Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2018

Biển và con chim bói cá 5

Biển và con chim bói cá 5
Phụ lục 1
Tiểu sử
Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Thủy Nguyên, Hải Phòng trong một gia đình mà ông gọi là “địa chủ nhỏ” vì dường như cha mẹ có hơn 10 mẫu ruộng, theo hồi tưởng của nhà văn. Là con trai út sau ba người anh, thuở nhỏ ông học giỏi: thi tiểu học, ông đỗ đầu Liên khu Việt Bắc trong những năm đầu của cuộc chiến chống Pháp, khi tản cư cùng cha mẹ lên Bắc Giang, Thái Nguyên.
Thời gian học trung học, Bùi Ngọc Tấn tiếp tục học giỏi nhất lớp và được nhận học bổng toàn phần. Gần bảy chục năm sau, nhà văn ở ngưỡng bát thập còn nhớ rằng, phần thưởng đầu đời dành cho ông vì học lực xuất sắc cũng liên quan tới văn học: đó là một chiếc cặp da do thầy Hoàng Ngọc Phách - tác giả “Tố Tâm”, được coi là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam - khi đó là Giám đốc Sở Giáo dục Liên khu tặng.
Năm 1954, Bùi Ngọc Tấn có mặt trong Đội Thanh niên Xung phong về tiếp quản Hà Nội. Cuối năm, ông từ chối đi học kỹ thuật ở nước ngoài để về báo “Tiền Phong” trên cương vị một phóng viên. Những sáng tác đầu tiên của ông bắt đầu từ đó, và sau này đã được in rải rác ở nhiều nhà xuất bản đương thời như “Văn học”, “Lao động”, “Thanh niên”, “Phổ thông”...
Cuối năm 1959, dưới ảnh hưởng những dư chấn của cuộc đàn áp Nhân văn Giai phẩm diễn ra cùng thời đối với giới văn nghệ sĩ Bắc có tư tưởng cởi mở, Bùi Ngọc Tấn được chính quyền “khuyên” hãy về quê Hải Phòng để “thâm nhập công nông”, nhằm “viết tác phẩm của đời mình”. Ông chuyển về làm biên tập viên ở báo “Hải Phòng Kiến thiết” và tập trung viết báo để chăm lo cho gia đình sáu người.
Cũng trong thời gian này, Bùi Ngọc Tấn có dịp làm quen và thân thiết với nhà văn đàn anh Nguyên Hồng của đất Cảng, cùng một lãnh đạo đảng ở Hải Phòng là ông Hoàng Hữu Nhân, người có lòng và quan tâm đến giới sáng tác, về sau trở thành ân nhân của họ Bùi trong những năm tháng cơ cực sau khi ra tù và không có công ăn việc làm.
Tính đến cuối năm 1968, tức là 15 năm đầu của đời sáng tác, Bùi Ngọc Tấn “in được một số truyện ngắn, có ba tiểu thuyết sắp sửa trình làng, hai kịch bản phim chưa quay nhưng đã ký hợp đồng với Cục Điện ảnh và đã được tạm ứng một phần ba nhuận bút”, theo hồi tưởng của ông. Đó là những sáng tác mà như ông thú nhận: “Đều theo trường phái “tụng ca”, bây giờ nghĩ lại thấy xấu hổ. Nhưng đó là sự ngây thơ chân thành của một thời”.
Tháng 11 năm ấy, đột ngột nhà văn bị bắt với tội danh “tuyên truyền phản cách mạng”, rồi bị đưa đi tập tập trung cải tạo trong vòng năm năm. Kỳ thực, ông là nạn nhân của cái gọi là vụ án “Xét lại, chống Đảng, làm tay sai cho nước ngoài”, một vụ thanh trừng đại quy mô diễn ra trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, dẫn tới hậu quả nhiều văn nghệ sĩ không liên quan cũng trở thành những “người tù không án”.
Không biết có tội gì và cũng không hề được đưa ra xét xử, Bùi Ngọc Tấn bị giam cầm trong hoàn cảnh cùng cực, chứng kiến vô số cảnh đời bi thảm trong hệ thống tù ngục Bắc Việt Nam cho đến tháng 4-1973 mới được thả. Về sau, ông tâm sự: “Thật chẳng ngờ tôi đã phải sống cạn một kiếp tôi để rồi viết về chính nó”, và lời cảm thán ấy của ông đã được đăng trên tờ báo “Tiền Phong” ở trong nước sau đó hơn sáu chục năm.
Gần một ngàn năm trăm trang bản thảo của Bùi Ngọc Tấn đã bị thu khi ông bị bắt giữ, và sau này ông cũng không được trao trả lại. Thời gian ông trong các trại cải tạo lao động, vợ ông bị đuổi khỏi trường đại học - kẻ làm điều này, theo nhà văn, cũng chính là người đã ra chỉ thị bắt ông, và sau đó cấm ông làm việc khi đã được ra tù: Giám đốc Công an Hải Phòng.
Ra tù mùa xuân 1973, nhà văn bị thất nghiệp trong hai năm và đã trải qua nhiều nghề để kiếm sống như bốc vác, thợ sắt, buôn bán, kéo xe bò và cả… viết chui, như ông thuật lại. Đến tháng 5-1975, nhờ sự giúp đỡ của ông Hoàng Hữu Nhân, khi đó là Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản, Bùi Ngọc Tấn mới được trở lại làm việc chính thức tại một cơ sở đánh cá ở Hạ Long, trong vai trò nhân viên theo dõi thi đua khen thưởng.
Ròng rã trong suốt hai thập niên kể từ khi ra tù cho đến những năm chuẩn bị hồi hưu, Bùi Ngọc Tấn đã buộc phải gác bút. Như những gì ông thuật lại sau này, thời gian đó không chỉ không được phép viết, mà ông còn luôn bị công an văn hóa sách nhiễu, theo dõi, lục lọi, khám xét liên miên, ngay cả những trang nhật ký cũng bị thu giữ.
Phải đến năm 1993, tức là tròn một phần tư thế kỷ kể từ ngày bị bắt giữ rồi đưa đi cải tạo, cái tên Bùi Ngọc Tấn mới tái xuất hiện trên tạp chí “Cửa Biển” (Hải Phòng) với bài viết “Nguyên Hồng, thời đã mất”. Những hồi ức về nhà văn đàn anh thân thiết ấy, cũng như những văn sĩ thế hệ ông còn trở lại trong tập hồi ký “Một thời để mất” (năm 1995), là cuốn sách đầu ông được in sau “kiếp nạn”.
Trong hai chục năm cuối đời, Bùi Ngọc Tấn đã ra thêm được chừng năm đầu sách, trong đó đáng chú ý là những chân dung văn học trong tập “Rừng xưa xanh lá”, cùng nhiều truyện ngắn rất sắc nét. Ngoài các giải thưởng trong nước, năm 2012, tiểu thuyết “Biển và chim bói cá” của ông được tặng thưởng giải thưởng lớn cho tác phẩm đề tài biển tại Liên hoan “Sách và biển” được tổ chức hàng năm ở Pháp.
Tuy nhiên, nếu có một tác phẩm khiến Bùi Ngọc Tấn được “lưu danh hậu thế”, trở thành một tác gia lớn của văn học Việt Nam, thì đó chính là “Chuyện kể năm 2000” đã nhắc tới ở đầu bài. Cuốn tiểu thuyết mang tính chất tự sự và ghi dấu ấn những năm tháng tù đày, cải tạo của tác giả, được Bùi Ngọc Tấn khởi viết tháng 6-1990 tới tháng 11-1991 thì xong bản thảo đầu tiên và tới cuối năm 1997 thì hoàn tất với nhiều sửa chữa, chỉnh lý.
Theo lời kể lại của tác giả, do đã “hết sức ngấm đòn” vì từng bị thu hàng ngàn trang bản thảo nên ông đã phải viết “Chuyện kể năm 2000” trong hoàn cảnh bí mật tuyệt đối - nếu bị phát hiện, bản thảo có thể bị tịch thu bất cứ lúc nào. Nhà văn đã không thể cho bất cứ ai xem bản thảo trong thời gian chấp bút, và đến khi hoàn tất cũng chỉ dám đưa hai người bạn văn nghệ chí cốt là Lê Bầu và Dương Tường đọc và góp ý.
Bùi Ngọc Tấn hồi tưởng: “Tôi viết trong khi vẫn đi làm ở một xí nghiệp đánh cá, viết trong lúc rỗi ở xí nghiệp, viết trong những ngày chủ nhật, ngày nghỉ lễ, viết đêm, nghĩa là tranh thủ mọi thời gian. (...) Viết được mấy chục trang đầu tiên, tôi đưa (nhà văn) Nguyễn Quang Thân đọc. Anh nói với tôi một câu tôi không chờ đợi, thật bất ngờ, có sức động viên tôi rất lớn: “Cái này của toàn nhân loại mày ạ”.
Sau khi thử đưa bản thảo ở một hai nơi và bị từ chối, tháng 2-2000, sách được ra mắt ở NXB Thanh Niên trong sự ngỡ ngàng của chính tác giả. Nhưng chỉ một tháng sau, chính quyền đã ra quyết định “đình chỉ, thu hồi và tiêu hủy” sách, và trong vòng mười bốn năm từ bấy tới nay, theo nhà văn, sách vẫn chưa hề có quyết định được phép tái bản hay lưu hành, mặc dù ông đã nhiều lần đưa ra đề nghị thảo luận về điều đó.
Tuy nhiên, “Chuyện kể năm 2000” với nội dung làm lay động lòng người và sức mạnh ngút ngàn của sự thật, đã nhanh chóng vượt khỏi vòng kiềm tỏa và cấm đoán của chính quyền. Sách được in chui, được sao chép và lưu hành rộng rãi như chính tác giả cho biết, và điều rất đáng kể là nó đã vượt biên giới Việt Nam, sang các xứ sở xa xôi với hơn mười ấn bản Việt ngữ ở nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, Canada hay Đức.
Dày hơn 600 trang, “Chuyện kể năm 2000” thuật lại cuộc sống tù ngục của nhân vật chính - nhà văn Nguyễn Văn Tuấn, hóa thân “gần như không thêm bớt” của tác giả, cùng những bạn tù được khắc họa rất sắc nét, như Ngọc hay Già Đô, người mà tác giả cho hay là sự tổng hợp của nhiều người trong tù và ngoài đời, như triết gia Trần Đức Thảo, hay nhà văn Tuân Nguyễn, cũng là một nạn nhân bi thảm của vụ án “Xét lại, chống Đảng”.
Nhưng điểm khác biết và có lẽ nổi trội hơn nhiều tác phẩm kinh điển khác của dòng văn học phản án thế giới tù ngục, trại tập trung cải tạo, là ở chỗ “Chuyện kể năm 2000” đã cho thấy nỗ lực nhân văn của người tù trong cảnh cùng cực để không đánh mất mình, và thông qua đó, đem lại niềm tin cho con người. Như chia sẻ của Phạm Tường Vân, người đã thực hiện trong ba năm ròng những cuộc phỏng vấn kỳ công nhất về Bùi Ngọc Tấn:
“Điều lớn nhất tôi nhận được từ cuốn sách ấy là gì? Phải chăng là một niềm tin vững chắc để dấn bước vào những vùng u tối nhất của đời sống, rằng nếu hấp lực của việc viết có đẩy mình tới đâu, thì vẫn có cách đi xuyên qua nghịch cảnh mà không đánh mất phẩm giá. Dẫu có phải đối diện và trở thành nạn nhân của sự u tối và tàn bạo đến thế nào, thì nhất quyết không để sự ngu dốt vô minh nuốt chửng để trở nên cay nghiệt, hằn thù”.
Với góc nhìn rất nhân bản ấy, có lẽ không ngạc nhiên, khi tình yêu được mô tả hết sức nguyên sơ và thánh thiện giữa người tù và người phụ nữ anh yêu cũng là một nét động lòng và để lại dư vị mạnh mẽ trong lòng người đọc. Một độc giả có dịp tương giao với tác giả trong những năm cuối đời của ông đã nhận xét, Bùi Ngọc Tấn vẫn giữ nguyên vẹn “những gì đẹp đẽ nhất trong con người - yêu và được yêu”:
“Điều ngạc nhiên nhất đối với tôi là khi gập cuốn sách lại, những căm phẫn nghẹn ngào về chế độ xã hội dường như lại nhường chỗ cho tình yêu.
Những chương viết về tình yêu của Bùi Ngọc Tấn với người phụ nữ dịu hiền, luôn nâng niu, đi bên ông suốt chặng đường đời, hay một chút lãng mạn với người phụ nữ bí ẩn gìn giữ những trang bản thảo đánh máy của ông là minh chứng về tình yêu như lẽ tự nhiên, đẹp giản dị, mà người ta nương náu vào đó để tìm nguồn sống trong tận cùng của khổ sở đớn đau, để có sức mạnh đối chọi với bạo lực và cường quyền.
Những tháng năm ngục tù không giết chết yêu thương trong ông, mà ngược lại nó làm ông thêm yêu tự do, và tiếp tục viết như khẳng định quyền tự do của mình, mặc dù nhiều năm trong tù và khi ra khỏi ngục tù, quyền tự do ấy bị cướp đoạt. Trong một bản nhạc buồn, đen tối, không lối thoát, đâu đó có những nốt nhạc tình được êm ái cất lên...”.
Những nốt nhạc long lanh ấy, chắc chắn sẽ còn được lưu giữ và âm vang trong từng trang viết của Bùi Ngọc Tấn, về con người, tình yêu, về quyết tâm vượt qua nghịch cảnh gian nan và đen tối, vượt qua mọi tàn ác và phi nhân của bất cứ thể chế toàn trị nào... Kể cả khi, tác giả của nó, đã giã từ dương thế trong một ngày giáp lễ Giáng sinh - ngày hội của tình yêu thương - năm 2014 đầy biến động này...
Và kể cả khi, đại đa số báo chí trong nước, khi đưa tin về sự ra đi của ông, đã phải bỏ trống khoảng thời gian ông bị tù tội và đày ải như thể nó chưa từng tồn tại, cũng như, buộc phải “lờ” đi tác phẩm chính yếu của một đời người - “Chuyện kể năm 2000” - trong danh sách những sáng tác tiêu biểu của “người tù không án” Bùi Ngọc Tấn…
Nguyễn Hoàng Linh
Phụ lục (2)
Một sử thi của tan rã
Dương Tường
Trong số năm tiểu thuyết Bùi Ngọc Tấn đã viết, Biển và chim bói cá là cuốn duy nhất đến được với công chúng mà không gặp trục trặc gì. Ba cuốn đầu, hoàn thành trong những năm 1960, bị tịch thu từ lúc còn ở dạng bản thảo, do đó không bao giờ được chào đời. Cuốn thứ tư, Chuyện kể năm 2000,tác phẩm đã khiến ông được mệnh danh là Soljénetsyne Việt Nam, bị thu hồi và tiêu hủy một tuần sau khi phát hành.
Biển và chim bói cá, mà một số nhà phê bình văn học chào đón như xuất bản phẩm hay nhất của mùa sách này, là câu chuyện rã đám của một công ty quốc doanh đánh cá biển. Với một cấu trúc dứt khoát phi tuyến tính, không cốt truyện cũng chẳng có nhân vật chính, cuốn tiểu thuyết khoảng 500 trang này bày ra hỗn độn tung tãi những mẩu đời vụn của những người làm công ăn lương cố sống cố chết bám lấy cái xí nghiệp đang ngoi ngóp trong nguy cơ "đắm tàu". Những câu chuyện kỳ cục khiến ta vừa phì cười vừa muốn khóc. Những con người cùn mằn tội nghiệp - nhân viên văn phòng, cạo giấy, thủy thủ... - chạy ngược chạy xuôi đôn đáo, dùng mọi mánh xoay xở thảm hại để kiếm đủ sống qua ngày... Một chồng chất hỗn độn những nhân vật tuy khắc họa sắc nét, thậm chí đôi khi nổi bật như tác phẩm điêu khắc, nhưng hòa trộn thành một khối vô dạng hình, qua đó lấp ló sự suy tàn không tránh khỏi của cả một hệ thống.
Một sử thi của tan rã, tôi những muốn nói thế.
Những con "chim bói cá" của Bùi Ngọc Tấn
- Châu Diên
Tiểu thuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn có thể được nhìn dưới hai góc độ, như một phóng sự dài, và như một tiểu thuyết. Hoặc cũng có thể nói thế này, đó là một tiểu thuyết viết bởi một bàn tay viết báo kỳ tài với văn phong báo chí điêu luyện. Thế nhưng, như chủ đích của tác giả, đó căn bản là một cuốn tiểu thuyết. Và hẳn là ta nên xem xét những đóng góp của tác phẩm này với tư cách thể loại tiểu thuyết, và đó chính là mục đích của bài viết này.
Trước hết, có tên gọi "chim bói cá". Bùi Ngọc Tấn gọi một cách đầy trìu mến ngồn ngộn hàng mấy chục nhân vật của cái Quốc doanh đánh cá ở một thành phố biển nước ta - cả những người "trực tiếp sản xuất" trên biển lẫn những người "ăn theo" trên bờ - là những con chim bói cá.
Sách chia làm hai phần.
Phần thứ nhất nói về những thân phận chim bói cá trên biển, trong đó có cả những con chim thuộc biên chế trên biển nhưng vì những lý do thuộc cơ chế nên phải về nằm bờ chờ việc, ăn lương thất nghiệp dài dài. Đọc xong phần thứ nhất này, người đọc sẽ vương vấn một câu hỏi trong lòng mình: những con người này, những con chim bói cá này, chúng có hạnh phúc không, và liệu rồi có bao giờ chúng có nổi hạnh phúc hay không?
Phần thứ hai nói về những con chim bói cá "ăn theo" tại vô số phòng ban bệ trên bờ. Phần thứ hai của sách nói về những con chim bói cá làm việc ở bản doanh của "quốc doanh đánh giậm" - họ tự giễu mình như vậy - kể về những cung cách sống toát lên cả một thể chế đang lụn bại, đang trên bờ vực phá sản, song cũng lại đang vùng vẫy cựa quậy cố công cố sức tự thay đổi trong một cuộc "cải cách" tuyệt vọng chế độ kinh doanh. Một cuộc cải cách của những người rủ nhau đi biển đầy nắng và sóng gió nhưng lại mang màu sắc ảm đạm của những kẻ đi vào con đường hầm không lối thoát.
Trong phần thứ nhất, Bùi Ngọc Tấn kể những câu chuyện rành rọt về những con chim bói cá trực tiếp đi "đánh giậm" trên biển. Có bao nhiêu nhân vật cả thảy? Mười? Hai mươi? Ba mươi? Có nhân vật nào chính? Dường như có một nhân vật tên Cương. Nhưng cũng không hẳn thế. Dường như có một nhân vật tên Bôn. Nhưng cũng không hẳn thế.
Người đọc sẽ thấy mình bị mất hút trong đám nhân vật có tên nhưng dường như không tên, những gương mặt trong tầng tầng lớp lớp gương mặt thì đúng hơn. Nhưng các gương mặt ấy không đủ để bạn đọc nhớ được câu chuyện - một câu chuyện dường như chẳng có chuyện gì gắn bó "một cách tiểu thuyết" các nhân vật với nhau. Nhưng ta sẽ nhớ được câu chuyện nếu ta đặt chung các gương mặt của bức tranh vẽ theo lối "luật viễn cận Trung Hoa'; nhân vật ở xa cũng như ở gần đều hiện trên bức tranh với độ lớn nhỏ như nhau, với sự rõ nét như nhau, bắt ta cứ phải bám theo từng gương mặt cho tới khi nó nhường chỗ cho gương mặt khác.
Cách kể chuyện đó của Bùi Ngọc Tấn, ta được thấy cả trong Chuyện kể năm 2000. Cách kể chuyện đó cũng nằm trong các truyện ngắn của Bùi Ngọc Tấn - trừ ba truyện ngắn có kết cấu thực sự "truyện ngắn Khói, Người chăn kiến và Cún ở đó bố cục truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn có từ bỏ cái "lan man" phóng túng để trở lại với cái cổ điển gọn ghẽ vẫn quen được coi là đặc trưng của thể loại này. Cách kể chuyện đó hiện ra một cách như thể đùa bỡn và thật đắc địa trong Rừng xưa xanh lá và trong những ghi nhớ khác về bạn bè. Cách kể chuyện đó lại hiện trở về trong câu chuyện về những con chim bói cá - đặc biệt trong phần những con bói cá "lực lượng sản xuất chính" trên biển, không phải lũ chim ăn theo trên bờ.
Ta sẽ dễ dàng theo dõi các gương mặt (hoặc nhân vật) "chim bói cá" ấy, nếu ta để ý đến cái khát vọng chung được sống hạnh phúc của họ, những chàng trai, nhưng trung niên, những người chờ việc và những người "đánh thuê", những cấp trên và cấp dưới, những người đồng cấp thân thiết nhau hoặc đang có chuyện ngủng ngoẳng mất đoàn kết với nhau... tất cả, không loại trừ ai, họ đều tạo thành một nhân vật chung mang tên Khát Vọng Hạnh Phúc.
Cái hạnh phúc đến là giản dị. Ông thuyền trưởng Bôn tàu vừa mới vệ sinh sạch sẽ về bến, đã vội nhảy lên bờ, quẳng tất cả đó, cũng không màng cả một con cá đem về cho vợ con, nhảy ngay lên xe, chỉ kịp ngoái lại dặn "các ông ấy có hỏi thì bảo mình lên trạm xã một chút rồi về ngay. Đấy. Bây giờ lại đau. Có lẽ dạ dày dở chứng thật rồi". Người bạn cũng rất tâm lý, đứng ra bảo đảm cho sự vắng mặt của thuyền trưởng của mình tại một "cuộc họp quan trọng" như là có lý do rất tự nhiên, rất chính đáng: "Báo cáo, thuyền trưởng câm y bạ đi khám bệnh rồi ạ". Thêm thắt bịa đặt tình tiết cầm y bạ cho ai ai cũng phải tin.
Trần Bôn đi đâu? Thì cũng là cái chuyện đi như mọi anh em. Đi cho nhanh vì nhớ vợ. Nhớ người yêu. Nhớ đàn bà. Hạnh phúc với lũ chim bói cá này là nỗi thèm khát được sống đều đặn với đàn bà. Mỗi gương mặt chim bói cá đều dính líu đến một thân phận đàn bà, một cuộc tình, mà thường là không bao giờ thỏa mãn. Chuyện thơ mộng như câu chuyện của bác cấp dưỡng già dưới tàu tên là Tích cho cánh thủy thủ trẻ "... Chúng mày biết gái Thủy Nguyên đập lúa rồi chứ gì. Khàn mỏ quạ bịt kín mặt chỉ để hở hai con mắt, chằng biết già trẻ xấu tốt ra sao. Đập xong, tất cả ra về, chỉ còn tao và một cô ở lại quét dọn, về sau. Đến khi ra cầu ao, cô ấy cởi khăn ra giũ. Ôi trời! Đẹp quá. Má hồng rực, tóc mai dính bết, mắt bồ câu long lanh. Hai đứa xắn quân lội xuống bậc gạch bên dưới. Cô ấy cúi xuống. Tao cũng cúi xuống nhưng chưa vục nước ngay mà còn nhìn sang cô nàng. Hai bắp chân trắng như cá chép ngâm dưới nước. Cô ấy cũng nhìn lại tao cười, má cứ rực lên rồi lại cúi xuống ao, hai bàn tay khum khum định vốc nước lên mặt. Tao mới đưa tay sang xoa xoa vào mặt nước chỗ khuôn mặt cô ấy. Cô ấy cười tủm tỉm, rồi nắm lấy tay tao, giữ chặt không cho tao khỏa nước nữa. Lại còn đưa một tay sang xoa chỗ ao tao đang soi xuống. Trả miếng đấy. Có đi có lại đấy. Ăn chết rồi! Tao cũng nắm lấy tay cô ấy, giữ tay cô ấy lại, bóp một cái thật mạnh. Cô nàng nhăn nhó há miệng ra chiều đau. Chỉ há miệng chứ không kêu thành tiếng. Chà! Cái nhăn mặt ấy mới chết người".
Đời như thế mà phải đi biển những ngày dài biền biệt, nếu không nhớ nhung, nếu không sôi lên vì nhớ, thì chẳng hóa ra họ là phỗng hay sao?
Vì thế mà, một tỷ trọng khá lớn của tác phẩm hình như đã được Bùi Ngọc Tấn dùng để cho ngọn bút và con mắt quan sát cùng những kinh nghiệm trường đời của... mọi người được cố định trên những trang giấy.
Những chàng trai ấy thực tình cũng đáng được hưởng tình yêu đàn bà con gái của họ. Vì những ngày đằng đẵng họ ở dưới tàu, chỉ có trên là trời và dưới là nước. Vì những ngày đêm họ làm việc cật lực cho xí nghiệp...
Một "xã hội" sống chen chúc trong tiểu thuyết mà thiếu những đường dây cổ điển các nhân vật chính và phụ, các xung đột và những nút thắt... mà ta dùng khái niệm tiểu thuyết tư liệu để đặt tên, liệu khái niệm ấy có thể chứa đựng một phong cách khả dĩ đứng vững không?
Trước hết, cần nói rằng dạng tiểu thuyết tư liệu chẳng phải là sáng kiến của Bùi Ngọc Tấn; ông chỉ viết theo thói quen mà thành phong cách đó, đơn giản thế thôi. Trước Bùi Ngọc Tấn, Emile Zola đã từng đề cập đến khái niệm "tiểu thuyết thực nghiệm"(1). Và trước Zola, trong lịch sử sáng tác văn xuôi, cũng đã có dạng tiểu thuyết tư liệu ít nhất là từ năm 1849 ở Canada. Đó là cuốn "Ký họa cuộc sống Canada" của W. S. Darling, một cha đạo Tin Lành ở quận Toronto. Tác phẩm của Darling viết như một tập phác họa cuộc đấu tranh của Canada sao cho các thiết chế xã hội, chính trị và tôn giáo của mình, duy trì được tính chất và tinh thần Anh quốc, cố sống cố chết sao cho không bị lăn theo vết đi cộng hòa như ở nước Mỹ. Nhưng người đọc sẽ được thấy cả một tiến trình xã hội Canada chao đảo rồi xa dần những tập tục châu Âu để ngả vào con đường mới vạch ra ở nước Mỹ: con đường cộng hòa và dân chủ không sao cưỡng lại được ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Ta hãy trở lại với dạng tiểu thuyết tư liệu được coi như mẫu mực (kinh điển), tiểu thuyết Germinal ("Tháng gieo mầm" như cách đặt lại tên tháng theo lịch cách mạng) của Emile Zola. Đó là cuốn tiểu thuyết được Karine Montais và Elise Tropet(2) coi là có tính thời sự. Người đọc có thể thấy tình cảnh nước Pháp thế kỷ 19 "khi cuộc đấu tranh giữa tư bản và lao động đến hồi càng thằng" và "đặc biệt sôi sục là những tai nạn lao động (nhất là tai nạn trong hâm lò)" Và nhà văn Zola đã bỏ ra sáu tháng đi khảo sát các cuộc đình công của thợ mỏ miền Bắc và vùng Pas-de- Calais rồi từ đó viết nên toàn bộ câu chuyện (3).
Ngay từ những dòng đầu của chương đầu tiểu thuyết Germinal,Emile Zola đã để ta bắt gặp ngay nhân vật hệt như người đi điều tra tình hình công nhân. "Tôi là thợ máy, tôi đi tìm việc đây... Ở đây có nhà máy không?... Hàng ngày bà con ta có thịt àn không?... Có bánh mì mà àn đã phúc!..." Tương tự như vậy, cuối mỗi chương trong phần 1 về những con "chim bói cá'; Bùi Ngọc Tấn lại cho một chú bé trong tưởng tượng ghi lại nhật ký xuống tàu đánh cá với "bố" - một sự thơ mộng hóa, vì hình như nhà văn Bùi Ngọc Tấn vẫn có chút e thẹn không muốn để bạn đọc "hiểu nhầm" vì sao tác giả lại có nhiều hiểu biết về cái nghề "đánh giậm" hiện đại này đến thế? Bùi Ngọc Tấn chẳng cần bỏ đi thực tế những sáu tháng để điều tra tình hình công nhân miền Bắc nước Pháp cuối thế kỷ 19. Trước khi viết Chuyện kể năm 2000, "A Tấn" từ Phố Lu về thành phố Cảng, được phục hồi không xét xử, và được cử về làm công tác thi đua tuyên truyền ở xí nghiệp đánh cá Hạ Long. Và khi một nhà văn có máu báo chí đặt chân tới đâu, con mắt nhà báo và trái tim nhà văn của họ tất yếu sẽ giúp cho cuộc đời này dựng được một tấm bia.
Nếu như Zola được chứng kiến và ghi lại cảnh đời công nhân Pháp, thì hơn là vậy, Bùi Ngọc Tấn còn thấy cả sự tan rã của hệ thống đánh cá mang cái tên đẹp đẽ là "quốc doanh" và được công nhân chế biến đi thành "Quốc doanh đánh giậm"
Xin đừng nghĩ Bùi Ngọc Tấn đã bắt chước Zola! Cũng giống như khi Bùi Ngọc Tấn cho ra mắt Chuyện kể năm 2000 người viết bài này có nói với tác giả "ông viết đau như Ngôi nhà người chết của Dostoevsky ấy" Khi ấy, Bùi Ngọc Tấn đã phản đối lại: "mình chưa bao giờ đọc tác phẩm đó". Bây giờ cũng vậy, chắc là Bùi Ngọc Tấn cũng chưa đọc Zola - Tháng gieo mầm vẫn chưa thấy nằm trên kệ sách Việt.
Chúng ta hãy trở lại với Chim bói cá...
Ở phần thứ hai của cuốn tiểu thuyết, Bùi Ngọc Tấn dồn sức và dồn tư liệu phác họa thật tài tình sự tan rã của một thiết chế vô cùng thiếu tự nhiên, gửi thân trong hệ thống đánh cá "quan liêu bao cấp" - ta chẳng còn cách gì hơn là dùng cái định ngữ đã thành sáo mòn ấy!
Chỉ bằng vài nét mô tả cô Phòng và những người cán bộ hành chính - những con chim bói cá "ăn theo" trên bờ - và ta có ngay ấn tượng không thể nào quên về một khái niệm cơ bản: định nghĩa sinh động thế nào là hiện tượng vô văn hóa.
Những người "cán bộ" ấy cả nam lẫn nữ cả già lẫn trẻ đều xưng với nhau là bố, các bố và gọi người khác là con, các con (trừ gọi cấp trên, vì quan hệ của họ với lối xưng hô quái đản ấy chỉ diễn ra khi vắng chúa nhà gà vọc niêu tôm, như chính họ thú nhận).
Chỉ bằng những phác họa ngắn gọn, Bùi Ngọc Tấn cho ta thấy sự giả dối của những con người đó - những con người buộc lòng phải sống giả dối trong một thiết chế giả dối. Tủ "tài liệu" của họ được dùng để cất giấu cá, đem về nhà cải thiện đời sống, có khi chỉ một bọc cá cũng đáng giá bằng cả một tháng lương. Họ xin cá của các tàu đánh cá như những kẻ hành khất sang trọng! Xin được nhiều, ăn không hết, đem bán. Ai cũng là con mẹ hàng cá. Từ câu cảng về, nhìn trước nhìn sau không thấy sếp, cánh phòng ban, người trước kẻ sau sách túi cá nặng vào buồng làm việc, mở tủ đứng hay tủ bàn dúi vào, và khép nhanh cánh tủ lại, đi ra ngoài cửa đứng nghênh ngó xem có ai nhìn thấy mình vừa xách cá về không, rồi trở vào kéo ghế ngồi trước bàn làm việc, giở tài liệu ra xem như người trách nhiệm nhất trên đời... Và họ phải tránh mặt không đem cá về khi còn thấy mặt cấp trên lảng vảng ở cơ quan. Họ đành lòng chăm chỉ ở lại làm việc, thực hiện tám giờ vàng ngọc (mà đúng là tám giờ vàng ngọc thật) hơn thủ trưởng".
Bên cạnh những nhân viên nhan nhản ở các phòng ban, Bùi Ngọc Tấn vẽ ra chân dung một trưởng phòng nhân sự cứ mỗi lần bọn chim bói cá đi biển về, cả đi đánh cá lẫn đi vận tải biển, đều lảng vảng xuống tàu, nói bóng gió về "thay đổi nhân sự". Và thế là đã đánh đi một tín hiệu để các con đến nhà các bố mà dâng vật phẩm hối lộ. Tiếp đó, Bùi Ngọc Tấn chỉ cần vẽ phác một gương mặt con ông cháu cha khác đang phạm tội đấy nhưng lại được "đẩy nhanh" xuống tàu cho đi nước ngoài - những hành trình tương đương với những chiến lợi phẩm nhặt nhạnh từ các bãi rác tư bản chủ nghĩa nước ngoài đem về nhà lại đảo chiều trở thành hàng hóa mới.
Cuộc sống ngột ngạt thế ấy sẽ khiến ta không chịu đựng nổi nếu thiếu những trang viết đầy u-mặc của nhà văn tinh quái Bùi Ngọc Tấn. Đó là những trang chim chuột nhau. Đó là những lời lẽ xen kẽ kỳ tài chỉ thấy ở Bùi Ngọc Tấn. Đó là anh nhân viên được cử đi mua đồ ăn tiếp khách đã dừng lại "nếm" vài miếng rồi say sưa quên mất và bắt cả khách lẫn chủ chờ vàng mắt. Đó là anh cán bộ thiết kế vườn hoa đã trồng cỏ màu vàng để "thể hiện" màu cá rán. Đó là một anh cán bộ "dư dôi" làm công việc nhổ cỏ ở cửa phòng làm việc của sếp cũng lẩn thẩn suy tưởng về việc tạo ra những cái cống đầy cỏ thối để nuôi lươn, biến cái giấc mộng thủy sản thành sức mạnh của toàn dân!
Nhưng ta đừng nghĩ Bùi Ngọc Tấn chỉ biết đùa bỡn cười cợt chớt nhả. Đoạn kết tác phẩm Biển và chim bói cá có thể khiến người đọc đầm nước mắt qua giọng văn tưởng như đùa bỡn của tác giả.
Nhưng để thấy hết "chất" Bùi Ngọc Tấn, không gì hơn là ta hãy trở lại với Emile Zola trong Tháng gieo mầm để nếm đoạn kết của sách này:
"Giờ đây, trên trời cao, mặt trời tháng tư đang rạng rỡ hết mực, sưởi nóng trái đất đang sinh sôi. Từ thân những cây củ cải trắng, mầm mọc ra thành lá xanh giữa những run rẩy cỏ xanh cũng đang ngoi lên. Khắp nơi, các hạt giống đang càng phồng lên, vươn dài ra, lấy mầm phủ khắp cánh đồng, ngoi lên mặt trời mang sức nóng và ánh sáng. Nhựa tràn trề cùng với những giọng thì thâm, tiếng mầm nảy nở thành tiếng nụ hôn dài. Dân dân, mỗi lúc một hiện ra rõ nét, những hạt mầm như những bước chân bè bạn đồng chí râm rập bước. Dưới nhứng tia mặt trời nóng bỏng, tiếng ồn ào làm mặt đất mang thai. Tựa hồ như bao nhiêu con người đang đi ngang, một đội quân đen đúa, một đạo quân báo thù, đang chầm chậm vươn mầm trong các luống đất, đang lớn lên cho những mùa gặt của cả thế kỷ mai sau, những mầm xanh đang làm cho trái đất vỡ tung".
Còn Bùi Ngọc Tấn đã lại có đoạn kết riêng của mình. Tác giả đã chọn nhân vật Cảnh để mô tả sự chấm hết tất yếu trong cuộc tan rã vĩ đại của quốc doanh đánh giậm. Cô Phòng, người đáng bị đuổi việc hơn cả, lại phát tháng lương cuối cùng cho Cảnh, một thanh niên bị xếp vào loại "dư dôi":
- Thôi em ạ. Đi làm mười ba ngày mà được lương nửa tháng là tốt rồi.
Cảnh trâm ngâm:
- Vấn đề cũng khá nan giải đây.
Đó cũng là câu nói nổi tiếng của Cảnh. Như câu "dù sao trái đất cũng cứ quay" vậy.
Nhận tiền lương rồi, Cảnh vân cứ lờ vờ ở xí nghiệp. Mấy anh chàng "giặc lái" hỏi:
- Sao không về nhà, còn ở đây làm gì?
Cảnh đáp thản nhiên:
- Đã hết giờ đâu mà về.
Nói rồi đi ra ngồi dưới gốc cây cột điện. Và lạ là sáng hôm sau Cảnh vân đến. Rồi những hôm sau nữa. Đúng giờ...
Cậu Cảnh của Bùi Ngọc Tấn không biết đi đâu về đâu cả. Không một "mầm xanh" hy vọng như của Zola dành cho cậu.
So với Emile Zola, người vẫn được các sách giáo khoa "tiến bộ" chê là "tự nhiên chủ nghĩa'; hình như Bùi Ngọc Tấn còn bi quan hơn nữa.
Bi quan hơn hay lạc quan hơn hay trung thực hơn hay cay đắng hơn?
Ta chẳng có quyền bắt Zola không được hy vọng.
Ta sẽ chỉ ngậm ngùi vì những lời răn của những bề trên văn học (trong đó đích danh có M. Gorki) vẫn thường tiện mồm dạy những người viết văn hãy "lãng mạn cách mạng".
Bùi Ngọc Tấn là tên học trò hư của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Bùi Ngọc Tấn không biết nói dối.
Bùi Ngọc Tấn vẽ lên một cậu Cảnh thất nghiệp y hệt như những người thất nghiệp khác mà thân phận họ chưa bao giờ nằm trong một bản thống kê có giá trị nào.
Bùi Ngọc Tấn thuộc về số người viết vàn nhắc ta một cái quyền, quyền được sâu sắc. Có ai đó đã viết thế ở trang bìa 4 tiểu thuyết Biển và chim bói cá.
Hà Nội, 14-3-2009
Sum suê và khúc khích
(đọc Biển và Chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn)
-  Nguyễn Xuân Khánh
Khi nào cũng vậy, mỗi khi cầm một quyển sách mới trên tay để đọc, lòng dạ tôi xốn xang náo nức. Cứ như thể sắp sửa một chuyến đi vậy. Mỗi một chuyến lang thang, ta lại được gặp những cảnh khác lạ, những tập tục mà ta chưa biết, những con người mà ta chưa quen.
Đọc tiểu thuyết cũng vậy, đó là những chuyến phiêu lưu. Chỉ có khác là ta vẫn ở nguyên một chỗ. Đọc tức là cuộc viễn du đi tìm cái đẹp, cái mới lạ trên trang sách. Cái đẹp cái mới ở đây có thể ở ngôn ngữ, ở cấu trúc..., ở những ý tưởng sâu sắc của tác phẩm. Sách đưa ta vào những thế giới mới mẻ.
Mỗi người là một thế giới. Mỗi nhà văn là một thế giới phong phú mà một quyển sách không thể nói hết được. Ở cuốn sách trước Bùi Ngọc Tấn đã dẫn ta vào sự oan trái bi thương. Nhưng thế giới của Tấn không chỉ có vậy. Lần này, với cuốn tiểu thuyết Biển và Chim bói cá, anh đã dẫn chúng ta ra đại dương bao la. Thời gian xảy ra trong cuốn sách là cuối thời gian bao cấp, và chớm vào thời đổi mới. Với không gian, thời gian ấy, chắc cuộc viễn du của người đọc sẽ gặp nhiều điều thú vị.
Bùi Ngọc Tấn sinh ra ở Hải Phòng và đã lăn lộn ở Hải Phòng từ năm 1959 cho tới hôm nay. Anh đã từng làm phóng viên báo Hải Phòng nhiều năm, rồi đã có thời gian dài làm việc tại Quốc doanh Đánh cá Hải Phòng. Năm 1962, anh đã in cuốn truyện ký Người gác đèn biển - xem thế đủ biết Bùi Ngọc Tấn thân thuộc với biển nhường nào. Vì vậy, tôi rất háo hức đi vào thế giới của anh.
Nếu người đọc nào thích những chuyện ly kỳ gay cấn, thích câu chuyện có đầu có đuôi, có cốt truyện, thì đọc Biển và Chim bói cásẽ khó "vào". Chỉ những người đọc sách kiên nhẫn, từ tốn, thích suy ngẫm thì mới thích đọc sách này. Sở dĩ như thế vì cuốn sách đầy ắp những chi tiết, những sự kiện, những câu nói, những nhân vật. Có thể nói chi tiết nhiều vô kể. Hàng nghìn. Đang chuyện này lại chuyển ngay sang chuyện khác. Đang nhân vật này lại bắt ngay sang nhân vật khác. Cứ tưởng như hỗn độn, nhưng không phải. Khi người đọc đã nhập cuộc thì khu rừng rậm rạp ấy sẽ hiện ra hoàn toàn mạch lạc, rõ ràng.
Trung tâm câu chuyện là một xí nghiệp đánh cá biển Đông. Tuy nhiên, không chỉ khoanh tròn ở đấy. Quan hệ với nó còn có những bộ phận trên bờ; và quan hệ với các thủy thủ là những người vợ, con cái ở các làng quê; rồi tàu còn đi vào tới Lạch Trường miền Trung, tới Cà Mau miền Nam, rồi khi bước vào đổi mới tàu còn làm công việc giao thương với nước ngoài sang tận Singapore, Nhật Bản. Do vậy, liên quan tới con tàu và nhân vật trên tàu, ở nhiều vùng đất khác nhau, ở nhiều hoàn cảnh khác nhau sẽ có biết bao nhiêu tình huống xảy ra, tha hồ có đất để cho nhân vật bộc lộ và qua đó, đằng sau nó là những xúc cảm, nỗi niềm của tác giả.
Những chi tiết của Bùi Ngọc Tấn có đủ loại. Những chi tiết nghề nghiệp như tàu cập mạn thế nào, đánh tôm ra sao, thắt đụt ra sao, rồi tàu trong bão, trong sương mù... Những chi tiết sinh hoạt như thủy thủ thèm khát đàn bà, lên bờ trông thấy đàn bà nào cũng đẹp, thủy thủ uống rượu, uống bia ra sao, những trò ăn cắp cá, những chuyện ái ân quan hệ với đàn bà, rồi nịnh nọt, chạy chức chạy quyền vv... Nói tóm lại, nếu phải làm một bản liệt kê, thì chắc nó sẽ dài lắm.
Có thể nói Bùi Ngọc Tấn là người nắm bắt các chi tiết rất giỏi. Anh là người thợ săn chi tiết tài tình. Anh là người đam mê chi tiết. Sự sinh động hấp dẫn của cuốn sách là ở chỗ ấy.
Nhân vật của cuốn sách chừng vài chục người. Không có nhân vật nào chính hơn nhân vật nào. Nhân vật nào cũng được chú ý ngang nhau, bình đẳng với nhau. Đó là những thủy thủ thô tháp, chân thực, ăn sóng, nói gió, vất vả lam lũ, có người bản năng tục tĩu nhưng đầy tình người. Họ là những con chim bói cá trên biển Đông. Những thân phận người có những phút hạnh phúc, có những lúc cay đắng. Người nông dân ở nước ta thì "cái cò lặn lội bờ sông". Đó là biểu tượng. Còn với biển thì Tấn đã tìm ra cái biểu tượng con chim bói cá. "Tàu cá về, người bâu đến như dòi" Người ta nén nhân cách mình xuống để ngửa tay ra ăn xin, để tìm mọi cách mà ăn cắp. Thân phận con chim bói cá mà. Ai chẳng có vợ có con. Mà ở cái thời kỳ bao cấp ấy đói khát là cái thường tình. Cũng xin thể tất một câu nhân tình. Trong các con người này, chúng ta gặp một Lê Mây người dân chài nghèo miền Trung khi chưa vào làm nhà nước đã từng săn được một con cá mập khổng lồ. Cũng hoành tráng chẳng kém gì ông già trong tiểu thuyết của Hemingway. Khi còn đánh cá Lê Mây đã uống nhiều rượu. Đến lúc đi tàu ra nước ngoài, rồi trắng tay, nợ đầm đìa, lại càng uống khỏe hơn. Về hưu, càng uống tợn. Uống như điên như dại. Đến lúc chán không thèm uống nữa, cũng là lúc ông sắp trở về với đất. Chết mà không làm được việc ước muốn cuối cùng: Về thăm mẹ vợ. Chúng ta còn gặp Chơn một thủy thủ luôn đi biền biệt trên biển... còn vợ ở nhà ngoại tình. Trường hợp Nhâm mới thảm. Hai lần lấy vợ. Lần thứ nhất vợ biến thành mụ Hến trong làng. Lần thứ hai thì bị lừa ở Vũng Tàu. Mất toàn bộ tiền bạc bao nhiêu năm tích cóp...
Những nhân vật phản diện thời bắt đầu mở cửa nhà văn cũng quan tâm. Ta gặp ở đây những nhân vật như Đại Ca, giám đốc Thắng, Huy, Quán mèo, Tín giò v.v...
Về sự sum suê chi tiết của tác giả, tôi còn trở lại ở dưới bài viết.
Bùi Ngọc Tấn có nhiều năm làm báo (báo Tiền Phong, báo Hải Phòng). Dấu vết làm báo ấy ta cũng tìm thấy nhiều trong tiểu thuyết của anh. Rất nhiều đoạn như những bài tường thuật, điều tra, phóng sự. Ví dụ những đoạn: khu nhà tập thể và mênh mông cứt bao quanh, đánh tôm trên biển Lạch Trường, tàu áp mạn, hải quan và công an ăn chặn hàng của những tàu đi nước ngoài trở về v.v... Khuynh hướng đưa những thể loại khác xâm nhập vào tiểu thuyết là khuynh hướng của tiểu thuyết thời hiện đại.
Tác giả còn có một biệt tài làm cho văn anh có một nét riêng. Đó là tính hóm hỉnh, tếu táo, hài hước. Cái đó hợp với môi trường anh miêu tả. Thế giới lao động, nhất là những người lao động biển, thường ưa thích cách nói toạc, nói thẳng, nói trắng trợn, lắm khi rất tục tĩu. Người ta không có thì giờ mà để vòng vo tế nhị. Người ta thèm tiếng cười. Cái ngôn ngữ suồng sã, thô tháp ấy đầy rẫy trong sách của tác giả. Ai đọc sách cũng vậy. Người ta thường phải dừng lại vì một từ, vì một đoạn văn, vì một cảnh nào đó, để mà cười rúc rích một mình. Nào là "anh ngồi như ông Thế Trường đi", nào là "hạt thóc nảy mầm'; nào là đoạn Bôn vừa mới lên bờ, bỏ cả cuộc họp định về ái ân với vợ mà không được, nào là đoạn cô Mơ bí thư chi bộ nói với người tình câu nói bất hủ: "Nào, ta sinh hoạt đi anh', rồi cả cái đoạn đi xin "tình thương" (tức là đi xin quà) của tàu biển về cảng: đi xin cá ướp đá thì gọi là xin tình thương lạnh lẽo, xin tôm nát gọi là tình thương thối nát, rồi có cả tình thương sắt thép (xích líp), tình thương mây khói (thuốc lá) v.v...
Dân ta thích cười. Dân gian rất nhiều truyện tiếu lâm. Tuy nhiên, viết tiểu thuyết để cười được, và cười một cách thú vị là rất khó. Ít người làm được việc ấy. Mới chỉ có Vũ Trọng Phụng làm được cái đó trong Số đỏ và Vũ Bão trong một số truyện ngắn. Nay tiểu thuyết của anh Tấn tuy không phải là tiểu thuyết cười hoàn toàn nhưng đã có nhiều nét cười. Đó cũng là cái đặc sắc của tiểu thuyết này.
Có người bảo rằng Bùi Ngọc Tấn viết Biển và chim bói cá theo kiểu truyền thống. Tôi không nghĩ như vậy. Tôi nghĩ cuốn sách mang tính hiện đại rất nhiều.
Cốt truyện ở đây bị phá vỡ, nó lỏng lẻo.
Ở trên tôi đã nói tới sự sum suê của chi tiết. Sự sum suê đó không phải ngẫu nhiên. Nó đã được biến thành một thủ pháp nghệ thuật. Thế giới hiện đại phong phú đa dạng. Đi trong thế giới hiện đại, ta như lạc vào một khu rừng rậm rạp, ở đó mọi thứ đều ê hề: ê hề sự vật, ê hề ý tưởng. Cảm giác như gặp sự hỗn độn. Lẽ dĩ nhiên văn chương cũng chịu ảnh hưởng của sự ê hề ấy.
Tác giả đã tung sự ê hề ấy ra trước mắt người đọc. Độc giả đã bị những chi tiết sum suê ấy liên tục bắn phá vào bộ não. Chúng sẽ gây ra cảm giác độ rườm. Sự ê hề ấy sẽ trở thành sự ám ảnh trong tâm trí chúng ta. Đó là một thủ pháp tiểu thuyết của hiện đại.
Có người bảo trong sách này anh Tấn ít sử dụng hư cấu. Tôi nghĩ rằng hư cấu nhiều lắm chứ. Tôi biết rằng viết quyển sách này hầu như anh Tấn đã sử dụng những kinh nghiệm của cả đời anh lăn lộn đất Hải Phòng. Cả một đời bên biển sẽ gặp biết bao nhiêu chuyện, cảnh, người. Chỉ riêng việc lựa chọn các chi tiết cả đời ấy cái nào bỏ, cái nào dùng, rồi sắp xếp chúng sao cho có nghệ thuật. Điều ấy cũng là hư cấu hiểu theo nghĩa rộng.
Nhà văn hiện đại vốn sợ sự tả thực. Nhưng Albert Camus lại cho rằng nhà văn không thể chịu được cái thực, tuy nhiên không ai bỏ qua được cái thực. Ông nói:
"Sự sáng tạo tiểu thuyết đích thực sử dụng cái thực và chỉ sử dụng nó với cái nồng nàn của nó, dòng máu của nó, những đam mê hoặc tiếng thét của nó.
Chỉ có điều, sự sáng tạo ấy phải thêm vào đó một cái gì đó để làm biến đổi cái hiện thực đó đi".
Bùi Ngọc Tấn cũng đã thêm "cái gì đó" của riêng mình để làm biến đổi cái thực đi rồi chứ. Đó là sự chồng chất, cái sum suê ê hề chi tiết. Đó là tiếng cười sảng khoái của người nông dân quê anh - Đó cũng là sự ngậm ngùi cay đắng với số phận những nhân vật của anh.
Bùi Ngọc Tấn không phải là người ăn to nói lớn. Anh không thích đại ngôn. Ít thấy những lời nói của riêng anh trong cuốn tiểu thuyết. Anh chỉ làm công việc của người kể chuyện, hóm hỉnh, khách quan bằng cách trình bày tầng tầng, lớp lớp những chi tiết. Cứ tưởng như chỉ là chuyện tào lao, bông phèng. Nhưng rồi, sau cái cười, ta bỗng thấy lòng trĩu nặng.
Không hiểu sao, cuốn sách của anh bỗng gợi cho tôi nhớ tới từ "cơ chế". Tôi đi tra tự điển tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Việt. Nói chung, cách định nghĩa đều tương tự như nhau. Cơ chế nghĩa là sự tổ hợp các cách thức và phương pháp, theo đó một quá trình thực hiện.
Và tôi nghĩ lan man tới cơ chế bao cấp, tới chủ nghĩa thành phần. Rồi bệnh thành tích, bệnh tủ kính, bệnh giáo điều rồi cả cách sử dụng người tài, người trí thức... Kéo theo sau những cái đó, là điều kiện thuận lợi cho lũ cỏ dại đua nhau mọc. Nào xu nịnh, nào sa đọa, nào tham nhũng, bè cánh v.v...
Cái cơ chế ấy diễn ra một thời gian khá dài, đủ để tạo thành thói quen. Nó thủ tiêu sự sáng tạo. Nó gây ra một quán tính, sức ì. Cơ chế có thể dứt rồi mà nó vẫn còn tồn tại.
Hình như tất cả những điều tôi kể ra đều có trong sách của Bùi Ngọc Tấn. Chả trách đọc sách của anh cười đấy mà vẫn cứ buồn. Chợt nhớ tới cái Ngõ lỗ thủng của Trung Trung Đỉnh kể về cái xóm nghèo nhếch nhác cạnh công viên Thống Nhất Hà Nội. Cũng là chuyện đời thường thời bao cấp. Cũng là chuyện những mảnh đời han gỉ, mòn mỏi. Nghèo nàn tạo ra như thế. Cơ chế tạo ra như thế. Những con người đói khát sinh ra ăn cắp rồi tự hủy hoại nhân cách mình thành những kẻ ăn mày. Đấy là chưa kể, nhờ cơ hội, lũ sâu mọt, lũ lưu manh đua nhau đục khoét...
Đọc đến đoạn bác sĩ Bá về thăm cha mẹ ở Thái Nguyên, đem một đống vỏ lon bia về biếu họ hàng, tôi vừa buồn vừa tủi. Người ta hí hửng mài vỏ bia để làm cốc. Người ta xếp vỏ bia trong tủ kính để trang hoàng... Ở đây có sự ngây thơ nhưng cũng có sự thèm khát, sự ao ước thay đổi.
Ở Trung Trung Đỉnh, đó là cái ngõ nghèo thủ đô thảm hại. Còn ở Bùi Ngọc Tấn, đối tượng miêu tả là cả đại dương bao la phóng khoáng, thế mà cũng thảm hại. Chợt nhớ tới câu thơ của anh nhà báo Thông trong tiểu thuyết:
Biển ơi biển bạc làm chi
Biển vàng mà rất nhiều khi không vàng.
Biển vàng, đại dương mênh mông phóng khoáng của Bùi Ngọc Tấn tưởng chừng như đã biến thành một khu rừng nguyên thủy, ở đó luật rừng thống trị. Ở đó những kẻ như Đại Ca, giám đốc Thăng, rồi Huy rồi Quán Mèo là những ông vua con. Cơ chế đã tạo ra những hôn quân địa phương...
Tuy nhiên, khi gấp sách lại, người ta vẫn không mất hy vọng. Bởi vì đằng sau sự rậm rạp hỗn độn ấy, người ta lại cảm nhận được một sức sống phồn thực mạnh mẽ. Chỉ có điều nó giống như một dàn giao hưởng thiếu nhạc trưởng. Khi được điều khiển nhịp nhàng, chắc là sức sống ấy sẽ phát huy tác dụng.
Cuối cùng, để kết thúc tôi không thể không nói tới những đoạn ghi chép hay nhật ký của cậu bé 16 tuổi tên là Phong. Cậu thiếu niên đã theo cha là thuyền trưởng đi một chuyến viễn du dài ngày trên biển.
Đó là những ghi chép của một tâm hồn rất trong sáng và tin cậy vào những điều cao thượng của cuộc đời. Đó là những trang viết trữ tình của một tâm hồn ngây thơ, ngưỡng mộ biển cả và ngưỡng mộ cả những con người lao động nhọc nhằn trên biển. Những trang viết trữ tình ngắn gọn đan chen vào những trang viết gồ ghề, trắng trợn có khi tục tĩu của đời sống thủy thủ suốt mấy trăm trang sách như một đối trọng, như để hé lộ cho chúng ta những tia nắng, để nói với chúng ta rằng cuộc đời tuy xù xì như thế nhưng không phải là những nét ngây thơ trong sáng đã mất đâu. Những trang viết ấy là cái lương tri buồn buồn của cuộc đời. Chỉ có điều nó chưa thức dậy.
Chú thiếu niên ấy nhìn ông thuyền trưởng, cha mình như một ông thánh, như một vị anh hùng: "Bố tôi là người thuyền trưởng, là người lãnh đạo, là người chịu trách nhiệm về toàn bộ con tàu. Khi con tàu lâm nạn, bố tôi là người rời khỏi tàu cuối cùng".Nhưng rồi cuối cùng chú bé cũng nhìn ra sự thật. Dù là ông thánh, một vị anh hùng chăng nữa, bố chú bé cũng là một con người bình thường với những yếu hèn và sai lầm. Khi thấy cô Nguyệt nằm trên giường của ông bố thần tượng, cậu bé nghĩ:
"Thế là mọi chuyện đổ sụp. Bố tôi không còn là thân tượng của tôi nữa. Bố giống hệt mọi người. Thế mà, trước kia chúng tôi đã tự hào về bố biết bao. Vậy là từ lâu chúng tôi vân sống với những điều dối trá mà không biết" Rồi:
"Quá thất vọng, tôi tự nhủ: 'Có lẽ phải quan niệm lại thế nào là bố chăng?'"
Lời nói của một cậu bé đã quá thất vọng, khi nhìn ra sự gồ ghề phức tạp của cuộc sống, khi cái màu nhung lụa màu mè của cuộc sống được vén lên. Nhưng khi cậu bé nghĩ được như vậy tức là cậu đã lớn, đã trưởng thành. Hình ảnh cậu bé ấy là những tia nắng, là lương tri; cho nên khi gấp cuốn sách của Bùi Ngọc Tấn, lòng tôi thấy ấm áp vô cùng.
Biển và chim bói cá - "sử thi của thời hiện tại"
- Khánh Phương
Sáng tạo tiểu thuyết thể hiện quan niệm văn chương của Bùi Ngọc Tấn toàn vẹn và sâu sắc hơn cả, khi những triết lý đượm màu sắc hài hước cùng khám phá ý vị về tâm lý đời sống, tâm lý sáng tạo, từng mang lại thành công độc đáo cho ông trên lĩnh vực truyện ngắn và tùy bút, đã nhường chỗ cho một "cái nhìn sử thi" vượt ra khỏi ranh giới của sự phản ánh, miêu tả và khái quát thông thường. Người ta vẫn cho rằng tiểu thuyết được định hình bởi phạm vi phản ánh đời sống xã hội rộng lớn của nó, thực chất lại không phải vậy. Một sáng tạo bằng ngôn ngữ văn xuôi chỉ được xem là tiểu thuyết khi nó biểu đạt thành công ý tưởng cá nhân, quan niệm cá nhân của người viết về "hiện thực đời sống rộng lớn" mà thôi. Và quan niệm cá nhân của Bùi Ngọc Tấn trong các tiểu thuyết của ông là sự chứng nghiệm cũng như hồ nghi những giá trị tồn tại tưởng chừng ổn định, vững vàng bất biến nhưng thực ra lại đang hàm chứa cơn bão táp khốc liệt của sự phân hóa, biến tướng và hủy hoại, một sự chứng nghiệm phê phán sắc bén tựa như cái nhìn của các tiểu thuyết gia hiện đại nửa đầu thế kỷ 20, để làm nên thứ sử thi văn chương mới, sử thi của thời hiện tại. Nếu sử thi của thời anh hùng thiên về ngợi ca, tự khuyếch trương giá trị con người, thì "sử thi của thời hiện tại" lại là cảm hứng hồ nghi sâu sắc.
Biển và chim bói cá, cuốn tiểu thuyết đồ sộ tập trung vào khoảng hai mươi nhân vật, được miêu tả như những hình tượng đa phương, có phần lỏng lẻo trong một tác phẩm sắp đặt của loại hình nghệ thuật thị giác, nói bằng thứ ngôn ngữ trực quan của mồ hôi, nước mắt, máu và cả tiếng thở dài... với vài chục ngàn chi tiết lớn nhỏ, chi tiết nào cũng hóm hỉnh khiến người đọc phải bật cười tức khắc hoặc lay động những cảm giác sâu kín của lòng trắc ẩn, lương tri...
Khắc họa đời sống thực thể và tinh thần éo le, sóng gió, trôi dạt của anh em thủy thủ, công nhân viên tại một cơ sở đánh cá quốc doanh, Bùi Ngọc Tấn muốn đào xới đến kiệt cùng cái hiện thực nhọc nhằn của sinh tồn, bao gồm cả sinh kế và nhân sinh. Mỗi hành động sống đều như bị đẩy đến ranh giới của một tồn tại khác, thứ tồn tại buộc người ta phải tự vấn đến cùng, để soi lại vị trí của bản thân trong những thang bậc của tính người, của tư cách con người. Một anh chàng Nhược thợ lạnh "nổi tiếng" vì kéo bạn... ăn vụng hết cả mâm cơm tiếp khách của giám đốc mà anh ta được giao nhiệm vụ bưng về. Một đôi vợ chồng thủy thủ mòn mỏi trong cảnh thiếu thốn giật gấu vá vai bỗng dưng trở lại "hồi xuân" yêu đương nồng thắm, cuộc đời mở ra đầy hi vọng, sinh khí và tư cách, kể từ khi anh chồng nhận lệnh chuyển sang làm việc trên tàu vận tải viễn dương...
Cứ như vậy, những góc khuất của đời sống và con người tại một Liên hiệp đánh cá biển Đông lẫy lừng thành tích và cũng chứa chất những trái ngang... bỗng hiện ra trước bạn đọc như vật chứng không thể chối từ của một thời đại, đồng thời thể hiện một năng lực quan sát, ghi nhớ và miêu tả hiện thực tỉ mỉ đến từng chân tơ kẽ tóc của nhà văn.
Cuốn tiểu thuyết còn được trần thuật từ góc nhìn của"người trong cuộc" bên cạnh lối kể chyện khách quan từ ngôi thứ ba. Người trong cuộc ở đây là cậu bé Phong, lần đầu được theo cha đi biển, cha cậu là thuyền trưởng. Cùng trong chuyến đi đó, niềm vui bước vào thế giới người lớn của cậu nhanh chóng chuyển thành sự chấn động, cay đắng và chấp nhận buông xuôi trước những sự thật trần trụi tầm thường của cuộc đời. Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật khiến cho Biển và chim bói cá mang dáng vẻ lạ lẫm, vượt ra ngoài khuôn khổ, đa tạp trong sự hòa thanh.
Có thể xem Bùi Ngọc Tấn là một người kể chuyện thuần theo lối truyền thống, kể bằng sự kiện, nhưng lại không thể gán cho ông là một nhà văn bị lệ thuộc vào hiện thực ở cái vỏ diễn tiến bề ngoài của nó. Ông viết văn như người thiền quán tưởng từng hơi thở, mỗi chi tiết của cuốn sách óng lên một nỗi suy tư day dứt và cả tình cảm mãnh liệt của người viết đối với quê hương, với những nghịch lý thản nhiên đến lạnh lùng của hiện thực vượt khỏi những tiêu chí đạo đức và làm người vẫn được mặc nhiên thừa nhận. Bùi Ngọc Tấn thuộc số người viết văn để nhắc ta một cái quyền, quyền được sâu sắc. Và trong khi hiện thực có thể được tiếp cận bằng nhiều cái nhìn khác nhau, trong và ngoài văn chương, thì điều xác tín khả dĩ đối với bạn đọc chính là cái sâu sắc, mãnh liệt của con người tác giả, điều này làm nên sức sống cho tác phẩm và làm nên tính trung thực, phẩm chất hàng đầu của nhà văn...
Phụ lục (3)
Các bài phỏng vấn
Tôi mắc nợ Biển
- Phong Hằng thực hiện
1- Xin chúc mừng tiểu thuyết Biển và chim bói cá vừa đoạt giải thưởng quốc tế tại Pháp trong cuộc thi viết về biển. Biển và chim bói cá đã đến với cuộc thi này ra sao? Ban tổ chức đã đánh giá như thế nào về tác phẩm này?
Biển và chim bói cá là quyển tiểu thuyết thứ 5 của tôi, quyển tiểu thuyết duy nhất được in và phát hành suôn sẻ. Ba quyển đầu bị tịch thu khi còn là bản thảo từ những năm 60 thế kỷ trước khi tôi bị mắc vào vòng lao lý. Còn quyển thứ tư, Chuyện kể năm 2000 in xong, chưa phát hành đã có lệnh thu hồi tiêu hủy. Chỉ riêng Biển và chim bói cá là được in, được tái bản, được các báo đưa tin. Lại còn được đọc trên Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam từ đầu đến cuối, và được trả 800.000 đồng tiền "nhuận đọc". Tưởng thế đã là may mắn tột cùng rồi, nhưng nó lại được dịch ra tiếng Pháp và xuất bản tại Pháp tháng 10 năm 2011. Và được giải thưởng tại Festival Sách và Biển (Livre et Mer) tại Pháp năm 2012. Có lẽ 4 anh chị sinh trước nó bị vất vả nên số phận đã cho nó một sự đền bù chăng?
La mer etle martin-pêcheur (tên tiếng Pháp của Biển và chim bói cá) đã lọt vào mắt xanh của bạn đọc Pháp, là một trong sáu tập sách vào chung khảo. Và cuối cùng Biển và chim bói cá đã chiến thắng. Trang web của Festival có ghi mấy dòng in trên bìa 4 Biển và chim bói cá bản tiếng Pháp: Với lời vàn đẹp đẽ đây chất thơ, nhà vàn Bùi Ngọc Tấn đưa ta đến nơi mà chúng ta chưa bao giờ đến. Sau khi gấp lại tập sách chúng ta đã thay đổi. Và cũng trở nên tốt hơn.
2- Ông đã viết Biển và chim bói cá trong bối cảnh và tâm trạng nào?
Tôi đã làm một nhân viên ở một xí nghiệp đánh cá quốc doanh 20 năm. Là một thành viên, một tế bào của cái cơ thể phập phông hơi thở có một đối tượng lao động là biển cả này, tôi vui niềm vui của những ngày biển lặng gió êm, những chuyến biển tàu về đầy ắp cá, tôi lo lắng cho những người bạn của tôi đang chịu gió mùa, tránh bão, tôi chia sẻ nỗi buồn với những thủy thủ khi những chuyến biển bị gãy...
Và tôi hiểu những khó khăn về phụ tùng thay thế, về dầu đốt, về thiếu am mô ni ác chạy máy lạnh, về mỗi khi Sở "điên nặng" cúp điện...
Tôi cũng đã nhiều lần đi biển. Reo hò khi đụt cá căng phồng ào ào trút nước xuống boong, buồn lo nhìn đụt lép kẹp vừa lôi lên sàn dốc. Chọn tôm, nhặt cá, luộc tôm tít ăn khuya cùng các thuyền viên. Tôi yêu họ, tôi yêu biển.
Tôi mắc nợ với biển và mắc nợ với họ. Năm 1977 (hay 1978?) nghĩa là chỉ hơn 2 năm sau khi về làm ở xí nghiệp tôi đã viết và in truyện vừa Thuyền trưởng dài hơn 100 trang, tất nhiên là viết chui (ký tên khác) do nhà Lao Động xuất bản.
Là nhân viên thi đua làm trên bờ, tôi vẫn tận dụng mọi cơ hội đi biển và chăm chỉ ghi chép. Viết Biển và chim bói cá, tôi cố diễn đạt được cuộc chuyển mình trong tư tưởng, trong quan hệ giữa người với người, giữa người với biển, một cuộc vật lộn gian khổ và đau đớn...
Tôi đã dành ra 3 năm, viết đi viết lại nhiều lần và cuối cùng nó có hình dạng như các bạn thấy.
3- Theo ông, người nước ngoài có thể tìm thấy điều gì thú vị ở Biển và chim bói cá?
Lời tuyên dương Biển và chim bói cá của ông chủ tịch danh dự của Festival có câu: Quyển sách của Bùi Ngọc Tấn hoàn toàn làm chúng tôi thỏa mãn. Và sau đó ông nhắc đến những điều cụ thể hơn: Bùi Ngọc Tấn kể về đất nước mình và về thế giới đánh cá mà ông từng biết. Một quyển tiểu thuyết hấp dân về lịch sử một hải cảng, về một xí nghiệp đánh cá quốc doanh, về một cộng đồng người đánh cá can đảm và ranh mãnh vật lộn để nuôi sống gia đinh, vét biển đến cạn kiệt. Trước khi bị cuốn vào những quanh co khúc khuỷu của toàn câu hóa...
Về mặt nghệ thuật, Biển và chim bói cá cũng được đánh giá cao: Các báo chí đã dẫn nhiều nhận xét của những thành viên ban giám khảo, ban tổ chức Festival như cấu trúc của tiểu thuyết, rồi một giọng văn phảng phất Dostoevski, một quyển tiểu thuyết magnifique (tráng lệ, tuyệt vời)... qua đó thấy được hồn thơ pha lẫn với sự hóm hỉnh của một Vaclav Havel, hay một Milan Kundera...
Tôi rất hạnh phúc khi đọc thư của bà giám đốc Festival gửi dịch giả Tây Hà: "Chắc chắn ở Việt Nam còn nhiều áng văn hay cần được tiếp tục giới thiệu ra thế giới".
4- Còn ở trong nước Biển và chim bói cá được đón nhận ra sao?
Ngay khi mới xuất bản lần đầu công ty Nhã Nam đã tổ chức giới thiệu sách. Nhiều báo lớn đã đưa tin, và có bài nhận xét. Trong một số báo Tết một tờ báo coi việc xuất bản Biển và chim bói cá là một trong những sự kiện văn hóa trong năm.
Và như trên đã nói: Nó được đọc trên đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam trong nhiều tháng.
5- Đã suýt soát 80 tuổi, ông vẫn tiếp tục viết chứ ạ?
Năm nay (2012) tôi đã 79 tuổi. Sự chuyển biến theo hướng đi xuống diễn ra rất nhanh. Nhưng vẫn phải làm việc. Viết báo kiếm tiền để sống. Và viết văn.
6- Nghe nói ông từng có đơn đề nghị cơ quan có thẩm quyền tổ chức thẩm định lại quyển tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 của ông. Thực hư thế nào?
Vâng. Tôi đã làm nhiều đơn. Lên Ban Văn hóa Tư tưởng Trung ương. Lên Bộ Văn hóa. Và Hội Nhà văn. Đề nghị tổ chức hội thảo. Và kêu oan cho sách. Nhưng không được giải quyết. Trong khi đó, rất nhiều bạn đọc vẫn về Hải Phòng gặp tôi mang theo những bản photo Chuyện kể năm 2000 để tôi ký tặng.
Vậy là sau 12 năm, người ta vẫn tìm đọc Chuyện kể năm 2000. Và tôi vẫn tạo nên công ăn việc làm cho một số người. Chỉ có tác giả là không được đồng nhuận bút nào. Còn nhà nước thất thu tiền thuế.
Vẫn sống để kể lại
- Dương Phương Vinh thực hiện
-  Thưa nhà văn Bùi Ngọc Tấn, dạo này sức khỏe ông ra sao?
Cảm ơn chị. Năm nay tôi 76 tuổi. Thất thập kê nguyệt. Các cụ nói vậy nhưng tôi chẳng tính ngày tính tháng, tính năm. Nghĩa là cứ sống. Sống vui. Làm được đến đâu thì làm. Tôi bằng lòng với sức khỏe của tôi. Cuộc sống gian nan vất vả là thế, cả đời bị ức chế, lĩnh đủ, vẫn giữ được thân xác như thế này là tốt rồi. Tôi cố giữ lấy cái đầu. Cũng suy thoái nhiều đấy. Nhiều lúc cứ lẩm bẩm một mình. Như lão già câu cá Cuba Santiago. Lại còn quên nữa. Cái xa thì nhớ, cái gần thì quên. Nhưng chưa đến nỗi hỏng hẳn. Vẫn còn nhúc nhắc ngày ngày gõ máy được chữ nào hay chữ ấy.
Một thành tích đáng khoe là đã cai được thuốc lá. Viêm họng quá. Đành phải từ bỏ lý thuyết: Đời còn cái gì nữa ngoài điếu thuốc.
- Ít gặp, nhưng mỗi khi gặp ông tôi lại nhớ một câu của Nguyễn Khải trong cuốn nào đó, hình như trong Thượng Đế thì cười: "Già mà biết sống già thì cũng hay lắm chứ". Nghĩa là một tuổi già an nhiên, trầm tĩnh đôn hậu mà vẫn hài hước. Ông có thật sự thanh thản sau nhiều năm không bình yên?
Với tôi sống già hay sống trẻ cũng vậy thôi. Giống nhau và đều hay cả. Miễn là biết sống như một người phải sống. Trung thực. Nhân ái. Hài hước. Và làm việc...
Còn sống già, sống lâu với tôi là để thấy niềm tin của mình thành sự thật, để yêu đời hơn. Tôi nhớ vào khoảng năm 91, 92 Phùng Quán xuống Hải Phòng thăm tôi, chia tay lần trước tóc còn xanh, gặp lại nhau sau đó tóc cả hai đều bạc. Biết bao sóng gió đã đến trong quãng thời gian ấy. Chúng tôi nói với nhau: Phải sống dai. Nhưng chỉ năm sau Phùng Quán ra đi. Tôi cũng đã nói với Nguyễn Khải: Phải sống dai. Khải còn nói thêm: Sống dai là thắng. Cái lần gặp đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp tại Hải Phòng tôi cũng chúc Đại tướng sống lâu, sống dai để... thắng.
Tôi không chỉ thanh thản trong tuổi già, mà còn không ngờ mình lại có được một tuổi già như đang có. Một tuổi già vẫn còn nhiều nghi kỵ nhưng đầy sẻ chia, có thể nói một tuổi già hạnh phúc.
- Biển và chim bói cá có thể là nối dài của Chuyện kể năm 2000 về nội dung và hình thức (Chuyện kể năm 2000 kết thúc ở chỗ nhân vật chính tìm được việc làm ở Quốc doanh Đánh cá Hạ Long. Còn thủ pháp của Biển và chim bói cá cũng được cho là không mới so với Chuyện kể năm 2000)?
Đứng về phương diện nào đó thì đúng như vậy. Người kể chuyện vẫn là tôi. Tôi kể cuộc sống tôi đã sống, tôi đã chiêm nghiệm. Còn thủ pháp của hai quyển giống nhau nhưng cũng có những cái khác nhau, những bước phát triển đấy chứ. Giống nhau ở chỗ không thể kể lại được mà phải đọc nó, nghĩa là một thứ tiểu thuyết không có cốt truyện. Nhưng Chuyện kể năm 2000 còn có nhân vật chính (anh tù Nguyễn Văn Tuấn) Biển và chim bói cá không có nhân vật chính. Tất cả đều bình đẳng. Nhiều người bảo tôi đã dùng thủ pháp cắt dán, rồi mảnh vỡ, rằng tôi đưa phóng sự vào tiểu thuyết, một thủ pháp hiện đại. Lại có người nói tiểu thuyết của tôi khó đọc...
Thực sự tôi chỉ muốn viết sao cho sát gần cuộc sống. Và mong người độc đọc tôi không theo cách đọc cũ.
- Trong tọa đàm về Biển và chim bói cá, ông nói không có gì lỏng lẻo mà chặt chẽ như cuộc sống. Và quan hệ giữa con người với nhau vừa gắn bó vừa rời rạc. Ông có thể nói thêm về điều này?
Cuộc sống như chúng ta đang sống, hoặc như tôi chứng kiến và viết về nó là cuộc sống của những người bình thường, không chia thành tuyến này tuyến nọ như trong các phim hình sự, hay như các tác phẩm cổ điển có lago bên này Othello bên kia, có Javert và có Jean Valjean. Cuộc sống phổ biến của những người lao động hôm nay không rạch ròi tuyến tính. Nó nhờ nhờ, nó co giãn, những con người khao khát một cuộc sống tối thiểu, thụ động, quanh quéo cò con để có thể tồn tại, để nhích lên một vài cm và chờ đợi một ngày mai mà họ không mấy tin tưởng. Điều gắn bó là cùng một mẫu số chung như vậy. Và rời rạc vì ai cũng loay hoay và bằng lòng với kết quả xoay xỏa của mình. Lỏng lẻo mà chặt chẽ cũng là thế. Thật rất khó viết.
- Có nhà phê bình nói việc ông quá nhiều vốn sống quá nhiều hiện thực đâm ra lợi bất cập hại với trường hợp Biển và chim bói cá, ông thấy sao?
Biển và chim bói cá dài trên 500 trang chữ nhỏ. Hấp dẫn bạn đọc suốt 500 trang không có cốt truyện, không có những pha rượt đuổi gay cấn hồi hộp, không có những cuộc tình tay ba tay tư éo le ngang trái, không có những mưu mô hãm hại nhau trong nhà nghỉ, những trang sến mủi lòng người... là điều không dễ. Phải có một vốn sống dày dặn, để có thế kéo người đọc đi theo mình. Phải có rất nhiều chi tiết. Phải làm người đọc thích thú khám phá thế giới mình mời họ bước vào. Như họ đang chứng kiến một miền sống mới lạ khi đi du lịch. Trong du lịch, người ta không nghe kể một câu chuyện có đầu có đuôi. Người ta theo chân guide. Người ta nhìn, nghe. Người ta cười. Và người ta suy ngẫm.
Thật đáng mừng là rất nhiều bạn đọc đã trực tiếp hoặc gọi điện thoại chia sẻ với tôi cách viết đó. Họ thích thú đọc tôi. Có bạn đọc nuôi con mọn mà vẫn chong đèn đọc dù cho phải nhiều lần dừng để dỗ con ngủ. Có bạn đọc gọi tôi là người chép sử xã hội.
Tôi nghĩ trước tôi, ở Việt Nam chưa ai viết một tập tiểu thuyết không cốt truyện không nhân vật chính dày như vậy.
- Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh thì nói Bùi Ngọc Tấn là thợ săn chi tiết tài tình. Có phải vì mải săn mà ông chỉ thấy cây, không thấy rừng? Có phải việc say mê chi tiết của ông xuất phát từ việc ông thấy nhà văn Việt Nam đa số nghèo chi tiết?
Tôi đặc biệt say mê chi tiết. Nhớ lại tập truyện ngắn đầu tiên in năm 1962, nhà văn Lưu Quang Thuận làm biên tập thích thú nhắc đi nhắc lại mãi cái chi tiết trong truyện ngắn Hòa cả làng của tôi: Một cô gái nông thôn gặp người yêu vội vàng quá không kịp nhấm tí quế chi cho thơm miệng như những lần trước, chạy một mạch ra cây đa gù. Một chi tiết có thể khắc họa một tính cách, một thời đại, một hoàn cảnh, một tấm lòng. Chi tiết là cây. Nhưng chi tiết cũng là rừng.
Tôi kể chuyện bằng chi tiết, cùng lắm mới phải phân tích tâm lý, kể lể hoàn cảnh... Tôi muốn lưu giữ rừng rừng chi tiết, những chi tiết ấy nói lên thời đại đầy sức thuyết phục, không thể chối bỏ. Chi tiết là vàng của các nhà văn (nó làm nhà văn không phải viết bằng khái niệm) điều các nhà văn đúng là có hơi ít trong tác phẩm.
- Năm 2000 ở đại hội nhà văn, ông là người được chú ý nhất. Có kỷ niệm nào ông nhớ ở đại hội này? Nghe nói ông chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam hôm đại hội trù bị đến phòng ông mang theo chai rượu và có lời với nhà văn Bùi Ngọc Tấn rằng đến đại hội, ông không họp báo, cũng không phát biểu, không tham luận.
Đại hội Nhà văn Việt Nam năm 2000 thật sự làm tôi xúc động không thể nào quên.
Chuyện kể năm 2000 bị thu hồi tiêu hủy tháng 3 thì giữa tháng 4 họp đại hội, nghĩa là có một quãng thời gian vừa đủ để dư luận đến độ nhất. Từ chỗ là con số âm đối với văn chương, trong phút chốc tôi có lại tất cả.
Tôi chỉ xin kể hai kỷ niệm trong đại hội này:
Một buổi tôi đang ngồi trong hội trường theo dõi một bản tham luận nào đó, một bàn tay phụ nữ từ phía sau đặt trước mặt tôi một tờ thiếp bằng giấy trắng in hoa nổi, trên tờ thiếp là những dòng chữ: "Anh Bùi Ngọc Tấn. Sao hôm nay trông anh buồn buồn. Đừng buồn. Tất cả chúng tôi đứng bên anh. Anh đã làm được một việc có ích, Hãy vui lên". Tờ thiếp không ký tên. Tôi vội quay lại. Một phụ nữ áo dài đang đi về phía sau, chỗ chị ngồi, cách 5, 6 hàng ghế.
Lại một lần nghỉ giải lao, tôi đang đứng vẩn vơ ngoài hành lang hội trường, một tốp nhà văn nhà báo còn trẻ quây lấy tôi trò chuyện. Lát sau lại một tốp khác đến với tôi. Những người đến trước đứng dẹp sang một bên, những người mới tới một bên. Tôi đứng giữa và thật khó trò chuyện trong hoàn cảnh như vậy. Thế rồi các bạn đến trước nói: "Thôi, chúng mình chiếm hữu anh Tấn quá lâu rồi. Nhường cho các bạn mới đến".
Trước đại hội, có tin tôi bị tước quyền đại biểu, nhà thơ Hữu Thỉnh phó tổng thư ký Hội Nhà văn xuống Hải Phòng thăm tôi, cho tôi một chai vang Pháp, 1 chiếc phong bì 100 nghìn đồng, chính thức thông báo với tôi rằng tôi vẫn là đại biểu đại hội (sau này Bằng Việt có nói với tôi là dự kiến không cho tôi họp đại hội là có thực) và yêu cầu tôi ba không như chị nói ở trên. Tôi bảo Hữu Thỉnh: Những điều muốn nói, sách mình viết nói cả rồi. Mình đi họp chỉ với mục đích lớn nhất là gặp lại bạn cũ. Nếu không, có thể đến lúc chết cũng không gặp được nhau.
Xin nói thêm về ba không, nhà văn Nguyễn Khải có nói một câu rất hay: "Mười không cũng được, sự có mặt của Bùi Ngọc Tấn ở đại hội đã là bản tham luận hay nhất đại hội". Thế nhưng thật lạ là năm 2001, gặp Nguyễn Khải ở thành phố Hồ Chí Minh với mấy người nữa tôi cảm ơn anh về câu nói ấy, anh ráo hoảnh: Không. Mình có nói câu ấy đâu!
- Ông có thể nói thẳng thắn về tình đồng nghiệp trong giới nhà vàn, nhất là khi ông nổi tiếng vì Chuyện kể năm 2000?
9,9% là tuyệt vời, là chia sẻ, là niềm vui chung. Nhưng cũng có những phản ứng thật không thể hiểu. Có người đặt điều, bịa chuyện nói xấu sau lưng, có người không thể nhìn mặt tôi... chỉ vì tôi có Chuyện kể năm 2000. Đó là những người khi nhà anh mới sắm một chiếc ti vi cũng đồng nghĩa nhà anh ta mất cắp một chiếc ti vi. Nhưng thôi nói tới những người này làm gì. Tôi thương họ, bởi họ rất khổ vì lòng đố kỵ hành hạ họ.9
- Trước kia ông từng nói không kỳ vọng vào những giải thưởng chính thống, nhất là của Hội Nhà vàn Việt Nam, nhưng rồi cuốn Rừng xưa xanh lá của ông lại nhận được giải của Hội Nhà vàn Việt Nam. Điều này chứng tỏ gì?
Chứng tỏ việc xét và trao giải không hoàn toàn sai lầm. Thật ra trong các tác phẩm được giải thưởng có những tác phẩm rất xứng đáng mà tiêu biểu là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, một quyển tiểu thuyết làm vinh dự cho văn chương Việt Nam. Thế' mà đã có thời người ta mở cuộc vận động để rút lại giải thưởng đó.
- Trong nhiều cuốn sách của mình, ông thường kể lại những ngày làm phóng viên báo Tiền Phong (1954-1959) như những ngày hạnh phúc nhất. Có phải vì hồi đó ông đang tuổi 20...
Tuổi 20 bao giờ chẳng đẹp. Đất nước lại mới hòa bình. Xã hội tốt đẹp. Người ta đang được làm công việc mình khao khát. Người ta mơ ước. Người ta tin tưởng. Người ta yêu nữa. Một thời đã qua đẹp ngang thời thơ ấu....
- Hồi đó (làm phóng viên báo Tiền Phong) ông viết về cái gì? Đó có phải là những bài báo hay không? Theo nhà vàn Vũ Thư Hiên nhận xét trong hoàn cảnh hồi ấy, đó là những bài báo tầm phơ, nhưng công việc làm báo và đi nhiều đã cho ông và các bạn vốn liếng để làm vàn và đó mới là cái được nhất.
Hồi đó tôi viết về nông thôn. Đi nhiều. Ghi chép nhiều. Tập truyện ngắn đầu tiên Đêm Tháng Mười (1962) của tôi là kết quả của những năm tháng ấy. Nhưng đấy chỉ là kết quả phụ. Cái chính tôi "được" khi làm phóng viên Tiền Phong là sống giữa những người bạn cùng lứa tuổi, cùng cách sống, cùng khát vọng đam mê, những Tất Vinh, Mạc Lân, Nguyễn Trĩ Tình, Vũ Lê Mai... Những ngày ấy, những người bạn ấy đã góp phần tạo nên tôi hôm nay.
- Bây giờ ông có đọc và quan tâm tới báo Tiền Phong? Ông thấy cách làm báo, viết báo của giới trẻ so với thời của ông như thế nào?
Tôi thường xuyên mua báo Tiền Phong. Cách làm báo cách viết hiện nay khác xa thời chúng tôi làm báo. Tôi thèm được làm báo như các bạn ngày hôm nay. Và khâm phục các bạn. Mới nhất là loạt bài điều tra về đất đai Hà Đông trước khi sát nhập vào Hà Nội đã thu hút tôi và đông đảo bạn đọc.
- Ông từng nói lẽ ra không nên rời Hà Nội, đã ở thủ đô thì hãy "Sống mãi với Thủ Đô"? Giống như trường hợp Nguyên Hồng đang ở Hà Nội đùng đùng đưa vợ con về Nhã Nam. Giờ đây ông còn tiếc nuối điều gì?
Thủ Đô bao giờ cũng là Thủ Đô dù có thế nào chăng nữa.
Nghe theo lời khuyên của Đảng, của các nhà văn đàn anh, tôi rời Hà Nội về Hải Phòng để thâm nhập thực tế, thâm nhập công nông, viết tác phẩm của đời mình. Tôi đâu ngờ phải sống cạn một kiếp tôi để rồi viết về chính nó. Nhưng thôi, hãy coi tất cả là số phận.
- Phạm Xuân Nguyên nói Bùi Ngọc Tấn là nhà văn của sự thật. Liệu đó có phải là lời xưng tụng mà ông hài lòng nhất?
Vâng, đây là một trong những đánh giá làm tôi vui. Có nghĩa là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ khi viết trở lại.
- Ông nói: ông viết đúng như những gì mình nghĩ, không pha chế, không thêm xi rô. Trong Chuyện kể năm 2000, ông cũng nói điều ông ghét nhất trên đời này là sự giả dối. Vương Sóc, nhà văn và nhà phê bình hiện đại Trung Quốc, mô tả bức tranh xã hội Trung Quốc là "nói dối đi nói dối lại, không biết thành thật là thế nào". Ông nghĩ xã hội ta hôm nay, liều lượng giả dối nhiều hơn hay ít hơn thời của ông?
Liều lượng nói dối thời trước ít hơn bây giờ, nhưng nó chính là căn nguyên của bệnh nói dối trắng trợn hôm nay. Trong Chuyện kể năm 2000, tôi đã viết: "Chúng ta đã quen nghe những lời dối trá để qua đó biết được sự thật".
- Ông có nghĩ ngày này đã bớt đi "những người phụ trách cuộc sống" (chữ của Trần Dần). Và nhưng bi kịch kiểu như Bùi Ngọc Tấn chỉ còn là chuyện mông muội của quá khứ?
Tôi mong rằng nó bớt đi.
- Ông là người "Sống để kể lại". Sau đây còn có điều gì mà ông muốn kể? Có điều gì mà ông muốn kể nhưng sẽ chẳng bao giờ dám kể?
Còn nhiều điều muốn kể lắm. Và tôi đang... kể. Tất nhiên là kể rất thật. Hy vọng nó sẽ được đến với bạn đọc trong thời gian tới. Hiện nay tôi chưa thấy điều gì muốn kể mà chưa dám kể. Khi viết tôi hoàn toàn tự do.
- Cảm ơn nhà vàn Bùi Ngọc Tấn.
Bùi Ngọc Tấn viết văn như người thiên quán tưởng từng hơi thở. Có thể đó là sự cân bằng lại với thời ông viết truyện ngắn, thoải mái và dư giả trong từng ý tưởng tinh tế, hóm hỉnh, mà nhiều khi dung dị như người chẳng hề cố ý lập tứ, viết văn. Cuốn tiểu thuyết đồ sộ với khoảng hai mươi nhân vật chính, thứ chính, vài chục ngàn chi tiết Iớn nhỏ, chi tiết nào cũng hóm hình khiến người đọc phải bật cười tức khắc hoặc lay động những cảm giác sâu kín của lòng trắc ẩn, lương tri... tất cả thể hiện một năng lực quan sát, ghi nhớ và miêu tả đời sống tỉ mi đến từng chân tơ kẽ tóc. Có thể xem Bùi Ngọc Tấn là một người kể chuyện thuần theo lối truyền thống, kể bằng sự kiện, nhưng lại không thể gán cho ông là một nhà văn bị lệ thuộc vào hiện thực ở cái vỏ diễn tiến bề ngoài của nó. Từng chi tiết của cuốn sách óng lên một nỗi suy tư day dứt và cả tình cảm mãnh liệt của người viết đối với quê hương, với những nghịch lý thản nhiên đến lạnh lùng của hiện thực vượt khỏi những tiêu chí đạo đức và làm người vẫn được mặc nhiên thừa nhận. Bùi Ngọc Tấn thuộc số người viết văn để nhắc ta một cái quyền, quyền được sâu sắc. Và trong khi hiện thực có thể được tiếp cận bằng nhiều cái nhìn khác nhau, trong và ngoài văn chương, thì điều xác tín khả dĩ đối với bạn độc chính là cái sâu sắc, mãnh liệt của con người tác giả, điều này làm nên sức sống cho tác phẩm và làm nên phẩm chất hàng đầu của nhà văn: lòng trung thực...
"... Bùi Ngọc Tấn kể về đất nước mình và về thế giới đánh cá mà ông từng biết Một quyển tiểu thuyết hấp dẩn về lịch sử một hải cảng về một xí nghiệp đánh cá quốc doanh, về một cộng đồng người đánh cá can đảm và ranh mãnh vật lộn để nuôi sống gia đình, vét biển đến cạn kiệt Trước khi bị cuốn vào những quanh co khúc khuỷu cùa toàn cầu hóa...
Chan chứa yêu thương và ngộ nghĩnh... Đầy chất thơ... Bùi Ngọc Tấn tặng chúng ta một quyển tiểu thuyết nhân văn... cấu trúc rất đặc sắc. Không chút áp đặt ông dẫn chúng ta đến một vĩ thanh để chúng ta tự do suy ngẫm... Bùi Ngọc Tấn biết cái giá của tự do. Tiểu thuyết cùa Bùi Ngọc Tấn là cuốn sách không thể nào quên. Thậm chí có lẽ là... một quyển tiểu thuyết làm người ta tốt hơn. ’’
- Lời tuyên dương Biển và chim bói cá của ông François Bourgeon, chủ tịch danh dự Festival Sách và Biển của Pháp năm 2012
Chú thích:
1. Xin coi mục Emile Zola trong Từ điển Văn học (bộ mới), Đỗ Đức Hiểu soạn.
2. Xin coi đường dẫn: http://www.bmlisieux.com/
3. Havelock Ellis, lời giời thiệu Germinal trong bản dịch sang tiếng Anh, xuất bản năm 1894; xin coi đường dẫn: http://www.ibiblio.org/.
Bùi Ngọc Tấn
Dịch giả: Dương Tường
Theo https://vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chùm thơ của Lưu Lãng Khách

Chùm thơ của Lưu Lãng Khách Ngoài kia xuân đang qua rồi sao!/ Thềm hoa hanh hao - trên trời cao/ Chim non ca vang như ngày nào/ Bên em anh...