Thứ Hai, 19 tháng 12, 2016

Lãng du trong văn học Hy Lạp - Pháp - Trung Quốc

Lãng du trong văn học Hy Lạp - Pháp - Trung Quốc
Lãng du trong văn học Hy Lạp
Theo nhà sử học Herodote thì nhà thơ Hy Lạp cổ đại Homer (810-730? tr.CN) sống vào thế kỷ IX trước Công nguyên. Ông là người được coi là tác giả 2 bản anh hùng ca nổi tiếng “Iliat” và “Odysses”. Cũng theo Herodote thì Homer sinh ở Smyrne (Ionie), thân mẫu người Eodie. Lớn lên nhờ quen biết một chủ tàu thủy chở khách nên được theo tàu đi đó đây. Sự hiểu biết của ông cũng nhờ đó được mở rộng, ông biết sâu sắc về truyện phiêu lưu của Ulysse. Homer từng đi du lịch khắp miền Địa Trung Hải, từng sống ở Ithaque, Colophon, Eolie, Chio. Về sau, ông bị đau mắt nặng và mù. Ông lang thang kiếm sống đó đây bằng làm thơ, kể chuyện. Ông ốm chết ở đảo Ios và được chôn cất trên bãi biển.
Homer - Cha đẻ của văn học Hy Lạp
Iliat có nghĩa: Bài ca về thành Troy. Tác phẩm có 24 khúc ca với 15.693 câu thơ về đề tài “Chiến trận”, kể lại lịch sử 9 năm trước cuộc chiến tranh Troy, kể lại diễn biến cuộc vây hãm thành Troy của viên tướng kiệt xuất Hy Lạp Achilles. Viên tướng này bất bình với việc viên chủ tướng Agamenon cướp đọat một nữ tỳ chiến lợi phẩm, bèn đình chỉ chiến đấu và ở lỳ trong lều.  Viên tướng Achilles hết sức xúc động khi nghe tin bạn thân của mình bị quân Troy giết chết, liền đốc quân xuất trận, giết được chủ tướng quân Troy - hoàng tử Hector để báo thù cho bạn mình. Sử thi Iliat  tả sự khao khát lập công, tài năng xuất chúng, sự hy sinh cao cả của Asin (phía quân Hy Lạp), của Hector (phía quân thành Troy).
Odysses có nghĩa: Bài ca về chàng Odysses. Tác phẩm gồm 24 khúc ca với 12.110 câu thơ với đề tài “Trở về”, kể về cuộc phiêu bạt 10 năm của chiến binh Hy Lạp Ulysses (Odyssey) trên đường trở về quê hương Hy Lạp: Trên đường đi, Odysses chọc mù con mắt độc nhất người khổng lồ Polypheme- con của thần Đại Dương Poseidon, nên bị thần Đại dương thù ghét. Chuyến trở về của Odysses vì vậy gặp nhiều trở ngại và kéo dài.
Bielinski đánh giá:
- Homer là cha đẻ của văn học Hy Lạp.
Aeschyle/Eschyle (525-456 tr. CN) là nhà viết bi kịch Hy Lạp cổ đại. Trong cuộc chiến tranh  của khối liên minh các thành bang Hy Lạp chống quân xâm lược Babylon (Ba Tư) vào những năm 500-449 trước Công nguyên, Eschyle là một chiến sĩ, đã tham dự các trận đánh lớn như Marathon (490TCN); Salamine (480 TCN); Plate (479 TCN).
Eschyle viết cho sân khấu lúc còn rất trẻ, nổi tiếng khắp vùng Địa Trung Hải. Eschyle có cống hiến lớn đối với sân khấu Hy Lạp cổ đại. 13 lần ông được giải nhất trong hội thi diễn kịch hàng năm ở thành bang Athen. Ông viết 80 vở kịch. Bi kịch của Eschyle được sao chép lại, được lưu giữ trong một đền thờ. Rất tiếc, hầu hết bị thất lạc, ngày nay chỉ còn lưu lại 7 vở kịch: 50 cô gái chạy trốn khỏi Ai Cập, đến Argos xin sự che chở của vua Peélasgos là vở kịch “Những người thiếu nữ cầu xin”; Sự kiêu ngạo của vua Xerxés đã dẫn tới thất trận của quân đội Ba Tư ở Salimine là vở kịch “Quân Ba Tư”; Tả cảnh huynh đệ tương tàn giữa Etéocle và Polynice để tranh ngôi vua ở thành bang Thebes là vở  bi kịch  “Bảy tướng đánh thành Thebes”; Ca ngợi tự do của con người là vở kịch “Prometheus bị xiềng”; bộ ba bi kịch liên hoàn Oresteia gồm câu chuyện vua Agamemnon bị vợ là Clytemnestre và tình nhân của vợ là Egisthe giết là vở kịch “Agamemnon”; Câu chuyện trả thù cho cha - vua Agamemnon của Oreste. Nhân lúc làm lễ dâng rượu, muá hát xung quanh lăng vua Agamemnon, con trai của nhà vua là Oreste đã giết Egisthe và giết luôn cả mẹ là vở kịch “Những thiếu nữ dâng rượu”; Oreste bị các nữ thần đuổi bắt để trừng trị vì tội giết mẹ, nhưng nhờ sự can thiệp của nữ thần Athen nên các nữ thần ân đức mới nguôi giận và tha không trị tội là vở kịch “Những nữ thần ân đức”.
Huyền thoại về cái chết của Eschyle
Có con chim phượng hoàng tha một con rùa. để ăn được thịt rùa, nó bay lên thật cao, rồi thả con mồi rơi xuống tảng đá để bể mai. Đúng lúc chim bay qua thì Eschyle đi tới. Chim tưởng cái đầu hói kia là tảng đá liền thả rùa xuống. Rùa rơi trúng đầu Eschyle. Ông choáng váng ngã và không bao giờ đứng dậy.
Aeschyle từng tham gia các trận đánh ở Marathon (490 tr. CN), Salamis (480 tr. CN), Plateae (479 tr. CN). Aeschyle được mệnh danh là “nhà thơ của thời kỳ dân chủ hình thành”. Trên mộ chí của Aeschyle khắc dòng chữ: - Nơi đây con trai của Euphorion - Aeschyle yên nghỉ. Thi sĩ sinh ở Attique và qua đời trên cánh đồng mầu mỡ Géla. Người Mèdes tóc dài và khu rừng thiêng Marathon sẽ nói lên đầy đủ lòng dũng cảm của thi sĩ. Mộ và tượng Aeschyle là nơi các thi nhân đương thời hay đến thăm hết sức kính cẩn.
Người làm nên lịch sử - Người anh hùng thời đại
Trong lịch sử văn minh nhân loại, việc phát hiện và sử dụng lửa là một mốc quan trọng. Từ đó con người biết nấu chảy kim loại, chế tác các dụng cụ lao động, các loại vũ khí v.v… Thời Aeschyle, người làm nên lịch sử là người đứng mũi chịu sào, người vì sự sinh tồn của cả cộng đồng mà hành động, chấp nhận hy sinh. Sự hy sinh ấy được coi là nghĩa vụ thiêng liêng và đồng thời chính là bi kịch của người anh hùng. Vở bi kịch “Prometheus bị xiềng” là vở kịch nổi tiếng nhất của Aeschyle.  Prometheus vì tội ăn trộm lửa nên bị thần Zeus phạt, bị xiềng bằng xích trên ngọn núi. Người anh hùng Prometheus nói:
- Phải, chính ta cố tình phạm tội. Việc đó ta không chối cãi.  Chính vì muốn cứu vớt loài người, nên ta tự mình chuốc lấy đau khổ hôm nay.
Để tri ân ngọn lửa đã mang lại hạnh phúc, đã sưởi ấm trong đêm đông giá lạnh, con người đã tôn thờ lửa là lửa thiêng, đã tưởng tượng, sáng tạo  ra nhân vật Prometheus.
Những cách tân của Eschyle
Aeschyle là nhà thơ bi kịch Hy Lạp cổ đại. Trước Aeschyle kịch Hy Lạp chỉ có một diễn viên và mang tính tự sự. Ông tách ở đội đồng ca ra một diễn viên nữa - diễn viên thứ hai - nhờ có diễn viên thứ hai này đối thoại nên kịch tính mới phát triển. Ngoài ra ông còn  cách tân mặt nạ, dàn cảnh, trang phục diễn viên. Ông cũng là người dựng những cảnh trí đa dạng, đưa lên sân khấu những hoạt cảnh nhảy múa lớn. Bi kịch (tragedia) phơi bày xung đột sâu sắc, căng thẳng đến tột đỉnh.  Nó có tính thống thiết (pathétique) khi giải quyết những vấn đề lịch sử mang tính vận mệnh  dân tộc (cộng đồng), bao giờ cũng có kết thúc bi thảm, gây ra xung đột nội tâm mạnh mẽ ở khán giả.  Bi kịch của Eschyle  phản ánh bản chất tiến trình lịch sử của đất nước Hy Lạp. Eschyle được Engels (Anghen) đánh giá là “người sáng lập  nền bi kịch  Hy Lạp”.
Trong tác phẩm của mình, Eschyle ca ngợi chính nghĩa, khẳng định ý chí của con người, biểu dương lý tưởng yêu nước, dân chủ. Vì vậy ông được người đời đánh giá là “nhà thơ của thời kỳ hình thành nền dân chủ nô lệ”
Sophocle
Sophocle/Sophocles(496-406 tr. CN) là bi kịch gia lớn của Hy Lạp cổ đại. Ông sinh ở Colonus gần thành bang Athen.
Sophocle viết 120 bi kịch, ngày nay chỉ còn lưu giữ được 7 vở kịch. Trong số đó có bi kịch gia đình nhà vua Créon. (Antigone vì chống lại vua Créon nên bị chôn sống, con trai vua Créon là Hémon lại yêu Antigone, người yêu chết, Hémon tự tử. Đau khổ vì con trai chết, hoàng hậu buồn mà chết), “Antigone (442 tr.CN); Oedipus làm vua” (430 tr.CN) tả cảnh Oedipus không hề hay biết việc giết người đàn ông kia chính là giết cha, lấy Jocaste chính là lấy mẹ đẻ. Đến khi biết, Oedipus hối hận, móc hai mắt mình và tự đày mình biệt xứ “Oedipus ở Colonus”, “Electra” (420 tr. CN) là câu chuyện trả thù cho cha của Electra và em trai Oreste;  “Ajax”  (415 tr.CN) là câu chuyện giết người khi nổi giận của chàng Ajax. Nữ thần Athen làm cho Ajax  điên loạn, cứ nhằm cừu và dê mà giết. Tỉnh lại sau cơn chém giết vô bổ, Ajax tự tử; “Philocetes” (409 tr.CN) là câu chuyện lấy được thành Troy của tướng Philocetes nhờ những mũi tên thần của Heracles. Nổi tiếng là bi kịch “Antigone”, “Oedipus làm vua”.
Thời đại vàng son của quốc gia thành bang Athen
Theo các nhà sử học, người tiền sử sống ở Hy Lạp có niên đại lên tới 100.000 năm. Những nền văn minh  sơ kỳ là văn minh Cyclades (xuất hiện trên quần đảo Cyclades  từ năm 3.000 tr. CN đến 1500 tr. CN);  Văn minh Minos (tập trung trên đảo Crete từ 3.000  đến 1400 tr. CN) là một cường quốc biển hùng mạnh có quan hệ buôn bán với Syria, Tây Ban Nha, Ai Cập. Văn minh Mycenaé (trên đảo Peloponnesus, từ 1650 đến 1150 tr. CN) là thời đại Anh hùng trong loch sử Hy Lạp, thời kỳ xảy ra cuộc chiến thành Troy  (được miêu tả trong Anh hùng ca Iliad của Homer).
Vào những năm 800 tr. CN, việc  các làng xã biệt lập tập hợp lại với nhau, phát triển thành những cộng đồng độc lập với hệ thống chính quyền riêng đã tạo nên sự ra đời các quốc gia thành bang như Corinth, Thebes, Delphi, Sparta, Olympia.
Quốc gia thành bang Athen nằm ở bán đảo  Attikas. Athen  là một bình nguyên nằm lọt thỏm giữa  dãy núi Hymette, núi Pentelique và núi Parmès, đồi Acropole, đồi Lycabette. Chảy qua Athen có sông Cephise và sông Ilissos. Athen cách biển 5 km, cách cảng Piraeus 8 km. Trong thành bang Athen có nhiều đồi, nổi tiếng là đồi Areopag, đồi Nymphen. Nằm giữa trung tâm thành bang Athen là núi đá vôi Akropolis cao 156 mét. Tường thành bao bọc Athen được xây vào những năm 461-456 tr. CN.
Athen nổi lên như một quốc gia thành bang hùng mạnh  và trở thành trung tâm chính trị và văn hoá của Hy Lạp sau trận đánh ở Marathon chống quân Ba Tư năm 490 tr. CN và sau trận đánh ở Salamis, Platea chống quân Ba Tư năm 480 tr. CN. Trong Thời đại Vàng của Athen, khoa học, nghệ thuật, triết học, kiến trúc phát triển mạnh và thành chuẩn mực cho các nền văn minh châu Âu sau này. Athen trở thành cái nôi của nền văn minh cổ điển. Thời đại Vàng này đồng thời là kỷ nguyên của văn học với Homer, Sophocle, Aeschyle, Euripides, là kỷ nguyên triết học với Socrates, Plato.
Quân địch cũng ngưỡng mộ  Sophocle
Kết cấu kịch chặt chẽ, đối thoại sắc sảo, giàu kịch tính là những đặc điểm trong kịch của Sophocle. Những đối thoại làm tăng kịch tính tạo nên “những sấm sét tâm lý” hết sức hồi hộp và đầy hứng thú. Sophocle cho rằng:
- Kịch phải thực sự là hình ảnh của cuộc  sống.
Tương truyền, giữa lúc thành bang Athen bị vây hãm, bốn bề không có lối thoát thì được tin Sophocle tạ thế. Địch quân đã mở một lối  đi, đứng kính cẩn nghiêng mình  chào tiễn nhà thơ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Trên mộ của Sophocle có chạm hình mỹ nhân ngư tượng trưng cho lối thơ duyên dáng, tươi sáng của thi sĩ.
Euripides
Euripides (480-406 tr. CN) là nhà viết bi kịch của Hy Lạp cổ đại.  Ông có kiến thức rộng, từng học tập và giao du với  nhiều người nổi tiếng đương thời như nhà triết học Anaxagoras, nhà ngụy biện Protagoras (hai người này bị chính quyền đương thời coi là những người lập dị).  Euripides sáng tác khi 25 tuổi. Ông  sống ở Athen đến năm 408 trước Công nguyên, sau đó sống ở Pella dưới triều của vua Archelaus xứ Macedonia và mất ở đây năm 406 trước Công nguyên.
Kịch của Euripides miêu tả các dục vọng của con người. “Electra” (413 tr. CN) là câu chuyện người con gái hiếu thảo, trả thù vì công lý; “Medea” (431 tr. CN) là câu chuyện một người đàn bà đánh ghen, giết tình địch, rồi giết luôn bay con của mình., “Hecuba”là câu chuyện tình mẫu tử. Hecuba đau khổ vì cảnh chồng chết, các con chết gần hết chỉ còn Polyxène và Polydore. Nhưng Polyxène bị vua chúa  dùng làm tế sinh.  Polydore lại bị  vua Polymestor lệnh quăng xuống biển. Đau đớn, hận thù, quả phụ Hecuba móc mắt vua Polymestor và giết con nhà vua này; “Iphigenia ở Aulis” là câu chuyện nhà vua tế sinh con gái Iphigenia để xin thần Artémis phò hộ cho đoàn thủy quân trong cuộc viễn chinh đánh thành Troy; “Cyclops” là kịch châm biếm chàng khổng lồ một mắt Polyphème.
Euripides - chứng nhân, bi kịch gia
Euripides là chứng nhân của những rối ren trong xã hội, sự tan rã của nền dân chủ Athen. Qua các bi kịch của mình, Euripides phản ánh hiện thực xã hội dân chủ chủ nô ở thời kỳ tan rã, đánh giá chân xác tôn giáo, thần thánh, xã hội, chiến tranh, nhân tình thế thái. Trong kịch của ông đã thấy sự hoà quyện Cái Hài với Cái Bi. Trọng tâm kịch của ông là thân phận con người, vận mệnh dân tộc. Ông là người sáng tạo ra “loại kịch tâm lý”, là “nhà thơ bi thảm nhất trong các nhà thơ”, là “họa sĩ vĩ đại” qua mô tả vẽ lên dục vọng của tình yêu và long  ghen tuông. Vì vậy các nhà phê bình  đánh giá:
- Toàn bộ sáng tác của Euripides là một bộ bách khoa toàn thư về xã hội Hy Lạp cổ đại.
Aristophanes
Aristophanes (445-386 tr. CN) là hài kịch gia Hy Lạp . Aristophanes  viết tất cả 44 hài kịch. Ngày nay chỉ còn lưu laị 11 vở kịch. “Kỵ sĩ” (Les Chevaliers, 424 tr.CN) là kịch công kích chính sách mị dân của Cleon; “Mây” (Nephelai, 423 tr.CN) là kịch đả phá Sokrates và phái ngụy biện; “Ong bò vẽ” (Sphekes, 422 tr.CN) là kịch giễu cợt tính ưa kiện cáo của dân Athen; “Hoà bình” (Eirene, 421 tr.CN) là kịch đả phá chiến tranh; “Chim” (Ornithes, 414 tr. CN) là kịch đả phá những tổ chức chính trị, hành chính thành bang Athen; “Lysistrata” (411 tr.CN) là kịch kết tội kẻ gây ra chiến tranh Pélopennèse làm Athen trở nên điêu tàn, kể về việc phản kháng của phụ nữ, làm cho các ông chồng ở hai bên tham chiến phải giảng hoà; “Ếch nhái” (405) là kịch phê bình văn chương, công kích Euripides; và các vở kịch “Hội đồng nữ giới” (392); “Plutus” (388 tr. CN); “Lễ tế thần” (411); “Người Archrnien” (425 tr. CN);
Lịch sử và hài kịch của Aristophanes
Trong số 11 vở kịch của Aristophanes còn lưu giữ tới ngày nay có 5 hài kịch châm biếm chính trị; 2 hài kịch phê bình văn chương, số còn lại thuộc về triết học và xã hội. Kịch của Aristophanes  phản ánh đầy đủ hiện thực xã hội, chế độ chính trị ở quốc gia thành bang Athen. Plato nói:
- Ai muốn biết lịch sử quốc gia thành bang Athen chỉ cần đọc hài kịch của Aristophanes là đủ.
Nguyên văn tiếng Hy Lạp thì tên nhà ngụ ngôn Hy Lạp cổ đại viết là Aisopos. Người ta biết rất ít về cuộc đời người nô lệ (ở đất Phrygie thuộc Tiểu Á) được giải phóng tên là Esope (thế kỷ 6 tr. CN), vì vậy đời Esope mang nhiều nét truyền thuyết. Ông từng đi chu du Athen, Corinth, Delphes.
Hổ chết để lại da,người ta chết để lại tiếng
Esope dị hình (gù lưng, bụng phệ, tay ngắn, răng thô, mũi hếch, da đen) đã thế lại nói cà lăm. Theo luật bù trừ của Tạo hóa, bù lại các khiếm khuyết ấy, Esope có trí thông minh tuyệt vời và tài ứng đối sắc sảo. Hình như câu nói:”Dị dạng kỳ tài”cũng có lý của nó trong trường hợp Esope. Ngụ ngôn Esope mở đầu cho truyền thống ngụ ngôn trong văn học dân gian và văn học bác học ở châu Âu và Arập.
Planude (thế kỷ XIV) đã sưu tập truyện ngụ ngôn viết bằng văn xuôi tiếng Hy Lạp của Esope và cho xuất bản trong cuốn sách “Cuộc đời Esope”. Theo Planude, ngụ ngôn của Esope là những câu chuyện rất ngắn gọn, không hề có tham vọng văn chương, kết thúc bằng một bài học luân lý. Ngụ ngôn của Esope có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần đương thời. Phải chăng vì thế mà có hiềm khích không tuyên chiến với các thầy Tư tế của tôn giáo đương thời. Esope bị vu cáo đã xúc phạm đến việc thờ cúng ở đền Apollo ở thành phố Delphes, bị ném từ trên núi cao xuống vực thẳm. Thần Apollo (theo Thần thoại Hy Lạp thì Apollo là Thần Anh sáng) bất bình trước hành động tàn bạo đó, đã giáng bệnh dịch xuống trừng phạt dân thành phố Delphes (nguyên văn tiếng Hy Lạp là Delphoi, tiếng Đức lại là Delphi, tiếng Pháp là Delphes).
Cái hóm của Esope
Trong một buổi dạ tiệc, những người cùng ăn một bàn đố nhau và giải câu đố như các nhà thông thái hay làm. Chủ của Esope cũng tham gia, nhưng tranh cãi (lấy được) như ở trường học.
Thấy chủ mình không có lý mà cứ hăng tiết, Esope nói:
- Khi Tửu thần ban tặng rượu cho con người thì giót cho 3 ly và chỉ cho cách uống: ly thứ nhất cho khẩu vị; ly thứ hai cho sự vui vẻ; ly thứ ba cho sự tức khí. Ông chủ đã uống cạn 2 ly cho khẩu vị và cho sự vui vẻ. Nếu ông chủ muốn tức khí thì hãy đến trường học.
Thói quen của nhà ngụ ngôn
Các câu chuyện ngụ ngôn hay nói về vật, nhưng ngụ ý rút ra một bài học luân lý cho con người. Theo Esope cái gì cũng phải học, kể cả khi đã già:
- Hãy đừng ngượng học hỏi khi về già: học muộn còn hơn là không bao giờ.
Trong cuộc sống, Esope khuyên nên biết chia vui với thành công của người khác:
- Nếu ai đó gặp may, đừng ghen tỵ với anh ta mà hãy chia vui  cùng với anh ta. Thành công của anh ta cũng là của bạn. Kẻ nào ghen tỵ, kẻ đó tự hành hạ mình.
Esope còn cho ta một lời khuyên về cách đối nhân xử thế giữa kẻ mạnh người yếu:
- Hãy quan tâm tới kẻ hèn yếu, ban phước cho họ để họ không những chịu khuất phục bạn, mà còn tôn trọng bạn như một người tốt bụng.
Theo Esope, thì hiểu biết mang lại nguy hiểm, nên khuyên:
- Những gì bạn nghe thấy nơi cung đình thì hãy để chúng chết đi trong thâm tâm bạn, còn hơn là bạn phải chết yểu.
Ông bảo:
- “Kẻ xấu xa”  đang và sẽ làm việc ác, không vì một cái gì cả.
LỜI BÌNH: Theo nhiều học giả về Hy Lạp, Homer là nghệ sĩ dân gian có công sưu tầm, chỉnh lý những tác phẩm còn truyền miệng hồi đó như bài ca truyền thuyết “Chiến tranh thành Troy”, “Ilias”, “Odysse”. Những truyền thuyết này mãi lâu sau mới được ghi lại bằng văn tự in thành sách.
Hai bản anh hùng ca “Iliat”, “Odysses” từng được coi là thánh kinh của người Hy Lạp, thường được nhắc tới khi nói về văn học thế giới. Hai bộ sách “Ilias”  và  “Odysse” vừa có giá trị văn học, đồng thời lại có giá trị sử học, nên được gọi là Sử thi.  Nó phản ánh trình độ văn minh, phong tục tập quán, quan niệm về đạo đức, tôn giáo của Hy Lạp cổ đại. Hai sử thi trên có ảnh hưởng to lớn đến văn hóa, giáo dục, được xem là nền tảng đạo đức, là những tác phẩm văn học mẫu mực cho những thế hệ sau ở Hy Lạp. Bielinski đánh giá:
-  Homer là cha đẻ của văn học Hy Lạp.
Sophocle sống trong thời kỳ thành bang Athen phồn thịnh nhất, dưới một chính quyền dân chủ đem lại cho mọi công dân ý thức trách nhiệm. Trong khi Aeschyle nói tới quyền lực của thần minh trong kịch thì ta thấy trong kịch của Sophocle động cơ tâm lý quyết định số phận nhân vật, qua đó quan hệ con người trong kịch trở nên thật hơn, tình tiết dẫn đến cốt truyện phong phú hơn, ngôn ngữ gần với đời sống hàng ngày, ý nghĩa nhân văn được đề cao lên một bước.
Sophocle được mệnh danh là “nhà thơ của thời kỳ dân chủ cực thịnh – thời đại Péricles”. Trong số 6 người con của ông có Iophon, Ariston cũng là những nhà viết bi kịch nổi tiếng
Trong gần 50 năm sáng tác, Euripides viết 90 vở kịch, ngày nay còn lưu giữ được 18 vở. Kịch của ông đề cập đến nhiều vấn đề chính trị đương thời, các xung đột tâm lý-xã hội như vị trí của phụ nữ, vấn đề nô lệ. Kịch của ông  phản ánh cuộc khủng hoảng xã hội, chiến tranh liên miên làm tinh thần của Athen bị giảm sút, dẫn tới sự suy tàn của quốc gia thành bang Athen.
Lúc đương thời, kịch của Euripides không được hoan nghênh. Euripides là hậu sinh của Aeschyle  gần nửa thế kỷ, của Sophocle gần 20 năm. Ông sống trong thời kỳ đầy biến động: mâu thuẫn giữa các phe phái. Quân Sparta xâm lược, Athen dân chủ thua, một nền chuyên chế độc đoán thay thế. Vì vậy ông được mệnh danh là thi sĩ thời kỳ dân chủ Athen suy tàn.  Aeschyle, Sophocle, Euripides là ba bi kịch gia lớn của Hy Lạp cổ đại.
Hài kịch Hy Lạp xuất hiện sau bi kịch một nử a thế kỷ. Aristophanes được coi là cha đẻ của hài kịch.Ông là người hay luận chiến. Aristophanes là người phát ngôn của nông dân bảo thủ chống lại tham vọng của nhóm thiểu số cầm quyền, chống bạo lực, chính sách mị dân. Aristophanes dùng kịch làm phương tiện đấu tranh chính trị. Trong kịch của ông đan xen cái thi vị có cả cái thô tục. Kịch ông được đông đảo công chúng hâm mộ.
Hai kịch gia Pháp Racine và Maurice Donnay đều có chịu ảnh hưởng ít nhiều ở Aristophanes. Ngày nay, hài kịch “Plutus”, “”Chim” của Aristophane vẫn được công diễn trên sân khấu Paris, Pháp.
Esope để lại cho đời sau 400 ngụ ngôn. Ngụ ngôn của Esope được mến mộ ngay từ thế kỷ V  trước Công nguyên, được đưa vào tất cả các nền văn học ở châu Âu và Arập, được Demetrios sưu tập,; được Babrias kể lại bằng thơ. Ngụ ngôn Esope trở thành mẫu mực cho các nhà ngụ ngôn các thế hệ sau này, trong số đó có Phedre, La Fontaine.
Homer, Euripides, Aristophanes, Esope, Sophocle là những người làm nên nền văn học nhân văn “tiêu chuẩn và mẫu mực”. Văn học Hy Lạp cổ đại với hệ thống các thần là nguồn cảm hứng vô tận cho sự phát triển của văn học phương Tây. Thực ra làm gì có thần. Cũng chưa ai nhìn thấy thần. Chưa ai từng sống ở vương quốc của các thần. Người Hy Lạp cổ đại tránh né việc động chạm trực tiếp với con người trần tục nên đã dùng một “tấm gương” cực kỳ lớn để soi chiếu đời sống xã hội Hy Lạp với tất cả vẻ đẹp cùng những xấu xa dơ bẩn.  Họ gắn cho mỗi thần một số khả năng , đức tính cùng thói hư tật xấu mà ai cũng thấy ở xã hội người Hy Lạp, rồi bảo những gì con người ngước mắt nhìn thấy trong gương là thần và những chuyện của thần. Từ vua chúa đến thần dân, ai ai cũng cho là như vậy và chẳng ai nổi giận khi thấy thói hư tật xấu,  vì ai cũng cười xoà cho đó không phải là lỗi của mình. Ai cũng biết văn học phản ánh hiện thực. Nhưng người Hy Lạp cổ đại lấy sân khấu (hiện thực được hư cấu) làm nơi nghe dư luận xã hội, dân chúng để lựa chọn những mô hình xã hội phù hợp.  Điều này ta thấy rõ nét trong cuộc sống, lối nghĩ và hành động của các nhà thông thái Hy Lạp cổ đại.  Hy Lạp là một trong những nền văn minh rực rỡ nhất thời cổ đại, có ảnh hưởng sâu rộng đến nền văn minh quanh khu vực Địa Trung Hải. Đây là nơi ra đời của nền dân chủ, triết học phương Tây và Thế vận hội Olympic.
Khi trong xã hội Hy Lạp không còn tự do và dân chủ thì cũng là lúc văn học nghệ thuật Hy Lạp từ từ tàn úa. Từ khi Hy Lạp giành được  độc lập từ tay đế chế Ottomanmn Thổ Nhĩ Kỳ năm 1829, đất nước này đã trải nghiệm nhiều hình thái chính phủ nhưng vẫn chưa tạo ra được một thời vàng son như trong quá khứ - thời cổ đại. Hy Lạp đang nỗ lực để mong có được một chỗ đứng trong cộng đồng châu Âu.
Lãng du trong văn học Pháp
13 năm lưu diễn là thời gian để Molière (1622-1673) học hỏi ở Trường đời, là vốn sống đầy sinh động cho việc sáng tác khi  bước lên vũ đài sân khấu Pháp. Molière  đã đưa kịch hề dân gian bắt chước kịch hề  của Italia thành hài kịch mang tính dân tộc Pháp, mở đường, định hướng cho sân khấu Pháp phát triển. Cái cười của Molière trên sân khấu Paris từ năm 1658 tới khi ông qua đời năm 1763, mang tính xã hội, có đủ cung bậc từ vui nhộn đến dí dỏm, từ chế giễu đến cay độc. Kịch của ông đi sâu vào tâm lý nhân vật, miêu tả chân thực cuộc sống, là tiếng nói của lương tri thời đại và của nhân dân. Molière là nhà văn tiêu biểu của văn học cổ điển chủ nghĩa Pháp, cha đẻ của hài kịch Pháp -một nhà viết hài kịch nổi tiếng trên văn đàn sân khấu thế giới. Nhà phê bình văn học Sainte-Beuve nhận xét:
- Nếu tổ chức đại hội các nhà văn lớn từ cổ chí kim trên trên toàn thế giới thì người đại diện duy nhất cho văn học Pháp phải là Molière.
Ba trăm năm nay, hài kịch của Molière luôn có trong chương trình diễn của các đoàn kịch nổi tiếng ở châu Âu.
Bỏ tất cả để được chạy theo đam mê sân khấu
Mẹ mất năm 10 tuổi, cậu bé Jean-Baptiste sống với ông ngoại Cressé. Ông ngoại rất đam mê sân khấu, thường dẫn cháu ngoại đi xem kịch ở quảng trường gần cầu Pont-Neuf. Niềm đam mê sân khấu hình thành trong đầu cậu bé từ đó. Năm 21 tuổi (1643), Molière cùng với anh em Béjart thành lập đội kịch “Illustre Theâtre” (Trứ danh), đội kịch hoạt động được 2 năm thì vỡ nợ. Molière bị tống giam vì không có tiền trả nợ. Bố Molière phải bỏ tiền chuộc. Nhân đó ông nhắc con trai cả về chuyện thừa kế:
- Cha muốn con sửa đổi, muốn con thừa kế gia sản nhà ta, sau này phát tài, làm quan to…
- Thưa cha, xin cha đừng buồn. Chức vụ cao quý của cha trong cung đình, gia sản lớn của gia đình sẽ có người thừa kế, nhưng không phải là con.
-  Ai sẽ thừa kế?
-  Em trai con
- Vậy con làm gì?
- Con vẫn đi diễn kịch, vì con rất thích.
Với phương châm “Castigat ridendo mores” (sửa chữa phong hóa bằng tiếng cười). Molière cống hiến trọn đời cho nghệ thuật sân khấu. Hài kịch của ông châm biếm, chế giễu thói hư tật xấu của tầng lớp thị dân (mới hình thành và đang phát triển) trong đời sống xã hội Pháp thế kỷ 17, dưới thời vua Louis XIV (Louis Grand).
TỪ TRUYỆN DON JUAN DÂN GIAN TÂY BAN NHA ĐẾN DON JUAN CỦA MOLIÈRE  TRONG VĂN HỌC PHÁP
Don Juan là nhân vật dân gian (truyền miệng) Tây Ban Nha, nhân vật này xuất hiện lần đầu (thành văn) trong kịch El burlado de Sevilla y convidado de piedra của Tirso de Molina (công diễn năm 1613, in thành sách năm 1630). Don Juan là người vô thần, dám phỉ báng Chúa, thích phiêu lưu trong chuyện tình ái, có tài quyến rũ, lừa đảo phụ nữ mọi đẳng cấp: nữ công tước, thiếu nữ quý tộc, cô gái đánh cá, cô gái nông thôn. Don Juan bị trời trừng phạt, đày xuống địa ngục.  
Kịch “Don Juan” dân gian Tây Ban Nha là hề kịch tính cách (kịch vui dân gian) về một Don Juan (có bản năng *Tính Đực mạnh mẽ) có tài  quyến rũ phụ nữ.
Năm 1665, nhà văn người Pháp Molière viết hài kịch  “Don Juan” từ chất liệu của văn học dân gian Tây Ban Nha: hề kịch “Don Juan”. Hài kịch của Molière viết bằng văn xuôi, có 5 hồi, công diễn lần đầu ngày 5.11.1665. Don Juan là một nhà quý tộc, quyến rũ Elvire bỏ tu viện theo mình. Đối với Don Juan:”Hạnh phúc ở cuộc đời này là quyến rũ được tất cả đàn bà mà không yêu một ai cả!”. Don Juan bỏ rơi Elvire, chạy theo những cuộc phiêu lưu tình ái khác. Don Juan và người đầy tớ Sganarelle bị đắm thuyền. Anh nông dân Pierrot đã cứu vớt hai chủ tớ. Thoát nạn, hoàn hồn, Don Juan lại tán tỉnh ngay vợ chưa cưới của Pierrot là Charlotte và tán luôn cả cô gái Mathurine. Để trả thù cho em gái  Elvire, Don Carlos lùng bắt Don Juan. Chủ tớ chạy trốn vào rừng. Trong rừng, Don Juan thuyết giảng cho đầy tớ biết rằng, mình chẳng tin Chúa, cũng chẳng tin địa ngục, thiên đường, điều tin duy nhất là: hai với hai là bốn… Tình cờ, Don Juan cứu Don Carlos khỏi tay bọn cướp chặn đường trong rừng. Cảm mến Don Juan nên Don Carlos bỏ ý định trả thù.  Hai thầy tớ tiếp tục lên đường. Khi đi qua mộ quận công mà chính Don Juan đã giết sáu tháng trước đây, Don Juan mời bức tượng đá của quận công đến nhà dùng cơm tối.
Don Juan bị sét đánh chết khi bắt tay tượng đá.
Nhân vật “Don Juan” trong hài kịch của Molière  có đầy đủ những cá tính của một con người thời Molière sống: không những vô thần, thích lừa phỉnh phụ nữ, mà còn là một đứa con hư, một tay lừa bịp thích gây tội ác. Hắn nổi tiếng với câu: “Ta, ta chỉ tin hai với hai là bốn và bốn với bốn là tám” và câu nói rất đặc trưng của chủ nghĩa tư bản: ”Cho ngươi (người ăn xin) đồng Louis vàng này vì tình yêu thương con người”  
Cặp bài trùng trong hài kịch là Don Juan (tượng trưng cho quý tộc đang hết thời nhưng tham tàn, phóng đãng: tiền, tình, tội lỗi) và tên đầy tớ dốt nát, ngốc nghếch  nhưng bẻm mép. Chủ chết, hắn chẳng nghĩ gì ngoài tiền công:
- Ôi tiền công của tôi!  Tiền công của tôi!
Lời kể lể sướt mướt của Sganarelle cứ như lời kết tội Don Juan:
Ai thấy hắn chết cũng thỏa nguyện! Chúa bị phỉ báng, pháp luật bị xúc phạm, các cô gái bị cám dỗ, các gia đình bị bôi nhọ, các bậc cha mẹ bị xúc phạm, các bà vợ bị ô nhục, các ông chồng bị đẩy đến bước đường cùng. Ai ai cũng vừa lòng, chỉ có một mình tôi là khốn khổ. 
Nhân vật Don Juan của Tây Ban Nha chu du *Italia, Đức, Anh và nhiều nước khác nhưng không trở về quê cũ Tây Ban Nha. Don Juan “sống và thành đạt” trên đất Pháp qua bàn tay thiên tài của Molière. Hài kịch “Don Juan” vẽ lên bức tranh nước Pháp thế kỷ 17 khi giai cấp quý tộc suy vi nhưng vẫn còn nắm bộ máy thống trị phong kiến (nhà quý tộc Don Juan có thể sống phóng đãng). Giai cấp tư sản trưởng thành trong lòng phong kiến. Thế cân bằng chính trị đối lập đã xuất hiện (thế quân bình chính trị). Với Pháp lệnh Nant (Edit de Nantes) của vua Henri ban hành năm 1598, nước Pháp thế kỷ 17 là giai đọan ổn định nên kinh tế, thương mại phát triển. Thế kỷ 17 cũng được gọi là thế kỷ của cổ điển chủ nghĩa (tỷ lệ cân đối, toàn mỹ tổng thể) trong văn học Pháp.
*/ theo quan niệm phồn thực dân gian thì đó là bảo vật để duy trì và phát triển nòi giống vì ngày xưa tỷ lệ chết của trẻ con rất cao - hữu sinh vô dưỡng=  đẻ mà không nuôi được.
 Sau một trận thua, binh sĩ chết nhiều. Napoleon nói với các tướng lĩnh:”Chỉ sau một đêm carnerval (hội hóa trang) ở Paris là nước Pháp có một thế hệ mới.
*/ Dựa theo chất liệu Don Juan TBN, nhà văn người Italia G.A. Cicogignini viết hài kịch Il  convitato di pietra  năm 1650.       
Năm 1787, nhà soạn nhạc người Đức W. A. Mozart viết vở opera Don Giovanni dựa theo cốt truyện dân gian Don Juan của Tây Ban Nha.
Cũng dựa theo cốt truyện dân gian Don Juan  của Tây Ban Nha  nhà văn người Đức E. T. A. Hoffmann đã viết truyện ngắn Don Juan năm 1813.         
Tương tự, nhà văn người Anh George  Gordon  Noel  Lord Byron  đã viết trường ca hài hước Don Juan vào thời gian 1819-1824.
Lãng du trong văn học Trung Quốc
Văn học Trung Quốc nói chung rất phong phú. Thơ đời Đường và tiểu thuyết đời Minh- Thanh là hai thể loại văn học có những thành tựu lớn lao, là đóng góp của Trung Hoa vào nền văn học thế giới. Nhà Đường chỉ tồn tại gần 300 năm (618-907), nhưng có tới 2.300 tên tuổi là thi sĩ với gần 49.800 bài thơ (theo sách Toàn Đường thi soạn năm 1705 trong Đời Thanh) Thơ Đường giàu về số lượng, muôn màu muôn vẻ của Nho-Phật-Lão, hình thức điêu luyện với  thi tiên Lý Bạch, thi thánh Đỗ Phủ và trở thành mẫu mực của thơ ca cổ điển Trung Hoa Tiểu thuyết là thể loại văn học mới phát triển ở thời Minh – Thanh trên cơ sở những chuyện kể trong dân gian về những sự tích lịch sử. Những tác phẩm lớn, nổi tiếng của thời Minh là Thủy Hử của Thi Nại Am, Tam quốc chí diễn nghĩa của  La Quán Trung, Tây du ký của Ngô Thừa Ân, của thời Thanh là Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần. Những tiểu thuyết trên đồng thời là những bộ tiểu thuyết lớn của văn học thế giới.
Thủy Hử phản ánh cuộc đấu tranh của giai cấp nông dân: khởi nghĩa nông dân, chiến tranh nông dân trong xã hội phong kiến Trung Hoa. Tam quốc chí diễn nghĩa miêu tả tình hình phức tạp của đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị trong ngót một thế kỷ (từ đời Linh đế (184) tới đời Vũ đế (280). Tây du ký nói về Tôn Ngộ Không hàng phục yêu quái, vượt mọi trở ngại để cùng Đường Tăng Huyền Trang sang Tây thiên lấy kinh. Chúng tôi chọn Hồng Lâu mộng (giấc mộng lầu son), để bạn đọc có thể tham chiếu 3 bộ tiểu thuyết lớn về dòng họ của Trung Quốc, Đức, Mỹ của văn học thế giới, đồng thời ba bộ tiểu thuyết này là 3 bức tranh thu nhỏ về bước đường suy tàn của xã hội Trung Quốc, của Đức, của Mỹ với những đặc trưng của từng nước. Qua đó  thấy được nét đặc sắc của những bộ tiểu thuyết ấy, thấy được bản sắc dân tộc thể hiện trong những tác phẩm văn học đó.
Hồng lâu mộng  của Tào Tuyết Cần (1716- 1763 - Trung Quốc);
Dòng họ Buddenbrook của Thomas Mann (18-1955 -  Đức);
Âm thanh và cuồng nộ của William Faulkner (18 -1962) - Mỹ ); 
Lý Bạch (701 - 762) là nhà thơ đời Đường, Trung Quốc. Máu lãng du đưa ông tới khắp mọi miền của đất nước Trung Hoa. Chồn chân mỏi gối, ông về ẩn cư ở Lô Sơn. Ông giỏi về  miêu tả cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ, diễn đạt tình yêu đất nước non sông. Thơ ông hùng tráng, sảng khoái, tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ tự nhiên, âm điệu hài hoà biến hóa. Thơ ông thể hiện rõ nét tư tưởng Nho gia, Đạo gia, tư tưởng  du hiệp. 
Ông là đỉnh cao mới về thơ lãng mạn tích cực sau Khuất Nguyên. Những bài thơ được mọi người truyền tụng là “Thục đạo nan”; “Hành lộ nan”;  “Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt”; “Tĩnh dạ từ”; “Tảo phát Bạch Đế thành” v.v. Thi tiên Lý Bạch để lại cho đời sau gần 1.000 bài thơ  trong “Lý Thái Bạch tập”.
Với Lý Bạch, thơ lãng mạn trong văn học Trung Quốc đã đạt đến đỉnh cao của nó.
Tình bạn của thi tiên thi thánh
Năm 744, Lý Bạch rời Trường An đến Lạc Dương kết giao với Đỗ Phủ, hai nhà thơ ở chung với nhau nửa năm, trở thành đôi bạn keo sơn. Đỗ Phủ  (kém Lý Bạch 11 tuổi)  đã bộc bạch cảm xúc của mình qua các câu thơ:
Tôi cũng khách xa quê,
Coi bác như anh ruột.
Đêm say ngủ chung chăn,
Ngày khoác tay dạo bước.
Tính cách của Lý Bạch đúng là phong cách của người “thông kinh thư, xem bách gia”, của người đi nhiều, óc lãng mạn, tâm hồn hào phóng, tấm lòng rộng mở.
Cách tân thi pháp thơ
Lý Bạch có sáng tạo mới trong hình thức nghệ thuật, ông không mù quáng bắt chước cổ nhân, ông đề xuất phong cách thơ thanh chân (trong sáng chân thực), khí vận thiên thành (nội dung vần chữ tự đến mà thành). Ông táo bạo trong dùng ngôn từ, thể hiện rõ tính quy luật trong vận hành của tự nhiên. Cảnh hùng vĩ của thiên nhiên:
Sông Hoàng Hà chảy vỡ núi Côn Lôn,
Thét gào muôn dặm  húc Long Môn.
Đạo của tự nhiên:
Con sông Hoàng Hà lưng trời tuôn nước,
Xuống biển rồi có ngược lên đâu!
Tư tưởng Nho gia, Đạo gia, máu hiệp khách
Năm 742, Lý Bạch được bạn là Ngô Quân tiến cử. Đường Huyền Tông cho Lý Bạch làm Hàn lâm cung phụng (văn nhân ngự dụng: làm thơ ca ngợi công đức). Tư tưởng Nho gia thể hiện qua hy vọng, dịp “giúp vua để thiên hạ yên ổn, bốn bề thanh bình” đã đến. Nhưng sau ba năm, ông thấy mình chỉ là kẻ góp vui trong chốn cung đình:
Dùng châu ngọc mua tiếng cười điệu hát
Lấy tấm cám nuôi dưỡng kẻ hiền tài.
Ông tự nguyện rời cung đình, tư tưởng Đạo gia thể hiện qua việc lấy rượu, cảnh thiên nhiên để giải “vạn cổ sầu”:
Đời người đắc ý cứ vui tràn,
Chớ để bình vàng suông bóng nguyệt!
Thánh hiền tên tuổi bặt đi,
Chỉ phường thánh rượu tiếng ghi muôn đời!
Ông uống rượu để:
Khối *sầu vạn cổ đập tan hoang 
(bài  Cùng uống rượu)
Thác nước Hương Lô trong bài Vọng Lư Sơn có những câu:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà  tuột khỏi mây.
Rồi có lúc tư tưởng du hiệp nổi lên. Lúc ấy Lý Bạch bảo:
Nho sĩ đâu bằng người hiệp sĩ,
Bạc đầu đọc sách có hay gì?
sầu vì chiến tranh, loạn lạc, tha hương
Đỗ Phủ (712 - 770, Du Fu) là nhà thơ hiện thực lớn nhất đời Đường. Ông sinh trong một gia đình có truyền thống văn học. Ông nội Đỗ Thuần Ngôn là nhà thơ nổi tiếng. Đỗ Phủ tự hào nói: ”Thơ ca là việc của nhà tôi”.
Thơ Đỗ Phủ phản ánh chân thực các cảnh tượng xã hội đời Đường trong quá trình chuyển biến từ cực thịnh đến suy vong, Những bài thơ được truyền tụng nhất là  “Tam lại”(ba ông quan lại); “Tam biệt” (ba lần ly biệt); “Thu hứng” (cảm hứng thu); “Xuân vọng” (hướng về mùa xuân); “Đồng quan lại”; “Thùy lão biệt”; “Vô gia biệt”; “Bình xa hành”; “Đề tài trong thơ Đỗ Phủ rất rộng: cảm hoài, vịnh vật, đề họa, hoài cổ, đời sống cung đình, xã hội. Thơ ông tình cảm sâu đậm, phong cách đa dạng, âm vận cách luận, mang tính hiện thực cao, có ảnh hưởng sâu xa trong lịch sử văn học, nên ông được  tôn là “thi thánh”.
Thi tiên, thi thánh
Đời Đường (618-907) dài gần 300 năm, nhưng chỉ có nửa đầu là thịnh trị. Lọan An Lộc Sơn đẩy nhà Đường tới suy vong. Nhiều khi sự phát triển của văn học không song hành với những biến động xã hội. Gần 300 năm đời Đường là ba thế kỷ của đỉnh cao trong lịch sử văn học Trung Quốc. Trong khi thơ Lý Bạch phóng túng, lời lẽ súc tích, ý tứ siêu thoát, kỹ thuật tài tình với những thể thơ tự do  như cổ phong, nhạc phủ, ca hành thì thơ của Đỗ Phủ gắn liền với những biến động của cuộc đời ông và xã hội ông đang sống bằng lời lẽ trau chuốt với những bài luật thi 5, 7 chữ (ngũ ngôn tuyệt cú, thất ngôn tuyệt cú). Thơ Lý Bạch  vui với rượu cùng trăng 
Đời người đắc ý cứ vui tràn,
Chớ để bình vàng suông bóng nguyệt!
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
Thì thơ Đỗ Phủ là tiếng ai oán của dân chúng thời lọan lạc, là tiếng than của oan hồn trong gió:
Thanh Hải ngoài xa anh có thấy:
Từ xưa xương trắng cứ phơi hoang
Quỷ mới hận sầu, ma cũ khóc
Trời tối mưa dầm tiếng thở than.
Lý Bạch xuất hiện như ông tiên trong thơ, Đỗ Phủ xuất hiện như thánh hiền. Lý Bạch được người đời mệnh danh là thi tiên, Đỗ Phủ  được người đời kính trọng gọi là thi thánh.
Nỗi đau nhân thế
Lý tưởng chính trị  của Đỗ Phủ là tư tưởng Nho gia. Ông chủ trương “trung quân”, nhưng phản đối “bạo chúa”, chủ trương làm một kẻ đại trượng phu “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (giầu có sang trọng không hoang dâm, phóng túng; nghèo khó ti tiện không thay đổi tiết tháo, uy thế và vũ lực cũng không khuất phục được mình – Nguyễn Khắc Viện dịch). 
Nhưng cảnh đời lại không chiều lòng người, cái khó, cái khổ đeo Đỗ Phủ tới tận tuổi già. Tiếng than bi  thiết bật ra từ ông:
Trăm năm thơ tự khổ,
Chưa gặp một tri âm.
Từ đời Tống trở về sau, tài năng thơ của Đỗ Phủ được đánh giá cao. Hai đời Nguyên, Minh tuyển thơ Đỗ Phủ liên tục xuất hiện. Hoàng Đình Kiên  bảo:
Làm thơ mấy ngàn bài,
Sáng soi cùng nhật nguyệt.
LỜI BÌNH: Đời Đường, Trung Hoa là một quốc gia văn minh trên thế giới. Các vua đời Đường đều coi trọng văn học và yêu thích thơ, nên không khắt khe với thơ văn, thậm chí còn mở một nhạc phủ trong Lê Viên. Nhà Đường quy định lấy thơ, phú để chọn kẻ sĩ, nên nhiều nhà văn, nhà thơ tìm đường tiến thân bằng con đường khoa cử. Thời Đường kinh tế phát triển. Những yếu tố trên là những thuận lợi cho việc phát triển văn thơ. Thơ Đường được chia thành 4 giai đoạn: 
1. Sơ Đường (618-713)  
2. Thịnh Đường (713-766)     
3. Trung Đường (766-835)    
4. Vãn Đường (835-907).  
Hai khuynh hướng chính trong thơ Đường là trữ tình, lãng mạn (Lý Bạch), và hiện thực xã hội (Đỗ Phủ). Thơ Đường là đỉnh cao của thơ văn Trung Hoa, đồng thời cũng là đỉnh cao của văn học thế giới, bởi nó kết hợp nhuần nhuyễn hình thức và nội dung, âm điệu hài hòa, đa dạng, súc tích. Nhà thơ đời Đường chủ trương, thơ phải có “ký thác”- phải nói lên tâm tình của mình: ghi lại cảm xúc trước hiện thực cuộc sống, vì vậy chỉ có bình thơ, không có phê bình thơ.  Theo chủ nghĩa nhân văn Trung Hoa, nhân loại là trung tâm của vũ trụ. Lâm Ngữ Đường cho rằng, đặc tính của người Trung Hoa là tập trung vào hưởng thụ trong phạm vi vật chất mà họ có được ở cõi trần này. Họ “vui với lẽ trời, hưởng một nếp sống thuần phác, đơn sơ, nhất là một nếp sống gia đình, cùng quan hệ xã hội hài hòa”. Lâm Ngữ Đường nhận xét, mái nhà của người Trung Hoa “không vươn lên trời cao, mà xòe ra che chở mặt đất”. Hạnh phúc của người Trung Hoa “phát sinh từ gia đình”. Chủ nghĩa nhân văn Trung Hoa và người Trung Hoa như vậy nên họ ung dung khi đọc thơ để cảm cho thấu cái hay, cái tế nhị của tiếng Hán( vốn là ngôn ngữ đơn âm, ngôn ngữ tượng hình). Một từ Hán đã bao hàm nhiều ý và có nét đẹp riêng (vì vậy mà có môn Thư pháp). Thi sĩ Trung Hoa bảo, “thơ chỉ để diễn tả lúc xuất thần, thơ phải cho ta thấy cả một bức tranh trong một nét”. “Cổ nhân cho rằng thơ thì phải ý tại ngôn ngoại, người đọc thơ  phải tự tìm”. 
Đời Đường, Nho-Phật-Lão cùng tồn tại, cùng phát triển.  Thơ  Đường phong phú, đa dạng,  phản ánh rất rõ nét tư tưởng Nho-Phật –Lão – phản ánh đời sống tâm linh Trung Hoa.
TÀO TUYẾT CẦN (1716-1763) VÀ TIỂU THUYẾT DÒNG HỌ “HỒNG LÂU MỘNG”
Trong đời mình, Tào Tuyết Cần nhìn thấy và trải nghiệm quá trình từ cực thịnh đến suy vi của dòng họ Tào. Biến cố ấy đưa Tào Tuyết Cần đến nhận thức sâu sắc về xã hội, về vận mệnh của giai cấp phong kiến.
Tào Tuyết Cần viết “Hồng Lâu Mộng”(Giấc mộng lầu son) trong những năm vô cùng nghèo khổ: ”Từng chữ, từng chữ đều là máu, khổ cực mười năm không phải chuyện bình thường”. Tiểu thuyết HLM có 120 hồi. Tào Tuyết Cần đã sửa chữa 5 lần 80 hồi đầu, 40 hồi cuối còn ở dạng bản thảo. 28 năm sau khi TTC mất, nhà văn Cao Ngạn căn cứ vào bản thảo viết tiếp 40 hồi cuối cùng. Bi kịch tình yêu của Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc - hai anh em con cô con cậu-, cảnh hưng vong của 4 dòng họ lớn Giả, Sử, Vương, Tiết  phản ánh sự suy đồi đạo đức khi suy vi của giai cấp phong kiến và vai trò của giai cấp phong kiến đang lùi dần vào đằng sau vũ đài lịch sử. Tiểu thuyết  Hồng Lâu Mộng có tất cả hơn 400 nhân vật với những tính cách khác nhau, đề cập tới mọi thể chế kinh tế, chính trị, văn hóa cùng mọi giai tầng trong xã hội với  đủ mọi ngành nghề từ văn học nghệ thuật tới bói toán, tham thiền ngộ đạo. Tất cả  nằm trong vòng xóay của những mâu thuẫn  và biến động xã hội.  Nổi bật là những nhân vật Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa, Vương Hy Phượng… Tiểu thuyết diễn đạt “tình và lý” Hồng Lâu Mộng giống như bức tranh hoành tráng rất sinh động về xã hội phong kiến Trung Hoa. Trong khi thiên hạ đang chán lối gò gẫm, gượng gạo uốn lựa theo thời thế của “Kinh học” thì  văn phong của Hồng Lâu Mộng chuẩn xác, nhuần nhuyễn, giản dị, trong sáng, thoải mái tự nhiên, chân thực với *mộng và thực nên đầy hấp dẫn..  Đây là bộ tiểu thuyết  kết hợp thơ văn hay nhất trong nền tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. 80 hồi của Tào Tuyết Cần lấy tên là Thạch đầu ký (Câu chuyện hòn đá) và lưu truyền dưới hình thức bản chép tay trong số bạn chí thiết.  Sách đổi tên là Hồng Lâu Mộng, khi Trình Vĩ Nguyên và Cao Ngạc ra trọn 120 hồi năm 1791 (Trình giáp bản – bản A). Sách được sửa chữa và khắc lại in năm 1792 (Trình ất bản – bản B). Thiên hạ bấy giờ đua nhau mua tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng, (khắp kinh thành nhà nào cũng phải có một bộ trên bàn- theo Sái Thư đường bút ký) và ca ngợi HLM “là tác phẩmhay nhất không có gì hay hơn trong hàng tiểu thuyết – Theo Từ dư tùng thoại). Họ kháo nhau: “Chuyện trò không nhắc Hồng lâu mộng, đọc hết thi thư cũng phí hoài”. 
Đây  là bộ tiểu thuyết  kết hợp thơ văn hay nhất trong nền tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc.  80 hồi của Tào Tuyết Cần lấy tên là Thạch đầu ký (Câu chuyện hòn đá) và lưu truyền dưới hình thức bản chép tay trong số bạn chí thiết.  Sách đổi tên là Hồng Lâu Mộng, khi Trình Vĩ Nguyên và Cao Ngạc ra trọn 120 hồi năm 1791 (Trình giáp bản – bản A).  Sách được sửa chữa và khắc lại in năm 1792 (Trình ất bản– bản B). Thiên hạ bấy giờ đua nhau mua tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng, (khắp kinh thành nhà nào cũng phải có một bộ trên bàn- theo Sái Thư đường bút ký) và ca ngợi HLM “là tác phẩmhay nhất không có gì hay hơn trong hàng tiểu thuyết – Theo Từ dư tùng thoại). Họ kháo nhau: “Chuyện trò không nhắc Hồng lâu mộng, đọc hết thi thư cũng phí hoài”. Số người nghiên cứu tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng ngày càng đông, đông đến mức trở thành  trường phái “Hồng học”, cho “Hồng học mới là văn học đích thực”(Đầu đời Quang Tự, sĩ đại phu kinh triều đều đọc (HLM) rất say mê).- Một sự kiện hiếm thấy trong lịch sử văn học thế giới. Năm 1794 - 2 năm sau khi xuất bản,  Hồng Lâu Mộng đã ra ngoài biên giới Trung Quốc truyền sang Nhật Bản và tiếp theo là một số nước Đông Nam Á.  HLM đã được dịch sang tiếng Anh (vàao cuối thế kỷ 19), tiếng Pháp, Nga, Đức (vào đầu thế kỷ 20). Đến nay tổng cộng đã được dịch ra 16 ngôn ngữ khác nhau. Cùng với hội thảo Hồng Lâu Mộng năm 1980 ở Cáp Nhĩ Tân Trung Quốc là việc thành lập Hội Hồng Lâu Mộng học Trung Quốc. Trường Đại học Wisconsin Mỹ đã tổ chức Hội thảo Hồng Lâu Mộng quốc tế lần thứ nhất vào mùa xuân 1980. Hội thảo HLMQT lần thứ hai họp ở Cáp Nhĩ Tân tháng 6 năm 1986 (xin bạn đọc tham khảo *Hội nghiên cứu Hegel quốc tế).  
Thông qua bi kịch tình yêu tay ba Bảo Ngọc (cả họ Giả đặt kỳ vọng vào Giả Bảo Ngọc trong con đường thi cử làm quan, thì Bảo Ngọc lại chán chường cảnh ấy), Đại Ngọc, Bảo Thoa (Bảo Ngọc yêu Đại Ngọc, nhưng do gia đình họ Giả đánh tráo trong đám cưới –cô dâu lại là Bảo Thoa. Đại Ngọc buồn mà chết. Bảo Ngọc uất ức đi tu. Bảo Thoa trở thành quả phụ. Tác giả  nói về sự suy vi của một gia đình đại quý tộc (cái bóng hình sự suy vi của dòng họ Tào, mà đến đời Tào Tuyết Cần thì sa sút). Sự tương phản bộc lộ rõ qua hai thế hệ- hai tuyến nhân vật. Lớp trẻ với những vui buồn trong tình yêu; lớp gia trưởng đầy tính toán trong cuộc sống. Nói rộng ra là tác giả đã dự cảm sự suy tàn của phong kiến Trung Quốc.
Lỗ Tấn nhận xét:
-  Tào Tuyết Cần đã phá vỡ tư tưởng và cách viết truyền thống.
Đời Minh  (Minh Dynastie: 1368-1644) là thời đại hoàng kim của tiểu thuyết Trung Quốc với Tam quốc chí diễn nghĩa; Tây du ký; Thủy Hử.  Đỉnh cao của tiểu thuyết Trung Quốc xuất hiện  lại ở đời Thanh (Thanh Dynastie: 1644-1911) với “tác phẩm bất hủ của nhân lọai:  “Hồng lâu mộng”,  (lời Lâm Ngữ Đường).
*/ Bảo Ngọc mộng chơi cõi Thái Hư. Tần Khả Khanh báo mộng Vương Hy Phượng. Bảo Ngọc mộng thấy Tinh Văn. Tập Nhân mộng thấy Bảo Ngọc.
*/ Tháng 4.1930 tại Hague, Hà Lan, người ta đã thành lập Hội nghiên cứu Hegel quốc tế, cứ 2 năm họp mặt một lần.
LỜI BÌNH: Chúng ta có thể rút ra được những bài học rất sâu sắc từ những trang lịch sử, nhưng bài học sâu sắc nhất, sống động nhất là bài học rút ra từ cuộc sống. Chính vì vậy mà tiểu thuyết “Hồng Lâu Mộng” cuốn hút, hấp dẫn bạn đọc và giới nghiên cứu. Người Trung Quốc ung dung, chầm chậm đọc tiểu thuyết (họ nằm đọc) để giết thời giờ. Tiểu thuyết Trung Hoa dùng kỹ thuật tả chân, tả tỉ mỉ các chi tiết trong cuộc đời nhân vật như “thực”,người đọc thưởng thức tiểu thuyết bằng cách soi bóng tiểu thuyết trong hiện thực xã hội. Các tình tiết trong “Hồng lâu mộng” nổi bật lên trên khung cảnh “thịnh rồi suy của một vọng tộc”. Trung Hoa thời xưa, nhà Nho coi tiểu thuyết là thứ văn chương thấp hèn, nên các tiểu thuyết gia Trung Hoa thường giấu tên. Mặt khác họ viết tiểu thuyết là do nhu cầu nội tại, vì thích sáng tác, họ sống ẩn dật để viết tiểu thuyết (Trung Hoa thời xưa không có nhuận bút cho tiểu thuyết).
Lương Văn Hồng
Theo http://www.vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...