Thứ Tư, 31 tháng 10, 2018

Lập đông 2

Lập đông 2
Qua cơn nắng lửa
Người đàn bà trạc độ ba ngoài ba mươi, đầu tóc rũ rượi, bẩn thỉu, quần áo xốc xếch nhưng là một thứ xốc xếch của loại áo quần hợp thời trang cách đây khoảng mười năm. Khuôn mặt nàng khá đẹp, thanh tú song lầm lì xa xôi. Đôi khi cơn điên dại nổi lên, nàng đi lang thang không biết mệt và hay hát những bài ca tiền chiến đứt quãng. Nhưng cũng đôi khi cơn điên dại đó được thể hiện qua việc nàng ngồi bất động như tượng đá trên cát, không nhìn ai, không nhìn cái gì cả. Tôi tưởng tượng nếu có ai bứng nàng đi một chỗ khác cũng không phản ứng. Và khuôn mặt sầu thảm như khuôn mặt Đức Bà trong tác phẩm La Pietà của điêu khắc gia Michelangelo.
Tôi hỏi người đàn ông chài lưới đang ngồi vá lưới dưới tàn cây bàng:
"Có bao giờ bà ta nghĩ đến chuyện tự tử không? Những vách đá kia và biển cả đó… dễ mà…"
Người đàn ông không ngừng tay, nhìn tôi như thể câu hỏi của tôi có vẻ kỳ quái, đáp lời tôi:
"Điên thì còn nghĩ đến gì nữa? Bả cứ vậy thôi, chẳng làm hại đến ai bao giờ. Hoặc là hát, hoặc là im lặng như đá. Người trong vùng quen với bà. Trẻ con đôi khi đến chọc ghẹo, nhưng bị người lớn la nên cũng bớt".
"Buổi tối bà ta ngủ ở đâu?"
"Gia đình bà ta rất khá giả. Sau khi đã chạy chữa đủ cách không thấy khỏi, đành tậu cho bà một căn nhà ở đây và cho người trông nom săn sóc cho bà. Bà ta thường thích ngủ trên cát hơn, kêu là giường nệm làm bà ta đau mình, cát êm hơn".
"Ngủ ở cát ngay ngoài bãi này?"
Người đàn ông gật đầu, vẫn chăm chỉ đan lưới:
"Trước kia kìa. Chứ còn bây giờ, nhất là sau vụ bà ta bị thằng Mỹ đen say rượu làm bậy đến nay, bà ta bị ép đưa về nhà mỗi tối. Riết rồi như gà qué mình nuôi đêm xuống tìm được về chuồng ấy mà…"
Đến đây, có tiếng đứa con gái của người đàn ông gọi từ dưới bãi. Ông ta buông lưới và chạy vội xuống giúp vợ con một tay kéo mẻ lưới vào. Tôi nhận ra bóng dáng người vợ mặc quần áo đen đang gắng sức cùng với đứa con kéo lưới vào. Mỗi mẻ lưới chẳng được bao nhiêu cá, toàn cá nhỏ. Người đàn ông bảo tôi cũng chỉ đủ thức ăn cho gia đình ấy mà cô. Đôi khi vợ tôi và con bé lớn chạy đi kiếm ít đồ họp tụi Mỹ dư dùng đem bán và bán lại cho bà con kiếm ít tiền đong gạo, cuộc sống kéo dài như vậy từ ngày thằng con lớn bỏ mình ngoài biển mang theo chiếc thuyền sản nghiệp của cả gia đình.
Tôi nhìn người đàn bà điên dại ngồi bất động như tượng đá trên bãi cát.
"Miền biển, ngày 29-3
Anh,
Đây là lá thư thứ mấy, không biết nữa, em viết cho anh mà không gửi. Nhưng em cảm thấy không thể không viết cho anh. Đôi khi em thu hết can đảm để bỏ một lá thư vào phong bì, đề tên anh, dán tem và quyết định mang đến bưu điện cùng với những lá thư khác. Nhưng kết quả là em lại trở về với lá thư định gửi cho anh còn lại trong xắc tay. Em lại xé lá thư ra, đọc lại và xếp vào một chỗ. Rút cục, em làm sưu tập chính những lá thư em viết cho anh. Đôi khi em nghĩ một cách khôi hài là biết đâu em sẽ trở thành điên như người đàn bà em gặp trên bãi mỗi ngày và người ta sẽ lục được xấp thư có vết gấp mà không gửi kia, người ta sẽ đọc, người ta sẽ xuất bản và cuối cùng, chúng đến tay anh không do quyết định của em để anh chua xót chơi, để anh ân hận chơi. Nhưng, cố nhiên, như em đã nói, đó chỉ là một ý nghĩ khôi hài thôi. Mình điên được, đâu phải dễ, nhất là lại điên vì tình. Vậy mà mình vẫn khổ, vẫn đau, vẫn bị dằn vặt, ray rứt cho được, mới lạ chứ! Và trong khi đó, mình vẫn có cả chục lý do để biện minh cho sự căm lặng của tình mình. Buồn cười thật, phải không anh? Và cũng khó hiểu và khó chịu thật, phải không anh?
Em ra đây, tính ra đã được hơn một tuần. Tạm thời xa lánh cuộc sống bận rộn, u mê nơi thành phố khói bụi, chật hẹp; xa lánh bạn bè, những chỗ ngồi quen thuộc, những khuôn mặt quen thuộc, những băn khoăn không lối thoát cũng quen thuộc. Để làm gì? Em chỉ biết rằng em phải đi, nếu không, em sẽ điên loạn mất, điên loạn với những gì quá quen thuộc đến bế tắc kia, điên loạn với một tình yêu chôn kín, điên loạn với việc đối chất với chính bản thân mình bỗng trở nên tầm thường kỳ lạ.

Hôm thoạt tiên ra đây, em buồn đến thê thảm - nhưng kỳ cục là trong nỗi buồn đó mình bắt gặp một niềm hạnh phúc cô đơn đến tuyệt vời. Em thuê phòng khách sạn, cái khách sạn đối diện với mặt biển, với mỗi lần hoàng hôn của ngày, mà em dự định sẽ thuê chung với anh nếu chúng mình cùng ra đây. Em muốn ở một mình, em muốn nghiền ngẫm nỗi đơn độc trong ý nghĩ về anh, về mối tình chưa được tỏ giữa chúng mình. Em dự định ở vài hôm rồi trở lại thành phố và bắt lại nhịp sống cũ nhưng với một tâm hồn tươi mát hơn nhờ được thở thiên nhiên. Nhưng được ba ngày thì em bắt đầu chịu không nổi. Em chưa bao giờ đi chơi xa một mình cả. Bao giờ cũng với một người, có thể chỉ là một người bạn, có thể là một người tình. Em nói ra vì biết anh không lạ đối với chuyện đó về em. Em lấy làm lạ vì trong chuyện xuất ngoại suốt mấy tháng trời, em vẫn thường ở khách sạn một mình một phòng. Dường như cái việc người con gái đến thuê phòng một mình ở khách sạn tại nước ngoài không gợi cho ai một chút ngạc nhiên hay tò mò cả. Và em thản nhiên ra vào khách sạn, hẹn hò với những người bạn ngoại quốc đi ăn đi chơi. Và đôi khi em mời họ vào phòng em nói chuyện. Với những buổi tối lần về đến khách sạn một mình lăn quay ra ngủ, không bận tâm gì ngoài nỗi nhớ nhà và mong mỏi chóng đến ngày về. Đôi khi em cũng cảm thấy đơn chiếc, lạc lõng, song cũng dễ dàng chấp nhận và chờ đợi ngày dứt công tác để về nước.
Nhưng ở đây khác hẳn. Có lẽ vì chính mình tự nguyện nên bất cứ lúc nào mình cũng có thể và hoàn toàn tự do quyết định lại? Và có lẽ phải chăng đó cũng chính là nguyên nhân khiến cuộc sống của em trở thành một thứ ôm đồm để rồi rút cục cái gì cũng thành ra dở dang cả? Đôi khi em nghĩ nếu sinh ra trong một gia đình ở đó mọi sự đi lại, giao dịch bạn bè, học hành nhất nhất đều cần có sự đồng ý của một thứ cha mẹ trí thức, thương con và săn sóc đến độ gây ra những ràng buộc, như đa số bọn bạn gái của em, thì bây giờ em đã không là em hiện tại: thích làm gì thì làm, thích học gì thì học và bất cứ lúc nào cũng có thể bỏ tất cả những cái đang theo đuổi để khởi sự đi lại từ số không ở một phạm vi khác, để rút cục cái gì cũng là nửa chừng. Song, không phải tất cả những điều đó đã nhiều khi, khơi dậy trong em một thích thú tàn bạo đấy sao? Thành thực, em chẳng có gì để ân hận về cuộc sống của mình cả!
Em đang sắp sửa lần về thành phố, bỏ ngang dự định "sống ẩn dật" trong một thời gian, thì một hôm đang đi lang thang ngoài chợ quận, em gặp bà dì. Chẳng nói chẳng rằng, bà quạt cho em một mách, rằng là tại sao ra đây mà chẳng ghé đằng bà ở, mà lại đi thuê khách sạn, rằng con gái con đứa ở một mình ở khách sạn không nên, chỉ có bọn con gái chơi bậy bạ mới làm như vậy, rồi bà thắc mắc hay là em đi với thằng nào nên mới phải thuê khách sạn. Tự nhiên em trả lời là em đi với anh. Bà bảo bộ mày lấy chồng rồi sao. Em bảo chưa. Bà trợn tròn mắt. Em chỉ cười. Bà tiếp chúng mày đi chơi chung, ra cô cậu văn minh nhỉ, lại thuê phòng chung và ngủ chung nữa, gớm thật. Bố mẹ chúng mày hục hặc nhau bỏ mặc chúng mày muốn làm gì thì làm. Hỏng, hỏng quá. Dột từ trên dột xuống. Em chỉ cười. Bà bắt em phải dẫn đến khách sạn tìm anh. Bà bảo bà phải gặp mặt anh, cho anh một mách, rằng thì là anh có thể coi thường bố mẹ em vì đã để em tự do quá trớn, nhưng anh phải biết là em còn có bà là dì em, dù đã từ lâu, bà giận bố mẹ vì bà xui mẹ em bỏ bố em vì những bê bối lục đục trong gia đình, nhưng mẹ em không chịu, rồi bố em biết chuyện đuổi bà đi và thề chết cũng không nhìn mặt bà nữa. Em chỉ cười và rưng rưng nước mắt một niềm vui sướng mơ hồ. Em tưởng tượng nếu những ngày này ở đây được sống với anh, chắc chẳng còn gì hạnh phúc hơn và đó phải là tuyệt đỉnh hạnh phúc của một trong những cuộc tình em đã trải qua – cuộc tình của anh và em, cuộc tình đã chẳng được nói nên lời, đã được thời gian và lòng cảm mến, kính trọng đúc kết nên, và em tin đó phải là một cuộc tình vĩnh cửu. Nhưng bởi cái ý nghĩ về một thứ hạnh phúc kia đã thức dậy trong em một niềm lo âu. Bởi vì sau cái tột đỉnh đó là gì? Em đứng dừng lại. Cùng một lúc em muốn được hưởng với anh những ngày cuối cùng còn lại trước khi anh lên đường nhập ngũ, sống với một số dự tính anh lập ra và đối với em là lý tưởng, để cho em có với anh một kỷ niệm tuyệt vời trước khi đi thật xa, cũng như cho anh có một kỷ niệm của chúng mình để nghĩ đến ở một nơi đèo heo hút gió nào đó sau những ngày ở quân trường; đồng thời, cùng với ý nghĩ trên, em lại cũng muốn sống với anh để giải tỏa phần nào những ẩn ức trong em trước một mối tình chưa một lời được ngỏ. Hai người yêu nhau dù chưa nói và dù những câu chuyện thuộc đủ loại đề tài đã được đề cập đến, sống trong một căn phòng nhỏ, phía trước là cửa sổ ngó ra mặt biển và buổi chiều, và một chút rượu, một chút can đảm… Dù vậy, mình đã không thực hiện. Em sợ. Không thể hiểu vì sao. Dường như hình ảnh của anh quá đẹp đối với em. Dường như nếp sống của một y sĩ điều độ trầm tĩnh và nặng suy tư của anh quá lý tưởng đối với em. Đến độ em nghĩ chắc gì anh có những đòi hỏi bình thường của một con đực trước một con cái, hay có chăng chỉ là một việc làm có tính cách vệ sinh, để giữ thăng bằng cho cuộc sống sinh lý. Và điều đó em lại không chấp nhận được, nhất là với anh, người em yêu.
Và em đã ra đây một mình, vẫn với ý tưởng - hết sức tinh thần - là em ra đây với anh, là em đang nằm dài trên cát với anh, đang cùng giỡn sóng với anh, đang cùng tắm nước ngọt với anh, đang cùng băng qua khoảng sân khách sạn có những tàn cây bàng vĩ đại với anh, đang đợi anh lấy chìa khóa phòng ở bàn quản lý, đang cùng bước lên cầu thang với anh, đang cùng vào phòng với anh – căn phòng tuần trăng mật của hai đứa mình - đang cùng với anh ngắm cảnh hoàng hôn trên bãi bể, đang cùng nói chuyện với anh và cuối cùng yêu anh và được anh yêu để rồi ngủ trong vòng tay anh…
Ba ngày như vậy, đủ cho em. Em xếp đồ đạc theo bà dì về ở chung với bà trong một nếp nhà cổ có vườn cây chung quanh… Với hình ảnh anh vương vất trên tóc, trên mắt, trên má, trên vai, trên thân thể con-gái-đàn-bà vào trong tâm trí em. Anh đã chiếm ngự em hoàn toàn rồi đó. Tình yêu anh đã chiếm ngự em trọn vẹn rồi đó. Dù là một thứ tình thầm lặng, tình không nụ hôn, tình không chăn gối. Nhưng bền chặt. Và em tin như vậy…"
Căn nhà của người dì là một ngôi nhà cổ, mái ngói đỏ. Xung quanh nhà là một vườn cây ăn trái, nhưng tôi không hiểu vì lý do gì (có lẽ là thiếu nhân công), vườn đó không được chăm sóc nên cũng không gây được huê lợi nào đáng kể. Dì tôi sống một mình. Có người con gái duy nhất, chị tôi, đã đi lấy chồng và làm ăn ở thành phố. Nghe đâu cũng khá giả nên thường cung cấp cho bà mỗi tháng. Nhưng dì tôi không thích sống trong sự cung cấp đó, nên dì cho du khách mướn bớt những phòng trống trong nhà. Chỉ những người thích yên tịnh và có ý định nghỉ lâu tại đây mới tìm đến đây mướn phòng ở. Khách mướn phòng thường là do người nọ mách người kia kéo đến.
Tôi ít gặp mặt dì tôi. Tôi nhớ lần cuối cùng bà ghé thăm chúng tôi với một giỏ đầy ắp trái cây, lúc đó tôi mới mười sáu, mười bảy tuổi. Cũng đến gần mười năm rồi. Kể từ hôm đó, bặt luôn. Cha tôi không mấy thích dì tôi vì bà bướng bỉnh, ưa chống đối ông và chê ông là thứ đàn ông vô trí thức. Ông cấm vợ con nhắc đến tên bà, nhất là bọn chị em gái tôi, vì ông bảo bà có một dĩ vãng không đẹp. Ở thời đại bà, nhờ chút ít học thức, theo lời mẹ tôi kể lại, bà bị các cụ liệt vào hạng con gái tân thời. Rồi bà yêu một người con trai không do gia đình chọn, bà vẫn cứ lấy dù bị gia đình từ. Khi bà sinh được chị tôi, người chồng đi theo kháng chiến và mất tích luôn. Bà đem chị tôi vào Nam sinh sống, lấy một người Tàu lai. Kết quả ông này cũng chết nốt và để lại cho bà một căn nhà, căn nhà bà đang ở hiện nay.
Hôm đầu lôi tôi về nhà, bà bảo tôi:
"Tao cũng có nhà cho thuê, sao mày không đến ở mà lại đi thuê ở ngoài khách sạn làm gì? Ở thời tao, tao cũng tân thời lắm, nhưng đâu dám như tụi bay bây giờ. Ngay như vào tiệm phở một mình, cũng chẳng dám, phải rủ bạn bè cùng đi".
Tôi đáp:
"Tại cháu không nhớ nhà dì. Dạo mẹ cháu cho ra đây nghỉ mát còn nhỏ quá, làm sao nhớ được. Dì nhận ra cháu, kể cũng hay thật".
"Mày giống y như con mẹ mày dạo trẻ, sao tao lại không nhận ra. Tao già, chứ trí óc còn sáng lắm. Không ngờ thằng bố mày "tẩy não" chúng mày hay thật! Nhưng sao mày ra đây có một mình?"
Tôi cười:
"Thì dì vừa chẳng kêu ầm lên là sao cháu dám ra đây thuê phòng ở với một người đàn ông chưa phải là chồng cháu và dì cho như vậy là liều, sao bây giờ dì còn hỏi cháu câu đó?"
"Tại tao tưởng mày nói thật. Mà sao mày phải nói dối tao?"
Tôi không đáp. Tôi nghĩ đến Kha. Tôi không muốn giải thích với ai cả về chuyện đó, về những ý nghĩ tôi có trong đầu, về những tưởng tượng tôi nuôi dưỡng, ôm ấp, về niềm cô đơn đến gần như một khoái lạc tôi đang hưởng thụ. Dù cho đến cả Kha nữa, anh cũng chẳng bao giờ biết được đến những điều đó đâu.
Tôi chiếm một căn phòng có cửa sổ ngó ra ngọn núi trên đó có một ngôi chùa mái đỏ tường trắng dường như cũng mới được cất gần đây. Căn phòng nhỏ, tất cả bằng ván – vách ván, sàn ván, trần ván - nhưng là một thứ ván đã lâu đời. Tôi nhớ hôm đầu tiên đến đây, tôi suýt ngã khi bước lên cầu thang vì gót giày đạp nhằm một chỗ ván mọt. Dì tôi theo sau chép miệng:
"Ấy, con chị mày cứ bảo để vợ chồng nó về xây lại nhà cho tao, tao cứ lần khân mãi. Tao bảo còn ở được thì xây làm gì cho tốn kém. Để khi nào tao chết, căn nhà này thuộc về chúng, chúng nó muốn dỡ đi hay làm gì thì làm. Tao quen với không khí ở nhà này. Bây giờ xây lại, lại cần một thời gian nữa để làm quen, tao không đợi được".
Trên lầu gồm bốn phòng, bọc xung quanh một phòng khách. Chỉ có hai phòng ở phía trước và phòng khách có cửa thông ra ban-công. Không có phòng tắm trên lầu vì nhà dựng từ lâu, tôi không rõ từ hồi nào, và có lẽ thời đó, người ta chưa nghĩ nhiều đến tiện nghi như bây giờ. Dưới nhà cũng tương tự như vậy, duy có thêm một cửa phía sau thông ra một mái hiên chạy dài xuống dãy nhà bếp, nhà tắm, cầu tiêu, v.v... Tóm lại, lối vẽ đồ họa của tòa nhà không có gì là đặc sắc, thú vị cả, nhưng nhà sạch sẽ, ngăn nắp và yên tĩnh.
Khi tôi đến, có hai người đàn ông thuê phòng trên lầu. Một người có lẽ là văn sĩ vì đêm đêm tôi nghe có tiếng máy chữ gõ lóc cóc. Hắn còn trẻ, trạc độ ngoài ba mươi, đôi mắt sáng quắc, nét mặt khắc khổ, lầm lì, ít nói. Hắn ở căn phòng đối diện với phòng tôi và cũng có một cửa thông ra ngoài ban-công. Hoặc là hắn ở trong phòng, hoặc là hắn đi ra ngoài. Tôi ít gặp hắn đứng ngoài ban-công. Một người đàn ông khác thuê phòng ở phía trong có dáng dấp một dân chạy áp-phe, nhưng cặp kính cận thị của hắn lại làm cho hắn có vẻ một nhà trí thức mô phạm. Hắn trạc độ bốn mươi. Dưới nhà có một gia đình thuê hai phòng một lúc gồm hai vợ chồng và năm đứa con tuổi từ hai đến chín, với một chị người làm. Bọn nhỏ có nước da sạm đi vì nắng và gió biển. Bà dì tôi ở một căn phòng dưới nhà. Bà bảo tôi:
"Bọn nhỏ, có chúng cũng vui, nhưng nhiều khi chúng làm ồn quá, nhất là mấy đứa con trai. Chẳng các cậu ra đây sung sức mà!"
Một căn phòng trên lầu và căn phòng dưới nhà bỏ trống.
Mỗi sáng tôi thức dậy khi nghe tiếng gõ mõ tụng kinh của bà dì; và khi tiếng chim bắt đầu ríu rít trên những ngọn ổi, cành mãng cầu ngoài vườn, tiếng gõ mõ tụng kinh dứt và trời vừa sáng bên ngoài. Những tia nắng đầu tiên trong ngày chiếu xiên xiên trên vạn vật, xuyên qua những kẽ cây, chùm lá. Tôi nhận thấy tia nắng sớm ở thành phố thường đối với tôi đã trong lành, đã có mãnh lực kích thích nhiệt tâm của một tâm hồn đam mê nhưng cũng nhiều mệt mỏi như tôi; nhưng ở đây, nắng sớm còn trong lành hơn nữa, song ngược lại tôi cảm thấy tâm hồn êm ả, thoải mái. Tôi thấy thèm đi xuống bãi, thèm đi tung tăng, thèm nghe tiếng sóng và nhìn những khuôn mặt người ta xuống bãi buổi sớm, như khi ở thành phố, mỗi buổi sáng, tôi thích đi ra đường, nhìn sinh hoạt phố phường chưa nhuốm mỏi mệt của một ngày vất vả, oi nồng, và tôi thích ngồi ở một quán cà-phê đối diện với một con đường lớn với những cửa tiệm trang hoàng theo lối mới nằm dưới một dãy nhà còn nguyên những chiếc cửa sổ những bức tường cổ, và đối diện với một con đường nhỏ với những cửa hàng bán đồ tiểu công nghệ còn khép kín cửa. Những lúc tôi rời tiệm cà-phê đi làm việc cũng là lúc mà những cửa tiệm đối diện bên kia bắt đầu sinh hoạt như một cô gái đài các sống bằng thứ lợi tức sẵn có của gia đình. Tôi yêu những buổi sáng vì vậy.
Tôi thường trở dậy khi bà dì dứt tiếng mõ cầu kinh ở dưới nhà. Đôi khi tôi nằm lại trên giường nhìn lớp sương mù còn vương vất trong cảm giác thấm lạnh ở ngọn núi bên kia khung cửa sổ. Tôi nghĩ đến Kha. Lúc này chàng đang làm gì và ở đâu. Tôi tẩn mẩn tự hỏi làm cách nào để mình biết được Kha cũng đang nghĩ đến tôi. Có lẽ Kha đã lên đường. Tôi nhớ Kha và bằng lòng với nỗi nhớ ấy. Tôi thầm nói với Kha: Anh không phải là người đầu tiên nhưng hẳn anh phải là người cuối cùng với tất cả những gì còn nguyên vẹn. Bởi vì tình chúng ta, trước khi lên đến tột đỉnh, đã kịp hóa thành mây giăng giăng trong không gian đời em…
Tôi khép mắt lại, tưởng như có một nụ hôn nào đó đang đậu xuống môi, xuống mắt, xuống thân thể, xuống tâm hồn mình.
Dì tôi vừa khuấy bột với trứng gà vừa hỏi, không nhìn tôi:
"Năm nay mày bao nhiêu rồi?"
"Hai mươi sáu".
"Vậy mà chưa lấy chồng còn đợi gì? Bây giờ con gái có công ăn việc làm như chúng mày, thường lấy chồng trễ. Có phải vì chúng mày thấy là có thể tự nuôi sống lấy thân nên không cần nhờ người đàn ông không?"
Rồi không đợi tôi trả lời, bà tiếp ngay:
"Mà nói cho cùng, bọn con trai bị gọi đi lính, cố lấy vào, chờ đợi cũng tội lắm. Chồng đi đánh trận về, nguyên lành là phúc bảy mươi đời; chết, thì cũng còn tàm tạm, sau một thời gian nguôi ngoai, còn tái giá được; chứ mà nó dẫn xác về thiếu cái chân hay cái tay hay đui chột, mới là khổ. Bỏ thì thương, vương thì tội. Ấy là chưa kể cảnh thằng chồng nằm đó, hay kiếm tiền không bằng vợ con, rồi sinh cảnh chàng tự ái, mới là thảm".
Tôi ngồi chống tay xem bà làm bánh, nghe bà nói, không khỏi bật cười và nghe chua xót thế nào. Dì tôi nói tiếp:
"Mà làm đàn bà không lấy chồng cũng không xong! Khổ vậy".
Tôi nghếch mắt lên nhìn bà dì, hỏi, giọng nghịch ngợm:
"Thế dì cho là làm đàn bà thì buộc phải lấy chồng sao?"
"Chứ sao nữa! Chứ mày muốn cái gì? Sống để làm bà cô à? Bây giờ cô còn trẻ, còn nhan sắc, cô thấy chưa cần. Nhưng rồi đến một tuổi nào đó rồi cô sẽ thấy không chịu được, cho mà xem. Cứ thử đi, rồi sẽ thấy! Khi người chồng trước của dì mất tích, dì tưởng có thể sống chờ chồng được. Dạo ấy dì mới hai mươi lăm tuổi. Bằng mày bây giờ. Một năm, hai năm, rồi năm năm… Mày không thể tưởng tượng được sự chờ đợi nó ghê sợ như thế nào, nó dài dặc, nó khắc khoải như thế nào... Rồi xảy ra vụ di cư. Mãi áp ngày tiếp thu Hải Phòng, dì mới lên đường vào Nam, nhưng cũng cố nhắn những bạn bè bà con ở lại, là nếu gặp lại chú mày thì nhắn lại giùm dì vẫn đợi, vẫn mong và dì hy vọng năm 1956 sẽ có tổng tuyển cử, cũng như dì vẫn hy vọng chú mày còn sống. Rồi 1956 qua. Dì tuyệt vọng hoàn toàn…
Dì tôi bỏ lửng câu chuyện, đi vào bếp xem xét lại lò than. Một lúc sau bà trở ra chỗ tôi ngồi.
Tôi nói, mắt nhìn xuống những vỏ trứng vỡ bỏ rải rác trên bàn:
"Đôi khi cháu tiếc không được làm con của dì".
"Gia đình mày bây giờ ra sao? Mày ra đây rồi bố mẹ mày nói sao?"
"Vầy vậy. Thực ra, bây giờ, cháu muốn nói từ hai năm trở lại đây, cháu ít bị chi phối bởi những chuyện xảy ra trong nhà. Cháu đi làm, đem tiền về giúp mẹ cháu chút đỉnh, nhất là để bà thỉnh thoảng có tiền gửi riêng cho các em cháu đi lính ở xa vốn bị bố cháu ghét bỏ. Cháu đi thế này, cháu chỉ bảo với mẹ cháu là cháu đi công tác ít bữa. Bố cháu cũng chẳng nói được gì bây giờ. Gia đình cháu thế nào, thì dì biết đấy. Bố mẹ cháu vẫn không ăn ý, từ hồi nào đến giờ, nhưng vẫn gắng sống với nhau. Đôi lúc cháu muốn đi thuê một căn phòng sống một mình cho đỡ mệt đầu, nhưng vì nghĩ đến mẹ cháu bây giờ đã già lại bệnh tật… Suy nghĩ về cuộc hôn nhân của bố mẹ cháu, nên cháu vẫn do dự trong việc lấy chồng vì vậy. Cháu có cảm tưởng ngày trước và ngay cả bây giờ, người ta vẫn quan niệm hôn nhân như một cái gì tự nhiên, có tính cách bản năng nhiều. Nhưng cháu, cháu cho là cần phải có một sự giáo dục về hôn nhân, để cho những đứa con về sau này không cảm thấy chúng nó là kẻ lạ trong chính gia đình mình. Đâu phải cứ yêu nhau là phải lấy nhau, phải sống với nhau… Tại sao thường những người yêu nhau lại muốn lấy nhau? Chỉ vì họ muốn giữ nhau làm của riêng – đó là một thứ ảo tưởng về quyền tư hữu".
"Mày phức tạp quá! Nghĩ lắm chỉ tổ khổ. Rồi đến khi "người ta lấy hết chổng mông mà gào" đấy, con ạ".
Tôi phá lên cười. Và tôi thầm nhủ tôi có đang tự biện minh về trường hợp Kha và tôi không?
Dì tôi đột nhiên hỏi:
"Mày yêu ai chưa? Nói thử tao nghe cái coi".
Tôi đáp lửng lờ:
"Thì cũng yêu đương lăng nhăng vậy thôi, chẳng có gì đáng kể cả…"
Tôi bỏ lửng câu nói, nhưng tôi chợt ngồi thừ ra, hơi mỉm cười. Dì tôi nhìn tôi, giọng hóm hỉnh:
"Mày đang yêu ai phải không?"
"Sao dì tinh quá vậy? Nhưng chẳng đi đến đâu cả".
"Tại sao? Thằng đó ra sao? Nó làm gì? Năm nay bao nhiêu tuổi".
"Dì hỏi lý lịch người ta làm gì mà kỹ vậy? Cháu đã bảo là chẳng đi đến đâu cả, dì biết làm gì".
"Nhưng ít ra mày cũng phải cho tao biết tại sao chúng mày không định lấy nhau? Chẳng lẽ yêu nhau để chơi vậy thôi sao?"
"Thực ra chưa có gì gọi là rõ ràng giữa chúng cháu cả, cháu yêu người ta, người ta yêu cháu, nhưng chưa đứa nào nói với đứa nào về điều đó cả. Hắn sắp nhập ngũ, hắn muốn sống thật nhiều trước khi bó mình vào khuôn khổ gia đình. Còn cháu, cháu cũng còn nhiều ham hố, thích đi đây đó và sống với tuổi trẻ của mình một cách đầy đủ, trọn vẹn. Tóm lại, cháu cảm thấy mình chưa muốn hy sinh cuộc sống tự do hiện tại. Cháu vẫn nghĩ, vẫn phân biệt giữa tình yêu và hôn nhân. Tình yêu phải là cái gì do con tim mình cảm được. Còn hôn nhân đòi hỏi sự suy nghĩ cân nhắc. Nếu căn bản hôn nhân đặt trên tình yêu, cháu e tình yêu sẽ có ngày bị mòn mỏi vì những bất đồng, những tật xấu mà khi yêu người ta không nhìn thấy được. Cháu ít chịu đựng được trước những điều đó – chẳng thà mình nhìn thấy trước tất cả, mình dự liệu tất cả… Khốn nỗi khi yêu, cháu chỉ nhìn thấy cái hay cái đẹp cái lý tưởng, do đó cháu sợ…"
Bà dì tôi thở dài rất nhẹ, nói:
"Tụi trẻ chúng mày bây giờ phức tạp quá, bày đặt quá. Yêu nhau, nhằm có thể lấy nhau được thì cứ lấy. Mày biết là ngày xưa vì yêu và nhất định lấy chú mày, mà tao bị ông bà ngoại từ đấy. Ai cân nhắc kỹ bằng ông bà ngày xưa khi gả mẹ mày cho bố mày. Bây giờ mày thấy cái hậu quả ra sao rồi chứ?"
"Dì hiểu nhầm chữ "cân nhắc" của cháu. Ngày xưa, mẹ cháu lấy bố cháu là do quyết định của ông bà, không cần biết bố mẹ cháu có hợp với nhau không, có thông cảm được với nhau không, có giúp đỡ được gì cho nhau không, v.v. và nhất là có sự cảm phục quý trọng dành cho nhau không? Nhưng bây giờ chúng cháu có quyền chọn lựa và hoàn toàn chịu trách nhiệm về hạnh phúc của mình. Cháu vẫn yêu, nhưng không muốn bị tình yêu làm mất sự sáng suốt… Đành rằng khi yêu ai không muốn được sống chung với người yêu. Nhưng cứ nghĩ đến lúc tình yêu bị mòn mỏi với tháng năm sống chung, cháu sờ sợ thế nào. Ấy là chưa kể trong tình yêu còn có thể có sự hủy diệt lẫn nhau, bằng cách này hay cách khác…"
"Mày nói cái gì tao không hiểu. Mày nói có vẻ kinh nghiệm, từng trải lắm, làm như mày chưa yêu lần nào và chỉ đọc trong sách không à!"
Tôi bật cười. Tôi muốn nói một câu gì ngược lại với câu nói của bà dì, nhưng tôi kìm hãm lại được. Tại sao tôi cứ cố giải thích? Thật kỳ cục. Sự bình tĩnh quá đáng thường che đậy một sự xáo trộn khủng khiếp của nội tâm. Tôi quá nhiều kiêu hãnh để dám nói thẳng điều đó với bất cứ ai.
"Miền biển, ngày 10-4
Anh,
Thế là em chịu thua với chính em rồi đó. Hơn một lần đối diện với anh, em muốn hỏi anh câu: "Liệu em có thể đem lại hạnh phúc cho anh?", nhưng em không đủ can đảm, vì lẽ mệnh đề trước chưa được anh nói ra, em đâu có quyền gì nói tới mệnh đề sau? Chúng mình vẫn cứ bàn quanh những chuyện thời cuộc, sinh hoạt xung quanh, về những người bạn của chung cả hai đứa, như hai người bạn - hẳn nhiên là em cũng thích như vậy và em vẫn tin là chỉ có tình bạn là vững bền - nhưng làm sao tránh được niềm chua xót sau khi giã từ anh ra về. Em còn nhớ lần cuối cùng gặp anh tại nhà anh, em đã hỏi anh nghĩ gì về hôn nhân. Anh bảo chưa nghĩ gì cả, đợi sống một thời gian trong quân đội đã rồi về tính. Như một người chỉ huy một đoàn quân cố gắng đánh chiếm một cái đồn địch, áp dụng chiến thuật này rồi chiến thuật kia, nhưng đến khi vào đến trong đồn mới hay là đồn bỏ hoang. Viên chỉ huy này quả là tồi, thế mà cứ tưởng mình ghê gớm lắm! Tự nhiên, em liên tưởng tới hai nhân vật trong phim "Été et Fumée" và câu ví von của nàng Alma về hai kẻ cùng đến thăm nhau một lúc và không ai gặp ai ở nhà. Kết cục của cuốn phim làm em xót xa cho chúng mình. Tại sao vậy anh? Ba năm quen biết với anh, cảm phục anh, quý mến rồi yêu anh, cái tình yêu đứt quãng và ray rứt. Đôi khi thấy mình thật vô lý, thật ngớ ngẩn. Và em lý luận, phân tích để có dịp dứt khoát với lòng mình… Em biết anh yêu em. Nhưng vì nhiều lý do, anh không muốn bộc lộ. Còn em, với bản chất đam mê và chỉ nghĩ đến chiếm đoạt, dù trong một khoảng thời gian nào đó, cái ngôi vị của một kẻ được sủng ái. Em đã từng hành động như vậy; nhưng lần này với anh, em sợ. Em quá trọng anh, do đó bắt buộc phải tự trọng. Và có lẽ em bắt đầu thấy mình sắp sửa không còn có thể yêu một cách thơ mộng như thời gian trước đây nữa chăng, nên em sợ, sợ sẽ làm đổ vỡ một mối tình mà em vẫn cho là đẹp là thơ mộng như mối tình đầu của em cách đây bảy, tám năm, với một gã con trai mang những đặc tính khá giống anh bây giờ…"
Hắn có lối nói chuyện hay bỏ lửng câu, như người vẽ những hình trên cát, trước khi hoàn tất, đã vội xoá bỏ. Nhiều lần hắn tiếp tục nói trong cổ họng, tôi không nghe rõ gì hết. Hắn có vẻ mặt nặng nề của pho tượng Triết nhân của điêu khắc gia Rodin.
"Nghe đâu bà ta điên vì đã làm cho một người điên vì bà ấy…"
Tôi đang rũ rũ mớ tóc ướt và bết vì muối biển, chợt ngừng tay lại:
"Thế nghĩa là làm sao?"
"Theo lời những người biết chuyện kể lại thì bà ta hối hận nên hóa điên. Tôi thì tôi nghĩ khác…"
Hắn rút trong túi ra bao thuốc lá gần xẹp lép, cong queo, moi ra một điếu thuốc vuốt nhẹ giữa những ngón tay dài, rồi quẹt lửa châm hút. Tôi chờ cho hắn tiếp tục câu chuyện, nhưng hắn im lặng hút thuốc.
"Thế theo ông thì tại sao bà ta điên?"
"Tại bà ta yêu người con trai đã điên vì bà ta. Anh ta vốn là một thầy tu xuất".
Lối nói chuyện của hắn như vậy, từng câu từng câu đứt khúc. Có lẽ người đối thoại mà thôi không hỏi nữa, hắn cũng sẽ im luôn.
"Tại sao lại tu xuất?"
"Chắc tại một lý do nào đó, nhưng dường như hắn mang cái bệnh ghê tởm đàn bà. Do một cái ấn tượng nào đó từ độ mới lớn. Hắn xin đi tu, rồi xuất. Hắn dường như chỉ đọc sách suốt ngày. Khi đến đây nghỉ mát, bà ta là một thiếu nữ có học, đã sống và biết đời nhiều. Hai người gặp nhau, nói chuyện xem ra hợp lắm. Dường như họ yêu nhau bằng tình yêu nặng tinh thần. Nhưng người con gái thích có một mối tình trọn vẹn hơn, gồm cả thể xác lẫn tinh thần, hay cũng có thể nàng muốn chấm dứt cái lối yêu đương theo kiểu tinh thần lắm ray rứt này, nên nàng đòi hỏi. Nàng hy vọng nàng sẽ chấm dứt được nỗi ray rứt sau khi gần gã con trai. Sau khi trao đổi cái hôn đầu với nàng, gã con trai bỗng kinh hoàng. Hắn bỏ đi biệt. Cái ấn tượng khủng khiếp thuở mới bước vào tuổi dậy thì trở lại với hắn. Hắn hóa điên. Còn nàng, nàng hối hận, rồi lẫn trong niềm hối hận đó, nàng thấy nàng yêu gã con trai thật. Bị dằn vặt, nàng hóa điên luôn".
Hắn nói như đang kể câu chuyện của chính mình. Hắn có vẻ say sưa. Hắn ngừng nói, búng điếu thuốc ra xa. Đột nhiên, giữa sự im lặng, hắn cười lớn rồi hỏi tôi:
"Có tin như vậy không?"
Rồi không đợi trả lời, hắn tiếp:
"Tôi bịa ra đấy".
Tôi không đáp. Tôi hơi bực mình vì lối nói chuyện ngắt quãng và cái vẻ khinh thường ở hắn. Hắn tưởng hắn là văn sĩ rồi cứ việc tự cho phép mình làm ra vẻ khinh bạc chắc. Dường như đọc được ý nghĩ của tôi, hắn nói giọng nhỏ nhẹ gần như tâm sự:
"Tôi không phải là văn sĩ đâu. Tiếng máy chữ mà cô nghe lóc cóc ban đêm là tiếng máy chữ thu băng đó mà. Hẳn là cô phải phân biệt được tiếng máy chữ thật với tiếng máy chữ thu băng chứ? Nó chỉ có ý nghĩa như tiếng gõ mõ của bà cụ chủ nhà mỗi sáng sớm thôi, ấy mà. Tôi dùng tiếng máy chữ để tự ru ngủ đấy. Ngày xưa, khi tôi còn nhỏ, mẹ tôi làm thư ký đánh máy cho một hãng buôn. Tiền lương không đủ nuôi tôi nên mẹ tôi lãnh đồ người ta đặt đánh máy về đánh ban đêm ở nhà. Lúc đó tôi mới bốn, năm tuổi, chỉ muốn mẹ lên giường nằm cùng với mình và kể chuyện cho nghe. Mẹ tôi dỗ tôi bằng câu chuyện thế này: "Ngày xửa ngày xưa có một cô bé chỉ ham nhảy múa, chẳng chịu học hành. Một hôm, một bà tiên hiện ra cho cô bé một đôi guốc gỗ thật đẹp, thật xinh. Cô bé đi guốc vào rồi tự nhiên guốc dính chặt vào chân và đôi guốc nhảy lung tung bắt buộc cô bé phải nhảy theo. Con có biết cô bé nhảy thế nào không? Cô bé nhảy như thế này này…". Và mẹ tôi ngồi vào bàn đánh máy sau khi bảo tôi nhắm mắt lại. Từ đó, quen lệ, tôi thường ngủ thiếp giữa tiếng máy chữ gõ lóc cóc lóc cóc. Đến khi bảy, tám tuổi, thỉnh thoảng tôi còn bắt mẹ tôi kể lại chuyện đó cho nghe. Đến một lúc nào đó tôi không biết và có biết chắc cũng chẳng nhớ, tôi cần tiếng máy chữ để ru mình ngủ và cũng để tưởng nhớ đến mẹ tôi nữa. Nhà nghèo, mẹ phải làm việc khuya không có thời giờ hát ru con ngủ… Tôi sinh ra không có cha".
Hắn im lặng. Mắt nhìn ra mặt biển. Tôi thấy hắn có vẻ bất thường. Chợt ngạo mạn. Chợt thành thật. Chợt say sưa. Chợt phẫn nộ.
Tôi nhớ chính mình đã làm quen với hắn vào một buổi tối, trời có trăng, tôi đang nằm trên bãi dưới gốc dương, và hắn từ dưới biển đi lên. Hắn không nhận ra tôi. Nhưng tôi, tôi nhận ra hắn liền.
Thấy tôi, hắn định bỏ đi chỗ khác. Tự nhiên tôi muốn có một người để trò chuyện. Bởi trăng đẹp quá. Và sóng nhấp nhô như có nạm bạc. Tôi lên tiếng:
"Ông cũng thích trăng ở biển sao?"
Hắn dừng lại, ngỡ ngàng nhìn tôi. Hắn có vẻ đơn độc và lại tỏ vẻ khó chịu khi có người quấy phá sự đơn độc của mình. Cũng có thể hắn không nhận ra tôi. Tôi tiếp:
"Trăng đẹp quá. Tôi không thể nằm trong phòng. Tôi sợ bỏ phí một đêm trăng. Chắc đêm nay ông sẽ cảm thấy thêm hứng thú để làm việc?"
Chúng tôi đi dạo với nhau và trao đổi những mẩu đối thoại rời rạc, nhưng cả hắn lẫn tôi cùng không cảm thấy sự dè dặt.
"Thì ra cô ở căn phòng sát bên phòng tôi? Chắc cô cũng ra đây nghỉ?"
"Như vậy, ông cũng ra đây nghỉ vậy thôi?"
"Tôi không biết phải nói sao. Cứ tạm cho là như vậy đi".
Hắn nói, giọng ngần ngừ. Dường như hắn không muốn nói khác điều hắn cảm nghĩ, nhưng hắn lại không muốn giải thích dài dòng về những điều riêng tư mà chỉ mình hắn cảm được. Tôi để ý trong lối nói chuyện của hắn, hắn hay dùng câu: "Cứ tạm cho là như vậy đi". Tôi thấy câu đó ngồ ngộ. Một cách chấp nhận những xét đoán của người khác, mà thực sự không chấp nhận gì cả: Muốn sao cũng được, nhưng tôi vẫn giữ lập trường của tôi.
"Tôi thấy ông ít khi ở trong phòng…"
"Tôi đi câu, hoặc xuống xóm chài quan sát sinh hoạt của người dân ở đó. Có nhiều cái thú vị. Và tội nghiệp nữa…"
"Chẳng bao giờ tôi thấy ông đem cá câu được về?"
"Tôi câu chơi vậy thôi. Được toàn cá nhỏ. Ai xin thì cho. Trăng sáng thế này cô phải tắm mới cạnh tranh được trọn vẹn cái thú ở biển vào một đêm trăng. Phải thấy được những mảng trăng trôi bồng bềnh xung quanh mình…"
Những mảng trăng trôi bồng bềnh xung quanh mình. Hắn có một giọng nói ấm cúng như người kể chuyện thần thoại. Dường như ở hắn cũng có một cái gì thần thoại nữa… Những mảng trăng trôi bồng bềnh xung quanh mình…
"Thành phố giữa mùa mưa, ngày 23-7
Anh,
Thế cũng xong. Em viết lá thư cuối cùng này cho anh, để rồi không bao giờ viết nữa.
Bây giờ em cảm thấy mình đủ, dù với một chút xót xa.
Ngày mai, em sẽ lên đường với chồng ra miền biển nơi em đã đến sống với hình ảnh anh, ngủ với hình ảnh anh và cũng là nơi em đã gặp Tuân. Sau những chuyện đổi trao, em nhận thấy Tuân là người cô độc và chân thật. Câu chuyện cố nhiên không phải giản dị có vậy. Em thấy không cần thiết phải kể với anh nhiều vì chỉ làm bận anh thêm. Khi Tuân ngỏ ý hỏi em làm vợ, em đã xin anh ấy một thời gian để suy nghĩ và cân nhắc. Tuân thông cảm em hầu như trên mọi lĩnh vực. Và nhất là dù hơn em đến gần mười tuổi, nhưng Tuân cần em, đôi khi nhu cầu đó bộc lộ một cách thái quá khiến em có cảm tưởng như mình là một người mẹ. Người đàn bà thường lẩm cẩm như vậy, nhất là người đàn bà ở em. Em sung sướng vì cảm thấy mình là một cần thiết đối với một người. Ít ra là như vậy. Trong khi đó em và Tuân vẫn có thể cùng nhau bàn về những loại vấn đề mà em vẫn bàn với anh. Và Tuân cũng đã từng giúp em những lúc tinh thần em căng thẳng, xuống dốc. Em mang ơn Tuân.
Bây giờ thì em hiểu. Anh và em quá độc lập, đối với nhau. Tinh thần anh vững vàng quá, hay cũng có thể đó là dưới cái nhìn của em. Em bất thường song lại tự ái trước sự vững vàng của anh, nên cũng đóng bộ mặt độc lập với anh. Biết đâu, ngược lại, anh cũng cảm thấy thế? Và chúng ta cứ mãi cách biệt nhau. Em biết anh yêu em chứ. Bạn bè nói lại với em như vậy. Và linh tính đàn bà bảo với em như vậy.
Nhưng thà như vậy còn hơn. Bởi vì em sợ một cuộc sống chung trong đó hai người cùng giữ miếng với nhau, không phải vì cố tình như vậy, mà vì hoàn cảnh, vì mặc cảm, vì không đủ can đảm nói lên, nói thật.
Không, hôn nhân không thể như vậy được. Nó sẽ trở thành một thứ địa ngục. Nó sẽ chôn sống tình yêu. Nó sẽ làm chúng ta hủy diệt lẫn nhau. Nó sẽ chứa trong nó sự thất bại mà bố mẹ đã lãnh và để bọn anh chị em em chịu mọi hậu quả.
Sống với Tuân, yêu quý và cảm phục Tuân, giúp đỡ và đem lại cho Tuân những gì mà em có thể đem lại được; nhưng em vẫn nghĩ về anh như người tình cuối cùng. Tình đó sẽ chẳng thể nhạt phai, mà chỉ có thể lắng xuống. Và em không cảm thấy em đã phản bội một ai, trong hai người, anh và Tuân.
Hôn anh nụ hôn đầu tiên và cuối cùng,
Em."
Hai người bạn
Nửa đêm, có lẽ vào khoảng một hay hai giờ sáng, Kim cũng chẳng nhớ rõ, chiếc điện thoại đặt trên bàn ngủ ngăn giữa hai chiếc giường một người nằm chợt reo vang. Hai người cùng choàng tỉnh dậy. Trước khi Kim kịp xoay người về phía bàn ngủ, Supinda đã chụp lấy ống điện thoại trong bóng tối. Kim vẫn nằm im trong chăn mặt xoay vào tường, đôi mắt còn tiếp tục ngủ nhưng tâm trí lơ mơ tỉnh thức. Khi Supinda kêu lên mừng rỡ và gọi tên người ở đầu dây bên kia, Kim hiểu rằng nàng nên để cho người bạn Thái nghĩ là nàng vẫn đang ngủ. Mà quả tình Kim cố dỗ cho mình ngủ lại để khỏi nghĩ ngợi lung tung thêm phiền muộn. Nhưng đâu dễ gì. Vì Supinda đang nói chuyện với người ở đầu dây bên kia bằng thứ tiếng mà Kim nghe, dù vô tình, cũng vẫn hiểu được.
"Ô, Krishnan! Em nhớ anh quá đi mất thôi. Em gọi anh từ lúc tám giờ tối, sao mãi giờ này anh mới trả lời?"  "…"
"Em đã ngủ được một giấc, và em mơ thấy em đang đi dạo trên đường phố Bangkok bên cạnh anh".  "…"
"Ồ, chẳng có gì thú vị cả! Toàn là gặp mấy mụ già không à! Anh phải thấy được cách họ "hành hạ" em như thế nào! Em không được ngủ trễ, không được ngủ trưa. Trễ giờ hẹn một chút xíu là họ bất bình ra mặt. Lúc nào cũng giờ giấc. Mà anh cũng biết đấy: Supinda của anh có bao giờ chịu đeo đồng hồ đâu. Cái gì mình thích thì họ cũng không chịu cho mình làm, trong khi đó lúc nào họ cũng cho mình là khách của họ! Khách gì mà như là tù giam ấy thôi! Chán quá. Em chịu hết nổi rồi. Em nhớ anh quá, Krishnan!"  "…"
"Nhưng mà họ giữ vé máy bay của em ngay khi vừa đặt chân đến đây rồi, còn đâu! Em tưởng họ giữ để xác định lại ngày về với hãng hàng không. Về sau Kim mới cho em biết là có một số người đến đây, nhớ nhà nên bỏ dở chuyến đi và tự ý về nước, nên về sau này họ quyết định giữ vé máy bay của tất cả những người được mời, chỉ trả lại khi nào đến sát ngày về".  "…"
"À, Kim là cô bạn Việt Nam cùng được mời đến đây như em. Nó dễ thương lắm. Cũng may có hai đứa cùng người Á châu với nhau…" "..."
"Được em sẽ chuyển lời cho anh. Nó đang ngủ. Lúc nhớ anh em thường kể với nó về chuyện tụi mình".  "…"
"Em đếm từng ngày để trở về nhà. Krishnan, em nhớ anh chết được!"  "…"
"Trời ạ! Anh phải thấy cách mấy mụ ấy lúc nào cũng coi em như là con cháu trong nhà ấy thôi! Thậm chí cả những lúc họ đã trả em về khách sạn rồi mà chốc chốc lại gọi dây nói hỏi thăm như sợ mình biến mất không chừng!" "…"
"Vâng, anh Krishnan yêu quý. Em hy vọng gặp anh ở Âu châu. Còn một tháng mấy nữa thôi, nhưng sao em thấy thời gian dài lê thê. Bây giờ ở bên nhà là mấy giờ hả anh?"  "…"
"Vâng, em chỉ mong có thế. Hôn anh. Em sẽ gọi anh ở mỗi chỗ em đến. Mốt em đi New York rồi… Vâng, hẳn là ở đó em sẽ cảm thấy dễ chịu hơn vì có gia đình anh họ em. Em sẽ gọi lại anh, anh Krishnan yêu quý. Em sẽ gọi lại anh. Anh đã nhận được cái bảng ghi những số điện thoại của những nơi em sẽ đến rồi à? Gọi cho em bất cứ khi nào có thể được, nghe anh… Anh đừng quên đấy, nghe anh… Vâng, xong rồi đây cô… Krishnan, em hôn anh…"
Âm thanh những câu cuối vội vã, đầy níu kéo vô vọng. Có tiếng gác ống điện thoại. Tiếng khăn trải giường lào xào khi người con gái chuồi thân thể nàng trở lại trong chăn ấm. Sự im lặng trở về căn phòng nhỏ. Chợt Supinda khẽ gọi:
"Kim? Kim? Mày ngủ hay thức?"

Kim nằm im, không đáp. Nghĩ là bạn đang say ngủ, nên Supinda thôi không gọi nữa.
Kim không ngủ. Nàng nghĩ bên nhà bây giờ có lẽ là rạng đông. Rạng đông. Ánh nắng mặt trời. Ôi, thứ ánh sáng có hiệu lực xua đuổi đoàn âm binh của đêm tối mênh mông… Một nỗi tủi cực đến ngự trị trong tâm hồn Kim – nỗi tủi cực đã vượt không gian đến với Kim và cùng chui vào bên trong tấm chăn phủ ấm thân thể, nhưng chẳng phủ ấm được tâm hồn. Kim thầm nhủ với mình: Ngủ đi em, mộng bình thường… Đêm tối xoá nhòa mọi hình thể, mọi kích thước. Nhưng chính sự kiện xoá nhòa đó đã ban cho mọi hình thể mọi kích thước một hình thể vĩ đại hơn, chắc chắn hơn, và một kích thước lớn rộng, dài đặc hơn. Kim nghe tiếng mình vỗ về mình. Ngủ đi em. Ngủ đi em. Chứ chẳng phải khi mày đứng đợi đến giờ lên máy bay rời quê hương - nơi mày đã sinh ra, đã lớn lên, đã hiểu, đã cảm, đã sung sướng, đã đau đớn - mày đã có cái thích thú tàn bạo vì vai trò kẻ lữ hành cô độc mà mày đang sắm, đấy sao? Chứ chẳng phải mày đã lấy làm khoái chí khi rời Guam, ngắm cái cảnh thiên hạ hôn nhau và khóc như mưa, bằng cái nhìn của một kẻ tự cho là mình vượt qua mọi thứ tình cảm luyến nhớ bình thường, đấy sao? Chứ chẳng phải những lúc đổi máy bay tại một vài phi trường, mày đã từng bước những bước thênh thang, với cái đầu ngẩng cao, với cái nhìn chứa đầy biển, hồ và với nụ cười mãn nguyện của kẻ phiêu lưu, giang hồ, chẳng một ràng buộc nào, đấy sao? Và mày vẫn thường cười nhạo những kẻ nhớ nhà là ủy mị, là mềm yếu, đấy sao? Kẻ ưa phiêu lưu và thích đi tìm những cảm giác lạ trong mày đi đâu rồi? Thì ra, hắn đã bỏ mày để đi xuống phố và la cà trong các quán rượu, bên bờ sông, trong công viên, bên sân ga, trong các xóm lao động, bên những di tích lịch sử, rồi ư? Thảo nào… Ôi cô bé tội nghiệp và yếu xịu (!) của ta ơi. Ngủ đi em. Và ngày mai mặt trời lại thức giấc để ban phát niềm yêu đời, sau khi đã đánh tan đoàn âm binh của đêm tối. Ngủ đi em, mộng bình thường. Ngày mai còn những New York, San Francisco, Los Angeles, và Paris đấy, và Rome đấy, và Tokyo nữa chi…? Hay cô bé còn muốn gì khác hơn? Một người tình ư? Ta biết cô bé quá mà. Cô bé chỉ thực sự thèm muốn có một người tình khi cô bé nhìn thấy những người khác yêu nhau thôi. Cô bé vẫn thường nói sau mỗi cuộc tình, rằng mình có cảm tưởng như bắt gặp lại chính mình đấy ư? Vậy nên, cũng đừng tủi cực, khi thấy mình đơn độc, làm gì! Cô bé ơi, cô bé xứng đáng để làm kẻ lữ hành cô độc lắm, bởi vì cô bé quá ích kỷ, đôi khi còn thích thú một cách tàn bạo về tính chất ích kỷ đó ở cô nữa. Than nỗi gì? Cô bé chưa hiểu được thế nào là sự hy sinh. Cô bé quá bận rộn với chính mình. Coi kìa, hãy chấp nhận đi chứ. Và hãy trở lại ngủ đi. Rồi hắn sẽ trở về với cô bé mà. Hắn không bỏ đi lâu đâu. Ta biết lắm chứ. Hà hà… Ta biết hắn như chính ta biết về cô bé vậy. Ngủ đi em. Ngủ đi em… Tay anh, em hãy tựa đầu. Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi.
Quả nhiên, hắn trở về thật. Kim thức giấc vào lúc ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào trong phòng, qua khung cửa sổ lắp kính mở rộng, tạo thành một vệt sáng dài đến tận giường ngủ của nàng. Kim nghe như có tiếng ai chào mình. Và Kim thấy khoẻ khoắn trở lại. Cuộc vật lộn với đoàn âm binh không phân thắng bại. Đã bao nhiêu lần Kim tự hỏi tại sao có những lúc, tâm hồn mình trở nên thê thiết như vậy? Kim nằm im trên giường như vậy thật lâu. Người bạn Thái vẫn ngủ vùi.
Có tiếng chuông điện thoại. Kim giật bắn người. Đã hơn một lần, nàng cảm thấy thù ghét tiếng chuông điện thoại. Người ta vẫn không thể không cần những tiện nghi vật chất, đồng thời cảm thấy thù ghét sợ hãi chính những tiện nghi đó. Kim bỏ mặc cho chuông điện thoại reo. Nàng dư biết ai gọi rồi. Từ giường bên kia, Supinda nói:
"Mày trả lời đi chứ!"
Kim uể oải nhấc ống nghe lên:
"Dạ… dạ… Chúng tôi sẽ sửa soạn ngay bây giờ…"  "…"
"Được. Chúng tôi sẽ xuống phòng đợi…"  "…"
"Vâng. Chúng tôi sẽ nhớ. Xin chào".
Kim mắc ống nghe vào máy. Supinda đã tỉnh hẳn. Nàng vươn vai ngáp dài. Kim bảo bạn trước khi vào phòng tắm:
"Họ đợi mình dưới nhà. Nửa giờ sau phải có mặt. Ta cũng chẳng buồn hỏi hôm nay họ sẽ đưa mình đi những đâu".
Kim đã bước hẳn vào phòng tắm, rồi lại chạy ra đến bên giường bạn:
"Này, Supinda. Tao đề nghị cái này. Lát nữa, sau bữa cơm trưa, tao nói dối là gặp mấy người bạn đồng hương, họ rủ tao đi chơi và ăn tối, rồi tao làm bộ rủ mày cùng đi. Mày nghĩ sao?"
Mắt Supinda sáng lên:
"Đồng ý".
Khi Kim đang đánh răng rửa mặt trong phòng, lại có tiếng chuông điện thoại. Tiếng Supinda trả lời bên ngoài, Kim nghe không rõ. Một lát, khi Kim trở ra, người bạn nói:
"Có một phóng viên muốn gặp tụi mình để phỏng vấn. Tao bảo là mình đã gọi điểm tâm, lát nữa bồi mới mang lên. Cô phóng viên xin lên gặp thẳng mình ở trên phòng".
Kim đáp:
"Tao chán ngất mấy cái trò này quá rồi. Không biết những người thường bị mình phỏng vấn trước kia, họ có tâm trạng của mình bây giờ không? Bao cho chấm dứt tình trạng này, không biết?! Chưa bao giờ tao thấy "bị xỏ mũi" như bây giờ! Mày thỉnh thoảng còn nhận được cú điện thoại của thằng bồ, cũng đỡ khổ…"
Supinda cười, nụ cười có nhuộm nắng hồng ban mai – hay nắng hồng của tình yêu?
"Đêm qua mày cũng có nghe à? Sao tao gọi mà mày không đáp?"
Kim nói, chống chế:
"Tao đoán ngay khi nghe tiếng mày nói như khóc, lúc đầu. Rồi tao ngủ thiếp đi mất, chẳng nghe biết mày đã nói gì sau đó. Mày có gọi tao à?"
"Ừ. Tao vui quá nên định gọi mày dậy để tâm sự, vậy thôi. Krishnan thật dễ thương. Hắn là người Mã Lai thường đến Bangkok chơi luôn. Hắn biết tao đã ly dị chồng, người chồng bố mẹ tao chọn căn cứ vào sự môn đăng hộ đối. Khi đứa con đầu của tao chết vì đẻ non, tao xin ly dị vì nó còn trẻ, con nhà giàu, không chịu làm gì lại chỉ ham cờ bạc bỏ bê tao, tao kể với mày rồi đó. Tao không có hạnh phúc. Rồi tao gặp Krishnan…"
Kim nhớ lại hôm đầu tiên gặp Supinda ở Washington D.C. Nàng đến trước Supinda một ngày. Sau khi đã làm một vòng thăm cái thành phố nhiều công chức và dân da đen này, trở về khách sạn, Kim được biết Supinda vừa đến cùng với cô em gái qua du học về ngành kiến trúc. Tiếng Supinda trả lời điện thoại nghe thật trẻ thơ. Sự thông cảm lúc đầu không mấy khó khăn. Với dáng cao và gầy, và với phục sức hợp thời trang, tuy vậy, Supinda giản dị, cởi mở, hồn nhiên nhờ từ bé đã được hấp thụ một nền giáo dục Tây phương. Cha nàng là một công chức cao cấp trong hoàng gia Thái Lan, dạy trẻ du học bên Hoa Kỳ, gặp và cưới mẹ nàng. Khi họ cùng đáp tàu thủy về nước, dọc đường, Supinda được sinh ra. Nàng là chị cả của bốn đứa em gái, từ năm chín tuổi đã được trở qua Thụy Sĩ học, xong ban Trung học, trở về nước làm việc. "Nếu có dịp, mày qua Bangkok chơi. Tao sẽ giới thiệu mày với gia đình, bạn bè tao. Gia đình tao vui lắm, toàn là đàn bà, gia nhân cũng toàn là đàn bà. Mỗi lần ông già tao đi công tác xa về, ông bị đàn bà vây quanh hỏi quà. Ổng đem về mấy va-li quà toàn đồ phụ nữ không. Tức cười lắm. Ổng kể có lần ổng đi công tác ở một nước Âu châu, một bà bán hàng đã hỏi ổng có mấy vợ mà sao mua nhiều đồ phụ nữ quá vậy?" Kim nghĩ: "Ở xứ mình thường trong mọi gia đình cũng chỉ toàn là đàn bà, con gái… Nhưng không khí không vui như vậy. Bởi mỗi người đàn bà hoặc có chồng, có con, có người yêu, có hôn phu, có anh, có em trai… ở ngoài trận mạc. Họ không chờ một món quà từ ngoại quốc, mà chờ một cái tin mà chẳng bao giờ họ mong là nó đến…" Bỗng dưng, Kim cảm thấy ghen với cô bạn Thái Lan hồn nhiên này. Sự ghen tuông bao hàm một lời cầu chúc tàn nhẫn. Kim lắc đầu xua đuổi ý nghĩ đó. Supinda vô tình nói tiếp: "Hôm qua đây, tao cũng có ghé phi trường Tân Sơn Nhất… phải phi trường Tân Sơn Nhất không nhỉ?... Ừ, tao ghé đó hai giờ, có thưởng thức món mì của xứ mày… Ngon tuyệt!" Kim cười, mơ màng: "Ăn mì ở Tân Sơn Nhất thì chỉ có là mì Tàu, hay là hủ tiếu. Mày phải ăn thứ "mì" chính cống Việt Nam, gọi là phở kia, thì mới ngon được! Nếu mày có dịp qua xứ tao – chắc là còn lâu- tao sẽ đưa mày đi… Bây giờ chiến tranh, chắc mày chẳng nên đến đó vội…". Supinda nói: "Tao có nghe nói về vụ Cộng sản tấn công trong dịp Tết vừa qua. Ghê quá. Tao hiểu rằng nếu nước mày rơi vào tay Cộng sản, thì Thái Lan cũng không yên…". Kim thấy có thiện cảm với cô bạn gái ngoại quốc mới quen này. Nàng tự trách mình đã ghen tuông một cách vô lối.
Sau khi tiễn cô em ra phi trường để đáp máy bay đi New York đến ở nhà một người bà con, Supinda sang phòng Kim ở. Những nhận xét thẳng thắn của Supinda về người Mỹ và cuộc sống ở Mỹ, làm Kim thấy gần với bạn hơn, không phải vì sự tương đồng trong nhận xét, nhưng vì sự thẳng thắn cởi mở của Supinda. Một lần, Supinda trách Kim: "Mày mới sống ở Mỹ có mấy ngày mà đã chịu ảnh hưởng của nếp sống Mỹ rồi, ít ra về phương diện giờ giấc". Kim cười nhạt: "Mày nhầm. Tao không muốn bị thúc hối bên cạnh. Do đó, tao muốn đúng giờ e được thảnh thơi. Chỉ có vậy. Mày vẫn có quyền trễ hẹn, tùy mày". Mà thường bao giờ Supinda cũng đến trễ hẹn từ nửa tiếng đến một tiếng đồng hồ.
Sau bữa cơm trưa tại nhà hàng trong một trung tâm thương mại nổi tiếng của thành phố Philadelphia có kèm thêm một buổi trình diễn y phục thời trang với những cô người mẫu mà từ dáng đi đến nụ cười đều như dập từ một khuôn đúc ra, Supinda và Kim được đưa đi thăm các tầng lầu với các hàng hóa có thể làm chóa mắt những người dễ dãi. Khách hàng phần lớn là phụ nữ. Supinda ghé tai Kim nói:
"Tao nghĩ làm một ông chồng Mỹ quả không có gì là thú vị cả! Ngày thì đi làm, lấy tiền cung phụng cho vợ con tha hồ mua sắm, tối về, ăn cơm xong lại xoay ra rửa bát cho bà vợ ngồi khểnh ở phòng khách xem ti-vi, hay đi họp đi hành trong các hội này, tổ chức nọ".
Dù vậy, Supinda vẫn là người bị lôi cuốn đứng lại ở các cửa hàng sáng lòa hơn ai hết.
"Ở Việt Nam của mày… có vậy không?"
Kim mỉm cười:
"Bao giờ thì họ thả mình ra, mày có biết không?"
"Không biết. Nhưng lát nữa, họ sẽ cho mình trở về khách sạn nghỉ trưa vài tiếng. Lúc đó, mày khởi sự nói dối là vừa đó. Tao sẽ phụ họa với mày".
Một cô người mẫu đứng chờ sẵn Supinda và Kim ở khu bán mũ nón phụ nữ, do lời mời, để chụp hình kỷ niệm. Supinda tíu tít chọn mũ, thử hết cái này đến cái kia. Kim lơ đãng nhìn quanh. Ngay ở chỗ để mua sắm hoặc ngắm nghía thế này, cũng có một vẻ gì vội vàng. Cô Kim từ đâu đến? Cái tên nghe như tên Đại Hàn. Không, tôi từ Việt Nam, Nam Việt Nam, ở đó cũng có sự chia cắt đất nước như Đại Hàn, như Đông và Tây Bá Linh. À, tôi nhớ ra rồi. Tôi có thằng con mười sáu tuổi, thích theo dõi tin tức chiến sự ở bên ấy. Nó cứ nằng nặc đòi bỏ học đi lính sợ ít nữa lớn hết chiến tranh! Chiến tranh làm sao mà hết được, không ở Việt Nam thì ở nơi khác lo gì. Cậu nhỏ tính lạ, phải không? Thiếu niên xứ tôi không sợ hết chiến tranh nhưng họ chán học vì biết rằng học hay không, trước sau gì cũng đến phiên họ. Cô thấy đời sống ở đây ra sao? Cứ thành thật cho biết cảm nghĩ của cô. Đời sống ở đây ấy à? Rất phong phú về phương diện vật chất, lẽ cố nhiên, nhìn chung. (Tại sao không đưa tôi đến những Harlem? Hay ít ra đến những Greenwich - ít ra, những Greenwich…? - Tại sao những trung tâm thương mại, những nhà hàng sang trọng với những kiến trúc tân kỳ, những chốn tiếp tân này kia với những phụ nữ béo tròn lúc nào cũng chỉ nói đến chuyện giữ eo, v.v.?) Cô không tính mua gì cả sao? Tôi có quá nhiều hành lý để có thể mua sắm thêm một cái gì khác. Cô đi nhiều, biết nhiều về nước tôi hơn cả. Câu nói đó tôi đã nói với một số người nước ông bà khi họ đến nước tôi. Vâng, tôi biết nhiều, quá nhiều về nước này hơn chính tôi có thể biết về nước tôi. (Mai này mốt nọ khi hòa bình về với quê hương mình… Hòa bình ơi! Ít ra, nơi đây ta sẽ thấy được mi để biết rằng mi xa lạ với ta biết chừng nào!...)
Supinda gọi Kim từ sau những khung gỗ sơn trắng đan theo hình mắt cáo có treo những chiếc mũ đủ kiểu.
Thế hai người cùng phải dùng tiếng Anh để nói với nhau à? Tôi tưởng… Vâng, vì tôi không biết nói tiếng Thái, và ngược lại, Supinda không biết nói tiếng Việt, mặc dù nước chúng tôi chỉ cách nhau có vài giờ bay phản lực. Ở đó, tôi muốn nói Á châu, những quốc gia nhỏ ở gần nhau nhưng ruộng đồng được ngăn cách bởi những con đê, mỗi khoảng ruộng đồng thuộc quyền sở hữu của một số người thuộc cùng một dòng giống, truyền thống, tập tục, văn hóa, lịch sử khác biệt nhau, với ngôn ngữ khác nhau và những trạng huống tinh thần khác nhau.
Một người mang một cái mũ đến chụp lên đầu Kim và ra hiệu cho nhiếp ảnh viên chụp hình. Tự nhiên, Kim thấy giận. Nàng gỡ chiếc mũ ra, cười gượng gạo, trả lại chỗ cũ.
Khi về khách sạn, Supinda biện minh cho mấy cái mũ vừa mua:
"Không mua, họ giận. Mày phải hiểu như thế. Để tỏ ra mình cũng thích thú về chuyến viếng thăm trung tâm thương mại nổi tiếng nhất của thành phố".
Mặc dù có thể đợi chuyến thang khác, không lâu lắc gì khi mà khách sạn được trang bị bằng những chiếc thang máy kiểu tối tân nhất, và cũng không vội vã gì khi Kim đã chính thức rủ Supinda đi ăn cơm tối với mấy "người bạn đồng hương" của nàng, nhưng cả Kim và Supinda cùng vội vã chạy băng qua phòng đợi rộng thênh thang với nền đá hoa trơn láng, để kịp nhảy vào trong chiếc thang máy vừa vặn tự động đóng cửa lại khi họ đặt chân đến vào bên trong. Kim nhấn ngón tay vào chiếc nút mang số 18. Supinda thở ra, đầu ngả vào thành thang máy:
"Cám ơn mày đã nói dối. Mình sẽ làm gì với nửa ngày tự do này?"
Kim ngáp dài:
"Đi ngủ cái đã. Từ hôm qua bên này, tao chưa được ngủ trưa trọn giấc bao giờ! Rồi sau đó, đi xi-nê, đi ăn và tìm một chỗ nghe nhạc… Và nếu trời đừng lạnh quá, mình sẽ đi dạo một lát…"
Supinda cười khúc khích, như chợt nghĩ ra một điều gì thú vị lắm:
"Tao mừng là họ không hỏi han lôi thôi về mấy người "bạn đồng hương" của mày. Tao tự hỏi nếu họ hỏi những người đó là ai, tên gì, làm việc ở đâu, nhà cửa ở đâu, mày sẽ ăn nói ra sao?"
"Tao biết họ chẳng hơi nào hỏi kỹ như vậy. Có khi họ mừng vì đã có người săn sóc giùm họ chương trình tối nay của tụi mình. Họ coi mình là bọn con nít trong khi mình coi họ là những mụ già".
Hai người chui ra khỏi thang máy. Supinda nhún nhảy với chiếc hộp đựng mũ trên tay, đi trước, với dáng người dài như chiếc hành lang trước mặt:
"Tao ưng đi thăm viếng những đài truyền hình hơn".
"Chứ không phải mày đang vui vì chọn được mấy cái mũ ưng ý à?"
"Đó là chuyện khác. Tao tưởng sẽ được làm việc tại các đài truyền hình, hay ít ra được đến các nơi đó quan sát lề lối làm việc của họ để học hỏi… Đêm qua lúc nói chuyện với Krishnan, tao thèm về nhà ghê gớm, mày biết không?"
"Tao cũng đoán thế. Tao tưởng mày khóc đến nơi rồi ấy chứ. Còn bây giờ thì sao?"
Supinda dừng lại, đợi Kim:
"Mày vừa nói gì?"
Kim lắc đầu:
"Không. Không có gì quan trọng cả".
Về đến phòng, Kim vào ngay phòng tắm vặn nước cho đầy bồn rồi bỏ quần áo chui vào nằm dài trong nước nóng. Có một lúc nàng tưởng mình ngủ được với sự thoải mái đang dần đến ngự trị trên thân thể nàng. Có tiếng huýt sáo của Supinda ở phòng ngoài. Một lát, Supinda ló đầu vào phòng tắm với chiếc mũ mới mua đội lệch qua một bên, hỏi Kim:
"Mày thấy tao đội mũ này hợp không?"
Kim ừ hử:
"Hợp. Mày vừa huýt sáo bản gì đó?"
Supinda bật cười:
"Un homme et une femme. Mày chưa xem phim đó à? Hay tuyệt".
Nói xong, Supinda lại tiếp tục huýt sáo. Kim có cảm tưởng tâm hồn bạn mình thật thanh thản, trong sáng. Mai mốt đến New York, nó sẽ không ở chung với mình nữa mà đến nhà anh họ nó. Nó rủ mình đến ở chung. Thà là ở khách sạn, còn hơn ở đó để thấy thêm một lần lạc lõng… Chịu sao thấu!…
Tao không chịu được Washington D.C. đầy không khí công chức. Tao cũng không chịu được Philadelphia sặc mùi cổ kính với những di tích lịch sử. Tao không chịu được cô Shirley không chồng, khó khăn như một bà giáo, tao trễ năm mười phút cũng đủ làm cho cô ta đã sẵn những nếp nhăn trên mặt càng nhăn hơn. Tao không chịu được mụ Fran, tuy vui tính hơn Shirley, nhưng đỏm dáng và tức cười như một con khỉ, luôn luôn bảo mình không nên hút thuốc nhiều quá sẽ bị chứng ung thư. Mấy bà ở Philadelphia cũng không khá hơn, duy có bà bác sĩ Margaret là dễ chịu, vui tính… Chắc ở New York sẽ dễ chịu hơn.
Supinda vừa hút thuốc phì phèo khi hai người đáp xe lửa đi New York. Kim nói:
"Mày không ưa Shirley, có lẽ tại mày không hiểu cô ta".
"Cũng có thể. Cô ta khô khan quá, lại có vẻ lạnh lùng nữa. Sao cô ta không lấy chồng?"
"Shirley thuộc lớp phụ nữ lớn trong kỳ đệ nhị thế chiến. Cô ta đính hôn một lần. Tao không rõ tại sao cô ta không lấy chồng. Chỉ biết sau lần đính hôn đổ vỡ, cô ta sống độc thân luôn. Có một sự can đảm nào đó trong cái quyết định sống độc thân của Shirley mà ở tuổi tụi mình chưa hiểu được. Mày xem như bà Fran, quá bốn mươi tuổi còn phải lấy chồng để như người ta, nhất là về phương diện tinh thần. Cuộc sống cần có nhiều kiên nhẫn để tìm hiểu. Dù vậy, vẫn có nhiều điều bí ẩn vượt khỏi tầm nhận xét của mình".
Supinda liếc nhìn bạn:
"Tao tự hỏi mày suy nghĩ về những điều đó để làm gì? Mày thường có vẻ tư lự. Ích gì sự tư lự đó?"
Kim khẽ nhún vai, mắt nhìn ra rừng cây bắt đầu đâm chồi non đang kéo nhau về phía sau đoàn tàu:
"Mỗi người có một số thói quen được cấu tạo do bản chất và hoàn cảnh từ đó nó được sinh ra và lớn lên… Tao cũng chẳng biết mình suy nghĩ như thế để làm gì. Chỉ biết rằng khi tao suy nghĩ về một người nào, và khi tao hiểu người đó hơn, thường tao bớt có ác cảm với người đó hơn. Chẳng hạn như đối với Shirley. Cũng có thể, mày thẳng thắn và bộc trực hơn tao".
Supinda nhìn bạn, toan nói gì, nhưng lại thôi.
Phải hai tiếng đồng hồ, chuyến tàu hai người đáp từ Philadelphia mới đến New York. Trước khi tàu vào ga New York, một người da đen phục sức theo kiểu các nhân viên làm việc cho hãng hoả xa cầm một chiếc khăn đến lau giày cho từng hành khách, mỗi lần lau giày cho một hành khách, gã lại không quên nói những lời chúc tụng. Thoạt đầu cả Supinda lẫn Kim đều bỡ ngỡ đến rụt rè. Sau hiểu ra, hai người để cho người da đen lau giày cho mình, với một vẽ bẽn lẽn, nhưng đều vờ thản nhiên.
Nhà ga nằm ở tầng hầm. Kho đoàn tàu chui vào vùng ánh sáng của những ngọn đèn điện, Supinda và Kim cùng bỡ ngỡ đứng dậy. Mọi hành khách đều có vẻ thản nhiên và bận rộn không ai buồn để ý đến hai cô gái ngơ ngác nhìn xung quanh. Có tiếng ai gõ vào cửa kính. Vài khuôn mặt phụ nữ nhìn Supinda và Kim, cười. Kim hích khuỷu tay vào người Supinda:
"Chắc mấy bà này ra đón mình?"
Họ chẳng phải vất vả với đống hành lý lỉnh kỉnh, bề bộn. Mọi việc đã được lo chu toàn. Nhưng cái cảm giác bận rộn vẫn lởn vởn với Kim. Nàng mong về đến khách sạn. Nhưng nàng chẳng được toại ý ngay. Bữa cơm trưa kéo dài trong nhà hàng bên dưới khách sạn. Họ vừa ăn vừa đề cập đến chương trình của sáu ngày lưu lại New York của Supinda và Kim. Sự bận rộn của thành phố New York phủ vây lấy Kim, một vòng vây quá chặt đến độ nàng không trông, không nhìn, không cảm được gì nữa ở xung quanh. Mỗi lần trở về khách sạn Kim như không mở nổi cửa nữa. Chiếc chìa khóa bị kẹt hoài. Tại sao? Kim hoàn toàn cảm thấy cô đơn. Đến ngày thứ tư sống trong thành phố, nàng tưởng mình điên loạn đến nơi. Mấy lần gọi dây nói cho Supinda, đều không gặp. Bỗng dưng Kim nghe một cơn giận dâng lên. Kim tự trách mình dễ dãi trong việc trao gửi tình cảm nơi Supinda. Nàng thề khi nào gặp lại Supinda sẽ làm mặt lạnh. Nàng nhủ thầm, có lẽ như Supinda lại hay: nhẹ nhõm, dễ sinh lòng yêu và bộc trực, cũng dễ sinh lòng ghét. Hoàn toàn để không vấn vương. Tại sao vẫn có một số người bạn ở bên nhà cho là nàng lạnh nhạt? Có lẽ vì sự lạnh nhạt nơi nàng chỉ là một cái vỏ để che đậy một yếu mềm, dễ dãi bên trong? Những ngày ở New York, Kim bỗng như đối diện với một tấm gương phản chiếu trung thực con người thật của nàng, khiến nàng cay đắng, và vô tình, nàng đâm thù cái thành phố đông đúc, xô bồ và vô tình này. Và cũng như Kim, cái bề ngoài vô tình đến tàn nhẫn đó của thành phố New York thực ra chỉ là một cái vỏ. New York, nơi mà Kim đã náo nức tới và nóng ruột khi đi khỏi, mà khi đã đi khỏi rồi, Kim bắt gặp một nỗi nhớ mơ hồ dành cho thành phố đó, pha lẫn một nuối tiếc vì đã chưa được nhìn rõ, nhìn hết nó.
Kim không hận được New York lâu, cũng như Kim không hận được Supinda lâu.
Sau non một tháng mỗi người đi theo một ngả theo chương trình đã được ấn định, hai người lại gặp nhau ở San Francisco. Kim đến phi trường San Francisco sớm hơn Supinda một giờ. Nàng ngồi bên đống hành lý để đợi bạn cùng lên xe ca về khách sạn đã được chỉ định (quả không hề có một sự tình cờ nào có thể xảy ra cả; mà cho là có sự tình cờ nào xảy ra đi chăng nữa, cả Supinda và Kim cũng không còn thời giờ đâu mà nghiền ngẫm về nó. Mà tất cả những bận rộn này có đáng gì đâu!?)
Một cặp vợ chồng Mỹ - Phi đến ngồi cạnh Kim trên chiếc ghế dài. Người vợ ngồi lại với mấy đứa con trong khi người chồng đi lấy hành lý. Kim mỉm cười với đứa con gái nhỏ. Những câu hỏi không đi ra ngoài những thông lệ. Bà từ đâu đến? Cô từ đâu đến? Em bé thật kháu khỉnh. Cám ơn cô.
Kim ngồi im, ngóng về phía cầu thang nơi hành khách từ các nơi sẽ xuống. Đây là lần thứ hai Kim đặt chân đến phi trường này. Trái với lần đầu ngơ ngác, lo âu, lần này Kim thấy bình tĩnh và có thể thong thả nhìn ngắm xung quanh. Bây giờ, cái không gian vật chất không còn đe dọa Kim được nữa. Nhưng cũng do đó Kim nhìn thấy rõ hơn nỗi trống vắng của tâm hồn mình. Những cánh thư từ bên nhà gửi sang Kim thường đọc đi đọc lại đến độ thuộc lòng cả nội dung, thuộc lòng cả từng chi tiết. Kim quen thuộc quá với những di chuyển, với những hành lang khách sạn, với những buổi tối nằm chèo queo trong phòng một mình, nghe như tâm hồn mình lên men hóa thành một chất rượu - rượu cô đơn - làm choáng váng tâm hồn đến tê tái. Kim phát giác ra thêm một chân lý: càng những kẻ ưa giang hồ phiêu dạt, bất cần đến những ràng buộc bao nhiêu lại là những kẻ cần một ngọn lửa gia đình, thèm có một liên hệ, dù nhỏ, cũng đủ làm ấm lòng bấy nhiêu! Dường như sự đầy đủ và chu toàn ở đây càng tinh vi bao nhiêu, cũng như những bữa ăn càng nhiều cao lương mỹ vị bao nhiêu, khiến cho Kim càng nhớ càng thương quê hương vốn lầm than, thiếu sót và những bữa ăn đạm bạc bấy nhiêu. Trong một lá thư gửi về cho gia đình, Kim đã viết: "Con đã bỏ đự định sau Hoa Kỳ, sẽ ghé lại New York vài ngày và sau đó qua thăm Âu châu một vòng. Con nôn nóng về nhà. Con sẽ về vào cuối tháng Năm, trễ lắm là đầu tháng Sáu. Mẹ nhớ muối sẵn lu cà với tỏi; có thêm được mấy quả cà bát dầm tương càng hay. Con thèm hương vị của quê hương lắm rồi. Ở nhà có ai tình nguyện ăn phở trừ cơm với con một tuần lễ không, thì sửa soạn sẵn đi…". Băng nhạc của một người bạn nhạc sĩ trẻ mang theo, Kim đã nghe đi nghe lại đến độ, không dám nghe thêm nữa… chắc Kim đã không nhớ, không thương đến thê thiết như vậy. Những đau thương thường đem con người lại gần nhau. Kim chẳng thấy gần được ai ở chốn này - hay vì thực ra, Kim chưa thể gần được những người đáng lẽ có thể gần được vì Kim chưa thực đi hết, nhìn thấy hết, cảm thấy hết.
Supinda từ trên cầu thang đi xuống, vừa đi vừa trò chuyện với một thanh niên Mỹ mà Supinda giới thiệu với Kim là quen được trên máy bay. Phải nhận là với lối phục sức hợp thời trang và sự khéo léo trang điểm, cộng thêm với dáng cao gầy như một cô gái làm người mẫu, Supinda dễ lôi cuốn sự chú ý của những người xung quanh. Đã có hơn một lần, Kim cảm thấy rõ ràng mình thua sút người bạn Thái Lan ở phương diện bề ngoài.
Sau những câu thăm hỏi chuyến đi lẫn nhau, hai người bạn lên xe ca về thành phố. Khác với mọi chỗ, ở đây không có ai ra đón Supinda và Kim cả. Kim nói:
"Càng hay. Điều đó chứng tỏ là chương trình thăm viếng ở nơi đây lỏng lẻo. Chúng mình sẽ được tự do. Vả lại, có lẽ cũng tại hôm nay là thứ Sáu, mà mình lại sẽ rời nơi đây vào thứ Hai. Ai cũng bận lo mục vui cuối tuần của họ chăng?"
Supinda nhận xét:
"Mày nói như một người Mỹ vậy!"
Kim có vẻ không bằng lòng:
"Mày không nên nói như vậy. Mày biết rõ là điều đó không đúng chứ?"
Supinda đấu dịu:
"Tao đùa có một tí mà mày đã sửng cồ!"
Kim cười nhẹ:
"Mày phải biết rằng nếu tao chịu ảnh hưởng được của người Mỹ, thì tao đã sung sướng vì không phải oán hận mày những ngày mày bỏ tao nằm một mình ở New York, và nhất là tao đã không phải hoài công tự hỏi lúc này con Supinda nó đang làm gì, ở nơi đó nơi nọ, liệu nó có khổ như dạo ở Philadelphia không? Tao không kể công. Nhưng không nói với mày điều đó, tao biết nói với ai bây giờ?"
"Coi kìa, Kim! Mày giận tao thật à? Tao đã bảo là tao đùa mà".
"Ừ, tao gận vì mày… vô tình".
"Mày tưởng tao không nhớ mày đấy chắc? Mày tưởng tao đã không tự hỏi như mày đấy chắc?"
Kim cười nhạt:
"Dù sao mày cũng là đứa sung sướng nhất trong hai đứa!"
Nói xong, Kim bước lên xe ca. Hai người ngồi chung một băng. Supinda lại hỏi:
"Tại sao khi không mày có vẻ cay đắng quá vậy?"
Kim lắc đầu:
"Có nhiều cái mày không hiểu được, dù tao có cố gắng giải thích cho mày nghe. Thôi, bỏ qua đi… Hãy nghĩ đến những ngày tự do cuối cùng ở cái thành phố San Francisco này. Supi, if you’re going to San Francisco…"
"Sài Gòn, ngày…
Supi thân,
Thấm thoát mình rời Hoa Kỳ sau chuyến đi chung ấy cũng đã một năm rồi. Tao nhớ hôm cuối cùng, sau khi đã thu xếp hành lý (không biết là lần thứ bao nhiêu từ ngày đặt chân lên đất Mỹ, đến cái độ tao tưởng có thất nghiệp xin đi làm cái nghề… xếp hành lý cũng được đó!), thanh toán tiền phòng xong, tao với mày ngồi dưới phòng khách của cái khách sạn đã đón mình đầu tiên khi đến đất Mỹ và tiễn mình khi mình rời đó, ở Washington D.C. tao nhớ đã hỏi mày có bao giờ mày giận tao. Mày đã ngẫm nghĩ một lát và nói: "Có một lần. Hôm ấy mày liệng đôi giày màu vàng kim nhũ của tao". Tao cười ngất vì cái lý do giận hờn tao của mày. Thực ra, hôm ấy, trong khi xếp hành lý cho một lần nữa lên đường, tao thấy trong gậm giường còn đôi giày của mày. Sợ mày quên nên tao đã cầm lên liệng cho mày. Vậy mà mày giận tao. Con nhỏ lạ! Sau đó, mày đã cho tao địa chỉ của mày ở Bangkok và tao cũng ghi cho mày địa chỉ của tao ở Sài Gòn. Rồi rút cục, cũng chẳng đứa nào buồn viết thư cho đứa nào. Tao nghĩ có lẽ mày đã đi lấy chồng. Còn mày thế nào chẳng có lúc mày nghĩ là chắc tao đã vùi thân trong một trong những trận "mưa pháo kích" tơi bời một dạo ở đây.
Thế mà mày đã lấy chồng thật. Hôm ấy có một người bạn Mỹ từ Sài Gòn qua Bangkok nghỉ hè, tao nghĩ đến mày nên có cho ông ta địa chỉ với lời hỏi thăm của tao kèm theo. Khi trở về, ông ta trao cho tao một gói đồ kèm theo lá thư của mày. Thì ra ông ta không được gặp mày, ngoài gói đồ mày gửi lại khách sạn nhờ ông ta trao cho tao. Đọc thư của mày, biết mày có chồng và đang hy vọng có thể có con, tao thấy mừng cho mày. Mày vẫn có lối viết ngắn, và bộc trực, như tuồng chữ của mày vậy.
Những ngày ở Mỹ, có lẽ kỷ niệm mà tao nhớ nhất là hôm chúng mình đáp tàu hoả từ Los Angeles đến Grand Canyons. Sau một đêm mất ngủ trong lòng con tàu xuyên qua không biết bao nhiêu cánh rừng, bao nhiêu đường hầm, bao nhiêu trang trại, bao nhiêu những ga xép, sáng sớm hôm sau, sau ly cà-phê Mỹ chua lè mà tao đã chỉ nhấp có một chút đỉnh vì thiếu đường, mày với tao, hai hành khách duy nhất, xuống tàu giữa một sân ga còn đẫm hơi sương với rặng thông thẳng tắp bao quanh, để từ đó đáp xe ca đi Grand Canyons. Gió trên sân ga như cắt da thịt còn nồng ấm vì giấc ngủ chập chờn trong con tàu lắc lư đêm trước. Sân ga vắng ngắt. Chỉ có người phu khuân vác lom khom đẩy chiếc xe ra đem hành lý của bọn mình chất sẵn lên xe ca. Phòng đợi của nhà ga dù không có máy sưởi, nhưng nhờ những khung cửa lắp kính, nên cũng che chở mình phần nào khỏi cái lạnh như cắt da thịt bên ngoài. Mày không biết được tao đã nhớ quê hương của tao đến độ nào khi nhìn những rừng thông bao bọc quanh sân ga. Có lẽ, từ ngày đặt chân lên đất Mỹ, đây là lần đầu tiên tao không cảm thấy vội vàng, mặc dù mình đã bị dựng dậy từ sáu giờ sáng để rời con tàu vào ngồi co ro đợi trong nhà ga. Có lẽ vì Gran Canyons không có ai đợi chờ mình, nghĩa là không có chương trình nào đang đợi mình để bắt mình lúc nào cũng phải theo sát nó. Có lẽ cũng vì khung cảnh ở nơi đây, vì sự có mặt của những cây thông tinh khiết và tràn đầy vẻ trầm tĩnh kia. Mọi người, mọi vật đều có một cái vẻ an nhàn, thanh thản. Cả cái giọng bác tài xe ca khi gọi nhóm hành khách ít ỏi ra xe khởi hành đi Grand Canyons cũng có một vẻ gì nhàn tản nữa, mặc dù xe khởi hành đi Grand Canyons rất đúng giờ, không mau không trễ, dù chỉ một phút.
Xe chạy qua rừng thông trước khi đến một miền đồng cỏ mênh mông. Tao nhớ mày đã kể về chuyến đi thăm rừng thông với Krishnan ở Phi Luật Tân, trong khi tao tưởng nhớ đến đồi thông bên xứ tao… Sau hơn một giờ xe chạy với hai đứa mình ngủ bù cho đêm thiếu ngủ hôm trước, (dù thực tình tao không muốn ngủ, vì sợ mỗi một phút ngủ, là một phút để cho cảnh vật xung quanh trôi tuột đi mất), xe vào đến Grand Canyons.
Làng Grand Canyons nhỏ, nhưng khung cảnh thật vĩ đại. Lèo tèo một vài khách sạn bằng gỗ, một vài tiệm ăn. Dân cư ít ỏi, phần lớn sống nhờ lợi tức do nhóm du khách mang lại. Nhà phần lớn làm bằng gỗ. Gió vừa khô vừa lộng.
Từ sân khách sạn chỗ chúng mình thuê phòng, có thể nhìn thấy thung lũng đá phía dưới với những thành núi đá bị dòng sông Colorado xói mòn tạo thành những bức tường thành trông xa như cả một vương quốc cổ xưa nay điêu tàn hoang phế.
Cũng chính tại đây, tao đã được đọc bài tường thuật lại trận tấn công của hai đợt Việt Cộng nhắm vào các thành phố, nhất là Sài Gòn, trên một tờ báo bán trong tiệm tạp hóa và đồ kỷ niệm của khách sạn. Nỗi sốt ruột lo âu pha với sự thay đổi khí hậu đột ngột, khiến tao không chịu nổi nữa. Rồi tao bị bệnh.
Suốt một buổi trưa tao nằm trong phòng đắp chăn vì cơn sốt hoành hành. Khi mày đánh thức tao dậy và ép tao uống thuốc, dùng bữa tối mà mày đã lặn lội, cùng với gã sinh viên người Đức đến nghỉ hè tại đó, đem về từ một nhà hàng cách khách sạn mình ở nửa cây số, tao thấy trời bên ngoài đã tối. Ra tao đã ngủ hết nửa ngày rồi kia à?
Supi ạ, sự săn sóc của mày trong thời gian ở Grand Canyons đã làm tao xúc động. Tao nhớ kỷ niệm của hai ngày ở Grand Canyons, một phần cũng vì cái tình bạn ấm cúng mà tao bắt gặp ở mày - mày, cái con bé mà tao thường cho là dễ mến nhưng hời hợt, vô tình đó - dường như đã có lúc, tao cảm thấy như mình sờ mó được sự ấm cúng của tình bạn đó, như một thứ hơi ấm đủ sưởi tâm hồn giá lạnh vì nhiều lý do của mình… Tao nhớ một lần mày đã bảo tao: "Kim à, mày trí thức hơn tao. Tao nhận thấy như vậy". Tao đã cười tự ngạo, như mỗi lần nghe ai nói thế về mình, và đáp: "…Và thua mày ở sự tháo vát, lanh lợi, bặt thiệp, Supi. Cứ tạm nghĩ là mày cần cái mà tao có mà mày thiếu, và ngược lại". Nhưng Supi, tao thương yêu mày, dù cái thời gian mình ở gần nhau không bao nhiêu.
Thực ra, chuyến đi để lại trong tao nhiều ấn tượng mãnh liệt. Nếu có những điều làm mình hận, mình thù; thì cũng có những điều mỗi lần nghĩ lại, mình cảm thấy có một cái gì êm đềm, ấm áp, dịu dàng. Chẳng biết có bao giờ mày có dịp ngồi nghĩ về những điều đó? Không, tao biết và tao cũng thương mày ở cái vẻ hồn nhiên vô tư lự đến trong sáng của mày.
Mày lấy chồng, chấm dứt một sự lựa chọn sau một lần tan vỡ. Tao tin mày không chọn lựa lầm. Cuộc đời của mày như thế là yên một bề. Còn tao… ừ, Supi, tao vẫn như độ nào… nghĩa là… tao vẫn là con Kim, một cách đơn giản lẫn phức tạp theo cách thế của nó, như dạo mày quen nó lần đầu và từ biệt nó lần cuối cùng ở Washington D.C… Muốn hiểu tất cả các mối chua chát đó, phải suy nghĩ và nhất là phải làm người Việt Nam mới cảm, mới hiểu được. Tao sẽ không nói tất cả với mày những điều tao nghĩ. Không thể nói được thì đúng hơn. Chỉ nên biết rằng đã có lần, tao tự hỏi sao tao không sinh ra làm dân nước mày, hay một nước nào khác. Lẽ cố nhiên tự hỏi chỉ để mà tự hỏi. Bởi vì, dù muốn dù không, mỗi một người ở xứ này đều bắt buộc phải tự tìm cho mình câu trả lời mà tao thường gọi là một sự giải thoát bản thân. Và mày hiểu vì sao tao dễ "sửng cồ" khi mày nhạo tao chịu ảnh hưởng của một nước nào khác, như nước Mỹ chẳng hạn.
Thôi, vài hàng thăm mày, thăm Krishnan của mày, và gia đình mày. Tao mong sẽ có dịp mình sẽ lại gặp nhau để gợi lại những kỷ niệm về một chuyến đi mà từ đó, một tình bạn đã nảy sinh giữa chúng mình.
Bạn của mày,
Kim"
Nguồn: Lập đông, tập truyện của Trùng Dương, Văn xuất bản năm 1972. 
 Trùng Dương 
Theo http://www.talawas.org/ 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chùm thơ của Lưu Lãng Khách

Chùm thơ của Lưu Lãng Khách Ngoài kia xuân đang qua rồi sao!/ Thềm hoa hanh hao - trên trời cao/ Chim non ca vang như ngày nào/ Bên em anh...