Lãng du trong văn học Hy Lạp - Pháp - Trung Quốc
Lãng du trong văn học Hy Lạp
Theo nhà sử học Herodote thì
nhà thơ Hy Lạp cổ đại Homer (810-730? tr.CN) sống vào thế kỷ IX
trước Công nguyên. Ông là người được coi là tác giả 2 bản anh hùng
ca nổi tiếng “Iliat” và “Odysses”. Cũng theo Herodote thì
Homer sinh ở Smyrne (Ionie), thân mẫu người Eodie. Lớn lên nhờ quen
biết một chủ tàu thủy chở khách nên được theo tàu đi đó đây. Sự hiểu
biết của ông cũng nhờ đó được mở rộng, ông biết sâu sắc về truyện
phiêu lưu của Ulysse. Homer từng đi du lịch khắp miền Địa Trung Hải, từng sống ở
Ithaque, Colophon, Eolie, Chio. Về sau, ông bị đau mắt nặng và mù. Ông
lang thang kiếm sống đó đây bằng làm thơ, kể chuyện. Ông ốm chết ở đảo Ios và
được chôn cất trên bãi biển.
Homer - Cha đẻ của văn học
Hy Lạp
Iliat có nghĩa: Bài ca về
thành Troy. Tác phẩm có 24 khúc ca với 15.693 câu thơ về đề tài “Chiến trận”,
kể lại lịch sử 9 năm trước cuộc chiến tranh Troy, kể lại diễn biến cuộc vây hãm
thành Troy của viên tướng kiệt xuất Hy Lạp Achilles. Viên tướng này bất bình với
việc viên chủ tướng Agamenon cướp đọat một nữ tỳ chiến lợi phẩm, bèn đình chỉ
chiến đấu và ở lỳ trong lều. Viên tướng Achilles hết sức xúc động
khi nghe tin bạn thân của mình bị quân Troy giết chết, liền đốc quân xuất trận,
giết được chủ tướng quân Troy - hoàng tử Hector để báo thù cho bạn mình. Sử
thi Iliat tả sự khao khát lập công, tài năng xuất chúng, sự hy sinh
cao cả của Asin (phía quân Hy Lạp), của Hector (phía quân thành Troy).
Odysses có nghĩa: Bài ca về
chàng Odysses. Tác phẩm gồm 24 khúc ca với 12.110 câu thơ với đề tài “Trở về”,
kể về cuộc phiêu bạt 10 năm của chiến binh Hy Lạp Ulysses (Odyssey) trên đường
trở về quê hương Hy Lạp: Trên đường đi, Odysses chọc mù con mắt độc nhất người
khổng lồ Polypheme- con của thần Đại Dương Poseidon, nên bị thần Đại dương thù
ghét. Chuyến trở về của Odysses vì vậy gặp nhiều trở ngại và kéo
dài.
Bielinski đánh giá:
- Homer là cha đẻ
của văn học Hy Lạp.
Aeschyle/Eschyle (525-456
tr. CN) là nhà viết bi kịch Hy Lạp cổ đại. Trong cuộc chiến
tranh của khối liên minh các thành bang Hy Lạp chống quân xâm lược
Babylon (Ba Tư) vào những năm 500-449 trước Công nguyên, Eschyle là một chiến
sĩ, đã tham dự các trận đánh lớn như Marathon (490TCN); Salamine (480 TCN);
Plate (479 TCN).
Eschyle viết cho sân khấu
lúc còn rất trẻ, nổi tiếng khắp vùng Địa Trung Hải. Eschyle
có cống hiến lớn đối với sân khấu Hy Lạp cổ đại. 13 lần ông được giải nhất
trong hội thi diễn kịch hàng năm ở thành bang Athen. Ông viết 80 vở
kịch. Bi kịch của Eschyle được sao chép lại, được lưu giữ trong một
đền thờ. Rất tiếc, hầu hết bị thất lạc, ngày nay chỉ còn
lưu lại 7 vở kịch: 50 cô gái chạy trốn khỏi Ai Cập, đến Argos xin sự che chở của
vua Peélasgos là vở kịch “Những người thiếu nữ cầu xin”; Sự kiêu ngạo
của vua Xerxés đã dẫn tới thất trận của quân đội Ba Tư ở Salimine là vở kịch “Quân
Ba Tư”; Tả cảnh huynh đệ tương tàn giữa Etéocle và Polynice để
tranh ngôi vua ở thành bang Thebes là vở bi kịch “Bảy tướng
đánh thành Thebes”; Ca ngợi tự do của con người là vở kịch “Prometheus
bị xiềng”; bộ ba bi kịch liên hoàn Oresteia gồm câu
chuyện vua Agamemnon bị vợ là Clytemnestre và tình nhân của vợ là Egisthe giết
là vở kịch “Agamemnon”; Câu chuyện trả thù cho cha - vua Agamemnon của
Oreste. Nhân lúc làm lễ dâng rượu, muá hát xung quanh lăng vua
Agamemnon, con trai của nhà vua là Oreste đã giết Egisthe và giết luôn cả mẹ là
vở kịch “Những thiếu nữ dâng rượu”; Oreste bị các nữ thần
đuổi bắt để trừng trị vì tội giết mẹ, nhưng nhờ sự can thiệp của nữ thần Athen
nên các nữ thần ân đức mới nguôi giận và tha không trị tội là vở kịch “Những nữ
thần ân đức”.
Huyền thoại về cái chết của
Eschyle
Có con chim phượng hoàng tha
một con rùa. để ăn được thịt rùa, nó bay lên thật cao, rồi thả con mồi rơi xuống
tảng đá để bể mai. Đúng lúc chim bay qua thì Eschyle đi tới. Chim tưởng
cái đầu hói kia là tảng đá liền thả rùa xuống. Rùa rơi trúng đầu
Eschyle. Ông choáng váng ngã và không bao giờ đứng dậy.
Aeschyle từng tham gia các
trận đánh ở Marathon (490 tr. CN), Salamis (480 tr. CN),
Plateae (479 tr. CN). Aeschyle được mệnh danh là “nhà thơ
của thời kỳ dân chủ hình thành”. Trên mộ chí của Aeschyle khắc dòng chữ: - Nơi
đây con trai của Euphorion - Aeschyle yên nghỉ. Thi sĩ sinh ở
Attique và qua đời trên cánh đồng mầu mỡ Géla. Người Mèdes tóc
dài và khu rừng thiêng Marathon sẽ nói lên đầy đủ lòng dũng cảm của
thi sĩ. Mộ và tượng Aeschyle là nơi các thi nhân đương thời hay đến thăm hết sức
kính cẩn.
Người làm nên lịch sử - Người
anh hùng thời đại
Trong lịch sử văn minh nhân
loại, việc phát hiện và sử dụng lửa là một mốc quan trọng. Từ đó con
người biết nấu chảy kim loại, chế tác các dụng cụ lao động, các loại vũ khí v.v… Thời
Aeschyle, người làm nên lịch sử là người đứng mũi chịu sào, người vì sự sinh tồn
của cả cộng đồng mà hành động, chấp nhận hy sinh. Sự hy sinh ấy được
coi là nghĩa vụ thiêng liêng và đồng thời chính là bi kịch của người
anh hùng. Vở bi kịch “Prometheus bị xiềng” là vở kịch nổi tiếng nhất
của Aeschyle. Prometheus vì tội ăn trộm lửa nên bị thần Zeus phạt, bị
xiềng bằng xích trên ngọn núi. Người anh hùng Prometheus nói:
- Phải,
chính ta cố tình phạm tội. Việc đó ta không chối cãi. Chính
vì muốn cứu vớt loài người, nên ta tự mình chuốc lấy đau khổ hôm nay.
Để tri ân ngọn lửa đã mang lại
hạnh phúc, đã sưởi ấm trong đêm đông giá lạnh, con người đã tôn thờ lửa là lửa
thiêng, đã tưởng tượng, sáng tạo ra nhân vật Prometheus.
Những cách tân của Eschyle
Aeschyle là nhà thơ bi kịch
Hy Lạp cổ đại. Trước Aeschyle kịch Hy Lạp chỉ có một diễn viên và
mang tính tự sự. Ông tách ở đội đồng ca ra một diễn viên nữa - diễn
viên thứ hai - nhờ có diễn viên thứ hai này đối thoại nên
kịch tính mới phát triển. Ngoài ra ông còn cách tân mặt nạ, dàn cảnh, trang
phục diễn viên. Ông cũng là người dựng những cảnh trí đa dạng, đưa
lên sân khấu những hoạt cảnh nhảy múa lớn. Bi kịch (tragedia) phơi
bày xung đột sâu sắc, căng thẳng đến tột đỉnh. Nó có tính
thống thiết (pathétique) khi giải quyết những vấn đề lịch sử mang tính vận mệnh dân
tộc (cộng đồng), bao giờ cũng có kết thúc bi thảm, gây ra xung đột nội tâm mạnh
mẽ ở khán giả. Bi kịch của Eschyle phản ánh bản chất tiến
trình lịch sử của đất nước Hy Lạp. Eschyle được Engels (Anghen) đánh
giá là “người sáng lập nền bi kịch Hy Lạp”.
Trong tác phẩm của mình,
Eschyle ca ngợi chính nghĩa, khẳng định ý chí của con người, biểu dương lý tưởng
yêu nước, dân chủ. Vì vậy ông được người đời đánh giá là “nhà thơ của thời kỳ
hình thành nền dân chủ nô lệ”
Sophocle
Sophocle/Sophocles(496-406
tr. CN) là bi kịch gia lớn của Hy Lạp cổ đại. Ông sinh ở
Colonus gần thành bang Athen.
Sophocle viết 120 bi kịch,
ngày nay chỉ còn lưu giữ được 7 vở kịch. Trong số đó có bi kịch gia đình nhà
vua Créon. (Antigone vì chống lại vua Créon nên bị chôn sống, con trai vua
Créon là Hémon lại yêu Antigone, người yêu chết, Hémon tự tử. Đau khổ vì con
trai chết, hoàng hậu buồn mà chết), “Antigone (442 tr.CN); Oedipus
làm vua” (430 tr.CN) tả cảnh Oedipus không hề hay biết việc giết người đàn ông
kia chính là giết cha, lấy Jocaste chính là lấy mẹ đẻ. Đến khi biết,
Oedipus hối hận, móc hai mắt mình và tự đày mình biệt xứ “Oedipus
ở Colonus”, “Electra” (420 tr. CN) là câu chuyện trả thù cho cha của
Electra và em trai Oreste; “Ajax” (415 tr.CN) là câu chuyện
giết người khi nổi giận của chàng Ajax. Nữ thần Athen làm cho Ajax điên
loạn, cứ nhằm cừu và dê mà giết. Tỉnh lại sau cơn chém giết vô bổ, Ajax tự
tử; “Philocetes” (409 tr.CN) là câu chuyện lấy được thành Troy của
tướng Philocetes nhờ những mũi tên thần của Heracles. Nổi tiếng là
bi kịch “Antigone”, “Oedipus làm vua”.
Theo các nhà sử học, người
tiền sử sống ở Hy Lạp có niên đại lên tới 100.000 năm. Những nền văn
minh sơ kỳ là văn minh Cyclades (xuất hiện trên quần đảo
Cyclades từ năm 3.000 tr. CN đến 1500 tr. CN); Văn minh
Minos (tập trung trên đảo Crete từ 3.000 đến 1400 tr. CN) là một cường
quốc biển hùng mạnh có quan hệ buôn bán với Syria, Tây Ban Nha, Ai Cập. Văn
minh Mycenaé (trên đảo Peloponnesus, từ 1650 đến 1150 tr. CN) là thời đại Anh
hùng trong loch sử Hy Lạp, thời kỳ xảy ra cuộc chiến thành Troy (được
miêu tả trong Anh hùng ca Iliad của Homer).
Vào những năm 800 tr. CN,
việc các làng xã biệt lập tập hợp lại với nhau, phát triển thành những
cộng đồng độc lập với hệ thống chính quyền riêng đã tạo nên sự ra đời
các quốc gia thành bang như Corinth, Thebes, Delphi, Sparta,
Olympia.
Quốc gia thành bang Athen nằm
ở bán đảo Attikas. Athen là một bình nguyên nằm lọt thỏm
giữa dãy núi Hymette, núi Pentelique và núi Parmès, đồi Acropole, đồi
Lycabette. Chảy qua Athen có sông Cephise và sông Ilissos. Athen
cách biển 5 km, cách cảng Piraeus 8 km. Trong thành bang Athen có nhiều
đồi, nổi tiếng là đồi Areopag, đồi Nymphen. Nằm giữa
trung tâm thành bang Athen là núi đá vôi Akropolis cao 156 mét. Tường thành bao
bọc Athen được xây vào những năm 461-456 tr. CN.
Athen nổi lên như một quốc
gia thành bang hùng mạnh và trở thành trung tâm chính trị và văn hoá
của Hy Lạp sau trận đánh ở Marathon chống quân Ba Tư năm 490 tr. CN và sau trận
đánh ở Salamis, Platea chống quân Ba Tư năm 480 tr. CN. Trong
Thời đại Vàng của Athen, khoa học, nghệ thuật, triết học, kiến trúc phát triển
mạnh và thành chuẩn mực cho các nền văn minh châu Âu sau này. Athen trở thành
cái nôi của nền văn minh cổ điển. Thời đại Vàng này đồng thời là kỷ nguyên của
văn học với Homer, Sophocle, Aeschyle, Euripides, là kỷ nguyên triết
học với Socrates, Plato.
Quân địch cũng ngưỡng mộ Sophocle
Kết cấu kịch chặt chẽ, đối
thoại sắc sảo, giàu kịch tính là những đặc điểm trong kịch của Sophocle. Những
đối thoại làm tăng kịch tính tạo nên “những sấm sét tâm lý” hết sức
hồi hộp và đầy hứng thú. Sophocle cho rằng:
- Kịch phải thực
sự là hình ảnh của cuộc sống.
Tương truyền, giữa lúc thành
bang Athen bị vây hãm, bốn bề không có lối thoát thì được tin Sophocle tạ thế. Địch
quân đã mở một lối đi, đứng kính cẩn nghiêng mình chào tiễn
nhà thơ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Trên mộ của Sophocle có chạm hình
mỹ nhân ngư tượng trưng cho lối thơ duyên dáng, tươi sáng của thi
sĩ.
Euripides
Euripides (480-406 tr. CN)
là nhà viết bi kịch của Hy Lạp cổ đại. Ông có kiến thức rộng, từng học
tập và giao du với nhiều người nổi tiếng đương thời như nhà triết học
Anaxagoras, nhà ngụy biện Protagoras (hai người này bị chính quyền đương thời
coi là những người lập dị). Euripides sáng tác khi 25 tuổi. Ông sống
ở Athen đến năm 408 trước Công nguyên, sau đó sống ở Pella dưới triều của vua
Archelaus xứ Macedonia và mất ở đây năm 406 trước Công nguyên.
Kịch của Euripides miêu tả
các dục vọng của con người. “Electra” (413 tr. CN) là câu chuyện người con gái
hiếu thảo, trả thù vì công lý; “Medea” (431 tr. CN) là câu chuyện một
người đàn bà đánh ghen, giết tình địch, rồi giết luôn bay con của mình., “Hecuba”là
câu chuyện tình mẫu tử. Hecuba đau khổ vì cảnh chồng chết, các con
chết gần hết chỉ còn Polyxène và Polydore. Nhưng Polyxène bị vua chúa dùng
làm tế sinh. Polydore lại bị vua Polymestor lệnh quăng xuống
biển. Đau đớn, hận thù, quả phụ Hecuba móc mắt vua
Polymestor và giết con nhà vua này; “Iphigenia ở Aulis” là câu chuyện
nhà vua tế sinh con gái Iphigenia để xin thần Artémis phò hộ cho đoàn thủy quân
trong cuộc viễn chinh đánh thành Troy; “Cyclops” là kịch châm biếm
chàng khổng lồ một mắt Polyphème.
Euripides là chứng nhân của
những rối ren trong xã hội, sự tan rã của nền dân chủ Athen. Qua
các bi kịch của mình, Euripides phản ánh hiện thực xã hội dân chủ chủ nô ở thời
kỳ tan rã, đánh giá chân xác tôn giáo, thần thánh, xã hội, chiến
tranh, nhân tình thế thái. Trong kịch của ông đã thấy sự hoà quyện
Cái Hài với Cái Bi. Trọng tâm kịch của ông là thân phận con người, vận mệnh dân
tộc. Ông là người sáng tạo ra “loại kịch tâm lý”, là “nhà thơ bi thảm nhất
trong các nhà thơ”, là “họa sĩ vĩ đại” qua mô tả vẽ lên dục vọng của
tình yêu và long ghen tuông. Vì vậy các nhà phê bình đánh
giá:
- Toàn bộ
sáng tác của Euripides là một bộ bách khoa toàn thư về xã hội Hy Lạp cổ đại.
Aristophanes
Aristophanes (445-386 tr.
CN) là hài kịch gia Hy Lạp . Aristophanes viết
tất cả 44 hài kịch. Ngày nay chỉ còn lưu laị 11 vở kịch. “Kỵ sĩ” (Les Chevaliers, 424 tr.CN) là kịch công kích chính sách mị
dân của Cleon; “Mây” (Nephelai, 423 tr.CN) là kịch đả phá Sokrates
và phái ngụy biện; “Ong bò vẽ” (Sphekes, 422 tr.CN) là
kịch giễu cợt tính ưa kiện cáo của dân Athen; “Hoà bình” (Eirene, 421
tr.CN) là kịch đả phá chiến tranh; “Chim” (Ornithes,
414 tr. CN) là kịch đả phá những tổ chức chính trị, hành chính thành bang
Athen; “Lysistrata” (411 tr.CN) là kịch kết tội kẻ gây ra chiến
tranh Pélopennèse làm Athen trở nên điêu tàn, kể về việc phản kháng
của phụ nữ, làm cho các ông chồng ở hai bên tham chiến phải giảng hoà; “Ếch
nhái” (405) là kịch phê bình văn chương, công kích Euripides; và các vở kịch “Hội
đồng nữ giới” (392); “Plutus” (388 tr. CN); “Lễ tế
thần” (411); “Người Archrnien” (425 tr. CN);
Lịch sử và hài kịch của
Aristophanes
Trong số 11 vở kịch của
Aristophanes còn lưu giữ tới ngày nay có 5 hài kịch châm biếm chính trị; 2 hài
kịch phê bình văn chương, số còn lại thuộc về triết học và xã hội. Kịch
của Aristophanes phản ánh đầy đủ hiện thực xã hội, chế độ chính trị ở
quốc gia thành bang Athen. Plato nói:
- Ai
muốn biết lịch sử quốc gia thành bang Athen chỉ cần đọc hài kịch của
Aristophanes là đủ.
Nguyên văn tiếng Hy Lạp thì
tên nhà ngụ ngôn Hy Lạp cổ đại viết là Aisopos. Người ta biết
rất ít về cuộc đời người nô lệ (ở đất Phrygie thuộc Tiểu Á) được giải phóng tên
là Esope (thế kỷ 6 tr. CN), vì vậy đời Esope mang nhiều nét truyền thuyết. Ông
từng đi chu du Athen, Corinth, Delphes.
Hổ chết để lại da,người ta
chết để lại tiếng
Esope dị hình (gù lưng, bụng
phệ, tay ngắn, răng thô, mũi hếch, da đen) đã thế lại nói cà lăm. Theo
luật bù trừ của Tạo hóa, bù lại các khiếm khuyết ấy, Esope có trí thông minh
tuyệt vời và tài ứng đối sắc sảo. Hình như câu nói:”Dị dạng kỳ tài”cũng có lý của
nó trong trường hợp Esope. Ngụ ngôn Esope mở đầu cho truyền thống ngụ
ngôn trong văn học dân gian và văn học bác học ở châu Âu và Arập.
Planude (thế kỷ XIV) đã sưu
tập truyện ngụ ngôn viết bằng văn xuôi tiếng Hy Lạp của Esope và cho xuất bản
trong cuốn sách “Cuộc đời Esope”. Theo Planude, ngụ ngôn của Esope là những câu
chuyện rất ngắn gọn, không hề có tham vọng văn chương, kết thúc bằng một bài học
luân lý. Ngụ ngôn của Esope có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần
đương thời. Phải chăng vì thế mà có hiềm khích không
tuyên chiến với các thầy Tư tế của tôn giáo đương thời. Esope bị vu cáo đã xúc
phạm đến việc thờ cúng ở đền Apollo ở thành phố Delphes, bị ném từ trên
núi cao xuống vực thẳm. Thần Apollo (theo Thần thoại Hy Lạp thì Apollo là Thần
Anh sáng) bất bình trước hành động tàn bạo đó, đã giáng bệnh dịch xuống trừng
phạt dân thành phố Delphes (nguyên văn tiếng Hy Lạp là Delphoi, tiếng Đức lại
là Delphi, tiếng Pháp là Delphes).
Cái hóm của Esope
Trong một buổi dạ tiệc, những
người cùng ăn một bàn đố nhau và giải câu đố như các nhà thông thái hay
làm. Chủ của Esope cũng tham gia, nhưng tranh cãi (lấy được) như ở
trường học.
Thấy chủ mình không có lý mà
cứ hăng tiết, Esope nói:
- Khi Tửu
thần ban tặng rượu cho con người thì giót cho 3 ly và chỉ cho cách uống: ly thứ
nhất cho khẩu vị; ly thứ hai cho sự vui vẻ; ly thứ ba cho sự tức
khí. Ông chủ đã uống cạn 2 ly cho khẩu vị và cho sự vui vẻ. Nếu
ông chủ muốn tức khí thì hãy đến trường học.
Các câu chuyện ngụ ngôn hay
nói về vật, nhưng ngụ ý rút ra một bài học luân lý cho con người. Theo
Esope cái gì cũng phải học, kể cả khi đã già:
- Hãy đừng
ngượng học hỏi khi về già: học muộn còn hơn là không bao giờ.
Trong cuộc sống, Esope
khuyên nên biết chia vui với thành công của người khác:
- Nếu ai đó
gặp may, đừng ghen tỵ với anh ta mà hãy chia vui cùng với anh ta.
Thành công của anh ta cũng là của bạn. Kẻ nào ghen tỵ, kẻ đó tự hành hạ mình.
Esope còn cho ta một
lời khuyên về cách đối nhân xử thế giữa kẻ mạnh người yếu:
- Hãy quan
tâm tới kẻ hèn yếu, ban phước cho họ để họ không những chịu khuất phục
bạn, mà còn tôn trọng bạn như một người tốt bụng.
Theo Esope, thì hiểu biết
mang lại nguy hiểm, nên khuyên:
- Những gì bạn
nghe thấy nơi cung đình thì hãy để chúng chết đi trong thâm tâm bạn, còn hơn là
bạn phải chết yểu.
Ông bảo:
- “Kẻ xấu
xa” đang và sẽ làm việc ác, không vì một cái gì cả.
LỜI BÌNH: Theo
nhiều học giả về Hy Lạp, Homer là nghệ sĩ dân gian có công sưu tầm, chỉnh lý những
tác phẩm còn truyền miệng hồi đó như bài ca truyền thuyết
“Chiến tranh thành Troy”, “Ilias”, “Odysse”. Những truyền thuyết này mãi lâu
sau mới được ghi lại bằng văn tự in thành sách.
Hai bản anh hùng ca “Iliat”,
“Odysses” từng được coi là thánh kinh của người Hy Lạp, thường được nhắc tới
khi nói về văn học thế giới. Hai bộ sách “Ilias” và “Odysse”
vừa có giá trị văn học, đồng thời lại có giá trị sử học, nên được gọi là Sử
thi. Nó phản ánh trình độ văn minh, phong tục tập quán, quan niệm về
đạo đức, tôn giáo của Hy Lạp cổ đại. Hai sử thi trên có ảnh hưởng to
lớn đến văn hóa, giáo dục, được xem là nền tảng đạo đức, là những tác phẩm văn
học mẫu mực cho những thế hệ sau ở Hy Lạp. Bielinski đánh giá:
- Homer là cha đẻ
của văn học Hy Lạp.
Sophocle sống trong thời kỳ
thành bang Athen phồn thịnh nhất, dưới một chính quyền dân chủ đem lại cho mọi
công dân ý thức trách nhiệm. Trong khi Aeschyle nói tới quyền lực của
thần minh trong kịch thì ta thấy trong kịch của Sophocle động cơ tâm lý quyết định
số phận nhân vật, qua đó quan hệ con người trong kịch trở nên thật hơn, tình tiết
dẫn đến cốt truyện phong phú hơn, ngôn ngữ gần với đời sống hàng ngày, ý nghĩa
nhân văn được đề cao lên một bước.
Sophocle được mệnh danh là
“nhà thơ của thời kỳ dân chủ cực thịnh – thời đại Péricles”. Trong số
6 người con của ông có Iophon, Ariston cũng là những nhà viết bi kịch nổi tiếng
Trong gần 50 năm sáng tác,
Euripides viết 90 vở kịch, ngày nay còn lưu giữ được 18 vở. Kịch của
ông đề cập đến nhiều vấn đề chính trị đương thời, các xung đột tâm lý-xã hội
như vị trí của phụ nữ, vấn đề nô lệ. Kịch của ông phản ánh cuộc khủng
hoảng xã hội, chiến tranh liên miên làm tinh thần của Athen bị giảm sút, dẫn tới
sự suy tàn của quốc gia thành bang Athen.
Lúc đương thời, kịch của
Euripides không được hoan nghênh. Euripides là hậu sinh của
Aeschyle gần nửa thế kỷ, của Sophocle gần 20 năm. Ông sống
trong thời kỳ đầy biến động: mâu thuẫn giữa các phe phái. Quân Sparta xâm lược,
Athen dân chủ thua, một nền chuyên chế độc đoán thay thế. Vì vậy
ông được mệnh danh là thi sĩ thời kỳ dân chủ Athen suy tàn. Aeschyle,
Sophocle, Euripides là ba bi kịch gia lớn của Hy Lạp cổ đại.
Hài kịch Hy Lạp xuất hiện
sau bi kịch một nử a thế kỷ. Aristophanes được coi là cha đẻ của hài
kịch.Ông là người hay luận chiến. Aristophanes là
người phát ngôn của nông dân bảo thủ chống lại tham vọng của nhóm thiểu số cầm
quyền, chống bạo lực, chính sách mị dân. Aristophanes dùng kịch làm phương tiện
đấu tranh chính trị. Trong kịch của ông đan xen cái thi vị có cả cái
thô tục. Kịch ông được đông đảo công chúng hâm mộ.
Hai kịch gia Pháp Racine và
Maurice Donnay đều có chịu ảnh hưởng ít nhiều ở Aristophanes. Ngày
nay, hài kịch “Plutus”, “”Chim” của
Aristophane vẫn được công diễn trên sân khấu Paris, Pháp.
Esope để lại cho đời sau 400
ngụ ngôn. Ngụ ngôn của Esope được mến mộ ngay từ thế kỷ V trước Công
nguyên, được đưa vào tất cả các nền văn học ở châu Âu và Arập, được Demetrios
sưu tập,; được Babrias kể lại bằng thơ. Ngụ ngôn Esope trở thành mẫu
mực cho các nhà ngụ ngôn các thế hệ sau này, trong số đó có Phedre, La
Fontaine.
Homer, Euripides,
Aristophanes, Esope, Sophocle là những người làm nên nền văn học
nhân văn “tiêu chuẩn và mẫu mực”. Văn học Hy Lạp cổ đại với hệ thống các thần
là nguồn cảm hứng vô tận cho sự phát triển của văn học phương Tây. Thực
ra làm gì có thần. Cũng chưa ai nhìn thấy thần. Chưa ai từng sống ở
vương quốc của các thần. Người Hy Lạp cổ đại tránh né việc động chạm trực tiếp
với con người trần tục nên đã dùng một “tấm gương” cực kỳ lớn để soi chiếu đời
sống xã hội Hy Lạp với tất cả vẻ đẹp cùng những xấu xa dơ bẩn. Họ gắn
cho mỗi thần một số khả năng , đức tính cùng thói hư tật xấu mà ai cũng thấy ở
xã hội người Hy Lạp, rồi bảo những gì con người ngước mắt nhìn thấy trong gương
là thần và những chuyện của thần. Từ vua chúa đến thần dân, ai ai cũng cho là
như vậy và chẳng ai nổi giận khi thấy thói hư tật xấu, vì ai cũng cười
xoà cho đó không phải là lỗi của mình. Ai cũng biết văn học phản ánh hiện thực.
Nhưng người Hy Lạp cổ đại lấy sân khấu (hiện thực được hư cấu) làm nơi nghe dư
luận xã hội, dân chúng để lựa chọn những mô hình xã hội phù hợp. Điều
này ta thấy rõ nét trong cuộc sống, lối nghĩ và hành động của các nhà thông
thái Hy Lạp cổ đại. Hy Lạp là một trong những nền văn minh rực rỡ nhất
thời cổ đại, có ảnh hưởng sâu rộng đến nền văn minh quanh khu vực Địa Trung Hải.
Đây là nơi ra đời của nền dân chủ, triết học phương Tây và Thế vận hội Olympic.
Khi trong xã hội Hy Lạp
không còn tự do và dân chủ thì cũng là lúc văn học nghệ thuật Hy Lạp từ từ tàn
úa. Từ khi Hy Lạp giành được độc lập từ tay đế chế Ottomanmn Thổ Nhĩ
Kỳ năm 1829, đất nước này đã trải nghiệm nhiều hình thái chính phủ nhưng vẫn
chưa tạo ra được một thời vàng son như trong quá khứ - thời cổ đại. Hy
Lạp đang nỗ lực để mong có được một chỗ đứng trong cộng đồng châu Âu.
Lãng du trong văn học Pháp
13 năm lưu diễn là thời gian
để Molière (1622-1673) học hỏi ở Trường đời, là vốn sống đầy sinh động cho việc
sáng tác khi bước lên vũ đài sân khấu Pháp. Molière đã
đưa kịch hề dân gian bắt chước kịch hề của Italia thành hài kịch
mang tính dân tộc Pháp, mở đường, định hướng cho sân khấu Pháp phát triển. Cái
cười của Molière trên sân khấu Paris từ năm 1658 tới khi ông qua đời
năm 1763, mang tính xã hội, có đủ cung bậc từ vui nhộn đến dí dỏm, từ
chế giễu đến cay độc. Kịch của ông đi sâu vào tâm lý nhân vật,
miêu tả chân thực cuộc sống, là tiếng nói của lương tri thời đại và của nhân
dân. Molière là nhà văn tiêu biểu của văn học cổ điển chủ
nghĩa Pháp, cha đẻ của hài kịch Pháp -một nhà viết hài kịch
nổi tiếng trên văn đàn sân khấu thế giới. Nhà phê bình văn học Sainte-Beuve nhận
xét:
- Nếu tổ chức đại
hội các nhà văn lớn từ cổ chí kim trên trên toàn thế giới thì người đại diện
duy nhất cho văn học Pháp phải là Molière.
Ba trăm năm nay, hài kịch của
Molière luôn có trong chương trình diễn của các đoàn kịch nổi tiếng ở châu Âu.
Bỏ tất cả để được chạy theo
đam mê sân khấu
Mẹ mất năm 10 tuổi, cậu bé
Jean-Baptiste sống với ông ngoại Cressé. Ông ngoại rất
đam mê sân khấu, thường dẫn cháu ngoại đi xem kịch ở quảng trường gần cầu
Pont-Neuf. Niềm đam mê sân khấu hình thành trong đầu cậu bé từ
đó. Năm 21 tuổi (1643), Molière cùng với anh em Béjart thành
lập đội kịch “Illustre Theâtre” (Trứ danh), đội kịch hoạt động được 2 năm thì vỡ
nợ. Molière bị tống giam vì không có tiền trả nợ. Bố
Molière phải bỏ tiền chuộc. Nhân đó ông nhắc con trai cả về chuyện
thừa kế:
- Cha muốn con sửa đổi, muốn
con thừa kế gia sản nhà ta, sau này phát tài, làm quan to…
- Thưa cha,
xin cha đừng buồn. Chức vụ cao quý của cha trong cung đình, gia sản
lớn của gia đình sẽ có người thừa kế, nhưng không phải là con.
- Ai sẽ thừa
kế?
- Em trai
con
- Vậy con
làm gì?
- Con vẫn đi diễn
kịch, vì con rất thích.
Với phương châm “Castigat
ridendo mores” (sửa chữa phong hóa bằng tiếng cười). Molière cống hiến
trọn đời cho nghệ thuật sân khấu. Hài kịch của ông châm biếm, chế giễu
thói hư tật xấu của tầng lớp thị dân (mới hình thành và đang phát triển) trong
đời sống xã hội Pháp thế kỷ 17, dưới thời vua Louis XIV (Louis Grand).
TỪ TRUYỆN DON JUAN DÂN GIAN
TÂY BAN NHA ĐẾN DON JUAN CỦA MOLIÈRE TRONG VĂN HỌC PHÁP
Don Juan là nhân vật dân
gian (truyền miệng) Tây Ban Nha, nhân vật này xuất hiện lần
đầu (thành văn) trong kịch El burlado de Sevilla y convidado de
piedra của Tirso de Molina (công diễn năm 1613, in thành
sách năm 1630). Don Juan là người vô thần, dám phỉ báng Chúa, thích
phiêu lưu trong chuyện tình ái, có tài quyến rũ, lừa đảo phụ nữ mọi đẳng cấp: nữ
công tước, thiếu nữ quý tộc, cô gái đánh cá, cô gái nông thôn. Don
Juan bị trời trừng phạt, đày xuống địa ngục.
Kịch “Don Juan” dân gian Tây
Ban Nha là hề kịch tính cách (kịch vui dân gian) về một Don Juan (có bản năng *Tính Đực mạnh mẽ) có tài quyến rũ phụ nữ.
Năm 1665, nhà văn người Pháp
Molière viết hài kịch “Don Juan” từ chất liệu của văn học dân gian
Tây Ban Nha: hề kịch “Don Juan”. Hài kịch của
Molière viết bằng văn xuôi, có 5 hồi, công diễn lần đầu ngày
5.11.1665. Don Juan là một nhà quý tộc, quyến rũ Elvire bỏ tu
viện theo mình. Đối với Don Juan:”Hạnh phúc ở cuộc đời
này là quyến rũ được tất cả đàn bà mà không yêu một ai cả!”. Don
Juan bỏ rơi Elvire, chạy theo những cuộc phiêu lưu tình ái khác. Don
Juan và người đầy tớ Sganarelle bị đắm thuyền. Anh nông
dân Pierrot đã cứu vớt hai chủ tớ. Thoát nạn, hoàn hồn, Don Juan lại tán tỉnh
ngay vợ chưa cưới của Pierrot là Charlotte và tán luôn cả cô gái
Mathurine. Để trả thù cho em gái Elvire, Don Carlos lùng bắt Don
Juan. Chủ tớ chạy trốn vào rừng. Trong rừng, Don Juan
thuyết giảng cho đầy tớ biết rằng, mình chẳng tin Chúa, cũng chẳng tin địa ngục,
thiên đường, điều tin duy nhất là: hai với hai là bốn… Tình cờ, Don
Juan cứu Don Carlos khỏi tay bọn cướp chặn đường trong rừng. Cảm mến
Don Juan nên Don Carlos bỏ ý định trả thù. Hai thầy tớ tiếp tục lên
đường. Khi đi qua mộ quận công mà chính Don Juan đã giết sáu tháng
trước đây, Don Juan mời bức tượng đá của quận công đến nhà dùng cơm tối.
Don Juan bị sét đánh chết
khi bắt tay tượng đá.
Nhân vật “Don Juan” trong
hài kịch của Molière có đầy đủ những cá tính của một con người thời
Molière sống: không những vô thần, thích lừa phỉnh phụ nữ, mà còn là một đứa
con hư, một tay lừa bịp thích gây tội ác. Hắn nổi tiếng với
câu: “Ta, ta chỉ tin hai với hai là bốn và bốn với bốn là tám” và
câu nói rất đặc trưng của chủ nghĩa tư bản: ”Cho ngươi (người ăn xin) đồng Louis
vàng này vì tình yêu thương con người”
Cặp bài trùng trong hài kịch
là Don Juan (tượng trưng cho quý tộc đang hết thời nhưng tham tàn, phóng đãng: tiền, tình, tội lỗi) và tên đầy tớ dốt nát,
ngốc nghếch nhưng bẻm mép. Chủ chết, hắn chẳng nghĩ gì
ngoài tiền công:
- Ôi tiền công của
tôi! Tiền công của tôi!
Lời kể lể sướt mướt của
Sganarelle cứ như lời kết tội Don Juan:
Ai thấy hắn chết cũng thỏa
nguyện! Chúa bị phỉ báng, pháp luật bị xúc phạm, các cô gái bị cám dỗ,
các gia đình bị bôi nhọ, các bậc cha mẹ bị xúc phạm, các bà vợ bị ô nhục, các
ông chồng bị đẩy đến bước đường cùng. Ai ai cũng vừa lòng, chỉ có một
mình tôi là khốn khổ.
Nhân vật Don Juan của Tây
Ban Nha chu du *Italia, Đức, Anh và nhiều nước khác nhưng không trở
về quê cũ Tây Ban Nha. Don Juan “sống và thành đạt” trên
đất Pháp qua bàn tay thiên tài của Molière. Hài kịch
“Don Juan” vẽ lên bức tranh nước Pháp thế kỷ 17 khi giai cấp quý tộc suy vi
nhưng vẫn còn nắm bộ máy thống trị phong kiến (nhà quý tộc Don Juan
có thể sống phóng đãng). Giai cấp tư sản trưởng thành trong
lòng phong kiến. Thế cân bằng chính trị đối lập đã xuất hiện (thế
quân bình chính trị). Với Pháp lệnh Nant (Edit de Nantes) của vua Henri ban
hành năm 1598, nước Pháp thế kỷ 17 là giai đọan ổn định nên kinh tế, thương mại
phát triển. Thế kỷ 17 cũng được gọi là thế kỷ của cổ điển chủ nghĩa
(tỷ lệ cân đối, toàn mỹ tổng thể) trong văn học Pháp.
*/ theo
quan niệm phồn thực dân gian thì đó là bảo vật để duy trì và phát triển nòi giống
vì ngày xưa tỷ lệ chết của trẻ con rất cao - hữu sinh vô dưỡng= đẻ
mà không nuôi được.
Sau một trận thua,
binh sĩ chết nhiều. Napoleon nói với các tướng lĩnh:”Chỉ sau một đêm carnerval
(hội hóa trang) ở Paris là nước Pháp có một thế hệ mới.
*/ Dựa theo
chất liệu Don Juan TBN, nhà văn người Italia G.A. Cicogignini viết
hài kịch Il convitato di pietra năm
1650.
Năm 1787, nhà soạn nhạc người
Đức W. A. Mozart viết vở opera Don Giovanni dựa theo cốt truyện dân
gian Don Juan của Tây Ban Nha.
Cũng dựa theo cốt truyện dân
gian Don Juan của Tây Ban Nha nhà
văn người Đức E. T. A. Hoffmann đã
viết truyện ngắn Don Juan năm
1813.
Tương tự, nhà văn người Anh
George Gordon Noel Lord Byron đã viết
trường ca hài hước Don Juan vào thời gian 1819-1824.
Lãng du trong văn học Trung
Quốc
Văn học Trung Quốc nói chung
rất phong phú. Thơ đời Đường và tiểu thuyết đời Minh- Thanh là hai
thể loại văn học có những thành tựu lớn lao, là đóng góp của Trung Hoa vào nền
văn học thế giới. Nhà Đường chỉ tồn tại gần 300 năm (618-907),
nhưng có tới 2.300 tên tuổi là thi sĩ với gần 49.800 bài thơ (theo sách Toàn Đường
thi soạn năm 1705 trong Đời Thanh) Thơ Đường giàu về số lượng, muôn màu muôn vẻ
của Nho-Phật-Lão, hình thức điêu luyện với thi tiên Lý Bạch, thi
thánh Đỗ Phủ và trở thành mẫu mực của thơ ca cổ điển Trung Hoa Tiểu
thuyết là thể loại văn học mới phát triển ở thời Minh – Thanh trên cơ sở những
chuyện kể trong dân gian về những sự tích lịch sử. Những tác phẩm lớn,
nổi tiếng của thời Minh là Thủy Hử của Thi Nại Am, Tam quốc chí diễn
nghĩa của La Quán Trung, Tây du ký của Ngô Thừa Ân, của
thời Thanh là Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần. Những tiểu thuyết
trên đồng thời là những bộ tiểu thuyết lớn của văn học thế giới.
Thủy Hử phản ánh cuộc
đấu tranh của giai cấp nông dân: khởi nghĩa nông dân, chiến tranh nông dân
trong xã hội phong kiến Trung Hoa. Tam quốc chí diễn nghĩa miêu tả
tình hình phức tạp của đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị trong ngót một
thế kỷ (từ đời Linh đế (184) tới đời Vũ đế (280). Tây du ký nói về
Tôn Ngộ Không hàng phục yêu quái, vượt mọi trở ngại để cùng Đường
Tăng Huyền Trang sang Tây thiên lấy kinh. Chúng tôi chọn Hồng Lâu mộng
(giấc mộng lầu son), để bạn đọc có thể tham chiếu 3 bộ tiểu thuyết lớn về dòng
họ của Trung Quốc, Đức, Mỹ của văn học thế giới, đồng thời ba bộ tiểu
thuyết này là 3 bức tranh thu nhỏ về bước đường suy tàn của xã hội Trung Quốc,
của Đức, của Mỹ với những đặc trưng của từng nước. Qua đó thấy được
nét đặc sắc của những bộ tiểu thuyết ấy, thấy được bản sắc dân tộc thể hiện
trong những tác phẩm văn học đó.
Hồng lâu mộng của
Tào Tuyết Cần (1716- 1763 - Trung Quốc);
Dòng họ Buddenbrook của
Thomas Mann (18-1955 - Đức);
Âm thanh và cuồng nộ của
William Faulkner (18 -1962) - Mỹ );
Lý Bạch (701 - 762) là
nhà thơ đời Đường, Trung Quốc. Máu lãng du đưa ông tới khắp mọi miền của đất nước
Trung Hoa. Chồn chân mỏi gối, ông về ẩn cư ở Lô Sơn. Ông giỏi về miêu
tả cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ, diễn đạt tình yêu đất nước non sông. Thơ
ông hùng tráng, sảng khoái, tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ tự nhiên, âm điệu
hài hoà biến hóa. Thơ ông thể hiện rõ nét tư tưởng Nho gia, Đạo gia, tư tưởng du
hiệp.
Ông là đỉnh cao mới về thơ
lãng mạn tích cực sau Khuất Nguyên. Những bài thơ được mọi
người truyền tụng là “Thục đạo nan”; “Hành lộ nan”; “Mộng
du Thiên Mụ ngâm lưu biệt”; “Tĩnh dạ từ”; “Tảo phát Bạch Đế
thành” v.v. Thi tiên Lý Bạch để lại cho đời sau gần 1.000 bài
thơ trong “Lý Thái Bạch tập”.
Với Lý Bạch, thơ lãng mạn
trong văn học Trung Quốc đã đạt đến đỉnh cao của nó.
Tình bạn của thi tiên thi
thánh
Năm 744, Lý Bạch
rời Trường An đến Lạc Dương kết giao với Đỗ Phủ, hai nhà thơ ở chung với nhau nửa
năm, trở thành đôi bạn keo sơn. Đỗ Phủ (kém Lý Bạch 11 tuổi) đã
bộc bạch cảm xúc của mình qua các câu thơ:
Tôi cũng khách xa quê,
Coi bác như anh ruột.
Đêm say ngủ chung chăn,
Ngày khoác tay dạo bước.
Tính cách của Lý Bạch đúng
là phong cách của người “thông kinh thư, xem bách gia”, của người đi nhiều, óc
lãng mạn, tâm hồn hào phóng, tấm lòng rộng mở.
Cách tân thi pháp thơ
Lý Bạch có sáng tạo mới
trong hình thức nghệ thuật, ông không mù quáng bắt chước cổ nhân, ông đề xuất
phong cách thơ thanh chân (trong sáng chân thực), khí vận thiên thành (nội dung
vần chữ tự đến mà thành). Ông táo bạo trong dùng ngôn từ, thể hiện
rõ tính quy luật trong vận hành của tự nhiên. Cảnh hùng vĩ của thiên
nhiên:
Sông Hoàng Hà chảy vỡ núi
Côn Lôn,
Thét gào muôn dặm húc
Long Môn.
Đạo của tự nhiên:
Con sông Hoàng Hà lưng trời
tuôn nước,
Xuống biển rồi có ngược lên
đâu!
Tư tưởng Nho gia, Đạo gia,
máu hiệp khách
Năm 742, Lý Bạch được bạn là
Ngô Quân tiến cử. Đường Huyền Tông cho Lý Bạch làm Hàn
lâm cung phụng (văn nhân ngự dụng: làm thơ ca ngợi công đức). Tư tưởng Nho gia
thể hiện qua hy vọng, dịp “giúp vua để thiên hạ yên ổn, bốn bề thanh bình” đã đến. Nhưng
sau ba năm, ông thấy mình chỉ là kẻ góp vui trong chốn cung đình:
Dùng châu ngọc mua tiếng cười
điệu hát
Lấy tấm cám nuôi dưỡng kẻ hiền
tài.
Ông tự nguyện rời cung đình,
tư tưởng Đạo gia thể hiện qua việc lấy rượu, cảnh thiên nhiên để giải “vạn cổ sầu”:
Đời người đắc ý cứ vui tràn,
Chớ để bình vàng suông bóng
nguyệt!
Thánh hiền tên tuổi bặt đi,
Chỉ phường thánh rượu tiếng
ghi muôn đời!
Ông uống rượu để:
Khối *sầu vạn cổ đập tan
hoang
(bài Cùng uống rượu)
Thác nước Hương Lô trong bài
Vọng Lư Sơn có những câu:
Nắng rọi Hương Lô khói tía
bay,
Xa trông dòng thác trước
sông này
Nước bay thẳng xuống ba
nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột
khỏi mây.
Rồi có lúc tư tưởng du hiệp
nổi lên. Lúc ấy Lý Bạch bảo:
Nho sĩ đâu bằng người hiệp
sĩ,
Bạc đầu đọc sách có hay gì?
sầu vì chiến tranh, loạn lạc,
tha hương
Đỗ Phủ (712 - 770, Du Fu) là
nhà thơ hiện thực lớn nhất đời Đường. Ông sinh trong một gia đình có truyền thống
văn học. Ông nội Đỗ Thuần Ngôn là nhà thơ nổi tiếng. Đỗ Phủ tự hào
nói: ”Thơ ca là việc của nhà tôi”.
Thơ Đỗ Phủ phản ánh chân thực
các cảnh tượng xã hội đời Đường trong quá trình chuyển biến từ cực thịnh đến
suy vong, Những bài thơ được truyền tụng nhất là “Tam lại”(ba ông
quan lại); “Tam biệt” (ba lần ly biệt); “Thu hứng” (cảm hứng thu); “Xuân
vọng” (hướng về mùa xuân); “Đồng quan lại”; “Thùy lão biệt”; “Vô
gia biệt”; “Bình xa hành”; “Đề tài trong thơ Đỗ Phủ rất
rộng: cảm hoài, vịnh vật, đề họa, hoài cổ, đời sống cung đình, xã hội. Thơ
ông tình cảm sâu đậm, phong cách đa dạng, âm vận cách luận, mang tính hiện thực
cao, có ảnh hưởng sâu xa trong lịch sử văn học, nên ông được tôn là
“thi thánh”.
Thi tiên, thi thánh
Đời Đường (618-907) dài gần
300 năm, nhưng chỉ có nửa đầu là thịnh trị. Lọan An Lộc Sơn đẩy nhà
Đường tới suy vong. Nhiều khi sự phát triển của văn học không song
hành với những biến động xã hội. Gần 300 năm đời Đường là ba thế kỷ của đỉnh
cao trong lịch sử văn học Trung Quốc. Trong khi thơ Lý Bạch phóng túng, lời lẽ
súc tích, ý tứ siêu thoát, kỹ thuật tài tình với những thể thơ tự
do như cổ phong, nhạc phủ, ca hành thì thơ của Đỗ Phủ gắn liền với
những biến động của cuộc đời ông và xã hội ông đang sống bằng lời lẽ
trau chuốt với những bài luật thi 5, 7 chữ (ngũ ngôn tuyệt cú, thất
ngôn tuyệt cú). Thơ Lý Bạch vui với rượu cùng trăng
Đời người đắc ý cứ vui tràn,
Chớ để bình vàng suông bóng
nguyệt!
Nước bay thẳng xuống ba
nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi
mây.
Thì thơ Đỗ Phủ là tiếng ai
oán của dân chúng thời lọan lạc, là tiếng than của oan hồn trong gió:
Thanh Hải ngoài xa anh có thấy:
Từ xưa xương trắng cứ phơi
hoang
Quỷ mới hận sầu, ma cũ khóc
Trời tối mưa dầm tiếng thở
than.
Lý Bạch xuất hiện như ông
tiên trong thơ, Đỗ Phủ xuất hiện như thánh hiền. Lý Bạch được người
đời mệnh danh là thi tiên, Đỗ Phủ được người đời kính trọng
gọi là thi thánh.
Nỗi đau nhân thế
Lý tưởng chính trị của
Đỗ Phủ là tư tưởng Nho gia. Ông chủ trương “trung quân”, nhưng phản đối “bạo
chúa”, chủ trương làm một kẻ đại trượng phu “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất
năng di, uy vũ bất năng khuất” (giầu có sang trọng không hoang dâm, phóng túng;
nghèo khó ti tiện không thay đổi tiết tháo, uy thế và vũ lực cũng
không khuất phục được mình – Nguyễn Khắc Viện dịch).
Nhưng cảnh đời lại không chiều
lòng người, cái khó, cái khổ đeo Đỗ Phủ tới tận tuổi già. Tiếng than bi thiết
bật ra từ ông:
Trăm năm thơ tự khổ,
Chưa gặp một tri âm.
Từ đời Tống trở về sau, tài
năng thơ của Đỗ Phủ được đánh giá cao. Hai đời Nguyên, Minh tuyển
thơ Đỗ Phủ liên tục xuất hiện. Hoàng Đình Kiên bảo:
Làm thơ mấy ngàn bài,
Sáng soi cùng nhật nguyệt.
LỜI BÌNH: Đời Đường,
Trung Hoa là một quốc gia văn minh trên thế giới. Các vua đời Đường
đều coi trọng văn học và yêu thích thơ, nên không khắt khe với thơ
văn, thậm chí còn mở một nhạc phủ trong Lê Viên. Nhà Đường quy định
lấy thơ, phú để chọn kẻ sĩ, nên nhiều nhà văn, nhà thơ tìm đường tiến thân bằng
con đường khoa cử. Thời Đường kinh tế phát triển. Những yếu
tố trên là những thuận lợi cho việc phát triển văn thơ. Thơ Đường
được chia thành 4 giai đoạn:
1. Sơ Đường (618-713)
2. Thịnh Đường (713-766)
3. Trung Đường (766-835)
4. Vãn Đường (835-907).
Hai khuynh hướng chính trong thơ Đường là trữ tình, lãng mạn (Lý Bạch), và hiện thực xã hội (Đỗ Phủ). Thơ Đường là đỉnh cao của thơ văn Trung Hoa, đồng thời cũng là đỉnh cao của văn học thế giới, bởi nó kết hợp nhuần nhuyễn hình thức và nội dung, âm điệu hài hòa, đa dạng, súc tích. Nhà thơ đời Đường chủ trương, thơ phải có “ký thác”- phải nói lên tâm tình của mình: ghi lại cảm xúc trước hiện thực cuộc sống, vì vậy chỉ có bình thơ, không có phê bình thơ. Theo chủ nghĩa nhân văn Trung Hoa, nhân loại là trung tâm của vũ trụ. Lâm Ngữ Đường cho rằng, đặc tính của người Trung Hoa là tập trung vào hưởng thụ trong phạm vi vật chất mà họ có được ở cõi trần này. Họ “vui với lẽ trời, hưởng một nếp sống thuần phác, đơn sơ, nhất là một nếp sống gia đình, cùng quan hệ xã hội hài hòa”. Lâm Ngữ Đường nhận xét, mái nhà của người Trung Hoa “không vươn lên trời cao, mà xòe ra che chở mặt đất”. Hạnh phúc của người Trung Hoa “phát sinh từ gia đình”. Chủ nghĩa nhân văn Trung Hoa và người Trung Hoa như vậy nên họ ung dung khi đọc thơ để cảm cho thấu cái hay, cái tế nhị của tiếng Hán( vốn là ngôn ngữ đơn âm, ngôn ngữ tượng hình). Một từ Hán đã bao hàm nhiều ý và có nét đẹp riêng (vì vậy mà có môn Thư pháp). Thi sĩ Trung Hoa bảo, “thơ chỉ để diễn tả lúc xuất thần, thơ phải cho ta thấy cả một bức tranh trong một nét”. “Cổ nhân cho rằng thơ thì phải ý tại ngôn ngoại, người đọc thơ phải tự tìm”.
1. Sơ Đường (618-713)
2. Thịnh Đường (713-766)
3. Trung Đường (766-835)
4. Vãn Đường (835-907).
Hai khuynh hướng chính trong thơ Đường là trữ tình, lãng mạn (Lý Bạch), và hiện thực xã hội (Đỗ Phủ). Thơ Đường là đỉnh cao của thơ văn Trung Hoa, đồng thời cũng là đỉnh cao của văn học thế giới, bởi nó kết hợp nhuần nhuyễn hình thức và nội dung, âm điệu hài hòa, đa dạng, súc tích. Nhà thơ đời Đường chủ trương, thơ phải có “ký thác”- phải nói lên tâm tình của mình: ghi lại cảm xúc trước hiện thực cuộc sống, vì vậy chỉ có bình thơ, không có phê bình thơ. Theo chủ nghĩa nhân văn Trung Hoa, nhân loại là trung tâm của vũ trụ. Lâm Ngữ Đường cho rằng, đặc tính của người Trung Hoa là tập trung vào hưởng thụ trong phạm vi vật chất mà họ có được ở cõi trần này. Họ “vui với lẽ trời, hưởng một nếp sống thuần phác, đơn sơ, nhất là một nếp sống gia đình, cùng quan hệ xã hội hài hòa”. Lâm Ngữ Đường nhận xét, mái nhà của người Trung Hoa “không vươn lên trời cao, mà xòe ra che chở mặt đất”. Hạnh phúc của người Trung Hoa “phát sinh từ gia đình”. Chủ nghĩa nhân văn Trung Hoa và người Trung Hoa như vậy nên họ ung dung khi đọc thơ để cảm cho thấu cái hay, cái tế nhị của tiếng Hán( vốn là ngôn ngữ đơn âm, ngôn ngữ tượng hình). Một từ Hán đã bao hàm nhiều ý và có nét đẹp riêng (vì vậy mà có môn Thư pháp). Thi sĩ Trung Hoa bảo, “thơ chỉ để diễn tả lúc xuất thần, thơ phải cho ta thấy cả một bức tranh trong một nét”. “Cổ nhân cho rằng thơ thì phải ý tại ngôn ngoại, người đọc thơ phải tự tìm”.
Đời Đường, Nho-Phật-Lão cùng
tồn tại, cùng phát triển. Thơ Đường phong phú, đa dạng, phản
ánh rất rõ nét tư tưởng Nho-Phật –Lão – phản ánh đời sống tâm linh Trung Hoa.
TÀO TUYẾT CẦN (1716-1763) VÀ
TIỂU THUYẾT DÒNG HỌ “HỒNG LÂU MỘNG”
Trong đời mình, Tào Tuyết Cần
nhìn thấy và trải nghiệm quá trình từ cực thịnh đến suy vi của dòng họ
Tào. Biến cố ấy đưa Tào Tuyết Cần đến nhận thức sâu sắc về
xã hội, về vận mệnh của giai cấp phong kiến.
Tào Tuyết Cần viết “Hồng
Lâu Mộng”(Giấc mộng lầu son) trong những năm vô cùng nghèo khổ: ”Từng
chữ, từng chữ đều là máu, khổ cực mười năm không phải chuyện bình thường”. Tiểu
thuyết HLM có 120 hồi. Tào Tuyết Cần đã sửa chữa 5 lần 80 hồi đầu, 40 hồi cuối
còn ở dạng bản thảo. 28 năm sau khi TTC mất, nhà văn Cao Ngạn căn cứ
vào bản thảo viết tiếp 40 hồi cuối cùng. Bi kịch tình yêu
của Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc - hai anh em con cô con cậu-, cảnh hưng vong của 4 dòng họ lớn Giả, Sử, Vương, Tiết phản
ánh sự suy đồi đạo đức khi suy vi của giai cấp phong kiến và vai trò của giai cấp
phong kiến đang lùi dần vào đằng sau vũ đài lịch sử. Tiểu thuyết Hồng
Lâu Mộng có tất cả hơn 400 nhân vật với những tính cách khác nhau, đề cập tới mọi
thể chế kinh tế, chính trị, văn hóa cùng mọi giai tầng trong xã hội với đủ
mọi ngành nghề từ văn học nghệ thuật tới bói toán, tham thiền ngộ đạo. Tất cả nằm
trong vòng xóay của những mâu thuẫn và biến động xã hội. Nổi
bật là những nhân vật Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa, Vương Hy Phượng…
Tiểu thuyết diễn đạt “tình và lý” Hồng Lâu Mộng giống như bức tranh hoành tráng
rất sinh động về xã hội phong kiến Trung Hoa. Trong khi thiên hạ
đang chán lối gò gẫm, gượng gạo uốn lựa theo thời thế của “Kinh học” thì văn
phong của Hồng Lâu Mộng chuẩn xác, nhuần nhuyễn, giản dị, trong sáng, thoải mái
tự nhiên, chân thực với *mộng và thực nên đầy hấp dẫn.. Đây là
bộ tiểu thuyết kết hợp thơ văn hay nhất trong nền tiểu thuyết cổ điển
Trung Quốc. 80 hồi của Tào Tuyết Cần lấy tên là Thạch đầu ký (Câu
chuyện hòn đá) và lưu truyền dưới hình thức bản chép tay trong số bạn chí thiết. Sách
đổi tên là Hồng Lâu Mộng, khi Trình Vĩ Nguyên và Cao Ngạc ra trọn 120 hồi năm
1791 (Trình giáp bản – bản A). Sách được sửa chữa và khắc lại in năm 1792
(Trình ất bản – bản B). Thiên hạ bấy giờ đua nhau mua tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng,
(khắp kinh thành nhà nào cũng phải có một bộ trên bàn- theo Sái Thư đường bút
ký) và ca ngợi HLM “là tác phẩmhay nhất không có gì hay hơn trong hàng tiểu
thuyết – Theo Từ dư tùng thoại). Họ kháo nhau: “Chuyện trò không nhắc
Hồng lâu mộng, đọc hết thi thư cũng phí hoài”.
Đây là bộ tiểu
thuyết kết hợp thơ văn hay nhất trong nền tiểu thuyết cổ điển Trung
Quốc. 80 hồi của Tào Tuyết Cần lấy tên là Thạch đầu ký (Câu chuyện
hòn đá) và lưu truyền dưới hình thức bản chép tay trong số bạn chí thiết. Sách
đổi tên là Hồng Lâu Mộng, khi Trình Vĩ Nguyên và Cao Ngạc ra trọn 120 hồi năm
1791 (Trình giáp bản – bản A). Sách được sửa chữa và khắc lại in năm
1792 (Trình ất bản– bản B). Thiên hạ bấy giờ đua nhau mua tiểu thuyết Hồng Lâu
Mộng, (khắp kinh thành nhà nào cũng phải có một bộ trên bàn- theo Sái Thư đường
bút ký) và ca ngợi HLM “là tác phẩmhay nhất không có gì hay hơn trong hàng tiểu
thuyết – Theo Từ dư tùng thoại). Họ kháo nhau: “Chuyện trò không nhắc Hồng lâu
mộng, đọc hết thi thư cũng phí hoài”. Số người nghiên cứu tiểu thuyết
Hồng Lâu Mộng ngày càng đông, đông đến mức trở thành trường phái “Hồng
học”, cho “Hồng học mới là văn học đích thực”(Đầu đời Quang Tự, sĩ đại phu kinh
triều đều đọc (HLM) rất say mê).- Một sự kiện hiếm thấy trong lịch sử văn học
thế giới. Năm 1794 - 2 năm sau khi xuất bản, Hồng Lâu Mộng đã ra
ngoài biên giới Trung Quốc truyền sang Nhật Bản và tiếp theo là một số nước
Đông Nam Á. HLM đã được dịch sang tiếng Anh (vàao cuối thế kỷ 19),
tiếng Pháp, Nga, Đức (vào đầu thế kỷ 20). Đến nay tổng cộng đã được dịch ra
16 ngôn ngữ khác nhau. Cùng với hội thảo Hồng Lâu Mộng năm 1980 ở
Cáp Nhĩ Tân Trung Quốc là việc thành lập Hội Hồng Lâu Mộng học Trung
Quốc. Trường Đại học Wisconsin Mỹ đã tổ chức Hội thảo Hồng Lâu Mộng quốc tế lần
thứ nhất vào mùa xuân 1980. Hội thảo HLMQT lần thứ hai họp ở Cáp Nhĩ
Tân tháng 6 năm 1986 (xin bạn đọc tham khảo *Hội nghiên cứu Hegel quốc tế).
Thông qua bi kịch tình yêu
tay ba Bảo Ngọc (cả họ Giả đặt kỳ vọng vào Giả Bảo Ngọc trong con đường thi cử
làm quan, thì Bảo Ngọc lại chán chường cảnh ấy), Đại Ngọc, Bảo Thoa (Bảo Ngọc
yêu Đại Ngọc, nhưng do gia đình họ Giả đánh tráo trong đám cưới –cô dâu lại là
Bảo Thoa. Đại Ngọc buồn mà chết. Bảo Ngọc uất ức đi tu. Bảo Thoa trở
thành quả phụ. Tác giả nói về sự suy vi của một gia đình
đại quý tộc (cái bóng hình sự suy vi của dòng họ Tào, mà
đến đời Tào Tuyết Cần thì sa sút). Sự tương phản bộc lộ rõ qua hai thế hệ- hai
tuyến nhân vật. Lớp trẻ với những vui buồn trong tình yêu; lớp gia trưởng đầy
tính toán trong cuộc sống. Nói rộng ra là tác giả đã dự cảm sự suy
tàn của phong kiến Trung Quốc.
Lỗ Tấn nhận xét:
- Tào Tuyết Cần
đã phá vỡ tư tưởng và cách viết truyền thống.
Đời Minh (Minh
Dynastie: 1368-1644) là thời đại hoàng kim của tiểu thuyết Trung Quốc với Tam
quốc chí diễn nghĩa; Tây du ký; Thủy Hử. Đỉnh cao của tiểu
thuyết Trung Quốc xuất hiện lại ở đời Thanh (Thanh Dynastie: 1644-1911) với “tác phẩm bất hủ của nhân lọai: “Hồng lâu mộng”, (lời
Lâm Ngữ Đường).
*/ Bảo Ngọc
mộng chơi cõi Thái Hư. Tần Khả Khanh báo mộng Vương Hy Phượng. Bảo
Ngọc mộng thấy Tinh Văn. Tập Nhân mộng thấy Bảo Ngọc.
*/ Tháng 4.1930 tại Hague,
Hà Lan, người ta đã thành lập Hội nghiên cứu Hegel quốc tế, cứ 2 năm họp mặt một
lần.
LỜI BÌNH: Chúng
ta có thể rút ra được những bài học rất sâu sắc từ những trang lịch sử, nhưng
bài học sâu sắc nhất, sống động nhất là bài học rút ra từ cuộc sống. Chính
vì vậy mà tiểu thuyết “Hồng Lâu Mộng” cuốn hút, hấp dẫn bạn đọc và giới nghiên
cứu. Người Trung Quốc ung dung, chầm chậm đọc tiểu thuyết
(họ nằm đọc) để giết thời giờ. Tiểu thuyết Trung Hoa dùng kỹ
thuật tả chân, tả tỉ mỉ các chi tiết trong cuộc đời nhân vật như “thực”,người đọc
thưởng thức tiểu thuyết bằng cách soi bóng tiểu thuyết trong hiện thực xã hội. Các
tình tiết trong “Hồng lâu mộng” nổi bật lên trên khung cảnh “thịnh rồi suy của
một vọng tộc”. Trung Hoa thời xưa, nhà Nho coi tiểu thuyết là thứ văn chương thấp
hèn, nên các tiểu thuyết gia Trung Hoa thường giấu tên. Mặt khác họ
viết tiểu thuyết là do nhu cầu nội tại, vì thích sáng tác, họ sống ẩn dật để viết
tiểu thuyết (Trung Hoa thời xưa không có nhuận bút cho tiểu thuyết).
Lương Văn Hồng
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét