- Bài
thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” sử dụng nhiều từ giàu sức gợi tả:
+ Từ “mướt” trong câu thơ “Vườn ai mướt quá
xanh như ngọc”. “Mướt” là tính từ gợi tả sự bóng láng và mỡ màng, mềm mại trên
bề mặt của thực vật, nhìn thấy thích mắt. Chỉ một chữ ấy thôi mà đã gợi nên được
vẻ đẹp tinh khôi tràn đầy sức sống của cảnh vườn. “Mướt” kết hợp với “quá” càng
làm tăng thêm sắc thái biểu cảm của từ này.
+ Từ “buồn thiu” trong câu thơ “Dòng nước buồn
thiu hoa bắp lay”: gợi lên nét buồn với vẻ thất vọng mât hứng thú.
+ Từ “lay” thể hiện trạng thái chuyển động
không ngừng, nhưng ở đây còn nhuốm sắc buồn từ sự chia ly của cảnh vật, còn gợi
cái oi ả ảm đặng của một trưa vắng.
+ Chữ “kịp” gợi nên nỗi niềm của thi nhân, một
dự cảm về tương lai, một lối sống vội vàng để hưởng thụ được những gì tối thiểu
nhất của cuộc đời, từ đó cho thấy vẻ đáng thương, tội nghiệp, đau khổ.
- Bài
thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” sử dụng rất nhiều từ phiếm chỉ:
+ “Sông trăng đó”,”tối nay”,”ở đây”. Những từ
“đó”, “đây” gợi diễn tả sự mơ hồ về không gian. “Đó” có thể ám
chỉ thế giới ngoài kia, thế giới của sự sống, của những điều tốt đẹp mà nhà thơ
bị số phận tước mất. “Đây” có thể là thế giới trong này, thế giới của
bóng tối và bệnh tật nơi trại phong Quy Hòa. “tối nay” là một sự mơ hồ về thời
gian. Những từ phiếm chỉ này phủ bài thơ trong một màn sương mơ hồ của ký ức và
tưởng tượng, làm cho tất cả nhòe dần đi, nhòa dần đi trong một thời gian miên
man và một không gian mênh mang vô định.
+ Những từ phiếm chỉ xuất hiện là do cảm xúc
của nhà thơ: Bài thơ được lấy cảm hứng từ một tấm bưu thiếp từ
phương xa gửi tặng, tấm bưu thiếp ấy đã làm trỗi dậy nỗi nhớ và cuộc sống mãnh
liệt trong lòng thi nhân, từ đó từng hình tượng thơ ra đời. Tuy vậy những hình
tượng này là những hình tượng của trí nhớ, do trí nhớ tái tạo, cũng có thể là
những hình tượng tưởng tượng, tất cả đều được hình thành trong tâm trí thi
nhân, tâm trí của một người bị giam cầm trong bóng tối, chịu đựng những nỗi đau
tột cùng, chứng kiến cảnh tâm hồn và thể xác tan rã, chính vì vậy mà chúng mơ hồ,
mơ hồ do màn sương trí nhớ, mơ hồ do những nỗi đau.
+ “Nắng hàng cau”. “Nắng hàng cau” là nắng
như thế nào? Là nắng len lỏi giữa hàng cau, hay hàng cau phủ đầy nắng? Sự kết hợp
từ này gợi nên một bức tranh tuyệt đẹp của màu sắc và ánh sáng. Sắc vàng của nắng
len lỏi giữa sắc xanh của lá. Nắng vì thế như xanh hơn, tươi hơn, đầy sức sống
hơn. Còn lá vì thế trở nên lung linh hơn, huyền ảo hơn.
+ “Bến sông trăng”. Thế nào là bến sông
trăng? Phải chăng là sông ngân trong truyền thuyết với vầng trăng lững lờ? Hay
đó thật ra chính là một dòng sông trong kí ức nơi ánh trăng chiếu những vầng
sáng bàng bạc trầm mặc của mình như dát lên mặt sông một lớp bạc kỳ ảo? Dù thế
nào hình ảnh bến sông trăng cũng mang một vẻ đẹp kỳ ảo, một vẻ đẹp huyền bí, một
vẻ đẹp diễm lệ.
- Bài
thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chỉ sử dụng duy nhất một từ Hán Việt, đó là từ “nhân ảnh”
trong câu thơ “ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, đây là cách sử dụng từ mang dụng
ý nghệ thuật. Tác dụng của từ Hán Việt đó là gợi một bầu không khí trang trọng,
bầu không khí cổ xưa. Nét trang trọng cổ xưa này mà từ “nhân ảnh” mang lại khiến
cho cõi “sương khói” trong thơ ngoài nét mờ ảo huyễn hoặc vốn có còn có thêm vẻ
trầm mặc u tịch, làm nên sức ám ảnh cho câu thơ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét