I) NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN:
1) Thơ và họa:
Nếu người nhạc sĩ dùng những
nốt nhạc để tạo nên những giai điệu êm ái ngọt ngào hay hùng tráng
làm cho người nghe say sưa thích thú thì người hoạ sĩ cũng có những vật liệu để
hình thành tác phẩm. Những nguyên liệu ấy Mendelowits gọi là yếu tố tạo
hình; Edmund Burk Felman gọi là yếu tố thị quan: ngữ pháp; Đăng Ngọc Trân
gọi là cấu trúc ngữ pháp. Theo ông Đặng Ngọc Trân thì “Dù là người tiền sử
hay người hiện đại, dù là hoạ sĩ cổ điển hay hoạ sĩ trừu tượng đều phải dùng tới
các yếu tố: Đường nét, hình dạng, giá trị, độ nhẵn và màu sắc để tạo nên một
tác phẩm hội hoạ” [11,47].
Hội hoạ có nhiều trường phái
khác nhau- Hiện thực, ấn tượng, lập thể, siêu thực, dã thú...
Khác với các nhạc sĩ, hoạ
sĩ, các nhà văn nhà thơ lại dùng ngôn từ để tạo nên những tác phẩm
văn chương làm mê hoặc người đọc. Nói như M.Gorki “Yếu tố đầu tiên của văn học
là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và - cùng với các sự kiện, các hiện tượng của
cuộc sống - là chất liệu của văn học” [32,206]. Ngôn từ trong tác phẩm văn
chương phải là những ngôn từ đã được nâng lên đến trình độ nghệ thuật và phải đảm
bảo tính chính xác, tính hàm súc, tính biểu cảm, tính hình tượng.
2) Mối quan hệ giữa thơ và
hoạ:
Cùng thuộc nhóm nghệ thuật
đơn tính (Không kể hội họa ứng dụng, văn chương ứng dụng) hoạ và thơ có mối
quan hệ gần gũi. Trác Ngô Tử khi nhận xét mối quan hệ giữa thơ và hoạ thì cho rằng
“Hoạ đâu chỉ có vẽ hình, mà phải có cả hình lẫn thần; thơ đâu phải ở bên ngoài
hoạ, mà ở chỗ nêu được cái thần thái trong hoạ” [18,164]. Còn nhà hoạ sĩ vĩ đại
Leonardo da Vinci thì cho rằng “Hoạ là thi ca bằng thị giác” [11, 51].
Tác phẩm nghệ thuật tạo
hình- một bức tranh, một pho tượng, một công trình kiến trúc ...dù được thực hiện
bằng tay song nó chủ yếu là sản phẩm thẩm mỹ của con mắt. “Con mắt là kênh
đối thoại giữa người xem và tác phẩm. Vì vậy thông tin thị giác, thông tin thẩm
mỹ thị giác, ngôn ngữ thị giác và cụ thể hơn là ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình
xây dựng trên cơ sở cơ cấu hoạt động và đặc trưng chức năng của con mắt” [50,
6]. Hội hoạ thuộc loại hình “nghệ thuật không gian, nghệ thuật tĩnh ...có sở
trường diễn đạt cái cụ thể –theo nghĩa nhìn thấy trước mắt- và đứng yên. Khả
năng này gíup con người tạo môi trường không gian đẹp quanh mình, giúp cho sự lắng
đọng cảm xúc” [19,78]
Những sắc độ màu, sự chuyển
động của nét và những biến thể của hình khối thể hiện trong tác phẩm văn chương
không có tính chất cụ thể như trong tác phẩm của loại hình nghệ thuật tạo hình.
Nhưng không phải bất cứ tác
phẩm văn chương nào cũng có chất hoạ. Mức độ ít hay nhiều đậm hay nhạt còn tuỳ
thuộc vào khả năng của người sáng tác, tuỳ thuộc vào loại hình của từng tác phẩm
văn chương.
II) Cơ cở chất họa trong tác
phẩm Truyện Kiều:
1) Ngôn ngữ tiếng Việt:
“Trong tiếng Việt, có một loại
đơn vị đặc biệt gọi là tiếng. Về ngữ âm, một tiếng là một âm tiết. Hệ thống âm
vị tiếng Việt rất phong phú và có tính chất cân đối, tạo ra tiềm năng to lớn của
ngữ âm tiếng Việt trong việc thể hiện các đơn vị có nghĩa. Nhiều từ tượng
hình tượng thanh có giá trị gợi tả đặc sắc”[3,39]. Tận dụng đặc điểm này
các nhà văn, các nhà thơ đã tạo nên không ít bức họa trong văn thơ. Khuôn mặt
Chí Phèo khi hắn uống rượu say, khuôn mặt Lão Hạc khi bán con chó vàng... là những
bức hoạ sinh động bằng ngôn ngữ sống mãi với thời gian.
2) Tính tạo hình trong hình
tượng văn học:
Tính tạo hình trong hình tượng
văn học là một phẩm chất không thể thiếu được của hình tượng, không có tạo hình
thì hình tượng không có cơ sở để tồn tại. Tạo hình bao gồm việc tạo cho hình tượng
một không gian, thời gian, những sự kiện và những mối quan hệ giàu cảm xúc. Nhờ
tạo hình mà hình tượng hiện lên một cách cụ thể qua chất liệu. “Trong hội hoạ tạo
hình biểu hiện trực tiếp qua đường nét, màu sắc, trong điêu khắc tạo hình biểu
hiện qua đường nét hình khối, trong văn học, tính tạo hình được xác lập gián tiếp
qua ngôn từ”.[13,30]. Ngôn từ có tính hình tượng là ngôn từ giàu hình ảnh
có màu sắc, âm thanh, nhạc điệu có khả năng gây ấn tượng mạnh mẽ, tác động
sâu xa vào trí tưởng tượng và cảm nghĩ của người đọc. Như vậy tính hình tượng,
một đặc điểm của ngôn ngữ văn học có khả năng phản ảnh, thể hiện các yếu tố của
ngôn ngữ hội họa. Vận dụng tính chất này, các nhà văn, nhà thơ đã tạo ra
không ít những chân dung về nhân vật, những bức tranh phong cảnh lấp lánh những
sắc màu, đa dạng về đường nét. Trong bài thơ “Thuật hứng XXIV” của Nguyễn Trãi
hai câu luận “Kho thu phong/ nguyệt đầy qua nóc, Thuyền chở yên hà/ nặng
vạy then.” là hai câu thơ đầy sắc màu hội họa. Bức tranh có gam màu vàng, thực
và ảo được kết hợp hài hòa ấn tượng. Gió vận động êm nhẹ, trăng ngập tràn,
không gian êm ả, yên bình. Trong một không gian mênh mông ngập tràn sương khói,
con thuyền thơ nhỏ bé- hình ảnh trung tâm của bức tranh không bị mất hút trong
những sắc màu hư ảo là nhờ cách trọng lượng hóa vật thể “Thuyền chở yên hà
nặng vạy then” của một nhà thi họa. Bức tranh được phác hoạ bằng những nét bút
hào hoa mỹ lệ tao nhã nên thơ đậm đà phong vị dân tộc. Có thể nói, đây là một cảnh
tiên giữa đời thường.
Nhờ tính tạo hình của văn học,
những bức tranh thơ như trên sẽ rất dễ dàng biến thành những họa tác.
III) Tính chất ”Thi trung hữu
hoạ” trong tác phẩm Truyện Kiều:
Chất hoạ trong tác phẩm Truyện
Kiều the hiện trên nhiều khía cạnh:
1) Chất hoạ trong những bức
chân dung nhân vật:
Chịu ảnh hưởng của thi pháp
trung đại khi miêu tả những nhân vật, Nguyễn Du thường sử dụng bút pháp mang
tính truyền thống sắp xếp nhân vật làm hai tuyến- nhân vật chính diện và nhân vật
phản diện. Đối với nhân vật chính diện, ông tả tỉ mỉ bằng những nét bút trang
trọng giàu tính ước lệ. Còn đối nhân vật phản diện ông thường đi theo lối tả thực
và phác hoạ, chấm phá bằng vài ba nét nhưng vẫn gây được ấn tượng mạnh mẽ. Mặc
dù đi theo khuynh hướng chính thống, bút pháp phác hoạ, ngôn ngữ ít nhiều có
tính chất ước lệ công thức nhưng ở một số phương diện Nguyễn Du đã có những phá
rào (khuynh hướng tâm lý hoá ngoại hình, thân phận hoá phẩm cách) tạo nên những
nhân vật sống động.
1-1) Nhân vật chính diện:
Đối với những nhân vật chính
diện, Nguyễn Du thường vẽ bằng màu sắc hài hoà tươi tắn, đường nét lúc thì
mềm mại uyển chuyển lúc thì phóng bút nhiều chiều kích, nét vẽ đậm và kỹ hơn so
với nhân vật phản diện. Những hình ảnh ước lệ được dùng khi miêu tả nhân vật là
những hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp sáng trong, rực rỡ, bền vững như phong,
hoa, tuyết, nguyệt, sơn, thuỷ...Đây là bút pháp cực tả, tuyệt đối hoá, lý tưởng
hoá nhan sắc cốt cách nhân vật.
1-1-1) Chân dung Thuý Kiều:
- Phần mở đầu tác phẩm:
Trong chân dung nghệ thuật,
vấn đề hàng đầu là đường nét, màu sắc đậm nhạt, lu mờ. Nắm vững nguyên lý vẽ
chân dung nghệ thuật khi hoạ tác nhân vật Thuý Kiều, nhân vật trung tâm của tác
phẩm, Nguyễn Du đã chọn những gam màu mát, màu trắng trong của nước, màu
xanh của núi và liễu, màu sắc đậm và tươi của hoa “thắm”; đường nét mảnh mai uyển
chuyển sống động “làn, nét ” và phẳng lặng của mặt nước hồ thu. Không chỉ
có những màu đơn, màu phối, Nguyễn Du còn dùng lối so sánh về cường độ màu
“thua thắm, kém xanh ” để làm rõ vẻ đẹp hoàn thiện toàn mỹ, làm hiện lên số phận
của một con người theo đúng triết lý ”Hồng nhan bạc mệnh, tài tử đa truân”. Chỉ
hai nét vẽ, bức chân dung của một giai nhân tuyệt thế đã hiện hữu, đó chính là
cái tài của thi hào:
Làn thu thuỷ, nét xuân
sơn,
(26)
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn
kém xanh. (25)
Vẽ nhân vật Thuý Vân Nguyễn
Du thiên về tổng thể còn khi phác hoạ nhân vật Thuý Kiều Nguyễn Du thiên về điểm
nhãn. Thi hào đi vào đôi mắt theo quan niệm mỹ học phương Đông “Đôi mắt là cửa
sổ tâm hồn”. Chọn màu trắng để diễn tả độ trong xuyên thấu vào tâm hồn, chọn
nét xuân sơn để diễn tả sự gợi cảm của một con người nặng về đời sống tâm hồn rất
đa tình đa cảm, đây là một sự tinh tế. Vũ Hạnh có lý khi lý giải vì sao thi hào
Nguyễn Du không tả đôi mắt của Thuý Vân mà lại miêu tả kỹ đôi mắt của Kiều“Thuý
Vân có mắt điều ấy thật hiển nhiên (…) Nhưng đôi mắt nàng chỉ là đôi mắt nằm
trên khuôn mặt để làm đầy đủ lệ bộ của một khung diện mà thôi (…) Đôi mắt ấy
phóng ra tia nhìn là để rập theo ý tình kẻ khác, miễn ý tình ấy thuộc về lẽ phải
hiển nhiên, thuộc về trật tự đã được cuộc đời chấp nhận(…) Có lẽ, Vân đã nhường
mắt cho Kiều. Vì chỉ mỗi một mình Kiều ở trong tác phẩm có đôi mắt sáng, mắt đẹp
lạ lùng. Cặp mắt ấy có nhãn lực tuyệt vời, nhìn được chiều sâu thăm thẳm, tưởng
chừng vạch được màu xuân tươi tốt mà soi thấu vào tận đáy mồ hoang để cảm thấu
nỗi niềm cô độc xót xa của kiếp người. Cặp mắt ấy nhìn được liên hệ giữa người
và ta, giữa cái đã qua và cái sẽ đến.”[76,170]. Không chỉ đẹp, đôi mắt của Kiều
còn là đôi mắt của sự tinh thông:
Mắt xanh chẳng để ai vào, có
không? (2182)
hoặc:
Khen cho con mắt tinh đời
(2201)
Anh hùng đoán giữa trần ai mới
già! (2202)
Mắt trong - đôi mắt đẹp ánh
lên sự thông minh, mắt xanh-đôi mắt của sự đồng tình trân trọng, giờ lại là con
mắt tinh đời- đôi mắt phán đoán nhận xét sắc sảo chính xác nhanh chóng về con
người. Có thể nói, đối với Thuý Kiều, vẻ đẹp của hình thức luôn luôn tiềm ẩn vẻ
đẹp của tâm hồn và vẻ đẹp của tâm hồn “đã phản chiếu trên những dung nhan nàng
những đường nét, những màu sắc tươi đẹp mà đằm thắm” [10,25]
- Trước mặt mụ mối, Kiều
không còn là Kiều của ngày nào. Nàng đã biến sắc, thi hào chọn sắc vàng của
hoa lá, một màu sắc buồn tiêu biểu cho mùa thu, những nét mờ, nét phớt lì
trong sự phản chiếu và nét mảnh khảnh mỏng manh. Sắc màu ấy, đường nét ấy tượng
trưng cho cái thần sắc bạc nhược, sự thỉu não. Cái thần của bức tranh là ở sự
tương quan giữa sắc buồn và nét mờ, là sự đối lập giữa cái hôm qua và cái hôm
nay, tất cả nhằm làm nổi rõ sự ủ dột tái tê của một con người cam chịu chai lỳ
vì mang nỗi đau căm lặng không thể vùng vẫy:
Ngừng hoa bóng thẹn, trông
gương mặt dày. (636)
Bốn nét vẽ là bốn hình thái
hỗ trợ cho nhau, thống nhất nhau trong việc diễn tả sự chấn động tâm lý đã làm
tàn phai nhan sắc. Trong bốn nét vẽ đó, hai nét vẽ ”Nét buồn như cúc, điệu gầy
như mai “ là hai nét vẽ thần tình nhất, thể hiện được thái độ căm lặng đến tuyệt
đối, căm lặng nhưng Kiều vẫn không giấu được nỗi đau đớn, xót xa tủi nhục. Giờ
đây, Kiều chỉ còn là cái bóng của chính mình! Khác với bức vẽ trên, khi thực hiện
bức vẽ này, Nguyễn Du không dùng những sắc màu đậm, đường nét sắc cạnh.
Chính bút pháp vẽ kiểu như vậy đã tạo được cái thần của câu thơ, vừa thể hiện
được dáng hình, vừa thể hiện được nỗi đau ẩn đằng sau bộ dạng bên ngoài.
Kiều tắm:
Có lẽ đây là bức hoạ khó vẽ
nhất trong những bức tranh vẽ chân dung nhân vật. Bởi lẽ, nếu không khéo sẽ rơi
vào sự dễ dãi, đường đột, lộ liễu kém tế nhị, đi chệch với những quan niệm đạo
đức của xã hội đương thời, đồng thời hạ thấp giá trị của cô Kiều, một cô gái vốn
khuôn thước theo kiểu “Êm đềm trướng rủ màn che,”. Là một nhà nho chính thống
uyên thâm, Nguyễn Du rất từ tốn chậm rãi cẩn thận khi hoạ một thân thể khoả
thân. Trước hết, nhà thi hoạ tạo ra một bức phông màn rất gợi cảm đầy hương
hoa” rủ bức tường hồng tẩm hoa” trước khi vén bức màn bí mật. Nhà thi hoạ đã tạo
được cảm giác náo nức chờ đợi cho người đọc, người xem bằng cách cho cuộn film
quay thật chậm và rồi thật bất ngờ “Một toà thiên nhiên” đã hiện hữu. Nét vẽ
”Toà thiên nhiên” thể hiện được sự kín đáo bí hiểm gợi trường liên tưởng sâu
xa. Chỉ bằng hai câu thơ, với những sắc màu tinh nguyên ”Trong ngọc trắng
ngà”, một đường nét giàu tính tượng trưng, Nguyễn Du đã tạo ra một bức hoạ về
thân thể người phụ nữ nửa thực, nửa hư. Đúng là tuyệt hoạ!
Buồng the phải buổi thong
dong,
(1309)
Thang lan, rủ bức trướng hồng
tẩm hoa. (1310)
Rõ ràng trong ngọc, trắng
ngà
,
(1311)
Dày dày sẵn đúc một toà
thiên nhiên! (1312)
Không riêng Nguyễn Du, Hồ
Xuân Hương không ít lần vẽ những bức tranh nửa kín nửa hở về người phụ nữ.
Trong bài thơ “Thiếu nữ ngủ ngày”, bà chúa thơ Nôm đã viết:
Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm,
Một mạch Đào nguyên suối chửa
thông.
Bức vẽ thiên về chi tiết, nặng
về vùng cấm kỵ. Đây không phải là bức tranh khoả thân hoàn toàn. Bức tranh về
nàng Kiều mới chính là :“Bức tranh khoả thân duy nhất trong văn học Việt Nam
(…) Giải nhất trao cho Nguyễn Du” [92,149].
- Kiều bị đánh trong vụ kiện
của Thúc Ông:
Vẽ chân dung Kiều bị đánh,
Nguyễn Du dùng những sắc màu đậm điểm vào bức tranh nền để gây ấn tượng. Ông không
dùng những nét vẽ chuẩn mà dùng những nét vẽ đệm thêm, nhoè ra, dùng nhiều đường
gãy ”tiêu biểu cho sự đổ vỡ không an toàn nguy hiểm”[11,57]. Nhờ thế, nó
đã diễn tả được những dấu vết của những trận đòn khủng khiếp nơi phủ đường. Một
loạt những hình ảnh vốn tiêu biểu cho cái đẹp đã bị tàn phai được nhà thi hoạ
dùng liên tiếp hỗ trợ cho nhau tạo được ấn tượng mạnh về sự đổi sắc, biến dạng.
Bức tranh trở thành lời kết tội đanh thép về những kẻ không biết trân trọng cái
đẹp, sẵn sàng vùi dập cái đẹp một cách tàn nhẫn:
Ba cây chập lại một cành mẫu
đơn. (1426)
Phận đành chi dám kêu
oan,
(1427)
Đào hoen quyện má, liễu tan
tác mày. (1428)
Một sân lầm cát đã đầy,
(1429)
Gương lờ nước thuỷ, mai gầy
vóc sương.(1430)
Thân phận con ong cái kiến
chỉ có con đường duy nhất là cam chịu, cam chịu đến mức tàn tạ cuối cùng.
- Kiều chết đuối được vớt lên
từ sông Tiền Đường :
Khi hoạ thân chết trôi, Nguyễn
Du đã lượt bỏ những chi tiết phụ không cần thiết, chọn lọc những chi tiết đặc tả,
xen vào đó lời bình luận trữ tình :
Trên mui lướt mướt áo
là,
(2707)
Tuy dầm hơi nước, chưa loà
bóng gương. (2708)
Một đường nét “lướt mướt
“cũng đủ vẽ bộ xiêm y ướt dầm rủ xuống thấm vào da thịt gợi ra những nét hư thực
của thân thể đang bất động, buông xuôi. Giữa lúc ranh giới sống và chết thật
mong manh ta mới càng thấy rõ giá trị của cái đẹp đích thực, vẻ đẹp tinh nguyên
sáng trong của một giai nhân tuyệt thế ngày nào vẫn còn in dấu. Sống cũng đẹp
và chết cũng đẹp. Không có tấm lòng trân trọng thương cảm, luôn luôn có ý thức
tôn vinh cái đẹp thì không thể có cái nhìn đầy nhân văn như thế! Theo Xuân Diệu
đây là hai câu thơ đầy dư ba “Thân Kiều nửa hư nửa thực, hồn Kiều nửa sống nửa
chết, văn Nguyễn Du tả đẹp lạ thường !”[92,150]. Có thể xem bức vẽ trên là bức
vẽ tĩnh và cái đẹp mang tính chất tiềm ẩn.
- Kiều đối diện với Kim trọng
trong phần đoàn viên:
Vẻ đẹp của Kiều chỉ được
vẽ bằng một nét bút với một sắc màu. Không phải là sắc trong của nước, sắc thắm
của hoa, sắc xanh của núi, mà là sắc vàng của sen vào lúc cuối hạ. “Sen vàng”
là một điển tích nói về người phụ nữ đẹp. Trong tư duy người Việt “hoa sen” vừa
gợi lên được sự chịu đựng vừa khẳng định được giá trị cao khiết. Dù cuộc đời trầm
luân đã nhai nghiến vẻ đẹp bên ngoài nhưng vượt lên tất cả là tấm lòng kiên
trinh cao đẹp của nàng Kiều. Nàng như một đoá hoa sen “Gần bùn mà chẳng hôi
tanh mùi bùn ”:
Miêu tả nhân vật Thuý Kiều,
Nguyễn Du thường đặt những hình ảnh trong sự đối sánh. Nếu trước kia là hoa là
liễu, là thu thuỷ, là mai cốt cách thì nay là cúc buồn, mai gầy,
đào hoan, liễu tan tác, gương lờ nước thuỷ. Những bức tranh trong sự đối sánh tạo
nên một sự tiếp nối về một nhân vật với nhiều cảnh đời .
1-1-2) Chân dung Thuý Vân:
Khác với nhân vật Thuý Kiều,
nhân vật Thuý Vân là loại nhân vật đề thêm để tôn thêm vẻ đẹp và gỡ rối cho
Thuý Kiều. Vì thế, nhân vật này dù có nhắc đến nhiều lần nhưng chỉ mang chất hoạ
có một lần ở phần đầu tác phẩm. Nhưng để tạo ra vẻ đẹp theo kiểu “Mỗi người
một vẻ mười phân vẹn mười” không phải là chuyện dễ. Cũng với những“Môtif” hình
tượng quen thuộc, khuôn mẫu ”Hoa cười, ngọc thốt, khuôn trăng, nét ngài...”,
Nguyễn Du “còn đưa vào những từ ngữ nôm na nhưng nội hàm đa nghĩa, những từ ngữ
đầy đặn, nở nang không chỉ miêu tả khuôn mặt phương phi tròn trịa, nét ngài
minh bạch rõ ràng của Thuý Vân mà đây còn là sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận”
[10,23]. Bên cạnh đó, Nguyễn Du còn vận dụng hai khía cạnh quan trọng “Nhất
dáng nhì da” trong những quan niệm quen thuộc của người phương Đông để tạo ra vẻ
đẹp khác biệt :
Vân xem trang trọng khác vời,
(19)
Khuôn trăng đầy đặn, nét
ngài nở nang. (20)
Hoa cười, ngọc thốt, đoan
trang,
(21)
Mây thua nước tóc, tuyết nhường
màu da, (22)
Vẽ Thuý Vân Nguyễn Du đi
theo trình tự từ tổng thể đến chi tiết, từ dáng người đến khuôn mặt, nét ngài,
nụ cười, tiếng nói, mái tóc, màu da. Nhờ sự hài hoà về sắc màu, mềm mại về
đường nét, vượt chuẩn về âm thanh, cân đối về hình khối, hoàn chỉnh cả điểm lẫn
diện mà bức chân dung Thuý Vân trở nên viên mãn, sống đông, phúc hậu, mệnh phụ.
Dù vậy, vẻ đẹp của Thuý Vân thiếu đi cái thần “đôi mắt”, nó thiên về vẻ đẹp
khuôn thước mẫu mực hơn là vẻ đẹp gợi cảm, sắc sảo và quyến rũ. Điều đó đã làm
nên sự khác biệt giữa hai chị em, hai số phận, hai tính cách: người thì hồng
nhan bạc mệnh kẻ thì hạnh phúc ấm êm.
1-1-3) Chân dung Kim Trọng:
Để tránh đi sự đơn điệu, Nguyễn
Du phác hoạ nhân vật Kim Trọng được trong khung cảnh buổi chiều thiên nhiên đầy
diễm lệ, thanh tao. Khung cảnh thiên nhiên đã trở thành cái phông màn tôn thêm
vẻ đẹp cho nhân vật, và ngược lại nhân vật làm cho bức tranh thêm sống động có
hồn. Cái tài của Nguyễn Du là tạo ra một bố cục có chính có phụ: người -ngựa,
thầy- tớ, con người-thiên nhiên, dưới một góc nhìn xa gần. Camera của thi hào đặc
biệt chú ý đến cử chỉ từ tốn chậm rãi của một văn nhân thực thụ” lỏng buông, xuống
ngựa, tới nơi, vào trong, ra ngoài”. Kỹ thuật pha màu của nhà thi hoạ đã đạt
đến độ điêu luyện cao tay khi tạo ra sắc màu độc đáo của chiếc áo. Màu của
chiếc áo là sự hoà trộn giữa sắc biếc của da trời và sắc xanh của cỏ. Màu sắc ấy
có được còn là sự kết hợp giữa tấm lòng trân trọng của Nguyễn Du và trái tim
rung cảm của nàng Kiều. Đây là bức tranh mang tính chất động, có gam màu
mát trong đó màu xanh- xanh cỏ, xanh trời, xanh áo, xanh cây là sắc màu chủ
đạo. Bên cạnh đó đường nét thể hiện sự vận động cũng được Nguyễn Du sử dụng
thật tài tình. Những bước chân di chuyển nhẹ nhàng của chàng Kim đã làm cho
thiên nhiên thức dậy, bừng sáng, vận động khẽ khàng. Kim Trọng xuất hiện, dung
mạo của chàng, cử chỉ, phong độ của chàng làm “xinh đẹp của một vùng” (chữ dùng
của Xuân Diệu) .
Khi hoạ những bức tranh nhân
vật, Nguyễn Du ít khi để cho nhân vật bị trống trải đơn chiếc. Nhân vật này xuất
hiện trong sự đối sóng với nhân vật khác-Thuý Vân -Thuý Kiều, Thúy Kiều – Từ Hải,
Kim Trọng – Thuý Kiều, Thuý Vân, Vương Quan. Bức tranh sẽ trữ tình hơn khi có sự
góp mặt của “Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.”. Và Vương Quan xuất hiện đã trở
thành chiếc cầu nối tình cảm của đôi trai tài gái sắc. Tiếng sét ái tình đến với
họ thật tự nhiên, bất ngờ và thú vị. Thiên tài Nguyễn Du chẳng khác nào một
“ông tơ” dẫn dắt khéo léo cuộc gặp gỡ của hai tâm hồn đồng điệu:
Tuyết in sắc ngựa câu dòn,
(139)
Cỏ pha màu áo nhuộm non da
trời. (140)
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
(141)
Khách đà xuống ngựa, tới nơi
tự tình. (142)
Hài văn lần bước dặm
xanh,
(143)
Một vùng như thể cây quỳnh,
cành dao. (144)
Nhìn toàn cục của bức tranh
từ sắc màu đến đường nét, từ cử chỉ đến hình ảnh, từ thiên nhiên đến con người
cái gì cũng nhẹ nhàng, hữu tình đáng yêu. Nói như Đặng Thanh Lê ”Bóng tối âm khí
nặng nề khi gặp Đạm Tiên trong đoạn thơ trước đã biến đi nhường chỗ cho ánh sáng
của cuộc sống, của vẻ đẹp con người, của tình yêu đang hé mở” [10, 41].
Xây dựng bức chân dung về
chàng Kim, Nguyễn Du đã có những phá cách đáng kể. Ngoài những phương diện cần
thiết khi nói đến nhân vật thư sinh phong kiến như con tuấn mã, chú tiểu đồng,
trang phục, gia thế, tài năng, học thức, Nguyễn Du còn xem trọng sự hài hoà giữa
con người với vũ trụ, giữa con người bên trong và cử chỉ biểu hiện ra bên
ngoài và nhất là những xao động của tâm hồn, những biểu hiện tình cảm kín
đáo, những cảm giác lúc tỉnh, lúc mê, sự bịn rịn lưỡng lự giữa ở và về- về thì
tiếc ở thì cũng chẳng xong. Có thể nói, ít ai tả được tác động dữ dội của tiếng
sét ái tình ở những tâm hồn còn trắng trong như tờ giấy đang bắt đầu bước vào
ngưỡng cửa tình yêu đúng và hay như thi hào:
Người quốc sắc, kẻ thiên
tài,
(163)
Tình trong như đã, mặt ngoài
còn e. (164)
Chập chờn cơn tỉnh, cơn
mê,
(165)
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về
chỉn khôn. (166)
Bóng tà như giục cơn buồn,
(167)
Khách đà lên ngựa, người còn
ghé theo. (168)
Ngay cả cái cử chỉ “Khách đà
lên ngựa người còn ghé theo” đầy quyến luyến, bịn rịn, nuối tiếc nhưng họ đành
bất lực trước sự vận hành của vũ trụ cũng đáng yêu làm sao!
Mở đầu một chuyện tình là
khung cảnh thiên nhiên tươi sáng rộng mở và kết thúc cuộc gặp gỡ là một bức
tranh thiên nhiên nhỏ nhắn, xinh xắn đáng yêu:
Dưới cầu nước chảy trong veo,
(169)
Bên cầu tơ liễu bóng chiều
thướt tha. (170)
Thiên nhiên đượm tình càng
tôn thêm vẻ đẹp tình cảm của chàng Kim cô Kiều. Phải chăng tình cảm sáng trong
của Kim-Kiều như dòng nước trong veo đang chảy dưới cầu. Và tình cảm ấy gắn bó
khăng khít khó thể tách rời như cầu gắn với nước, tơ liễu gắn với bóng chiều.
Nhưng dường như có một dự báo sự cách trở vì ‘’Nước đi đi mãi không
về cùng non’’. Có thể xem đây là một cuộc tạm chia tay cực đẹp để rồi sau đó Kiều-Kim
phải thao thức mộng tưởng. Hành trình của chuyện tình cùng với nỗi khổ của
cô Kiều cũng bắt đầu từ đây.
Khác với Nguyễn Du, khi tả
Kim Trọng Thanh Tâm Tài Nhân lại đi sâu vào sự chấn động của tâm hồn
: ‘’Kim Trọng ngây ngất cả người, xiêu xiêu cả tinh thần, bụng bảo dạ :
thế này thì mình đến tương tư chết mất, rồi chàng lẩm nhẩm tự thề không lấy được
Kiều thì suốt đời không lấy ai nữa.
Vì có Vương quan đấy, không
tiện nán ở lại lâu, Kim Trọng đành phải qua loa cáo từ lui gót.
Vương viên ngoại cũng sai
người đến đón hai nàng lên kiệu’’
- Cũng là bức vẽ về Kim Trọng
nhưng đây lại là bức vẽ mang tính chất cách điệu:
Hiên sau treo sẵn cầm
trăng,
(467)
Vội vàng Sinh đã tay nâng
ngang mày. (468)
Nét hoạ “Tay nâng ngang mày
” thể hiện thái độ trân trọng thán phục trước tài đàn, một trong bốn tài năng –
cầm kỳ thi hoạ đã trở thành nức tiếng của người con gái họ Vương. Không chỉ là
sự thán phục, bức vẽ còn muốn bổ sung thêm một thông tin cần thiết về chàng
Kim. Chàng văn nhân hào hoa phong nhã không chỉ là một con người chỉ biết yêu
cái đẹp của văn chương mà còn là một con người rất am hiểu và sành điệu nghệ
thuật âm nhạc. Người đọc sẽ chẳng ngạc nhiên khi Kim Trọng có rung cảm mạnh mẽ,
đưa ra những nhận định xác đáng khi nghe tiếng đàn của cô Kiều.
1-1-4) Chân dung Từ Hải:
Nếu Kim Trọng hiện ra trong
sắc chiều êm ả thì Từ Hải được vẽ ra trong đêm thanh tĩnh gió hây hây thổi,
không khí huyền ảo tràn ngập ánh trăng. Bức chân dung đã có thêm nét tối
sáng, nét rõ mờ rất phù hợp với chất huyền thoại của nhân vật. Bút lực của
Nguyễn Du không dồn vào màu sắc mà dồn vào đường nét. Nét bút có đường nét
to và rất mạnh mẽ ”râu hùm, hàm én, mày ngài”, phóng bút nhiều chiều, chiều
ngang –vai năm tấc rộng, chiều dọc –thân mười thước cao; chiều cao-đội trời và
chiều thấp - đạp đất. Thật đúng khi cho rằng “tác giả muốn làm cho
không gian chung quanh Từ Hải rộng thêm ra, từ mặt người, từ bóng dáng, từ tài
năng phát tia ra, nên đã đặt nhiều dấu huyền, bởi thanh có dấu huyền không đứt
gọn như thanh không dấu, mà nhoà rộng ra… ” [92, 267]. Cũng là “ngài” nhưng đối
với Thuý Kiều, Nguyễn Du vẽ “nét ngài” còn Từ Hải là ”mày ngài”, một bên chỉ là
đường nét, còn một bên lại là hình thể của sự vật ; một bên là sự mềm mại
còn một bên là sự mạnh mẽ kiên quyết. Điểm vào chân dung nhân vật là những
phụ bút như gươm đàn làm tăng thêm chất hào hùng, tài năng phi thường của Từ Hải.
Ngoài những hình ảnh tượng trưng ước lệ thường gặp trong những bức tranh miêu tả
nhân vật anh hùng ’’râu hùm, hàm én, mày ngài...’’, Nguyễn Du còn tạo ra một
không gian đầy chất huyền thoại, tiết điệu ngắt bất ngờ ‘’bỗng đâu’’để tạo
ra nét riêng biệt của người anh hùng -bất ngờ trong sự xuất hiện và cũng rất bất
ngờ trong sự quyết định chọn người tình lý tưởng. Một con người dám ‘’chọc
trời khuấy nước’’ sẽ có một chuyện tình dị thường hiếm có là lẽ đương nhiên, là
sự lôgic của một tính cách.
Ngoài ra, khi hoạ chân dung
nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du rất lưu ý đến cấu trúc cân đối-cân đối về hình ảnh-râu,
hàm, mày- vai, thân, cân đối về nhịp điệu- câu lục nhịp thơ 2-2-2 câu bát lại
nhịp thơ 4-4, và cân đối cả về mặt ngôn ngữ- những từ Hán Việt ‘’anh hào, côn
quyền, lược thao‘’ tạo nên sự trang trọng và những từ thuần Nôm tạo nên sự gần
gũi, đời thường.
- Chân dung Từ Hải lúc ngồi
ghế quan toà:
Vẻ đẹp kiêu hùng và tài năng
tuyệt đỉnh của họ Từ càng được tô đậm hơn qua bức tranh ngồi ghế quan toà:
Quân trung, gươm lớn, giáo
dài, (2311)
Vệ trong thị lập, cơ ngoài
song phi . (2312)
Sẵn sàng tề chỉnh uy
nghi,
(2313)
Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp
sân. (2314)
Trướng hùm mở giữa trung
quân , (2315)
Từ công sánh với phu nhân
cùng ngồi.(2316)
Đây có thể xem là bức họa về
cảnh đoàn quân chiến thắng trở về và đang chuẩn bị xử án.Vì thế, Nguyễn Du dùng
nhiều nét nhọn, nét thẳng đứng, nét ngang gợi lên cảnh tượng giáo gươm tua tủa,
đoàn quân nghiêm trang, hào khí ngất trời, uy thế dữ dội. Bức tranh được thiết
kế theo kiểu cái phụ làm rõ cái chính, cảnh tượng chung quanh làm rõ nhân vật
trung tâm -Từ Hải –Thuý Kiều. Từ một vị thế của kẻ tôi đòi trước kia, Kiều đã
hoá thân thành vị “phu nhân mệnh phụ”, kẻ xử án. Một sự hoá thân như có phép
màu, phép màu đó không do một lực lượng siêu nhiên nào mà do chính đấng
anh hùng luôn lấy công lý làm đầu, nghĩa tình làm trọng tạo dựng.
Mặc dù trong cuộc báo ân báo
oán, Nguyễn Du vẽ nhân vật Từ Hải nhạt hơn nhân vật Thuý Kiều nhưng không vì thế
người anh hùng trở thành nhân vật thứ yếu trong bức tranh xử án. Nguyễn Du rất
tinh tế khi để cho Từ Hải tuyên bố “Mặc nàng xử quyết, báo đền cho minh.”. Rõ
ràng Từ Hải không phải là người chỉ biết đến cái chung mà rất trân trọng việc
riêng của Kiều. Vì chỉ có Kiều mới xử đúng người đúng tội. Có chăng cái uy của
Từ Hải đã góp phần không nhỏ trong việc tạo ra cái uy của chủ toạ phiên toà? Từ
Hải có thể xem là người thiết kế còn Kiều chính là người thi công.
- Chân dung Từ Hải chết đứng:
Kiêu hùng bao nhiêu Từ Hải lại
chết một cách oan nghiệt bấy nhiêu. Bức hoạ về hình tượng người anh hùng chết đứng
lại mang chất hoạ khác. Đây là bức hoạ tĩnh giàu chất điêu khắc có
đường nét cứng. Thi hào như muốn tạc tượng một huyền thoại anh hùng khao khát tự
do trong cái xã hội mà cái đẹp và tài năng không có đất tồn tại:
Khí thiêng khi đã về thần,
(2519)
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân
giữa vòng! (2520)
Trơ như đá, vững như đồng
, (2521)
Ai lay chẳng chuyển, ai rung
chẳng rời. (2122)
Từ Hải thua trong thế thắng,
chết nhưng còn sống mãi với đời. Hình tượng chết đứng đầy oan thiêng của Từ như
một lời tố cáo đanh thép cái xã hội: Lẽ phải và chiến thắng thuộc về kẻ có quyền
và sự gian trá. Vài trăm năm sau chúng ta lại bắt gặp hình tượng người anh hùng
chết đứng trong thơ Lê Anh Xuân:
Anh ngả xuống trên đường
băng Tân Sơn Nhất,
Nhưng anh gượng đứng lên tì
súng trên xác trực thăng.
Anh đang chết trong khi đang
đứng bắn,
Máu anh tuôn theo lửa đạn cầu
vòng.
1-1-5) Chân dung người khách
viễn phương:
Nhân vật người khách viễn
phương không rõ tên tuổi quê quán, nghề nghiệp, xuất hiện gián tiếp thoáng qua
thông qua lời kể của Vương Quan nhưng vẫn gây ấn tượng. Nhân vật này tạo thành
bộ ba nhân vật nam chính diện-Từ Hải, Kim Trọng, người khách viễn phương. Mỗi
người mỗi tính cách. Từ Hải hào hùng dũng mãnh ngang tàng, rộng lượng, Kim Trọng
hào hoa phong nhã, thuỷ chung còn người khách viễn phương rất cao thượng. Khi họa
bức chân dung người khách viễn phương, Nguyễn Du không đi sâu vào diện mạo mà chú
trọng đến cử chỉ, hành động để làm tóat lên nét đẹp tâm hồn. Chỉ một vài biểu
hiện thể hiện sự khẩn trương chu đáo ”xa nghe, tìm đến”, “Sắm sanh nếp tử, xe
châu”(77), thể hiện sự đau đớn xót xa ”khóc than“ và đặc biệt hành động vội vội
vàng vàng “vùi nông” khi chôn cất thi hài Đạm Tiên, nhân vật này đã để lại những
dư vị ngọt ngào trong lòng người đọc. Là một kẻ đến sau nhưng lại là người biết
ra tay hành động, đó chính là phẩm chất của một con người biết trân trọng cái đẹp,
sự tài hoa. Người khách viễn phương cảm kích và mến phục sứ giả Đạm Tiên cũng
đúng thôi. Bởi lẽ, Đạm Tiên, một nhân vật được không ít người ngưỡng vọng.
Trong khi dẫn giải, Vương Quan đã hết lời ngợi ca “Nổi danh tài sắc một
thì,”(63). Và hồn ma Đạm Tiên cũng được Nguyễn Du vẽ bằng những nét vẽ rất
thanh tao” Có chiều phong vận, có chiều thanh tân.”(180). Ở nhân vật người
khách viễn phương có nét gần gũi với nhân vật Từ Hải. Cả hai đều xuất phát từ
cái tâm sáng, sẵn sàng dẹp bỏ những định kiến hẹp hòi để cảm thấu số phận bi kịch
của những người làm gái lầu xanh, làm nghề xướng ca vô loài.
1-2) Nhân vật phản diện:
Đối với những nhân vật phản
diện, Nguyễn Du không miêu tả tỉ mỉ trang trọng. Chỉ cần vài ba nét phác
hoạ ông để lại những ấn tượng sâu sắc. Nguyễn Lộc đã nhận xét: “Nguyễn Du
cố gắng làm cho nó gần gũi với đời sống, với hiện thực(…) Đặc biệt bút pháp của
nhà thơ khi xây dựng nhân vật này thường nổi rõ tính chất hiện thực xã hội chủ
nghĩa” [49,400]. Dưới góc nhìn của hội hoạ, ta thấy những nhân vật lọai này thường
được Nguyễn Du dùng những sắc màu nhợt nhạt, đường nét mang tính chất chấm phá,
khai thác tính chất mất cân đối trái tự nhiên để làm rõ tính cách nhân vật.
1-2-1) Chân dung Tú Bà:
Nhân vật Tú Bà hiện ra chỉ bốn
nét bút với một sắc màu hai đường nét:
Thoát trông nhờn nhợt, màu
da, (923)
Ăn gì cao lớn, đẫy đà làm
sao? (924)
Trước xe, lơi lả han chào
,
(925)
Hoặc:
Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi
ngay.(950)
Không phải là đường nét mềm
mại uyển chuyển, sắc trắng đẹp đẽ tinh nguyên như Thuý Vân, Thuý Kiều mà đây là
màu trắng hơi vàng, nhợt nhạt do ở nơi tăm tối, đường nét chệch
choạc mất tính cân đối, vượt khuôn khổ cho phép “to lớn đẩy đà”, trái ngược
với quan niệm thẩm mỹ của cộng đồng, dáng ngồi rất chủ chứa “vắt nóc”, ngôn ngữ
đưa đẩy. Chỉ cần bốn nét vẽ, đặc biệt là nét vẽ ”nhờn nhợt”, vừa gợi lên
được màu da tạo được cảm giác ghê tởm, vừa thể hiện được quá khứ giang hồ, thi
hào Nguyễn Du đã nói đúng một trong những nét rất đặc trưng của những bà chủ chứa
kiểu mẫu chính hiệu”đẫy đà xác thịt”(chữ dùng của Hà Như Chi). Nhưng nếu bức hoạ
này đựơc một hoạ sĩ tài ba vẽ lại thì sao? Nguyễn Văn Hạnh đã kết luận:”Hoạ sĩ
chỉ có thể vẽ một mụ Tú Bà cao lớn to béo, màu da nhờn nhợt, với kích thước, sắc
độ như mình muốn, nhưng chỉ được trên từng bức tranh cụ thể một kích thước, sắc
độ nhất định mà thôi. Và người xem chỉ tiếp xúc một hình thể Tú Bà hoàn toàn
xác định. Còn trong trí tưởng tượng của người đọc thì hình tượng Tú Bà do Nguyễn
Du tạo nên không hoàn toàn xác định. Và ở các người đọc khác nhau, các lần đọc
khác nhau, lại có những mụ Tú Bà kinh tởm khác nhau, những mức độ nhờn nhợt cao
lớn, đẩy đà khác nhau” [57,12]. Điều mà Nguyễn Văn Hạnh khẳng định đó chính là
sự đồng sáng tạo trong quá trình tiếp nhận văn học. Và điều này có lẽ không chỉ
đúng với nhân vật Tú Bà mà còn đúng với quá trình tiếp nhận những nhân vật
khác.
1-2-2) Chân dung Mã Giám Sinh:
Đây là một con buôn đội lốt
nho sinh trường Quốc tử Giám. Bản chất lỗ mảng bịp bợm lái buôn được Nguyễn Du phác
hoạ bằng ba nét vẽ thần tình theo quan niệm “xem mặt mà bắt hình dong” - mày
râu tỉa tót cẩn thận, áo quần thẳng thớm và vị trí ngồi ở chỗ cao để xem hàng
cho rõ “ngồi tót”.
So với Sở Khanh, nhân vật Mã
Giám Sinh đóng kịch tài hơn nhiều. Hắn đã dàn dựng lễ vấn danh y như thật với
những nghi lễ theo phong tục truyền thống “Sính nghi, canh thiếp, nạp thái vu
quy”. “Vải thưa không thể che mắt thánh”, dưới ngòi bút thần tình của thi hào,
hắn không thể giấu hết tất cả những kẽ hở vốn có của những kẻ gian xảo. Nguyễn
Du cho hắn hiện ra từ từ ”Ngồi tót, đắn đo, cân sắc, cân tài, ép, thử, cò
kè, ngã gía, định ngày” rồi điểm huyệt đúng ngay vào những chỗ hắn che đậy
không kín kẽ- xa hắn nói gần, mua người về lầu xanh hắn nói “mua ngọc đến Lam
Kiều”, đứng tuổi nhưng lại làm ra vẻ trai tơ bảnh chọe, cò kè mặc cả, ép, thử
mà lại bảo đi kiếm vợ lẽ ? Bản chất lái buôn càng thể hiện rõ hơn khi hắn phát
ngôn. Lúc sự việc chưa ngã ngũ hắn phát ngôn rất nhũn nhặn” Rằng:”mua ngọc đến
Lam Kiều, Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?””, nhưng đến lúc nắm thế thượng
phong hắn phát ngôn thật lạnh lùng” Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”. Và
đây chính là lúc con buôn họ Mã đã lộ nguyên hình. Như thế vẫn chưa đủ, Nguyễn
Du còn phác hoạ thêm những bức phụ hoạ về một lũ nhỏ loi choi lóc chóc.
Thầy trò họ Mã, đúng là một đám người lăng xăng lít xít, lộn xộn, láo nháo, vô
học, thiếu văn hoá:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
(627)
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh
bao. (628)
Trước thầy, sau tớ lao
xao,
(629)
Nhà băng đưa mối, rước vào lầu
trang. (630)
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
,
(631)
Nói chung, khi xây dựng nhân
vật Mã Giám Sinh, bút lực của Nguyễn Du dồn vào việc vạch trần mâu thuẫn giữa
chức danh của tên họ Mã và bản chất lái buôn bịp bợm thị của khinh người, sự
trái khuấy giữa tuổi tác và dáng vẻ, giữa lời nói và việc làm. Cùng với một số nhân vật phản
diện khác, nhân vật Mã Giám Sinh đã góp phần tạo thành một chuỗi nhân vật có
tính cách tương cận: Tú Bà –chủ chứa, tàn bạo, Mã Giám Sinh - lão luyện chuyên
săn lùng nguồn hàng, Sở Khanh- tên ma cô điểu cáng chuyên dắt gái và bảo kê.
Chúng là những nhân vật tiêu biểu cho những ổ chứa và tất cả “đều bộc lộ mối
quan hệ mờ ám, mơ hồ bất minh ”(Chữ dùng của Đặng Thanh Lê)
1-2-3) Chân dung Sở Khanh:
Đây lại là một tên ma-cô sống
bám lầu xanh, sống trên thân xác của người phụ nữ như một loại chùm gửi. Bức hoạ
về tên lưu manh này khác với bức hoạ về tên họ Mã. Đối với Mã Giám Sinh
“xem mặt” có thể “bắt hình dong” nhưng đối với họ Sở lại khác, bởi lẽ những đường
nét về dáng người phục trang của hắn khá thanh tao:
Một chàng vừa trạc thanh
xuân, (1059)
Hình dong chải chuốt, áo
khăn dịu dàng.
(1060)
Sở Khanh đã rẽ dây cương lối
nào! (1126)
Nhân vật Sở Khanh có dáng vẻ
của ”một nhà nho nhưng ngay trong hình dáng đã có cái gì tỏ ra rằng Sở Khanh
không phải là một nhà nho chân chính” [42,470].
Sở Khanh là một kiểu người
“Vừa ăn cướp vừa la làng”, vừa táo tợn vừa tỏ vẻ nhẹ nhàng khiếm nhã. Chẳng mất
gì mà hắn vừa kiếm được chì vừa kiếm được chài. Khi Kiều vạch rõ chân tướng
cũng là lúc sự trơ trẻn của hắn được phơi bày ”Nhơ tuồng, nghỉ mới kiếm đường
tháo lui.”(1188). Dưới ngòi bút Nguyễn Du, Sở Khanh đã trở thành“lưu danh thiên
cổ”(Chữ dùng của Hoài Thanh). Sự táo tợn của hắn còn hơn cả chàng Đông-juan của
văn học phương Tây.
Có một nét rất chung về hai
bức hoạ Mã Giám Sinh và Sở Khanh. Vẽ hai nhân vật này Nguyễn Du chỉ dùng đường
nét chứ không dùng tới màu sắc. Màu sắc được gợi lên qua trí tưởng tượng của từng
người tiếp nhận.Và cả hai bức hoạ đều có hai nét vẽ xuất thần :“rẽ dây cương”
và “ngồi tót sỗ sàng”. Hai nét vẽ truyền thần cũng là hai tính cách của hai
nhân vật: lỗ mảng của Mã Giám Sinh và tráo trở của Sở Khanh.
1-2-4) Chân dung mẹ Hoạn Thư:
So với các nhân vật khác, nét
vẽ về mẹ Hoạn Thư có thêm nét mới. Nhân vật Họan Bà được bố trí như một tượng
thần trong khung cảnh màn che trướng phủ đèn thắp sáng. Khác với lối ngồi “Vắt
nóc” của bà chủ chứa, mẹ Họan Thư có cung cách ngồi trực diện rất bệ vệ. Trong
bức tranh:
Ban ngày, sáp thắp hai bên,
(1723)
Giữa gường thất bảo, ngồi
trên một bà. (1724)
Nguyễn Du đã thể hiện được
cái tài phối cảnh, phối màu để làm rõ tính chất của nhân vật, khung cảnh sống đế
vương của những gia đình quyền lực trong xã hội ngày xưa. Anh sáng của đèn “sáp
thắp” hai bên gợi lên sự thâm nghiêm uy quyền và làm hiện rõ sự giàu có “giường
thất bảo”. Và kẻ có nhiều quyền lực đang thụ hưởng cuộc sống vương giả ấy không
ai khác là mẹ họan Thư . Bà chính là nhân vật kiểu mẫu cho những quan bà trong
cái xã hội “Cấu xé người nhai nuốt ngọt ngon”. Chúng vô ngôn nhưng độc địa nham
hiểm, sẵn sàng bày mưu chỉ kế đốt nhà, bắt người hành hạ cho thoả thích. Ngoài
tính chất hiện thực bức vẽ về nhân vật mẹ Hoạn Thư còn mang tính chất “trào
phúng” [42,758]
1-2-5) Chân dung Hoạn Thư:
Đới với nhân vật Hoạn Thư,
Nguyễn Du không hoạ tác một bức chân dung đầy đủ và cụ thể về dáng vẻ bên ngoài
như một số nhân vật khác. Điều này cũng hợp lý vì Hoạn Thư là loại nhân vật
mang tính chất duy lý, khôn ngoan sắc sảo. Tất cả mọi hành động lời nói, kế
sách đốt nhà bắt cóc, bịt miệng bọn tôi tớ đến việc chờ đợi thời cơ, cách thức
hành hạ Thuý Kiều, đưa Thúc Sinh vào tròng, biện minh trước chủ toạ phiên toà,
Hoạn Thư đều tính toán một cách chu đáo, kỹ càng và đạt hiệu quả.
Do chân dung Hoạn Thư không
mang tính tập trung ở một một đoạn thơ cụ thể cho nên người đọc muốn xem rõ
chân dung nhân vật này phải tập hợp một số chi tiết qua một chuỗi dài sự kiện”thơn
thớt nói cười, cười nụ, nhón chân đứng nép, rẽ hoa bước vào, lại thét lấy nàng,
nổi giận đùng đùng”. Tất cả đã làm hiện lên một khuôn mặt trẻ tươi nhưng
không kém phần sắc sảo, bản lĩnh và sẵn sàng biến thái khi cần thiết dáng người
thon thả, cử chỉ từ tốn, trí tuệ khôn ngoan. Hoạn Thư có sự kết hợp khéo léo giữa
con người tình cảm (ghen tuông) và con người lý trí (kiềm chế tính ghen), giữa
sự tuân phục và sự phản ứng chế độ đa thê. Hoạn Thư chính là bản sao có sáng tạo
của nhân vật bà Hoạn Quan. Có chăng, Nguyễn Du muốn san bớt sự tàn bạo ở nhân vật
Họan Thư sang Họan Bà?
1-2-6) Nhân vật Hồ Tôn Hiến:
Trong các nhân vật xuất hiện,
đây là nhân vật có quyền uy cao nhất, nhân vật được đặt trong thế đối đầu với Từ
Hải. Đối với nhân vật này nét vẽ của Nguyễn Du có gì lạ?
Nghe càng đắm, ngắm càng
say, (2579)
Lạ thay mặt sắt, cũng ngây
vì tình. (2580)
So với những bức vẽ chân
dung nhân vật có lẽ đây là một trong những bức vẽ thành công và đặc sắc. Đường
nét và sắc màu mang nội hàm ý nghĩa rất lớn. Nguyễn Du rất tinh tế khi thực
hiện những nét vẽ về sự thay đổi của từng ánh mắt, độ co giãn của từng sắc
mặt: nghe-đắm, ngắm-say-ngây để làm rõ bản chất háo sắc của một tên quan lắm
quyền. Là một kẻ ”kinh luân gồm tài” từng xông pha trận mạc vậy mà trước mặt
Thúy Kiều hắn đã bị mất phương hướng-tình cảm bị cuốn hút, lý trí hết hiệu lực
và cuối cùng đờ đẫn ngây dại. Nói như Hoài Thanh”Nguyễn Du đã giết Hồ Tôn Hiến
bằng một chữ “ngây” cũng như giết Sở Khanh bằng chữ “lẻn”. Trong bao nhiêu người
mê Kiều, Nguyễn Du đã dành riêng chữ “ngây” cho Hồ Tôn Hiến”[42,474]
Đặc biệt, trong bức chân
dung về Hồ Tôn Hiến chúng ta còn tìm thấy những bức tranh nhỏ đặt cạnh
nhau, tiếp nối nhau và thậm chí trái ngược nhau” mặt sắt- ngây”. Cách sắp xếp
đó đã góp phần không nhỏ trong việc tô đậm tính cách nhân vật, tạo ra sự khác
biệt trong việc thực hiện các bức chân dung nhân vật.
Chọn vẽ Hồ Tôn Hiến vào thời
điểm Từ Hải chết trận, Kiều phải dâng rượu hầu đàn, Nguyễn Du như muốn khẳng định
sự đối nghịch về đạo đức: đê hèn, xảo quyệt, vụ lợi điểu cáng hòan tòan tương
phản với cái đẹp của sự hy sinh, lòng trung thực, sự thuỷ chung. Kiều khuyên Từ
ra hàng là xuất phát từ cái đức. Hồ Tôn Hiến lật lộng đánh lén để chiến thắng
và bắt vợ của người chiến bại hầu rượu mua vui là phi đạo đức. Rõ ràng chất người
của Kiều càng cao thì chất người của Hồ Tôn Hiến càng không có.
Cũng là bức vẽ về nhân vật Hồ
Tôn Hiến nhưng bức vẽ:
Đẩy xe vâng chỉ đặc sai, (2453)
thì “người ta thấy hoạ
sĩ vẽ bức tranh này là một nhà hoạt hoạ trào phúng đến ghê gớm! Tiện nghi, bát
liễu, việc ngoài, đổng nhung, thanh la, não bạt đập gõ loèng xoèng, nhưng mi là
một tên gian đối…” [92,115].
Hình ảnh tên quan tổng đốc
trọng thần gợi ta nhớ đến ông quan phủ xử kiện Thuý Kiều:
Trông lên mặt sắt đen sì, (1409)
Lập nghiêm trước đã, ra uy nặng
lời: (1410)
Cũng là “mặt sắt” nhưng ông
quan xử kiện không có sự biến thái nhanh chóng. Bổ sung thêm định ngữ ”đen sì”,
Nguyễn Du muốn nói đến một ông quan “chính trực và oai nghiêm”. Nhưng ở ông có
sự xen lẫn giữa cái nghiêm minh lạ đời – đánh người tàn nhẫn và sự cảm thông
trước hoàn cảnh, thán phục trước tài năng không được thi thố của Kiều.
Còn một tên quan nữa, đó là
tên quan “cướp ngày”. Hắn chẳng cần tra khảo mà chỉ:
Rường cao rút ngược dây
oan, (593)
Dẫu là đá cũng nát gan lọ
người! (594)
“Thần công lý chỉ dịu cơn thịnh
nộ khi nghe thấy có mùi tanh của hơi đồng “Có ba trăm lạng việc này mới xong
”[49, 371]
1-2-7) Chân dung bọn sai nha:
Đây là bọn người tôi tớ tay
sai, vũ khí ”pháp luật” của kẻ có quyền. Để cho chúng xuất hiện, Nguyễn Du như
muốn làm rõ thêm sức mạnh vạn năng của đồng tiền, bản chất của xã hội “Có ba
trăm lạng việc này mới xong” hay “Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”. Đối với
bọn sai nha, Nguyễn Du hoạ tác bằng những nét vẽ dị hợm nửa người nửa ngựa,
hành động theo bản năng- chửi, trói, vét với những đồ nghề chuyên gây án ”thước,
đao, già giang ”. Sự xuất hiện của bọn người “Đầu trâu mặt ngựa ”đã làm cho cái
không khí vốn yên bình đầm ấm ngăn nắp của gia đình Vương Viên Ngoại bỗng trở
nên lộn xộn nhốn nháo rối tung. Tương phản với sự bàng hoàng sửng sốt của cha
con Vương Ông là những tiếng la, tiếng chửi, tiếng đồ đạt bị lật tung và bị vét
“ sạch sành sanh ”. Với ba âm thanh ngày càng vang động dữ dội “xôn xao, ào ào,
vang tiếng ”, ba hành động “ào ào như sôi, buộc hai thân hình, vét cho đầy túi
tham”, ba hình ảnh đặc tả ”Nách thước, tay đao, đầu trâu mặt ngựa”, Nguyễn Du
đã lột trần bản chất tàn bạo độc ác, tham lam, hung hăng, dữ tợn của bọn người
bất chấp công lý. Nói như Nguyễn Lộc “Công lý của bọn chúng là công lý của bọn
đầu trộm đuôi cướp”[49, 371]
1-3) Nhân vật trung tính:
Chân dung Thúc Sinh:
Xếp nhân vật Thúc sinh vào
loại nào cho đúng? Có thể xem đây là một loại nhân vật trung tính, một loại người
đa tình nhưng bạc nhược, một nhân vật vừa có mặt tốt vừa mặt chưa tốt. Chính
cái mặt tốt và mặt chưa tốt của Thúc Sinh mà chất người ở nhân vật này thể hiện
đậm nhất. Là một người có vợ Thúc Sinh phải làm sao đây trước một Hoạn Thư con
nhà quyền thế? Có lẽ ta cũng không nên đòi hỏi gì hơn ở nhân vật này.
Trong tác phẩm Truyện Kiều,
tính cách của Thúc Sinh thể hiện ở nhiều tình huống:
Tiểu thư vội thét:”Con Hoa!
(1843)
Khuyên chàng chẳng cạn, thì
ta có đòn!” (1844)
Sinh càng nát ruột, tan hồn,
(1845)
Chén mời, phải ngậm bồ hòn,
ráo ngay! (1846)
a thể hiện
rõ nhất về nhân vật này là lúc Thuý Kiều có dịp báo ân báo oán:
Cho gươm mời đến Thúc Lang,
(2325)
Mặt như chàm đổ, mình dường
dẽ run. (2326)
Với một sắc màu có pha tạp
(xanh pha tím) thể hiện sự biến thái của sắc mặt và một đường nét run rẩy (dẽ
run –một loài chim có mỏ dài, cái đuôi luôn phe phẩy) thi hào đã khắc hoạ
một tính cách tiêu biểu cho một loại người trong xã hội– khoác lác nhưng nhu
hèn sợ vợ. Đây là một kiểu nhân vật không hoàn toàn trùng lặp trong tác phẩm.
Trước Thúc ông, Thúc Sinh xử sự “như một kẻ ăn vụng bị bắt quả tang”(Chữ dùng của
Lê Đình Kỵ), trước pháp đường Thúc Sinh khóc lóc tự oán trách mình, trước Thuý
Kiều hắn cho Hoạn Thư là người nham hiểm, trước Hoạn Thư hắn xem Thuý Kiều là
người không quen biết. Khi Thuý Kiều “đưa gươm mời đến Thúc Lang” hắn run lẩy bẩy”
nhưng đến khi Thuý Kiều trả ơn hắn “mừng sợ khôn cầm”. Nhân vật Thúc Sinh là sự
tổng hợp giữa ba dòng máu Thúc sinh –Sở Khanh –Kim Trọng. Lê Đình Kỵ nhận xét
thật đúng:”Thúc Sinh cũng có chút máu Kim Trọng trong người, nhưng sự việc xảy
ra sẽ biến dần y thành một tên Sở Khanh không hơn không kém.”[42,707].
Nói chung, có bao nhiêu nhân
vật là có bấy nhiêu bức vẽ. Nhiều khi chỉ một nhân vật nhưng lại có nhiều bức vẽ
khác nhau, bổ sung cho nhau nhằm hoàn thiện tính cách. Vẽ chân dung nhân vật, đối
với Nguyễn Du không chỉ thông qua sự quan sát, óc liên tưởng mà còn vẽ bằng
cả tâm hồn trái tim. Nhờ vậy, mỗi sắc màu, mỗi đường nét đều có giá trị ngữ
nghĩa sâu sắc. Và đằng sau những bức vẽ, ta như thấy thấp thoáng số phận và cả
một phần đời nhân vật được gởi gắm trong đó.
Đặc biệt, sự thần tình của
Nguyễn Du là đã tạo ra những bức chân dung có sức sống vĩnh viễn và trở thành
những qui ước đánh giá của xã hội. Ông đã sáng tạo ra “Những con người thực hơn
những con người thực” [27,193]. Nhắc đến cái tên Sở Khanh là ta nghĩ ngay đến một
tên lưu manh lừa lọc. Nhắc đến cái tên Tú Bà là ta nghĩ ngay đến một bà chủ chứa
chuyên nghiệp. Nhắc đến cái tên Mã Giám Sinh là ta nghĩ ngay đến một tên buôn
người có cỡ. Và chỉ nghe đến cái tên Hoạn Thư là ta nghĩ ngay đến kiểu ghen độc
đáo có một không hai. Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám Sinh ....vốn là những danh từ
riêng giờ đây lại trở thành những danh từ chung chỉ những hạng người trong xã hội.
Phải là người có vốn sống phong phú, lượng ngôn từ đầy ắp, rất am hiểu nghệ thuật
hội hoạ, Nguyễn Du mới phác hoạ được những bức chân dung đa dạng và có sức sống
như vậy.
2) Chất hoạ trong những
bức tranh phong cảnh:
Trong văn chương từ cổ chí
kim, những bức tranh phong cảnh dường như không bao giờ vắng mặt nếu không muốn
nói là tràn ngập. Xuất phát từ quan niệm, cách nhìn, mỗi thời đại có phương thức
thể hiện khác nhau. Nếu văn học thời hiện đại ít dùng tới những hình ảnh ước lệ,
đòi hỏi tính đột phá trong sáng tạo của người nghệ sĩ thì văn học truyền thống
lại hay dùng tới những công thức - hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng, thường tả
cảnh xen tình. Đối với Nguyễn Du, mặc dù chưa thoát khỏi đường ray của thời
đại nhưng ông cũng có những bức tranh phá khổ đi trước thời đại. Nhận xét về
nghệ thuật tả cảnh, tả tình trong thơ Nguyễn Du, nhà nho Đào Nguyên Phổ trong
bài tựa bản Đoạn Trường Tân Thanh năm 1902 có viết: ”Nói tình thì vẽ hình trạng
hợp ly tân khổ mà tình không rời cảnh; tả cảnh thì bầy hết thú vị tuyết nguyệt
phong hoa mà cảnh tự vương tình ”, còn Lê Trí Viễn thì cho rằng :“Cảnh vật dường
như một nhân vật luôn luôn có mặt, một nhân vật im lặng nhưng hiểu thấu tâm trạng
con người ….”[27,193).
Xuất phát từ góc độ chuyên
môn, hoạ sĩ Nguyễn Tiến Chung đã cho rằng”Sự tương quan giữa cảnh trong thơ ông
có lúc hoà hợp, uyển chuyển, cũng có khi tương phản nhau, nhưng cái nọ thường
làm nổi bật cái kia, hình này nói hộ hình khác, tất cả nhằm nói lên một tâm
tình. Cách bài trí thiên nhiên trong thơ ông dường như lúc nào cũng có trọng
tâm, có bối cảnh chủ đạo. Hình tượng nào cần làm lộ rõ ông cho gần lại; hình tượng
nào thứ yếu thì đẩy lùi xa và cho mờ nhạt đi, nhưng mọi hình tượng đều ăn khớp
với nhau.”[61,79]
Nghiên cứu những bức tranh tả
cảnh trong Truyện Kiều, ta nhận thấy rằng: khi hoạ những bức tranh phong cảnh,
Nguyễn Du thường vẽ bằng những nét chấm phá ít đi sâu vào chi tiết. Đặc biệt cảnh
vật được miêu tả thường bị chi phối bởi quan niệm nghệ thuật, cảm quan của con
người và thông qua lăng kính nhân vật:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
(1244)
Người buồn, cảnh có vui đâu
bao giờ! (1245)
2-1) Cảnh xuân, hạ, thu,
đông:
Trong văn học từ xưa đến nay
có không ít những bức tranh tuyệt tác về xuân, hạ, thu, đông-”Xuân hiểu” Trần
Nhân Tông, “Mùa xuân chín” Hàn Mặc Tử “Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm” Nguyễn Khuyến,”Đây
mùa thu tới” Xuân Diệu, “Tiếng thu” Lưu Trọng Lư, “Vịnh mùa Đông” Nguyễn Công
Trứ, “Mùa hạ” Xuân Quỳnh…. nhưng chỉ có Truyện Kiều bức tranh tứ bình mới được
hoàn chỉnh và không kém phần độc đáo.
Cũng dựa vào qui luật vận
hành của thiên nhiên vũ trụ - xuân sinh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàn nhưng
Nguyễn Du còn sắp xếp những cảnh này sao cho phù hợp với những cuộc gặp gỡ,
chia tay, tính chất của từng mối tình. Tình yêu Kim- Kiều chớm nở vào mùa xuân;
cuộc chia tay Kiều- Thúc, cuộc bỏ trốn của Thuý Kiều với Sở Khanh rơi vào mùa
thu...
- Mùa xuân là mùa của
tình yêu, mùa của lễ hội, nó là cái mốc quan trọng trong câu chuyện tình trai
tài gái sắc. Kim, Kiều gặp nhau, Kim Trọng trở lại vườn Thuý, hai bức hoạ này
có gì khác nhau trong những nét vẽ và sắc màu?
Trước hết là bức hoạ mùa
xuân khi hai chị em Thuý Kiều du xuân. Đây là bức hoạ với những gam màu
mát, đường nét mềm mại, đúng theo qui ước của hội hoạ ”màu lạnh -lam, xanh …thường
tạo cảm giác mát mẻ…đường lượn êm dịu tạo cảm giác yên bình ” [11,59]. Cảnh
có sắc xanh của cỏ non trải dài như mở ra một không gian vô tận, có sắc trắng của
bông hoa lê điểm xuyết, có sắc vàng dịu nhẹ của ánh nắng mặt trời vào độ tháng
ba tiết thanh minh, có đường nét nhẹ nhàng êm ái của chim én, có sự vận động khẩn
trương của thời gian, có không gian của chiều cao, chiều rộng và chiều ngang,
có cái diện để rõ cái điểm. Bức tranh rất phương Đông thật thông thoáng, cân đối,
hài hòa tươi mát, sống động như chính sự sống động của tâm hồn, của tuổi xuân
hoà hợp với cảnh xuân về:
Ngày xuân con én đưa thoi,
(39)
Thiều quang chín chục đã
ngoài sáu mươi. (40)
Cỏ non xanh rợn chân trời,
(41)
Cành lê trắng điểm một vài
bông hoa. (42)
Khác với bức tranh xuân dân
dã trong thơ Nguyễn Trãi “Độ đầu xuân thảo lục như yên. Xuân vũ thiêm lai thuỷ
phách thiên...”(Trại đầu xuân độ), rất nông thôn trong thơ Nguyễn Bính ”Cỏ nằm
trên mộ đợi thanh minh. Tôi đợi người yêu tới tự tình. Khỏi luỹ tre làng tôi nhận
thấy. Bắt đầu là cái thắt lưng xanh....”(Muà xuân xanh), rất sống động trong
thơ Hàn Mặc Tử ”Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời…”(Mùa xuân chín), bức tranh xuân
trong thơ Nguyễn Du đài các, quí phái hơn. Bởi lẽ ngoài sắc cỏ, bức tranh
còn được điểm xuyết bằng những nét vẽ về bông hoa trắng trên cành hoa lê. Hai
mảng màu xanh trắng tạo nên »sự tương phản thẩm mỹ rất táo bạo, màu trắng
muốt của hoa lê nổi bật» [55, 111]. Không chỉ khác nhau về tính chất những bức vẽ
còn khác nhau về đường nét. Nguyễn Bính nặng về nét tĩnh; Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử
nặng về nét động khẽ khàng êm ái hư thực; Nguyễn Trãi lại dùng nét động mạnh
mẽ’’ thuỷ phách thiên’’. Ngay cả cái sắc màu của cỏ cũng khác nhau: xanh nhạt
chuyển sang đậm (thơ Nguyễn Trãi), xanh non mơn mởn trải rộng (thơ Nguyễn Du),
xanh tươi sống động (thơ Hàn Mặc Tử), xanh lá cây im lìm (thơ Nguyễn Bính)
Cũng là cảnh xuân nhưng cảnh
xuân khi Kim Trọng trở lại vườn Thuý được vẽ bằng những nét vẽ chi tiết hơn. Đó
là một cảnh xuân buồn, trống vắng, hoang tàn, tiêu điều trong một không gian được
thu nhỏ:
Đầy vườn cỏ mọc, lau thưa, (2745)
Song trăng quạnh quẽ, vách
mưa rã rời; (2746)
Trước sau nào thấy bóng người,
(2747)
Hoa đào năm ngoái còn cười
gío đông, (2748)
Xập xoè én liệng lầu không,
(2749)
Cỏ lan mắt đất, rêu phong dấu
giày (2750).
Nơi đây không còn sự sống của
con người, mọi vật đều thay đổi, chỉ duy có hình ảnh sắc màu của hoa đào là
không thay đổi. Hoa đào tượng trưng cho mùa xuân, mùa xuân lại tượng trưng cho
tình yêu. Tình yêu dù chỉ còn là hoài niệm nhưng nó vẫn mãi mãi rực rỡ như cánh
hoa đào lúc độ xuân về. Hình ảnh‘’hoa đào’’ được Nguyễn Du mượn từ ý thơ của
Thôi Hộ :‘’Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông phong’’(Mặt
người chẳng biết đi đâu mất, Hoa đào vẫn như cũ, vẫn cười với gió đông) và đặt
thật đúng chỗ ‘’Cái có đột đến giữa cái không như một cứu cánh, một điểm tựa của
tâm linh. Nó như một an ủi, vỗ về làm dịu lại nỗi đau của con người cùng một
lúc đã mất đi quá nhiều những gì vô giá’’[21,213]. Hình ảnh hoa đào đã trở
thành dấu gạch nối trong hai mảng của một bức tranh- mảng bức tranh chỉ toàn là
hình ảnh của sự vật và mảng bức tranh đã có dấu vết con người. Trong một bức
tranh với nhiều loại sắc màu sắc màu- xanh, vàng, hồng, trong đó màu hồng của
hoa đào đã trở thành màu nổi bật. Sắc màu hồng rực rỡ xuất hiện trong gam màu
nhàn nhạt, trong khung cảnh hoang tàn còn là cái nghịch lý trớ trêu, một sự bơ
vơ lạc lõng.
Ngoài việc tạo ra sự tương
phản ngầm ẩn bức tranh hôm nay gợi nhớ bức tranh năm xưa, Nguyễn Du còn chủ
đích bài trí những hình ảnh lộn xộn, chẳng có trình tự :‘’cỏ mọc, lau
thưa, song trăng quạnh quẽ, vách rã rời, gió, mưa, én, lầu không, rêu phong’’
trong mọi không gian trước- sau, cao- thấp, trong- ngoài, trên- dưới. Tất cả
nương tựa vào nhau bổ sung cho nhau về mặt ý nghĩa. Đó là sự xuống cấp của sự sống,
sự phát triển tự do của thiên nhiên và tâm trạng đầy bi kịch của một con người.
Trong bức tranh này, Nguyễn
Du đã dùng đến nhiều loại đường nét- đường nét xiêu quẹo, ngả nghiêng (vách mưa
rã rời) ; đường nét thể hiện sự vươn lên một cách tự do, cao thấp không
hài hoà (cỏ, lau, rêu) ; đường nét thể hiện sự vận động theo chiều ngang
hoặc lên xuống (én liệng ) và cả những đường nét mờ nhạt (rêu phong dấu giày).
Nó như những mảnh vụn bày ra bừa bãi không ai chăm sóc tỉa tót.
- Mùa thu:
Không đi chệch với qui ước của
người phương Đông, mùa thu trong thơ Nguyễn Du cũng buồn, gợi nhớ nhung thương
cảm, tiễn biệt, chia ly. Những Môtif ‘’cúc vàng, giậu thu, sen tàn, lá ngô đồng,
rừng phong thu được sử dụng nhiều. Lê Thu Yến trong bài nghiên cứu về thơ thu
Nguyễn Du có kết luận :”Trong Truyện Kiều, mùa thu được miêu tả với nhiều
sắc màu tương hợp đa dạng. Có vui, có buồn, có xinh đẹp có tàn phai …với trời
mây cao vời vợi, đáy nước long lanh, lá ngô giếng vàng, sân ngô cành biếc, lá
phong nhuộm hồng ...”[25, 214].
Nguyễn Du hoạ tác nhiều những
bức tranh mùa thu trong phần Thuý Kiều gặp gỡ Thúc Sinh, Sở Khanh, những mối
tình mang tính tạm bợ.
Khảo sát toàn bộ tác phẩm,
ta thấy mùa thu trong thơ ông mang nhiều ý nghĩa:
- Trong thơ Nguyễn Du, mùa
thu được dùng để định vị khoảng thời gian trôi chảy hoặc thời gian có sự xuất
hiện của nhân vật - lúc xác định, lúc không xác định:
Nửa năm hơi tiếng vừa
quen,
(1385)
Sân ngô cành biếc đã chen lá
vàng. (1386)
Giậu thu vừa nảy giò
sương,
(1387)
Gối yên đã thấy xuân đường đến
nơi, (1388)
- Thú quê thuần hức, bén
mùi,
(1593)
Giếng vàng đã rụng một vài
lá ngô .
(1594)
Sen tàn, cúc lại nở hoa,
(1796)
- Mùa thu không chỉ buồn,
mùa thu còn góp phần tạo vẻ đẹp cho cảnh trời nước mênh mông hư ảo:
Long lanh đáy nước in trời,
(1603)
Thành xây khói biếc, non
phơi bóng vàng. (1604)
- Mùa thu mùa của sự chia
tay và tiễn biệt:
Người lên ngựa, kẻ chia bào,
(1519)
Rừng phong, thu đã nhuộm màu
quan san. (1520)
Cái không gian thực nơi chia
tay và cái không gian nội tâm như hoà trộn trong một bức tranh thu đặc biệt. Bức
tranh có gam màu đỏ trong vàng thê lương tê tái, có một sự chuyển màu rất kì diệu
thần tình - xanh xuân, vàng hạ, vàng đậm, đỏ sẫm khi rừng phong vào thu. Trong
đôi mắt dõi theo của nhà thơ, con người như nhạt nhoà nhỏ bé mờ ảo gần như mất
hút trong khung cảnh rừng phong nhuộm sắc như đang mở rộng đến vô cùng. Không
gian cách trở như ngày càng xa dần, từ cái khoảng cách –người lên ngựa và kẻ
chia bào chuyển thành rừng phong tràn ngập lá đỏ và nhuốm sắc vàng của trăng,
cái bạt ngàn của rừng dâu. Có chăng đây còn là sự chuyển biến trong tình cảm
–vui đến buồn, chung đôi và xa cách lẻ loi? Hình ảnh rừng phong chuyển sắc
cũng được Nguyễn Du nói nhiều trong thơ chữ Hán:“Bán tại giang đầu phong thụ
lâm”(Thấy một nửa sắc thu ở tại rừng phong đầu sông) (Tạp ngâm III) hay ”Phong
thụ lâm trung diệp loạn phi” (Khí thu đầy rừng phong, sương nhuộm đỏ lá cây) (Tân
thu ngẫu hứng) ”Thu lai thuỳ nhiễm phong lâm thuý” (Trong rừng phong lá thu bay
loạn xạ) (Tổ sơn đạo trung). Nhưng đó chỉ là những xúc cảm vô hạn của Nguyễn Du
trước những nét gợi cảm của một loài cây tiêu biểu cho mùa thu.
Cái màu quan san là màu gì
nhỉ? Phải chăng đó là màu chia ly xa xôi cách trở, buồn hiu hắt và tê tái, màu
của nội tâm đầy âu lo trước một hiện thực mông lung, tương lai mờ mịt. Nói đúng
hơn đây là cái màu không có thực nhưng tồn tại trong tâm linh nàng Kiều.
Levitan cũng có một bức hoạ nổi tiếng về mùa thu vàng. Đó là bức tranh về
màu thu đẹp buồn nhưng không gây ấn tượng cách trở chia ly. Nhận xét về chất hoạ
trong bốn câu thơ tả cảnh Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, Trần Đăng Xuyền có viết:
’’Cảnh chia tay được dựng lên bằng bút pháp hội hoạ: Không có âm thanh, chỉ có
hình, có sắc. Không gian được sắp xếp theo thứ tự từ gần đến xa, mỗi lúc một
thêm mênh mông rộng lớn gợi lên khoảng cách ngày càng xa dần của người đi kẻ ở.
Ba câu thơ gợi lên ba sắc màu: Màu đỏ sẫm của rừng phong vào thu, màu hồng của
các bụi đường trường, màu xanh ngăn ngắt của ngàn dâu’’[46,19]
- Không gian vắng lặng
thê lương khuya khoắt cũng là không gian nội tâm trống vắng buồn đến nao lòng
khi một mình một bóng ngồi chép
kinh:
Sân thu trăng đã vài phen đứng
đầu. (1934)
- Khung cảnh Kiều
và Sở Khanh đi trốn càng rùng rợn và vắng lặng hơn. Sắc màu nhợt nhạt khói
sương làm Kiều lo sợ và như linh cảm được nỗi đau thân phận, tai hoạ đang rình
rập:
Đêm thu khắc lậu canh tàn,
(1119)
Gió cây trút lá, trăng ngàn
ngậm gương. (1120)
Lối mòn cỏ nhợt màu sương,
(1121)
Lòng quê đi một bước đường một
đau. (1122)
Trong toàn bộ bức tranh thu sắc
vàng là sắc màu chủ đạo – vàng ngô, vàng cúc, vàng sen, vàng rừng, vàng
trăng, vàng đỏ của rừng phong. Những bức tranh có ngày có đêm, có sớm có khuya,
có không gian mênh mông cách trở, có gió mùa thu dìu dịu, có trăng mùa thu lúc
khuyết lúc tròn, lúc thẳng đứng, lúc chênh chếch, có nước mùa thu êm ả, sáng
trong. Tất cả đều buồn mong manh như dự báo một sự rạn vỡ chia lìa, cách trở
”màu quan san, nửa vành trăng khuyết, thành xây khói biếc”.
Trong những bức tranh thu đó
có bức tranh trở thành tuyệt tác về mùa thu, rất gần với những bức tranh sơn
thuỷ Đường Tống. Nếu nhìn ở góc độ hội hoạ có thể xếp bức tranh này vào nhóm
tranh thuộc trường phái ấn tượng:
Long lanh đáy nước in trời,
(1603)
Thành xây khói biếc, non
phơi bóng vàng . (1604)
Bức tranh được thêu dệt bằng
trí tưởng tượng tuyệt vời, mang nét đẹp vừa thực vừa hư. Khung trời rộng lớn lại
ở trong khung nước, xanh trời hoà cùng sắc xanh của nước, xanh núi được rải sắc
vàng của ánh nắng mặt trời. Giữa hai khoảng không cao thấp là những hình
khối khác nhau được kiến thiết bằng chất liệu mong manh của khói. Có thể
nói, ánh sáng, màu sắc, hình khối, hư và thực như hoà trộn vào nhau tạo
nên một bức tranh thu vượt khỏi cái khuôn ước lệ vốn có trong văn học cổ điển.
Ngôn từ đã hoá thân thành hình tượng, câu thơ trải ra thành bức tranh, thi phẩm
đã thăng hoa thành hoạ phẩm.
”Thơ thu Nguyễn Du không đạt
đến cái trong veo vô tâm, vô sự như ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, cũng
không ngơ ngác mơ màng như Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, càng không yên ả thanh
bình, râm mát như chiều thu của Nguyễn Bính...mà đặc quánh những tủi buồn, vất
vả, đắng cay của cuộc sống đời thường....”[25, 218].
Nhìn chung, mùa xuân và mùa
thu là hai mùa được thi hào hoạ tác nhiều nhất, bởi lẽ nó là mùa tình yêu- mùa
tiễn biệt. Đó là hai cái mốc về hai cuộc tình của nàng Kiều-cuộc tình thơ và cuộc
tình hờ, cuộc tình say đắm và cuộc tình lẩn trốn khổ ải.
Mùa hè:
Cũng như mùa xuân và mùa
thu, mùa hè cũng có những bức tranh đẹp gợi cảm:
Dưới trăng, quyên đã gọi hè,
(1307)
Đầu tường lửa lựu lập loè
đâm bông. (1308)
Khác với các nhà thơ khác
miêu tả mùa hè với những ánh nắng vàng rực rỡ, tiếng cuốc kêu khắc khoải, tiếng
ve sầu tái tê, hoa phượng đỏ trời, gió nồm lồng lộng, bức hoạ mùa hè trong thơ
Nguyễn Du hiện ra trong đêm dưới ánh trăng vàng, âm thanh réo rắc gọi mùa. Cái
rực rỡ của ánh mặt trời được thay bằng gam màu đậm đặc rực rỡ của hoa lựu như
đang phun ra từng luồng ánh sáng rõ mờ, biến hoá, sống động thần tiên. Sự sống
và sắc màu như trổi dậy mạnh mẽ đơm hoa kết trái. Thiên nhiên như khêu gợi con
người đi tìm cái đẹp vốn có của thiên nhiên và của chính con người ”toà thiên
nhiên”
- Mùa hè còn được ghi nhận
trong sự vận chuyển màu sắc, sự vận hành của thời tiết chuyển mùa-xuân
sang hè, hè sang thu:
Đào đà phai thắm, sen vừa nảy
xanh. (1474)
Sen tàn, cúc lại nở
hoa,
(1795)
Có lẽ đây là mùa thi hào đề
cập ít nhất, chỉ một lần duy nhất nhưng nó cũng trở thành“nhân vật” nhằm diễn tả
nỗi sầu muộn khắc khoải chờ mong của chàng Thúc đang đếm từng thời gian trôi
chày mong ngày gặp lại cố nhân:
Sầu dài, ngày ngắn, đông đà
sang xuân. (1796)
Tìm đâu cho thấy cố
nhân?
(1797)
Dưới ngòi bút của thi hào thời
gian co giãn rất linh hoạt. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả các mùa trong thơ
Nguyễn Du, Xuân Diệu có viết:”Bốn mùa chuyển rất thần tình …Với một câu thơ ,
Nguyễn Du cho diễn ra cả một mùa; với hai câu thơ, Nguyễn Du cho diễn ra cả một
năm” [92,136] và có khi là cả ba năm”Ba thu dọn lại một ngày dài ghê”.
Dù xuân hay hạ, thu hay
đông, tất cả đều có những tín hiệu đặc trưng, những gam màu phù hợp: gam
màu lạnh chủ yếu là màu xanh thường được dùng cho mùa xuân, gam màu nóng chủ yếu
là vàng-đỏ thường được dùng cho mùa thu và hè.
Thiên nhiên dưới ngoài bút
thi hào như đẹp hai lần. Ngoài những hình ảnh mang tính ước lệ còn có những
sáng tạo, phá rào bất ngờ. Những phá rào ấy thường để lại những kiệt tác có một
không hai .
2-2) - Cảnh lầu Ngưng Bích:
Như các nhà nghiên cứu đã khẳng
định đây là một trong những đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong tác phẩm
Truyện Kiều. Bức tranh được phác hoạ thông qua cảm quan của con người, nhân vật
duy nhất và cũng là trung tâm của bức tranh. Dưới ánh trăng lầu Ngưng Bích như
cao hơn (trăng như sắp chạm vào đầu). Nhân vật trữ tình ở trên tầm cao có thể
quan sát không gian đủ hướng:
Trước lầu Ngưng Bích khoá
xuân, (1033)
Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở
chung. (1034)
Bốn bề bát ngát xa
trông,
(1035)
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm
kia. (1306)
Bức tranh mở ra từ từ, mở cả
hình ảnh lẫn ngữ âm (âm o sang âm a) và nhạt nhoà dần. Cảnh được phối trí theo
kiểu xa gần, cao thấp rõ mờ. Trước hết, đó là cái lầu có tên rất đẹp Ngưng Bích
nhưng lại là nơi giam chặt tuổi xuân con người, xa dần là núi, trăng, cát, bụi.
Tất cả đều là những sự vật hữu hình nhưng vô cảm cách chia “xa, gần, nọ, kia”. Nét
màu chủ đạo và chi phối toàn bức tranh chính là sắc vàng của trăng. Nhưng
không phải là trăng “vằng vặc giữa trời” khi Kim Kiều thề ước hay “trăng thanh”
khi Từ Hải xuất hiện mà là “trăng gần” với người để chia sẻ nỗi niềm cô đơn, quạnh
vắng. Cũng dưới ánh trăng vàng, mọi vật trở nên nhạt nhoà hư ảo. Trong mắt Kiều,
núi non trùng điệp với những sắc xanh đậm đặc giờ chỉ còn là những đường viền mờ
ảo loáng thoáng vắng lặng, những bãi cát vàng nơi cồn nọ hay những hạt bụi hồng
nơi dặm kia trở nên xa vời. Không gian bát ngát, cảnh vật heo hút, con người
càng trở nên nhỏ bé, chơ vơ, trơ trọi. Bức tranh được thêu dệt bằng sắc màu hư ảo
dù đẹp nhưng buồn, mang đầy chất tâm trạng – hoài niệm, nhớ thương, âu lo.
Trăng hôm nay lại gợi nhớ
trăng năm xưa với đôi tình nhân và chén rượu thề nguyền giờ chỉ còn là kỉ niệm.
Trong chiều sâu tâm thức của Kiều đã hiện ra hình bóng một người yêu lý tưởng
đang khắc khoải chờ mong ngày tái ngộ, hình ảnh người mẹ già không ai chăm sóc,
tựa cửa chờ con. Tất cả những bức tranh vô hình trong tâm tưởng đã biến thành
những bức tranh hữu hình được thêu dệt bằng ngôn ngữ:
Tưởng người dưới nguyệt chén
đồng, (1039)
Tin sương luống những rày
trông mai chờ (1040)
Bên trời góc bể bơ vơ,
(1041)
Tấm son gột rửa bao giờ cho
phai.
(1042)
Xót người tựa cửa hôm
mai,
(1043)
Quạt nồng ấp lạnh những ai
đó giờ?… (1044)
Trở về với thực tại dưới mắt
Kiều bức tranh khác lại hiện ra:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
(1047)
Thuyền ai thấp thoáng cánh
buuồn xa xa? (1048)
Buồn trông ngọn nước mới sa,
(1049)
Hoa trôi man mác, biết là về
đâu?
(1050)
Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
(1051)
Chân mây mặt đất một màu
xanh xanh . (1052)
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, (1053)
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh
ghế ngồi. (1054)
Bức tranh có cấu trúc khá
cân đối: thuyền- bể, nước- hoa, nội cỏ- chân mây, gió -sóng. Trong cái cao lại ứng
với cái thấp, trong cái lớn lại bao hàm cái nhỏ, có trên ắt có dưới. Không
gian hội hoạ đi từ xa đến gần cuối cùng là trung tâm điểm “ghế ngồi”. Ghế
ngồi hình ảnh biểu hiện sự hiện hữu của nhân vật duy nhất trong khung cảnh. Nó
lại được bao bọc bởi ánh sáng lờ mờ âm thanh dữ dội, sắc màu pha tạp nhàn nhạt.
Đằng sau bức tranh hiện hữu là thế giới nội tâm con người. Một nỗi buồn vây kín
không rứt, một sự hãi hùng lo sợ ở tương lai gần, một khát vọng rất con người-khát
vọng tự do.
2-3) Trăng:
Trăng là hình ảnh quen thuộc
thường xuất hiện trong thi ca. Trước Nguyễn Du và sau Nguyễn Du không ít nhà
thơ viết về trăng. Nguyễn Trãi đã có “Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc. Thuyền
chở yên hà nặng vạy then ”, Hàn Mặc Tử với ”Thuyền ai đậu bến sông trăng đó. Có
chở trăng về kịp tối nay?”, còn ca dao lại viết “Hỡi cô tát nước bên đàng. Sao
cô múc ánh trăng vàng đổ đi”. Đó là những bức hoạ trong nhiều bức hoạ tuyệt tác
về trăng. Trong tác phẩm Truyện Kiều, trăng còn xuất hiện với tần số lớn hơn
nhiều. Khảo sát tác phẩm ta thấy trăng có nhiều ý nghĩa và xuất hiện trong nhiều
trường hợp:
- Trước hết, trăng là vẻ đẹp
huyền ảo của vũ trụ, nó tôn thêm vẻ đẹp của cảnh vật chung quanh:
Dưới trăng, quyên đã gọi
hè,
(1307)
Đầu tường lửa lựu lập lèo
đâm bông. (1308)
- Trăng thể hiện thời gian
trôi chảy, lúc chậm chạp lúc bình thường, lúc khẩn trương gấp gáp, góp phần xác
định sự chuyển giao thời tiết. Dưới ngòi bút của thi hào, chỉ có một đôi câu mà
có lúc là đêm trăng, có lúc tuần trăng, có lúc là cả một mùa trăng, thậm chí là
mấy mùa trăng:
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu
hao,
(251)
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao
ngán lòng. (252)
Nhẫn từ quán khách lân
la,
(287)
Tuần trăng thấm thoát nay đà
thêm hai. (288)
Lần lần ngày gió đêm
trăng,
(369)
Thưa hồng rậm lục đã chừng
xuân qua. (370)
Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
(1595)
Một niềm quan tái, mấy mùa
gió trăng (1596)
- Trăng tạo ra khung cảnh trữ
tình để nhân vật xuất hiện tâm tình trao đổi trò chuyện. Nó như đồng cảm lay động
sự trở trăn của nhân vật. Thuý Kiều “tựa ngồi bên triện” thì trăng “chênh chênh
”, Thuý Kiều nhẹ gót thì ánh trăng như “đã xế” xuống gần soi bóng nàng Kiều:
Chênh chênh bóng nguyệt xế
mành, (186)
Tựa ngồi bên triện, một mình
thiu thiu. (187)
Nhặt thưa, gương dọi đầu
cành, (433)
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh
hắt hiu.(434)
Sinh vừa tựa án thiu
thiu,
(435)
Giở chiều như tỉnh, giở chiều
như mê. (436)
Tiếng sen đã động giấc hoè
,
(437)
Bóng trăng đã xế hoa lê lại
gần.
(438)
Người anh hùng Từ Hải đã xuất
hiện trong khung cảnh gió mát, trời trong, thiên nhiên huyền ảo. Ánh trăng đã tạo
thêm vẻ đẹp huyền bí cho nhân vật huyền thoại:
Lần thâu gió mát trăng
thanh.
(2165)
Bỗng đâu có khách biên đình
sang chơi.(2166)
Người anh hùng đi tìm tình
yêu có khác. Mượn ánh trăng tên họ Sở đánh tiếng xuất hiện trong sự dè xẻn, lén
lút để vừa kiếm được tiền vừa kiếm được tình còn Từ Hải thì rất bất ngờ,
đường đột, ngang nhiên, mạnh mẽ.
- Mùa trăng thường đồng nghĩa
với mùa của những hoạt động vào đêm. Có người xem đó là mùa chơi trăng, thưởng
ngọn cảm tác, có người xem đó là mùa hò hẹn, song cũng có kẻ xem đó là cơ hội
thực hiện mục đích của mình. Tú Bà tranh thủ mùa trăng truyền bí quyết về
thuật tiếp khách làng chơi cho những ai mới vào nghề:
Vừa tuần nguyệt sáng,
gương trong, (1191)
Tú Bà ghé lại thong dong dặn
dò: (1192)
Khi “Đoá trà mi đã ngậm
trăng nửa vành.”(1092) thì cũng là lúc “Rẽ song, đã thấy Sở Khanh lẻn
vào.”(1094). Và cuộc ra đi lặng lẽ của Sở Khanh- Kiều cũng ngay vào thời điểm
đêm trăng :
Đêm thu khắc lậu canh tàn,
(1119)
Gió cây trút lá, trăng ngàn
ngậm gương.(1120)
Lối mòn cỏ nhạt mùi sương
,
(1121)
Lòng quê đi được bước đường
một đau. (1122)
- Trăng còn là hình ảnh gợi
hoài niệm, nhớ thương, nỗi đau nỗi buồn. Tất cả quá vãng đẹp đẽ giờ chỉ còn là ảo
ảnh chẳng khác nào ánh trăng đã làm nhoè đi mọi vật nhưng làm thao thức những
chuyện tình:
Tưởng người dưới nguyệt chén
đồng, (1039)
Tin sương luống hãy rày
trông mai chơ. (1040)
- Trăng có lúc là người bạn đồng
hành, cảm thông toả sáng giúp con người thoát nạn.” Trăng tà về tây” phải chăng
là sự định hướng về một lối thoát duy nhất cho Kiều:
Cất mình qua ngọn tường
hoa,
(2027)
Lần đường theo bóng trăng tà
về
tây.
(2028)
Mịt mù dặm cát đồi cây
,
(2029)
Tiếng gà điếm nguyệt, dấu
giày cầu sương. (2030)
Khổ nhục trăm bề, Kiều quyết
định quyên sinh, trăng lại xuất hiện để chia sẻ nỗi đau cùng tận của con người:
Mảnh trăng đã gác non
đoài,
(2617)
Một mình luống những đứng ngồi
chưa xong. (2618)
- Trăng –sự vĩnh hằng của vũ
trụ, trở thành thước đo của lời nguyền ước và là chứng nhân vô ngôn của hai miệng
một lời. Nó đem hết nội lực toả sáng, soi rọi, dõi theo, lắng nghe từng lời
nguyện thề kết tóc xe tơ. Con người là chứng nhân là chuyện thường tình nhưng
vũ trụ tạo hoá trở thành nhân chứng mới là độc đáo. Ai dám thay đổi!
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
(449)
Đinh ninh hai miệng, một lời
song song. (450)
Còn duyên, may lại còn người
,
(3073)
Còn vầng trăng bạc, còn lời
nguyền xưa.(3974)
- Có khi trăng đã trở thành ẩn
dụ tu từ thể hiện sự tàn phai hoặc ngợi ca vẻ đẹp của con người. Cái đẹp càng
có giá trị đích thực khi đã trải qua bão táp, đó là cái đẹp của sự trải nghiệm,
vẻ đẹp tâm hồn nhân cách:
Bấy chầy, gió táp mưa
sa,
(3099)
Mấy trăng cũng khuyết, mấy
hoa cũng
tàn.
(3100)
Hoa tàn mà lại thêm
tươi,
(3123)
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm
xưa.
(3124)
- Trăng còn là biểu tượng của
niềm cô đơn, sự chia lìa đôi lứa :
Vầng trăng ai xẻ làm
đôi?
(1525)
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm
trường.
(1526)
Trăng trong thơ Nguyễn Du có
nội hàm ý ghĩa rất phong phú. Nếu “ánh nắng buổi chiều là cái nhìn ra không
gian” thì “ánh trăng khuya là cái nhìn vào nội giới. Hai tia sáng hội tụ vào ý
thức giúp Kiều nhận định rõ chân tướng của định mệnh” [76,176]
Nguyễn Du đã sử dụng khá nhiều
nét vẽ khác nhau về trăng - trăng chênh chếch (hơi lệch)” Giương nga chênh chếch
dòm song; trăng xế trăng chênh “Chênh chênh bóng nguyệt xế mành “; trăng xẻ đôi
chia cắt “Vầng trăng ai xẻ làm đôi”; trăng tròn sáng tỏ”Vầng trăng vằng vặc giữa
trời”; trăng đầu tháng, trăng cuối tháng”Tuần trăng khuyết, đĩa dầu vơi”; trăng
đầu hôm, trăng giữa hôm, trăng cuối hôm; trăng long lanh đáy nước “Vàng gieo ngấn
nước cây lồng bóng sân”; trăng ngập ngừng trên”Giá trà mi đã ngậm trăng nửa
vành”; trăng lúc nhặt, lúc thưa, lúc bao trùm khắp không gian, lúc xuyên qua kẻ
lá “Nhặt thưa gương rọi đầu cành” Và còn có cả trăng xuân, trăng thu, trăng hè. Sắc
màu của trăng cũng vô cùng biến hoá rất khớp với không gian thời gian khi trăng
xuất hiện- lúc thì sắc vàng dịu nhẹ, rõ mờ; lúc thì màu vàng đến độ cực điểm”vằng
vặc” toả rộng bát ngát cả một vùng rộng lớn; lúc thì trắng hơi vàng“vẻ ngân”;
lúc thì thu nội lực soi rọi vừa đủ để nhân vật hoạt động. Sự biến hoá về sắc
màu, đường nét của trăng thường có sự đồng nhất với tình cảm con người. Khi con
người trầm tư mộng mơ thì “gương nga chênh chếch”, khi sứ giả Đạm Tiên xuất hiện
thì trăng ”chênh chênh bóng nguyệt”, khi có sự chia lìa mất mát thì “trăng khuyết”
”trăng xẻ” và lúc hai tâm hồn hoà điệu thì trăng tròn”vằng vặc”. “Cùng một ánh
trăng mà không biết bao nhiêu màu sắc vì diễn tả không biết bao nhiêu tâm trạng:
trăng đêm thanh minh sôi nổi, rạo rực, trăng đêm tình tự huyền ảo, êm đềm,
trăng đêm lìa nhà hiu quạnh, xót xa, trăng ở lầu xanh chán chường nhạt nhẽo,
trăng ly biệt Thúc Sinh đầy nhớ thương mà không hiu quạnh, trăng đêm thoát khỏi
nhà Hoạn Thư lạnh lẽo và hãi hùng ,vv…”[27,193]
2-4) Cảnh Kiều ra đi:
Đây là đoạn thơ rất cảm động
và ấn tượng. Nguyễn Du đã tạc vào không gian xa tít tắp mọt con người với
tấm thân mảnh khảnh lầm lũi trong đồi cát, cỏ cây “mịt mù” và nhạt nhoà dưới
màu vàng yếu ớt của trăng khuya, dần dần mất hút trong con đường dài quanh co vạn
dặm vắng lặng đến rợn người. Chỉ một tiếng động tĩnh rất khẽ của “dấu giày
”cũng nghe thấu. Cấu trúc bức tranh được xây dựng trong sự tương phản –con
người thì quá bé nhỏ trước cái cảnh đêm thì quá mông lung, không gian thì rộng
vô tận. Không chỉ có hoạ, bức tranh thơ còn có nhạc- tiếng nhạc đều đều của dấu
giày hoà cùng tiếng gà canh khuya văng vẳng đâu đây và trên hết là tiếng nhạc
lòng thổn thức lo sợ, tự thương mình :
Canh khuya, thân gái dặm trường,
(2031)
Phần e đường xá, phần thương
dãi dầu!
(2031)
Ngôn từ thơ thật đơn giản
nhưng đây lại là hai câu thơ vô cùng đặc sắc. Câu trên mở ra thế giới ngoại cảnh,
câu dưới đi vào thế giới tâm cảnh với hai hướng. Kiều cảm thấy lo sợ điều không
hay có thể đến”e đường xá” khi hướng ngoại và tự thương thân”thương dãi dầu”
khi hướng nội. Cả hai tạo nên một sự cộng hưởng rất lớn về nỗi đau thân phận.
Có thể xem đây là lời than thân của người trong cuộc và sự đồng cảm sâu sắc của
người ngoài cuộc. Những thanh bằng”canh khuya thân, phần e đường”, những vần có
âm vang”trường, đường, thương” liên tiếp xuất hiện trong hai câu thơ làm cho
câu thơ có sức âm vang, có khả năng khơi gợi một niềm cảm thương về kiếp “hồng
nhan đa truân”. Camera của thi hào Nguyễn Du như đã ria đủ hướng như tìm kiếm,
dõi theo từng thao tác của nàng Kiều từ đầu đến cuối, từ khi thân gái yếu ớt mảnh
khảnh cố cất mình qua bức tường hoa đầy hiểm nguy đến lúc rời xa khu vườn của
nhà họ Hoạn trong cảnh ngộ bơ vơ không thấy đâu là nhà, người thân thích.
2-5) Cảnh sông Tiền Đường:
Nếu trăng trong thơ cụ Nguyễn
Du là “nhân vật im lặng” thì sông Tiền Đuờng là nhân vật biết lên tiếng:
Triều đâu nổi tiếng đùng
đùng,
(2619)
Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền
Đường .(2620)
Cảnh sông Tiền Đường vừa được
ghi âm, vừa được hoạ tác bằng hình ảnh.Với những nét cong của những con sóng
đang cuộn tròn vỗ mạnh vào bờ, Nguyễn Du đã tạo ra một dòng sông với bao
sóng nước dao động mạnh mẽ như muốn làm vỡ tung những gì che chắn. Tiếng triều
hay là tiếng thét giận dữ bất bình của vũ trụ trước sự bất công của cõi người?
Nhưng khi Thuý Kiều được giải
thoát thì sông Tiền Đường lại bình lặng êm ả. Nét vẽ lúc này là những nét
trải dài rộng mở, êm nhẹ:
Bốn bề bát ngát mênh
mông,
(2735)
Triều dâng hôm sớm, mây lồng
trước sau. (2736)
Tìm đến cái chết nơi dòng
sông là môtif giải thoát thường thấy trong văn học trung đại. Đạm Tiên con người
“tài sắc một thì” từng xem nơi đây là mồ chôn của những người tài sắc. Vũ Thị
Thiết khi bị bức tử đã quyên sinh nơi dòng sông Hoàng Giang. Khi bị đưa đi cống
giặc Ô qua, Kiều Nguyệt Nga cũng tìm đến dòng sông.
3) Chất hoạ trong những bức
tranh cảnh sinh hoạt:
Khác với những bức hoạ phong
cảnh, những bức hoạ cảnh sinh hoạt thường có nhiều nhân vật, đường nét vận
động trong nhiều chiều kích không gian, nhất là không gian rộng lớn.
3-1) Cảnh du xuân:
Cảnh du xuấn được vẽ bằng những
nét bút đẹp và sống động :
Thanh minh, trong tiết tháng
ba
(43)
Lễ là tảo mộ, hội là Đạp
thanh.
(44)
Gần xa nô nức yến anh,
(45)
Chị em sắm sửa bộ hành chơi
xuân. (46)
Dập dìu tài tử, giai
nhân,
(47)
Ngựa xe như nước, áo quần
như nen. (48)
Ngổn ngang gò đống kéo lên
,
(49)
Thoi vàng vó rắc, tro tiền
giấy bay. (50)
Mùa xuân, mùa của lễ hội. Lễ
hội thanh minh là một lễ hội truyền thống được tổ chức vào gần cuối mùa xuân.
Trong lễ hội đó có phần lễ –tảo mộ và phần hội-đạp thanh. Bức tranh được khắc
hoạ trong thời gian tháng ba mùa xuân và không gian tràn ngập ánh sáng với những
thảm cỏ xanh trải dài, người qua kẻ lại tấp nập đông vui. Hoạ sĩ đã quan sát
nhiều góc độ –gần xa, từ mới bắt đầu “sắm sửa” đến lúc cuộc chơi diễn tiến, sau
đó là kết thúc. Nhiều hình ảnh –con người thiên nhiên, mồ mả tro tiền, ngựa xe
và toàn bộ những gam màu- nóng, lạnh được huy động. Nổi bật nhất là sắc màu
vàng của đồ mả, trắng xám của tro tiền- tiêu biểu của phần lễ và màu vàng nhẹ của
nắng xuân, màu xanh hy vọng của cỏ non, sự vận động nhộn nhịp, đường nét mềm mại-
tiêu biểu cho phần hội. Khắc hoạ cảnh lễ ra cảnh lễ, cảnh hội ra cảnh hội, cái
tài của thi hào Nguyễn Du là ở chỗ đó.
Ngày hội Đạp thanh còn là cơ
hội gặp gỡ và cũng là cái ngưỡng có thể làm thay đổi trong đời sống tâm hồn
tình cảm của nhân vật. Bức hoạ càng trở nên rất sống động, rực rỡ, vui mắt một
phần nhờ nhịp điệu sống khẩn trương dồn dập của những chàng trai cô gái, nhờ những
cặp từ đôi diễn tả trạng thái, hoạt động–nô nức, sắm sửa, dập dìu, mô tả sự vật-
ngổn ngang, những hình ảnh nối nhau, đối xứng.
Tương phản với cảnh đông vui
nhộn nhịp là cảnh về chiều trống vắng lê thê. Cảnh đẹp nhưng man mác buồn:
Tà tà bóng ngả về tây,
(51)
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
(52)
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
(53)
Lần xem phong cảnh có bề
thanh thanh . (54)
Nao nao dòng nước uốn
quanh,
(55)
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh
bắc ngang. (56)
Sè sè nấm đất bên đường,
(57)
Dàu dàu ngọn cỏ, nửa vàng, nửa
xanh. (58)
Cảnh có bóng chiều đang xuống
chầm chậm, con suối nhỏ, dòng nước trong, nhịp cầu nhỏ nhắn, ngọn cỏ vàng xanh
héo úa đang chuyển sắc màu, nấm đất nhỏ nhoi lẻ loi bên đường. Bức tranh
được kiến thiết bằng những hình ảnh xinh xắn nhỏ nhắn đáng yêu, bằng những đường
nét uốn lượn, gam màu dịu mát hoà hợp– vàng, xanh, trắng trong một bố cục cân đối
xa gần, cao thấp- nhịp cầu- dòng nước, nấm đất- ngọn cỏ. Cảnh xinh nhưng buồn.
Trung tâm của bức tranh là hình ảnh chị em Thuý Kiều đang cất những bước chân
nhẹ nhàng ngắm nhìn từng cảnh sắc một cách lặng lẽ, nghĩ suy, nuối tiếc miên
man. Đây còn là bức tranh của tâm trạng. Cái nao nao của dòng nước hay chính là
cái nao nao của tâm trạng con người. Ngọn cỏ dàu dàu, nấm đất sè sè hay chính
là sự linh cảm về những điều không vui sẽ đến.
3-2) Cảnh lầu xanh:
Khác với bức vẽ giàu chất
lãng mạn thông thoáng của cảnh du xuân, bức vẽ cảnh lầu xanh vừa có chất hiện
thực vừa giàu tính tượng trưng, điển hình hoá. Nguyễn Du không dùng nhiều đến
màu sáng, chủ yếu sử dụng những gam màu tối để tạo ra những hình khối thể
hiện sự tấp nập:
Biết bao bướm lả, ong lơi,
(1229)
Cuộc say đầy tháng, trận cười
suốt đêm! (1230)
Dập dìu lá gió cành
chim,
(1231)
“Bướm, ong, gió, chim, dập
dìu, đưa, tìm”, những hình ảnh xuất hiện dồn dập liên tiếp cùng với những hoạt
động không ngớt, bức tranh đã thể hiện đúng cái bản chất của lầu xanh: xô bồ, tấp
nập, đông đảo, hoạt động vượt qua cái ngưỡng thời gian. Dù bức vẽ được thiết kế
trong không gian có giới hạn nhưng nó vẫn gây ấn tượng mạnh bởi những âm thanh
náo động của tiếng chân người đến kẻ đi, người đưa kẻ tiễn, tiếng nói, tiếng cười
diễn ra thâu đêm suốt sáng. Lối điệp ý ”bướm, ong-gió, chim, lả- lơi ”, cách
chuyển những động từ thành những danh từ ”trận cười, cuộc say ” đã diễn tả được
sự thường xuyên nhưng rập khuôn, sáo mòn.
Mặc dù chỉ ghi lại hiện tượng
nhưng bức vẽ lại có giá trị tố cáo, lên án cái hoạt động tự do ngang nhiên
ngoài vòng pháp luật của những ổ chứa, nơi đã làm hoen ố không biết bao nhiêu
nhân cách, làm nát tan không biết bao nhiêu gia đình. Đau xót, Kiều phải thốt
lên rằng :
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
.
(1233)
Giật mình, mình lại thương
mình xót xa .(1234)
3-3) Cảnh xử kiện:
Khác với cảnh trên, cảnh xử
kiện có vẻ uy nghiêm hơn:
Đất bằng nổi sóng đùng
đùng,
(1405)
Phủ đường sai lá phiếu hồng
thôi tra.
(1406)
Cùng nhau theo gót sai
nha,
(1407)
Song song vào trước sân hoa,
lạy quì. (1408)
Trông lên mặt sắt đen
sì,
(1409)
Lập nghiêm trước đã, ra uy nặng
lời: (1410)
Khi miêu tả cảnh xử kiện,
Nguyễn Du đã lượt bỏ những chi tiết phụ để tập trung vào chi tiết chính – tội
nhân và bản quan, người bị xử và kẻ xử kiện. Hai nhân vật có sự tương phản về
đường nét, sắc mặt, ngôn ngữ, hành động. Đối với người bị kiện, Nguyễn Du đặc tả
những hình ảnh thể hiện sự tàn phai, tan tác ”Đào hoen, liễu tan, gương lờ, mai
gầy”, khúm núm sợ sệt, thái độ căm lặng, chịu đựng”dám kêu, quì lạy”. Ngược lại,
đối với người xử kiện, ông chú ý đến thái độ lạnh lùng, ra oai, uy hiếp, ngôn
ngữ gắt gỏng, khuôn mặt đầy vẻ cứng rắn, cương nghị “mặt sắt đen sì”. Nguyễn Du
khai thác thành công tính chất bất hợp lý của lối xử kiện lạ lùng, ngược đời,
hiếm có- sỉ vả Thúc Sinh, đánh đập Thuý Kiều và ra lệnh cho trả về lầu xanh.
Nhưng đến khi thấu hiểu sự việc, biết được tài thơ của Thuý Kiều, thì quan xử
kiện đã thay đổi thái độ, sẵn sàng làm chủ hôn. Việc quan phủ nhân danh pháp luật
thừa nhận cuộc tình duyên của Kiều và Thúc Sinh phần nào phản ảnh quan niệm
“Trai năm thê bảy thiếp ”của xã hội xưa. Theo Nguyễn Du ”Chữ tài liền với chữ
tai một vần”, song có lẽ ông cũng không loại trừ trường hợp ngoại lệ. Nhờ tài
thơ mà Thuý Kiều không phải trở về cuộc sống ô nhục nơi lầu xanh.
3-4) Cảnh đốt nhà bắt cóc:
Cảnh đốt nhà bắt cóc chẳng
khác nào một cảnh thực đang diễn ra trước mắt người đọc. Các nhân vật gây án
hành động bất ngờ khẩn trương, gọn gàng khéo léo đúng với thao tác của những kẻ
chuyên săn người, giết mướn- Khuyển, Ưng:
Dưới hoa dậy lũ ác nhân,
(1641)
Ầm ầm khốc quỉ, kinh thần, mọc
ra! (1642)
Đầy sân gươm tuốc sáng loà,
(1643)
Thất kinh, nàng chửa biết là
làm sao (1644)
Thuốc mê đâu đã tưới
vào,
(1645)
Mơ màng như giấc chiêm bao
biết gì! (1646)
Vực ngay lên ngựa tức thì,
(1647)
Phòng đào, viện sách, bốn bề
lửa dong.(1648)
Cảnh được vẽ bằng những nét
vẽ mạnh- nhanh, nhiều nét nhọn của giáo gươm tua tủa gợi dữ dội và những âm
thanh rầm rập của tiếng chân đi. Gam màu đỏ bao trùm của bức tranh “bốn bề lửa
dong” đặc tả được cảnh khói lửa ngút trời, nhà tan cửa nát. Đối lập với sự dữ tợn,
hầm hầm sát khí của bọn người đao phủ thủ chuyên gây án là tấm thân bất động, sự
đơn chiếc. Nguyễn Du đã chủ ý vẽ hai cái thây người trong một bức tran– một hồn
xiêu phách lạc, một thây vô chủ bên sông. Với hai hình ảnh ấy Nguyễn Du đã gián
tiếp tố cáo cái xã hội vô trật tự thiếu kĩ cương nơi đó mạng sống con người chẳng
được coi trọng. Pháp luật đâu rồi? Câu trả lời Nguyễn Du để ngỏ và phần trả lời
thuộc về người tiếp nhận.
3-5) Cảnh Kiều bị đánh đập:
Trong toàn bộ tác phẩm Truyện
Kiều, không ít lần Thuý Kiều bị đánh đập. Mới mua về, Tú Bà đã ra oai bằng
cách: ”Phải làm cho biết phép tao! Chập bì tiên, rắp sấn vào ra tay.”(977-978).
Sau khi bị Sở Khanh lừa vào tròng, Kiều bị đánh đập dữ dội hơn: ”Hung hăng chẳng
hỏi, chẳng tra. Đang tay vùi liễu, dập hoa tơi bời. Thịt da ai cũng là
người, Lòng nào hồng rụng, thắm rời, chẳng đau. Hết lời thú phục, khẩn cầu, Uốn
lưng thịt đổ, dập đầu máu sa.”(1135-1140). Rồi sau đó Kiều bị quan phủ đánh đập
tra khảo ”Ba cây chập lại một cành mẫu đơn...Đào hoen quẹn má, liễu tan tác
mày...Gương lờ nước thủy, mai gầy vóc sương.” (1426-1428-1430). Lần này, người
đánh đập lại là mẹ của Hoạn Thư:
Trúc côn, ra sức đập
vào,
(1739)
Thịt nào chẳng nát, gan nào
chẳng kinh! (1740)
Xót thay đào lý một
cành,
(1741)
Một phen mưa gió, tan tành một
phen! (1742)
Nếu đặt bốn bức tranh cạnh
nhau, ta sẽ thấy được tài hoạ cảnh của Nguyễn Du. Bốn bức vẽ là bốn bức tranh
khác nhau nhưng lại tiếp nối nhau, bổ sung cho nhau: hai lần Kiều bị Tú Bà đánh
đánh đập, hai lần Kiều bị bọn quan lại tra khảo, chủ chứa dùng roi da còn bọn
quan lại dùng cây và gậy, mức độ và tốc độ đánh cũng ngày càng tăng dần”ra tay,
vùi liễu dập hoa, ra sức đập vào”. Trong bốn bức vẽ, hình ảnh người bị đánh được
miêu tả đậm nhạt khác nhau. Trong lần đánh thứ nhất, Nguyễn Du không vẽ ra
vết tích ở tấm thân nàng Kiều, những vết tích được cảm nhận qua thông tin”bằn bặt
giấc tiên” (bất tỉnh), trong lần thứ hai, ông dùng những nét vẽ tỉ mỉ
giàu chất hiện thực ” Uốn lưng thịt đổ, dập đầu máu sa”. Hai lần sau, ông dùng
nhiều đến những ẩn dụ tu từ “Đào hoen, mai gầy, gương lờ, vóc sương, mưa gió,
đào lý tan tành”
Bốn lần Kiều bị đánh lại là
bốn lý do có khác nhau – Lần đầu vì Kiều bị tên họ Mã làm cho thất tiết, Tú Bà
đánh để dằn mặt; lần thứ hai Thuý Kiều bị tên Sở Khanh lừa đi trốn, Tú Bà đánh
để làm áp lực đẩy Kiều vào lầu xanh; lần thứ ba, quan phủ đánh vì cái tội ”Mượn
màu son phấn đánh lừa con đen”; và lần thứ tư là do quan niệm “Chồng chung,
chưa dễ ai chiều cho ai”, Hoạn Bà muốn bảo vệ hạnh phúc của con mình.
Ngoài những nét riêng, bốn bức
tranh cũng có những nét chung. Những hình ảnh đối lập tương phản dường như ở bức
tranh nào cũng có- đối lập giữa kẻ có tiền có quyền với thân phận con ong cái
kiến, giữa vũ lực tàn bạo và tấm thân mảnh khảnh chịu đựng. Chất nhân văn của
những trang Kiều chính là thái độ lặng lẽ dõi theo, cảm thông với từng nỗi đau
của nàng Kiều.
3-6) Cảnh Kiều hầu hạ vợ chồng
Hoạn Thư:
Đây là cảnh trớ trêu nhất. Mới
hôm nào Kiều cùng Thúc Sinh chung chăn chung gối, tâm sự tỉ tê thì giờ đây Kiều
trở thành “phận con hầu, giữ con hầu dám sai“, sớm khuya hầu hạ, dâng rượu :
Vợ chồng chén tạc, chén
thù, (1835)
Bắt nàng đứng chực trì hồ
hai nơi. (1836)
Bắt khoan, bắt nhặt, đến lời,
(1837)
Bắt quì tận mặt, bắt mời tận
tay . (1837)
Cảnh có ba nhân vật, Thúc
Sinh như một kẻ mất hồn luốn cuốn luýnh quýnh, Hoạn Thư -người chủ tiệc
ra oai sai khiến, Thuý Kiều –cam chịu. Ba nhân vật với những nét vẽ- kẻ ngồi
người đứng, kẻ uống người hầu, kẻ sai người thực hiện. Yêu cầu và hành động diễn
ra liên tục và rất khớp nhau. Khác với Hoạn Thư và Thúc Sinh, nhân vật Kiều được
Nguyễn Du dành nhiều nét vẽ - lúc đứng, lúc ngồi, lúc quỳ, lúc mời, lúc đến gần,
lúc đứng xa, nhanh cũng không được, chậm cũng không xong. Kiểu vẽ này là
kiểu vẽ nhiều tranh khác nhau có sự vận động, gần với lối vẽ dùng cho film hoạt
hoạ. Dựa vào những tiểu phẩm, ta có một bức vẽ rất chung về hình ảnh nàng
Kiều lệ thuộc, hành động chóng vánh. Chưa hả giận, Hoạn Thư còn bắt Thuý Kiều:
Ao xanh đổi lấy cà
sa,
(1921)
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc
Tuyền. (1922)
Việc làm đó tưởng đâu là rộng
lượng nhưng thực chất là một kiểu đày đoạ tinh vi- huỷ diệt tuổi xuân. Và chắc
chắn, những gì Kiều đã trải qua sẽ là những thứ virut gặm nhấm tâm hồn. Vì thế,
cửa Thiền bất đắt dĩ sẽ là nơi chất chứa nỗi sầu thảm thương tâm:
Phật tiền thảm lấp sầu vùi,
(1929)
Ngày pho thủ tự, đêm nhồi
tâm hương. (1930)
Bao nhiêu cách hành hạ là bấy
nhiêu nỗi đau- nỗi đau thể xác bị đánh đập, đày đoạ, hầu hạ cộng với nỗi đau
tinh thần bị lăng nhục xỉ vả, tất cả kết thành một chuỗi dài về nỗi đau thân phận
mà thi hào đã thốt lên “Đau đớn thay phận đàn bà. Lời rằng bạc mệnh lại là lời
chung .”
Gieo gió ắt gặt bão, Thuý Kiều
đã cho chúng giặt bão như thế nào?
3-7) Cảnh Thuý Kiều báo ân
báo oán:
Theo triết lý nhà Phật, người
đã bước vào cửa thiền phải biết “Từ bi hỉ xả”, rộng lượng tha thứ. Nhưng theo
quan niệm truyền thống của dân gian, báo oán là lẽ đương nhiên. Những thành ngữ
như “Ân đền oán trả”, “Gieo gió gặt bão” đã ăn sâu vào tiềm thức người
dân Việt Nam từ bao đời nay. Điều đáng trọng ở Thuý Kiều là cách vận dụng nó
như thế nào cho phải đạo, hợp lẽ. Kiều đã xem việc báo ân quan trọng, xem việc
sống sao cho có nghĩa, có tình, có trước có sau, thuỷ chung, nhân hậu là cứu
cánh. Và Thuý Kiều đã lo báo ân trước khi báo oán. Để làm rõ vấn đề này, Nguyễn
Du đã bố trí số lượng câu thơ không ngang nhau- đoạn báo oán chỉ 17 câu (từ câu
2380-2396), trong khi đoạn báo ân 27 câu (từ câu 2325- 2350).
Quan sát hai bức tranh, ta
nhận thấy rằng - ngôn ngữ luận tội, luận công của Thuý Kiều vừa có lý vừa có
tình, sắc sảo và góc cạnh; cách trả ơn hậu hỉ còn cách báo oán đích đáng nhưng
không tàn bạo độc ác; Kiều biết đặt chữ tình lên trên giá trị đồng tiền. Mỗi
bức tranh đều có hai màn- màn nhân vật xuất hiện và màn trả ơn trị tội. Nhân vật
trung tâm, chánh án phiên toà không ai khác là Vương Thuý Kiều.
Ấn tượng nhất trong hai bức
tranh không phải là vàng bạc châu báu quá nhiều để trả ân và những hình ảnh đầu
rơi máu chảy trong cuộc báo oán mà chính là lôgíc của nhân vật và lôgíc của câu
chuyện. Thúc Sinh vốn là kẻ nhu nhược yếu hèn. Bản chất ấy thể hiện ngay cả
trong lúc được báo ân:”Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run”. Hoạn Thư xuất thân
trong một gia đình quyền quí, con quan lại bộ, có học, khôn ngoan sắc sảo đã tự
làm luật sư bào chữa cho chính hành động phạm tội của mình. Sư Giác Duyên, người
đã thoát tục, thích làm điều lành tránh điều dữ, quen với mùi kinh câu kệ. Vì
thế, chúng ta không ngạc nhiên khi sư đón nhận phần thưởng hậu hỉ “nghìn vàng”một
cách bình thản. Có lẽ với sư niềm vui lớn nhất là thấy Kiều đã thoát nạn ”Nửa phần
khíp sợ, nửa phần mừng vui”. Còn đối với Kiều, từ lúc rơi vào cảnh đoạ đày, đây
là lần đầu tiên Kiều vươn lên địa vị cao nhất. Lời lẽ và lối xử sự đúng là
“Khôn ngoan vốn sẵn tính trời”.
Dưới góc nhìn hội hoạ, hai bức
vẽ có những đường nét và sắc màu khác nhau. Khác với bức vẽ trong cảnh báo ân,
bức vẽ cảnh báo oán có nhiều nét cắt, gãy và nhiều gam màu đỏ với những cảnh tượng:“Máu
rơi, thịt nát, tan tành”. Thơ và hoạ ranh giới rạch ròi, nhưng trong trường hợp
này đọc thơ chẳng khác nào xem một bức ảnh, một cảnh xử án thật sự đang diễn ra
trước mắt mình. Đó chính là “Thi trung hữu hoạ”, là tài năng trác việt của thi
hào Nguyễn Du.
So sánh cách báo oán của Kiều
trong Truyện Kiều và cách báo oán của Kiều trong Kim-Vân-Kiều truyện, ai cũng
thấy rõ Thanh Tâm Tài Nhân dàn dựng cảnh báo oán quyết liệt dữ dội hơn nhiều:”Bèn
truyền quân tẩm dầu thông vào mình Tú Bà, đầu cắm xuống đất, chân trớ lên trời,
đốt làm cây đèn để đền thề xưa. Còn Mã Bất Tiến thì dùng găm căng người ra, lột
hết da, rút hết gân, xẻ từng tay chân để ứng lời thề của nó.
Lại nấu một vạc dầu nhựa
thông lẫn với vỏ cây cho tan ra, một bên để một thùng nước lã, lột sạch quần áo
Sở Khanh, một người tưới nhựa thông sôi lên mình Sở Khanh, một người tưới nước
lã vào”[83, 295].
3-8) Cảnh Hồ Tôn Hiến đánh
úp Từ Hải:
Một đoạn thơ và cũng là một
bức hoạ khác hiện ra trước mắt người đọc. Bức hoạ có nhiều nét mới so với
những bức hoạ ở trên- tính chất bất ngờ và hình tượng giàu chất điêu khắc:
Hồ công ám hiệu trận tiền,
(2513)
Ba bề phát súng, bốn bên kéo
cờ.
(2514)
Đang khi bất ý chẳng ngờ,
(2515)
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng
hèn!
(2516)
Tử sinh, liều giữa trận tiền,
(2517)
Dạn dày cho biết gan liền tướng
quân?
(2518)
Khí thiêng khi đã về thần,
(2519)
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân
giữa vòng! (2520)
Đoạn thơ có sức gợi rất lớn.
Không miêu tả những cuộc giao tranh trước đó nhưng người đọc vẫn có thể hiểu rằng-
đội quân của Hồ Tôn Hiến không ít lần đại bại trước tài năng của Từ Hải. Không
có cách nào khác hắn phải lật lộng, nuốt lời và bất ngờ đánh lén! Nét vẽ về người
chiến thắng Hồ Tôn Hiến bị mờ đi khi nét vẽ về người anh hùng Từ Hải xuất hiện-
một mình vùng vẫy, can trường, gan dạ và hào hùng trước hàng trăm mũi tên và
hàng chục lưỡi kiếm. Việc tô đi tô lại cảnh Từ Hải vùng vẫy và cảnh “nhơn nhơn
còn đứng chôn chân giữa vòng”, Nguyễn Du như muốn nói lên niềm uất ức nghẹn
nghào, khát vọng tự do và công lý chưa thực hiện trọn vẹn của người anh hùng Từ
Hải.
3-9) Cảnh Thuý Kiều hầu rượu
Hồ Tôn Hiến:
Cũng là cảnh hầu rượu nhưng
cảnh Thuý Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến (từ câu 2565 đến câu 2698) khác với cảnh
Thuý Kiều hầu rượu vợ chồng Hoạn Thư. Không nhỏ nhặt tủn mủn đầy chất đàn bà,
không bắt bẻ một cách nghiệt ngã như Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến chỉ:
Bắt nàng thị yến dưới màn,
(2567)
Giở say, lại ép cung đàn nhặt
tâu. (2568)
Trong một hoàn cảnh đầy bi kịch,
nỗi đau của Kiều như tăng lên gấp bội phần. Nếu trước kia Kiều phải hầu rượu
cho người mới hôm nào là hôn phu và cả vị hôn thê của hắn thì trong bữa rượu
hôm nay Kiều phải phục vụ cho chính người đã giết chồng mình.
Cũng không giống như cảnh
náo động với tiếng gươm khua, tiếng gầm thét nơi chiến trường trước đó, cảnh hầu
rượu diễn ra nơi hậu trường yên tĩnh âm thầm chỉ có hai nhân vật. Nhân vật Hồ
Tôn Hiến hiện lên với nhiều trạng thái dáng vẻ khác nhau: lúc tỉnh táo, lúc say
vì men rượu, lúc say men tình, lúc thì say nhè và cuối cùng là sực tỉnh. Trong
năm dáng vẻ ứng với ba yêu cầu mang tính bắt buộc-“bắt nàng thị yến dưới
màn”,”Giở say, lại ép cung đàn nhặt tâu”, ”Ép tình mới gán cho người thổ quan”
thì dáng vẻ khi Hồ Tôn Hiến say men rượu lẫn say men tình”mặt sắt, đắm, say,
ngây” chất hoạ thể hiện đậm và rõ nhất. Đây là sự biến thái quá đột ngột, khó
lường đã hiện ra trên khuôn mặt của một ông tổng đốc trọng thần vừa bất tài, vừa
háo sắc, vừa thiếu tư cách. Đối với Thuý Kiều, Nguyễn Du lại miêu tả bức tranh
tâm cảnh, nỗi đau đến quặn lòng thông qua tiếng đàn, lời bộc bạch, và cả những
ngón đàn rỏ máu.
3-10) Cảnh sum họp gia đình:
Cảnh sum họp gia đình tạo
nên một kết cấu đầu cuối cân xứng, một kết cấu có hậu.
Trông xem đủ mặt mọi nhà:
(3009)
Xuân già còn khoẻ, huyên già
còn tươi; (3010)
Hai em phương trưởng hoà
hai,
(3011)
Nọ chàng Kim đó, là người
ngày xưa! (3012)
Tưởng bây giờ, là bao giờ,
(3013)
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm
bao! (3014)
Giọt châu thánh thót quẹn
bào,
(3015)
Mừng mừng, tủi tủi, xiết bao
sự tình! (3016)
Cảnh được vẽ bằng rất nhiều
nét bút với nhiều nhân vật theo một trình tự- chung đến riêng, lớn đến nhỏ, người
thân đến người tình và được sắp xếp trong một bố cục cân đối, hợp lý. Mỗi nhân
vật lại là một cách thể hiện- phúc hậu khoẻ mạnh, đau đớn( cha mẹ), trưởng
thành(hai em), buồn vui pha trộn (Kim Trọng), xót xa cay đắng ngậm ngùi đan xen
với niềm hạnh phúc vô bờ, niềm vui vô hạn (Thuý Kiều). Mặc dù đoạn thơ giàu chất
trần thuật nhưng vẫn có một vài tố chất của ngôn ngữ hội hoạ. Đó là những nét
khắc hoạ về cử chỉ của người mẹ “gieo đầu dưới gối, khóc than kể lể”, những giọt
nước mắt lả chả làm hoan ố vạt áo dài của cô Kiều. Nhà thơ còn tạo ra một không
khí trầm lắng để ghi âm từng giọt nước mắt “thánh thót”. Cảnh đoàn tụ thật cảm
động và dường như niềm vui sướng đã làm cho đường biên giữa hiện thực và giấc
mơ ở nhân vật Thuý Kiều đã bị xoá nhoà.
4) Chất hoạ thể hiện qua bức
tranh tùng:
Trong tác phẩm Truyện Kiều
chỉ có một lần duy nhất thi hào thi hào dùng ngôn ngữ văn học để tả lại một bức
hoạ đích thực do chính tay Kim Trọng vẽ và Thuý Kiều đề thơ. Vì thế chất hoạ
càng trở nên đậm đặc:
Trên yên, bút giá thi đồng, (397)
Đạm thanh một bức tranh tùng
treo trên. (398)
Phong sương được vẻ thiên
nhiên, (399)
Mặn khen nét bút, càng nhìn
càng tươi. (400)
Sinh rằng :“phác hoạ vừa rồi,
(401)
Phẩm đề, xin một vài lời
thêm hoa.” (402)
Bằng hai câu thơ ba hình ảnh:gió-
sương -tùng, Nguyễn Du đã tả được một bức tranh thuỷ mặc do chính tay Kim Trọng
vẽ. Bức tranh rất sinh động được thiết kế trong một bố cục thông thoáng.
Nhìn từ góc độ thẩm mỹ cây tùng là một loài cây đẹp, khoẻ khoắn, vững chải. Cây
tùng càng trở nên giàu ý nghĩa và ấn tượng hơn khi nó được đặt trong bối cảnh
có những đường nét vận động của gió và bức phông làm nền mờ ảo của sương. Kim
Trọng khá thận trọng và cân nhắc khi phối màu. Xanh nhạt- vàng phai nằm
trong nhóm màu dịu nhẹ, “Vàng và lơ: hai màu này cho cảm giác xa hơn đỏ nhưng
cũng tương phản mạnh. Sự dịu nhẹ do cảm giác tâm lý và do giá trị màu gây nên” [50,85].
Sắc màu”nhạt, phai” còn tạo được ấn tượng phong trần, gió sương. Nhờ lối phối
màu này bức vẽ trở nên tự nhiên, giản dị nhưng vẫn hàm súc. Trong nghệ thuật tự
nhiên đồng nghĩa với điêu luyện.
Giá trị ý nghĩa của bức
tranh vượt ra ngoài những nét vẽ, sắc màu vốn có vì”Mặn khen nét bút, càng nhìn
càng tươi”. Cái tươi đó chính là cái thần của bức tranh và chỉ xuất hiện dưới
ngòi bút của những thiên tài hội hoạ. Cái tươi đó còn là cái tươi của tâm hồn
người xem tranh và người vẽ tranh gởi gắm. Dường như có sự đồng nhất về quan niệm
thẩm mỹ và thị giác thẩm mỹ giữa chàng Kim và cô Kiều.
Khi nói đến nhạc, Nguyễn Du
dùng đến ngôn ngữ âm nhạc nhưng khi nói đến hoạ, ông lại dùng đến ngôn ngữ
của hội hoạ. “Sắc thái đạm thanh vốn là đặc điểm chung của những bức tranh
tranh thuỷ mặc, tranh quốc hoạ, tranh thuốc nước cổ, hơn nữa nó còn là thị hiếu
chung cái gout của nghệ thuật phong kiến ở Trung Quốc và Việt Nam” [23,163].
Có chăng cây tùng trong bức
tranh chính là bóng hình của Kim Trọng, một chỗ dựa đáng tin cậy mà bức thông
điệp muốn gởi đến nàng Kiều? Trong thơ văn cây tùng tượng trưng cho người quân
tử có khí phách, hiên ngang vững vàng trươc mọi thử thách của cuộc đời. Nguyễn
Trãi cũng đã từng bộc bạch khí phách của mình trong bài thơ “Tùng”(Thu đến cây
nào chẳng lạ lùng. Một mình lạt thuở ba đông. Lâm tuyền ai rặng già làm khách,
Tài đống lương cao ắt cả dùng …..). Cũng với ý nghĩa ấy, Nguyễn Công Trứ có bài
thơ “Vịnh mùa đông” (.…Bốn mùa ví những xuân đi cả. Góc núi ai hay sức lão
tùng) .
Bức hoạ ngoài việc giúp ta
hiểu được tài năng hội hoạ của chàng Kim, tài thơ của Thuý Kiều mà còn hiểu được
quan niệm về nghệ thuật của Nguyễn Du. Thi hào không thích những gì loè loẹt,
phô trương, ồn ào chỉ thích những gì nhẹ nhàng kín đáo trầm lắng nhưng sâu sắc.
Cũng là bức hoạ, nhưng bức hoạ trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân
đơn sơ hơn rất nhiều: “Bức vẽ này màu xanh nhạt vàng phai, nét bút rất khéo mà
sao không đề vịnh?”[83,63]
Tính chất “Thi trung hữu hoạ”
trong tác phẩm Truyện Kiều rất nhiều nhưng không có nghĩa là đoạn thơ nào
cũng có. Những đoạn thơ giàu chất tự sự, đối thoại, trần thuật sự việc hầu như
không có. Có chăng chỉ là một vài nét ở một hai câu thơ. Những đoạn thơ tả
chân dung nhân vật, tả phong cảnh, chất hoạ gần như đậm đặc còn những đoạn tả cảnh
sinh hoạt chất hoạ lúc đậm lúc nhạt.
Nếu lấy đường nét làm điểm tựa,
ta nhận thấy rằng những bức tranh tả cảnh ngụ tình thường có đường nét mềm
mại thông thoáng hơn so với những bức tranh tả cảnh Kiều bị đày đoạ, cảnh xử án…
Nếu lấy sắc màu làm cơ sở so sánh, ta lại thấy những bức tranh tả phong cảnh
thường nặng màu sắc nhẹ đường nét, ngược lại những bức tranh tả cảnh sinh hoạt
thường nhẹ màu sắc nặng về đường nét.
Nếu trong thơ Đường gam màu
nhạt và nhẹ đã trở thành thông dụng (Tĩnh dạ tứ, Vọng Lư Sơn bộc bố, Hoàng Hạc
lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng-Lý Bạch, chùm thơ Tuyệt cú – Đỗ Phủ....)
thì trong Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII- XIX màu sắc đậm và rõ lại là sắc
màu chủ lực. Nguyễn Du không ít lần dùng sắc đỏ, sắc vàng đậm đặc khi tả rừng
phong, vầng trăng, hoa lựu. Đặng Trần Côn khi viết “Chinh phụ ngâm”, cũng
đã sử dụng tối đa những gam màu đậm “xanh thăm thẳm” của nền trời, “xanh ngắt”
của ngàn dâu, xanh đậm của rêu, màu đỏ như ráng pha của áo.... Trong thơ Hồ
Xuân Hương, sắc màu còn đậm hơn: xanh rì, đỏ lòm lom, trắng phau phau, đỏ lét,
quần hồng...
“Nguyễn Du không chỉ là thi
hào, nhà văn, nhà hoạ sĩ mà còn là nhà triết học và nhà ngôn ngữ học nữa.”(Mrs
Heather- người Mỹ, thạc sĩ văn hoá phương Đông -trích lời giới thiệu đĩa nhạc
CD Kiều ca)(Song of Kiều). Vốn hiểu biết về hội hoạ của Nguyễn Du rất đáng cảm
phục. Ông không chỉ sử dụng chính xác phù hợp ngôn ngữ về sắc màu, những
kiểu đường nét mà còn sử dụng nhiều loại hình hội hoạ- hoạ điêu khắc, hoạ chân
dung, hoạ cảnh, hoạt hoạ, vẽ nhiều dạng tranh-hiện thực, ấn tượng.
IV) KẾT LUẬN:
+ Thi hào Nguyễn Du đã tổng hợp
và vận dụng rất nhiều dạng ngôn ngữ - ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ bình dân, ngôn
ngữ thuần Việt, ngôn ngữ Hán Việt, ngôn ngữ giàu chất tạo hình... Tất cả đều được
sử dụng đạt đến trình độ uyên thâm. Nhờ thế, ông đã tạo ra những điển hình
hoá bất hủ về đủ kiểu nhân vật: Tài sắc như Thuý Kiều, phong nhã như Kim Trọng,
anh hùng như Từ Hải, từ tâm tốt bụng như Giác Duyên, lão luyện như Tú Bà, con
buôn như họ Mã, tráo trở như Sở Khanh, gian manh như Hồ tôn Hiến, ghen tuông độc
địa như Hoạn Thư, tàn ác vô lại như bọn sai nha….Mỗi kiểu nhân vật là một tính
cách, một bức hoạ có một không hai. Nó đã trở thành những qui ước của xã hội,
là thước đo về nhân cách vẻ đẹp tài năng, sự thấp hèn...
+Những bức hoạ phong cảnh
hay những bức hoạ về cảnh sinh hoạt rất đa dạng về màu sắc - trong đó gam
màu xanh và gam màu vàng là gam màu chủ lực, phong phú về đường nét, biến
hoá trong cách dàn dựng. Dù là những bức tranh của đời sống thực nhưng khi nó
được nhào nặn tái tạo thông qua cảm quan của nhà thơ, ngòi bút bậc thầy, nó đã
trở nên sống động có hồn, chứa chất tâm trạng. Có những bức hoạ đã trở thành
tuyệt tác có một không hai trong nền văn học trung đại nói riêng và văn học dân
tộc nói chung ‘’Long lanh đáy nước in trời, Dưới cầu nước chảy trong veo, Vầng trăng
ai xẻ làm đôi, Cỏ non xanh rợn chân trời…. ‘’.
Với những tri thức phong phú
về nhiều lãnh vực- thi, nhạc, hoạ, triết, ngôn ngữ...., Nguyễn Du đã để thể hiện
nhiều vấn đề của cuộc sống trên nhiều bình diện trong một kiệt tác chỉ với 3254
câu thơ lục bát. Nguyễn Du xứng danh với tên gọi ‘’đại thi hào’’, một huyền
thoại có một không hai.
- Về nhạc và hoạ trong cảm hứng
của người đời sau:
+ Về mặt này có thể nói thi
hào Nguyễn Du là thiên tài ‘’mẹ’’. Truyện Kiều đã trở thành nguồn cảm hứng của
nhiều nghệ sĩ trên nhiều lĩnh vực như thơ ca, nhạc, hoạ, ca kịch cải
lương, tuồng, chèo... Nó đã trở thành một thứ văn hoá Kiều không thể thiếu
được đối với người Việt Nam. Cảm hứng sáng tác bằng nhiều hình thức nghệ thuật
dù khác nhau nhưng lại cùng một mục đích - phổ cập Truyện Kiều, tạo ra những
món ăn tinh thần mới phục vụ cho từng giới thưởng thức nghệ thuật. Nhưng tác động
lớn nhất của những nhạc phẩm về Kiều không ai có thể phủ nhận được là « bằng
những âm thanh có tổ chức, thông qua thính giác mà nó tác động đến tư tưởng và
tình cảm của con người »(Chữ dùng của nhạc sĩ Phạm Tuyên), giúp chúng ta
hiểu và cảm sâu hơn về số phận bi thảm của những người tài sắc.
«Có thể nói trong văn
học cổ điển Việt Nam, không có một tác phẩm nào ảnh hưởng đến sự sáng tác to lớn
như Truyện Kiều, và ngược lại cũng không có một thi sĩ nào có thể sánh với Nguyễn
Du trong việc tiếp thu cái phần tinh tế ý nhị mà hàm súc sâu xa của ca dao như
Nguyễn Du »[35, 54]. Hơn hai thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày tác phẩm Truyện
Kiều ra đời, vậy mà ngày nay nó vẫn còn là niềm cảm hứng nóng hổi cho nhiều nghệ
sĩ.
Thơ chấp cánh cho hoạ, khơi
nguồn cho nhạc. Nhạc làm tăng thêm độ truyền cảm cho thơ, tăng độ rung trong
tâm hồn người đọc. Còn hoạ lại biến những hình tượng thơ, ngôn ngữ thơ thành
cái đẹp hiện hữu. Thơ- nhạc- hoạ tôn vẻ đẹp cho nhau, có mối quan hệ khó tách rời
khi chúng lại tồn tại trong một chỉnh thể Truyện Kiều.
Thư mục tham khảo
1. Aristote – Nghệ thuật
thi ca- Lưu Hiệp- Văn tâm Điêu long- Nhà xuất bản văn học,1999
2. Bùi Minh Toán- Lê A
– Đỗ Việt Hùng –Tiếng Việt Thực hành – Nhà xuất bản giáo dục,
2001.
3. Bùi Tất Tơm (chủ Biên) - Giáo trình tiếng Việt- Nhà xuất bản giáo dục, 1995
4. Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức- Thơ
ca Việt Nam - Hình thức và thể loại - Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1968
5. Cao Thuý, Ai Bích, Nguyễn
Thị Hạnh, Nguyễn Xuân Mộc, Nguyễn Văn Mùi, Nguyễn Thị Bạch Nhạn- Vài nhận
xét sơ bộ về một số câu có ngắt quảng không bình thường trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du- Tạp chí ngôn ngữ số 1, 1982
6. Dương Quảng Hàm – Việt
Nam văn học sử yếu – Nhà xuất bản hội nhà văn, 2002.
7. Đan Phú – Ca vũ
nhạc kịch về Kiều.
8. Đào Duy Anh -Khảo luận
về Truyện Kiều- Nhà xuất bản văn hoá , H, 1958
9. Đào Thản –Đi tìm một
vài ngôn ngữ trong Truyện Kiều-tạp chí văn học số 1-1966.
10. Đặng Thanh Lê - Giảng
văn Truyện Kiều - Nhà xuất bản giáo dục, 2001
11. Đặng Ngọc Trân – Cấu
trúc hội hoạ - Nhà xuất bản mỹ thuật , 2001
12. Đoàn Thiện Thuật- Ngữ
âm tiếng Việt - Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 1999
13. Hà Minh Đức (chủ
biên )- Lý luận và văn học- Nhà xuất bản giáo dục, 1998
14. Hà Như Chi - Việt
Nam thi văn giảng luận – Nhà xuất bản sống mới, 1970
15. Hoàng Trinh -Văn học
so sánh và tiếp nhận văn học- Tạp chí văn học số 4-1980
16. Hoàng Như Mai-Bức tranh
ngày xuân –Giáo dục sáng tạo, xuân Đinh Sửu, 1997.
17. Huỳnh Vân- Quan hệ
văn học- Hiện thực và vấn đề tác động, tiếp nhận và giao tiếp thẩm mỹ. Văn học
và hiện thực- Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1990.
18. Khâu Chấn Thanh- Lý
luận văn học, nghệ thuật cổ điển Trung Quốc- Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội,1994
19. Lâm Vinh–Mỹ học về cái đẹp-về
nghệ thuật-về con người- Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh,1997
20. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử-
Nguyễn Khắc Phi ( Chủ biên )- Thuật ngữ tự điển văn học - Nhà xuất
bản giáo dục, 1992.
21. Lê Bảo, Hà Minh Đức, Đỗ
Kim Hồi….Giảng văn Văn học Việt nam- Nhà xuất bản giáo dục, 2001
22. Lê Hữu Mục-Pham Thị
Nhung-Đặng Quốc Cơ- Truyện Kiều và tuổi trẻ- Nhà xuất bản Pari, 1998
23. Lê Ngọc Trà -Lý luận
và văn học- Nhà xuất bản trẻ thành phố Hồ chí Minh, 1990.
24. Lê Thu Yến – Nhà
văn trong nhà trường - NXB giáo dục, 2002
25. Lê Thu Yến( Chủ biên )-Văn
học trung đại những công trình nghiên cứu - Nhà xuất bản giáo dục, 2002
26. Lê Thu Yến - Nguyễn
Du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ người đời sau- Nhà xuất bản giáo dục, 2001
27. Lê Trí Viễn - Phan
Côn - Đặng Thanh Lê- Phạm Văn Luận- Lê Hoài Nam - Lịch sử văn học Việt Nam
tập 3 - NXB giáo dục, 1976.
28. Lê Trí Viễn- Qui luật
phát triển lịch sử văn học Việt Nam- Nhà xuất bản giáo dục,1998.
29. Lê Trí Viễn- Đặc trưng
văn học trung đại - Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1996.
30. Lê Xuân Lít- Tìm hiểu
từ ngữ Truyện Kiều- NXB ĐHQG, 2001
31. Lưu Trọng Lư - Nhật
Ký đọc Kiều - NXB hội nhà văn-H,1995.
32. M-Gorky- Bàn về
văn học- Nhà xuất bản văn học Hà Nội, 1965
33. Mai Hoa- Tranh (Trích
từ Truyện Kiều- Nhà xuất bản văn hoá thông tin Hà Nội, 1999)
34. Mai Quốc Liên – Tạp
luận –Nhà xuất bản văn học trung tâm nghiên cứu quốc học,1999
35. Mai Quốc Liên- Dòng
văn học bác học và dòng văn học bình dân-Tạp chí văn học số 6-1966.
36. M.B.Khraptrenkô - Sáng
tạo nghệ thuật, hiện thực con người - Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội,
1984.
37. Nhất Hạnh -Kiều và
văn nghệ đứt ruột- Nhà xuất bản Lá Bối.
38. Nhất Hạnh – Thả
một bè lau – Nhà xuất bản Lá Bối.
39. Nhiều tác giả- Từ
trong di sản – NXB tác phẩm mới,1981.
40. N-Khasenco- Bản chất
cái đẹp - Nhà xuất bản thanh niên,19
41. Nguyễn Anh Vinh – Hoạ
sĩ - tốt nghiệp đại học Mỹ thuật Hà Nội- cựu chủ tịch Hội mỹ thuật Khánh Hòa (Tham khảo ý kiến)
42. Nguyễn Du- Tác giả và tác phẩm- NXB giáo dục năm, 1999.
43. Nguyễn Du -Truyện
Kiều -Nhà xuất bản văn hoá thông tin Hà Nội, 1999; Nhà xuất bản Đà Nẵng,
19 ; NXB Đồng Nai, 2001
44. Ng Đăng Thục – Thế
giới thi ca Ng Du- Kinh thi, S, xb, 1971.
45. Nguyễn Đăng Cư- Kiều
vận tập thành -Trung quân thư quán, Huế,1932.
46. Nguyễn Đăng Mạnh-
Trần Đăng Xuyền - Những bài văn hay và khó - Nhà xuất bản giáo dục,
1995
47. Nguyễn Gia Thiều-Cung oán
ngâm khúc-Sách giáo khoa tân việt– in lần thứ tư.
48. Nguyễn Lai - Ngôn
ngữ với sáng tạo tiếp nhận văn học- Nhà xuất bản giáo duc, 1998.
49. Nguyễn Lộc–Văn học Việt
Nam nửa cuối thế kỷ XVIII- hết thế kỷ XIX- Nhà xuất bản giáo dục, 1999
50. Nguyễn Quân- Tiếng
nói của hình và sắc- NXB văn hoá, 1986
51. Nguyễn Quảng Tuân- Mấy
nhận xét về tranh vẽ minh hoạ truyện Kiều - Mỹ thuật thời nay- số 17 tháng
1-1992.
52. Ng Quảng Tuân- Chữ
nghĩa Truyện Kiều- NXB KHXH, 1990.
53. Nguyễn Quốc Phẩm - Ảnh
54. Nguyễn Thị Hợp- tranh (Trích
từ Kim Vân Kiều- Nhà sách khai trí Sài Gòn,1968)
55. Nguyễn Trí Tích- Viết
về Nguyễn Du và Truyện Kiều- Nhà xuất bản Thanh niên, 2001.
56. Nguyễn Văn Dân - Lý
luận văn học so sánh - Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà nội, 1998.
57. Nguyễn Văn Hạnh- Huỳnh
Như Phương - Lý luận văn học vấn đề và suy nghĩ- Nhà xuất bản giáo dục,1999
58. Nguyễn Văn Hạnh –Ý
kiến của Lê nin về mối quan hệ giữa văn học và đời sống – Tạp chí văn học,
số 4 – 1971
59. Nguyễn Văn Hạnh- Một
số điểm cần nói rõ thêm về mối quan hệ giữa văn học và đời sống- Tạp chí văn học
số 6- 1992.
60. Nguyễn Văn Hoàn –Thể
lục bát từ ca dao đến Truyện Kiều-Tạp chí văn học số 1, 1974
61. Phan Công Khanh – Lịch
sử tiếp nhận Truyện Kiều - Luận văn tiến sĩ.
62. Phan Kế Bính -Việt
hán văn khảo– Nhà xuất bản Mặc Lâm-tháng giêng, năm M CM LXX.
63. Phan Ngọc –Tìm hiểu
phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều- Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1985
64. Phạm Cung -Tranh (Trích
từ Histoire de Thuý Kiều-bản dịch tiếng Pháp Lưu Hoài-Nhà xuất bản văn hoá, 19)
65. Phạm Duy - Đĩa
nhạc CD Kiều ca.
66. Phạm Huy Thục -Đạo
diễn, Giảng viên trường sân khấu điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh- Tham khảo ý kiến
67. Phạm Tú Hương –Lý
thuyết âm nhạc cơ bản – NXB GDục, 1999
68. Phạm Thu Thương – Tranh -
Trích từ Truyện Kiều- nhà xuất bản Pari, 1951
69. Phạm Đan Quế – Lục
bát hậu Truyện Kiều- Nhà xuất bản thanh niên, 2002
70. Phạm Đan Quế- Tập Kiều
một thú chơi tao nhã- Nhà xuất bản văn hoá, 1994
71. Phạm Đan Quế - Về những
thủ pháp nghệ thuật trong văn chương Truyện Kiều-Nhà xuất bản giáo dục, 2002
72. Phương Lựu - Về quan
niệm văn chương cổ Việt Nam - Nhà xuất bản giáo dục, 1985
73. R- Jakobson- Thi
pháp học – tài liệu tham khảo, 1994
74. Tạp chí Sân khấu- Hội
nghệ thuật sân khấu VNam- Số 11, 2002
75. Trịnh Bá Dĩnh với sự
cộng tác của Nguyễn Bá Sơn, Vũ Thanh –Nguyễn Du tác gia và tác phẩm –Nhà
xuất bản giáo dục, 1999.
76. Trịnh Bá Dĩnh tuyển
chọn- Bình giải Truyện Kiều - Nhà xuất bản văn học Hà Nội, 2000
77. Triêu Dương –Tìm hiểu
và suy nghĩ – NXB tác phẩm mới, 1982
78. Trương Vĩnh Ký- Minh
tâm bửu giám – Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ chí Minh,
1991.
79. Song Yên- Tranh(Trích
từ Viết về Truyện Kiều của Nguyễn Trí Tích, Nhà xuất bản Thanh niên,2001)
80. Trần Kim Lý Thái Thuận –
tranh Trương Quân–Truyện Kiều bằng tranh –Nhà xuất bản văn hoá dân tộc,
2000.
81.Trần Thanh Đạm –Dẫn
luận văn học so sánh –Tủ sách đại học tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 1995
82. Thanh Lãng- Nguyễn
Du như là một huyền thoại - Nghiên cứu Văn học –Số 6, 1971.
83. Thanh Tâm Tài Nhân - Kim
Vân Kiều truyện - Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội, 1999.
84. Trương Chính – Thơ
văn Nguyễn công Trứ –Nhà xuất bản văn học, 1983
85. Trương Thìn - Kiều
ca một xe trong cõi hồng trần - Nhà xuất bản văn nghệ thành phố Hồ chí
Minh, 1997.(Tham khảo ý kiến)
86. Trương Thìn- tranh
Kiều (Trích từ Kiều ca –Một xe trong cõi hồng trần- Nhà xuất bản văn nghệ
thành phố Hồ Chí Minh,1997)
87. Trần Đình Sử –Mấy vấn
đề về thi pháp văn học trung đại- Nhà xuất bản giáo dục,1999
88. Trần Đình Sử- Thi
pháp thơ Tố Hữu- Nhà xuất bản mới, Hội nhà văn Việt Nam, 1987
89. Trần Phương Hồ – Điển
tích trong Truyện Kiều - NXB ĐN, 1996
90. Tú Duyên – tranh-
trích từ Truyện Kiều và tuổi trẻ- NXB pari,1998
91. Từ Điển Tiếng Việt-
Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội, 1992.
92. Xuân Diệu- Toàn tập
(tập VI ) - Nhà xuất bản Văn học, 2001
93. Vũ Cao Đàm -Tranh –Trích
từ quyển Kim Vân Kiều- Nhà xuất bản Pari, 1951
94. Vũ Đình Ân- Đĩa nghạc
CD - Hợp xướng Truyện Kiều.
95. Vũ Thanh Việt- Thơ
Nguyễn Bính - Những lời bình – Nhà xuất bản văn hoá thông tin Hà Nội,1999
96. Vương Thuý Kiều - Chú
giải tân truyện- Tản Đà chú giải- Nhà xuất bản Đồng Nai, 2002.
Trần Đình Khiêm
|
Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2016
Tiếp nhận Truyện Kiều dưới góc nhìn “Thi trung hữu họa”
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Trần Hoài Dương: Tiếng hạc giữa miền xanh thẳm
Trần Hoài Dương: Tiếng hạc giữa miền xanh thẳm Theo nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam: “Văn chương của ông chân th...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Cảm nhận về bài thơ một chút Kon Tum của nhà thơ Tạ Văn Sỹ “Mai tạm biệt – em về phố lớn Mang theo về một chút Kon Tụm”… Vâng...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét