Thứ Tư, 31 tháng 10, 2018

Gần mười bảy tuổi 3

Gần mười bảy tuổi 3
Chương 7
Một chiếc taxi đưa tôi về tới nhà. Chuông reo nhiều hồi, người chị Hai mới chạy ra. Giấc ngủ của chị người làm đã bị tôi phá vỡ.
Chị ta hỏi:
"Bây giờ ông mới về?"
Tôi đẩy cánh cổng:
"Bà hỏi gì tôi không?"
"Thưa không?"
"Bà có nhà đấy chứ?"
Chị Hai trả lời làm tôi giật mình kinh ngạc:
"Thưa, không".
Tôi cau mặt:
"Bà đi từ hồi nào?"
"Từ chiều hôm qua".
Như thế đó, tôi đi Thu Hà cũng đi luôn. Như thế đó, chồng một đằng vợ một nẻo. Như thế đó, cuộc chung sống của tôi với Thu Hà. Tôi đi vào phòng khách. Ngôi nhà vắng lặng, buốt lạnh, không một dấu tích nào của sự sống lứa đôi. Tôi ngồi phịch xuống ghế.
"Bà dặn gì không?"
"Thưa không".
"Bà đi một mình hay với ai?"
"Bà Liễu tới đón bà".
Tôi nghĩ mãi mà không thể đoán được là Thu Hà đi đâu. Đến nhà Liễu? Tôi hỏi:
"Bà có nói bao giờ về?"
"Chiều nay. Có thể sáng mai".
Tôi kêu lên, bực tức:
"Đi đâu mà có thể đến mấy ngày như vậy được. Thôi cho chị xuống nhà dưới".
Người chị Hai bỏ đi, tôi ngồi thừ, nghĩ ngợi. Tôi đi đã ghê, Hà đi còn ghê hơn. Tình trạng này không thể kéo dài mãi mãi. Vào buồng, tôi nằm vật xuống giường. Lúc này tôi mới cảm thấy tất cả sự mỏi mệt của một đêm thức trắng, nhất là thức cùng với một người đàn ông như Bằng và một người đàn bà như mụ Hường. Thức với hai người khác. Những đầu xương đau nhừ. Tay chân bải hoải. Đầu óc như tê liệt, trống rỗng. Mí mắt nặng trĩu. Tôi chỉ thoáng nghĩ được rằng Thu Hà đã vượt quá một giới hạn nào đó, tôi phải có với nàng một thái độ quyết liệt. Rồi tôi ngủ thiếp đi. Tôi ngủ mê man. Bằn bặt. Đến chiều mới tỉnh dậy. Bước những bước loạng choạng ra ngoài phòng khách, tôi thấy Thu Hà đã ở đó.
Nàng đang nói chuyện với một người đàn ông lạ mặt. Gã đàn ông thật tráng kiện. Y mặc một cái quần soóc màu tím, một cái áo sơ mi hoa ngắn tay, đi dép. Thu Hà mặc cũng tương tự như vậy. Tôi đoán được ra ngay. Họ vừa từ ngoài Vũng Tàu trở về.
Thu Hà giới thiệu:
"Đây là anh Hợp".
Hợp bắt tay tôi, nói vừa chở mấy người đàn bà cho ai về nhà nấy, và Thu Hà là người cuối cùng. Cái bắt tay của gã đàn ông chân thật cởi mở. Y tự nhiên mà không khả ố. Thân mật mà không suồng sã. Xem chừng y cũng không có tình ý gì với Thu Hà, chỉ là đi chơi vui vậy thôi. Nhưng nói tôi có cảm tình với Hợp cũng không đúng. Cảm tình thế nào được với một thằng đàn ông lạ mặt đã ở ngoài Vũng Tàu với vợ mình suốt hai ngày liền. Cái bắt tay của tôi vì thế miễn cưỡng và nhạt nhẽo.
Hợp chừng như không nhận thấy vẻ miễn cưỡng đó. Y hỏi:
"Sao anh không ra Vũng Tàu cùng với chị?"
Tôi lạnh lùng nhìn Thu Hà:
"Nhà tôi đi đâu tôi không được biết".
Thu Hà thản nhiên:
"Lúc em đi, anh không có nhà mà!"
Tôi gật:
"Phải. Không có nhà. Nhưng đáng lẽ anh không có nhà thì em phải ở nhà".
"Tại sao?"
"Vì nhà cửa không thể có bộ mặt như một ngôi nhà hoang như thế này được".
Thấy hai vợ chồng chúng tôi to tiếng với nhau đến nơi, gã đàn ông vội chào tôi rồi chuồn. Thế là giữa Thu Hà và tôi lại có một cuộc cãi vã vang động sang đến những ngôi nhà hàng xóm.
Tôi lại lầm về Thu Hà một lần nữa. Buổi sáng hôm trước, nàng dậy sớm pha cà phê cho tôi uống, săn sóc tôi, khiến tôi tưởng người đàn bà nội trợ ở Thu Hà đã sống lại. Tôi lầm. Thu Hà vui mừng thấy tôi làm ăn với Bằng trước hết chỉ vì tôi sẽ mang về cho nàng rất nhiều tiền. Để mua kim cương, mua hột xoàn. Thứ hai, tôi ra khỏi nhà, nàng mới được tự do bay nhảy. Hai chúng tôi cùng bỏ nhà suốt đêm ngày như thế và lẽ dĩ nhiên là chuyện phải xảy ra đã xảy ra.
Một tuần lễ sau, cũng vào một đêm cả hai chúng tôi cùng không có nhà kẻ trộm đã đột nhập và làm được một mẻ lớn.
Đêm hôm đó, trời mưa thật lớn. Tôi đi chơi với Bằng như thường lệ. Cũng ở một nơi chốn ăn chơi thâu đêm suốt sáng trong Chợ Lớn. Nửa đêm tôi tỏ ý muốn về. Bất ngờ trời đổ mưa thật lớn. Bằng nói trời mưa, về nhà là gì, về nhà cũng đến nằm nghe mưa rơi mà thôi. Tôi ngập ngừng và cuối cùng tôi đã ở lại. Suốt đêm hôm đó, nằm ở khách sạn, trong khi Bằng vẫn hút thuốc phiện, nằm với lũ ả sẩm ở một phòng bên cạnh, tôi cố gắng chợp mắt một lúc mà không tài nào ngủ được. Đầu óc tôi bồn chồn. Linh cảm cho biết là có một chuyện không hay đã xảy ra. Nửa đêm tôi xuống quầy, gọi điện thoại về nhà. Chuông reo hoài mà không có ai nghe. Tôi biết là Thu Hà cũng đi vắng chưa về. Người chị Hai thì ngủ mãi tận nhà dưới, không thể nghe thấy chuông điện thoại reo.
Năm giờ sáng tôi vùng dậy, mặc quần áo, sang phòng bên, nói cho Bằng biết là tôi về nhà.
Bằng hỏi:
"Sớm thế. Thì để sáng rõ hãy về có được không?"
Tôi đáp:
"Không hiểu tại sao tôi thấy nóng ruột quá".
"Gọi điện thoại về".
"Rồi. Nhưng chẳng thấy ai trả lời".
Bằng cười rộ:
"Nghĩa là ông anh đi thì bà chị cũng đi luôn? Như thế là được cả vợ lẫn chồng. Chỉ còn cái nhà không, anh để mặc nó, quan tâm đến làm gì?"
Tôi quả quyết:
"Thế nào tôi cũng phải về qua nhà một lát".
Bằng nói:
"Chờ tôi, tôi đưa anh về".
Tôi không nghe, xuống đường, gọi taxi về trước. Xe vừa ngừng trước cửa nhà, tôi đã thấy ngay là có chuyện bất thường xảy ra.

Cánh cổng đêm nào cũng đóng kín từ chín giờ tối tới sáng hôm sau, buổi sáng hôm đó mở toang. Nhìn vào trong, cửa vào phòng khách cũng mở rộng. Tôi trả tiền xe, chạy vào. Chiếc máy truyền hình, máy hát và máy thu băng ở phòng khách không còn ở những chỗ cũ. Tôi chạy vào phòng ngủ. Tủ áo cũng mở toang hai cánh. Kẻ trộm đã đột nhập đêm hôm trước trong khi cả tôi lẫn Thu Hà đều không có nhà. Chúng có thừa thì giờ để khuân đi tất cả những gì chúng có thể khuân đi được. Chúng đã lục lọi cùng khắp. Đến cái ngăn bí mật ở một góc tủ áo, nơi Thu Hà để tiền bạc và đồ nữ trang của nàng, chúng cũng khám phá thấy.
Tôi chạy xuống nhà bếp. Chị người làm mở choàng mắt, ngơ ngác khi tôi đánh thức chị ta dậy. Chị ta không biết gì hết, nói là suốt đêm không nghe thấy một tiếng động khả nghi nào. Có thể là chị ta đồng loã với bọn trộm, mở cổng cho chúng vào. Có thể. Thế thôi. Không có bằng chứng nào buộc tội chị ta được hết. Tôi đành lên nhà trên chờ Thu Hà về. Đến mười giờ, Thu Hà mới về cùng với Liễu. Thấy nữ trang và tiền bạc biến mất. Thu Hà vật vã than khóc, chúng tôi không còn biết làm thế nào hơn là đi trình quận. Vụ trộm không điều tra được ra manh mối. Người chị Hai bị giữ ở quận một ngày rồi cũng được thả về. Tính ra, cả đồ dùng lẫn tiền bạc, bọn trộm đã làm được một mẻ lớn, trên dưới một triệu đồng.
Vụ mất trộm khiến Thu Hà buồn bực hết chỗ nói. Nàng gây với tôi, nói tôi phải chịu hết trách nhiệm. Làm như tôi có bổn phận phải ở nhà, coi nhà, để nàng muốn đi đâu thì đi, muốn vắng nhà lúc nào cũng được vậy. Tôi đã bực mình vì thái độ tối thậm vô lý của Thu Hà còn bực mình phải ra quận trình báo, đi lại nhiều lần mất thì giờ.
Tức giận tôi, Thu Hà đâm ra thù ghét luôn căn biệt thự. Nàng nói ngôi nhà cũ đem đến cho nàng hết bất hạnh này đến bất hạnh khác. Nàng đòi tôi bán nó đi mua một căn nhà khác. Bao nhiêu chuyện là bấy nhiêu bực mình mới xẩy ra sau đó.
Từ sau vụ trộm, Thu Hà càng đi khoẻ hơn. Suốt ngày suốt đêm. Chúng tôi sống với nhau hệt như một cặp vợ chồng ly thân chờ ngày ly dị. Hệt như thế. Không khác. Liên hệ tình cảm giữa hai chúng tôi chỉ còn là một sợi dây mỏng manh, có thể đứt phựt bất cứ lúc nào. Tôi cũng nhân cái đà Thu Hà đi miệt mài, để đi luôn từ sáng đến chiều, và luôn luôn đến sáng ngày hôm sau. Căn phòng ở phía sau bàn giấy biến thành căn buồng riêng mà Bằng đã dành hẳn cho tôi sử dụng. Mụ Hường ra Trung rồi mụ Hường từ ngoài miền Trung trở về. Chúng tôi lại đưa nhau đi chơi, lăn mình từ một truỵ lạc này đến một truỵ lạc khác, vùi ngập miệt mài trong trác táng. Chỉ trong một thời gian ngắn, tôi đã có đến năm bảy người tình, nếu danh từ người tình cũng có thể dùng cho người đàn bà nào đã ăn nằm với mình một vài lần. Thu Hà cũng biết như thế nữa.
Mới đầu nàng còn la lối. Cuối cùng nàng để mặc. Đúng là trường hợp, tuy tiếng là chung sống dưới một mái nhà nhưng đã anh đi đường anh, tôi đường tôi, mỗi người sống hoàn toàn với tự do riêng biệt.
Tình trạng kéo dài như thế cho đến ngày tôi bị bắt.
Trước khi thuật lại cái trường hợp bị bắt, cũng nên nói đến sự làm ăn chung của Bằng và tôi. Chúng tôi hái ra tiền. Tôi không thể ngờ một công việc làm ăn phi pháp lại có thể tiến hành một cách đường hoàng như vậy. Sự thành công dễ dàng bao giờ cũng đem đến sự coi thường, không cẩn thận, không đề phòng tích cực như trước. Bằng mua tiền, tích trữ tiền, đổi tiền một cách lộ liễu, không thèm che giấu gì hết.
Đến nỗi, một hôm tôi phải nói:
"Chúng mình nên cẩn thận".
Bằng cười:
"Chẳng sao, anh đừng lo".
Tôi lo lắng:
"Đã nhiều tổ chức như mình bị phá vỡ, không lo sao được".
Bằng cười:
"Họ khác. Mình khác".
Thái độ chủ quan của Bằng thật ra cũng chẳng nên ngạc nhiên. Tính Bằng từ xưa tới giờ là thế. Y nhìn cuộc đời như canh bạc. Sống với Bằng chỉ có hai mặt, một mặt là may một mặt là rủi. Theo Bằng khi sự may mắn ở với mình, khó khăn nào cũng vượt qua được, trở lực nào cũng san phẳng được. Ngược lại nếu may mắn không còn nữa, đề phòng cẩn thận đến mấy, bất hạnh cũng vẫn đến như thường, không làm sao tránh được.
Mặt khác, công việc làm ăn phi pháp mà Bằng đang theo đuổi, với y không có gì là xấu xa hết. Y thường lý luận với tôi một cách rất đơn giản như thế này là cuộc sống chung quanh đã đầy đặc cái xấu xa, cái bẩn thỉu, y có làm bẩn, làm xấu cũng chỉ là làm theo tất cả mọi người. Lý luận ngang chướng ấy, nghe mãi, thấy nó cũng hợp lý. Nhìn sang chung quanh, tôi phải công nhận với Bằng là cái bẩn nhiều thật và cái xấu thì vô vàn. Thế nhưng, sự liều lĩnh của Bằng cũng làm tôi hoảng sợ. Những ổ buôn lậu tiền mỹ kim bị phá vỡ lung tung khiến tôi lo lắng là sau người khác sẽ đến lượt chúng tôi.
Tôi đề nghị:
"Hay là mình tạm ngưng hoạt động một thời gian".
Bằng cười, hất hàm:
"Để làm gì?"
"Cho nhà chức trách quên chúng ta đi một thời. Sau đó sẽ hoạt động trở lại".
Bằng không đồng ý. Và giải thích:
"Có phải lúc nào mình cũng làm ăn dễ dàng, thuận tiện như thế này được đâu. Sẽ có những mùa khô, ngồi mốc ra đấy hàng năm bảy tháng liền không tìm được mối hàng nào. Nhà chức trách một khi đã theo dõi mình, không bao giờ buông tha đâu, cho dù mình có ngừng hoạt động một thời gian".
Bằng kết luận:
"Vậy chúng mình chỉ có hai cách. Một là ngừng thì ngừng luôn hai là tiếp tục thì tiếp tục hoài hoài, mãi mãi, bất chấp nguy hiểm".
Tôi nín thinh. Sống với Bằng quả như một gã leo dây trong gánh xiếc, ngập ngừng một giây, phân vân một chút là rớt xuống, là ngã lộn nhào đầu. Tôi thấy mình bị thúc đẩy lôi cuốn tới cái tình trạng không ngừng lại được nữa. Nếu tôi có một cuộc sống yên ổn, chắc là cảm thấy nguy hiểm thấp thoáng tới gần, tôi đã thôi, để trở về những ngày tháng phẳng lặng. Nhưng tôi chẳng có gì hết. Ngoài sự nguy hiểm, để sống với nó. Để lãng quên những buồn phiền riêng tây.
Bằng bảo tôi:
"Anh có thể thôi, nếu anh muốn".
Tôi hỏi:
"Phần lời của tôi được nhiều chưa?"
"Nhiều. Nếu chúng ta không tiêu xài như đã tiêu xài từ mấy tháng nay. Anh muốn chia cũng được. Phần anh được chừng nửa triệu rồi đó".
Nửa triệu. Tôi thấy là số tiền này tuy lớn nhưng cũng chưa thể là một bảo đảm cho tôi trong một thời gian lâu dài. Bất quá được dăm bảy tháng. Cuối cùng là tôi lại tiếp tục cho đến khi cả Bằng và tôi cùng bị bắt. Theo dõi chúng tôi đã từ lâu, nhà chức trách giăng dần trước mặt chúng tôi một cái bẫy được che giấu cực kỳ khéo léo. Chúng tôi đã thản nhiên, ung dung bước tới. Và đã rơi vào bẫy.
Sự theo dõi của nhà chức trách thật kín đáo, thật chặt chẽ và cũng thật công phu. Khi bị bắt giải đến quận, làm biên bản tôi mới biết rõ như vậy. Chính mấy người cảnh sát cho tôi biết. Họ không có lý do che giấu nữa bởi cái lẽ giản dị là chúng tôi đã bị bắt quả tang và cũng không chối cãi việc làm phi pháp của mình.
Sự thật là chúng tôi không chỉ bị bắt về một tội buôn Mỹ kim mà còn về hàng chục thứ tội khác. Như mưu đồ trốn thuế. Như tàng trữ đồ ăn cắp, không có hoá đơn, không có biên lai. Chúng tôi bị bắt ở bàn giấy. Sau đó, được dẫn giải đến kho giấu hàng. Cuối cùng, chúng tôi được đưa về quận.
Như mọi lần, Thu Hà đi vắng. Chuông reo hoài hoài, mãi mãi rồi mới thấy cái tiếng nhấc ống điện thoại lên ở đầu dây đằng kia. Đó là người chị Hai.
Tôi gắt:
"Bà đâu?"
"Bà đi từ sớm".
"Đi tìm bà ngay cho tôi".
Sự đòi hỏi thật nực cười, thật vô lý. Làm sao con chị Hai biết được Thu Hà ở đâu để tìm về. Nó nói cho tôi biết như vậy. Tôi đành dịu giọng:
"Nói với bà tôi đã bị bắt".
Con chị Hai hốt hoảng:
"Ông bị bắt thật sao?"
Bộ nó tưởng tôi nói đùa. Tôi không dặn dò gì hơn được nữa vì người cảnh sát hối thúc ra xe không cho nói thêm một lời nào thêm. Dặn dò cũng đến thế mà thôi, Thu Hà chẳng làm gì cho tôi được hết. Trên xe cảnh sát, trong đoạn đường từ bàn giấy trá hình đến quận tôi thầm nhủ với tôi là cuộc vui đã hết, trò đùa đã chấm dứt, những ngày đen tối bắt đầu. Bằng bình tĩnh như thường. Sự bình tĩnh của Bằng làm cho tôi thán phục. Y thật có tư cách, phong thái phải có của một tên trùm buôn lậu. Lúc nguy hiểm cũng như lúc bình thường y vẫn là thằng Bằng coi cuộc sống như một canh bạc. Y cười, nói với tôi.
"Mình được hoài. Bây giờ thua rồi, anh Viễn".
Tôi thiểu não:
"Thua đau là khác".
Bằng nắm lấy tay tôi:
"Đáng lẽ tôi không nên rủ rê anh vào vụ làm ăn này. Tôi thành thật hối hận".
Tôi gạt đi:
"Không nên nói như thế. Anh cũng bị bắt như tôi mà".
"Tôi khác. Anh khác".
Tôi gượng cười:
"Khác thế nào?"
"Tôi đã vào tù, vào khám rất nhiều lần. Thêm một lần nữa cũng chẳng sao. Anh còn gia đình, lại chưa bị thế này bao giờ".
Tôi nhún vai:
"Bị cho biết".
Tuy tôi nói thế nhưng Bằng vẫn băn khoăn. Y hối hận thành thực đã rủ rê tôi vào một cuộc chơi mà cuối cùng tôi đã phải trả một giá rất đắt, ngoài mọi tưởng tượng. Y nghĩ là cuộc sống tôi trước đó tốt đẹp. Vì y, nó trở thành xấu xa. Y nghĩ là tương lai tôi trước đó rực rỡ, sau đó cái rực rỡ chỉ còn là cái tối tăm của một vực thẩm tôi đã ngã xuống.
Bằng sốt sắng:
"Anh đừng lo, tôi nhận hết tội về phần tôi".
Tôi cười:
"Không bao giờ tôi lo như thế. Chúng mình cùng nhận chịu hậu quả làm việc của chúng mình. Thế thôi".
Bằng cãi:
"Nhưng anh khác. Anh không phải là cái thằng trùm buôn lậu chuyên nghiệp như tôi".
Điều mà Bằng không tài nào hiểu được là tôi đã mệt mỏi đã chán nản đến cái độ tôi không thiết tha gì nữa. Mọi giới hạn đã bị phá vỡ. Tôi đã buông thân thế vào một dòng thác lũ mặc cho nó trôi dạt tới bến bờ nào cũng được. Thì còn kể gì đến lao tù đến tai tiếng. Tôi đã hoà mình vào một lối sống không thể là của tôi. Để tìm lãng quên. Cũng là để đánh lừa mình. Tôi đã thức đêm, uống rượu, trác táng, không phải là thích bừa bãi, phóng đãng như vậy. Chỉ là để quên đi được phần nào những ưu phiền muôn mặt đè nặng lên một thâm thức đã chán chường đến cực điểm.
Thấy tôi thản nhiên, Bằng tỏ ý thán phục:
"Không ngờ anh cũng can trường lắm".
Tôi đùa:
"Can trường từ lâu. Bộ bây giờ anh mới biết?"
Bằng gật, thành thật:
"Bây giờ mới biết đó".
Tôi nghĩ đến Hường:
"Cũng may Hường không bị bắt".
Bằng phì cười:
"Rồi cũng bị".
Tôi ngạc nhiên:
"Sao vậy?"
"Mụ đó liều lắm. Sẽ tiếp tục như thường cho đến khi nào bị tóm như chúng mình".
Bằng nháy tôi:
"Anh biết mụ ấy mê anh lắm không?"
"Đâu có".
"Thật mà. Cũng là chuyện lạ lùng. Hường nào còn tình yêu, nào còn rung động. Thế mà gặp anh lại chịu quá. Thế nào mụ ta cũng tìm thăm anh".
Chúng tôi bị đưa đến quận cảnh sát, bị tống giam, ra toà và lãnh án tù. Tôi lãnh án tù một năm, Bằng hai năm. Giây phút cực nhọc nhất cho tôi là giây phút đối diện với Thu Hà ở quận cảnh sát. Nàng đến kiếm tôi ngày hôm sau. Thu Hà đã quên bẵng đi là chính nàng đã xúi tôi hợp tác với Bằng. Nàng đã nói nàng rất bằng lòng thấy tôi kiếm được nhiều tiền, dù các kiếm tiền phi pháp và đầy nguy hiểm. Bây giờ nàng trách móc, chửi mắng tôi đủ điều. Tôi giận không thể nào tả được. Nhưng tôi nín thinh không nói một lời mặc cho Thu Hà to tiếng trước mặt Bằng. Nàng hầm hầm:
"Tất cả đều do anh gây ra. Anh đừng trách tôi".
Tôi chán nản:
"Em muốn gì bây giờ?"
Thu Hà láo xược:
"Muốn gì, làm gì rồi anh sẽ biết".
Cho đến lúc vào tù tôi không gặp Thu Hà nữa. Cũng chẳng muốn gặp. Tôi chẳng muốn nàng tới thăm tôi ở khám đường làm gì. Những nơi chốn như thế không phải là những nơi chốn một người đàn bà sang trọng đài các như Thu Hà lui tới. Thời gian ở trong khám tạo cho tôi cơ hội kiểm điểm lại cuộc đời mình trên những chặng đường tôi đã bỏ lại, đã đi qua, bây giờ chỉ còn lưu lại một dư vị chán chường, cay đắng. Tôi muốn quên hết. Nhiều đêm, vào mấy tháng giam cầm đầu tiên, tôi cũng nhớ đến Thu Hà. Nhớ ghê gớm. Và nghĩ đến cuộc sống tự do của nàng ở ngoài, tưởng tượng ra những người đàn ông Thu Hà đang gặp, đang đi chơi với họ, tôi cũng ghen, ghen tuông ghê gớm. Sự bực dọc nhiều khi làm cho tôi mất ngủ và thao thức đến sáng. Nhưng rồi về sau, lòng tôi bình tĩnh thư thái lại dần dần. Thu Hà không bỏ một lần thăm viếng hàng tuần nào, phải công nhận cho nàng như vậy, nàng vào thăm đều đặn, mỗi lần vào mua cho tôi đủ thứ đồ dùng và thực phẩm.
Nàng cũng tỏ ra buồn rầu, và cũng mong mỏi tôi được trả tự do để hai vợ chồng lại xum họp như cũ. Nhưng tình cảm biểu tỏ xem chừng có một việc gì thật gượng ép. Tôi cảm thấy thế, giữa hai chúng tôi. Ngọn lửa tình yêu thắm đỏ ngày nào đã tắt. Còn, cũng chỉ là một đốm lửa leo lét, phai tàn.
Tôi cũng không muốn trách Thu Hà làm gì. Cuộc tình duyên nào của đời tôi cũng như là một lầm lỡ, cuộc hôn nhân nào của đời tôi cũng như một mù quáng, phương diện này ngôi sao bản mệnh của tôi đích thực là một vì sao xấu. Thật vậy. Vì sao đuổi theo tôi bằng cái ánh sáng vẩn đục của nó. Từ Marlène tới Thu Hà. Và có lẽ tới mãi mãi.
Người đàn bà biểu tỏ với tôi một tình nồng nhiệt chân thực và cảm động nhất lại là mụ Hường.
Biểu tỏ tình cảm ở một người đàn bà nạ dòng thường là những biểu tỏ khôi hài, làm cho tức cười, lố lăng và kệch cỡm. Mụ Hường đã có cái lối biểu tỏ đặc biệt đó. Nhưng trong sự lố lăng lại có cái cảm động, trong sự kệch cỡm lại có cái chí tình. Vào khám thăm tôi, vừa nhìn thấy tôi mụ đã khóc oà lên. Những kinh ngạc. Tôi chưa từng thấy Hường khóc bao giờ. Nghĩ chẳng bao giờ mụ khóc. Vậy mà mụ đã khóc nức nở, sầu thảm, và những giọt nước mắt ấy đã dành hết cho tôi.
Cười thì cũng có thể cười được, bởi vì cái cảnh tượng mụ Hường khóc sướt mướt quả là một cảnh tượng khôi hài. Nhưng tôi không cười. Chưa ai thương xót tôi một cách tận cùng như vậy. Mụ Hường nhìn thấy tôi, trong bộ đồng phục của một tù nhân. Và đứng giữa nhà giam chung quanh đầy người, mụ đã xúc động và đưa tay lên bưng lấy mặt khóc thật lớn.
Nhiều cặp mắt ngó chúng tôi chằm chặp. Nhiều tiếng xì xào nổi dậy. Tôi gắt nhỏ:
"Đừng khóc nữa, người ta nhìn".
Mụ Hường cố cầm nước mắt:
"Em ở ngoài Cam Ranh về. Được tin, em muốn vào thăm anh ngay. Loay hoay chẳng làm sao vào được. Thành ra mãi đến hôm nay…"
Tôi ngắt lời:
"Vào thăm anh là tốt rồi. Sớm muộn có sao đâu".
Hường nhìn tôi từ đầu đến chân, xót xa:
"Anh chưa phải như thế này bao giờ".
Tôi cười:
"Chưa. Đây là lần đầu".
Tôi cười, lớn hơn:
"Mong cũng là lần cuối cùng".
Mụ Hường lau nước mắt, nhìn tôi:
"Còn cười được nữa?"
Tôi vẫn cười:
"Không cười thì khóc như em hay sao?"
"Anh ở trong này có khổ lắm không?"
"Mấy ngày đầu chịu không được. Muốn chết luôn. Bây giờ thì quen lắm rồi. Ở suốt đời cũng được nữa".
"Đừng nói nhảm. Anh bị bao nhiêu?"
"Một năm".
"Còn Bằng?"
"Hai năm, gấp đôi".
"Thằng ấy có bị hai mươi năm cũng mặc xác nó. Nó ra tù vào khám nhiều lần rồi chẳng sao. Em chỉ ân hận cho anh. Giá có em ở Sài Gòn, chưa chắc anh bị thế này".
"Sao vậy?"
"Em khôn hơn Bằng nhiều. Nguy hiểm là em biết liền à. Bằng chỉ được cái liều lĩnh. Ngoài ra chẳng biết gì hết".
Tôi hỏi:
"Có muốn gặp Bằng không?"
Hường lắc đầu.
"Em vào đây chỉ để thăm anh thôi".
"Cám ơn".
Hường nắm chặt lấy tay tôi.
"Giá em được ở tù cùng với anh thì hay biết mấy".
Khi Hường nói tuần nào, cũng sẽ vào khám thăm tôi một lần, tôi không bằng lòng. Chẳng phải vì không muốn. Giữa người đàn bà nạ dòng là Hường và người đàn ông lỡ dở công danh không thành sự nghiệp là tôi, đã có nhiều kỷ niệm, nhiều lưu luyến. Ít nhất tôi cũng gặp được một người đàn bà hoàn toàn thành thật với mình. Tôi đang thiếu cho tôi cái đó. Thiếu những đãi đằng, những biểu lộ thành thật. Nhưng tôi bắt buộc phải từ chối sự thăm viếng thường xuyên của Hường. Chỉ vì tôi chưa quên được Thu Hà.
Tôi nói với Hường:
"Tháng sau, hãy vào thăm anh".
Hường ngạc nhiên:
"Anh không muốn?"
"Muốn lắm chứ, Nhưng…"
"Anh sợ em đụng đầu với vợ anh?"
Tôi gật đầu công nhận:
"Đúng như vậy".
Hường ném cho tôi một cái nhìn thương hại.
"Bà ta còn thương yêu gì anh nữa đâu mà anh cần".
Hường nói một sự thật tàn nhẫn. Nhưng cũng là sự thật. Thành ra sự thực nào cũng tàn nhẫn hết. Chỉ có ảo tưởng là không tàn nhẫn. Điều tàn nhẫn cuối cùng lại là người ta không thể sống suốt một đời với những ảo tưởng, mà luôn luôn phải sống với những sự thật tàn nhẫn. Bao nhiêu tình cảm Thu Hà dành cho tôi đã tan biến gần hết kể từ ngày tôi bị bắt.
Thu Hà không còn nhìn thấy tôi là người chồng khả kính của nàng nữa. Trong cái nhìn, trong dáng điệu, trong ngôn ngữ, chỉ còn là sự coi thường. Trước kia, tôi là một giá trị nào đó của Thu Hà. Giá trị ấy không còn nữa. Điều này làm cho tôi đau buồn và thất vọng nhất. Vợ chồng chỉ có nghĩa là cố kết với nhau trong hoạn nạn. Đáng lẽ, những lúc như lúc này Thu Hà phải gần tôi nhiều nhất, khuyên nhủ, săn sóc tôi nhiều nhất. Nàng đã làm trái lại. Nàng không tha cho tôi cái tội thất bại trong công việc. Nàng khinh bỉ tôi khi thấy tôi chỉ còn là một thằng tù.
Tôi thở dài:
"Dù sao, Thu Hà vẫn còn là vợ anh".
Hường thản nhiên:
"Trên thực tế có còn như vậy không?"
Tôi buồn rầu:
"Anh bị giam cầm thế này, làm sao biết được".
Hường hỏi:
"Anh muốn biết không?"
Tôi ngạc nhiên:
"Em hỏi như thế là nghĩa lý làm sao?"
"Để em theo dõi mọi hành động của vợ anh trong một tuần. Xem thế nào. Rồi em vào đây, em thuật lại hết cho anh nghe. Cam đoan chỉ kể lại sự thật. Không thèm thêm bớt, không thèm bịa đặt".
Tôi nghiêm mặt:
"Cấm em làm thế".
"Anh lại sợ phải đứng trước những sự thật phũ phàng?"
"Không phải. Chỉ nhớ là anh không muốn. Cấm em đó".
Hường ngó tôi chăm chú, cái nhìn không trách móc, không thất vọng, nhưng đầy tò mò khó hiểu.
"Anh còn yêu vợ anh đến thế kia ư?"
Tôi nghiêm trang:
"Anh không muốn trả lời em câu hỏi đó. Hỏi như thế cũng không nên. Đừng bao giờ Hường hỏi anh như thế nữa".
Câu nói có phần tàn nhẫn. Đáng lẽ tôi cũng chẳng nên nói như thế để là gì. Nói, chỉ làm tổn thương đến tự ái của Hường, là điều không bao giờ tôi muốn. Sự làm tôi kinh ngạc là Hường chẳng những đã không giận, còn nhìn tôi bằng một cái nhìn kính phục.
Người ta bảo Hường là một thứ đàn bà nạ dòng. Không biết gì hơn là ăn chơi truỵ lạc, và tìm khoái cảm vật chất trong những cuộc tình chốc lát. Hường như thế thật. Đã như thế từ bao nhiêu năm nay rồi. Nhưng tới một phút nào đó, như một vòm trời nặng trĩu mây đen chợt hé lộ một nền trời cao vút và xanh biếc, Hường cũng đã nhìn thấy những cái đẹp, biết được cái phải. Tình cảm chân thật đã làm cho Hường thay đổi. Trên một ý nghĩa nào, người đàn bà này không còn là một người đàn bà nạ dòng như người đời vẫn tưởng nữa. Hay là người đời vẫn tưởng thế thì mặc cho cái nhìn tầm thường, phiến diện của người đời. Tôi đã thấy khác. Thấy ở Hường đã thay đổi một điểm gì tốt đẹp mà Marlène, Thu Hà và những người đàn bà khác đều không có. Sự tốt đẹp ấy được biểu hiện qua câu nói:
"Em lỡ lời. Xin lỗi anh".
Tôi xin lỗi lại:
"Chỉ là anh quá nóng, mất bình tĩnh".
Hường không đả động gì đến Thu Hà nữa. Nhưng sự tôi yêu cầu đừng vào khám thăm tôi luôn thì Hường không chịu nghe.
Công việc buộc người đàn bà trôi dạt này phải đi đây đi đó luôn luôn. Nay Vũng Tàu, mai Đà Lạt. Tuần này ở Cam Ranh, Đà Nẵng, tuần sau ở Biên Hoà, Pleiku. Chỗ nào có Mỹ kim, đồ lậu, hàng không thuế, là có mặt Hường ở đó. Chúng tôi bị bắt rồi. Dĩ nhiên là Hường làm ăn một mình. Như thế Hường càng kiếm được nhiều lời hơn vì khỏi cần phải chi chác cho ai. Vậy mà, theo cái tinh thần một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ, Hường cũng thôi hoạt động luôn. Chỉ đến ở chỗ chúng tôi thuê làm bàn giấy. Và tuần nào cũng vào khám thăm tôi một lần.
Một buổi chiều, ở trong khám, tôi đem chuyện này nói với Bằng, Bằng cười:
"Anh cảm hoá được con nhỏ rồi đấy".
Tôi kinh ngạc:
"Làm gì đâu mà cảm hoá?"
Bằng ung dung:
"Cần gì phải làm gì. Nếu anh định cảm hoá một người, sự cảm hoá khó lắm. Nhưng nếu anh không định, sự cảm hoá thường lại xảy ra mà chính anh không hay".
Những buổi chiều ở trong khám dài lê thê. Những ban đêm ở trong khám dài vô tận. Bao nhiêu câu chuyện ngoài đời của người khác đã trở thành những đầu đề thảo luận giữa Bằng và tôi. Cũng hay. Cũng đỡ buồn. Cũng qua được thì giờ khiến cho tôi cũng bớt dẫn được những ý tưởng u uất.
Chúng tôi đã nói chuyện đến những người đàn bà sống ngang dọc hoang toàng như Hường. Chúng tôi còn nói chuyện đến những thân thể những khuôn mặt khác. Đến Marlène. Đến Thu Hà. Đến Nguyệt. Một Marlène như một cái cây trồng xuống đất mới, không hợp thuỷ thổ, khí hậu, cho nên cuối cùng Marlène đã bỏ tôi mà đi. Một Thu Hà bề ngoài thật lãng mạn, bên trong lại thực tế, lại vật chất hơn mọi người đàn bà khác. Tình yêu lớn nhất của tôi mà sự thật thì không phải là tôi. Hay nàng tưởng là tôi mà sự thật thì không phải như vậy. Nàng chỉ yêu những viên kim cương, và cái đám bạn gái mà nàng không chịu xa không chịu mất. Nguyệt có những cái tôi chưa hiểu được. Nguyệt nhẹ nhõm, phóng khoáng. Nhưng nếu lấy nhau, Nguyệt còn là Nguyệt? Hay rồi cũng như Marlène, cũng như Thu Hà? Câu hỏi này, tôi thú thật với Bằng là không làm sao trả lời được.
Bằng cười:
"Cuối cùng, anh đã nghi ngờ?"
Tôi gật:
"Người đàn bà nào với tôi cũng như một thứ đồ vật mà muốn mua được tôi đã phải trả một giá quá đắt. Cho nên tôi ngán lắm".
Bằng cười lớn:
"Anh vẫn thế. Cái chết của anh là anh không thể nhìn đàn bà như tôi".
"Anh nhìn họ như thế nào?"
Bằng nhún vai:
"Một thứ trò chơi".
"Nghĩa là chốc lát, tạm bợ?"
"Phải, hệt như một trò chơi, không hơn không kém".
Chúng tôi nói trở về Hường. Tôi hỏi:
"Rồi cuộc đời Hường sẽ ra sao?"
"Đó là một điều mà nó không bao giờ thèm nghĩ tới. Nhưng rồi anh xem, cũng chẳng sao hết đâu".
Tôi công nhận:
"Chắc thế. Chỉ có tôi còn phiền phức, rắc rối quá".
Chúng tôi lại nói đến Thu Hà, Bằng hỏi:
"Hai ông bà đang ở tình trạng nào?"
"Hết sức bi quan. Hết sức đen tối".
"Liệu có đi đến chỗ bỏ nhau không?"
"Chưa. Nhưng cũng gần".
Tôi không biết trả lời thế nào trước cái quan niệm của Bằng về đàn bà, một trò đùa chốc lát. Tôi cũng muốn nghĩ như Bằng. Cũng muốn sống như Bằng. Có lẽ, Bằng hữu lý, khi nhìn ngắm đàn bà như một sinh vật đầy chứng tật kỳ quái, chỉ nên gần gũi trong một thời gian ngắn và nếu phải xa cách thì đừng bao giờ nên coi sự xa cách ấy là một mất mát lớn lao.
Cho là Bằng hoàn toàn có lý. Cho tôi hoàn toàn sai lầm. Chỉ có điều là Bằng khác. Tôi khác. Và đàn bà với tôi trọn đời là một hệ luỵ tình cảm phiền toái, không thể nào thoát ra, không thể nào phá vỡ.
Tôi bảo Bằng:
"Marlène lừa dối tôi. Vậy mà tôi không quên hẳn được. Hiện giờ Marlène ở Thái Lan. Sống rất huy hoàng vương giả. Tôi mất Marlène vẫn thấy luyến nhớ. Còn con nhỏ Elga nữa. Nó chết rồi và không bao giờ tôi quên được. Thỉnh thoảng, tôi vẫn nằm mơ thấy nó".
Bằng cười:
"Nhưng mà Marlène thì chắc không bao giờ còn nhớ tới anh".
Tôi thở dài:
"Đàn bà dễ quên. Tôi biết vậy. Nhưng sự đó cũng chẳng đổi thay được gì hết".
Bằng hỏi:
"Trường hợp người vợ đang ở với anh bây giờ cũng bỏ anh như vậy, anh có một phản ứng khác biệt không?"
Tôi ngẫm nghĩ rồi trả lời:
"Chắc là không".
Bằng lắc đầu:
"Cho nên đàn bà mãi mãi làm khổ anh".
Tôi nói như một người đàn bà thường nói:
"Cái số tôi nó thế".
Những buổi chiều trong trại giam, sau này nghĩ lại và nhớ lại có những cái buồn nhưng cũng có những cái vui của nó. Đi đến đâu, Bằng cũng thu xếp cho đời sống của y có được những tiện nghi mà người khác không thể nào có được. Nói về cái tài xoay xở, gây cảm tình với chung quanh, lợi dụng được kẻ này, sai khiến được kẻ nọ, Bằng số dách. Không ai bằng, không ai hơn. Trong tù, lúc nào Bằng cũng có thuốc lá thơm, rượu mạnh và những đồ ăn thức nhậu đàng hoàng như ở ngoài. Chiều nào chúng tôi cũng ngồi nhậu nhẹt với nhau đến thật khuya. Tôi kể hết những chuyện đã xảy ra trong đời tôi cho Bằng nghe. Những mộng tưởng thiếu thời như thế nào, tuổi trẻ tôi như thế nào với những thăng trầm, những biến chuyển của nó tôi đều kể cho Bằng nghe hết, giữa hai ngụm rượu, trong cơn say trong buổi chiều xuống trên trại giam buồn bã. Cuộc sống bên ngoài có những đổi thay gì tôi hoàn toàn không hay biết.
Rồi chuyện phải xảy đến đã xảy đến. Như không sớm thì muộn, nó phải xảy tới, không tránh được. Đó là sự đụng đầu với Thu Hà và Hường. Hôm đó là một ngày thăm tù như thường lệ. Khi tôi được gọi xuống phòng thăm Thu Hà đi cùng với Liễu đã ở đó.
Và Hường cũng đã ở đó nữa. Tôi đứng ngẩn người, không biết xử sự như thế nào, lẽ tất nhiên là trong một trường hợp tương tự, tôi phải lờ Hường đi, để chỉ nói chuyện với Thu Hà và Liễu mà thôi. Tôi định làm như thế. Nhưng Hường không chịu cho tôi làm thế. Tôi cũng không thể trách Hường vào đâu được. Tính Hường ngỗ ngược, ngang chướng. Nàng lại chẳng coi Thu Hà vào đâu. Thành ra thấy mặt tôi là Hường nghiễm nhiên tiến đến ngay.
Thái độ của Hường thật ngang nhiên đường hoàng. Nàng cũng lại nhanh chân hơn Thu Hà nhiều. Thấy một người đàn bà lạ mặt, Thu Hà ngẩn người đứng im.
Hường cũng không đứng lâu. Trao mấy gói quà cho tôi. Hường chỉ nói:
"Em đưa vào cho anh".
Tôi đành trả lời.
"Cám ơn".
Hường quay lại nhìn Thu Hà bằng một cái nhìn khiêu khích. Rồi nói với tôi:
"Em sang phòng bên thăm anh Bằng".
Tôi gật, để cho Hường đi. Thu Hà chờ cho Hường đi khỏi mới hầm hầm đi lại. Nàng hất hàm:
"Con nào?"
"Một người quen của anh Bằng".
Thu Hà gầm lên:
"Sao lại đưa quà cho anh".
Tôi gạt đi:
"Em đừng để ý. Chuyện đó không quan trọng".
Thu Hà quắc mắc:
"Ai bảo với anh là không quan trọng".
Liễu chen vào:
"Anh Viễn quen biết những loại đàn bà đê tiện như thế được sao?"
Tôi có thể nhịn nhục, chịu đựng Thu Hà. Vì nàng là vợ. Liễu không là cái gì hết. So sánh hai người với nhau, theo lối đánh giá của tôi, mụ Hường giá trị gấp mười lần Liễu. Tôi nổi nóng:
"Đê tiện thế nào?"
Liễu hỗn xược:
"Đê tiện ra mặt, anh chưa nhìn thấy sao?"
"Tôi không thấy ở người đàn bà ấy một sự đê tiện nào hết".
Trong khi Liễu ghen hộ cho Thu Hà như thế Thu Hà đứng lặng, nhìn tôi từ đầu đến chân. Không bao giờ tôi quên được cái nhìn ấy. Một cái nhìn làm cho tôi lạnh người. Vì nó là một cái nhìn chán chường và khinh bỉ nhất. Chính phút đó, phải, chính là trong giây phút đó, tôi biết là giữa Thu Hà và tôi hoàn toàn không còn gì nữa. Giọt nước mắt đã tràn bờ. Mọi tình cảm đều bị giết chết. Mãi rồi Thu Hà mới cười nhạt một tiếng:
"Không ngờ anh xuống đến mức đó".
Tôi nói:
"Em đừng hiểu lầm".
Thu Hà nhìn thẳng vào mặt tôi:
"Còn gì nữa đâu mà hiểu lầm".
Nàng vẫy Liễu:
"Thôi chúng mình đi về".
Tôi biết có giữ Thu Hà ở lại để phân trần cũng không được nữa. Nhà giam lại không phải là một chốn thích hợp cho sự phân trần này. Tôi hỏi với, khi Thu Hà đã quay gót:
"Tuần sau em vào thăm anh?"
Thu Hà quay đầu nhìn lại. Nàng ném cho tôi một cái nhìn quái gở. Như tôi đang là một thứ đàn ông xuẩn ngốc nhất thế giới.
"Thăm anh?"
Tôi gật đầu, thảm hại:
"Phải".
Thu Hà bĩu môi:
"Chờ đó, sẽ có người vào thăm. Con mụ đàn bà nạ dòng ấy chăm sóc, nuôi dưỡng cho không đủ sao?"
Không bao giờ Thu Hà vào thăm tôi nữa. Không bao giờ, cho đến khi tôi được trả tự do. Trong mấy tháng cuối cùng bị giam giữ, tôi được Hường kễ cho nghe nhiều chuyện về Thu Hà. Tôi cấm. Nhưng Hường vẫn mở một cuộc điều tra như thường.
Cuộc điều tra đem lại những bằng chứng rất tàn nhẫn và đau đớn. Để trả thù lại, Thu Hà đã cho đám bạn trai của nàng đến nhà. Liễu đưa thêm đám bạn gái hoá dại của Liễu tới nữa. Và ngôi nhà là một địa điểm du hí hàng ngày của chúng nó. Theo Hường thuật lại, những canh bạc được tổ chức thường xuyên ở nhà tôi. Suốt đêm, suốt ngày. Thâu đêm tới sáng. Tôi không có mặt ở nhà, nhưng cái sự tôi không có mặt lại trở thành một sự mừng vui cho mọi người đang có mặt ở đó.
Kể chuyện xong, Hường nói:
"Anh còn đợi gì nữa".
Tôi hỏi:
"Đợi là đợi gì?"
"Anh phải có một thái độ. Đâu có thể để cho chúng nó xem thường rỡn mặt anh như vậy được".
Lời khuyên của Hường hơi muộn màng. Ở cái điểm tôi chưa kịp có một thái độ dứt khoát với Thu Hà thì Thu Hà đã có trước một thái độ dứt khoát với tôi. Nàng thừa rõ là tôi không bao giờ chấp nhận cho nàng đưa bạn trai tự do về nhà. Vậy mà nàng đã đưa chúng nó về, biến ngôi nhà thành một nơi du hí hành lạc.
Thu Hà cũng thừa biết mọi hành động của nàng thế nào cũng được nói đến tai tôi. Biết và Thu Hà đã cố tình cho tôi biết như vậy. Nàng đã thả chất nổ vào cuộc sống chung, làm cho vỡ tan thành muôn ngàn mảnh nhỏ.
Một nguy khốn khác mà tôi phải đương đầu và giải quyết là vấn đề tài chính. Nằm trong khám, tôi đã nợ ngập đến cổ. Nợ tiền luật sư. Nợ tiền mọi người. Tuy Hường ngỏ ý muốn thay mặt tôi trang trải hết các món nợ đó, nhưng tôi không chịu. Ở tù được đến tháng thứ sáu, tôi ngỏ ý muốn gặp Triệu. Triệu là luật sư của tôi. Đang lo liệu cho tôi mọi chuyện. Triệu vào khám. Thấy mặt tôi, anh ta nói:
"Cứ yên tâm nằm mát sáu tháng nữa rồi ra. Còn chuyện gì nữa đâu? Tôi không thể rút ngắn bản án cho anh được. Bởi cái lý do giản dị là nó đã thành án".
Tôi lắc đầu:
"Không phải chuyện ấy".
Triệu khá thân cho nên tôi nghĩ có thể nói chuyện với anh ta về việc gia đình.
"Anh biết tôi và Thu Hà trên thực tế như đã bỏ nhau?"
Triệu gật:
"Tôi không mong cho anh như thế. Nhưng có vẻ là như thế thật. Hôm nọ tôi có đến nhà…"
Tôi ngắt ngang lời Triệu:
"Và anh đã thấy là căn nhà của tôi không còn là của tôi nữa?"
Triệu gật:
"Chị tiếp tôi ở phòng khách. Nhà anh bây giờ là một sòng bạc lớn. Tại sao Thu Hà có thể đối xử với anh như thế được".
Tôi thở dài:
"Đó, anh coi. Tôi chán đời lắm. Chẳng thiết tha gì nữa. Tôi lại nợ nần không biết bao nhiêu người. Trong số đó có anh".
Triệu gạt đi:
"Chẳng sao. Lúc nào anh thanh toán cho tôi cũng được mà".
Tôi nghiệm trang:
"Tôi muốn thanh toán cho anh ngay. Cũng như mọi người. Tôi không thích nợ ai hết. Anh có thể thay mặt tôi bán ngôi biệt thự cho tôi được không?"
Triệu gật:
"Được".
"Anh làm cho tôi việc ấy. Ngay lập tức. Càng sớm chừng nào càng hay chừng đó".
"Cũng phải có sự thoả thuận của Thu Hà".
"Anh điều đình cho tôi để có được sự thoả thuận ấy".
"Tôi sẽ gặp Thu Hà cho anh ngay tuần này".
Tôi bắt tay Triệu:
"Tốt lắm. Kết quả thế nào, anh cho tôi biết ngay. Tôi chờ anh đó".
Một tuần lễ sau. Người bạn luật sư vào khám cho tôi biết anh ta đã điều đình xong với Thu Hà. Thu Hà bằng lòng cho tôi bán nhà, với điều kiện là bán được bao nhiêu phải cho nàng một phần ba khoản tiền. Nghe mà buồn. Tôi có thể cho Thu Hà một nửa. Tôi có thể cho nàng tất cả khoản tiền hay nàng muốn làm chủ căn nhà ấy cũng được. Tôi chỉ đau vì thái độ của Thu Hà trong việc bán nhà. Nàng tỏ ra không cần mảy may cảm tình lưu luyến gì với tôi hết. Chỉ biết tiền. Chỉ muốn cắt đứt.
Nàng nói với người luật sư trẻ tuổi:
"Tôi đã muốn bảo anh ta bán nhà từ lâu rồi. Bây giờ anh ta muốn thế cũng tiện lắm. Càng hay. Bán nhà đi, tôi sẽ trở về nhà cũ của tôi. Hoặc là sẽ đi ở khách sạn. Anh vào khám nói cho anh ấy biết như vậy. Là tôi hoàn toàn đồng ý".
Tôi nghe những lời nói tàn nhẫn, đoạn tuyệt tình nghĩa của Thu Hà và muốn phát điên lên. Giá lúc đó có Thu Hà ở trước mặt, tôi đã đánh cho nàng một cái tát. Hay là tôi điên lên, tôi có thể bóp cổ nàng cho đến chết. Thu Hà không ngờ mà tệ hơn Marlène đến mười lần. Tôi không hiểu tại sao tôi có thể nhầm lẫn về Thu Hà đến thế.
Ngày trước hồi chúng tôi mới yêu nhau tôi nghĩ Thu Hà là một trong những người đàn bà khả ái nhất thế giới. Chỉ trong mấy năm, Thu Hà đã thay đổi hoàn toàn, thay đổi đến một mức độ tôi không thể nào ngờ được nữa. Thu Hà là loại đàn bà không nên lấy làm vợ. Chỉ nên coi như một người tình. Ràng buộc Thu Hà vào hôn nhân là đẩy nàng từ người đàn bà khả ái nhất thành người đàn bà khốn nạn nhất.
Tôi chẳng biết làm thế nào để cứu vãn cho cuộc sống chung đã rơi đổ tan tành.
Ngôi nhà bán đi Thu Hà lấy một phần ba tiền, phần còn lại nhờ luật sư trang trải dùm mọi thứ nợ nần là vừa hết. Thế là trắng tay lại hoàn trắng tay. Tôi cũng không lấy chuyện này làm buồn, còn mừng thầm là như thế cũng nhẹ mình cũng sạch nợ.
Nhà bán rồi, Thu Hà dọn về nhà riêng. Suốt thời gian còn lại của tôi ở trong khám, Thu Hà không vào thăm tôi một lần nào nữa. Nàng chỉ viết cho tôi một lá thư. Đó là một lá thư đoạn tuyệt. Lời lẽ trong thư rất minh bạch dứt khoát. Thu Hà tỏ ý ân hận là chúng tôi không nên lấy nhau. Chỉ yêu thôi, đừng nên lấy. Như thế không chừng chúng tôi yêu nhau được tới trọn đời. Cuối thư Thu Hà nói nàng coi như hai chúng tôi đã ly dị, đã xa nhau hẳn.
Nàng nói nếu tôi muốn gì, cần thanh toán vấn đề gì nữa, tôi cho nàng biết nàng sẽ vào khám thăm tôi…
Tôi viết thư trả lời. Trong thư tôi nói là không có gì cần thanh toán nữa, mọi sự gặp gỡ đều không cần thiết.
Thời gian trôi qua, chậm chạp, lê thê, nhưng thời gian cũng không ngừng lại bao giờ. Tôi lại sống thêm những đêm tù, những ngày tù cho đến khi mãn hạn. Buổi chiều cuối cùng ở lại trong khám, Bằng tổ chức một bữa tiệc từ biệt linh đình không thua gì một bữa ăn tiệm ở ngoài. Cũng đủ thứ rượu sang. Cũng những món ăn cầu kỳ nhất. Chúng tôi mời thêm mấy người bạn mới trong tù tới. Bữa nhậu bắt đầu khi ánh nắng mặt trời đã mất đi trên những mái chòi canh. Tôi uống thật say, thật hào hứng, trong một cảm giác buồn vui lẫn lộn. Được trả tự do sau một năm giam cầm cũng thích lắm chứ cho kẻ nào mất tự do. Nhưng đời sống trong tù cũng đem lại cho tôi thật nhiều kỷ niệm đáng ghi nhớ.
Bằng còn ở lại trong khám một năm nữa. Đó là điều làm cho tôi ngậm ngùi. Thẳng lưu manh, thẳng du đãng đã trở thành người bạn thân thiết duy nhất của tôi. Từ đầu đến cuối. Lúc mọi chuyện tiến hành tốt đẹp cũng như lúc hoạn nạn, y đối xử với tôi thật đẹp. Thật chững chạc, đường hoàng. Với Bằng, tiền tài không đáng kể, tình nghĩa ở trên hết, với Bằng, sống là một trò đùa, sống nguy hiểm mới là sống, và khi phải trả, đắt bao nhiêu y cũng trả, thư thái, ung dung. Thế cũng là sòng phẳng với chính mình. Thế cũng là sòng phẳng với người nữa. Tôi phục Bằng, phục thành thật. Ngờ đâu một thằng lưu manh lại có được một cuộc sống đáng khen ngợi như thế. Tôi tự thấy thua Bằng. Không được như Bằng. Không bao giờ.
Nâng ly rượu mừng tôi được trả tự do, Bằng cười:
"Nào, mừng cho anh Viễn".
Mọi người đều nâng ly. Tôi điềm đạm:
"Uống với nhau cho vui. Vì được uống với nhau. Chứ mừng thì cũng chẳng có gì đáng mừng hết".
Bằng tròn mắt:
"Sao vậy?"
Tôi nhún vai:
"Thành thực tôi chẳng thấy cái sự được trả tự do của tôi có điều gì đáng mừng".
Bằng cười ha hả:
"Bộ anh Viễn muốn ở lại đây?"
Tôi lắc đầu:
"Cũng không phải là thế".
Mọi người nhao nhao:
"Thế là thế nào?"
Tôi nghiêm trang:
"Tôi cũng không rõ. Ở lại cũng không thích. Được phóng thích cũng vậy. Tôi chẳng thấy tôi muốn gì hết".
Bằng uống một ly rượu lớn, gật gù:
"Tôi hiểu được phần nào tâm trạng của anh Viễn. Anh đã chán nản hết thảy, nghi ngờ hết thảy. Nhưng thôi, tâm trạng riêng của anh Viễn thế nào, bọn mình phải tôn trọng không được động chạm tới".
Buổi tối xuống. Không khí bữa tiệc rượu chia tay càng thêm say đắm. Sau này, nhớ lại, trong tất cả những bữa rượu tôi đã uống, uống đến quên đời, uống đến mê loạn thần phách, bữa rượu chia tay với Bằng trong trại giam là bữa rượu sảng khoái nhất, đáng ghi nhớ nhất. Tôi uống thật hào hứng. Tôi uống. Vui buồn trong tôi lẫn lộn, tôi không còn phân biệt được tình cảm mình, tôi sống hoang mang, không chủ định.
Bằng hỏi tôi:
"Anh Viễn ra ngoài định làm gì?"
Tôi nâng cao ly rượu:
"Lại đi buôn lậu".
"Buôn một mình?"
Bằng vừa hỏi vừa ha hả cười lớn. Suốt bữa ăn Bằng nhìn tôi bằng một cái nhìn ngộ nghĩnh. Như tôi vừa hiện hình trong một hình dáng khác, con người ấy, với Bằng là một khám phá mới lạ, và Bằng rất khoái thích trước sự thay đổi này.
Tôi nói:
"Một mình hay mấy mình cũng được".
Vung tay, tôi nói lớn làm sóng sánh ly rượu trên tay:
"Bất chấp. Bất chấp hết".
Bằng vỗ tay đôm đốp:
"Hay lắm".
Tôi gõ mạnh tay xuống mặt sàn:
"Thủ lãnh không phải là Bằng nữa. Từ nay trở đi, thủ lãnh là tôi".
Bằng trố mắt, chỉ tay vào ngực y:
"Anh làm đảo chính. Anh cướp chỗ tôi?"
Tôi làm bộ trừng mắt:
"Không đồng ý sao?"
Bằng vỗ vai tôi, tiếng cười của Bằng lại vang động khắp phòng giam, ngang tàng và chơi bời hết chỗ nói:
"Tại sao không đồng ý? Đồng ý hoàn toàn là đằng khác. Ở đời muôn sự của chung hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi. Từ hôm nay anh là số một, anh là thủ lãnh. Anh là người anh hùng. Anh là trùm buôn lậu. Bàn giao cho anh Viễn ngay từ phút này".
Bằng rót đầy hai ly rượu, cầm lấy một ly, trịnh trọng đưa cho tôi. Tôi đón lấy, Bằng hất hàm:
"Mời đảng trưởng uống cạn ly rượu".
Tôi nâng ly uống cạn. Cuộc đời, cuối cùng là một thảm kịch. Cũng lại không phải như thế. Cuộc đời cuối cùng là một trò đùa. Một trò đùa đáng cười lên cho thật vang động, cũng đáng cười ra nước mắt. Tôi khóc lúc nào không biết. Trong cơn say, nước mắt tôi ứa ra, không giữ được. Tôi cũng chẳng muốn giữ nữa. Tôi để mặc cho tôi khóc, khóc lặng lẽ, khóc buồn rầu cùng với cơn say. Mọi người cùng im bặt trước nỗi xúc động buồn rầu đột ngột của tôi. Chừng như ai cũng muốn kính trọng sự buồn rầu đó.
Bằng hất hàm cho mấy người tù:
"Thôi, thằng nào về phòng thằng ấy. Giải tán".
Tôi gượng cười:
"Tại sao lại giải tán?"
"Anh đang buồn à".
"Buồn vui là chuyện thường. Đừng giải tán. Tôi còn muốn kéo dài. Tôi không muốn giải tán".
Tôi lau những giọt nước mắt, cố hoà nhập trở lại với bầu không khí vui nhộn, hào hứng của tiệc rượu. Khóc một chút, cũng có cái hay. Những giọt nước mắt của tôi không phải là những giọt nước mắt yếu đuối. Khóc xong tự nhiên cảm thấy dễ chịu hơn. Tôi lại uống nữa. Đến gần nửa đêm tiệc rượu mới tàn. Tôi tiễn chân mọi người. Chỉ còn Bằng ở lại.
Tôi hỏi Bằng:
"Anh muốn nhắn gì ra ngoài?"
Bằng lắc đầu:
"Không. Tôi chẳng có bà con thân thích gì hết. Anh xem đó, thời gian một năm trời bị giam cầm, có ma dại nào vào thăm tôi đâu. Tôi lại thích như thế, chẳng muốn ai thăm hỏi làm gì. Đỡ phiền cho mình và cũng đỡ phiền cho người. Anh có nhận thấy như thế là đúng không?"
"Đúng. Nhưng thỉnh thoảng tôi vào thăm anh được chứ?"
Bằng nghiêm trang:
"Tôi coi đó là một vinh dự lớn".
Tôi ngạc nhiên:
"Một vinh dự? Anh với tôi là bạn mà. Bạn hữu sao còn nói đến vinh dự?"
Bang lắc đầu:
"Không bao giờ tôi là bạn của anh".
Tôi càng ngạc nhiên hơn:
"Sao lạ vậy?"
Bằng bật cười, vẻ nghiêm trang không còn nữa:
"Không bao giờ tôi quên được tôi chỉ là một thằng lưu manh, một gã du đãng. Anh thì không bao giờ như vậy. Tôi và anh là hai loại người, hai giai cấp khác nhau".
Tôi xua tay:
"Chúng mình cùng một tổ chức".
"Khác, vẫn khác. Khi tôi cùng làm công việc đó với anh, tôi thành công, tôi đi lên, cuộc đời tôi coi như một thành tựu hoàn toàn theo ý muốn. Anh đến với tôi từ một phương hướng khác. Chẳng qua anh đang thất bại, đang chán đời, anh đang xuống dốc, anh mới gặp tôi. Như thế là anh đi xuống, tôi đi lên, chúng mình gặp nhau ở đoạn giữa".
Tôi nắm lấy tay Bằng:
"Chả sao".
"Tôi muốn xác nhận với anh rõ ràng điều này. Ít nhất cũng một lần. Như thế tốt hơn. Để không thể có ngộ nhận".
"Anh muốn thế cũng được. Nhưng tôi thì chỉ muốn coi anh là bạn thân nhất".
Bằng chớp mắt, có vẻ cảm động:
"Chúng mình sẽ gặp lại nhau sau".
Buổi sáng hôm sau. Cổng khám mở rộng thả một người tù ra với đời sống bên ngoài. Không bao giờ tôi quên được cái cảm giác lạ lùng của buổi sáng hôm ấy, khi cổng trại giam từ từ khép lại ở sau lưng. Tôi đứng lặng, bàng hoàng, bỡ ngỡ với sự tự do vừa được trao trả lại cho mình sau đúng một năm tù đày. Tôi như từ một thế giới quen thuộc rơi hẫng vào một thế giới hoàn toàn xa lạ. Phải, cái thế giới bên ngoài, sau một năm cách biệt đã chỉ còn là một vùng xa lạ với tôi. Một năm thế là lâu hay chóng? Những chuyện gì đã xảy ra, những đổi thay, biến chuyển nào đã xảy đến cho mọi người? Tôi ngỡ ngàng không có một ý niệm nào về thời gian cũng như về nơi chốn. Tôi lại có tự do. Như một kho tàng châu ngọc quý báu vô ngần bị cướp mất bây giờ lại được trao trả tận tay. Cái điều kỳ quái nhất là tôi chẳng biết sử dụng sự tự do ấy như thế nào, cho những công việc gì.
Trời hôm ấy thật đẹp. Nắng rực rỡ chung quanh. Buổi sáng có một vẻ gì thư thái bình yên, khác biệt với tâm hồn tôi xao xuyến. Tôi bước lững thững, hết nhìn chung quanh lại nhìn trở lại khám đường vừa dời bỏ. Bằng còn ở trong đó. Tôi nghĩ nếu sau này, Bằng được tha, tôi lại tìm Bằng, giao dịch với Bằng thân thiết như cũ.
Tôi đang lủi thủi bước đi trên hè đường thì một chiếc taxi tốp lại trước mặt. Cửa xe mở toang. Một người đàn bà đã nhìn thấy tôi, reo lên mấy tiếng reo mừng rỡ. Tôi nhận ra Hường. Hường chạy tới. Chẳng ngại ngùng chung quanh có hàng trăm cặp mắt nhìn ngó Hường ôm chầm lấy tôi. Biểu tỏ của Hường thật tức cười nhưng cũng thật cảm động.
Tôi phải nói thầm vào tai Hường là nhiều cặp mắt đang nhìn chúng tôi bằng những cái nhìn quái lạ Hường mới chịu buông tôi ra.
Hường nói:
"Xin lỗi anh".
Tôi hỏi:
"Có gì đâu mà em phải xin lỗi".
"Sao không? Đáng lý em phải vào đón anh từ lâu. Gặp chủ nhà, thành ra nói chuyện với y lâu quá. Vào muộn, anh có đợi em không?"
Tôi gật:
"Anh nghĩ thế nào em cũng tới. Chủ nhà nào vậy?"
Hường cười:
"Đang điều đình với họ, thuê một cái nhà nhỏ cho anh".
Tôi tròn mắt:
"Thuê nhà?"
Hường thản nhiên:
"Anh không có nhà mà!"
"Anh đang tính mướn một phòng khách sạn".
Hường xua tay:
"Ở khách sạn chẳng ra làm sao hết".
Tôi nhìn Hường đăm đăm. Người đàn bà nào cũng có một cái gì thật lạ lùng. Ở Hường, là một quan niệm rất đơn giản về đời sống. Lên voi xuống chó, ba chìm bảy nổi, bề ngoài là một người đàn bà lão luyện, từng trải mùi đời, nhưng thực ra, Hường đơn giản thật thà, hơn ai hết. Hay là với riêng tôi, Hường đã sống bằng sự chân thật, chỉ với mọi người nàng thủ đoạn và giả dối? Thú thật, tôi không trả lời được câu hỏi này. Tôi rất kém cỏi và lầm lẫn hoài hoài trong những nhận xét của mình về đàn bà.
Tôi dịu dàng:
"Tại sao em làm thế?"
"Anh không bằng lòng?"
Tôi lắc đầu:
"Bằng lòng hay không là chuyện khác. Việc gì liên quan đến anh, em cũng phải hỏi ý kiến anh trước đã".
Hường ngẩn người, cười toe:
"Ử nhỉ? Thì bây giờ em hỏi ý kiến anh rồi đó".
"Để xét sau. Bây giờ cho anh ăn sáng cái đã".
Chúng tôi lên taxi. Sau một năm giam cầm, tôi trở về đời sống tự do, cảm tưởng thứ nhất của tôi trong sự nhìn ngắm thành phố ở chung quanh là thành phố này vẫn vậy. Nếu có một vài điểm khác biệt là nó đông đúc ồn ào hơn, nhưng lại buồn hơn, mỏi mệt hơn chính vì sự ồn ào đông đúc ấy. Xe chạy vào khu trung tâm. Hường ngồi bên cạnh tôi, một tay nắm chặt lấy tay tôi, nhìn tôi không rời. Hường khen tôi béo, trắng ra khiến tôi vừa buồn cười vừa hổ thẹn. Anh nào vào tù cũng vậy hết. Béo ra. Trắng ra. Ngờ đâu khám đường lại là một nơi chốn nuôi dưỡng chu đáo. Đó là cái khía cạnh tức cười nhất và cũng ngộ nghĩnh nhất của tù đày.
Trên xe Hường hỏi tôi:
"Ở trong ấy anh làm gì?"
Tôi nhún vai:
"Ăn ngủ, uống rượu tối ngày".
"Còn Bằng?"
"Cũng thế. Chiều nào hai thằng cũng đánh ngã một chai rượu lớn".
"Anh được ra, Bằng chưa được, anh ấy có buồn không?"
"Không".
Tôi kể cho Hường nghe về bữa tiệc chia tay chiều hôm trước. Nhiều đoạn làm Hường cười lớn. Nhất là cái đoạn tôi đòi thế chân Bằng, làm lãnh tụ đảng buôn lậu.
Hường nói:
"Anh đùa hay thật?"
"Cũng là đùa nếu chẳng làm được việc đó. Cũng là thật nếu hoàn cảnh cho phép".
Hường suy nghĩ rồi nói:
"Em không bằng lòng, dù hoàn cảnh cho phép anh".
Tôi hỏi tại sao, Hường giải thích:
"Nguy hiểm lắm. Bây giờ còn nguy hiểm gấp mười lần. Anh bị bắt một lần là đủ rồi không nên để bị bắt đến lần thứ hai".
Chiếc taxi đi sâu và khu trung tâm thành phố, cảnh tượng càng ồn ào tấp nập hơn. Tôi ngắm nhìn tất cả bằng một cặp mắt chán chường mỏi mệt. Niềm vui gặp lại Hường chỉ như một giọt nắng nhỏ lọt qua một vùng trời mây mù nặng trĩu. Giọt nắng vừa dấy lên đã muốn tắt. 
Tôi không muốn tỏ lộ nỗi buồn của mình, sợ Hường buồn hay bị chạm tự ái. Nhưng tình cảm của tôi như thế nào, Hường đều như nhìn thấy, như con người tôi với Hường là một khối thuỷ tinh trong suốt không che giấu được điều gì.
"Anh lại buồn?"
Tôi mệt mỏi:
"Lúc nào anh cũng buồn".
"Không bao giờ có chuyện gì làm anh vui được?"
Tôi cười nhạt, nhớ lại một câu thơ. Đọc lại câu thơ đó cho Hường nghe:
"Vui đi mau, buồn ở lại lâu dài".
Hường ngẫm nghĩ rồi hỏi:
"Anh sẽ tìm gặp lại Thu Hà?"
"Không".
"Tại sao?"
"Tại anh không muốn gặp ai hết".
Hường cười:
"Kể cả em?"
"Em, anh cũng chỉ muốn gặp một lúc nào đó. Như lúc này. Cho anh đến một tiệm ăn. Sau đó, anh sẽ tìm thuê tạm một phòng khách sạn, ngủ một giấc. Anh cần ngủ một giấc thật dài".
Thấy tôi không thích nói chuyện nhiều, Hường cũng không hỏi gì thêm nữa. Hường rất được ở điểm này. Chừng nào thấy sự có mặt của nàng là thừa, không cần thiết, làm tôi khó chịu, nàng lặng lẽ rút lui ngay. Hường là một trong những người đàn bà duy nhất không thích làm phiền. Khi thấy mình là thừa, không bao giờ Hường tự chấp nhận cho mình là sự thừa thãi ấy. Chúng tôi đến một tiệm ăn sáng, vắng vẻ và có máy lạnh, Hường gọi đồ ăn, lặng lẽ nhìn tôi ăn uống. Tôi cắm đầu ăn thật nhanh. Xong, chúng tôi đến một khách sạn. Trong người tôi, không có một đồng xu nhỏ. Hường trả cho tôi một tháng tiền phòng, đưa tôi lên tận phòng.
Nàng nói:
"Bây giờ em về cho anh ngủ nhé".
"Ừ, để cho anh ngủ".
"Bao giờ em lại?"
"Lúc nào cũng được. Chiều, trưa, nếu em muốn".
Thấy tôi nói thế, Hường vui hẳn lên. Nàng hỏi:
"Anh cần tiền không?"
Tôi gật. Hường đưa tiền cho tôi. Nàng nói:
"Anh ở tạm đây thôi. Rồi về ở với em".
Hường phăng phăng nói đến chuyện cùng sống như vợ nói với chồng. Nói một cách thật tự nhiên, thật ngon lành như vấn đề đó mặc nhiên phải đến, dĩ nhiên phải xảy ra. Tôi thì đã có quá nhiều kinh nghiệm đau đớn về cái mà người đời gọi là hôn nhân và gia đình. Tôi không đem lại may mắn và hạnh phúc cho một người đàn bà nào. Ngược lại, cũng vậy. Đàn bà không đem lại may mắn cho đời tôi. Marlène với tôi, sự khởi đầu tốt đẹp, hứa hẹn biết chừng nào. Đó là một cuộc hôn nhân có bởi tình yêu. Chúng tôi yêu nhau, tìm hiểu nhau suốt một thời gian dài, tới lúc đã tâm đầu ý hợp lắm rồi, mới trao vào tay nhau nhẫn cưới. Ấy thế mà cái trái hạnh phúc tưởng là hồng hào chín đỏ ấy đã rụng xuống. Và hôn nhân là một lỗi lầm tai hại. Đến Thu Hùa nữa, cái gì đã xẩy ra, lại tái diễn. Sự thảm thê còn phi lý hơn. Thu Hà. Thu Hà của mối tình đầu, Thu Hà của lần yêu thứ nhất. Thu Hà của một thứ hương thơm tâm hồn tưởng không bao giờ phai lạt, của một trùng phùng làm chảy nước mắt. Của một tái ngộ nghĩa là đời đời kiếp kiếp. Vậy mà sự tan vỡ đã mau chóng, hoàn toàn, như chuyện của tôi và Thu Hà chỉ là một ảo tưởng, một giấc mộng.
Hường và tôi làm sao tìm được một khởi đầu tốt đẹp như tôi đã có với Marlène và Thu Hà? Tôi có nên đi vào, cái ngõ cụt một lần nữa? Câu trả lời thật rõ ràng, minh bạch. Câu trả lời là không.
Tôi nói:
"Em đừng nên ở gần một người như anh".
Hường cười:
"Anh làm sao mà không ai đến gần được? Anh có phải là một thằng hủi đâu?"
"Còn hơn một thằng hủi".
Hường ôm lấy tôi:
"Em thích sống với hủi. Không thích sống với bọn người lành mạnh".
Tôi nghiêm mặt:
"Đừng đùa. Đây không phải là trò đùa".
Hường không cười nữa.
"Anh để cho em chứng minh một điều".
"Điều gì?"
"Em muốn làm được cái mà chưa người đàn bà nào làm được cho anh. Ở chỗ Marlène của anh và Thu Hà của anh ngày trước đã thất bại em muốn thành công".
Tôi lắc đầu:
"Em cũng sẽ thất bại".
"Cũng chẳng sao. Anh cứ để cho em thử. Thất bại, em thôi ngay".
"Thất bại nào cũng phải trả một giá thật đắt".
"Em có mất gì đâu mà anh sợ? Hãy cứ coi như một canh bạc một trò đùa. Chừng nào anh muốn trò đùa ấy chấm dứt, nó sẽ được chấm dứt, đúng như ý anh muốn".

Hường về rồi, cánh cửa phòng vừa đóng lại, tôi đã rơi chìm thật sâu vào giấc ngủ. Tôi ngủ, ngủ vùi dập, ngủ mê man không biết trời đất là gì. Ngủ đến trưa, chỉ hơi thức dậy một chút, rồi lại ngủ tiếp đến tận chiều. Tôi gọi bồi đưa lên một ly cà phê đen, bưng ly cà phê ra ban công nhìn xuống đường. Lúc ra khỏi giường, tôi đã vào buồng tắm, dội nước lạnh ào ào. Nước lạnh, rồi ly cà phê nóng bỏng, đặc quánh, làm tôi tỉnh táo lại được phần nào. Đầu óc cũng bớt u uất, choáng váng. Vừa hút thuốc lá, vừa ngắm cảnh tượng xuôi chảy dưới lòng đường, tôi nghĩ đến những lời nói của Hường. Tại sao không?
Tại sao không chung sống với Hường một thời gian. Người đàn bà nào và bao giờ cũng vậy mà thôi, thì sống với Hường, với Thu Hà hay với Nguyệt có gì là khác biệt? Tôi chợt nghĩ đến Nguyệt. Đã lâu lắm rồi tôi không gặp người đàn bà này. Hình ảnh Nguyệt sau quầy hàng của phòng trà ban đêm, căn phòng nhỏ, đứa cho nhỏ của nàng, cùng là cái dáng dấp thanh thoát nhẹ nhõm của Nguyệt chợt hiện ra trong đầu óc. Tôi nhủ thầm với tôi là tôi sẽ tìm đến thăm Nguyệt một buổi tối trong tuần lễ này.
Sáu giờ chiều Hường tới. Nàng mang theo một gói đồ thật lớn. Đủ thứ. Từ cái khăn rửa mặt, đến hộp thuốc đánh răng, đến những quần áo lót. Lại có thêm một máy truyền hình nhỏ nữa.
Tôi hỏi:
"Ở đâu ra mà nhiều thế?"
Hường cười:
"Hàng hoá mà chúng mình vẫn buôn đó. Toàn đồ Mỹ không thuế. Anh dùng đi, hết em lại đưa đến. Cái gì chứ những thứ này thì không thiếu".
Tôi bật cười theo:
"Coi chừng lại vào tù một lần nữa".
Hường gật:
"Càng hay. Lần này hai chúng mình cùng vào tù với nhau. Thôi bây giờ, anh mặc quần áo đi. Chúng mình đi ăn cơm tiệm. Rồi đi chơi mừng ngày anh được trả tự do".
Suốt một tháng trời ở khách sạn, gần như tôi không làm gì hết. Đúng là một tình trạng thất nghiệp hoàn toàn. Chỉ ăn rồi ngủ. Ăn chán lại ngủ. Đi chơi rồi lại về nhà làm tình với Hường. Đầu óc mụ mẫm, thần trí trì trệ. Tôi cũng không muốn nghĩ, không muốn tính toán chuyện này chuyện nọ. Thành ra, tiếng là vẫn sống một đời sống độc thân nhưng tôi đã trở thành vật sở hữu của Hường.
"Anh tính thế nào?"
"Anh chưa có dự định gì hết".
"Càng hay. Vậy em có sang căn nhà đã nói chuyện với anh hay không?"
"Cũng được. Tùy em".
Tôi về với Hường. Chỗ ở mới của tôi và Hường là một căn lầu có hai phòng, phía sau là nhà vệ sinh và nhà bếp cách biệt với phòng trên bằng một hành lang đẹp. Khi hai chúng tôi dời khách sạn tới đó, hai căn phòng trống trơn không có đồ đạc. Phía sau cũng vậy, bếp nước lạnh ngắt.
Người chủ cũ dọn đi, đã mang hết chổi cùn dế rách theo, không để lại một cái gì. Mấy ngày đầu tiên chúng tôi phải trải chiếu nằm dưới sàn, ngày hai buổi, phải đi ăn cơm tiệm. Nhưng chỉ hơn một tuần sau, hai phòng đã là một nơi chốn ở được, nhờ bàn tay tháo vát của Hường. Tuần lễ đó, Hường đi suốt ngày. Mỗi lần về lại tha về một lô đồ đạc và đồ dùng mới.
Căn lầu được quét vôi lại. Những tấm rèm được mắc vào những thành cửa. Lửa bếp được đốt lên khi Hường đưa từ chợ Bến Thành về một người u già.
Điều buồn cười trong suốt mấy tuần dọn dẹp chỗ ở này là Hường không chịu cho tôi mó tay vào một công việc gì. Nàng làm hết. Khi tôi tỏ ý muốn giúp nàng một tay, Hường gạt đi:
"Đó là việc của đàn bà".
"Đàn ông làm cũng được chứ?"
"Thứ đàn ông khác kia. Anh thì không. Em không muốn anh phải mó tay vào một việc gì hết".
Tôi chép miệng:
"Lâu dần rồi em biến anh thành một thứ đàn ông ăn bám đàn bà. Một thứ tầm gửi, một thứ sống nhờ".
Hường xua tay:
"Anh sẽ làm những công việc khác, xứng đáng hơn".
Tôi hỏi:
"Những công việc gì vậy?"
"Rồi anh sẽ biết".
Điều nữa là Hường không muốn cho tôi đi đâu. Nàng thích tôi ngủ thật nhiều, sáng nào cũng ngủ, nằm trên giường chán chê đến tận trưa mới dậy. Ăn cơm xong, nàng lại chỉ thích tôi nằm dài và nàng nằm bên cạnh tôi. Thành ra hai căn phòng chỉ là phụ. Cái giường là chính. Cuộc sống riêng tư, cách biệt mà Hường cố gắng tạo dựng cho tôi với nàng thu nhỏ lại như thế, đúng trong những kích thước của một cái giường. Chăn đệm, những giấc ngủ, lúc thức dậy, lúc nằm xuống, hết thảy đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống mà Hường muốn có với tôi. Ở một người đàn bà như Hường, hiện tượng này rất kỳ lạ. Nàng không thể là một người nội trợ. Vậy mà nàng đã trở thành một người đàn bà nội trợ. Nàng không thể là một người đàn bà chung tình. Vậy mà nàng chung tình hơn tất cả những người đàn bà tôi đã gặp trong đời. Dần dần, tôi mắc vào cái lưới bao vây êm ái. Thoạt đầu, phải thú thật là tôi rất khó chịu, bực bội. Ra khỏi một khám đường, tôi có cảm tưởng mình lại rơi ngã vào một nhà giam khác. Chẳng thay đổi được gì hết. Nhưng tất cả rồi đều trở thành thói quen.
Và Hường đã là cái thói quen mới của tôi.
Sống với Hường được chừng một tháng tôi đã bắt đầu khám phá thấy nhiều hiện tượng kỳ lạ đặc biệt ở người đàn bà này. Tôi đã là nguyên nhân tạo thành ở Hường một thay đổi rất lớn lao. So với Thu Hà, sự thay đổi ở Hường đi ngược chiều trở lại. Lạ lắm. Rất bất ngờ. Không thể nào nghĩ được là có nữa. Ngày chưa lấy tôi, Thu Hà sống khép kín, thu mình thật nhỏ trong cái vỏ cách ngăn hoàn toàn với đời sống bên ngoài.
Tối đến, thường là cửa nhà nàng đóng chặt. Gõ cửa, thấy nàng ra mở ngay. Nàng ở nhà một mình. Buổi sáng cũng như buổi chiều. Nàng sống với mối tình âm thầm, qua một đợi chờ kéo dài trong cô đơn lạnh buốt. Như thế không chỉ một vài tháng. Như thế suốt mấy năm, nghĩa là suốt thời kỳ tôi đi xa, tôi gặp Marlène ở Âu Châu. Đến khi lấy "được" tôi rồi, Thu Hà thay đổi ngay nếp sống. Tôi là một mục đích của nàng. Nàng chờ rình cơ hội, chiếm đoạt lại tôi bằng được. Khi đã chiếm đoạt rồi tôi không còn là một giá trị gì nữa. Thu Hà đã hướng đời sống của nàng đến những cái đích mới. Đó là những chuỗi hột xoàn, những viên kim cương. Đó là đám bạn gái mà Thu Hà sống với họ, như những tình nhân mới.
Tóm lại, từ khi có tôi Thu Hà mở rộng mọi tiếp xúc với đời.
Trường hợp của Hường trái ngược hẳn. Sống với tôi, Hường đoạn tuyệt hẳn với chung quanh, không còn biết gì đến xã hội bên ngoài. Mọi công việc buôn bán, làm ăn đều nhất loạt đình chỉ. Hường không đi đâu nữa. Đà Nẵng cũng thôi. Cam Ranh cũng bỏ. Nhiều mối hàng đưa đến tận nhà, lúc trước là Hường đi theo ngay. Có tôi, nàng từ chối, thoái thác bằng hết cớ này đến cớ nọ.
Tôi ngạc nhiên:
"Anh đã không kiếm được đồng nào, em cũng thôi luôn?"
Hường cười:
"Em tự cho phép nghỉ một thời gian".
"Lấy tiền đâu mà tiêu?"
"Còn. Còn được một thời gian nữa. Chừng nào sắp hết, sẽ tính".
Tôi hỏi:
"Em hết thích công việc em vẫn làm từ trước đến nay?"
"Hết rồi".
"Sao vậy?"
"Bây giờ em có những cái thích khác thích hơn những cái thích cũ".
Nàng chỉ tay vào tôi, cười:
"Anh đó".
Hường sống cái tâm trạng tuy không đúng hẳn, nhưng có nhiều điểm khá giống với một người gái chơi muốn hoàn lương, muốn đoạn tuyệt với phần đời quá khứ. Nàng đã được hưởng nhiều lạc thú muôn mặt của cuộc đời. Nhưng tình yêu thì chưa, và với tôi, Hường muốn tận hưởng, đến giọt mật cuối cùng, tình yêu muộn màng, tình yêu cuối cùng, mà nàng vừa khám phá thấy. Thật khôi hài. Nhưng cũng thật cảm động, sự thay đổi này. Ai có thể ngờ một người đàn bà nạ dòng, tay chơi, lăn lóc phóng đãng như Hường lại có một trái tim còn biết rung động vì tình yêu chân thực.
Điều không ai ngờ, chính Hường nói với tôi là nàng cũng không ngờ, đã xẩy đến cho nàng. Tháng đầu tiên ở với tôi, Hường gọi đó là tuần trăng mật của nàng. Cuộc sống, qua sự thay đổi này, có một cái gì thật mầu nhiệm.
Nó sẽ trôi chảy êm đềm như vậy, nếu tôi là một con người đơn giản, đầu óc không lộn xộn, tâm tính không phiền phức. Điều đáng buồn cho cả Hường và tôi là đầu óc tôi lại không đơn giàn chút nào. Thêm một vài tháng nữa sống suốt ngày trên căn lầu đóng kín, không đi đâu, không biết ngoài đường dưới ngõ có những chuyện gì xảy ra, tôi đâm ra cuồng cẳng không tìm thấy được sự bình yên cho tâm hồn mình như mấy tháng đầu nữa. Cuộc chung sống bắt đầu đè nặng. Sức đè nặng của nó mỗi ngày một gia tăng. Tôi như con chim bị nhốt trong lồng, dần dần cảm thấy cần thiết một hành động phá vỡ để bay bổng ra những khoảng đất trời cao rộng. Những khoảng đất trời cao rộng ấy là những đất trời nào? Thật tình là tôi cũng không biết. Tôi không thể có một ý niệm cụ thể đời tôi sẽ như thế nào nữa. Tôi chỉ linh cảm thấy là cuộc sống của tôi với Hường không thể bền vững, lâu dài như nàng muốn.
Tôi không vui nữa. Tôi buồn. Tôi lầm lì suốt ngày. Hường nhận thấy sự thay đổi này. Nàng hỏi:
"Anh làm sao thế?"
Tôi chối:
"Có làm sao đâu".
"Có. Anh giấu em".
Tôi đành nói:
"Nằm mãi một mình trên căn gác này, anh có cảm tưởng anh sắp muốn đau".
"Làm thế nào cho anh vui được?"
Tôi thở dài:
"Chính anh cũng không biết".
Hường đề nghị:
"Hay em gọi người đến đánh bạc cho anh vui nhé?"
Tôi lắc đầu:
"Anh không thích đánh bạc".
Hường lại đưa ra một đề nghị khác:
"Bạn hữu của anh đâu hết. Sao anh không mời họ lại đây chơi?"
Tôi chán nản:
"Anh chẳng còn thằng bạn nào. Người bạn duy nhất của anh bây giờ là Bằng. Bằng còn ở trong khám".
Hương kinh ngạc:
"Anh nhiều bạn lắm cơ mà!"
"Trước như thế. Bây giờ, không như thế nữa".
Trước kia, tôi nhiều bạn thật. Phải nói là trước kia, tôi sống giữa một cánh rừng bằng hữu bát ngát. Cây bằng hữu nhiều không đếm hết. Bằng hữu lúc nào cũng có mặt. Trước mắt, sau lưng. Nhưng từ ngày về nước, bộ mặt thực của đám bạn bè đã lộ rõ chân tướng. Đó là một thứ chân tướng giống hệt như mọi thứ chân tướng khác ở đời. Nghĩa là xấu xa không tốt đẹp gì. Như thời kỳ thất nghiệp, tôi đã đến gõ cửa mấy thằng bạn. Chúng giàu có, chúng là tỷ phú, chúng làm giám đốc những cơ xưởng, những hãng kinh doanh lớn, nhưng chúng đã không giúp đỡ gì tôi, mà còn tỏ vẻ khó chịu vì tôi đã đến làm phiền chúng. Bạn bè như thế còn gọi là bạn bè để làm gì nữa.
Một hôm, tôi mặc quần áo xuống phố. Có cảm tưởng như mình là một đạo sĩ ở ẩn trên núi cao từ bao nhiêu năm bỗng một buổi lìa núi cao đi xuống đồng bằng. Lúc tôi dời khỏi căn lầu, buổi chiều đang xuống. Chiều thành phố có một vẻ gì âm u phiền muộn. Từ lâu tôi đã thấy mến yêu sự phiền muộn này của buổi chiều vì nó thích hợp với tâm hồn tôi. Đời tôi cũng xế chiều rồi, cũng âm u phiền muộn như một chiều buồn. Hường không có nhà. Tôi dặn chị người làm nói cho Hường biết tôi đi dạo một lát rồi xuống thang. Tôi bước những bước chậm chạp trên hè đường, đầu cúi xuống, khép kín trong tâm trạng riêng tư. Tôi đi thật lâu, hết phố này tới phố khác, càng đi càng thấy đầu óc tối đen và u uất hơn.
Cuối cùng, tôi chợt nghĩ đến Nguyệt.
Tôi đã định đến thăm Nguyệt từ lâu, tôi vẫn nhớ và vẫn muốn gặp Nguyệt. Lúc buồn, có Nguyệt để nói chuyện cũng là một cái thú khó lòng tìm thấy với bất cứ một người đàn bà khác. Tôi còn nhớ mấy lần đến hộp đêm nơi Nguyệt làm, trò chuyện suốt mấy tiếng đồng hồ với nàng.
Tôi gọi taxi, trèo lên, tự nhiên thấy vui vui hơn trước.
Phòng trà nơi Nguyệt làm chưa có một người khách nào. Tôi vào một giờ còn quá sớm cho âm nhạc cho khiêu vũ. Dàn nhạc im lìm ngó xuống một sàn nhẩy trống trơn. Tôi đến ngồi ở chỗ cũ, trên cái ghế cao lênh khênh ở đầu quầy rượu.
Một người bồi rượu từ trong quầy tiến đến.
"Ông đến sớm quá!"
"Không sao. Tôi thừa thì giờ".
Người bồi rượu hỏi:
"Ông dùng gì?"
"Một ly Martell".
Ly rượu được đưa ra. Màu rượu vàng ánh. Tôi nhìn ly rượu bằng cái nhìn bỡ ngỡ. Mấy tháng nay ở với Hường, tôi đã chừa rượu tuy không hẳn là bỏ rượu hoàn toàn. Nhưng tôi uống thật ít. Và thỉnh thoảng mới uống một lần.
Con người uống rượu trong tôi từ từ sống lại. Sống lại nữa trong trí nhớ, những đêm say choáng váng, trong Chợ Lớn, với Bằng. Tất cả là một nấm mồ vĩ đại".
Tôi nhấp một ngụm rượu, nhìn quanh quất. Phòng trà vắng khách có một vẻ gì thê lương buồn bã. Sự im lặng của nó đè nặng.
Tôi hất hàm hỏi người bồi rượu:
"Cô Nguyệt đâu?"
"Ông tìm cô Nguyệt?"
"Cô ta vẫn làm đây đấy chứ?"
"Phải, nhưng cô ấy đến đây thất thường lắm, ngày đến ngày không. Chẳng chắc gì đến đâu".
"Không sao. Tôi đợi được".
Người bồi rượu lặng lẽ nhìn tôi. Chừng như y đang muốn nhớ lại xem tôi có phải là một khách quen của nhà hàng này không. Tôi để mặc cho y quan sát, nghĩ đến những thằng đàn ông lang thang, cô độc như mình, những đêm buồn tênh thân thế, chán ngán sự đời, chắc cũng đã đến tìm lãng quên trong men rượu, ở đầu quầy rượu này. Làm sao y nhớ được tôi là ai. Bao nhiêu khuôn mặt đã hiện hình trước mắt y, trong cái ánh sáng mờ mờ, tỏ tỏ của căn phòng đóng kín. Tôi chỉ là một người đàn ông trong cái số trăm nghìn không đếm hết của những thằng đàn ông buồn bã lang thang mỗi đêm tới ngồi một mình trước một quầy rượu.
Điều ngạc nhiên là y đã nhớ được.
Rót cho tôi ly rượu thứ hai, y hỏi, đột ngột:
"Phải ông là ông Viễn?"
Tôi nhún vai:
"Đúng. Chú có một trí nhớ tốt quá nhỉ? Cả năm nay tôi không tới đây. Làm sao chú nhớ được?"
"Cô Nguyệt nhắc tên ông luôn".
"Nhắc đến tôi?"
"Vâng. Hồi con cô ấy chết, cô ấy bị đau nặng. Hồi đó, cô Nguyệt có ý mong ông lắm. Những tối nào cô ấy gượng đi làm được vừa tới đây là hỏi có thấy ông đến không? Cô Nguyệt nói tên ông. Tả hình dáng ông. Thành ra, khi ông hỏi cô ta là tôi nhớ ngay".
Tôi nghĩ đến đứa nhỏ xanh xao, yếu đuối nằm trên tấm đệm mỏng trên sàn gác, đêm đầu tiên tôi đưa Nguyệt về nhà nàng. Thì ra đứa nhỏ ấy đã chết. Như con Elga của tôi đã chết. Cái chết của đứa nhỏ chắc làm cho Nguyệt đau đớn lắm. Nàng sống cô đơn lủi thủi với những đêm lạnh trở về nhà một mình thao thức tới sáng. Nàng chỉ có đứa nhỏ như liên hệ duy nhất với đời, như tình thương yêu cần thiết cho cuộc đời của nàng. Vậy mà liên hệ cuối cùng và duy nhất ấy cũng không còn nữa.
Nguyệt lại đau nặng sau đó. Chắc nàng không cười nữa. Chắc vậy. Tiếng cười tươi tắn ròn rã tôi đã được nghe thấy mấy đêm đến nói chuyện với nàng, tiếng cười ấy chắc không thể nào còn vang động, còn nguyên vẹn được như ngày xưa.
Tôi ngậm ngùi:
"Thế mà tôi không biết gì hết".
Người bồi rượu hỏi:
"Hơn một năm nay ông đi đâu?"
Tôi nhớ đến những ngày tháng nằm trong khám của mình. Nhớ đến Bằng, đến bữa rượu chia tay, chiều hôm đó, giữa những tiếng cười, giữa cơn say. Tôi đáp:
"Đi xa".
"Cô Nguyệt không biết sao?"
"Lẽ tất nhiên là không".
"Gặp ông chắc cô ta mừng lắm".
Tôi gật.
Dàn nhạc đã có người. Trên sàn nhẩy cũng vậy. Tiếng nhạc trầm buồn đưa dẫn bước chân của mấy cặp ôm nhau lướt nhẹ trên mặt sàn nhảy trơn nhẫy. Thêm mấy đám khách tới, nhưng bầu không khí chưa được hâm nóng. Tôi nhìn đồng hồ. Đã gần mười giờ. Nguyệt vẫn chưa lại.
Tôi hỏi:
"Cô Nguyệt nghỉ sao?"
Người bồi rượu gật:
"Chắc thế. Giờ này mà chưa tới tức là không tới nữa".
Tôi gọi trả tiền. Người bồi rượu hỏi:
"Ông đi sao?"
"Tôi đến nhà cô Nguyệt thăm cô ấy một chút".
"Ông đừng đến chỗ cũ".
"Sao vậy?"
"Cô Nguyệt dọn nhà đi từ lâu rồi".
Tôi hỏi địa chỉ mới của Nguyệt. Người bồi rượu nói y không biết và mọi người cũng không biết vì Nguyệt đã dọn đến một nơi thật xa, đâu như ngoài thành phố, ở một vùng ngoại ô gần Chợ Lớn.
Ngôi nhà chắc tiều tuỵ, chỗ ở chắc tối tăm. Thành ra Nguyệt không muốn cho ai thấy. Tóm lại có thể hiểu Nguyệt đã xuống dốc, xuống dốc một cách thảm hại. Tội nghiệp cho Nguyệt, nàng có một điệu dáng thật phong lưu đài các, nàng xứng đáng được sống một cuộc sống an nhàn và đầy đủ hơn.
Không biết tìm Nguyệt ở đâu tôi đành ngồi nán lại uống thêm một ly nữa. Khoảng mười một giờ, thằng chủ tiệm xuất hiện. Nó vẫn béo quay với cái đầu hói nhẵn bóng, tiếng cười như lệnh vỡ. Nó thuộc về loại người không thay đổi bao giờ. Nó nhận ra tôi và chạy đến chìa tay ra:
"Trời, tưởng ai. Ông Viễn ông vẫn mạnh?"
Tôi miễn cưỡng bắt tay nó. Nhìn nó tôi nghĩ ngay đến Marlène. Ngày trước, khi Marlène tới hộp đêm này thằng chủ băm lăm đã tán tỉnh Marlène, cợt nhả với nàng công khai trước mặt tôi. Nếu tôi còn nguyên cái tâm trạng ngày trước, tôi đã đấm vào giữa cái bản mặt khả ố của nó. Nhưng tôi không còn là tôi ngày trước. Tôi đã hết yêu Marlène, do đó cũng không thấy thằng chủ nhà hàng đáng thù ghét nữa.
Trả lời:
"Cám ơn, tôi vẫn như thường".
Thằng chủ tiệm:
"Tôi ngồi uống với ông một chút được không?"
Tôi gật:
"Cứ tự nhiên".
Thằng chủ kéo ghế ngồi cạnh. Nó mời tôi uống với nó một ly. Tôi nhận mặc dầu đã say lắm.
Nó hỏi:
"Bà đâu?"
Tôi hiểu nó định hỏi thăm Marlène. Nó chưa biết tôi và Marlène đã thôi nhau từ lâu? Tôi điềm tĩnh trả lời:
"Chúng tôi đã ly dị nhau".
Thằng chủ ngạc nhiên, một ngạc nhiên thành thật.
"Xin lỗi, tôi không biết".
Tôi nhún vai:
"Chẳng sao. Marlène hiện ở Thái Lan".
Tiệm nhảy không có được cái không khí vui tươi như mấy năm về trước. Tất cả đều già nua, phiền muộn hơn. Từ những nhạc sĩ trên dàn nhạc, đến những đám khách ngồi chung quanh sàn nhảy. Những bản nhạc cũng như len trong âm điệu những thoáng mỏi mệt chán chường. Tất cả đều thay đổi, đều chịu đựng không ít thì nhiều sức tàn phá của thời gian.
Người bồi rượu cũng vậy, cũng già yếu hơn trước. Đến thằng chủ tiệm cũng thế, tiếng cười của nó tuy vang động cũng không còn cái hồn nhiên, cái yêu đời ngày nào. Tôi đi tìm giải khuây đã lạc đến giữa một vùng chán chường cùng khắp. Vui ở đây chỉ là vui gượng. Một thời trẻ trung, đùa nghịch, quấy phá tưng bừng đã chấm dứt, không riêng cho tôi mà cho tất cả mọi người.
Tôi thở dài, uống hết ly rượu cuối cùng, đẩy ghế đứng lên. Tôi chưa muốn về nhà. Nhưng cũng chẳng biết đi đâu. Thôi thì về bên cạnh Hường, với Hường, lăn mình vào một giấc ngủ thiếp vùi tới sáng.
Thằng chủ nắm tay tôi, chèo kéo:
"Ở lại đã ông Viễn".
Tôi trừng mắt:
"Để làm gì?"
Thằng chủ chỉ tay lên mấy chai rượu trên cái giá rượu chạy dọc theo tường:
"Đánh ngã với tôi một chai nữa đã".
Tôi nhìn thằng chủ đăm đăm:
"Ông cũng muốn say?"
"Phải. Được đêm nào hay đêm ấy".
Y chỉ tay vào cái cảnh tượng khách hàng lác đác, tẻ nhạt:
"Vắng như thế này, đóng cửa đến nơi. Tôi giải nghệ, ở nhà hay làm nghề khác. Mời ông ở lại, chúng mình uống rượu và nói chuyện".
Tôi giằng tay ra:
"Khi khác".
Lúc tôi vừa đẩy cánh cửa định bước ra ngoài đường thì cũng là lúc Nguyệt tới, đang đẩy cửa bước vào.
Chúng tôi gần như đụng vào nhau. Tôi nhìn thấy Nguyệt thật rõ vậy mà tôi ngẩn người, tưởng là một người đàn bà nào khác, vì không nhận được ra nàng. Đến lúc biết người đàn bà mới đến là Nguyệt, trái tim tôi nhói lên, đau đớn. Nguyệt không còn là Nguyệt xinh đẹp, tươi tắn của mấy lần gặp trước. Nàng đã thay đổi, bằng một thay đổi hãi hùng ghê gớm. Sự thay đổi này, ở Nguyệt, phải gọi là một huỷ hoại, một tàn phá mới đúng. Tất cả những nét thanh xuân, những nét tươi cười đằm thắm đều biến mất. Phải, biến mất, không tăm tích. Nguyệt chỉ còn là một bà già. Khuôn mặt nàng quắt lại. Nước da nàng xanh xao dễ sợ. Hai tròng mắt trũng xuống, xâu hoắm. Dáng đi xiêu đổ. Với một cái áo len đã cũ phủ trên thân hình gầy guộc, nàng là sự tiều tuỵ thảm thương nhất đột ngột hiện hình trước mặt tôi. Tôi kêu lên, vừa vui mừng vừa kinh ngạc:
"Nguyệt".
Nguyệt nhíu mày:
"Ông là ai?"
Tôi nắm tay Nguyệt:
"Anh đây! Viễn đây. Không nhận ra anh sao?"
Chưa từng bao giờ tôi thấy Nguyệt lúng túng như thế. Lúng túng đến ngượng thẹn. Phản ứng đầu tiên của Nguyệt là quay trở ra. Tôi giữ nàng lại. Nguyệt đã nhận ra tôi rồi và nàng chớp mắt, cúi gầm mặt xuống. Tôi dịu dàng:
"Anh lại kiếm em".
Nguyệt hỏi, yếu ớt:
"Anh đến lâu chưa?"
Tôi gật:
"Anh buồn, bỏ nhà đi lang thang từ chiều. Không biết làm gì, nhớ đến em, anh lại đây tìm. Anh đến từ chín giờ tối".
Tôi cười:
"Uống bao nhiên ly rượu rồi mà Nguyệt vẫn chưa tới. Uống một mình không hay như những lần trước nữa, định đến nhà, nhưng người bồi rượu nói Nguyệt đã dọn đi. Đúng thế không?"
Nguyệt thở dài:
"Vâng, em không còn ở chỗ cũ. Từ năm ngoái".
Tôi hỏi:
"Bây giờ em ở đâu?"
Nguyệt ngập ngừng:
"Xa lắm".
"Anh biết được không? Anh đến được không?"
Nguyệt nhìn đi chỗ khác:
"Anh đừng đến".
Tôi ngạc nhiên:
"Sao vậy?"
"Không tiện".
Tôi cười:
"Lại thăm Nguyệt thì xét thấy chẳng có gì là không tiện. Nhưng em không muốn thì thôi. Em vẫn làm ở đây?"
"Thỉnh thoảng em mới tới".
"Thế là thế nào?"
Nguyệt nhìn về phía thằng chủ tiệm ngồi ở đầu quầy:
"Nó đang muốn cho em thôi".
Tôi cau mày tức tối:
"Thôi thì thôi, cần gì? Lại đây với anh một lát đã".
Nguyệt nói nhỏ:
"Anh chờ em một chút. Em cần gặp lão chủ có chuyện muốn nhờ y".
"Chuyện gì?"
Nguyệt cười như mếu:
"Em đến vay tiền. Em đang đau chưa có tiền mua thuốc".
Tôi ngồi xuống một cái bàn gần cửa ra vào nhìn theo Nguyệt đứng khúm núm trước mặt thằng chủ tiệm. Dáng điệu Nguyệt thật thiểu não thật quỵ luỵ.
Nguyệt nói với thằng chủ tiệm những gì tôi không rõ chỉ thấy nó xua tay, lắc đầu lia lịa.
Nguyệt nói xong, chừng không được việc, lủi thủi quay lại trước mặt tôi.
Tôi hỏi:
"Sao?"
"Y không cho vay".
Tôi kéo ghế cho Nguyệt ngồi. Hỏi nàng:
"Uống một ly rượu nhé!"
Nguyệt gật, mỏi mệt chán chường:
"Vâng".
Tôi hất hàm về phía thằng chủ:
"Nó không cho mượn tiền?"
Nguyệt lắc đầu:
"Không anh ạ!"
"Sao nó tàn nhẫn với em như thế được?"
"Em cần quá thành ra phải hỏi liều. Cũng đoán là không được. Em còn nợ tiền nó, chưa trả nợ cũ làm sao vay thêm".
Lúc đó tôi muốn tôi là tỷ phú, có tiền thật nhiều để đưa ngay cho Nguyệt tất cả những khoản tiền mà nàng muốn có. Tôi xót thương cho Nguyệt đến bàng hoàng thần trí. Tôi muốn làm cho Nguyệt một cái gì, giúp đỡ nàng, tiếp tay cho nàng, đưa nàng ra khỏi cái tình trạng túng quẫn hiện tại. Nguyệt lại là người đàn bà không bao giờ đến nỗi phải túng thiếu, điêu đứng về tiền bạc và những vấn đề vật chất.
Nhưng tôi có hơn gì Nguyệt. Đêm buồn rầu đó, tôi có một người đàn bà tên là Nguyệt cùng chung một cảnh ngộ cùng đường. Chúng tôi như nhau. Như nhau, trong sự thất bại điêu đứng, trong sự chán chường mệt mỏi.
Tôi muốn đưa tiền cho Nguyệt mà không được. Kiểm điểm khoản tiền đang có trong người khoản tiền đó chỉ vừa đủ để trả mấy ly rượu cho tôi và Nguyệt.
Tiền đó lại là tiền của Hường. Đã mấy tháng nay, tôi không có một đồng cắc nào, chẳng làm gì chẳng kiếm được một đồng xu nhỏ. Tôi thở dài:
"Em đang cần tiền mà đáng buồn là chẳng giúp đỡ em được gì hết".
Nguyệt nín thinh, nàng không nói ra nhưng nàng đang thất vọng ghê gớm, tôi hiểu như vậy. Nguyệt lảng sang chuyện khác.
"Mấy năm nay anh đi đâu gần như biệt tích vậy?"
Tôi cười:
"Vào tù".
Nguyệt tròn mắt:
"Thật không?"
Tôi gật:
"Lâu lắm mới gặp nhau, nói chuyện thật chứ nói chuyện không thật để làm gì. Anh làm ăn thất bại, vợ bỏ, con chết. Bất hạnh đến, hết lớp này đến lớp khác, cũng như Nguyệt bây giờ vậy. Cuối cùng anh đã làm những chuyện buôn bán phi pháp. Bị bắt quả tang. Bị kết án một năm tù ở. Anh vừa mãn hạn tù được mấy tháng vì thế mà suốt một năm trời, chúng mình không gặp nhau. Chuyện anh nói với em hoàn toàn là sự thật".
Nguyệt hỏi:
"Bây giờ anh ở với ai?"
"Với một người đàn bà".
Tôi hỏi lại:
"Nếu anh muốn gặp, tìm Nguyệt ở đâu?"
Nguyệt ngập ngừng và tôi nói tiếp:
"Anh thành thực muốn tìm cách giúp đỡ Nguyệt. Anh sẽ tìm tiền đưa cho Nguyệt. Cho anh biết chúng mình có thể gặp nhau như thế nào".
Nguyệt nói nàng muốn tôi đến nhà nàng. Rất muốn tuy chỗ ở tiều tuỵ của nàng ở một vùng ngoại ô Chợ Lớn không đáng cho tôi lui tới chút nào và sẽ làm cho nàng ngượng thẹn. Nhưng Nguyệt ngập ngừng một giây rồi thú thật:
"Lý do chính không phải như vậy, mà là…"
Tôi ngắt ngang lời Nguyệt:
"Mà là em đang ở với một người?"
Nguyệt gật:
"Thằng ấy ghen tuông ghê gớm. Anh đến chơi, dù chỉ là bạn, nó cũng gây chuyện. Em không muốn nó gây chuyện với anh".
Tôi hỏi:
"Nó là chồng em?"
Nguyệt cười buồn:
"Anh muốn nghĩ cho em như thế cũng được".
Tôi cau mày:
"Chồng con gì mà để cho vợ như thế này, đêm hôm còn phải đi chạy tiền chạy bạc một cách quá ư khổ sở như thế này. Nó không nuôi em sao?"
Nguyệt chép miệng:
"Sự thật ngược lại".
"Em phải nuôi nó?"
"Vâng. Nghiện hút mà anh. Chẳng làm ăn gì. Như thế đã cả năm nay rồi".
Sự ngạc nhiên của tôi gia tăng thành một kinh ngạc khó hiểu.
Nguyệt kể:
"Hồi đó em đau nặng. Phải nghỉ việc nằm nhà. Rồi con em chết. Em chán đời đến độ đã tự tử hụt đó, anh biết không, chung quanh không còn ai, chỉ có nó thỉnh thoảng chạy đi chạy lại. Đến lúc nó đề nghị chung sống, em gật đầu liền. Cũng là cái số em như vậy".
Tôi hỏi lại điều tôi muốn biết:
"Không tiện đến nhà thì gặp em ở đâu?"
Nguyệt suy nghĩ rồi cho tôi địa chỉ một người bạn gái nơi thỉnh thoảng Nguyệt vẫn lui tới. Trường hợp muốn gặp, tôi chỉ cần liên lạc với người bạn gái đó. Sau đó, Nguyệt đứng lên.
Tôi đưa Nguyệt ra hè đường gọi taxi cho nàng.
Tôi dặn:
"Chịu khó chờ anh chừng vài tuần, có tiền, thế nào anh cũng kiếm em ngay".
Trước khi lên xe, Nguyệt nắm lấy tay tôi, ngước mắt nhìn tôi. Trời lạnh. Đêm đã về khuya. Ánh đèn đường chiếu xuống khuôn mặt héo hon của Nguyệt, khuôn mặt tôi không còn tìm được những nét tươi vui xinh đẹp ngày nào, mà chỉ còn là một vùng tàn phá.
Tôi cũng vậy. Hai chúng tôi đứng lặng nhìn nhau, không biết nói với nhau thế nào nữa. Lời nói nào cũng thừa dư và vô ích.
Rồi tôi trở về nhà. Con ngõ ban ngày đầy đặc những bầy trẻ nhỏ la thét, đùa nghịch chỉ còn là một vùng yên lặng hun hút. Bóng tối làm hoa mắt từng quãng. Tôi bước những bước hững hờ như một vực thẳm lúc nào cũng có thể mở dưới chân. Hình ảnh Nguyệt, rét mướt, bé nhỏ, cô đơn trong đêm, cô đơn giữa đời, trên chiếc taxi đưa nàng trở về với cuộc đời lầm than ở một vùng ngoại ô âm thầm, ám ảnh thần trí tôi.
Lúc người ta đi lên, bao giờ cũng như thế. Khó nhọc từng bước. Hệt như từ dưới chân một ngọn núi dốc ngược leo lên tới một đỉnh cao. Lúc người ta rớt xuống bao giờ cũng như thế, rớt một lèo, như cây diều đứt dây, rớt là rớt từ đỉnh cao xuống đến đáy cùng vực thẳm. Không có sự xa đoạ nào lưng chừng. Mà tận cùng. Đã ngã là không gượng dậy được. Là tan tành. Là ngã hẳn.
Tôi làm được gì cho Nguyệt? Tôi đã hứa giúp đỡ nàng. Tôi phải giữ lời hứa. Nhưng tôi đang trắng tay. Một đồng chẳng có. Phải ăn nhờ một người đàn bà. Tôi làm được gì cho Nguyệt?
Những bước chân tôi càng rã rời càng mỏi mệt hơn. Đầu tôi rũ xuống, hai vai nhô lên. Tôi bước buồn rầu, tôi bước thất thểu cho đến khi tới chân cầu thang. Đèn trên lầu còn sáng. Tôi vịn vào tay thang, bước lên. Những bực thang rung lên, cót két.
Hường nằm trên giường. Nàng còn thức. Thấy tôi về, nàng nhỏm dậy:
"Anh đi đâu?"
Tôi trả lời cho xong:
"Lăng nhăng".
"Anh uống rượu phải không?"
Tôi gật:
"Uống. Không bằng lòng?"
Hường dịu dàng:
"Sao em không bằng lòng? Thỉnh thoảng anh đi chơi, em cũng bằng lòng như thỉnh thoảng anh uống rượu. Nhưng uống say tức là anh có chuyện buồn".
Thấy tôi nín thinh, Hường hỏi:
"Anh buồn chuyện gì?"
"Nhiều chuyện".
Tôi đến gần giường, để nguyên quần áo nằm vật xuống giường. Hường ôm lấy tôi.
"Em làm gì anh buồn không?"
Tôi lắc:
"Không, anh buồn vì anh thôi, anh không thể sống vô dụng, anh không ngồi rồi như thế này mãi được. Anh phải làm một việc gì".
Hường nói:
"Em chưa hết tiền".
Tôi bực tức bất chợt:
"Anh không thể ăn bám em thế này mãi. Anh không muốn".
Chúng tôi cùng nín thinh trong khoảng khắc, mỗi người theo đuổi một ý nghĩa riêng, một ý nghĩ đen tối như đêm ngõ hẻm đang vây bọc quanh mình. Đêm hôm đó, Hường biết cuộc sống mà nàng đề nghị với tôi, đã không còn được tôi chấp nhận nữa. Cuộc sống ấy là một giấc ngủ dài miệt mài, đằng đẵng. Buổi sáng nối liền với buổi chiều, buổi chiều hoà nhập và ban đêm.
Giấc ngủ cũng có còn cái thú thần tiên của nó như một buông thả lãng quên đời. Có điều là tôi đã thức giấc, ra khỏi giấc ngủ dài, có muốn nhắm mắt ngủ lại cũng không được nữa. Hường bỗng nói:
"Em có một người anh ngoài Quy Nhơn".
Tôi ngơ ngác:
"Chuyện gì vậy".
"Em nói chuyện Quy Nhơn vì chợt nghĩ đến một căn nhà của một người bạn quen ở ngoài đó. Một lần em hỏi, người bạn hứa nhượng lại cho bất cứ lúc nào em muốn. Nhà hơi cổ một chút. Nhưng rộng lắm, mênh mông bát ngát, chung quanh lại có vườn cây. Anh thích tĩnh, thích đọc sách, chắc là anh thích lắm".
Tôi gắt:
"Sao em lại nói đến chuyện ấy?"
"Chúng mình đưa nhau ra ngoài ấy".
"Để làm gì?"
"Cho anh thay đổi không khí. Cho chúng mình xa lánh cái thành phố này một thời gian. Nếu được, chúng mình sẽ làm ăn, lập nghiệp ở ngoài ấy không về nữa".
Tôi lay vai Hường:
"Chuyện này là đùa hay thực?"
Hường trang nghiêm:
"Không phải chuyện đùa".
"Em có ý định này từ bao giờ?"
"Từ cái phút đầu tiên em thấy anh buồn bã, phiền muộn với chỗ ở này. Ban nãy lúc anh đi chơi, em nằm nhà một mình, em nghĩ nhiều điều lắm. Dăm bảy tháng nữa, Bằng được tự do, anh và Bằng và chúng mình lại gặp nhau. Rồi lại sống như cũ, chơi bời, thức khuya, uống rượu tiêu tiền đánh bạc và đi buôn bán hàng lậu thuế. Cuối cùng là chẳng ai thay đổi hết. Em không muốn trở về đời sống cũ một chút nào. Thà chết thì thôi, em không bao giờ muốn em là con Hường ngày trước nữa. Em muốn chúng mình đi xa, xa hẳn Sài Gòn. Nếu anh bằng lòng, em chỉ cần đánh điện ra cho người quen là chúng mình sẽ ra thôi. Em sang căn nhà này. Bây giờ giá nhà cao hơn trước cũng có được một khoản tiền làm vốn. Ra tới đó, liệu sau".
Tôi ngẫm nghĩ rồi lắc đầu:
"Anh không thích đi xa".
"Tại sao?"
"Em hơi lầm khi tưởng đi xa là thay đổi được. Theo anh thì đi xa chẳng thay đổi được gì, ở đâu cũng thế mà thôi. Sự thật này đúng cho cả anh, đúng cho cả em nữa".
Hường thở dài:
"Em lo lắm".
"Lo gì?"
Nàng đáp gọn:
"Lo mất anh".
Việc ra Quy Nhơn ở, sống ở ngoài đó, đào một cái hố sâu ngăn chia lâu dài và vĩnh viễn với Sài Gòn, được Hường coi là giải pháp tốt đẹp nhất cho cuộc chung sống của nàng và tôi. Giải pháp đó, với Hường cũng là giải pháp đúng nhất. Nó ám ảnh Hường từ lâu rồi, nàng đã nghiền ngẫm với giải pháp ấy tự bao giờ, tự lúc nào, tôi cũng không biết nữa.
Hường đeo bám tuyệt vọng vào giải pháp ấy. Tôi từ chối quyết liệt khiến cho Hường buồn thảm vô cùng. Hôm đó, nàng bàn đi bàn lại với tôi, đến độ làm cho tôi phải bực mình lớn tiếng. Ngày hôm sau, cũng trước khi đi ngủ, Hường lại đem chuyện ra ở Quy Nhơn nói lại một lần nữa.
Tôi thở dài:
"Anh đã nói anh không bằng lòng".
Hường cố gắng tìm một đề nghị thoả hiệp.
"Hay là thế này".
Tôi gắt lớn:
"Chẳng thế này thế nọ gì hết".
Hường ôn tồn:
"Thì anh cũng để cho em được đưa ra một đề nghị mới. Đề nghị này không được chấp thuận thì thôi".
Tôi đành gật:
"Đề nghị thế nào?"
Đề nghị mới của Hường vẫn là Quy Nhơn. Vẫn là cái thành phố miền Trung xa xôi mà vì đã quá lâu, không đặt chân tới, tôi không có một ý niệm nào, một kỷ niệm nào. Hường thay đổi đề nghị lập nghiệp vĩnh viễn ở Quy Nhơn bằng một thời gian lưu trú tạm thời ở đó. Một vài tháng. Dăm bảy tháng. Thích thì ở hẳn. Không thích thì về.
Thấy tôi nín thinh, Hường tưởng nàng đã làm tôi xiêu lòng phần nào. Nàng thao thao tán dương tất cả những cái hay, đẹp của một cuộc sống tay đôi ở ngoài đó. Buổi sáng chúng tôi sẽ thức giấc trong sự yên tĩnh hoàn toàn. Chúng tôi có thừa thì giờ. Để làm tất cả những gì chúng tôi muốn và thích. Tôi sẽ có một hàng hiên thật rộng, thật thoáng mát, để đọc sách, nghĩ ngợi và mơ mộng. Chung quanh nhà có rất nhiều con đường nhỏ, bóng mát trên đầu, gió thổi trong lá, để tôi có thể đi dạo hàng giờ trên những con đường đó. Hường sẽ buôn bán lăng nhăng một chút. Kiếm đủ tiền cho hai đứa chúng tôi sống một đời sống đơn giản nhưng hoàn toàn thảnh thơi. Nếu muốn, tôi có thể đi dạy học thêm. Ngoài đó, theo Hường có nhiều trường mới mở.
Tôi bắt đầu ngạc nhiên:
"Sao em mê Quy Nhơn đến thế được?"
"Em chỉ biết có một chỗ ở em nghĩ là thuận tiện cho cả hai chúng mình".
Tôi giễu cợt:
"Đó là Quy Nhơn?"
Hường sốt sắng:
"Vâng, Quy Nhơn".
Tôi đành nói:
"Thôi được. Để anh nghĩ lại xem sao".
Tôi hỏi lại:
"Em lo mất anh".
Hường lăn vào gần tôi:
"Em nói thế rồi mà!"
Tôi cũng không hiểu nổi tôi có thể bỏ Hường dễ dàng như lúc tôi đến với nàng không, nhưng để nàng yên tâm, tôi trấn an:
"Không thể mất được, em cứ yên tâm".
Nhìn ngắm và quan sát Hường thêm nữa, tôi khám phá được ở Hường ở một hiện tượng có thể nói là khác thường nhất trong những hiện tượng khác thường của đàn bà. Nó đại khái như thế này. Người đàn bà nào cũng có một tuổi trẻ, một tình yêu thứ nhất, và nhiều người tuổi trẻ lại không có, và tình yêu thứ nhất ở rất nhiều trường hợp, không xảy ra.
Hường đã sống trọn nửa phần đời. Nàng đinh ninh đã đánh mất tuổi trẻ ở một quãng đường nào đó trong quá khứ. Phong trần từ sớm, nàng nghĩ rằng mối tình đầu đời, nàng đã bỏ qua. Sự thật đã chứng minh ngược lại. Hường vẫn có một tuổi trẻ, Hường vẫn sống với cái ngây ngất kỳ diệu của tình yêu thứ nhất. Điều khác biệt là cái đến với những đời người khác ở tuổi mười bảy mười tám, lại chỉ đến với Hường thật muộn, khi nàng đã gần bốn mươi. Thế là trong con người đàn bà đã quá lứa của Hường bất chợt có một người con gái dậy thì thức dậy. Thức và sống. Sống và phá phách, rời thoát khỏi cái người đàn bà quá lứa là một nhà ngục vô hình giam cầm nó.
Sự hồi sinh của tuổi trẻ, của mối tình thứ nhất này ở Hường là cuộc phục sinh rực rỡ, kỳ diệu. Đồng thời, nó cũng giết chết Hường. Tôi muốn nói rõ hơn: cuộc phục sinh bàng hoàng và muộn màng của tuổi trẻ, của tình cảm ở Hường là một ngọn lửa bùng cháy. Ngọn lửa cháy trên một miền băng giá hoang vu, làm sống lại một mùa xuân lộng lẫy. Ngọn lửa cháy trong một đêm dài sầu thảm, đuổi đi bóng tối gọi về mặt trời. Nhưng ngọn lửa cũng thiêu đốt luôn thân thế Hường. Nàng nhờ lửa mà sống lại. Cũng trong lửa, nàng bị thiêu cháy.
Niềm mơ tưởng có một mái nhà riêng, trong một thế giới riêng, cách biệt và lánh khuất với cõi đời, như tôi đã nói, trở thành một ám ảnh mà Hường không rũ thoát được. Nó ở trong Hường thường xuyên, nó ám ảnh Hường đêm ngày. Và từ một người đàn bà chơi bời, phóng đãng, Hường đã hoá thân. Nàng trở lại thời con gái. Nàng mơ mộng lãng mạn hệt như một đứa con gái mơ mộng, lãng mạn vừa tuổi lớn. Sự thoát xác thật khó khăn. Bất ngờ. Nhưng nó lại là sự thật.
Một thí dụ, ngày trước, Hường đâu có biết gì đến cái đẹp huyền ảo của một ánh trăng. Bây giờ, Hường biết. Nhớ một đêm, tôi đang ngủ thật say, bỗng giật mình thức dậy. Nhìn sang, không thấy Hường nằm cạnh. Đêm đã khuya lắm, khiến sự vắng mặt của Hường làm tôi lo lắng. Tôi cất tiếng gọi:
"Hường!"
Một tiếng trả lời ở cuối phòng bên cạnh cửa sổ.
"Em đây".
Tôi ngạc nhiên:
"Không ngủ, thức làm gì thế?"
Hường cười:
"Em không buồn ngủ".
Tôi nhỏm dậy, nhìn cái cảnh tượng khó hiểu:
"Ngồi ở cửa sổ làm gì vậy?"
"Đêm nay trăng đẹp quá. Em chưa từng nhìn thấy trăng đêm nào đẹp như trăng của đêm nay".
Tôi vừa bực mình vừa tức cười. Đang đêm thức dậy ra ngoài cửa sổ, ngắm trăng ở ngoài trời, lạ lùng và kỳ quặc thật. Ở một đứa con gái, hành động lãng mạn này đã là một khác thường. Ở Hường, thì cái sự khác thường có thể gọi là quái gở.
Tôi bò dậy, bước xuống khỏi giường, đến đứng sau lưng Hường. Hường tựa đầu vào ngực tôi, mắt vẫn nhìn ra ngoài trời bằng một cái nhìn ngây ngất. Hường nói tôi hãy nhìn để thấy rằng nàng nói đúng. Trăng đêm ấy quả có thật đẹp. Vầng trăng treo lơ lửng giữa nền trời như một cái dĩa bằng ngọc. Trời trăng vàng rực, xanh biếc, sáng láng, trong vắt, mênh mông cùng khắp.
Hường cứ ngồi lặng nhìn trăng như thế, như nàng bị ánh trăng xanh huyền hoặc đến độ ngây dại, mê đắm.
Tôi phải đóng cửa sổ lại, bắt Hường đi ngủ, nàng mới chịu trở vào giường. Còn hàng trăm thí dụ khác về cái hiện tượng trở lại với một tuổi trẻ đã mất, lột xác trong sự trở lại đó, nơi Hường, mà tôi không thấy, ở bất cứ một người đàn bà nào khác. Một chuyện khá ngộ nghĩnh khác. Hường đột nhiên mê đọc tiểu thuyết.
Nàng nói với tôi:
"Anh quen ai có tiểu thuyết mượn về cho em coi".
Tôi bật cười:
"Em thích đọc tiểu thuyết thật sao?"
"Thật".
Tôi hỏi đùa:
"Loại nào?"
Hường chẳng hiểu loại nào là loại gì khiến tôi phải giải thích vẫn bằng một giọng trêu ghẹo, đùa cợt:
"Phiêu lưu hay trinh thám hay tình cảm xã hội".
Hường trả lời ngon lành:
"Chuyện tình".
Cái lối Hường đến với tiểu thuyết có một vẻ gì vừa thật thà vừa ngớ ngẩn khiến tôi cười lớn thành tiếng. Cũng nghĩ là Hường nói thế thôi rồi quên đi. Và nói chỉ để nói.
Ngờ đâu, chờ mấy hôm không thấy tôi đi mượn sách về, một buổi trưa, Hường bỏ giấc ngủ, ra phố, trở về với một chồng sách trên tay. Nàng xếp chồng sách ở gần đầu giường, cạnh chỗ nàng nằm, ánh mắt long lanh, khuôn mặt hiện đầy vẻ xúc động. Tôi la lên:
"Lấy sách ở đâu về thế?"
Hường nhoẻn miệng cười:
"Ngay ngoài đầu phố".
Hường giải thích:
"Bên cạnh tiệm bánh ngọt ngoài đầu phố có một cái hẻm. Đầu hẻm có một cái quán cho thuê truyện, sách nhiều vô kể".
Thấy tôi nín thinh, Hường hỏi:
"Anh không thích đọc sách?"
"Ngày trước thích. Bây giờ không".
Hường ngạc nhiên:
"Tại sao vậy?"
Tôi chỉ mấy cuốn truyện Hường vừa thuê về:
"Những điều nói trong sách không bao giờ đúng với những sự việc xẩy ra ở ngoài đời. Sách là một lừa dối. Em sắp bị sách lừa dối".
Hường trả lời, thản nhiên:
"Em không cần biết sách lừa dối hay không. Em chỉ thích đọc những chuyện tình. Mấy cuốn này, người thuê sách chọn giùm cho em. Họ nói mấy cuốn này mê ly nhất".
Thế là, những lúc tôi ngủ hay xuống phố Hường nằm nhà, mê mải với những trang tiểu thuyết như lạc vào một khám phá mới lạ. Từ chối sự thật, theo con đường dẫn tới của tình yêu, Hường đi vào cái thế giới ngây ngất đó của ảo tưởng. Đọc hết cuốn này, Hường thuê tiếp cuốn khác. Chỉ một tháng sau, nàng đã đọc hết mấy chục cuốn truyện và trở thành người khách hàng quen thuộc nhất của chú Tầu lai cho thuê truyện ở ngoài đầu ngõ.
Sự thay đổi của Hường thật ra không có gì đáng buồn, đáng lo ngại hết. Nó là một thay đổi đẹp. Một sống lại. Một trẻ ra. Như Hường đã đánh lạc, đã để mất nàng từ bao nhiêu năm, nàng vừa gặp lại cái con người đích thực của nàng và sống với nó. Trước kia Hường chỉ là một con đàn bà nạ dòng với tất cả những cái hư hỏng xấu xa thường thấy ở một người đàn bà nạ dòng.
Nàng đã phóng đãng, đã truỵ lạc, như những người đàn ông truỵ lạc và phóng đãng nhất. Bây giờ, thay vì làm tình với bất cứ người đàn ông nào, thay vì uống rượu, thức đêm, đánh bạc, nàng đã biết ngắm nhìn mê mải hàng giờ, một ánh trăng, vùi đầu hàng giờ trong những trang tiểu thuyết nói đến mơ mộng nói đến tình yêu. Kể như thế thì phải mừng cho Hường mới đúng.
Riêng tôi, tôi lo cho nàng. Lo thành thực. Bởi cái lẽ giản dị là tôi không thay đổi. Cuộc khởi hành mới của Hường đã có mà ở tôi thì chẳng có một sự lên đường mới, một khởi hành mới nào. Làm sao tôi cùng lên đường với Hường được. Nàng như buổi sáng. Tôi như buổi chiều, gần nhau chẳng được. Hường trẻ ở lại phía Hường. Nàng sống với một tâm hồn và những rung động mới. Phía tôi, mỗi ngày làm tôi tàn tạ, một già nua thêm. Tôi đã mệt, đã nhọc. Đã hoài nghi, đã chán chường, Hường yêu tôi bằng tất cả sự nồng nàn của tình yêu thứ nhất. Tôi không thể đáp lại. Tôi sống với một nỗi chết càng ngày càng rộng lớn. Nói tóm lại, tôi không còn đủ điều kiện tham dự cuộc tình cuối cùng cũng là cuộc tình đầu tiên của đời Hường. Còn chung sống với nhau mà trên một ý nghĩa nào, tôi đã chạy trốn đã bỏ cuộc.
Chương 8
Thêm một mùa mưa nữa lại bắt đầu. Những đêm trăng xanh biếc của Hường không còn nữa. Không còn nữa những buổi sáng nắng lớn, những buổi chiều hoàng hôn đỏ thẫm, những đêm sao giải ngân hà sáng rực một vòm trời với một rừng sao thi đua cháy sáng. Mùa mưa thật sự tới, đuổi cái xanh trong về những vòm trời khác. Trời trên thành phố thấp xuống, xám ngắt, nặng trĩu hơi nước, và những trận mưa đầu mùa cũng bắt đầu nổi dậy.
Trên căn gác hẹp, có những đêm dài tôi nằm nghe tiếng mưa. Nghe mưa rơi trên thân thể mình buồn tênh. Nghe mưa rơi trên tháng ngày mình chán ngắt. Tình yêu của Hường không thay đổi được cái tâm trạng thảm sầu này. Tôi sống cái tâm trạng của người trong mấy câu thơ:
Sao lòng ta đêm nay buồn không thể nguôi.
Niềm u uất dâng cao, tháng ngày trôi xuôi.
Đấy là mấy câu thơ của một tâm trạng yếm thế, sầu hận chất ngất, của một cuộc sống đã hết, đã về chiều.
Nằm nghe mưa lại nhớ đến lời hứa giúp đỡ Nguyệt. Bỏ rơi Nguyệt trong khi Nguyệt đã bị cuộc đời tàn nhẫn bỏ rơi là điều không thể được. Tôi phải làm được một cái gì cho Nguyệt. Như giúp nàng một khoản tiền, đưa nàng ra khỏi sự túng thiếu cùng quẫn. Tôi nằm nghĩ hoài mà không ra. Nghĩ đêm nghĩ ngày, nghĩ hết cách này đến cách nọ.
Tôi muốn trở lại với nghề phi pháp cũ, mặc dầu tôi đã thề nguyện không bao giờ còn trở lại con đường cũ. Tôi muốn kiếm thật nhiều tiền. Kiếm tiền trước hết mang một ý nghĩa, một chứng minh. Cho Hường biết tôi không phải loại đàn ông sống bám vào đàn bà, mãi mãi, mặc dầu Hường không bao giờ đòi hỏi sự chứng minh này.
Sự chứng minh với tôi là một cần thiết. Với Hường, cũng đồng thời cho tôi nữa. Nếu không, tôi không còn là tôi. Tôi chỉ là một hình bóng vật vờ, một cái giẻ rách đeo bám thảm thê vào vòng quay đời sống. Phải làm một cái gì để chống lại cái tâm trạng tê liệt, cái hoàn cảnh bất động kéo dài.
Ý nghĩ bỏ Hường, hay ít nhất cũng xa Hường trong một thời gian nẩy sinh trong đầu óc tôi trong mấy đêm mưa ấy của một mùa mưa đã bắt đầu. Tình yêu của Hường chừng như đã đến lúc tôi không chấp nhận được nữa. Không phải là tình yêu ấy không làm cho tôi xúc động. Nếu thản nhiên, rửng rưng, tôi đã bỏ đi từ lâu, đâu có chung sống được với Hường một thời gian lâu dài như vậy.
Một đêm tôi hỏi Hường:
"Chúng mình ở với nhau được bao lâu rồi?"
Hường không cần nhớ lại nhưng trả lời ngay, tức khắc:
"Tám tháng".
Tôi buột miệng:
"Đã tám tháng?"
Hỏi Hường:
"Thế là lâu hay chóng?"
Tôi muốn tìm hiểu ý Hường thế nào, xem nàng nghĩ về sự chung sống của hai chúng tôi bằng ý nghĩ nào. Hường nghĩ rồi trả lời:
"Em tưởng như mới chỉ vài tháng".
"Tại sao em tưởng như vậy?"
Hường cười:
"Nói ra anh giễu cợt em".
"Không giễu cợt. Nói đi".

"Em đọc thấy ở trong một cuốn truyện vừa coi hôm qua là khi cái gì đẹp quá, đẹp quá sức mình tưởng tượng, cái đó gần như là một giấc mộng".
Tôi chưa hiểu ý Hường. Bèn hỏi:
"Thế là thế nào?"
"Giấc mộng đẹp nào cũng quá ngắn, phải thế không anh?"
"Phải".
"Tám tháng chung sống của chúng mình cũng vậy. Đẹp như một giấc mộng, nên cũng quá ngắn như một giấc mộng quá đẹp".
Thấy tôi nín thinh, Hường lo lắng:
"Anh lại thấy nó quá dài?"
Tôi chối:
"Anh không nghĩ thế. Anh cũng thấy nó quá ngắn, như em".
Bây giờ nhớ lại, tôi mới nhận thức được tất cả sự hèn nhát, đê tiện của mình về cái ý định chấm dứt cuộc chung sống với người đàn bà duy nhất trên trái đất này đã thật tình yêu tôi bằng một tình yêu không bao giờ tìm thấy được ở ngoài đời, nếu không muốn nói chỉ tìm thấy trong tiểu thuyết. Bây giờ, nghĩ lại, tất cả đều đã muộn. Chứ mùa mưa ấy, cái ý định đoạn tuyệt thành hình trong những đêm thao thức nằm nghe mưa rơi, theo tôi là giải quyết tốt đẹp cho cả tôi, cho cả Hường. Chưa có một người đàn bà nào chết vì tôi. Và Hường sẽ quên. Tôi tin như vậy, qua những kinh nghiệm chua chát đã thu lượm được sau nửa cuộc đời tình ái. Marlène yêu tôi như thế. Rồi Marlène tàn nhẫn rũ áo. Có với nhau một đứa con, cũng bằng không. Liên hệ gắn bó đằm thắm đến thế là cùng, rồi cũng mỗi đứa một đường, không tiếc thương, không khóc lóc. Đến Thu Hà cũng vậy, Thu Hà của mối tình đầu tiên, Thu Hà của lần yêu thứ nhất, tình yêu cháy bùng thành lửa, bốc lên thành dông, thổi đi thành bão, vậy mà lúc bỏ đi, Thu Hà tàn nhẫn lạnh lùng, như tình yêu chỉ còn là một đồ dùng bỏ đi vì không cần thiết nữa.
Hường cũng sẽ như vậy. Nàng nói nàng yêu tôi nhưng rồi nàng sẽ lãng quên. Nàng nói chúng tôi phải chung sống với nhau suốt một đời, nhưng nếu chia tay, chúng tôi vẫn lại sống mỗi người một đời riêng không ai làm sao hết.
Thành ra, khi tôi hỏi nếu chúng mình xa nhau, thôi nhau thì sao, và khi Hường trả lời là nàng sẽ héo hon và chết, tôi không tin, cho là Hường nói quá, nói như một nhân vật lãng mạn của những cuốn tiểu thuyết mà Hường đã đọc, đọc mê man đến độ đồng hoá những nhân vật ấy thành nàng.
Tôi nói:
"Người ta sẽ lãng quên những điều tưởng không thể nào lãng quên được".
Hường gật:
"Em biết".
Tôi hỏi, vẫn để tìm hiểu phản ứng của Hường, nếu như sự chia ly giữa chúng tôi trở thành sự thật:
"Chuyện tình dang dở mới là chuyện tình đẹp nhất, em đồng ý thế không?"
Hường lại gật:
"Em đồng ý với anh".
"Anh đi xa ít lâu, em chịu không?"
Hường hỏi:
"Anh nói đi xa là đi đâu?"
Tôi nhún vai:
"Đi làm ăn một nơi xa chẳng hạn. Ra ngoại quốc một thời gian chẳng hạn".
Hường cười:
"Anh làm gì cũng được. Kể cả chuyện anh đi xa".
Nghe Hường nói như thế, tôi yên tâm. Tôi nghĩ là Hường chấp nhận dễ dàng sự chấm dứt, sự xa cách. Lẽ tất nhiên nàng sẽ buồn. Lẽ tất nhiên nàng sẽ khóc. Như mọi người đàn bà đều buồn, đều khóc một chút, trước bất cứ một tan vỡ tình ái nào.
Muốn phá vỡ đời sống ăn không ngồi rồi, muốn chấm dứt những ngày tháng giam cầm trên căn gác nhỏ, việc đầu tiên mà tôi phải thực hiện cho tôi là kiếm được một việc làm. Tôi xuống phố, đi tìm việc lần thứ nhì. Lần thứ nhất, nhớ là thời kỳ tôi mới ở Pháp về. Xuống tới phi trường Tân Sơn Nhất, về tới khách sạn Caravelle, chỉ mấy tuần sau, đi tìm việc làm, tôi mới thấy là đời sống Sài Gòn không dễ dàng như tôi tưởng.
Trong sự khó khăn này, tôi đã khám phá được nhiều sự thật chua chát và cay đắng hết chỗ nói. Những thằng bạn được tiếng là thân thiết nhất đều bỏ rơi mặt nạ, hiện nguyên hình xấu xa đê tiện khi tôi đến gõ cửa xin việc chúng. Tình bằng hữu với chúng chỉ là một danh từ vô nghĩa. Tôi giàu có, chắc chúng đối xử với tôi một cách khác. Nghĩ cho cùng, đó cũng chỉ là một hiện tượng đáng chán nản trong muôn vàn cảnh tượng đáng chán nản mà người ta phải gặp trên tất cả những chặng đường làm nên con đường dài thẳm của đời mình. Biết được sự thật đó, lần đi kiếm việc thứ hai của tôi là một xuống đường đầy miễn cưỡng. Mùa mưa làm cho sự miễn cưỡng ấy trở thành một cực nhọc. Mặc một chiếc áo tơi mưa, đi co ro dưới bầu trời xám ngắt, nước mưa thấm vào những chân tóc, tôi bước những bước thất thiểu, với mặc cảm thất bại đè nặng. Nhiều buổi, không biết đi đâu, tôi tạt vào một tiệm cà phê bình dân, ngồi lặng hàng giờ trước ly cà phê nguội ngắt. Đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, tôi lặng người đi trong nhìn ngắm mưa rơi. Mưa đổ xuống, mưa bay nghiêng, mưa lất phất, đường mưa nào cũng là một đường bay buồn bã. Mưa làm thối trí, làm chán nản, làm cho đầu óc tối đen, tâm hồn tuyệt vọng. Tôi ngồi chán, nhìn mưa chán, lại bò về nhà nằm vật xuống giường.
Những lần tôi đi và trở về như thế, Hường đến gần bên giường săn đón. Nàng hỏi:
"Anh đi những đâu?"
Tôi vắt tay lên trán, trả lời cho xong:
"Nhiều nơi".
"Có được việc gì không?"
Tôi lại trả lời cho xong:
"Nhiều người hứa hẹn nhiều chỗ làm tốt lắm. Nhưng chưa có gì là chắc chắn hết".
Hường lo lắng:
"Anh định thế nào bây giờ?"
Tôi chép miệng:
"Chờ đợi".
Hường dịu dàng:
"Anh vẫn không muốn ra Quy Nhơn với em?"
Tôi gắt lớn:
"Đừng bao giờ nói chuyện Quy Nhơn với anh nữa. Để cho anh sắp đặt lấy công việc của anh".
Hường sợ, không dám hỏi han gì thêm nữa. Những câu chuyện giữa tôi và Hường đều chấm dứt như thế. Bằng sự cáu kỉnh của tôi và bằng sự nín thinh sợ hãi của Hường. Nhớ là trong mùa mưa đó, Hường đã chịu đựng nhịn nhục tôi hơn bao giờ. Sự nhẫn nại ở nàng vô bờ bến. Nàng linh cảm thấy tôi sắp thoát khỏi vòng tay ôm giữ của nàng. Nàng loay hoay tìm đủ cách chống cự lại một tan vỡ đã thấp thoáng, nhưng sự cố gắng của nàng chẳng những đã chẳng giải quyết được gì hết, lại chỉ làm cho tôi bực tức thêm.
Thực ra, tôi không bực tức với Hường, mà với chính mình. Tôi biết trước tôi sắp làm một chuyện không tốt đẹp, nếu không muốn nói là xấu xa và tàn nhẫn.
Vấn đề cuối cùng còn lại là xa Hường cách nào cho Hường chấp nhận được sự xa cách ấy là một hợp lý. Sau mấy đêm liền suy nghĩ, tôi tìm được một lối thoát. Cách thức rất tầm thường và cổ điển. Tôi tỏ cho Hường biết là tôi ngoại tình. Ngoại tình với Nguyệt. Một hôm, tôi ném ra một hòn đá dò đường mới:
"Hường, anh hỏi điều này".
Hường buông cuốn tiểu thuyết đang đọc xuống:
"Gì vậy anh?"
Tôi nửa đùa, nửa thật:
"Nếu bây giờ anh cho em biết là ngoài em ra anh còn một người đàn bà khác, phản ứng của em sẽ như thế nào?"
Hường cười:
"Nếu, không phải là thật. Đã không phải là sự thật, anh còn bắt em trả lời làm gì?"
"Đôi khi anh còn nhớ đến Marlène, đến Thu Hà, em biết như thế không? Họ khốn nạn, tàn tệ với anh, nhưng họ cũng đã sống với anh một thời kỳ, là vợ chồng. Thành ra, muốn quên cũng không bao giờ quên hẳn".
Nụ cười của Hường không được thành thực, tự nhiên như trước đó nữa. Nàng lật một trang sách mới, làm bộ chăm chú đọc. Nhưng tôi biết chỉ hai cái tên Marlène và Thu Hà được chính tôi nhắc lại đã làm cho nàng buồn rầu đau đớn. Người đàn bà nào cũng ghen. Không ít thì nhiều, không cách này thì cách nọ. Tôi biết như vậy. Trước sau Hường vẫn chỉ là một người đàn bà. Nàng đã muốn có tôi, hoàn toàn và riêng biệt cho nàng, nàng đã hy vọng những phần đời về trước của tôi là những quãng thời gian đã ngủ yên vĩnh viễn trong một nấm mồ quá khứ. Tôi nghiệm thấy là khi nào tôi nhắc đến những chuyện cũ của tôi hay của nàng cũng vậy, Hường đều gạt đi, hay lảng nhanh sang chuyện khác. Bây giờ tôi đang đưa quá khứ trở về. Và sự thản nhiên của Hường chỉ còn là một thản nhiên bề mặt.
Tôi lại nói, vẫn những điều Hường không muốn đả động tới chút nào.
"Chắc em cũng thế chứ?"
Hường ngẩng đầu lên, nét mặt đã tái đi và tròng mắt lung linh một ánh lửa mê hoảng.
"Không. Em quên là quên hẳn".
Tôi chép miệng:
"Chúng mình khác nhau rồi đấy, anh không được như em. Thiếu dứt khoát và thiếu cứng rắn".
Ngừng một giây rồi tôi mới thong thả từng tiếng một:
"Anh vừa gặp lại Thu Hà".
Tôi nói bằng một giọng thật nhẹ nhàng mà câu nói đã tác động vào tâm hồn Hường như một tiếng sét bàng hoàng kinh dị. Nàng vẫn ngồi im, tay vẫn cầm cuốn sách đang đọc dở. Nhưng tôi biết, tôi biết nàng đã lặng người đi.
Sự thật tôi không hề gặp Thu Hà. Có gặp, giữa tôi và Thu Hà cũng chỉ còn là một vùng nguội lạnh mênh mông. Tôi bịa đặt chỉ cốt xem phản ứng của Hường như thế nào.
Nàng đau, đau ghê gớm. Lời nói của tôi như một mũi nhọn đâm trúng tử huyệt nàng, làm cho đầu óc tan tành, trái tim chảy máu. Hường gục đầu xuống. Sự yếu đuối tuy vậy chỉ lộ ra trong khoảng khắc. Bằng một cố gắng phi thường, Hường lại gượng cười được ngay. Nụ cười của nàng thật thảm hại thiểu não. Nhưng nàng cười, nàng đã cười được.
"Thế à! Thu Hà bây giờ ra sao?"
Tôi đáp:
"Khá lắm".
"Còn nhớ đến anh không?"
Tôi đáp, lững lờ:
"Anh không rõ, chuyện đó cũng chẳng quan trọng. Thu Hà vẫn ở vậy, nói vừa đi chơi ngoại quốc về".
"Có cho anh địa chỉ?"
Tôi hỏi lại Hường:
"Em hỏi để làm gì?"
"Để biết. Chắc chị ấy phải cho anh biết địa chỉ, trong trường hợp anh muốn đến thăm chị ấy".
Tôi nhún vai:
"Không có lý do nào đưa tới một gặp lại như vậy".
Rồi tôi cắt ngang câu chuyện, đưa tới một câu chuyện khác. Tôi lại nói đến một người đàn bà khác. Một lần tôi đem cả Nguyệt ra làm đầu đề. Nói ngày trước, một thời kỳ thất cơ lỡ vận, tôi đã được một người đàn bà giúp đỡ. Người đó chính là Nguyệt. Tất cả những người đàn bà của những liên hệ quá khứ đó, đều được tôi phác hoạ chân dung bằng một phác hoạ thật diễm lệ. Người nào cũng trẻ trung, cũng đằm thắm hết sức. Hường nín thinh nghe, thỉnh thoảng ngắt quãng bằng một vài nhận xét cố làm ra thản nhiên, nhưng sự theo dõi bình thản thực ra đã là một cực hình cho Hường. Một vài tuần lễ kéo dài trong thứ trò đùa quái ác ấy, và cuối cùng là tôi đã gieo được sự ngờ vực vào Hường. Tôi làm như những người đàn bà ngày trước đã gặp lại tôi, tôi đã nối lại với họ, tôi không còn chung tình với Hường nữa. Thật là đê tiện, nhẫn tâm, và cũng thật là hèn. Nếu tình yêu là một xây dựng chỉ có thể có được ở cả hai phía, phía tôi, một phá hoại đã bắt đầu. Tôi tạo tôi, trước cái nhìn của Hường thành một người tình đã bắt đầu có những mầm mống phản trắc xuất hiện. Làm cho Hường chán dần, thất vọng dần, mất tin tưởng dần cho đến khi giữa hai người, chuyện ăn đời ở kiếp không thể được coi như một sự thật nữa, đó là âm mưu và mục đích của tôi. Và tôi đã thành công.
Hường không nói đến chuyện ra Quy Nhơn nữa, mọi dự định tương lai lâu dài ở Hường đều dẹp bỏ hoặc giấu kín trước thái độ của người tình mà Hường linh cảm thấy sẽ xa nàng, một ngày nào đó.
Cuộc hành hạ kéo dài. Hường cố gắng, chịu đựng bằng một sức chịu đựng phi thường. Nàng bám víu lấy tình yêu cuối cùng mà cũng là tình yêu duy nhất của đời nàng hệt như một người chết đuối nắm lấy một đầu cọc. Phần tôi, tôi đã gieo xong những mầm mống của một tan vỡ và một chia ly bắt buộc phải xảy ra. Vừa lúc đó, tôi tìm một việc làm. Đó là một chân dạy học ở một trường trung học tư thục trên Ban Mê Thuột. Một người bạn cũ làm hiệu trưởng ở trường học đó, về Sài Gòn có việc, tình cờ gặp tôi ở lề đường. Chúng tôi hỏi thăm nhau. Đưa nhau vào một quán cà phê. Thấy tôi than đang ở một tình trạng thất nghiệp kéo dài đã hàng năm, Minh hỏi:
"Thích đi xa ít lâu không?"
Tôi lại hỏi:
"Xa là tận chân trời góc biển nào".
"Lên núi".
"Đốt rẫy, phá rừng?"
Minh cười, lắc đầu:
"Không phải, mà anh làm sao nổi những công việc nặng nhọc như thế. Chừng như anh có một cái vốn ngoại ngữ khá lắm. Tôi có trường, đang thiếu một giáo sư Anh văn. Lên với tôi một thời gian".
Tôi hỏi:
"Một thời gian là bao nhiêu lâu?"
"Anh có thể thôi bất cứ lúc nào. Anh hoàn toàn tự do".
Tôi suy nghĩ. Ở một trường hợp khác, mang một tâm trạng khác, tôi đã cám ơn và từ chối không lưỡng lự một giây một phút. Hường đề nghị tôi ra Quy Nhơn, sống ung dung, sung sướng với nàng, tôi còn từ chối. Lên một vùng heo hút buồn rầu và xa lạ như Ban Mê Thuột để làm gì? Nghề dạy học không hấp dẫn tôi bao giờ hết, không thích nó là đằng khác. Tôi thiếu kiên nhẫn, không có một ý niệm nào về hướng dẫn giáo dục những người tuổi trẻ, tôi trở thành một ông giáo tỉnh nhỏ để làm gì. Thế nhưng cái việc đi xa, và đi một mình, trong một thời gian lại đang nằm trong kế hoạch đoạn tuyệt.
Tôi nghĩ rồi gật đầu:
"Có lẽ tôi đi theo anh".
Minh ngạc nhiên:
"Tôi hỏi đùa cho vui, không ngờ…"
Tôi ngắt ngang lời Minh:
"Không ngờ tôi nhận lời?"
"Phải, một người như anh…"
"Chỉ có thể sống ở thành phố lớn? Ý anh muốn nói thế? Sự thật có đúng như thế. Nhưng tôi đang muốn thay đổi không khí, đang muốn đi xa một thời gian. Đề nghị của anh vừa đúng lúc".
Minh vui mừng:
"Hay lắm".
Tôi hỏi:
"Anh còn ở đây mấy ngày?"
"Nhiều lắm một tuần".
Tôi gật đầu:
"Được rồi. Trước khi đi chúng mình sẽ gặp lại nhau một lần nữa".
Minh hỏi:
"Anh đến tôi hay tôi đến tìm anh?"
Tôi nghĩ phải để cho Minh gặp Hường. Cho chuyến đi của tôi là sự thật, không phải là một bịa đặt. Minh đến tận nhà, Hường mới tin là tôi đi theo Minh lên cao nguyên dạy học được. Tôi trả lời:
"Anh đến nhà tôi".
Minh hỏi:
"Quên chưa hỏi, anh ở một mình hay hai mình?"
Tôi nhún vai:
"Hai nhưng không hẳn là hai".
Minh hiểu ngay ý tôi, cười:
"Nghĩa là một người vợ không hôn thú, một người vợ không bao giờ cưới?"
Tôi nói, hơi ngượng, khi nghĩ đến tình yêu chân thật của Hường:
"Anh muốn hiểu như thế cũng được".
"Anh có thể đưa nàng đi theo".
"A, chuyện đó thì không, tôi lên một mình".
"Anh sợ trên ấy không có chỗ ăn chỗ ở cho hai người? Điều đó, anh khỏi lo. Nhà cửa dễ dàng, thừa thãi là đằng khác, không khó khăn như ở dưới này đâu. Tôi sẽ tìm cho ông bà một chỗ ở ấm cúng thơ mộng".
Minh cười, nói tiếp:
"Một cái tổ uyên ương. Nếu anh muốn".
Tôi xua tay:
"Chính vì không muốn giam mình trong một tổ uyên ương mà tôi đã nhận lời lên trên ấy với anh".
Sau đó, tôi dặn Minh là gặp Hường, Minh phải miêu tả ngôi trường Cao Nguyên như một nơi đèo heo hút gió, và chỗ ở cho giáo sư chỉ là những căn phòng nhỏ, không thuận tiện chút nào hết cho đàn bà. Tôi nói tránh ra là Hường còn có nhiều công chuyện chưa giải quyết xong ở Sài Gòn, nàng muốn đi cũng chưa được. Minh cười, hoài nghi:
"Anh định thực hiện một cuộc bỏ rơi?"
Tôi đỏ mặt:
"Đừng nói bậy. Đâu phải thế".
Con người tôi, bây giờ nhớ lại, buổi nói chuyện với Minh hôm đó ở tiệm cà phê, chỉ còn là hiện thân của sử đê tiện đáng phỉ nhổ nhất. Vừa để tiện lại vừa ngu xuẩn.
Đê tiện vì tôi đã đóng kịch, đã hèn nhát, muốn làm một chuyện xấu mà lại tìm đủ cách che giấu nó bằng một bề ngoài tốt đẹp. Ngu xuẩn vì vở kịch sau đó xét ra hoàn toàn vô ích. Chia tay với Minh sau khi đã cho Minh địa chỉ, tôi về nhà. Nói với Hường là không chừng mấy ngày nữa tôi sẽ đi dạy học ở xa. Điều làm tôi ngạc nhiên là Hường không tỏ vẻ buồn phiền hay phản đối gì hết. Nàng thật hơn Marlène và Thu Hà thì thua xa nàng. Hường đã biết trước. Biết rằng sớm muộn tôi cũng tìm cách bỏ đi, và nàng đã âm thầm chấp nhận sự trở mặt của một người tình đã giả dối, không còn chung thuỷ nữa.
Thấy Hường nín thinh, tôi nói:
"Trường hợp em không bằng lòng, anh sẽ từ chối không đi nữa".
Câu nói này cũng là một đóng kịch giả dối và đê tiện. Từ chối cái gì khi tôi đã quyết định? Hường lắc đầu:
"Anh muốn thế nào cứ tự ý. Em thì thế nào cũng được".
Sự hổ thẹn ngấm ngầm của tôi càng gia tăng trước cái thái độ chấp nhận xa cách không gây chuyện, không phản đối của Hường. Thật không thể ngờ một người đàn bà như Hường khi muốn nghiêm chỉnh, khi chịu thiệt thòi, lại có được một thái độ cao đẹp như vậy. Tuần lễ trước khi đi xa trở thành một cực hình cho tôi. Tôi sống với một mặc cảm tội lỗi tràn ngập. Hổ thẹn, tránh những lúc đối diện với Hường. Gần như không dám nói chuyện, không dám nhìn thẳng vào mặt Hường nữa. Buổi trưa, ban đêm, tôi kéo dài những giờ phút nằm trên giường, nhắm mắt lại, giả vờ ngủ say, hay kiếm cớ có việc phải xuống phố. Tuần lễ đó đúng là tuần lễ dài nhất. Một buổi tối, không muốn ở nhà, tôi tìm đến chỗ ở người bạn gái của Nguyệt. Người bạn Nguyệt tiếp tôi niềm nở, nói chị ta đa được nghe Nguyệt nói chuyện thật nhiều về tôi. Nói Nguyệt có đến nhà chị ta mấy lần trong tuần lễ trước và xem chừng Nguyệt có ý mong chờ tôi lắm. Tôi dặn:
"Mấy hôm nữa tôi đi xa. Nhờ chị cho Nguyệt biết tôi muốn gặp Nguyệt trước khi đi".
"Anh muốn gặp ở đâu?"
Tôi hỏi:
"Nguyệt tránh không muốn cho ai thấy. Sợ phiền luỵ cả tôi, cả Nguyệt. Giá được ở đây thì hay quá".
Người bạn gái của Nguyệt ưng thuận liền:
"Sao không được. Anh hẹn giờ nhất định đi. Tôi sẽ đến nói cho Nguyệt biết".
Tôi tính nhẩm trong bụng. Sáng mai Minh đến nhà, tôi sẽ mượn trước Minh một khoản tiền, càng được nhiều bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Chắc cũng được dăm ba chục ngàn. Được bao nhiêu, tôi cũng đưa hết cho Nguyệt, để thực hiện, bằng được, ít nhất cũng một lần, điều tôi đã hứa.
Đưa cho Nguyệt một khoản tiền, đó là điều cuối cùng tôi làm trước khi rời khỏi Sài Gòn. Tôi nói với người bạn gái Nguyệt:
"Năm giờ chiều mai".
"Được".
Người bạn gái Nguyệt tủm tỉm:
"Chiều mai tôi sẽ cho ông bà mượn cả căn nhà này. Cho hai ông bà được tự do với nhau".
Tôi cười buồn:
"Cảm ơn chị".
Lúc đưa tiễn tôi ra cửa, người bạn gái của Nguyệt còn hỏi thêm tôi.
"Anh đi xa là đi đâu vậy?"
"Tôi lên cao nguyên".
"Làm gì?"
"Tôi tính dạy học trên ấy ít lâu".
Người bạn gái Nguyệt cười:
"Anh bỏ rơi Nguyệt sao?"
Tôi xua tay:
"Giữa tôi và Nguyệt không có gì hết. Chỉ là tình bạn; xin chị đừng hiểu lầm".
"Tình bạn hay tình gì nữa thì cũng là bỏ rơi, vì Nguyệt đang cần anh".
Tôi hơi ngượng đành chỉ biết nói:
"Tôi không thể làm khác. Thôi, chào chị, chiều mai tôi trở lại".
Chiều hôm sau Minh đến nhà tôi như đã hẹn. Chúng tôi nói lại chuyện tôi theo Minh lên dạy học ở Ban Mê Thuột một lần nữa, lần này với sự chứng kiến của Hường. Thật là một màn kịch kệch cỡm mà Hường là khán giả duy nhất. Vừa nói chuyện với Minh, tôi vừa kín đáo thăm dò phản ứng của Hường, tôi đã quyết định đi xa, đi hẳn, không bao giờ trở lại nên mới phải bố trí công phu và cầu kỳ như vậy.
Tuy nhiên, tôi cũng chờ đợi ở Hường một phản đối quyết liệt vào những giây phút cuối cùng, để huỷ bỏ chuyến đi để ở lại, sống tiếp với Hường những ngày tháng khép kín và khuất lánh trên căn lầu chật hẹp.
Trái với dự đoán của tôi, Hường không có một phản ứng nào hết.
Trong một nửa tiếng đồng hồ, ngồi nghe tôi nói chuyện với Minh, Hường lặng lẽ, bình thản như bao giờ, trong một chịu đựng âm thầm không tỏ lộ.
Minh hỏi:
"Anh lên với chúng tôi ít lâu, chị không phản đối?"
Hường chớp mắt, nói thong thả từng tiếng một:
"Anh Viễn làm gì tôi cũng bằng lòng".
Minh cười, đưa mắt nhìn tôi:
"Tất cả những chuyện anh Viễn đã làm từ trước đến nay cũng được chị bằng lòng như thế này?"
Câu trả lời của Hường làm Minh ngạc nhiên:
"Từ trước đến nay vẫn như thế".
Hường yên lặng một giây rồi nói tiếp:
"Lần này cũng thế".
Minh nói:
"Chị có thể lên chơi trên đó nếu chị muốn".
Hường gật đầu. Nàng nhìn tôi bằng một cái nhìn không hiểu tại sao đã khiến tôi ngượng thẹn phải nhìn đi chỗ khác.
"Chừng nào anh Viễn muốn tôi lên, tôi sẽ lên".
Tôi nói cho xong, cho qua:
"Nhất định là Hường lên. Trừ trường hợp tôi không ở lâu trên đó".
Câu chuyện chấm dứt. Tôi đưa Minh xuống cầu thang. Ra đến đầu ngõ, tôi hỏi trước Minh một khoản tiền. Minh đưa cho tôi ba chục ngàn. Tôi giữ lại năm ngàn cho mình. Khoản tiền còn lại tôi tìm đưa cho Nguyệt. Nguyệt đến rất đúng hẹn. Khi tôi tới nhà người bạn gái của nàng, Nguyệt đã có mặt ở đó. Nguyệt vẫn xanh yếu, bệnh hoạn như lần gặp trước. Tôi cho Nguyệt biết tôi đi Ban Mê Thuột, ở trên đó một thời gian, trước khi đi, tôi muốn đưa cho Nguyệt một khoản tiền nhỏ, gọi là giúp đỡ nàng chút đỉnh trong cơn túng quẩn. Nguyệt nhận tiền của tôi. Nàng chảy nước mắt:
"Em chưa thấy ai, gặp ai tốt với em như anh".
Tôi nghĩ đến sự hèn nhát, sự giả dối mà tôi đang thực hiện với Hường. Tôi vẫn còn được coi là người tốt hay sao? Vô lý. Làm gì có sự tốt đẹp đó. Tôi lắc đầu:
"Anh chỉ là một thằng khốn nạn".
Thoạt đầu, Nguyệt tưởng tôi nói đùa. Thấy tôi nghiêm trang, buồn rầu, không cười, nàng mới hiểu tôi nói thật. Nàng nói:
"Anh đừng nói anh như thế. Khốn nạn là những người đàn ông khác. Không phải anh".
Tôi lắc đầu:
"Em chưa biết đó thôi".
Có phải tình yêu, trong cái sự thật cuối cùng và thảm hại của nó là như thế đó phải không? Là một cuộc đuổi bắt và không bao giờ bắt gặp? Là yêu nhưng không bao giờ yêu nhau trong cùng một lúc. Là lúc người này yêu đằm thắm thì ở người kia, sự lạt phai hờ hững đã thấp thoáng hiện hình? Là ở người này tình yêu nóng bỏng, ào ạt, như ngọn triều thì ở người kia ngọn lửa đã tàn và ngọn triều đã rút? Giữa lúc Nguyệt cần tôi, tôi đi xa. Nguyệt cần, sự cần thiết còn nằm trong một giới hạn nào đó. Hường cần, sự cần thiết mới tận cùng và toàn vẹn. Tôi bỏ rơi Nguyệt, Điều đó chẳng đáng kể, ít nhất Nguyệt cũng còn sống với người đàn ông khác. Tôi bỏ rơi Hường, sự bỏ rơi mới là đồng nghĩa với tội ác.
Vậy mà tôi đã bỏ đi. Tôi đã lên Ban Mê Thuột. Đêm cuối cùng, gần nhau, cả tôi và Hường đều không ngủ được. Tôi hỏi chuyện, Hường chỉ nín thinh không nói.
"Sao em không nói chuyện với anh?"
Hường quay mặt đi chỗ khác:
"Anh ngủ đi. Mai lên đường sớm".
"Anh sẽ viết thư về thăm em".
"Vâng".
Tôi dặn:
"Nhận được thư nhớ trả lời anh ngay".
"Vâng. Em sẽ viết trả lời".
Chỉ có thế. Tôi chưa đi, Hường đã chết rồi. Chết trong tâm hồn. Chết vì trái tim nàng tuy vẫn đập nhưng đã chảy máu, đã vỡ tan thành muôn nghìn mảnh nhỏ. Nàng đã hiểu rõ cái ý định đen tối của tôi, cái ý định muốn chấm dứt, muốn đoạn tuyệt, bằng một lần đi xa. Và ý định đó đã giết Hường, làm cho Hường chết. Đó là lần chết mới. Lần chết đầu tiên vì tình yêu cũng là lần chết cuối cùng của cuộc đời nàng. Ngày trước, sự truỵ lạc đã giết chết nàng, một lần. Thân thế nàng ê chề, da thịt nàng tàn héo bởi vùi ngập đắm chìm trong miệt mài truỵ lạc. Tình yêu chợt đến. Như ánh nắng ban mai. Như trận mưa đầu mùa. Mảnh đất cằn cỗi dần dần tốt tươi. Trong cái héo hon bất ngờ hồi sinh, đời sống thoát xác lại nẩy ra được những mầm hạt mới. Hường như thế. Hường là một mầm hạt mới. Điều khốn nạn cho nàng là mầm hạt của một hồi sinh ấy chỉ có thể sống, nếu nó nhận được một nuôi dưỡng chu đáo. Sự nuôi dưỡng đến từ tôi, do nơi tôi. Đáng ân hận, biết chừng nào, đáng ân hận cho cả tôi cả Hường là sự nuôi dưỡng ấy không có, mãi mãi.
Đêm hôm đó, thật khuya tôi mới ngủ thiếp đi. Và, có cảm tưởng như lúc tôi chìm vào giấc ngủ, thì, như một hòn đảo trơ vơ giữa một đại dương mênh mông không cùng của cô đơn, Hường vẫn thức.
Buổi sáng hôm sau. Trời đất đúng là trời đất của chia xa và đưa tiễn. Trận mưa dấy lên từ nửa đêm về sáng, vẫn còn lai rai chưa dứt. Trời thấp đụng những mái nhà. Nền trời xám đục, nặng trĩu hơi nước của những trận mưa lớn hơn hứa hẹn sẽ đổ ập xuống lúc nào không hay. Trời lạnh. Hường trở dậy từ sớm. Đúng là cả đêm nàng chỉ nằm mà không ngủ.
Nhìn Hường đi đi lại lại, thu xếp quần áo vào va ly cho tôi, tôi chỉ mong Minh đến ngay, đưa tôi thật mau khỏi căn lầu, để cho cả Hường và tôi khỏi phải kéo dài thêm những giờ phút khó thở và ngượng ngập.
Khuôn mặt Hường tái nhợt. Bàn tay nàng run run. Nàng cố gắng trấn tĩnh. Đậy nắp valy cho tôi xong, nàng nói:
"Em đã thu xếp đủ những đồ dùng cần thiết cho anh. Lên trên đó, anh sẽ không thiếu thốn gì hết".
Tôi ấp úng:
"Cám ơn em".
Hường cười một nụ cười kỳ lạ:
"Đó là bổn phận của em. Tại sao anh lại cám ơn".
Tôi lại gần. Tôi ôm lấy Hường:
"Em ở nhà giữ gìn cho khoẻ mạnh".
Hường đáp, yếu ớt:
"Vâng".
Tôi băn khoăn:
"Em muốn dặn gì anh nữa không?"
Hường ngẫm nghĩ thật lâu. Nàng buông thõng hai tay, cúi đầu xuống, nét mặt chìm đắm tan nát. Nàng còn hàng trăm ngàn lời muốn nói với tôi. Như tại sao tôi lại như vậy? Như tại sao tôi lại bỏ nàng? Như nàng coi tình yêu giữa hai chúng tôi là lẽ sống, vận mệnh của đời nàng, tại sao tôi nỡ coi nó là một trò đùa chốc lát.
Phải, Hường đã muốn nói. Muốn trách móc. Muốn buộc tôi phải giải thích. Và hơn nữa, muốn van xin tôi đừng bỏ đi, tôi hãy ở lại. Nhưng nàng đã tôn trọng sự tự do là đời sống của tôi. Nàng biết tôi đã định đoạn tuyệt và nàng bằng lòng để cho tôi được làm như ý muốn.
Cuối cùng, Hường ngẩng đầu lên. Nàng thong thả lắc đầu:
"Không".
Minh tới sau đó. Minh chạy lên:
"Xong chưa?"
Hường đáp, thay cho tôi:
"Xong xuôi cả rồi. Anh Viễn em đang chờ anh".
Tôi nắm lấy tay Hường:
"Anh đi nhé!"
"Vâng. Anh đi".
Hường đưa tôi ra đến cầu thang.
Xuống tới đường, tôi nhìn lên. Thấy Hường đứng bất động, và nhìn theo sau khung cửa sổ.
Chương cuối

Hình ảnh Hường đứng bất động giữa khung cửa trên cao của căn lầu tiều tuỵ cũng là hình ảnh cuối cùng tôi ghi nhận được, về Hường. Cuối cùng. Cuối cùng. Buổi sáng mưa gió, với bầu trời xám ngắt hôm đó cũng là buổi sáng cuối cùng giữa Hường và tôi. Chúng tôi hẹn viết thư cho nhau. Nhưng không có một tờ nào được gửi đi, không có một tờ thư nào nhận được. Hường đứng nhìn tôi trong buổi sáng lên đường có mưa bay về một hướng núi rừng, phút đó nàng biết tôi đã đòi lại tình yêu, lấy lại sự tự do và sự thay lòng đổi dạ của tôi, hơn bất cứ liều thuốc độc, hơn bất cứ một mũi nhọn nào, đã giết nàng. Nàng không sống được nữa. Khi hy vọng duy nhất và hy vọng cuối cùng của nàng đã tắt.
Hai tháng sau, một bức điện tín của một người hàng xóm chẳng hiểu sao biết được địa chỉ của tôi trên cao nguyên, báo tin cho tôi là Hường đã chết. Bức điện tín đến vào lúc tôi đang dạy học. Tôi bàng hoàng cả người. Tôi ngồi lặng đi với trời đất quay cuồng chung quanh, và một tâm trạng rùng rợn khủng khiếp trong đầu óc. Tôi nghĩ Hường sẽ quên. Mau chóng. Dễ dàng. Tôi nghĩ không còn tôi nàng sẽ trở lại cuộc sống phóng đãng của nàng như trước. Để lại lăn mình vào những đêm trác táng miệt mài ở Chợ Lớn. Gặp và làm tình với những người đàn ông khác, như Hường đã thế, sẽ lại như thế, không bao giờ đổi thay. Hường chết được sao? Vô lý. Vô lý quá chừng. Một người đã nửa đời gió sương lăn lộn như nàng mà chết được? Nhất là chết vì tình yêu? Vô lý. Vô lý. Hay là nàng đau mà chết? Dù thế nào đi nữa, cái chết của Hường cũng làm tôi sửng sốt đến bàng hoàng.
Ngay buổi chiếu hôm ấy, tôi bỏ dạy học trở về Sài Gòn. Về tới nơi, nhìn thấy xác Hường lạnh ngắt trên mặt đệm và trước những nhân viên công lực tới làm biên bản, tôi mới được mọi người cho biết là đêm trước, Hường đã uống hết một ống thuốc ngủ. Tôi ngã quỵ xuống bên cạnh xác Hường. Tôi nhắm mắt lại, lòng tràn đầy hối hận. Tôi thầm cầu nguyện Hường tha tội cho tôi, mặc dầu tôi biết tội lỗi của tôi không bao giờ có thể tha thứ được.
Người hàng xóm gởi điện tín, thấy tôi về, mời tôi sang nhà ông ta nói chuyện. Ông ta nói ông ta biết được địa chỉ của tôi vì nhìn thấy một chiếc phong bì ở đầu giường. Phong bì đề tên và chỗ ở của tôi trên cao nguyên. Nhưng phong bì không đựng một lá thư nào ở bên trong. Như thế có nghĩa là Hường đã định viết thư cho tôi rồi không viết nữa. Tính nàng như thế. Nàng yêu. Yêu tận cùng. Yêu sống chết. Nhưng nàng không van xin, không khóc lóc, không đòi tôi ở lại, cũng không viết thư xin tôi trở về, vì nàng biết tình cảm là cái không thể van xin như vậy. Và nàng đã chết. Còn tôi, tôi như thế nào?
Không biết nữa. Chỉ biết là tôi không trở lên cao nguyên, sau đó. Tôi viết thư cho Minh, nói tôi không thể trở lại Ban Mê Thuột, Minh nên tìm một người giáo sư khác thay tôi.
Rồi tôi sang căn lầu, dọn đi chỗ khác. Đời sống của tôi sau đó, không có gì đáng ghi nhớ nữa. Tất cả chỉ còn là một cơn ác mộng. Tất cả chỉ còn là một vô nghĩa lớn lao, không cùng. Tôi chỉ còn là một xác chết mặt dầu tôi vẫn còn sống.
Điều kỳ lạ cuối cùng là lúc sống, Hường tuy chung sống với tôi, nhưng ở ngoài cuộc đời và tâm tưởng tôi. Chỉ đến khi chết rồi, nàng mới ở trong tôi toàn vẹn, như một ám ảnh, như một trừng phạt. Như một hiện hữu tràn đầy.
Bằng đủ mọi hình thức của một cố gắng tuyệt vọng, tôi đã muốn xoá đi sự hiện hữu ấy. Bởi xoá bỏ là một cần thiết. Không có Hường trong kỷ niệm, trong lương tâm và trong trí nhớ, tôi mới tìm lại được cho mình những tháng ngày yên ổn. Mới có thể làm ăn, tính toán chuyện này chuyện nọ. Nhưng cuối cùng, tôi biết là mọi cố gắng ấy đều uổng công. Sự hiện hữu của Hường tuy vô hình mà thật ghê gớm, tuy phảng phất mà ở trong da thịt, trong hơi thở trong máu huyết tôi, mãi mãi. Trừ trường hợp tôi giết chết tôi đi, sự hiện hữu của Hường mới không còn nữa. Tôi đã uống rượu, nhiều và điên loạn hơn bao giờ. Tôi đã say, say như từng lần chết đi, từng lần sống lại. Tôi đã hút thuốc phiện, đắm mình trong truỵ lạc, tìm quên lãng bằng miệt mài đắm đuối trên không biết bao nhiêu thân thể đàn bà. Hết thảy đều vô ích. Vô ích. Đêm, tôi mơ thấy Hường. Ngày tôi nhìn thấy Hường. Cùng khắp. Mọi nơi và mọi chốn. Đôi mắt Hường từ bên kia thế giới lặng lẽ nhìn tôi. Đôi mắt ấy ở trong tôi, sáng ngày, như chính lương tâm tôi đã thức dậy vì cái chết oan khuất của người đàn bà đã yêu tôi, đã chết vì mối tình không được đáp lại. Bây giờ thì tôi như thế này đây. Một xác chết vất vưởng. Một thây ma lang thang. Và cực hình thì chưa chấm dứt. Và cực hình và trừng phạt chỉ mới bắt đầu.
Nguồn: Mai Thảo, Gần mười bảy tuổi, Nxb Nguyễn Đình Vượng, 38 Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn.
Mai Thảo
Theo http://www.talawas.org/ 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Chùm thơ của Lưu Lãng Khách 15 Tháng Hai, 2023 Ngoài kia xuân đang qua rồi sao!/ Thềm hoa hanh hao – trên trời cao/ Chim non ca vang n...