Thành phố nằm bên một rẻo biển miền Trung yên bình và tĩnh lặng. Những
ngày gần đây bổng nhiên được khuấy động bởi mấy chú cá mập, không hiểu vì sao lại
lang thang vào bờ, chúng lượn lờ nơi bãi tắm trước khuôn viên trường, là bãi du
lịch của thành phố. Thỉnh thoảng chúng lại ruỗi theo sóng nước cợt
nhã với con người. Có hôm một chú cá mập con nhá vào mông ai đó, có hôm lại ngoạm
vào giò của kẻ nào bơi đến gần. Bạn tôi phán: đất này “linh kiệt”. Tôi cười
vui: Đất lành chim đậu, biển lành cá mập làm tổ.
Dạo này tụi sinh viên ớn lạnh không dám xuống biển, chỉ ra
hóng gió, tập thể dục. Tuần trước trong trường đã có người bị ngoạm cánh tay,
cũng may cá mập chỉ nhá chơi rồi nhả ra nên vẫn còn nguyên vẹn, chỉ bị đứt gân
nằm nhà thương một tháng. Sinh viên là lũ chực chờ có việc thì cười cợt, thi
nhau chế diễu: mấy cô sinh viên mơn mởn bơi lội tung tăng cá mập không thèm đụng
đến, lại nhè ông giáo dạy môn Lịch sử Đảng, Chủ nghĩa Cộng sản Khoa học ngoạm một
phát mất hồn, hẳn nhiên nó cũng biết lựa người ghê...
Loài cá còn như vậy, những âm hồn còn ghê hơn. Nghe đâu, mấy
năm trước nhà trường đào móng xây cao ốc, người lãnh đạo cũ muốn xây tòa nhà
cao nhất thành phố để khuếch trương “danh tiếng”. Thứ nhất dinh cơ, thứ
nhì âm phần như người ta truyền dạy… nhưng đào mãi mà không đặt móng được,
chủ thầu lo lắng mời các nhà ngoại cảm từ Hà Nội vào xem đất, nghe nói trúng
Long Mạch và ngôi mã Hời. Cán bộ trong trường bàn nên tìm địa thế khác để xây
vì trường còn nhiều đất, nhưng lãnh đạo cũ nhất quyết xây lên. Tinh thần hãnh
tiến, hám danh vọng, ngụy quân tử, phấn đấu chỉ một ngày… “rũ bùn đứng dậy
sáng lòa!”.(1) Kết quả, cao ốc chưa xây xong ban giám hiệu đã sụp ngay tức khắc.
Ụp như trứng tươi rơi vỡ trên sân trường. Vậy mới nói dân Tây Sơn hào kiệt, đất
linh kiệt của áo vải cờ đào, người Tây Sơn bốn lần vào Gia Định, ba lần ra Bắc
Hà, lần nào cũng kinh thiêng động địa, Nam Bắc nể vì…
Trường nổi tiếng cả nước, báo chí liên tục đưa tin cán bộ
trong trường đấu tranh chống tham nhũng và những gì xấu nhất, cần che đậy của một
guồng máy bổng phơi bày cho thiên hạ ngắm. Ngày ấy, Trường như một chảo lửa, mấy
ông ở Bộ Giáo dục vào giải quyết ngày trước ngày sau phóng về ngay. Thầy cô
trong trường thì kháo nhau “Ma Hời ám”. Các trang web thì khỏi nói, tới tấp những
thông tin nóng hổi từng ngày.
Thông tin nóng hổi từng ngày, như ngày xưa những giấc chiều
chị em tôi trông ngóng từng chuyến xe thư đem báo và truyện từ Sài Gòn về nhà
sách chú Thiện. Lũ trẻ chúng tôi thích qua phụ giúp chú xếp báo và đọc “ké” tiểu
thuyết. Tôi thích mùi thơm mực in và giấy mới. Sau năm 1975 - ngôi nhà bỏ
hoang, những giá sách trống trơn, tôi thường ghé nhìn qua khe cửa gỗ tiếc nuối
nhà sách hoang phế. Sách là phẩm vật của trời trao tặng con người, giúp con người
lưu trữ ký ức và suy nghĩ mà ảnh chụp không giữ được. Sách biến mất là phần hồn
của con người biến mất. Chính vì hiểu nên người ta đốt đi không luyến tiếc, vì
phần hồn cũ không thể cải tạo chỉ có thể xóa. Tôi đứng nhìn qua khe cửa tuổi
thơ từng ham mê sách truyện Sài Gòn của mình cũng hoang phế như nền gạch bông
phẳng lặng. Sự trống vắng loang rộng ra mãi như mất mát một điều gì
đó mà mình không bao giờ có nữa. Văn học miền Nam có biến mất thật
không?
Một lần tôi bắt gặp chú mèo hoang nằm trên chiếc ghế gãy. Chú
mèo mướp giương mắt nhìn tôi khi nghe tiếng động. Ánh mắt của loài linh miêu
thường long lanh trong bóng tối. Ánh mắt sáng, không âm thanh quan sát tôi đang
nhìn qua khe cửa. Chúng tôi im lặng nhìn nhau hồi lâu, cho đến khi đôi mắt dịu
lại, lim dim tư lự, rồi vụt thảng thốt phóng đi khi nghe tiếng nói của vài bóng
người đi qua. Có lẽ cũng như tôi, con mèo mướp đang nhớ người chủ cũ của ngôi
nhà. Đã chứng kiến con người đối đãi với nhau, nên con vật đâm hoảng sợ những
bước chân nện thình thịch ít an lành.
Không hiểu vì sao nhiều năm sau khi nhớ đến nhà sách chú Thiện
bỏ hoang, tôi lại nhớ đôi mắt con mèo ngày ấy. Cùng một dáng vẻ của ánh mắt u uất
như người lính Cộng hòa ngồi ở vỉa hè nhà tôi đầu những năm 80. Ánh mắt đăm
chiêu tư lự, nửa lạc lõng, nửa sợ sệt, đầy cô đơn chỉ dám ánh lên một chút tinh
anh trong bóng tối khi không ai nhìn. Nhiều đêm đi học về, tôi thường thấy một
người đàn ông ngồi dựa tường bên góc tối trước hiên nhà, cây nạng gỗ kề bên. Trời
về đêm thật lạnh. Gió biển thổi hơi mưa còn chưa tan quất lên lề đường hãy còn
những vũng nước đen. Tôi đưa ông trái bắp luộc mẹ để phần, ông lắc đầu không
ăn, tôi ngồi xuống cạnh ông, chú ăn đi, nhà con không còn cơm. Ông nói ông
không còn răng! Hôm sau, ba đi rừng về, tôi kể chuyện, con thấy ông ấy mặc đồ rằn
ri Thủy Quân Lục Chiến. Ba nói chắc lính đi cải tạo mới trở về. Mẹ nghĩ có thể
là thương phế binh thời cũ... Ba buồn rầu, cũng một kiếp người như nhau.

Người muốn gặp tôi là ông già này, tôi kinh ngạc - ba của Thảo - cô bạn học cùng lớp cấp hai. Ba của Thảo gầy như bộ xương khô, gương mặt
ngang dọc những nếp nhăn cực khổ. Ông cười không còn răng, tôi nghe nói ông bị
đánh trong nhà lao rụng hết. Tôi nhớ một mùa hè cả phố xôn xao khi hay tin ông
đi cải tạo về không biết làm gì nên đạp xích lô. Ba của Thảo là sĩ quan biệt
phái dạy học ở trường Cường Để. Tôi nhớ một hôm trời bão, ông đạp xích lô chờ
trước cổng trường. Tôi được “hưởng lây phúc xích lô” ngồi chung với Thảo vì ở gần
nhà. Trường tôi học phải đi qua eo biển hồi ấy gọi là “eo nín thở” vì đường cua
ôm gắt và dốc trơn trợt. Eo biển lúc nào cũng lồng lộng gió phần phật, gió đến
trĩu cả tàu dừa. Sợ con bay xuống biển, ông đạp xích lô đi đón. Đạp ngang eo biển,
mưa xối xả, sóng lớn lớp lớp dập vào thành đá tràn lên đường, chiếc xe chổng
càng, hai đứa tôi run cầm cập ngồi trong xe bịt kín, chỉ có ba của Thảo còm cõi
đứng trước càng xe hứng sóng và ráng kéo chiếc xích lô qua đoạn đường dốc đó.
Tôi nhớ mãi tiếng sóng động và tiếng gió gào thét của đại dương, cả tiếng Thảo
khấn vái cho ba đừng bị cuốn trôi và tiếng kẽo kẹt của bánh xe ba Thảo cố trụ mỗi
khi sóng đánh tung lên bờ. Tôi nhớ mãi ngày Thảo khóc sưng mắt vì cha đạp xích
lô ế khách, ngồi buồn ông làm thơ, bị cho là “phản động” cấu kết tuyên truyền
cùng với nhóm bạn đạp xích lô như ông. Năm đó, cả thành phố rúng động vì khung
án cao nhất dành cho người bị ghép tội là án chung thân. Chung thân ở vào lứa
tuổi của họ là án chết, án tử đại hình vì còn gì nữa ngoài xà lim tăm tối, đã hết
ánh mặt trời của cuộc đời.

Góc chợ đầu đường - Bến xe hè phố
Chẳng qua là gạo là tiền - Nào bởi tại căn tại số…
Xem ngài:
Con người thanh lịch hào hoa - Tư chất thông minh tài bộ
Đã nhiều năm quan cách xênh xang - Cũng lắm lúc tù đày khốn
khổ
Nghiệp xích lô dù rõ nét cu li - Cốt tiên tử vẫn còn nguyên
phong độ.
Cà phê thuốc lá mỗi ngày hai cử giao duyên - Bằng hữu thi ca
đôi tháng một lần hội ngộ.
Sớm nghêu ngao thấm giọng nhân tình - Khuya tỉnh tọa nhắp mùi
thế cố.
Bốn giờ sáng ì è ì ạch kiếm mối mở hàng - Năm giờ chiều dạo
quẩn dạo quanh đưa người lở bộ.
Cuốc xe đêm trúng mánh vẫn xuề xòa - Con khách kẹo trật trìa
không phẫn nộ.
Định mức hai mươi đủ dù cho mõi gối chồn chân - Niên canh bốn
mươi ngoài mặc kệ trầy khu rách khố.
Bánh xe lăn rổn rẻn xu hào - Cơn gió ngược lắc lư mông cổ (…)…
Sá gì bọn đưa hơi đón gió một giọng hồ đồ - Bận chi thằng
theo đóm ăn tàn mười phần béo bổ.
Bến khu hai khu một ấy mới cơ duyên - Trời tháng chín tháng
mười thường hay bão tố.
Chị rỗi chợ xa khó tính, thích đạp nhanh hơn lá phủ cánh gà - Con buôn xe tải ngon xơi, ưa đậy kín lẫn đường quanh ngõ trổ.
Bực mình chú “bao căn” sinh sự bòn mót từng hào - Khốn kiếp
tên điểm chỉ tham lam rình ôm nguyên vố.
Đồng tiền ướt đẵm giọt mồ hôi - Hạt gạo khô cằn hòn tủy đỏ.
Chân đạp đều lúc nhặt lúc khoan - Mắt quần đảo nơi này nơi nọ.
Cùng bạn cũ thường tựa lưng hè phố, luận việc đời câu “Tiết
trực tâm hư” – Với đàn em hay gát cẵng thùng xe, bày lẽ sống chuyện “Tri tân ôn
cố”.
Chợ Hoài âm Hàn Tín luồn trôn - Bờ Vị Thủy Tử Nha xách giỏ.
Ấn công hầu đâu chỉ để riêng ai - Cung vận mệnh vẫn còn chưa
giũ sổ.
Cho hay: Bước đường cùng cũng có lúc nên danh -
Đừng thấy: đạp xích lô mà tưởng đồ bỏ xó.(3)
Ðã chắc rằng ai nhục, ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ.(4)
Còn kẻ sĩ ngày nay?
Tôi không biết kẻ sĩ ngày nay nghĩ gì nhưng tôi thương mãi những
kẻ sĩ miền Nam thất thế, sau thời hậu chiến phải chịu bao điều cay đắng.
Có những người tài giỏi nhưng không được lưu dụng, thất nghiệp họ ra đường bán
sách cũ, đi xe thồ, đạp xích lô, bán bong bóng, về quê cày ruộng. Những người
trí thức càng hiền lành thì càng thảm thương. Tôi yêu những người
lính dầm sương dãi nắng giữ an ninh làng mạc, giữ cuộc sống an bình
cho chúng tôi đi học, cho cha mẹ tôi đi làm nuôi gia đình. Họ trả giá thay cho
những người bây giờ sung sướng. Thời thế thay đổi, họ lây lất sống mà không ai
đoái hoài rồi họ chết đi không một nghĩa trang liệt sĩ, không bia tưởng niệm.
