không biết coi bao nhiêu lần mà lần nào má cũng khóc.
Thằng cháu nội chạy vô khoe con diều bằng ni lông hình con bươm bướm với những hoa văn sặc sỡ mới mua ngoài tiệm hết hai chục ngàn. Ba nói: “Sao hổng nói ông nội dán cho khỏi tốn tiền”. “Đời giờ ai chơi diều bằng giấy tập”. Nó nghĩ trong bụng mà không dám nói ra. Chậc! Mưa hoài hổng biết sao thả diều nữa. Rầu thúi ruột!
Hết tuồng cải lương. Tô Ánh Nguyệt được con lại mất chồng. “Phụ nữ thời nào cũng khổ!”. Câu này má nói hoài. Ngoài trời mưa vừa ngớt hột nhưng vẫn không tạnh hẳn. Thỉnh thoảng hé một chút nắng rồi lại mưa, rồi lại nắng, rồi lại mưa. Má nói: “Mưa nấm mối nè ông”. Ba cười: “Má mày lẩn thẩn, nấm mối nào ở đây”. Má quay mặt đi, mắt ngân ngấn nước. Má giận ba. Chắc vậy. Không thèm nói chuyện với ba nữa, má gọi con cháu ngoại lại nằm gần nghe bà kể chuyện đời xưa. Con bé phụng phịu: “Mấy chuyện đó cô giáo kể rồi”. Nói xong nó chạy tuốt lên lầu.
Bây giờ chỉ mình chị hai là còn thích nghe má kể chuyện đời xưa, thích nằm gần má để nghe hơi má ấm, tóc má thơm. Chỉ tiếc là không phải mùi xà bông Cô Ba như hồi đó. Cái cục xà bông màu xanh ngọc bích in hình cô Ba búi tóc đã quá vãng tự lâu rồi, nhưng mùi thơm của nó cứ dịu dàng gợi nhớ trong chị mỗi lần nằm bên má. Tuổi già của má nhờ có chị mà vui. Còn chị hai nhờ có má mà còn chỗ quay về. Thằng Út nói: “ Nhà này có hai bà cụ. Bà cụ già là má. Bà cụ non là chị hai”. Chị hai cười hiền khô. Nụ cười một thời làm đứt ruột mấy anh hàng xóm. Má liếc thằng út: “Mày nói chị mày vậy hả? Hồi đó một tay nó bồng ẵm, tắm rửa mày đó nghe. Thằng quỷ sứ”. Thằng út ráng cãi: “Vậy mà bày đặt chê sếp con già. Lựa qua lựa lại riết, hổng có một góc tư tình vắt vai với người ta”.
Biết thằng Út nói chơi sao chị hai vẫn thấy chạnh lòng. Nó nói vậy là nói thách cho chị hai rồi. Thật ra, chị cũng đã từng có hơn một góc tư tình đó chớ, bằng hai lần như vậy lận. Nói cho đúng hơn, chị cũng từng có một mối tình. Người ta yêu chị bằng nửa trái tim, cho chị phân nửa hạnh phúc và lấy đi của chị hết nửa cuộc đời. Chị biết ngay hồi chị mới yêu anh. Anh không hề giấu chị. Chị vui vẻ chấp nhận thứ tình yêu ngọt ngào mà anh ban tặng cho chị giống như người ta ăn một trái bắp có tẩm đường hoá học. Biết ăn vô lâu ngày lục phủ ngũ tạng sẽ “banh ta-long” nhưng vẫn ăn, bởi vì nó ngon, nó sướng miệng. Còn hơn phải cạp ba cái thứ lôm côm lạt lẽo, xảm xì dù biết nó vô hại. Chị nói: “Ở đời làm gì có cái vừa ngon lại vừa lành”. Thằng út: “Xí! Tại chị không biết kiếm”. Má can: “ Thôi! tại cái số chị hai mày nó vậy”. Ba nghe, nói huề trớt: “Con gái bày đặt văn chương thơ phú cho dữ vô, chỉ khổ cái thân”.
Sau lần đó, chị hai về ở với má. Chị không trách ai hết, không giận ai hết. Nhưng thỉnh thoảng cũng thấy tội nghiệp cho mình. Nhất là vào những ngày mưa bão lê thê, nỗi cô đơn cứ như một thứ dây leo còn sót lại một mắt rễ, chỉ chực mưa xuống là vươn vòi quấn riết lấy con tim bé nhỏ yếu ớt của chị. Nhìn mưa chị khóc. Trùm mền bít chịt nghe mưa, chị cũng khóc. Vậy sao hồi nhỏ ước trời mưa bão hoài hổng biết.
Biết chị hai chưa quên người cũ, má không còn hát ru câu “trồng trầu” mỗi bận đưa con thằng Út ngủ, sợ chị đau lòng. Chị hai lại sà vào lòng má, lại bắt má kể chuyện đờì xưa. Đời xưa thiệt, đời xưa giả. Chuyện đời xưa của má đi vào thơ vào truyện của chị.
Chữ nghĩa làm tâm hồn chị cứng cáp hơn lên. Chị không còn chảy nước mắt khi má hát lại câu “Trồng trầu thì phải khai mương…”. Chị cũng không còn sợ những ngày mưa bão triền miên. Mỗi khi nhớ anh chị quẹt ngang nước mắt đứng dậy mỉm cười. Nhớ câu anh hay nói: “Tự mình ngã, tự mình phải đứng dậy”. Còn chị, chị bị người ta xô ngã mà cũng ráng tự đứng dậy, có sao đâu. Chị thấy mình không còn nông nổi dại khờ cả tin. Chắc là nhờ có những câu chuyện đời xưa của má.
Năm tiếp quản, chỗ bụi trâm bầu ngoài vàm Long Thuỷ nhà nước cho xây cái đài tưởng niệm bên trong dựng tấm bia ghi dòng chữ: Nơi này từ năm 1969 đến 1975 là nơi hội họp của Đảng bộ huyện.  Cạnh đó là một tấm bia khác ghi tên liệt sĩ, trong đó có tên cậu tư. Cả nhà mới vỡ lẽ, bữa đó không phải cậu tư bị ma dắt cho ăn đất sét. Té ra là không có ma. Nhưng chị hai không tin. Chị nhất định: “Không có ma quỷ thần thánh làm sao có truyện cổ tích. Không có truyện cổ tích lấy gì má kể cho nghe”. Ờ! mà thiếu gì chuyện cổ tích không có ma, sao chị hai nói vậy. Cũng như chuyện tình của chị hai, mai mốt cũng trở thành cổ tích: “Ngày xưa, có hai người yêu nhau tha thiết nhưng chàng trai chỉ có một trái tim mà phải xếp chỗ cho hai người phụ nữ. Anh cứ loay hoay mãi với lẻ công bằng mà tình yêu thì không cân đo đong đếm được. Nên rốt cuộc có một người thua thiệt lặng lẽ buồn hiu quay về với má, nghe má kể chuyện đời xưa.
27/1/2025
Ngô Thị Thu Vân
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mùa thi - Mùa nhớ lan man

Mùa thi - Mùa nhớ lan man…! Khi viết những dòng này thì bên ngoài các cháu học sinh lớp 12 - những cô cậu tú tương lai - đang rộn ràng “k...