May mắn sang được Hoa Kỳ thì họ cũng cực nhọc trăm bề vì tuổi trẻ họ đã cống
hiến hết cho miền Nam. Ngày xưa, khi còn trẻ chắc họ không nghĩ gì xa vời
mà giản dị khi dân lành nguy biến thì họ phải bảo vệ, phải lấy sức mình ra che
chắn như ba của Thảo đã lấy tấm thân còm cõi của ông che chắn phong ba bão táp
trên đoạn đường eo nhô ra biển để con gái đừng ướt mưa gió, đừng bị sóng cuốn
xuống biển sâu, để Thảo và tôi có thể lớn lên tìm hạnh phúc của mình. Họ đâu ngờ
mình chỉ là con tốt trên bàn cờ chiến tranh của các nước lớn.

Tri ân những người lính miền Nam là điều tôi muốn
viết, ngày tiễn Cao Xuân Huy về với tro tàn. Lính miền Nam họ
là người Việt Nam.
Ghi chú:
(1) “Đất nước” Nguyễn Đình Thi.
(2) Kính nhi viễn chi là thành ngữ tiếng Việt có gốc
từ thành ngữ “敬而遠之” (kính nhi viễn chi) trong tiếng
Trung.
Thành ngữ này có nguồn gốc từ một câu nói của Khổng Tử trong "Luận ngữ - Ung dã" (論語·雍也):
Vụ dân chi nghĩa, kính quỷ thần nhi viễn chi, khả vị tri hĩ" (務民之義,敬鬼神而遠之,可謂知矣).
Tạm dịch như sau:
Làm việc nghĩa, có ích cho dân, tuy phải kính trọng quỷ thần (ý nói bề trên) nhưng không cầu cạnh quỷ thần, mà nên tránh xa quỷ thần, đó là trí.
Có thể nói rằng, "Kính nhi viễn chi" chính là cách nói rút gọn từ câu "Kính quỷ thần nhi viễn chi"(敬鬼神而遠之).
Ngày nay, trong tiếng Việt, thành ngữ "kính nhi viễn chi" thường được dùng trong các trường hợp: Bề ngoài tỏ ra kính nể, tôn trọng một đối tượng nào đó, nhưng trên thực tế không muốn tiếp cận, gần gũi với đối tượng đó; hoặc thường dùng trong các trường hợp khi mình không muốn tiếp cận với một đối tượng nào đó. Ví dụ: Họ là những người có quyền uy thế lực, hô mưa hoán gió, giao du với họ là họa phúc vô lường, tôi chỉ dám "kính nhi viễn chi" thôi. nguồn:http://vi.wikipedia.org/
Thành ngữ này có nguồn gốc từ một câu nói của Khổng Tử trong "Luận ngữ - Ung dã" (論語·雍也):
Vụ dân chi nghĩa, kính quỷ thần nhi viễn chi, khả vị tri hĩ" (務民之義,敬鬼神而遠之,可謂知矣).
Tạm dịch như sau:
Làm việc nghĩa, có ích cho dân, tuy phải kính trọng quỷ thần (ý nói bề trên) nhưng không cầu cạnh quỷ thần, mà nên tránh xa quỷ thần, đó là trí.
Có thể nói rằng, "Kính nhi viễn chi" chính là cách nói rút gọn từ câu "Kính quỷ thần nhi viễn chi"(敬鬼神而遠之).
Ngày nay, trong tiếng Việt, thành ngữ "kính nhi viễn chi" thường được dùng trong các trường hợp: Bề ngoài tỏ ra kính nể, tôn trọng một đối tượng nào đó, nhưng trên thực tế không muốn tiếp cận, gần gũi với đối tượng đó; hoặc thường dùng trong các trường hợp khi mình không muốn tiếp cận với một đối tượng nào đó. Ví dụ: Họ là những người có quyền uy thế lực, hô mưa hoán gió, giao du với họ là họa phúc vô lường, tôi chỉ dám "kính nhi viễn chi" thôi. nguồn:http://vi.wikipedia.org/
(3) “Phú xích lô” của T.T.G.
Những đoạn để trống (…)… người viết không còn nhớ.
(4) “Chí làm trai” của Nguyễn Công Trứ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét