Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2018

Biển và con chim bói cá 1

Biển và con chim bói cá 1
Một cuốn sách làm cho ta tốt hơn
Festival Sách và Biển (Livre et Mer) là một festival quốc tế hằng năm của Pháp nhằm tôn vinh những tác phẩm viết về biển... Giải thưởng mang tên nhà văn Henri Queffélec, người được xem là một trong những tác giả vĩ đại nhất viết về biển bằng tiếng Pháp trong thế kỷ 20.
Năm 2012 có 6 tác phẩm vào chung khảo của các tác giả từ các nước Pháp, Bỉ, Canada và ở Việt Nam là Bùi Ngọc Tấn với tiểu thuyết Biển và chim bói cá. Tất cả đều là các nhà văn chuyên nghiệp, có người là Thủy sư Đô đốc, có người là Giám đốc nhật báoLe Monde.
Vượt qua 5 tác phẩm khác, Biển và chim bói cá (tên tiếng Pháp là La mer et le martin-pêcheur) đã đoạt Giải thưởng Lớn (chỉ có một giải thưởng duy nhất).
Dưới đây là bản tuyên dương Biển và chim bói cá của ông François Bourgeon, chủ tịch danh dự Festival:
Với Salon năm 2012 này, Concerneau muốn là một thành phố mở ra tất cả các biển.
Về giải Henri Queffélec, ban tổ chức đã tuyển chọn sáu tác phẩm có một điểm chung: tất cả đều đưa chúng ta đến một nơi nào khác... ít nhiều trong thời gian... ít nhiều trong không gian.
Năm này sang năm khác, mỗi ban giám khảo, qua tranh cãi và nghị luận, đề cập đến tính đặc thù của mình, tổng hòa những khác biệt của chúng tôi.
Trước hết, chúng tôi lựa chọn tâm thái trong đó chúng tôi muốn cùng nhau làm việc.
Mỗi tác giả đều mang tính cách rất riêng và mỗi tác phẩm đều độc đáo. Chúng tôi không muốn đưa các tác phẩm được tuyển chọn vào một cuộc thi đấu để phê chuẩn bằng việc xếp hạng. Hoặc đi đến một thỏa hiệp có thể để lại những điều đáng tiếc.
Để cùng nhau tìm ra một tác phẩm mà mỗi người đều tâm thành bảo vệ, chúng tôi đã xác định một số tiêu chuẩn được tất cả đồng thuận.
Khẳng định sự lựa chọn của Liên hoan này là hướng mở về Nơi Khác.
Trong năm kỷ niệm này, tôn vinh Henri Queffélec...
Bằng cách tôn vinh Biển trong cuộc mặt đối mặt giữa Biển và Con Người.
Và, nếu có thể, đánh dấu sự chuyển động của thời gian bằng cách chào mừng Biển trong tính đương thời của nó.
Chúng ta đang ở Concarneau. Concarneau là một hải cảng đánh cá.[1]
Nay là năm 2012, bình minh của một thế kỷ bản lề, khi mà con người đang chậm rãi, rất chậm rãi ý thức ra rằng không một tài nguyên nào của hành tinh xanh này là mãi mãi không cạn kiệt.
Về nhiều điểm, các tác phẩm được tuyển chọn nằm trong một niên biểu dễ gây bối rối mà có lẽ chúng ta sẽ có thể nhắc tới trong khuôn khổ của Liên hoan này.
Về Con Người đối mặt với Biển, được đặt vào đúng chỗ và thế kỷ của mình và đồng thời thay đổi theo tuổi tác, mỗi tác phẩm đều có điều lý thú để nói.
Về mong muốn hướng mở về Nơi Khác, đánh dấu những năm tháng đã trôi qua từ khi sáng lập Salon và Henri Queffélec ra đi, từ khi lập ra giải này, cuốn sách của Bùi Ngọc Tấn đã hoàn toàn làm chúng tôi thỏa mãn.
Tác giả là người Việt Nam.
Ông kể về đất nước mình và về thế giới đánh cá mà đích thân ông từng biết.
Ông đem đến cho chúng ta một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn về lịch sử một hải cảng... về một xí nghiệp đánh cá quốc doanh.
Và về một cộng đồng người đánh cá, can đảm và ranh mãnh vật lộn để nuôi sống gia đình, vét biển đến cạn kiệt. Trước khi bị cuốn vào những quanh co khúc khuỷu của toàn cầu hóa.
Chan chứa thương yêu và ngộ nghĩnh... Đầy chất thơ...
Bùi Ngọc Tấn tặng cho chúng ta một cuốn tiểu thuyết nhân văn... Cấu trúc rất đặc sắc...
Không chút áp đặt, đầy hài hước và ý tứ, ông dẫn chúng ta đến một vĩ thanh để cho chúng ta tự do suy ngẫm... Bùi Ngọc Tấn biết cái giá của tự do.
Tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn là một cuốn sách không thể quên.
Thậm chí có lẽ là... một cuốn sách làm cho ta tốt hơn.
Bụng màu da cam... Lưng xanh biếc.
Quả trái phá óng ánh ấy là con chim bói cá.
Đó không phải là một loài chim biển, mà là chim của sông của suối.
Nhưng khi con nó đói, nó liều mình giáp đấu với sóng cả. Mũi tên thép xanh biếc ấy làm ta nhói lên xúc động...
Và chạm thẳng vào tim.
Dương Tường dịch
Chú thích:
[1] Concarneau  là một hải cảng nằm trong bộ phận Finistère thuộc vùng Bretange phía Tây ở Pháp.
Một suy tưởng đẹp đẽ và nhạy cảm về phận người
Năm 2012, tiểu thuyết  Biển và chim bói cá được giải thưởng Sách Hay do độc giả bình chọn trong hạng mục sách sáng tác (chỉ có một giải cho mỗi hạng mục). Dưới đây là trích đoạn lời tuyên dương Biển và chim bói cá do nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên đọc trong lễ trao giải tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 22-9-2013 vừa qua:
(...) Biển và chim bói cá là cuốn sách thứ năm và là cuốn tiểu thuyết thứ hai của nhà văn Bùi Ngọc Tấn sau một thời gian dài ông bị lâm nạn và lặng tiếng. (Cuốn tiểu thuyết thứ nhất thời kỳ "viết lại" này của ông là Chuyện kể năm 2000 đã được dịch ra tiếng Anh và tiếng Pháp). Tác phẩm có bối cảnh là một xí nghiệp đánh cá cuối thời bao cấp với cả một tập thể nhân vật đủ hạng người phải vật lộn giữa biển khơi và biển đời để sống, để tồn tại. Những con người trên bờ dưới nước giăng lưới đánh bắt cá và cả đánh bắt nhau, họ vùng vẫy tìm cách thoát thân trong một tấm lưới vây bọc mình của cơ chế, của xã hội. Biển mênh mông mà chật hẹp. Biển dữ dội mà êm đềm. Biển nuôi sống con người và dạy con người biết sống làm người tự do. Con chim bói cá đã giúp cậu bé lần đầu tiên được cha cho lên tàu ra biển hiểu điều đó. Nhưng rồi cuộc sống đã làm thay đổi cậu, biến cậu thành một con người khác, mất đi sự trong trẻo của tâm hồn buổi đầu đời. Văn của Bùi Ngọc Tấn trong tiểu thuyết này có sự kỹ lưỡng, chi tiết của ký sự, sự hài hước mỉa mai nhẹ nhàng, và chất thơ của cái nhìn xót thương con người, tất cả được thể hiện trong một lối viết hiện thực nghiêm nhặt. "Cuốn tiểu thuyết cũng là một sự suy tưởng đẹp đẽ và nhạy cảm về phận người" ("Le roman de Bui Ngoc Tan est aussi une belle et sensible méditation sur l'humanité") như nhận xét của nhà báo Pháp Jean-Luc Cochennec khi Biển và chim bói cá trong bản dịch tiếng Pháp của dịch giả Tây Hà ("La Mer et le martin-pêcheur", Editions de l'Aube, 2011) được trao Giải thưởng Lớn (Grand Prix) tại Liên hoan Sách và Biển (4-2012) mang tên nhà văn Pháp chuyên viết về biển Henri Queffélec (1910-1992). Có thể đọc Biển và chim bói cá như một thiên sử thi. Sử thi về sự tan rã. Đây là lời nhà văn tâm sự: "Sử thi không chỉ là để nói về chuyện thành lập cái này, cái kia. Trong cái tan rã, có những cái rất bi hùng. Tan rã ở đây là về ý thức hệ, từ chỗ tuyệt đối tin tưởng, rồi đến hoang mang dao động rồi mất lòng tin; tan rã từ chỗ đoàn kết gắn bó với nhau trở nên rời rạc, phân rã, mỗi người một kiểu; tan rã trong tình bè bạn, tan rã trong tình đồng chí, tan rã trong một tổ chức, một lý thuyết tổ chức chỉ đạo sản xuất. Tôi nghĩ rằng, tôi cố gắng phản ánh thực tế của sự tan rã ấy bằng những chi tiết cụ thể, chi tiết sinh động, mà không ai có thể chối cãi được" Giải thưởng Sách Hay 2013 trao cho tác phẩm này thêm một lần khẳng định giá trị nhân văn sâu sắc của một cuốn sách rất hiện thực mở ra cho người đọc một cách nhìn thẳng vào sự thật, hiểu về một thời đã qua, xót xa cho phẩm cách con người trong cuộc vật lộn chống lại sự tha hóa và tan rã của con người. Để con người lại được hồi sinh cùng biển đời theo từng lớp sóng nhân sinh của các thế hệ kế tiếp nhau. (...)
Phần thứ nhất
Trần Bôn thuyền trưởng tàu Hạ Long 414 có cách cặp cầu thật êm ả nhẹ nhàng. Trên khoảng trống cầu tàu chiều dài chỉ vừa một con tàu đỗ, lựa theo dòng nước chảy, anh cho tàu chạy tới chạy lui, đến khi quăng được một đoạn dây mồi lên cho một anh cảng vụ để anh ta kéo vào đoạn dây cáp to tướng ướt sũng nước rồi buộc nó vào cột bích là coi như công việc đã xong một nửa. Chỉ còn cho tơi quay cô dây cáp, kéo mũi tàu sát cầu ép cái lốp xe cũ vào dầm gỗ ốp bọc ngoài dầm bê tông, làm xùn ra những giọt nước trong veo. Rồi đánh tay lái, điều khiển phía đuôi tàu cho cả thân tàu sát vào gần cầu cảng. Rồi cũng lại một sợi cáp được quăng lên, cột vào một trụ bích khác. Tơi cuộn rút ngắn cáp, kéo đuôi tàu áp sát cầu. Mạn tàu dập dềnh cũng lại được những cái đệm chống va đan toàn bằng mây như một quả bom hình bầu dục treo thõng trên cầu tàu rúm lại đón đỡ. Thế là con tàu của anh đỗ vừa khuýp khoảng cầu trống người ta dành cho anh, sát các tàu khác như ta xếp một cái xe đạp. Với chiếc cầu thang bắc chênh chếch từ mạn xuống mặt bê tông cầu cảng, nó như đã đỗ ở đấy tự bao giờ.
Nếu cặp cầu nhẹ nhàng êm ả nhất là Bôn thì cặp cầu ầm ĩ nhất là Chơn. Bao giờ Chơn cũng oang oang những mệnh lệnh cặp cầu qua micro, náo động cầu cảng, náo động cả một khúc sông và những xí nghiệp bạn liền bên:
-  Lên nữa! Lên nữa!
-  Quay lái ra để tàu lai kèm đổi mạn!
-  Quăng dây! Quăng dây!
-  Tàu lai! Tàu lai! Đề nghị tàu lai áp mạn! Đề nghị tàu lai áp mạn!
-  Tàu lai! Đưa 412 về gần Biển Đông! Đừng để trôi! Đừng để trôi!
-  Đề nghị đưa 412 về gần Biển Đông!
Những mệnh lệnh mỗi lúc một gắt gỏng cau có:
-  Vứt dây!
-  Buộc lên bích trên! Buộc lên bích trên!
-  Đứng ra! Gãy chân bây giờ!
-  Cho trục tơi cuốn cáp lái vào đi!
-  Không được để chạm vào dây cáp Biển Đông! Không được để chạm vào dây cáp Biển Đông!
Cứ như vậy cho đến khi tất cả lặng đi. Và bỗng nhiên vang trong khoảng trời xanh êm đềm cầu cảng, thay cho những mệnh lệnh, những tiếng gắt gỏng càu nhàu được phóng đại oang oang là một giọng đơn ca nữ trong trẻo vút cao trên nền đệm của dàn nhạc dây: Đi mô chừ cũng nhớ về Hà Tịnh. Nhớ núi Hồng Lịnh, nhớ dòng sông La nhớ biển rộng quê ta ớ ơ... thì cả xí nghiệp biết ông Chơn đã cập cầu xong rồi. Lần nào cũng chỉ một bài ấy. Nếu không thì Nghệ Tĩnh mình ơi bao năm đợi tháng chờ. Một vùng nước bạc đồi núi lô nhô... Những bài hát thật hay mà những lúc rỗi rãi chính Chơn thường nghêu ngao xuyên tạc: Nghệ Tĩnh mình ơi Trung ương gọi lấy mì, hay Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tiện. Với Chơn, bấy giờ mới thật sự kết thúc một chuyến biển dài mệt nhọc vất vả (cho dù anh đã hạ lệnh kéo mẻ lưới cuối cùng và làm tổng vệ sinh tàu trước đó cả một ngày rồi hành trình từ ngư trường về bến), bấy giờ mới là lúc anh dành cho mình những phút giây thanh thản. Chơn người miền trong, Khu Trớ, theo cách gọi của cánh văn phòng. Nhưng là một Khu Trớ tuyệt vời. Lạ thế. Khu Trớ đã keo thì thật keo, nhưng đã rộng rãi, dân Bắc đầu hàng đã hẳn, cánh Nam Bộ cũng phải chào thua. Đấy cũng lại là nhận xét của cánh văn phòng. Nhận xét này được tất cả các phòng ban công nhận. Hội văn thư đánh máy có lần nào xuống tàu mà không được những gói cá tươi ngon. Dân kỹ thuật thì khỏi nói. Những chiến hữu cánh hẩu. Những buổi nhậu dưới tàu và những buổi nhậu trên phố quên đời. Chánh văn phòng Điều không thể quên một tối đi nhậu với Chơn. Chỉ có hai người. Hai người hai xe đạp, lên phố Ga. Uống từ tan tầm chiều. Tới tắt đài. Một chai Giôn đen. Hai thùng Heineken chỉ còn lại bốn lon. Uống xong cứ bảo ngủ lại. Đây là nhà dì nó mà. Nguyệt! Nguyệt! Mình thu xếp cho sếp của anh chỗ ngủ ở đâu nào. Còn anh, mình không lo. Mình ngủ đâu anh ngủ đó. Hay là thôi cứ để sếp ngủ luôn với vợ chồng mình. Em yên tâm, con này con ấy chết rồi, có ngủ cùng giường cũng chết rồi, chẳng việc gì mà sợ... Chánh văn phòng không quên được trận nhậu đó. Trận nhậu cũng sưa như nhiều trận nhậu khác nhưng nhớ là nhớ cái đận sau khi nhậu xong. Điều gọi xích lô. Gửi hai xe đạp lại nhà hàng. Dìu Chơn lên xích lô rồi ôm Chơn ngồi trên xe về cầu cảng. Thằng cha ấy uống mới tởm chứ. Rượu chia đôi. Bia mình chỉ uống gần chục lon. Còn bao nhiêu vào lão ấy cả. Đến lúc xuống tàu thật hú hồn. Nước xuống. Tàu đỗ hàng ba, mà cái 412 lại đỗ ngoài cùng, chỉ sợ bố ấy rơi xuống sông. Mãi không vắt được chân qua lan can. Vắt được chân rồi cha ấy cũng không lật được sang bên kia. Cứ nằm úp người trên hai lan can hai tàu. Mà nào tàu có đứng yên cho đâu. Một con tàu đi mãi giữa luồng cũng làm cho hai lan can dập dềnh tách ra, chụm vào, nhô lên tụt xuống. Mình phải nhảy vội sang tàu ngoài bế xốc bố ấy lên. Cứ thế qua được hai tàu. Đến khi về được 412 mình móc các túi của cha ấy tìm chìa khóa không thấy, không mở được cửa, thế là dìu cha ấy quành ra hành lang, đẩy cha ấy chui qua cửa sổ cabin vào giường. Buồng thuyền trưởng tàu bốn trăm (400 mã lực) ông biết rồi đấy. Giường liền ngay cửa sổ. Sáng hôm sau đi làm, lên xích lô đến phố Ga lấy xe đạp, đạp đến xí nghiệp, việc đầu tiên là xuống tàu xem cha ấy có việc gì không, thấy cha ấy vẫn ngủ. Vẫn nằm sấp, một chân trong giường, một chân thò ra cửa sổ. Đút vào thế nào nằm i xì thế ấy. Không nhóc nhách. Suốt đêm một tư thế. Như người chết rồi. Hôm ấy lão ta làm sao mình chỉ có toi.
Chơn đánh cá, tính nết phổi bò. Vợ ở quê có mang với một anh giáo viên trường cấp hai về sau làm xã đội.
Biết tin, Chơn xin nghỉ phép về nhà. Nhưng vợ đã bị bố đuổi về nhà bố mẹ đẻ. Chưa gặp vợ nhưng nhìn bố, lòng anh đau. Anh không ngờ bố lại suy sụp đến vậy. Anh hiểu tất cả do vợ anh. Bố anh là người được cả làng, không những thế, cả xã tín nhiệm. Gia đình anh là một gia đình được cả huyện nhìn vào. Thời chống Pháp, bố anh đã làm chủ tịch xã, rồi trong Ban chấp hành Mặt trận Liên Việt huyện. Anh cả Chơn vào bộ đội ngay khi tiếng súng kháng chiến toàn quốc bùng nổ và hy sinh trong chiến dịch Biên giới. Mấy anh em Chơn đều được bố mẹ cố gắng nuôi ăn học, người đỗ trung cấp, người tốt nghiệp đại học. Vết nhục này quá sức chịu đựng với ông cụ.
- Khốn nạn quá. Bố không dám vác mặt đi đâu nữa. Gia phong nhà ta không cho phép chứa chấp loại người như thế. Vợ chứ không phải con điếm trong nhà. Ý anh thế nào là tùy, nhưng bố không thể ở với nó một nhà. Bố không thể có một đứa con dâu như thế.
Anh đến nhà bố mẹ vợ, xuống bếp gặp vợ, nhìn cái bụng lùm lùm của vợ:
- Bao lâu rồi?
Vợ anh khóc:
- Bảy tháng rồi.
- Bây giờ tính sao?
Nước mắt ướt đẫm gò má, người vợ gục mặt xuống đầu gối, vai rung lên. Một lúc sau ngước cặp mắt sưng mọng nhìn anh:
-  Em là con đàn bà hư hỏng. Em là đứa bỏ đi. Em không xứng đáng với anh, với bố mẹ. Em đã không giữ được. Sa chân bước xuống ruộng dưa. Bây giờ còn biết nói sao.
Anh vẫn nhẹ nhàng:
-  Với ai?
Chị vợ im lặng. Anh gầm lên:
-  Với thằng nào?
Người vợ sợ hãi mặt cắt không còn giọt máu:
-  Anh... Tính.
Anh quát như một cái máy:
-  Tính nào?
-  Tính con ông Đội Tâm.
-  Nó có vợ chưa?
-  Rồi. Giọng chị lí nhí.
Đến lúc ấy anh mới hiểu hết ý nghĩa những lời chị trả lời anh. Đến lúc ấy anh mới qua khỏi cảm giác tức giận, căm thù sôi sục trong lòng, nỗi uất hận từ khi nghe cái tin nhức nhối nhục nhã ấy và bình tĩnh trở lại. Chị đã nói thật với anh tên con người ấy. Cho đến giờ phút này chưa ai biết được cái người đã tàn phá hạnh phúc của anh. Đó là một người chẳng xa lạ gì. Một thằng bạn học cùng lớp trường làng, cho đến cấp hai, và khi anh học lên cấp ba thì hắn thi vào mười cộng ba. Tao không ngờ lại là mày Tính ạ!
-  Chỉ xin anh thông cảm với em. Anh cứ đi biền biệt. Đã bao ngày đêm em mong có anh ở bên dù chỉ một lúc thôi...
Chơn đau nhói. Lỗi đâu chỉ một mình vợ. Còn lỗi của anh. Tại anh học nghề khai thác. Giá anh nghe bố học nghề nuôi cá thì đâu đến nỗi. Học nghề nuôi, sau khi tốt nghiệp, anh có thể xin việc ngay tại địa phương, xa lắm là ty thủy sản tỉnh, hàng tuần cùng lắm hàng tháng, anh có thể về nhà. Thi vào đại học thủy sản, anh ghi tên vào ngành khai thác và nói dối bố học nghề nuôi cá. Thư bố, thư các anh em viết cho anh đều gửi Trần Nhân Chơn khoa nuôi. Các bạn gái bên khoa nuôi nhận thư và chuyển thư cho anh. Bố anh vẫn tưởng anh nghe theo lời khuyên của mình, học nuôi cá mà không học đánh cá “cái nghề gái ba chồng, một cơn gió là mất một đời chồng rồi”. Càng ngày anh càng thấy mình học nghề khai thác là một sai lầm, nhưng ngày ấy học xong phổ thông mới mười bảy tuổi, lòng anh còn hướng về biển cả.
Anh viết đơn ly dị đem đến nhà vợ. Vợ anh lặng lẽ cầm bút ký, không nói nửa lời. Ký xong chị im lặng nhìn anh, rồi chạy vào trong buồng, nằm không một tiếng động. Trước khi ra về, anh bước vào vĩnh biệt chị, thấy chị đang úp mặt xuống gối, gọi thế nào cũng không ngẩng lên. Sao lúc ấy anh thương vợ đến thế. Thương vợ và xót xa nhục nhã cho mình. “Thôi, tôi về”. Anh nói vậy và bước nhanh ra khỏi buồng, lấy xe đạp một mạch về nhà, không chào hỏi một người nào gặp trên đường.
Tưởng thế là xong nhưng nửa năm sau bố Chơn ốm chết. Bố chết khi Chơn đang trên biển. Chơn về, đã mai táng bố rồi. Cái đau nhất của Chơn là không được nhìn bố trước khi bố chết, là anh luôn nghĩ rằng trong cái chết của bố có nguyên nhân sự hư hỏng của vợ, có cái sai lầm của anh đã học nghề khai thác. Càng đau thêm vì bố chỉ được liệm bằng vải trắng, mà phong tục quê Chơn các cụ già mất phải liệm bằng vải đỏ. Chưa bao giờ anh thấy mình là một thằng con khốn nạn như những ngày ấy. Anh nhìn mẹ, hiểu rằng một ngày nào đó không xa, mẹ cũng lại ra đi. Trở về xí nghiệp, anh đạp xe lùng mua vải đỏ nhưng không đâu có bán. Ngày ấy muốn mua vải đỏ phải có giấy của ngành văn hóa thông tin, vải đỏ chỉ để phục vụ cho việc may cờ, làm biểu ngữ. Ngày ấy thật khó khăn, chỉ mới lo được cho người sống, chưa thể nghĩ đến người chết. Anh ra chợ mua chui mười thước vải trắng rồi đem đi nhuộm màu đỏ cờ. Tấm vải ấy anh gấp cho vào túi ni lông để trong ngăn kéo bàn tác nghiệp hải đồ, thỉnh thoảng lại giở ra phơi. Anh sợ mẹ cũng ra đi vội vã như bố nên lo ngay ngáy. Khi Lê Thanh Ý cùng học một khóa khai thác với anh, nhà ở làng bên về nghỉ phép, anh đã nhờ cầm mười mét vải đỏ về đừng đưa cho bà, đưa cho thằng em tao, thằng Thinh ấy nhé. Chỉ đến lúc ấy Chơn mới yên tâm.
Cuộc sống vất vả khó khăn nhưng Chơn vẫn giữ nguyên tâm hồn yêu văn nghệ từ những ngày đi học. Đợt phát động thi sáng tác quốc ca mới, anh bập bùng cây đàn ghi ta, miệng khe khẽ: Đất nước Việt Nam tươi đẹp anh hùng. Chủ nghĩa Mác Lê-nin tất thắng. Chúng ta tiến lên cùng thế giới năm châu. Đại đổng là tương lai. Đại đổng điều chúng ta mơ ước... Anh em người cười bảo là hâm, người khen hay. Đến khi bài hát của Chơn được phát trên đài (chắc có công sức của ông anh họ Chơn làm trưởng phòng gì đó ở Đài truyền hình thành phố) mọi người đều thấy hay, không như khi nghe Chơn ê a bập bùng cây đàn ghi ta dưới tàu. Có phối âm phối khí nó khác chứ. Chơn bảo vậy. Lúc ấy Chơn muốn kéo mọi người đi uống rượu. Trong một bữa rượu dưới tàu do Chơn chiêu đãi khi trú gió ở Vụng Ngọc, nhiều thuyền viên nhắc tới bài hát của Chơn. Họ không bảo nhau nhưng cùng tung hứng về bài hát coi như một món đưa cay trong cuộc nhậu, người bảo bài hát tuyệt hay có thể được chọn làm quốc ca, nhất là tác giả lại thuộc giai cấp công nhân, người bảo thôi đừng nịnh thối thuyền trưởng, quốc ca phải là những nhạc sĩ chuyên nghiệp cơ. Ông Văn Cao còn đang bị loại kia kìa. Thủy thủ trưởng Diêu, tợp một chén rượu gọn như nuốt một viên thuốc bổ, nói: Không có đâu. Dù thuyền trưởng sáng tác hay hơn mười mươi họ cũng không chọn đâu. Cái suất ấy không phải của... Giọng Diêu đã bèn bẹt đờn đợt. Diêu đã say lắm và càng say càng đờ đẫn lắc lư cái đầu và càng rót khỏe:
- Thủ trưởng ơi. Đếch cần làm tác giả quốc ca thủ trưởng ạ. Cái thủ trưởng cần bây giờ là vê ơ vơ nặng.
Chơn cười:
- Tao sắp lấy vợ rồi. Không phải để chúng mày phải lo.
Thế là tất cả nhao nhao:
- Cô Hồng nhà đài hôm nọ xuống lấy tin tàu mình á?
-  Không phải mới hôm nọ đâu. Lâu rồi.
- Thế thì gay lắm thủ trưởng ơi. Em thấy cô ấy hay cặp kè với chánh văn phòng Điều lắm. Xuống tàu nào cũng sóng đôi với chánh văn phòng. Được con cá nào cũng chánh văn phòng đưa ra tận cổng bảo vệ.
- Không phải một mình chánh văn phòng đâu. Còn đi với thi đua Tín nữa đấy.
- Thi đua Tìu á? Giò Tìu thì không lo! Giò Tìu mắc bệnh tiểu đường. Coi khinh.
Anh em đang hăng rượu, hăng nói. Mấy con mực một nắng nướng bếp điện thật tuyệt. Lại giọng Diêu đờn đợt, dèn dẹt:
- Các cậu có biết vì sao thủ trưởng mất hai cái răng cửa hàm dưới không? Vì cô Hồng đấy.
Cả bọn cười vang: “Cô Hồng yêu thế nào mà thủ trưởng rụng mất cả răng thì khủng khiếp thật”. “Hoan hô cô Hồng...”
Vẫn giọng Diêu kéo dài bèn bẹt:
- Tại hôôn đấy. Cô Hoòng hôôn thủ trưởng lâu quá đaáy...
Vốn là người xuề xòa với anh em, nhưng Chơn cũng thấy cần phải kết thúc đề tài này, và kết thúc luôn cuộc nhậu, anh nghiêm mặt bảo Diêu:
- Chùng dây cu roa rồi. Méo tiếng rồi. Về cabin đi. Thôi. Tất cả giải tán.
Khi mọi người ai về buồng người ấy, cái đề tài anh em vừa nêu ra cứ vấn vương mãi. Chơn nằm nghĩ đến vợ.
Rồi nghĩ đến những phụ nữ anh đã gặp đã biết. Nhiều. Nhưng chỉ có hai người làm anh thực sự xúc động. Huyền và Hòa. Cả hai cùng có tên bắt đầu bằng chữ H, cùng ở Hải Triều và đều là người anh quen trước khi lấy vợ. Bắt đầu là Huyền. Rồi đến Hòa, hàng xóm của Huyền. Hạng, anh Huyền đi bộ đội vào đóng ở nhà anh thời anh còn đi học. Cả làng, nhà nào cũng có bộ đội. Toàn dân Bắc. Thái Nguyên, Vĩnh Phú, Hà Tây... Đó là thời gian sắp tết. Dân làng đã chuẩn bị lợn gà, cá thu, gạo nếp cho bộ đội một cái tết vừa thật tình cảm vừa thật tưng bừng để bù cho cái tết phải xa nhà của những chàng trai mặt bấm ra sữa như con cái mình này. Bởi ai cũng biết, cũng nghĩ đây là thời gian ngắn ngủi những chàng tân binh trẻ măng từ những nơi nào đến nhưng thân thiết như con em trong nhà còn được nghỉ ngơi, còn được hưởng hòa bình dù phải xa gia đình, cái tết hòa bình cuối cùng trước khi vào Nam xông pha mũi tên hòn đạn. Nhưng đúng vào lúc gạo nếp gói bánh chưng đã ngâm, chả cá thu đã rán, những con lợn trong chuồng đã được ước lượng số cân trước khi mổ thịt, khi không khí tết tưng bừng xóm làng cùng với bữa liên hoan cuối năm đang được gấp rút chuẩn bị thì bộ đội được lệnh hành quân. Bộ đội không khóc, nhưng dân làng khóc.
Khóc như mưa như gió. Cả những mẹ trong hội mẹ chiến sĩ. Cả những cô gái mới bắt đầu quen những chàng trai tứ xứ đổ về làng. Dù đã biết rằng tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng, phải tranh thủ mấy ngày ngừng bắn trong dịp tết, hành quân cấp tốc vào Nam, nhưng làm sao không thương những con em mình không được nghỉ ngơi, không được đón tết với gia đình đã hẳn, lại còn không có tết, không được bình yên đón xuân sang, đón một tuổi mới ở miền Bắc hòa bình, phải vào Nam, dấn thân bom đạn. Chơn cũng khóc. Anh vào buồng lấy mấy gói mứt, mẹ anh dồn hết số chả cá thu của nhà vào túi ni lông đưa cho anh Hạng. Lẽ tất nhiên là Chơn đã biết địa chỉ nhà anh tân binh đóng ở nhà mình, và khi tốt nghiệp đại học, về Hải Triều công tác, anh đến nhà Hạng như đến nhà một người thân. Hạng đã được ra quân với tấm huân chương chiến công, rất yêu quý Chơn. Không chỉ Hạng mà cả nhà. Bà Kỳ mẹ Hạng, cô Huyền em gái Hạng. Anh đến nhà Hạng thường là với những tiêu chuẩn hàng tháng của xí nghiệp dành cho người đi biển. Cặp mực nang, con cá chim, cân mực khô... Cả nhà muốn gả Huyền cho Chơn không phải vì số thực phẩm quý giá ấy mà vì nhận thấy ở Chơn một chàng rể tuyệt vời. Chơn cũng có cảm tình với Huyền. Còn Huyền công khai bộc lộ tình yêu bằng những cử chỉ thật lộ liễu nhiều khi làm Chơn đỏ mặt lên. Chính là Huyền chủ động nắm tay anh trước. Huyền cũng hôn anh trước. Anh đáp lại cái hôn ấy cuồng nhiệt không kém mà cứ nhớn nhác nhìn quanh, sợ có người nào đó bước vào hay mẹ Huyền từ bếp đi ra. Sẽ hạnh phúc biết bao nếu anh lấy Huyền, có một gia đình ở ngay Hải Triều và mỗi khi tàu cập cảng, anh có thể về đó nghỉ ngơi hưởng không khí gia đình, sự chăm sóc của vợ, nô đùa với các con, chấm dứt cảnh quanh năm suốt tháng ở trên tàu, bữa cơm xuống phòng ăn, lấy “xẻn” xúc cơm từ vạc trong bếp... Ai cũng tưởng anh sẽ lấy Huyền. Cả mấy nhà hàng xóm cũng nghĩ rằng đám cưới giữa hai người sẽ được tổ chức không lâu nữa. Thế nhưng sự việc không thành. Vì Hạng. Không phải Hạng phản đối Chơn. Chơn khi ấy đã được coi là một thành viên của gia đình. Mà vì Hạng nhất định lấy một phụ nữ đã qua ly dị và đã có hai con. Cả nhà phản đối. Ông già bà già khuyên can, khóc lóc. Hạng vẫn lì lợm, không trả lời câu hỏi “vì sao” của mọi người trong gia đình kể cả của Chơn. Thế rồi Huyền bước nhanh tới chỗ Hạng, giang thẳng cánh tát vào mặt anh trai. Bốp! Hạng ngẩng lên ngơ ngác. Một cái tát nữa vào má bên kia. Hạng đứng lên. Huyền cúi xuống rút chiếc guốc giơ cao ngang đầu. Hạng gần như chạy xuống bếp. Huyền ném theo chiếc guốc. Chơn mở to mắt nhìn Huyền. Anh không thể quên được dáng người, nét mặt Huyền lúc đó. Một Huyền khác hẳn, anh chưa hề biết. Một Huyền làm anh ngạc nhiên, dữ dằn, quyết đoán, buộc anh phải nghĩ nếu lấy Huyền làm vợ, cuộc sống vợ chồng có thể sẽ là như thế. Từ đấy anh thưa đến nhà Huyền. Rồi cuối cùng phải nói dối Huyền là anh chưa muốn yêu, chưa muốn lấy vợ vào lúc này. Một lần đến nhà Huyền nhưng cả nhà đi vắng, bà hàng xóm nhà Huyền, một người bạn buôn chuyến cùng với mẹ Huyền kéo anh vào nhà bà “anh vào chơi, mời anh vào chơi, cô Huyền sắp cưới rồi, chắc anh cũng biết chứ”. Bà dẫn anh vào một lối đi hẹp, qua một buồng tắm để mở, Hòa, cô con gái bà mới mười bốn tuổi mà anh vẫn gặp gỡ chuyện trò những khi đến nhà Huyền, đang tắm ở trong đó. Anh đã cố không liếc nhìn vào nhưng không thể. Nhất là bà mẹ khi bước qua cửa buồng tắm bỗng dừng lại cúi xuống như là sửa cái quai dép, để anh ở phía sau có đủ thời giờ nhìn ngắm con gái mình. Dù chỉ một cái liếc rất nhanh thôi, anh cũng thấy một thân thể trắng ngần thon nhỏ nõn nà và hẳn là rất thơm tho vừa là đứa trẻ vừa là người lớn đang khom người lấy tay che chỗ kín, hai bên ngực phồng lên hai cái bánh dày nằng nặng hơi trĩu xuống. Chỉ thoáng nhìn thôi cũng biết rằng mỗi tế bào trong người cô đang bừng nở để thành thiếu nữ. Bà mẹ đưa anh vào nhà và rất vui vẻ thẳng thắn hỏi anh có bằng lòng con gái bà không? Con bé trong buồng tắm anh vừa đi qua ấy. Anh cám ơn bà, nói với bà rằng cô bé còn chưa đến tuổi. Suốt đời anh không thể nào quên được lối đi hẹp tối tối trong nhà bà, cái ô buồng tắm để mở và cảm giác bàng hoàng, lần đầu tiên trông thấy một người con gái đang tuổi dậy thì hoàn toàn khỏa thân, lần đầu tiên trông thấy một măng nụ trắng trong đến thế, thật đến thế, gần đến thế mà cũng lại xa vời đến thế. Sau này Huyền cũng đã khỏa thân với anh. Nhưng không phải là cảm giác nâng niu chiêm ngưỡng như Hòa mỗi khi nghĩ đến mà đơn thuần gợi lòng ham muốn. Khi ấy Huyền đã lấy chồng, đã có con, còn anh cũng đã ly dị vợ. Huyền đã là chủ một cửa hàng vàng. Vừa thấy anh bước vào, chồng Huyền đang ngồi ăn xôi ở bàn, liền đứng dậy cầm gói xôi đi vào nhà trong. Huyền bảo anh: Nó không chào anh à? Không được. Để em bắt nó ra chào anh. Chơn phải can ngăn mãi, Huyền mới chịu ngồi yên. Huyền mời anh trưa hôm sau lại ăn cơm. Tàu anh còn đỗ bến chờ xuống đá, anh vui vẻ nhận lời. Cái buổi trưa hôm sau ấy, cả nhà chỉ có một mình Huyền. Huyền cho đóng cửa hàng và anh hiểu cái gì sẽ đến. Huyền dắt anh lên phòng ngủ của hai vợ chồng Huyền trên gác, thong thả cởi quần áo trên người rồi ôm lấy anh thì thầm:
- Chẳng còn gì nữa đâu nhưng anh cũng phải yêu em một lần.
Rồi nằm xuống giường chờ đợi. Anh bỗng nhớ tới cô gái mười bốn tuổi trong buồng tắm bối rối nhìn anh mà anh chỉ dám liếc nhanh. Giờ thì không phải liếc nhìn vội vàng. Giờ có đủ thời gian. Anh biết chồng Huyền lên Hà Nội thanh toán tiền hàng. Anh biết đứa con trai Huyền đã về ông bà nội. Nhưng khi mảnh vải cuối cùng trên người được Huyền khẽ cong người lên gỡ bỏ, anh giật mình tưởng như vợ anh đang nằm trước mặt. Sao lại có thể giống nhau đến thế. Cũng mịn màng căng mọng, cũng lớp lông dày đen mịn sóng nhau như ép vào da thịt phân thành ba nhánh, một nhánh thẳng lên bụng và hai nhánh xòe ra hai bên làm thành một hình chữ thập. Hệt như của vợ anh. Anh nghĩ đến vợ. Rồi ngay sau đó nghĩ đến Tính, cái thằng học mười cộng ba, bỏ dạy làm xã đội. Vợ anh cũng đã nằm trên giường như thế này và cái thằng xã đội đáng nguyền rủa ấy hẳn cũng đã nhìn vợ anh nằm chờ đợi trên giường thế này như anh đang nhìn Huyền. Một nỗi chua xót làm anh nghẹn nơi cổ. Huyền ngơ ngác khi thấy anh đang cởi áo sơ mi bỗng cài khuy trở lại:
- Anh làm sao thế?
Lúc bấy giờ anh mới biết mình đang cài khuy áo, anh nói như người có lỗi:
- Anh hôm nay làm sao ấy. Bị hỏng. Em xem đây này. Huyền nhổm dậy, vít cổ anh, kéo anh đổ sập xuống người Huyền.
Thế là tôi sắp đi ra biển. Tôi sắp được gặp biển. Biển tôi chỉ nghe nói đến, chỉ được nhìn thấy trên tivi, trên màn ảnh. Tối hôm qua tôi ngủ dưới tàu. Cầu tàu êm ả. Những con tàu nối sát nhau chạy dọc cầu. Những ngọn đèn im lặng tỏa sáng. Suốt đêm, hai con lợn tàu nuôi cứ ụt ịt tha thẩn quanh boong. Chúng rất béo, mỗi con phải non một tạ. Gấp đôi con lợn mẹ tôi nuôi ở nhà. Con lợn mẹ tôi bảo để cân, lấy tiền mua cho tôi chiếc xe đạp nhưng bố tôi gạt đi: Xe đạp của thằng Phong để tôi lo. Rồi bố bảo tôi: Bố sẽ mua cho mày chiếc mini Nhật. Thế là cái Ngàn em tôi reo lên:
-  Thế thì mẹ bán lợn lấy tiền mua xe cho con.
Bố tôi vuốt tóc nó:
- Con cứ học giỏi như anh Phong, bao giờ đi được xe đạp bố mua cho một chiếc. Cũng mini Nhật. Đỏ. Được không?
Chiếc xe mini và chuyến đi biển hôm nay là phần thưởng của bố tôi cho tôi. Bố đã hứa nếu tôi được vào cấp ba sẽ thưởng cho tôi một chiếc xe đạp và cho đi một chuyến biển cùng với bố. Chiếc xe mini Nhật hai dóng là mơ ước của tôi. Chắc chắn tôi sẽ có. Bởi trường cấp ba ở mãi tận Si, cách nhà tôi tới bốn cây số. Là học sinh giỏi được vào thẳng cấp ba, phần thưởng cho tôi còn là chuyến về Hải Triều đi theo bố tôi chuyến biển hôm nay.
Từ Khê Thượng chúng tôi đi bộ ra ga Bắc Giang, lên tàu về Hà Nội rồi lại lấy vé đi tàu tới Hải Triều. Chúng tôi nghĩa là tôi, bố tôi và bác Nguyễn Văn Sĩ thủy thủ trưởng của bố tôi. Tôi quên chưa nói bố tôi là thuyền trưởng dưới tàu. Bác Sĩ quê ở một làng ngoại thành Hải Triều lên chơi với bố tôi và cùng về với chúng tôi. Chuyến đi đối với tôi là một chuyến đi kỳ diệu. Con tàu lao trên đường sắt kỳ diệu. Hà Nội kỳ diệu. Thành phố Hải Triều kỳ diệu. Nhìn qua cửa sổ toa tàu, một khoảng không gian mênh mông luôn thay đổi trước mắt tôi. Và gió. Gió như muốn dứt tóc tôi ném về phía sau. Chưa bao giờ tôi đi xa như vậy.
Từ ga, chúng tôi ngồi xích lô đi thẳng xuống xí nghiệp, ra cầu cảng, xuống tàu. Xí nghiệp không người. Các cửa đóng im ỉm. Sân rộng vắng tanh. Đã tan tầm chiều. Cầu cảng vắng người nhưng có rất nhiều tàu đỗ. Cái to hơn tàu bố tôi. Cái nhỏ hơn. Cái sơn xanh. Cái sơn xám như tàu bố. Cái sơn đỏ có cần cẩu giống cổng chào. Riêng tàu bố vẫn còn nhiều người. Tôi đã quen một số, những người đã lên Bắc Giang, về nhà tôi cùng với bố: Chú Hùng lùn thuyền phó, bác Suất máy trưởng, chú Hồng trưởng ca... Bố trừng mắt nghiêm nghị bảo tôi: Không được leo trèo nghịch ngợm chết người như bỡn. Bảo không nghe là cho lên bờ luôn đấy. Rồi bố gọi mấy người vào phòng bố bàn bạc công việc để ngày mai tách bến. Sau đó ba chúng tôi ăn cơm. Các chú các bác dướí tàu đều đã ăn rồi. Phòng ăn cũng là bếp. Chật chội, trần thấp. Trông thẳng ra một cái cửa sắt, ngưỡng cửa cao gần tới đầu gối. Ngoài boong là tơi, trục tơi nằm ngang quấn đầy ắp những vòng dây cáp đã bôi mỡ. Cơm trong vạc. Một xoong canh sườn ninh khoai sọ. Một bát men rau sống. Tôi chưa ăn bữa cơm nào ngon như vậy. Trong khi chúng tôi ăn, các chú thủy thủ phóng xe về, phóng xe đi. Dưới tàu chỉ còn mấy chúng tôi.
Tôi ngủ chập chờn. Trên giường chú Hùng lùn. Chú Hùng về nhà ngủ. Nhà chú ở gần ngã ba (mà sau này tôi mới biết còn gọi là Ngã Ba Đông Dương), lối đi vào xí nghiệp. Tôi đã thám hiểm mấy phòng. Phòng thuyền trưởng rộng nhất, tuy vậy cũng vẫn là rất hẹp. Một chiếc giường ghép vào vách cabin, cao lưng lửng, thành giường nhô cao để khi ngủ, khi nằm, sóng xô có bị lăn cũng không rơi xuống sàn. Ngay dưới chỗ nằm (như gầm giường) là một thứ tủ có cánh mở ra mở vào chạy dọc suốt giường. Giữa buồng là một cái bàn nhỏ. Cạnh bàn ở phía tường cabin bên kia là ghế gỗ, một chiếc ghế lượn cong theo góc của hai cạnh tường gặp nhau như đi văng có thể ngồi được bốn năm người. Chân tường là một cái giá khoét lỗ tròn để vừa phích nước, sao cho sóng to tàu chao đảo phích cũng không bị đổ. Ngoài ra còn có một cái bàn làm việc liền ngay cửa sổ trông ra phía mũi tàu và một cái ghế dựa. Tất cả (trừ chiếc ghế dựa) đều được bắt chặt vào sàn tàu, vào vách tàu làm bằng gỗ bọc mi ca có vân bóng loáng. Phòng chú Hùng cũng như vậy nhưng nhỏ hơn, chỉ có bàn làm việc, không có bàn tiếp khách. Tôi nằm mà nhớ đến mẹ tôi. Đến cái Ngàn em tôi. Chắc bây giờ cái Ngàn đã ngủ ngon rồi. Còn mẹ tôi ngủ chưa hay đang nhớ đến tôi. Đêm ngủ xa nhà đầu tiên của tôi. Ngày mai tôi còn đi xa nữa. Ngày mai tôi đi ra biển. Tôi thức thức ngủ ngủ trong tiếng những con lợn tìm ăn ụt ịt ngoài hành lang vọng vào và tiếng xe mảy trên cầu cảng.
Sảng hôm sau, dậy sớm, tôi leo lên đỉnh nóc cabin nơi cao nhất của con tàu rồi trèo lên cái trụ đèn như một nòngphảo chĩa thẳng đứng lên trời. Cái trụ đèn có sảu bậc thang, sảu cái đèn xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp: Đỏ, xanh, trắng. Đỏ, xanh, trắng. Bóng đèn như cái cốc úp xuống, bên ngoài là những vòng thép cuốn bảo vệ. Nhìn. Nhìn ra bốn chung quanh. Nhìn ra phía biển. Chẳng thấy biển đâu. Chỉ thấy dòng sông chảy xuôi và khuất sau rặng sú xanh um. Nhưng tôi biết cứ thẳng dòng sông này là ra tới biển.
Giờ phút về bờ đầu tiên sau một chuyến biển nào cũng bồn chồn. Không có việc gì cũng phải nhảy xuống cầu tàu đứng một tí rồi lại trở về tàu. Không có ai quen cũng vậy. Nhưng giá có một người quen đứng đó. Để nắm chặt tay, để nhìn vào mặt nhau cười nói, để hỏi một câu, trả lời một câu, trò chuyện với một người ở đất liền, một người vẫn ở đất liền trong khi mình lênh đênh trên biển. Nhưng không có ai quen thì lại trở về tàu, đứng trên boong vịn lan can nhìn xuống bè bạn đang tay bắt mặt mừng với những người thân dưới cầu cảng.
Ngay khi tàu còn ở giữa sông chờ cập cảng, tất cả đã đứng trên boong, cùng hướng vào bờ, thấy người đi lại, xe đạp, xe máy, nhất là thấy những mái tóc dài hoặc xõa vai, những dáng đi uyển chuyển..., bỗng hiểu ra một điều: Đấy mới thực là cuộc sống. Muốn trìu mến lắng nghe, siết chặt lấy người đang đi trên cầu mà hít một hơi dài mái tóc xõa kia. Nếu được thì ghì chặt lấy cái thân hình mềm mại ấy. Và nếu được nữa... chẳng biết việc gì sẽ xảy ra. Nhưng nếu tàu còn phải buông neo mà chưa có lệnh cập cầu. Thì cứ ở ngoài sông mà cố quên thời gian bằng cờ tướng, bằng tiễn lên, bằng bài ù, bằng tán gẫu. Và chửi cái thằng điều độ xếp cầu. Bịa ra đủ thứ xấu xa về mấy thằng điều độ mà mình cũng thấy là vô lý, bất công. Càng điên nếu phải nằm mãi ngoài cửa sông, mãi ngoài phao zero nhìn vào chỉ thấy bãi sú, chờ đợi không biết đến bao giờ. Lúc đó chửi tuốt. Cả giám đốc, cả bộ, cả bộ trưởng, cả một lũ ăn hại sống phè phỡn, mị dân, thời nào cũng chết thằng lao động. Lúc ấy ai cũng trở thành hấp tỉ độ. Chỉ nguyên một điều cứ tưởng được đọc thư gia đình ngay cũng đã muốn tung hê tất cả rồi. Lúc ấy có chầu rìa ván cờ nào cũng phải nhòm mặt, cũng phải mách mỗi bên một nước. Đánh tiến lên cũng phải cẩn thận. Có thắng thông vài ván cũng chỉ tủm tỉm cười thôi. Đừng cười thành tiếng, càng không được nói một câu khuếch trương thắng lợi làm gì. Lúc ấy dễ vặc nhau lắm. Không chỉ anh em thuyền viên mà cả cán bộ nữa. Thuyền phó Phê vừa xếp lại quân cờ để chơi ván khác với máy trưởng Xuân, vừa nói: “Mình đang thắng, tiếc quá...” Lưới trưởng Giai đi qua cười: “Tức là cuối cùng thua chứ gì?” Chỉ có thế thôi mà suýt bùng lên thành một cuộc xô xát.
Sớm nay, HL 414 được cập bến ngay. Trên cầu tàu, khoảng non chục người đứng đón. Con tàu đi ngược lại chiều hành trình một chiếc tàu đang nhoai ra quạt sóng đẩy một đoàn xà lan than rằm mạn. Nó cắt một gợn nước chênh chếch phía mũi chiếc sà lan đi đầu và chạy quá lên phía cảng. Trên tàu, trừ những người đi ca theo đúng chức danh, tất cả tập trung ở boong mũi nhìn về phía bờ. Mặt trời tỏa ánh sáng rực rỡ và vào đúng lúc con tàu quay mũi, toàn bộ cửa kính trên tàu, những cửa kính vuông trên cabin các sĩ quan, các cửa tròn nơi buồng thủy thủ bên dưới gần sát với mặt sông đạt đúng góc độ phản chiếu, nhất loạt loáng lên một ánh chớp trắng chói mắt rồi cũng nhanh như việc loé sáng đó, các kính cửa lại xam xám nhàn nhạt một màu của bóng tối những căn buồng hẹp.
Với người thủy thủ, mỗi chuyến về bờ một khác. Bôn cũng không là ngoại lệ. Lúc còn ở ngoài sông, Bôn đã dặn dò đại phó Cương rất kỹ những công việc phải làm lúc anh đi khỏi tàu và khi hai sợi cáp, một ở mũi tàu, một ở phía lái đã được cô chặt vào hai trụ bích như hai cái đe trên cầu, khi chiếc cầu thang trên tàu đã được bắc xuống chênh chếch với mặt cầu, Bôn toan cùng anh em ùa xuống mặt cầu thì một người từ cầu tàu đã nhanh nhẹn bước lên xộc thẳng vào phòng thuyền trưởng. Đó là Thám, anh thợ điện kiêm thêm việc chạy công văn của xí nghiệp. Chào thủ trưởng. Thủ trưởng ký cho em vào đây. Mời thủ trưởng lên hội trường mới họp ngay bây giờ. Bôn ký vào quyển sổ rồi đứng lên, bảo Thám: Trưa chờ lúc văng vắng xuống nhé. Gặp Cương lấy mấy con cá về cho cháu. Thám chỉ chờ có vậy. Anh nháy với đại phó Cương như ký một cái giao kèo và cầm sổ nhanh nhẹn xuống cầu. Bôn nhắc Cương một lần nữa về công việc rồi bảo:
- Các ông ấy có hỏi thì bảo mình lên trạm xá một chút rồi về ngay. Đấy. Bây giờ lại đau. Có lẽ dạ dày giở chứng thật rồi.
Cương gật gật:
- Thủ trưởng cứ đi. Có gì em lo.
Cương mỉm nụ cười nửa tin nửa ngờ gần như giễu cợt, nhìn theo dáng thấp đậm của người thuyền trưởng khuất trên cầu tàu rẽ vào cổng cảng. Cương tự thấy chuyến biển đi với tàu HL 414 vừa kết thúc là hay. Anh học ở thuyền trưởng Bôn được nhiều điều. Dù rằng vừa học vừa cười một mình chua chát: Học thì cứ học nhưng sớm muộn cũng phải phới khỏi nghề đánh dậm này, chí ít cũng chuồn khỏi Quốc doanh đảnh dậm này. Cách gọi mỉa mai ngành nghề như vậy không phải riêng Cương mà của cả xí nghiệp. Quốc doanh đảnh dậm, nghề đảnh dậm thay cho nghề đảnh cả, Quốc doanh đảnh cả. Câu cửa miệng, thông thường, chẳng bao hàm một ý xấu nào, ngược lại còn như muốn nhấn mạnh đến cái vất vả của nghề, đến việc cá biển Đông ngày càng ít dần. Trong câu chuyện giữa lãnh đạo xí nghiệp với công nhân, những tiếng ấy vẫn thường xuất hiện như một sự cảm thông, sâu sát và cởi mở giữa đôi bên. Thậm chí trong một công văn gửi lên Bộ, tiêu đề “Bộ Thủy sản - Quốc doanh đánh cá Biển Đông” còn đánh máy là “Bộ Thủy sản - Quốc doanh đánh dậm Biển Đông” mà giám đốc cũng không biết, cứ ký tên đóng dấu gửi lên Bộ. Thì ai đi soát xét cái tiêu đề trên góc trang làm gì. Khi chánh văn phòng phát hiện ra, giám đốc chỉ cười, nguy hiểm thế đấy, từ nay cấm không được nói quốc doanh đánh dậm, nghề đánh dậm nữa, nói mồm rồi nó vào văn bản lúc nào không biết. Từ ấy việc sử dụng hai tiếng đánh dậm ít hẳn đi, gần như không còn trong khối trên bờ nhưng thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trong anh em thuyền viên, những người thuộc “khối dưới nước”.
Tuy luôn xác định mục tiêu là rời khỏi ngành nghề, chí ít cũng rời khỏi xí nghiệp, nhưng mỗi khi được điều đi một chuyến biển nào đấy, cách đánh cá, cách lãnh đạo con tàu của đơn vị Cương đánh thuê cứ đi vào sự quan sát của anh, kèm theo sự so sánh, phân tích, đánh giá. Hoàn toàn tự nhiên, không tự giác, không chủ bụng. Từ cách đánh bắt, phán đoán luồng cá, cách tính độ giạt và nhất là cách lãnh đạo con tàu, cách đối nội đối ngoại, những việc vô cùng quan trọng đối với một thuyền trưởng. Đừng cậy mình có tài đánh được nhiều cá mà coi thường mọi người. Nhất là cánh phòng ban, kể cả cô văn thư đánh máy. Lê Uy đã bị một vố. Chỉ vì quên bẵng lời hẹn xuống tàu xin cá của cô đánh máy mà kỳ thi nâng cấp nâng bậc của anh em thuyền viên năm ấy trục trặc:
Cô đánh máy đã cố tình để sót một dòng trong danh sách những tàu được tổ chức thi nâng bậc.
Đối ngoại đã vậy. Việc đối nội càng quan trọng. Điều này anh học được nhiều trong chuyến đánh thuê cho tàu VT 114 với chức danh thuyền phó hai. Ban chỉ huy tàu mâu thuẫn nặng. Thứ nhất hừng đông thứ nhì tắt quán, thuyền trưởng Phạm Thăng quyết định tách bến ra Vụng Ngọc trưa hôm trước để sớm hôm sau có mặt ở ngư trường, đón mẻ lưới hừng đông. Đỗ trong vụng, Thăng cho anh em đi mua hai con dê ra quân sau mấy tháng nằm bờ sửa chữa. Nhưng đại phó Chiểu trừng mắt: “Đã đánh được cá đâu mà đổi dê”. Thăng nghiêm mặt: “Dê là của hợp tác xã. Hợp tác người ta bán lấy tiền. Người ta có lấy cá đâu mà đổi cá”. Thăng mới chân ướt chân ráo xuống tàu khi tàu đang lên đà, cũng mới đi chuyến đầu tiên với Trăm mười bốn. Còn Chiểu là phó một mấy năm nay, trưởng thành từ thủy thủ mà lên. Thăng tốt nghiệp đại học khoa khai thác, là thuyền trưởng nhưng chưa phải đảng viên, còn Chiểu chỉ sơ cấp nhưng là bí thư chi bộ. Thăng cử bốn người đi mua dê. Chiểu đánh bài với máy trưởng và hai người nữa cùng cánh để tỏ ý phản đối, bất hợp tác.
- II -
Đến chiều đội mua dê về cùng hai thanh niên đảo, những người được hợp tác xã phái đến giúp tàu giết dê, nấu nướng. Tiếng dê be be và sự có mặt của hai thanh niên trên đảo với những bó rơm, những túi rau thơm làm nức lòng anh em trên tàu. Hội bài bạc của đại phó và máy trưởng vẫn như không nghe thấy gì, vẫn chăm chú vào ván bài trên tay. Trời tối rất nhanh. Thăng hạ lệnh cho thợ máy nổ máy, bật pha lên để anh em làm thịt dê. Tiếng máy chạy ầm ầm. Đèn pha sáng rực chiếu trên boong lái. Tiếng nói tiếng cười vang trong vụng. Những người đánh chắn cũng chẳng còn bụng dạ nào. Hết hội, ba người chạy ra boong. Còn một mình đại phó. Chiểu nằm trên giường quay mặt vào vách tàu nói vọng ra:
- Mổ xong, quăng xuống hầm đá, mai ăn.
Không ai nói gì. Mọi người trả lời Chiểu bằng hành động. Thủy thủ trưởng Bảo cùng anh em cả boong cả máy, người đốt rơm, người quạt, thui dê. Lửa bập bùng sáng vụng, sáng các tàu gần tàu xa. Chuyện trò râm ran, trêu nhau trong lúc pha thịt dê, nấu nướng. Mùi thịt dê lan tỏa gọi thuyền viên các tàu bạn ra đứng trên boong nhìn sang. Tất nhiên bữa rượu buổi tối vui nổ trời.
Chỉ với chuyện giết dê ra quân, Thăng đã thắng trong việc nắm lấy cương vị thuyền trưởng của mình. Và chuyến biển sau, chỉ nhìn đám thủy thủ VT 114 hò reo khiêng chiếc neo lên tàu, đầy khí thế, các tàu bạn đều biết Thăng đã xốc được con tàu vốn mất đoàn kết triền miên...
Ớ tuổi ba lăm, Cương xác định đời mình còn làm thuyền phó dự bị dài dài. Anh không đủ đạn bắn để được định biên ở một con tàu. Bộ khung tàu đã được cố định từ lâu. Mà ai cũng biết nằm trong một bộ khung quan trọng như thế nào. Trước tiên là đồng lương, là các khoản chia chác dưới tàu, là sự ổn định về nghề nghiệp, là sự tự thể hiện mình, sự vững chắc trong việc thăng tiến, đề bạt. Là cái bàn đạp tạo điều kiện để mình từ đấy đi lên. Và từ hai năm nay, được biên chế vào một ban chỉ huy tàu còn có nghĩa là con đường đi vận tải nước ngoài rộng mở. Đấy mới là điều căn bản. Xuống Hạ Long 01, Hạ Long 02 là đổi đời. Lại còn thằng Hạ Long 19 mới thật siêu hạng. Bọn Vosco mạnh thế nhưng đứng trước thằng 19 cũng chỉ là con tép. Một trăm thằng Vosco không bằng cái xô Hạ Long 19. Đã biến thành câu ca rồi. Ghê gớm thế. Mà cái xô của thằng Hạ Long 19 thì kinh thật. Một xô đồng hồ Seiko 5 chẳng hạn. Hay một xô thuốc con nhộng. Bao nhiêu tiền?!
Cương không bao giờ mơ tưởng tới số độc đắc ấy. Từ lâu anh đã học được cách xác định vị trí của mình như xác định vị trí tàu khi mục tiêu nằm ngoài hải đồ. Anh cũng là một mục tiêu nằm ngoài hải đồ. Chẳng ai để ý đến anh. Lúc anh tự động viên rằng đời mình còn đang trong giai đoạn chuẩn bị. Lúc lại nghĩ cố kiếm cho được cái bằng thuyền trưởng rồi phới khỏi nơi này. Lúc chẳng nghĩ ngợi gì, thôi thì nước chảy bè trôi, được đến đâu hay đến đó. Lang bang tàu này tàu khác rồi lại trở về cái quan tài sắt. Là thuyền phó dự bị, ở đâu thiếu người đột xuất, người ta điều anh xuống. Một thuyền phó nghỉ để cưới vợ. Một thuyền phó sốt xuất huyết. Một thuyền phó vừa nhận điện: Bố chết. Về ngay. Tổ chức điều anh đến lấp lỗ hổng. Đi một chuyến. Đi hai chuyến. Khi vị thuyền phó vắng mặt kia hết phép hay đã từ bệnh viện trở về, trình diện phòng tổ chức, Cương biết mình lại sắp quay lại tàu 307, con tàu bẹp, nằm tít cuối cảng, gần đà nổi, tiếp giáp với xưởng đóng tàu, một chiếc quan tài sắt, chuột nhiều gấp mấy lần toàn bộ số cán bộ thuyền viên khối dưới nước, đói rách thiếu thốn trăm bề. Ớ đó anh là thủ trưởng.
Cùng trông nom con tàu bẹp với anh có ba người nữa. Thuyền, một thủy thủ to béo, nặng có dễ đến 80 ki lô, đi Hong Kong cả chục năm về trước, khi con tàu Hạ Long 02 mới nhận về, còn đang trong thời hạn rốt đa, được vài chuyến thì bị bắt, tòa xử tù ba năm vì tội buôn lậu bốn ki lô đá lửa. Thời ấy căng lắm. Chỉ bốn ki lô đá lửa thôi mà bị tù ba gậy, chứ không như bây giờ, chẳng ai đi Hong Kong lại chỉ buôn mấy ki lô đá lửa! Thuyền là người đầu tiên Cương gặp khi nhận nhiệm vụ thuyền trưởng cái quan tài sắt này, một con tàu mà người ta nói là chờ đi đại tu ở nước ngoài. Thuyền cũng đã mấy lần đánh thuê cùng anh ở các tàu khác. Thấy anh xuống tàu, Thuyền reo to:
-  Chào thủ trưởng.
-  Chào ông bạn.
-  Thủ trưởng vẫn ăn chơi đấy chứ?
-  Không. Nhận tàu rồi.
-  Tàu nào?
-  Chính cái 307 này.
Thuyền vỗ hai tay:
- Hoan hô! Thủ trưởng đây rồi! Nhưng như thế tôi bị mất chức à? Tôi đang là thủ trưởng ở đây.
Cả hai cùng cười. Thuyền kéo anh vào cabin. Con tàu thật thảm hại. Những bộ phận máy móc nào còn dùng được người ta đã tháo, lắp cho các tàu khác, thực hiện nghiêm chỉnh chủ nghĩa giết thịt như anh chàng Khoa kỹ sư máy phòng kỹ thuật đã nói. Nắp gang cửa sổ bong hết sơn. Mấy chiếc chiếu chất đống ngay dưới chân hộp lái. Một cái thùng gỗ có nắp cẩn thận đặt ngay cửa lối đi vào phòng thuyền trưởng.
- Thế này đấy thuyền trưởng ạ.
Thuyền nói như khoe cơ ngơi và lại đứng nhìn anh cười khơ khớ.
- Thủ trưởng đừng buồn. Sông có khúc, người có lúc.
Thuyền biến đi đâu mất rồi trở về với chai rượu cam đỏ sóng sánh đặt trên hộp lái. Rồi lại biến mất.
Việc đầu tiên là đi thám hiểm con tàu cái đã. Hoang vắng. Tối tăm. Gỉ sét. Bụi bặm. Ẩm mốc. Chuột chạy loạn xạ. Có con đâm cả vào chân anh. Một chiếc xe cuốc Liên Xô nhãn hiệu Sputnik (của Thuyền) bóng loáng đặt giữa hành lang - lối đi thẳng xuống bếp và ra boong lái - là dấu hiệu có sự sống của con người trên con tàu này. Anh đứng nhìn cái tơi han gỉ, cái ru lô quấn cáp với những vết siết lõm sâu vào trục thép, dấu vết còn lại của một thời cày cuốc bền bỉ, cần cù, vất vả, các bánh xe răng cưa đều một màu nâu của sắt gỉ và không thấy dấu vết một giọt mỡ. Anh trở vào câu lạc bộ. Bàn ăn, cơm rải rác khô cong. Chiếc gương treo trên bô rửa mặt bụi bám đầy. Chợt Thuyền hiện ra, tay xách một túi nặng.
- Gì đấy?
- Xin bên linh chín đây.
Thuyền dốc túi ra ngoài boong. Mấy khúc cá kẽm. Vài con mực. Thuyền đứng nhìn đống thức ăn và nhìn Cương. Lại cười thưởng thức chiến công của mình. Khơ khớ.
-  Nào, món gì đây? Thủ trưởng cho thực đơn.
-  Đế vương quá nhỉ. Ông trông tàu này béo trắng ra.
-  Thủ trưởng nói oan quá. Hôm nay có thủ trưởng về gọi là chiêu đãi tí chút đấy thôi. Còn mọi hôm cứ là đi lang thang. Tàu chén vài bữa. Tàu chén vài ngày. Tôi với thằng Nhược mỗi thằng một phương, tùy nghi di tản. Cơm niêu nước lọ làm gì. Suất gạo còn nguyên, đèo về cho mẹ đĩ. Tốt. Khớ khớ.
Thuyền bóp vai Cương. Thuyền có bàn tay cứng như sắt làm Cương lệch một bên vai nhăn nhó.
Với cái nhanh nhẹn tháo vát vốn có của người thủy thủ, Thuyền thoăn thoắt lôi trong gầm ghế ra con dao và cái chậu men, vớ lấy cái cần máy bơm tay, kéo bên nọ, ấn bên kia. Hụp. Hụp. Nước từ vòi chảy vào chậu.
-  Vẫn có nước kia à?
-  Nước nhiều. Điện thì câu từ bờ xuống.
Thuyền rửa cá, làm mực và bê vào bếp đặt lên bàn ăn, ngả thớt thái.
-  Bếp dầu trong buồng anh nuôi, chìa khóa trong túi đây. Tay tôi bẩn, anh lấy hộ. Đem lên cabin mà nấu anh ạ.
Vừa nói Thuyền vừa nghiêng người chìa miệng túi quần về phía Cương. Chỉ một lúc sau mùi xào nấu đã thơm lừng.
Cương ở lì dưới tàu mấy ngày không lên đến cầu cảng. Thuyền mỗi ngày vài lần lấy xe cuốc đạp đi rồi đem về nào chè nào thuốc lá, rượu bia, rau sống, chanh ớt tỏi... Tối tối hai anh em trải chiếu dưới cái trụ đèn hàng hải nằm tâm sự. Thuyền lúc nào cũng cười khơ khớ. Ngay cả khi nói về thời gian đi tù của mình, về những gian nan của Cương.
- Thủ trưởng cứ ở đây. Rồi sẽ lại có lúc tung hoành. Bây giờ có buồn cũng vậy, có sốt ruột cũng vậy. Thủ trưởng tính tôi không đau à. Chỉ bốn ki lô đá lửa. Đúng một hộp. Mà chơi ba niên. Bây giờ chúng nó buôn hàng vạn đô la. Ông Phiến một chuyến đánh hai trăm cái Seiko, năm thùng thuốc con nhộng. Công an, hải quan bảo lĩnh. Nghĩ thôi cái số mình nó thế. Cùng khóa với tôi, thằng Thiết thuyền phó một rồi. Lính của tôi đều là thủy thủ trưởng, mèng ra cũng bậc ba. Tôi vẫn bậc hai. Lên hỏi tổ chức các ông ấy trả lời: Lương của cậu đúng là bất hợp lý rồi. Nhưng dưới tàu phải có văn bản đề nghị. Lên bậc của thủy thủ do xí nghiệp quyết định, không phải đưa lên trên. Dễ thôi. Cứ có chữ ký của thuyền trưởng là chúng mình giải quyết. Nhưng anh tính mò đâu ra thuyền trưởng ở cái tàu bẹp này mà lấy chữ ký hở anh? Thế là cứ bậc hai tràn thôi. Kỳ này thuyền trưởng về đây, xin thuyền trưởng một chữ ký đấy khớ khớ...
Trước đây Cương chỉ biết Thuyền qua loa. Hai người cùng được điều xuống đánh thuê ở một tàu, anh với chức danh phó một, còn Thuyền với chức danh thủy thủ. Quan hệ giữa hai người không có gì đặc biệt. Mãi giờ đây anh mới hiểu Thuyền. Thuyền sống như thế này mà chịu được. Bao nhiêu lâu rồi. Cứ cười. Cứ tươi. Chả bao giờ rên rỉ. Anh nói vui:
- Trước đây tôi là thuyền phó không tàu. Bây giờ có tàu rồi. Một con tàu thật tuyệt vời!
- Thế. Thì thế mà lại. Khớ khớ. Tôi cũng có tàu. Khớ khớ. Nhưng anh tính con tàu này không lừng lẫy một thời à? Trước đây ai được xuống cái linh bảy này là phải thế nào chứ? Mấy năm liền lá cờ đầu. Rồi chụp ảnh. Đăng báo. Bây giờ thì thế đấy.
Ngừng một lát, không thấy Cương nói gì, Thuyền tiếp tục dòng hồi ức:
- Nó bị bắn ở Hạ Mai. Ngày ấy tôi đang là thủy thủ thực tập. Đêm, tàu tôi đi trước, linh bảy đi sau. Ông Bửu đang nói phôn với ông Long bên này: Nhiều máy bay lắm. Tôi đang ở Hạ thì im bặt, không nói tiếp được chữ Mai nữa.
Thuyền bật cười:
- Nhưng mà công nhận đi chuyến đầu tiên sợ thật. Tôi vừa cầm giấy giới thiệu của trường đến, các ông ấy điều xuống chính cái linh bảy này. Ông Phiến còn đang làm thuyền trưởng. Chập tối tách bến đi. Thủy lôi nổ đằng trước, thủy lôi nổ đằng sau. Ông Phiến rên lên: Khéo chết mất Thuyền ơi. Mà sợ thật anh ạ. Thủy lôi sáng lòa trước mặt. Tàu dựng lên. Có cái gì đánh rất mạnh vào ngực. Tôi đứng mà ngã ngửa ra. Sờ tay lên ngực thấy nhun nhũn ươn ướt tưởng mình trúng bom chết đến nơi, bèn hô to “Hồ Chủ tịch muôn năm!” nhưng chờ mãi không chết, cũng không thấy đau, hóa ra là một con mực bị hất từ dưới biển lên. Đi đến phao zéro rồi ông Phiến còn lắc đầu: Nguy hiểm quá mày ạ. Chết mất thôi. Lần sau xí nghiệp điều chở vũ khí cho quân khu Bốn ông ấy nhất định không đi nữa. Ông Liễn đi. Ông Liễn gan thật. Mà cũng tài. Mấy chục chuyến chẳng việc gì.
Khi những chuyện ấy xảy ra, Cương còn đang ở trong B. Còn chưa học hết phổ thông, còn là lính mới. Có đợt tuyển quân, Cương bàn với bố mẹ xung phong đi. Đó là lối thoát duy nhất của Cương để sau này còn có thể có tương lai. Là con địa chủ, không được đi học, lên mười Cương mới được vào trường. Ớ lớp nào, năm học nào, Cương cũng là cậu học sinh lớn nhất lớp, được các bạn gọi bằng biệt hiệu “phụ huynh”. Nó xuất xứ từ cái lần một giáo viên chủ nhiệm lớp dưới họp phụ huynh thấy Cương một mình đi lang thang ở hành lang, đã hỏi Cương:
- Anh họp phụ huynh lớp nào ạ?
Khó khăn nhất trong việc nhập ngũ của Cương là anh chưa phải đoàn viên thanh niên lao động. Rất may, người em họ mẹ Cương, cậu Kế bí thư đoàn xã, đã lo được cho Cương cái lễ kết nạp đoàn cấp tập và giấy giới thiệu chuyển sinh hoạt, căn cước chính trị chỉ những người như Cương mới thấy quan trọng như thế nào. Cậu Kế chắc cũng chẳng gặp khó khăn gì lắm vì Cương đi bộ đội nghĩa là đảm bảo cho việc thực hiện khẩu hiệu “gạo không thiếu một cân, quân không thiếu một người” của xã, và cũng có nghĩa con ông chủ tịch cùng lứa tuổi với Cương đàng hoàng lên đường đi học công nhân kỹ thuật bên Cộng hòa dân chủ Đức mà không ai có thể nói năng gì. Anh bỗng nhớ đến đồng chí chính ủy Trần Dương. Không có đồng chí Dương, anh sẽ ra sao? Chắc chắn không như thế này. Cuộc đời có rất nhiều yếu tố chi phối, cái tốt cái xấu, đan dệt nhau với bao ngẫu nhiên tạo nên số phận một con người. Chẳng hạn nếu buổi chiều hôm ấy, về đơn vị an dưỡng, anh không ngồi một mình ở bờ suối và không gặp chính ủy ở đấy để hai người trò chuyện rồi sáng hôm sau chính ủy cho gọi anh lên, bảo anh chép lại cái báo cáo, và sau đó kéo anh về làm công vụ...
- Ông Liễn là người tôi rất phục.
- Ông ấy vừa bị khai trừ về tội lấy vợ hai. Sau kỳ ấy được kết nạp lại ngay.
Phan Đình Liễn, người thuyền trưởng bình thường như trăm nghìn người khác, nói ít người nghe, đánh cá không giỏi, vừa bị án kỷ luật bỗng sáng ngời lên vì những chuyến đưa tàu vượt thủy lôi chở vũ khí vào khu Bốn, giờ đã nghỉ hưu, đi thuyền đánh cá thủ công, chẳng ai còn nhớ đến. Người ta chỉ nói đến Phiến. Ngô Đình Phiến. Thuyền trưởng tàu Hạ Long 10. Con tàu chở tôm cá đông lạnh đi Hong Kong, Singapore, Nhật Bản. Người ta nói đến số chuyến đi nước ngoài của Phiến, đến sự giàu có không thể tưởng tượng nổi của Phiến, đến chuyện nhất định không chở vũ khí vào khu Bốn của Phiến và rút ra kết luận: Trên đời này phải có ô dù. Không có cây Kơ nia là không sống được.
Mãi sau bữa cơm chiều tàu bố tôi mới tách bến. Suốt cả ngày hôm ấy mấy chú thợ trên bờ vẫn còn sửa tơi. Vặn ra. Lắp vào. Thử. Cái tơi chuyển động như sấm ầm ầm. Hai con lợn vẫn thản nhiên nằm ngay ở cửa lối vào nhà vệ sinh, chẳng buổn động đậy. Hình như chúng đã quen rồi. Tàu lấy thêm đá. Những thoi nước đá nặng trôi trên băng chuyền cao chạy từ nhà máy lạnh, trồi sụt nghiêng bên này lắc bên kia, lao vào mô tơ. ơ đấy nó bị đập vỡ thành những cục đá nhỏ trút theo máng xuống hầm tàu. Đá bị đập bắn ra rơi vãi nhiều. Đá vụn rơi xuống mặt cầu cảng đọng lại thành vầng, tan thành vũng, phí quá. Đứng ở đó mát lạnh cả người vì hơi nước đá xông lên dù đang giữa mùa hè. Tôi giơ tay hấng một nắm đá vụn cho vào mồm. Mát không chịu được. Giá ở Bắc Giang trưa nào chúng tôi cũng được một ca đá này mà uống nước. Xe xích lô chở rau tới. Rau được đưa xuống hầm đá. Thịt cũng được đưa xuống đó. Tôi nhòm xuống hầm. Hầm sâu và rộng. Ngọn điện làm hầm đá sáng lóa như tuyết. Bác Nhớn cấp dưỡng khệ nệ xách xuống tàu một can chíu chương, một bọc chanh ớt, tỏi to đùng. Chú Hồng, chú Sơn, cả hai chú đều còn rất trẻ và đều là thủy thủ đang vục những bàn tay đã bọc trong túi ni lông vào trong thùng mỡ lấy mỡ vuốt vào những sợi cáp ở boong lái. Trông thấy tôi, các chú bảo:
- Nghịch đây. Hết việc rồi nghịch đây. Có nghịch với chúng tao không thằng cu?
Tôi đứng xem các chú làm. Quần áo bảo hộ lao động bẩn thỉu, đen đúa, dày cộp dầu mỡ. Cái áo của chú Hồng như bị quạc vào đinh, rách một miẽng ở bả vai, phật phờ, nom rõ làn da rất trắng của chú ấy. Tôi ngạc nhiên: Sao mặt chú Hồng xạm mà người chú ấy trắng thế. Các chú vuốt mỡ vào đoạn nào đoạn ấy thẫm đen lại trông như mới. Những đoạn đã vuốt mỡ được khoanh riêng.
- Bố mày khoán chúng tao buổi sáng nay chỗ này đây. Phải năng suất lắm mới hoàn thành đấy cu ạ.
Bỗng chú Hồng kêu lên bảo chú Sơn:
-  Giẫm vào một cục mỡ rồi. Trừ năng suất!
Chú Sơn nhìn xuống chân: Một chiếc giày bảo hộ lao động bê bết mỡ. Chú Sơn cười:
- Làm sao trừ được năng suất của tớ. Vì đây là mỡ nên nó mới bẹp, còn nếu là một chất rắn thì nó vẫn còn nguyên dưới chân tớ hoặc bắn ra ngoài theo đúng định luật vật lý học.
Đang lúi húi làm việc, bỗng chú Hồng ngẩng lên, ngơ ngác:
-  Tàu nào to thế nhỉ?
Rồi nhìn ra phía giữa sông: Một con tàu lớn trắng toát tiến vào, dài, cao, như một dãy phố nổi. Con tàu lừ lừ trôi gần như không một tiếng động với những hàng cửa sổ tròn, những cần câu, những phao khoanh trắng khoanh đỏ, những chiếc xuồng đặt trên boong cao ngất. Lố nhố những “ông Tây” và có cả những “bà đầm” nữa đứng vịn lan can nhìn về phía chúng tôi.
-  Tàu Đác-ta-nhan!
Chú Sơn kêu lên. Tôi hỏi chú Hồng:
-  Sao chú biết có tàu to vào?
-  Sóng. Sóng, mày không thấy à?
Lúc bấy giờ tôi mới để ý thấy tàu chúng tôi bị sóng từ con tàu vừa đi qua nâng lên hạ xuống. Đác-ta-nhan đi qua rồi nhưng những con sóng vẫn đổ bờ. Sóng to, tàu chúng tôi bị sóng hút xuống nom rõ cái dầm gỗ ốp cạnh mặt cầu bảm đầy vảy cả rồi lại dâng lên, thành tàu che khuất mặt cầu. Chú Hồng khen tôi:
- Thằng con ông Đảng này cứng sóng đấy. Lớn lên đi biển được đấy.
Đến lúc ấy tôi mới biết tôi là người chịu được sóng, có thể đi biển được. Điều ấy càng nung nấu quyết tâm trở thành thuyền trưởng của tôi. Như bố tôi bây giờ. Hay như ông thuyền trưởng Đác ta nhan vừa qua đây. Chao ơi! Còn gì sung sướng hơn làm thuyền trưởng một con tàu như tàu Đác ta nhan vừa qua đây, cùng nó đi khắp nơi trên trải đất. Hai chú còn bảo bố tôi chịu sóng kém, chỉ loại hai thôi. Chịu sóng giỏi phải là chú Hùng lùn, ông Suất máy trưởng, bác Nhớn. Hai chú Hồng, Sơn cũng chỉ như bố tôi, loại hai.
-  Mày loại một đấy cu ạ.
Câu nói ấy làm tôi như lớn hẳn lên. Tôi nhớ đến đám bạn học. Dù chưa học cấp ba, nhưng chúng tôi vẫn thường thảo luận với nhau về ngành nghề khi thi vào cảc trường đại học. Mỗi đứa nêu một ngành nghề khảc nhau. Bách khoa. Giao thông. Lũ con gái trong đó có cái Nhã thì thích sư phạm. Chỉ có tôi thích hàng hải. Cả thằng Toán nữa. Thằng này ngồi cạnh tôi, đã đến nhà tôi chơi và gặp bố tôi. Cu cậu lúc đầu thích ngoại thương nhưng sau cũng theo tôi nói thích hàng hải. (Nó cũng nói với tôi rằng nó yêu cái Nhã ngồi bàn trên). Nhưng không biết mày có chịu sóng được như tao không? Tôi nói thầm với nó và thấy hãnh diện về mình.
Đến bữa cơm chiều mọi công việc mới xong. Chúng tôi ăn đứng quanh cái tơi vừa sửa, ngay cửa ra vào bếp. Cũng vì trời nóng quá. Đứng gió. Chiều mới đỡ một tí. Nhất là khi mặt trời chui vào đám mây thành đằng tây. Mấy xoong canh được đặt trên nắp hầm cá. Mỗi xoong là một mâm. Ăn mâm nọ rồi sang mâm kia cũng được. Hết cơm thì vào bếp mà xúc trong vạc. Rau muống khoai sọ nấu tôm. Cà pháo. Thịt kho. Cơm nước xong tàu tách bến. Tôi tụt vội xuống buồng máy xem bác Suất khởi động máy, điều tôi vẫn ao ước từ khi đặt chân lên tàu. Bác mở cái cánh cửa sát cabin mũi, một cầu thang sắt dốc đứng hiện ra, dẫn xuống một vùng ánh sáng mờ mờ. Bác bật một ngọn đèn ắc quy. Cỗ máy chính đồ sộ nằm dài với những dãy cò mổ, những ống cong cong đều tăm tắp, những núm tròn... Lại còn hai cái máy nhỏ đặt giữa những lưới thép bảo hiểm, những hộp hình chữ nhật sơn xanh đóng kín. Nhằng nhịt đủ các thứ, các kiểu hình dáng toàn bằng sắt thép đặt ở mọi chỗ, những núm nhựa xanh đỏ, những đồng hồ với những dòng chữ nhỏ li ti. Tôi nhìn máy móc trong hầm máy và lè lưỡi nhìn bác Suất, vô cùng kính phục. Không biết bác đã học bao nhiêu năm để hiểu được những máy này, điều khiển được nó lại còn sửa chữa được nó. Thấy tôi loăng quăng chỗ nọ chỗ kia, bác Suất quát:
-  Cẩn thận không ngã! Trơn lắm đấy!
Tôi đứng lại cạnh bác. Sàn buồng máy là một lớp sắt có những đường gân chéo nhau hình quả trám, ánh điện từ những chiếc bóng hình bầu dục màu trắng sữa hắt xuống óng ánh. Hình như có một lớp dầu mỏng phủ trên sàn sắt. Từ tít trên cao, ánh sáng buổi chiều chiếu xuống yếu ớt qua các cánh cửa sổ hình chữ nhật. Buồng máy sâu lắm. Buồng máy thấp hơn đường nước bên ngoài. Bác Suất bảo thế. Bác lấy tay vặn một bộ phận nào đó rồi gạt nhẹ một thanh thép nhỏ. Từ một cái hộp tròn, một ống thép trắng bóng thoi ra. Nó đẩy cái tay sắt thẳng đứng sơn nâu. Cái tay sắt đó xô cả một khối thép tròn về phía sau. Một tiếng thở dài to kinh khủng làm tôi giật mình. Như tiếng thở dài của con quái vật khổng lồ. Bác Suất bảo tôi:
-  Hơi ép đấy. Nó xì qua ống thoát.
Thế rồi tiếng máy tàu ầm ầm, lúc đầu còn như ngập ngừng, nghe ngóng rồi mỗi lúc một rền lên điếc đặc cả tai. Có tiếng rẹt rẹt. Cái tay chuông dưới chân bác, giống hệt cái tay chuông trong phòng lái cũng nhãn bóng ánh đồng thau sáng lên ở một ô. Bác Suất kéo cần điều khiển cho mũi tên đồng nằm vào ô sáng đó. Tiếng máy tàu vẫn rền rền nhưng nhẹ đi. Tàu rùng rùng làm chiếc xô dầu đặc đặt trên sàn buồng máy lồi lõm như có những giọt mưa rào bắn vào. Tôi vội nắm thang sắt trèo lên hành lang nhà bếp rồi vượt nhanh mấy bậc cầu thang sắt xoai xoải tới buồng lái. Bố tôi đang đứng đó với chú Hồng quay vô lăng, cả hai chăm chú nhìn về phía trước. Hóa ra tàu đã chạy được một quãng khả xa. Phía bên trái là những bãi sú xanh um, bên phải là một nhà mảy lớn không biết là nhà mảy gì và sau đó là những mái nhà tranh nhỏ bé. Còn lại chỉ là bãi sú. Nhiều tàu đi ngược vào phía trong bờ. Họ biết bố tôi và giơ tay vẫy bố hoặc thét lên một câu gì đó nghe không rõ khiến tôi rất tự hào. Khi ở buồng mảy, tôi kính phục tài năng của bảc Suất, đổng thời tự hào về bố tôi. Bố tôi lãnh đạo được cả những người giỏi như bảc Suất. Giờ đây tôi thêm tự hào về bố. Bố quen biết rất nhiều người tài giỏi và, quan trọng hơn, những người này đều tỏ ra yêu quý bố.
Trông nom con tàu bẹp với Cương còn có Kích, một máy trưởng tính hâm hâm, làm như trâu nhưng không thích là không nhúc nhích, bực lên chửi tất cả, chẳng chừa một ai. Và anh chàng Nguyễn Văn Nhược, nguyên thợ lạnh trên bờ (công nhân của nhà máy nước đá) kiêm thợ điện. Trước khi về 307, Nhược đã là một người nổi tiếng. Dạo ấy Nhược được điều từ phân xưởng lạnh tới văn phòng, trông nom điện cho khu cơ quan, một công việc nhàn nhã bao người thèm muốn. Một buổi trưa, Nhược được giao nhiệm vụ lên nhà ăn bưng hai suất ăn trưa về để giám đốc tiếp khách. Ngày ấy căng tin chưa thi công xong, còn đang đào móng dở dang. Mà xí nghiệp lại ở mãi đầu phía đông thành phố, đường đi lối lại còn đầy những ổ gà, ổ voi to như hố bom lúc nào cũng có nước, nên chỉ ăn tối mới đánh xe ô tô đưa khách lên phố, còn bữa trưa ăn ở nhà ăn, và sau này khi căng tin đã hoàn thành thì ăn ở căng tin, cũng đủ các món, đủ các loại rượu, lại ở liền bên thật tiện. Mười giờ Nhược đã đi lên nhà ăn, cách non kilomet, cái nhà ăn ở kề trạm xá, giữa trung tâm xí nghiệp bao gồm mênh mông là đất đai, là xưởng lưới, xưởng lạnh, xưởng cơ khí, nhà máy chế biến hải sản...
Mười một giờ chưa thấy Nhược về, chánh văn phòng Điều vẫn bình chân như vại. Nhưng đến mười một giờ mười lăm mà chẳng thấy cái bóng cao kều của Nhược đâu thì đã nghe như có điều gì không ổn rồi. Bà Nga, một nhân viên chuyên đi mua văn phòng phẩm được chánh văn phòng giao nhiệm vụ “đạp xe lên nhà ăn cho tôi, gặp thằng Nhược đâu thì bảo nó lên xích lô cùng với bà về ngay không chết cả bây giờ”. Việc đi lấy cơm này lẽ ra là của bà Nga, chứ không phải của Nhược. Từ Viện nghiên cứu quanh năm đói rách, bà được ưu tiên chuyển về đây khi sắp đến tuổi hưu là để chạy văn phòng phẩm và làm những công việc linh tinh khác. Đi lấy cơm đích thị công việc linh tinh rồi. Nhưng Nhược cũng rỗi. Hai người cùng rỗi tất nhiên Nhược phải đi. Bởi vì bà Nga là chiến hữu với chánh văn phòng, và dư luận vẫn xầm xì rằng trong việc mua văn phòng phẩm có nhiều thứ phải mua ngoài, bà Nga đều nâng giá, và được chánh văn phòng duyệt chi, đó là cửa làm ăn của hai người.
Bà Nga lên xe đạp hối hả và trở về với vẻ mặt ngơ ngác: Nhà ăn nó bảo thằng Nhược về lâu rồi, từ lúc mười một giờ kém mười lăm cơ. Hai chai bia Tiger to, một đĩa tôm rán, một đĩa chả mực, một liễn canh sườn ninh khoai sọ với rau rút... Thôi thôi bà ơi. Đang đói. Bà kể những thứ đó ra làm gì. Bà quay lại một lần nữa xem, nó có giạt vào hàng vào quán nào nghỉ không. Thấy nó thì bảo nó lên xe xích lô về ngay. Còn bà cũng đạp ngay về báo cho tôi biết chứ không giám đốc lại đổ ấm chè cũ pha ấm chè mới rồi. Việc hết, quá trưa bụng đói mà cứ chè đặc uống có chết người không cơ chứ.
Mười hai giờ, bà Nga hối hả đạp xe vào sân, chưa dừng xe đã hốt hoảng: Đi các quán rồi, chẳng thấy nó đâu. Về từ sớm, mười một giờ... Chánh văn phòng xua tay ra hiệu im. Bà Nga còn chưa hiểu ra sao thì giám đốc và vụ trưởng vụ kế hoạch Bộ đã sóng đôi bước ra chiếc xe ô tô nổ máy chờ sẵn. Bà Nga thở phào:
- Phải lên phố ăn thôi. Phen này chết với giám đốc. Khi chiếc Toyota đã lăn bánh ra con đường bê tông dẫn tới cổng bảo vệ, chánh văn phòng kéo tay bà đến trước cửa phòng dành cho chị em tổ bốc cá lảnh ở một đầu nhà, giáp với nhà bếp: Trong phòng vắng tanh vì không có tàu về, chị em tổ bốc nghỉ, một mình Nhược đang ngồi bệt xuống nền đá hoa, duỗi dài hai chân, mặt đỏ chín và vẫn còn đang ngáp ngủ. Cơn buồn ngủ vì uống nhiều bia làm Nhược cứ díp hai con mắt lại, không sao giữ được.
Đó là sự kiện có một không hai còn được nhắc đi nhắc lại cả tháng trời sau đó. Mỗi người thuật lại câu chuyện theo góc độ của mình, có cả một tí thêm thắt. Và cười. Cười giòn. Ai cũng cười giòn. Nhưng bao giờ tiếng cười của chánh văn phòng cũng to hơn tất cả. Nhất là khi chính khổ chủ, giám đốc Trần Hữu Bằng thuật lại cơ đận cứ ngồi chờ bữa ăn trưa. Mấy trưởng phó phòng giúp việc đã về, chủ đã cho sổ sách tài liệu vào ngăn kéo, khách cũng đã cất kính vào cặp. Mà không thể nào đứng lên được. Không thể đứng lên mời khách sang phòng bên ăn trưa được. Lại pha ấm trà mới rồi hỏi sang chuyện trên bộ, hỏi thăm tình hình mấy tổng công ty trong ngành, hỏi cả sang chuyện gia đình, vẫn chẳng thấy ông Điều chánh văn phòng vào mời đi ăn cơm. Sốt ruột quá, chạy ra xem sao thì được biết văn phòng đã cho người đi lấy cơm cả tiếng đồng hồ rồi. Cuối cùng đành phải nói thật là bữa ăn trưa hơi bị trục trặc kỹ thuật một tí, và mời vụ trưởng lên khách sạn... Tôi cam đoan vụ trưởng không thể nào hình dung nổi sự cố kiểu như vậy. Sự cố ấy chỉ ở xí nghiệp mình mới có! Tất cả đứng giữa sân quây quanh nghe giám đốc kể đến chuyện chủ khách đã cất tài liệu đi rồi mà cứ ngồi uống chè đặc nhìn nhau không biết nói chuyện gì đều phá lên cười. Cười vì giám đốc không cáu (cơn cáu kỉnh đã qua đi rồi). Cười như cười một chuyện buồn cười nhất trên đời.
- Nó lại học Trạng Quỳnh, cho thủ trưởng ăn món mầm đá.
Chánh văn phòng nói rồi cất tiếng cười. Ngửa cổ ra đằng sau cười, cong người lại cười. Dài. Giòn giã. Có cung có bậc. Chờ đến khi chánh văn phòng đi, giám đốc mới nói:
- Tôi sợ nhất tiếng cười của ông Điều. Bị nhịn bữa trưa tôi cũng không sợ bằng. Sợ hơn bố chết.
Bà Nga, cháu Nhạn đánh máy, anh chàng Tín thi đua còn có tên là giò Tìu lại được một trận cười.
Cũng không ai phê bình kiểm điểm gì Nhược trong chuyện ấy. Hình như đến thế là hết rồi, chẳng còn gì để nói. Rõ ràng Nhược hâm. Mà hâm thì nói cũng bằng thừa. Chỉ có từ nay đừng bao giờ cho Nhược đi lấy thức ăn thức uống gì nữa. Nhược bị trả về xưởng lạnh. Phân xưởng lạnh trả Nhược về tổ chức. Nhược về khối dự bị vì trước đây Nhược là thợ lạnh dưới tàu. Cuối cùng, Nhược được điều về trông con tàu 307, dưới quyền của đại phó Phạm Cương.
Dưới tàu, những lúc buồn quá, Cương đã hỏi Nhược về chuyện ấy, chuyện cứ đàng hoàng ngả ra đánh chén suất tiếp khách của giám đốc. Nhược cao lêu đêu, da trắng môi hồng, trông rất thanh tú và trí thức, khác hẳn với nước da cháy nắng, kiểu nói oang oang ăn sóng nói gió của các thuyền viên, rất thành thật:
- Em cũng chẳng hiểu ra làm sao nữa. Mà có phải em đói khát thèm ăn thèm uống đâu. Tàu nào về chúng nó cũng mời em xuống ăn uống với chúng nó. Em đội trên đầu bữa ăn trưa, thấy nó thơm thơm. Đội lâu, đầu mỏi, lại nắng nữa, mới ghé vào quán bà Bảy uống chén nước, nghĩ còn sớm chán. Rồi mở ra nhìn thấy ngon quá. Lúc ấy lại thấy đói nữa chứ. Thế là quành vào Bãi Cát, hạ xuống. Mở lồng bàn ra. Nhón miếng chả mực trước. Cũng định làm một miếng thôi. Nhưng phải công nhận bọn nhà ăn làm chả mực quá ngon, em nghĩ cứ làm thêm miếng nữa. Lại bốc cộng rau thơm. Thế là thèm bia. Mới mở một chai. Tu. Đang tu thì bố Quân rỗ, báo vụ tàu 12 từ đâu đi ngang qua. Món gì thế này? Mà sao lại ngồi ăn ở đây? Vừa nói xong ông Quân rỗ đã ngồi sụp xuống giằng lấy chai bia tu một hơi. Anh biết ông Quân uống bia như thế nào rồi. Như hũ chìm. Ngon quá. Đang khát. ơ đâu ra mâm cỗ thế này mày. Tao chịu mày. Ngồi xếp bằng giữa giời mà nhắm thì vô địch. Bốc một miếng chả mực ăn, vừa nhai vừa nói vừa nhìn em. Em bảo: Cơm tiếp khách ăn trưa của giám đốc đấy. Ông Quân sững lại: Thật không? Chết. Thế thì gay. Mày liều thật. Đây. Tao đưa tiền mày chạy ra hàng bà Bảy mua hai chai Tiger, đội về ngay, không bỏ mẹ. Mày đi ngay đi. Tao ở đây trông cho. Em mở chai bia thứ hai: Anh em mình uống nốt chai bia này đã rồi em đi mua sau. Bây giờ vẫn sớm mà. Em san bia sang cái vỏ chai không, đo bằng nhau cẩn thận. Rồi cụng chai. Mỗi thằng một hơi và dốc ngược chai. Chiêu một con tôm rán đi ông anh. Đừng lo. Một chủ một khách ăn làm sao hết đĩa tôm này. Đĩa tây tôm to đùng cơ mà anh. Mỗi chúng em làm một con tôm rán. Rồi em cầm tiền chạy đi mua bia. Hóa ra được ba chai. Thế là phải hóa kiếp một chai. Lại san ra chai rỗng. Lại đo hai chai xem có bằng nhau không. Lại cụng chai, uống và nếm sang món sườn ninh. Thấy được. Hơi men đã bốc. Ngà ngà. Thuận tay em mở một chai bia nữa.
Ông Rỗ giật mình: Hăng thế. Cẩn thận. Toi mạng đấy. Toi cái gì mà toi. Ông anh cứ uống đi. Tội vạ gì thằng Nhược này chịu hết. Không đổ trách nhiệm cho ông anh đâu. Ông Rỗ rất láu, chỉ uống hết chai ấy rồi đứng dậy đi. Còn một mình em... Lúc ấy chẳng biết giời đâu đất đâu nữa.
Nhược đỏ mặt cười. Nhớ lại, Nhược ngượng. Chiến tích ấy làm Nhược quá nổi tiếng. Cả xí nghiệp, khối phòng ban phân xưởng trên bờ, anh em khối dưới nước, không ai không biết chuyện.
Còn Quân. Cũng đã có một thời gian Quân về tàu 307 làm lính dự bị của Cương. Đúng là Quân uống bia thì vô địch. Một buổi chiều, gần tan tầm, Cương từ phòng tổ chức bước ra (cũng phải la cà các phòng ban chứ, nằm mãi ở cái quan tài sắt chịu sao nổi) thì gặp Quân. Đại phó. Đi đâu đấy? Làm một vại chứ? Quân khoác tay Cương. Đi vài bước, đến đầu hồi nhà, Quân đã rời Cương ra, đứng úp mặt vào tường. Toa lét. Toa lét lâu. Mấy cô tài vụ ôm vai nhau ríu rít đi qua. Đám cán bộ phòng khai thác đi qua. Cương đứng chờ mà ngượng chín. Toa lét xong lại khoác tay Cương đi. Đến Ngã ba Đông Dương, nghĩa là ra khỏi cổng bảo vệ chỉ khoảng dăm trăm mét thôi, vừa vào đến quán bia, để Cương ngồi xuống ghế, Quân đã đi thẳng vào phía trong sâu hút. Khi trở ra, ngồi xuống bàn còn nói:
- Ông có toa lét, cứ thẳng vào trong, rẽ phải.
Vừa toa lét xong đã toa lét nữa rồi. Chắc Quân vừa rời khỏi một hội bia nào đó. Mặt Quân nom bì bì tai tái
thế kia là đã say lắm. Thế mà vẫn uống sáu vại nữa. Uống xếch. Không mồi. Không cả thuốc lá, chỉ bắn thuốc lào. Quân uống và bảo Cương rằng Quân vừa trốn thoát khỏi Túy, báo vụ tàu Hạ Long 21. Thằng cha ấy uống tởm không chịu được. Cái chuyến tàu từ Hong Kong về Sài Gòn hổi đầu năm, Túy với Tụy, em ruột Túy làm bên dầu khí, hai người lên khách sạn, ngổi từ sảng đến chiều, uống hết ba két bia Heineken, hai chai John đen, Tụy chảy mảu dạ dày phải đi cấp cứu ở bệnh viện, còn Túy vẫn không việc gì. Tôi đi với Túy từ sảng đến giờ, chịu không nổi, về nó không cho về, mãi mới trốn được.
Cương nhìn đồng hồ. Lúc hai người ra đây là bốn giờ hơn. Thoát khỏi tay Túy để khỏi uống rồi lại kéo Cương đi uống. Lại cạn sáu vại. Lạ thật. Thế thì trốn khỏi Túy làm gì. Cương quá biết Túy. Cái dạo bia hơi còn khan hiếm, thỉnh thoảng phòng đời sống chở được mấy bom về, cả xí nghiệp như hội. Cánh tàu kéo lên. Các phòng ban túa ra. Huy động tất cả các loại cốc, chén, cặp lồng, chậu men, ca, bát, xô. Phòng nào phòng ấy, trong phòng, ngoài hè, dưới gốc bàng, người ngồi ghế, người ngồi xổm. Uống như chưa bao giờ được uống. Mùi bia ngòn ngọt nồng nàn. Vỏ lạc rang bay khắp nơi. Túy uống bằng xô. Nhiều người định uống bia thi với Túy, nhưng đến khi Túy ra điều kiện: Uống nhưng không được đi đái thì ai cũng chịu. Túy cười: “Uống bia hơi rồi đi đái, có mà uống cả ngày”.
Nhìn mười hai chiếc cốc chỉ còn dính bọt bia và thấy đã chiều tà, đã tan tầm, Cương bảo Quân:
- Về thôi. Mình uống thế đã rồi đấy.
Hai người vừa bước ra tới ngã ba, thì Dũng, cũng dân báo vụ, nhưng làm ở trạm thu phát trung tâm hớt hải hỏi Quân:
- Anh Quân có biết anh Túy đâu không? Anh ấy mượn xe đạp của em từ sáng đến giờ vẫn chẳng thấy tăm hơi đâu.
Quân làm ra vẻ khiếp hãi, lè lưỡi hất hàm về phía một cái quán bán mái sát với bờ tường Ty bảo đảm hàng hải. Cương nhìn về phía ấy. Túy người mỏng kẹt, áo sơ mi in toàn hình những con cá bơi, một tay ôm vít ngang bụng, đang còng người, vươn tay kia ra mổ mổ vào cô chủ quán bán bia, không nói được thành lời, chỉ khò khè như một con vịt đực. Cô chủ quán hiểu được thứ ngôn ngữ ấy. Cô rót từ can ra một vại bia hơi nữa cho Túy. Quân nhìn Túy rồi nhìn Cương. Lại lè lưỡi dài hết cỡ, lắc đầu khiếp hãi. Cương cũng cười. Về khoản uống, Cương không ngán bất kỳ ai, nhưng anh không uống cho đến chết như vậy. Ớ dưới tàu, anh cũng bị nhiều trận vãi cả linh hồn, nhưng uống suốt từ sáng cho đến tối thì không. Anh cũng biết mình đang hỏng dần. Ngày nào cũng phải có một tí men, không có là không chịu được. Cũng bởi vì nằm dưới tàu bẹp quá buồn, anh hay đi dạo các tàu bạn. Đến đâu họ cũng rót rượu, rót bia mời anh. Có những lúc anh không muốn uống, nhưng họ cứ rót, cứ ép. Hình như họ thương anh nghèo, số phận hẩm hiu. Mà Cương thì kị nhất cái tình thương ấy. Biết rằng chữ nghĩa năm năm đại học đang rơi vãi đi, của thầy giả lại thầy, Cương tìm đọc các sách về ván lưới, ôn lại lý thuyết thiên văn, đêm tối leo lên đỉnh cabin thượng làm những bài tập về xác định vị trí tàu qua các vì sao. Cương nhớ đến thầy giáo dạy thiên văn. Thầy bảo ở Vịnh Bắc Bộ chỉ có 88 chòm sao làm được thiên văn hàng hải. Còn sao Polaris tức sao Bắc Đẩu quanh năm không rời khỏi cực một độ. Khi mình đứng đúng ở Bắc cực thì sao trên đỉnh đầu. Cương chưa lên Bắc cực nhưng anh đã ở xích đạo. Đúng là khi mình ở xích đạo thì sao Bắc Đẩu nằm dưới đường chân trời, không nhìn thấy. Lần ấy vượt qua xích đạo trên một con tàu Liên Xô, cả tàu như mở hội. Thuyền trưởng mời rượu và gắn cho thuyền viên mỗi người một huy hiệu “Vượt qua xích đạo”. Cương nhớ đến thầy dạy luật hàng hải. Rất thú vị. Như luật Comoro. Nếu tàu hành trình đâm vào tàu neo mà tất cả mọi người trên tàu hành trình đều giơ tay thề trước Chúa là không có ý định đâm thì không bị kết tội. Cương đã đi săn cá voi khi thực tập ở Liên Xô. Trên tàu ăn muối. Như người đi săn con hươu con hoẵng trong rừng chưa bắn được thú nên chưa có thịt ăn. Cương đã nghe tiếng con cá voi cái ăn no dạo chơi và nằm thở phì phò trên biển Bắc... Cũng không ngờ anh lại được làm hộ chiếu, được sang Liên Xô, với cái lý lịch “đen ngòm” của mình. Có lẽ vì tấm huân chương anh đạt được trong những ngày chiến đấu ở khu Năm. Những ngày ấy đâu dám nghĩ tới ngày về. Chỉ một tháng đã phải bổ sung quân ba đợt. Cố mà giữ lấy phiên hiệu. Lính cũ chỉ còn dăm người. Bộ đội xanh xao vàng vọt vì đói, vì bệnh, vì không thuốc men, vì vác nặng. Xác lính ta lính ngụy chết thối rừng. Những đoàn lính ngụy bị bắt làm tù binh trông mới tiều tụy làm sao. Quần áo tả tơi. Ông quần cắt cụt, xé toang tới đũng để vừa đi vừa đái, bởi trong khi đang áp giải trên đường thì không một tù binh nào có thể dừng lại. Anh bao nhiêu tuổi. Dạ, con năm hai tuổi. Sao già thế còn đi lính cho nó? Dạ, con trốn nhưng không được.
Con đâu có ủng hộ chính phủ Thiệu. Vừa lúc ấy một chiếc máy bay bay qua, người lính Sài Gòn kêu lên: Máy bay ông Thiệu đấy! Và biết mình lỡ lời, anh ta hét to: Máy bay thằng Thiệu đấy. Rồi hát rất đúng điệu, rất hùng hồn: Thề cứu lấy nước nhà thề hy sinh đến cùng, Việt Nam anh dũng xông tới. Vận nước đã đến rồi...Những ngày ấy về trạm điều dưỡng, mỗi ngày một trận sốt rét (giờ đây nghĩ lại vẫn thấy rùng mình) Cương không viết nổi lá thư. Mắt hoa, tay không cầm nổi cái bút. Nhưng vẫn phải đứng xếp hàng chờ gọi tên để nhận suất ăn, nếu không sẽ bị mất cắp. Những ngày ấy chỉ nghĩ đến mẹ và nghĩ đến những con đường Trường Sơn đang chờ đợi khi mình lại sức, lại mang súng hành quân. Nào ngờ đâu được làm công vụ ngồi com măng ca với thủ trưởng Trần Dương bên bờ Bắc. Một công việc nhàn nhã. Một công việc xa bom đạn và sốt rét. Thế rồi một hôm đồng chí Dương bảo Cương:
- Anh sắp nhận nhiệm vụ mới, chuyển sang ngoại giao, làm tùy viên quân sự ở nước ngoài. Trước khi đi anh muốn giúp em, cử em đi học sĩ quan chuyên nghiệp. Ý em thế nào?
Cương hơi hoang mang. Nghề chinh chiến không hợp với anh. Anh chẳng thích thú gì làm sĩ quan chuyên nghiệp. Đấy là chưa kể cái lý lịch của anh rõ ràng không thích hợp với con đường binh nghiệp. Nếu thủ trưởng biết bố Cương đã bị tòa án nhân dân đặc biệt kết án tử hình, và buổi sáng hôm thi hành án, bố đã bị bịt mắt trói vào cây chuối hột sau đình, đội hành quyết đã chuẩn bị sẵn sàng và ngứa ngáy chân tay chỉ muốn bóp cò súng, thì trời đổ mưa rào, không một ai đến xem, mà không có ai xem thì chẳng còn tí ý nghĩa giáo dục, phát động nông dân đứng lên nào, nên đội đã quyết định hoãn lại đến hôm sau. Cơn mưa đã cứu bố anh. Ngay buổi chiều, lệnh sửa sai về xã. Bố anh thoát chết. Bố anh chỉ là địa chủ thường mà không phải bí thư Quốc Dân đảng như bà con nông dân đã tố nữa. Cương chỉ muốn ra quân nhưng anh không dám nói thật điều ấy, sợ bị đánh giá tư tưởng.
- Báo cáo thủ trưởng, lý lịch của em thủ trưởng biết rồi. Em có được đào tạo sĩ quan cũng khó mà tiến bộ được. Cũng chỉ thiếu úy là kịch trần. Còn đi học cơ công thì em không muốn. Em xin thủ trưởng cho em tiếp tục đi chiến đấu.
Chính ủy nhìn anh như mới gặp lần đầu:
- Anh kỳ này sang ngành ngoại giao nên không mang chú đi theo được. Còn đi chiến đấu thì anh không cho chú đi đâu. Yếu như chú chiến đấu làm sao được.
Đến lúc ấy Cương mới rụt rè:
- Hay là em đề nghị thủ trưởng cho em ra quân có được không ạ.
Liều mạng nói ra điều ấy, Cương toát hết mồ hôi, sợ bị cho là sợ chết, cầu an hưởng lạc. Nhưng không. Chính ủy ôn tồn:
-  Ra quân về nhà làm gì? Đi cày à?
Cương đã định vâng, nhưng lại nghĩ tốt nhất là nên nói thật:
-  Em về đi học tiếp.
-  Thật không?
-  Báo cáo thủ trưởng thật ạ.
Cương không ngờ sự thành thật của mình lại đáp ứng đúng lòng mong muốn của chính ủy. Đồng chí chính ủy cho người về tận nhà, gặp bố mẹ Cương, thấy cả nhà quyết tâm cho Cương đi học tiếp, đã cho anh ra quân. Không những thế còn chỉ thị cho bộ phận hậu cần ưu tiên giải quyết cho Cương những nhu cầu cần thiết, nhưng anh chỉ xin hai bộ quần áo Tô Châu, cái mũ cối và bốn gói mì chính, thứ thực phẩm cực kỳ giá trị ngày ấy về làm quà cho gia đình và bà con thôn xóm. Anh học tiếp những năm cuối cùng ở phổ thông rồi thi vào đại học. Rồi đi thực tập ở Nga. Chuyện đi Nga của anh hẳn cũng có một người nào tốt bụng thông cảm với anh. Như đồng chí Trần Dương, chính ủy đơn vị an dưỡng đã tốt với anh.
Biết bao nhiêu mộng mơ nhưng rồi phải nằm trông con tàu bẹp. Những lúc buồn chán, không biết làm gì,
Cương viết một bài về xác định vị trí tàu khi mục tiêu nằm ngoài hải đồ với những công thức dài suốt một dòng, những phương vị vô tuyến ở cự ly gần có độ chênh giữa đường cong tà hành và đường cong vòng lớn không đảng kể. Bài viết được đăng trên một chuyên san của ngành. Cũng là để trí não tập thể dục một chút, và cũng là để cho mọi người nhất là mấy ông lãnh đạo biết trong đầu thằng Cương có những gì.
Khi viết thì hăm hở thế. Nhưng đến khi in rồi Cương mới biết mình mắc sai lầm. Trừ một lần bí thư khen mà anh nghĩ sếp cho uống nước đường, giám đốc và nhất là mấy ông tổ chức cho rằng đây là cách anh phản ứng về việc bố trí anh trông nom con tàu bẹp. Như một lời trách lãnh đạo không biết dùng người. Như một cách chơi trội với một số thuyền trưởng trình độ trung cấp, sơ cấp, đánh cá chỉ dựa vào kinh nghiệm. Vì vậy anh còn bị anh em khối dưới nước khích bác nữa. Cái biệt danh “phó tiến sĩ” của anh có từ dạo ấy. Đi đến đâu, cũng râm ran những lời chào phó tiến sĩ. Cương chỉ cười. Bây giờ anh không viết bài nữa. Nhưng thỉnh thoảng đêm đêm vẫn leo lên đỉnh boong thượng đánh mooc xơ bằng dàn chớp. Hoặc làm thiên văn. Bởi vì anh em đánh cá còn đêm nằm mơ những lưới chài, chứ anh thì mơ gì. Gia đình không. Vợ con không. Bố mẹ anh ở mãi quê. Em út cũng không. Không phải rồi. Em út có đấy nhưng cũng chỉ là kiểu ăn bánh trả tiền, buồn quá thì đi, chẳng lưu lại một điều gì để mà mơ, mà nghĩ ngợi. Đã có lần Cương nghĩ mình sẽ lấy vợ. Một nữ kỹ sư chuyên về ván lưới, học sau anh ba lớp. Cô Mơ, cán bộ phân xưởng lưới, sau chuyển về phòng khai thác, chuyên theo dõi ngư trường. Thư ký công đoàn, kiêm bí thư chi đoàn khối phòng ban, Mơ là một người gương mẫu về mọi mặt. Đọc báo đầu giờ, họp chi đoàn phát động thi đua chào mừng ngày thành lập Đảng, họp sơ kết phong trào thi đua vụ cá Nam, phát động vụ cá Bắc, tổ chức biểu diễn văn nghệ trong xí nghiệp và tham gia hội diễn toàn thành, Mơ đều là người chịu trách nhiệm. Rồi học lớp cảm tình Đảng. Rồi được kết nạp, được công nhận chính thức rất nhanh và vào chi ủy. Cuộc họp nào Mơ cũng là người phát biểu đầu tiên, nếu không là người điều khiển. Mọi người tới họp hay nghe đọc báo đầu giờ, thường kẻ trước người sau lại còn lan man chuyện nọ chuyện kia, con cà con kê, bao giờ Mơ cũng là người lên tiếng chấm dứt tình trạng ấy: “Các đồng chí ổn định trật tự, ta bắt đầu sinh hoạt”. Có lẽ vì mải mê phấn đấu, Mơ đã quên chuyện yêu đương. Ớ cái nơi con gái được coi là mì chính cánh này, ngoài ba mươi tuổi Mơ vẫn độc thân. Thoạt đầu người ta ngại một người có trình độ như Mơ, rồi mỗi năm mỗi tuổi... Đi đánh thuê chuyến nào về bến, Cương chưa kịp nộp nhật ký khai thác, Mơ đã xuống tàu gặp Cương hỏi han ghi chép. Vui tính, năng động, Mơ nói với anh về kết quả khai thác của các tàu bạn, và đánh giá cao khả năng của Cương, chia sẻ với anh những thiệt thòi anh phải chịu. Mơ đã mời anh về nhà Mơ bên Hổ Lao, gặp bố mẹ Mơ. Thế rồi khi anh trở về con tàu bẹp, Mơ cũng xuống trò chuyện với anh. Anh đã quen với độ cao của cô khi ngồi trong cabin nhìn cô đi ngang qua cửa sổ. Anh cũng đã nhận ngay ra chiếc xe đạp Thống Nhất sơn xanh của cô giữa hàng chục chiếc xe đạp khác mỗi khi anh lên khu vực cơ quan. Một hôm tan tầm, anh đang đi bộ ra cổng bảo vệ thì Mơ cùng bao người nữa đạp xe ngang qua. Thấy anh, Mơ dừng lại, hỏi:
- Anh đi đâu, lên đây em đèo.
Thật quá bất ngờ. Anh bám nhẹ eo cô, nhảy lên pooc ba ga trước bao nhiêu cặp mắt mà thấy lòng mình ngập tràn hạnh phúc. Một hôm khác, cô xuống tàu anh đi đánh thuê nhận một con cá song anh để dành phần cô. Tàu bốc cá đã ba ngày, đã trở lại vắng vẻ vì đã hết mùi tanh của cá. Anh vào hầm chế biến, mở tủ đông lấy ra con cá song để cô gói vào giấy báo. Rồi bưng nước vào tận phòng cho cô rửa tay. Cô vừa rửa tay vừa kể cho anh một chuyện vui. Chuyện cô Thịnh với anh chàng Tuyên văn phòng đảng ủy đi xin cá.
- Hôm ấy em cũng xin được cá nên về muộn. Cả khu cơ quan đã về hết. Thấy cửa văn phòng đảng ủy vẫn mở, em mới đi lên xem còn ai không, sao lại quên không khóa cửa thế này hay vẫn còn sinh hoạt tổ Đảng tổ công đoàn thì nghe thấy tiếng anh chàng Tuyên tận tít phòng trong: Nước đây rửa đi. Rồi tiếng cái Thịnh: Anh rửa đi. Em lau rồi. Anh có biết họ làm gì không? Đố anh đoán được.
Cương cười nhìn thẳng vào mắt Mơ:
- Họ... ấy à?
Mơ long lanh đôi mắt:
- Em cũng tưởng họ làm gì với nhau cơ. Nhưng hóa ra họ vừa chia cá xong. Mỗi người một gói. Tuyên đem nước vào cho cái Thịnh rửa tay, nhưng cô nàng lau tay rồi. Khiếp đứng bên ngoài nghe cứ như là họ vừa... sinh hoạt với nhau xong ấy.
Và Mơ cười ngặt nghẽo:
- Bây giờ thì ngược lại. Em rửa. Anh lau.
Cương đã ôm hôn Mơ ngay lúc đó. Mơ đáp lại cái hôn mới nhiệt tình sôi nổi làm sao.
Thế rồi một buổi tối đã hẹn trước, Mơ xuống tàu anh, con tàu 307 nằm mãi cuối cảng, lẻ loi đơn độc, cầu tàu không một ngọn đèn. Chỉ một mình Cương trên tàu. (Buổi tối Nhược, Thuyền, Kích thưòng về nhà ngủ). Hai người ôm nhau trên boong. Cương dắt Mơ vào buồng mình, rồi giơ tay tắt công tắc, bế thốc Mơ lên giường. Nhưng Mơ giãy giụa thoát khỏi tay anh, bật đèn lên ngay lúc đó. Thấy vẻ hoang mang ngơ ngác của Cương, Mơ kéo anh tới bàn tiếp khách:
- Từ từ chứ. Chuyện đã nào.
Hai người ngồi ghế. Chuyện. Chỉ Mơ nói. Cương cố trấn tĩnh, dằn mình nghe Mơ nói. Toàn chuyện công việc. Chuyện xí nghiệp. Chuyện các phòng ban. Làm ra vẻ lắng nghe, nhưng Cương cứ nhìn hai bàn tay Mơ đặt trên bàn và giơ tay nắm lấy. Mơ rút tay ra, bảo anh.
- Chuyện một tí đã. Đâu có đó mà.
Thế nghĩa là Mơ hứa sẽ cho Cương điều anh đang mong, Cương biết cái gì sẽ đến cùng anh. Vậy hãy bình tĩnh chờ đợi. Đừng tỏ ra mình chỉ chăm chăm tới chuyện ấy. Mặc dù anh muốn ôm lấy Mơ, hôn vào đôi môi kia, và cùng nhau ân ái. Có lẽ Mơ sợ, đây là lần đầu tiên đối với Mơ, lần đầu tiên đối với một đời con gái nên Mơ sợ, anh nghĩ. Lúc này trông Mơ mới đẹp làm sao. Hai hàng lông mày gọn cong mà anh gọi là lông mày trăng non. Đôi mắt nhìn anh mới tin cậy làm sao! Anh sẽ lấy Mơ, chúng mình sẽ lấy nhau Mơ ạ. Dù Mơ là bí thư chi bộ còn anh vẫn là quần chúng. Anh choàng tay lên vai Mơ, nhưng Mơ hất ra, cái hất ra hơi mạnh và quyết đoán khiến Cương giật thót người, tự trách mình đã không kìm giữ được. Anh sợ bị Mơ khinh và lại ngồi im ngoan ngoãn.
- Tí nữa nào. Để em kể nốt cho anh nghe. Cái Nghĩa ở đài trung tâm cũng không tốt với em đâu. Con ấy kèn cựa với em, phấn đấu hăng, không buổi sinh hoạt nào vắng mặt. Nó muốn vào chi ủy, nhưng vào làm sao được. Bố nó trước đây làm cho Nhật đấy. Nhà giàu lắm. Được kết nạp là may lắm rồi.
Rồi Mơ nói sang chuyện một anh bảo vệ, chuyển từ xí nghiệp gạch ngói sang đây, đã sửa lại lương từ 50 đồng thành 56 đồng, dễ lắm, chỉ lồng tờ quyết định vào máy chữ, đánh số 6 đè lên số 0 là xong thôi, kỷ luật Đảng sáu tháng, mãi mới được sinh hoạt. Chưa hết. Còn chuyện trưởng phòng Trần Văn Dưỡng của Mơ. Lẽ ra được kết nạp lâu rồi. Chỉ tại cái mồm. Kế hoạch mười nghìn tấn cá trên giao xuống là pháp lệnh, làm được đến đâu thì làm. Trách nhiệm thuộc về đảng ủy giám đốc về toàn xí nghiệp chứ đâu thuộc về mình. Cứ lên tiếng phản đối. Kỳ này cũng thuộc diện đối tượng rồi đấy. Em bảo: Anh cứ ngậm miệng cho em nhờ. Làm thế nào thì làm. Đừng để bất kỳ một đảng viên nào trong chi bộ phản đối. Chi bộ cũng đã đặt chỉ tiêu trong năm nay phát triển từ một đến hai đảng viên...
Tai Cương ù đi. Hoàn toàn không hiểu Mơ nói gì. Có lúc muốn vùng lên chạy ra boong. Nhưng vẫn ngồi cố làm ra vẻ chú ý lắng nghe để Mơ khỏi khinh mình là người xác thịt. Cho đến khi Mơ đứng lên tắt điện rồi nhẹ nhàng cởi bỏ hết áo quần, nằm trên giường, Cương vẫn ngồi trên ghế, thần kinh ê ẩm, chân tay rã rời như vừa trải qua một thử thách quá sức gần như tra tấn. Đừng vội vàng, hãy ngồi lại đây một lát để bình tĩnh lại, đã cố được đến bây giờ... anh tự nhủ. Dưới ánh sao và những ánh điện từ xa chiếu qua cửa sổ để mở, (dù mở nhưng rất an toàn vì bên dưới là boong lái sâu thăm thẳm không ai có thể trèo lên nhìn vào được) anh thấy rõ thân hình trắng nõn của cô gái trên suốt chiều dài chiếc giường của anh, cả đám lông đen đầy khiêu khích và chờ bàn tay Mơ chìa ra về phía mình mà thấy từ đầu đến chân như tê liệt. Vẫn nằm trên giường, Mơ gọi anh:
- Nào! Ta sinh hoạt nào anh.
Anh chết lặng. Một câu hoàn toàn không chờ đợi, không ngờ tới. Còn hơn một gáo nước lạnh! Hơn cả sự thất vọng! Nhất là sau khi anh đã căng hết thần kinh nghe Mơ nói biết bao nhiêu chuyện. Nào! Ta sinh hoạt nào anh. Sao đầy tính chất công việc rạch ròi thời gian đến thế. Những công việc phải làm. Cứ như trước khi đọc báo, trước khi họp công đoàn, họp Đảng. Sức công phá của nó là ngay tức thì. Toàn thân anh mềm nhũn, xìu đi. Như có một người thứ ba nào đó vừa có mặt ở đây. Như đang tham gia một cuộc họp mà Mơ là chủ tọa. Cương ngồi chết gí trên ghế. Anh thở dài, một tiếng thở dài dài nhất trên cuộc đời này. Tiếng Mơ như giễu cợt:
- Tự ái à? Không sinh hoạt à?
Lại thêm một búa nữa. Anh gục hẳn. Nhưng không thể để Mơ một mình ở đó. Anh bước tới giường, nằm xuống bên Mơ, nghiêng người quàng tay ôm lấy Mơ như một nghĩa vụ. Người anh đẫm mồ hôi như bị thoát dương. Anh tự động viên, cố gắng hết mình một cách tuyệt vọng dù biết hoàn toàn vô ích. Thằng bé con của anh rũ xuống. Cương thấy nó già hơn anh. Tư cách hơn anh. Triệt để hơn anh. Nó hoàn toàn độc lập với anh và điều đó làm anh kinh ngạc. Mơ tìm mọi cách khuyến khích anh, kiên nhẫn chờ đợi rồi cuối cùng ngồi dậy không giấu vẻ thất vọng, cáu kỉnh và khinh bỉ:
- Trắng thế này, đẹp thế này mà không làm ăn gì được! Sao có người chán thế?
Và khi đã mặc quần áo bước ra cửa còn ném lại một câu như một lời nguyền rủa:
- Anh có lấy vợ cũng không có con được đâu.
Cương im lặng không nói một lời. Không thanh minh. Nuốt cái nhục vào người. Mọi ý định tốt đẹp về Mơ tan biến. Thậm chí anh còn giễu thầm mình là đồ bất lực, điều Mơ không muốn nói thẳng ra.
Từ bấy chấm dứt niềm vui mới nhen nhúm là chờ độ cao quen thuộc của Mơ hiện ra qua ô cửa cabin, chấm dứt những buổi trưa lang thang lên phòng Mơ, cùng Mơ chuyện trò, trêu Mơ về những bãi cá Mơ ghi trên hải đồ, bãi cá nào cũng một khoanh phấn đỏ hình bầu dục xoai xoai trứng gà trứng vịt. Không những thế còn tìm mọi cách tránh mặt Mơ. Từ bấy lại lên boong thượng ôn thiên văn bằng dàn chớp. Lại lang thang quán rượu. Và càng mong được điều đi đánh thuê cho một tàu nào đấy. Mong đến niên đến hạn để được thi lấy bằng thuyền trưởng rồi chuồn khỏi ngành đánh dậm...
Dù nghĩ chuồn khỏi nghề đảnh dậm nhưng đi tàu nào anh cũng cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Do tính của anh. Do nằm mãi trên con tàu bẹp được thoát cũi sổ lồng, được ra biển, được thay đổi không khí, được lĩnh đồng lương và các khoản tiền nhiều gầp ba bốn lần lương cơ bản. Được nhìn thấy chân trời dù biết cái chân trời nhìn thấy ấy không phải là chân trời thật mà chỉ là chân trời biểu kiến... Các ban chỉ huy tàu đặc biệt thích Cương ở mục tác nghiệp hải đồ. Nhất là những thuyền trưởng chỉ có trình độ sơ cấp nhờ kinh nghiệm, nhờ thâm niên mà lên đánh giá rất cao khả năng ấy của anh. Thuyền trưởng Mây còn bảo anh:
- Giá mày đi với tao, hai thằng bổ sung cho nhau. Một thằng kinh nghiệm, một thằng lý thuyết...
Cương cười:
- Lý thuyết học nhanh thôi. Nhưng kinh nghiệm của anh phải bạc đầu mới có được.
Cương tự trách mình đã có thói xấu ấy. Thói xấu do gần như cả đời làm thuyền phó dự bị, nên không tự tin, cứ dựa theo “thời tiết” của người đối thoại. Thói xấu nói lấy lòng người khác. Lý thuyết học nhanh thôi. Phải cày cuốc năm năm. Phải trực chiến nhà trường tuần này sang tuần khác. Phải ăn đói đến run chân run tay và khi đi qua cổng bảo vệ chớ có hát “cuộc đời vẫn đẹp sao tình yêu vẫn đẹp sao”, bởi vì rất nguy hiểm, nhà trường cho là mỉa mai châm chọc, có thể dẫn đến bị đuổi học. Phải có tài cho vào mồm nuốt gọn cái bánh rán bà Miêng căng tin vừa vớt từ chảo ra rá, mỡ còn sôi xèo xèo mà bà ấy không biết. Hay lấy trộm của nhà bếp cái chân giò vừa luộc xong cũng nóng như vậy nhét vào cạp quần ung dung thong thả đi về ký túc xá như chẳng có gì phải vội vàng để mấy anh em cùng buồng lấy manh xơ lam xẻ ra chấm muối uống rượu thưởng thức chiến công. Phải tính được tâm của ván, phải làm thế nào cho lưới làm việc, từ hàm chì đến đụt lưới...
- Tao sẽ xin mày. Làm đơn lên tổ chức đàng hoàng. Cái thằng đại phó của tao làm ăn dở ẹc. Đại phó là phải lo nhân lực. Cùng với thủy thủ trưởng lo lưới chài, thế nhưng chuyến này sểnh chuyện này, chuyến khác sểnh chuyện khác. Ai lại chuyến vừa rồi tao đánh khu 27 lưới xúc bùn. Trở về khu 19 cũng lại xúc bùn. Rồi về đến Long Châu, tao cho thả mẻ lưới kiếm cá chim ăn. Cũng lại xúc bùn. Ớ đâu còn nghi ngờ chứ ở Long Châu cũng xúc bùn thì thôi hỏng rồi. Tao ngã người. Chết mẹ! Chúng nó lấy giềng chì tàu 400 (mã lực) và bảo giềng chì này cũng như giềng chì tàu 250 (mã lực)! Thôi mày sang với tao. Thằng Nho làm hại tao. Lưới tao xúc bùn là tại nó. Đấy là chưa kể tàu về còn đang lấy đá phủ mặt đã cho không biết bao nhiêu là cá. Đại phó là con chó giữ nhà. Làm ăn thế chỉ có chết.
Lê Mây đã làm đơn xin Cương, nhưng không được. Điều ấy Cương đã lường trước. Nho là anh em con chú con bác với chủ tịch công đoàn. Không những Nho không bị bật đi mà Lê Mây suýt phải lên khỏi tàu. Đại phó là con chó giữ nhà. Nhưng giữ sao nổi. Tàu nào về chẳng mất hàng tấn cá. Từ lúc tàu về bến cho đến khi bốc cá xong phải đến hàng trăm trường hợp xin cá mà không thể không cho. Mây nói vậy thôi. Mây chính là người cho cá nhiều nhất. Bản tính thương người, biết ai cũng gặp khó khăn, những người xuống tàu xin cá là những người đang gặp khó khăn, cực chẳng đã mới phải làm như vậy. Mây không từ chối một ai. Chưa kể Mây còn hay bốc, như anh em nói “khi hứng lên ký giấy bán cả Vịnh Bắc Bộ!”
Ơ bến nóng thế. Không một gợn gió. Thế mà mới ra tới gần cửa sông đã thấy mát mẻ dễ chịu. Gió hây hẩy. Nước sông trong hơn, không đục ngầu phù sa. Sóng cũng đã to hơn. Những con sóng từ xa rướn đến đập vào mũi tàu tung bọt. Cửa sông có nhiều thuyền. Những chiếc thuyền nhỏ có hai cây sào xòe ngang ra hai bên mạn là là mặt nước. Bố tôi bảo chú Hồng:
- Có tôm đấy. Thuyền tôm nhiều thế này, mình ra đúng lúc đây.
Thì ra đấy là những chiếc thuyền đánh tôm, những chiếc thuyền có hai chiếc sào xòe ra hai bên. Tàu của chúng tôi cũng có hai chiếc sào xòe ra hai bên như vậy. Nhưng to hơn nhiều. Bằng sắt, một ống sắt to, hàn giằng với những thanh sắt tròn nhỏ trông như hai chiếc cần cẩu nằm ngang. Vài ba người lớn có thể trèo ra tận ngoài cùng vẫn không việc gì. Các chú gọi là tăng gông. Đã không nhìn thấy những bãi sú hai bên nữa. Ngoảnh lại: Chỉ còn là những vệt xanh thấp sát mặt nước mãi xa. Thấy tôi mon men đến cạnh chú Hồng và sờ tay vào cái tay lái bằng gỗ, bố như đoán được ý tôi. Bố bảo chú Hồng:
-  Chú cho thằng cháu lái một tí.
Quá bất ngờ. Tôi chỉ mong như vậy mà không dám nói. Bố muôn năm! Tôi đứng vào chỗ chú Hồng. Nhoài người ra quay vô lăng. Cũng không nặng lắm. Khó mà nói được sự sung sướng của tôi, sự tự hào của tôi. Tất cả bọn bạn đã đứa nào được như tôi chưa. Giá cái Ngàn nhìn thấy anh nó như thế này. Con bé rất hay chành chọe, kê kích tôi. Thằng Toán nữa. Tao đang lái tàu đây, mày có biết không. Tôi thèm có máy ảnh quá chừng. Chụp một bức ảnh tôi đang cầm vô lăng, mắt nhìn về phía cửa sông trải rộng. Bức ảnh ấy mang về lớp khối đứa lác mắt. Con tàu rẽ sóng đi theo sự điều khiển của tôi, và dưới buổng máy là bác Suất. Tiếng máy rền rền. Sóng đập vào mạn tàu dào dạt... Nhưng niềm vui của tôi kéo dài không lâu. Một chiếc tàu hải quân sơn xám cùng một con tàu kéo những sà lan than rằm mạn tiễn vào. Bố tôi bảo chú Hồng cầm lái. Trước mắt tôi, những đám mây ẳen kịt bay tới như trời đang lập một cơn dông. Nhưng tôi vẫn nhìn thấy trời xanh ngăn ngắt phía sau. Gió từ phía mũi tàu ào ào thổi. Trời phía ấy mở rộng. Chân trời lùi xa mãi. Nhịp đung đưa của con tàu mạnh dần. Chưa bao giờ tôi trông thấy một khoảng trời rộng như thễ này. Một bầu trời lổng lộng! Bỗng có tiễng ca cải lương vang lên từ chiễc loa truyền thanh treo trên trụ đèn sân thượng. Biễt đã tan tầm. Đã năm giờ rưỡi rồi. Tôi nghĩ đễn mẹ tôi. Đễn con đường ra giễng nước. Cái giễng tròn, miệng giễng chỉ to hơn mặt sàng sâu thăm thẳm. Tôi kéo cái cần tre vít xuống, cho gầu chạm mặt nước và hất cho gầu nghiêng đi, múc đầy gầu nước, rồi kéo dây, thanh sắt buộc ở cuối cần giúp tôi đưa gầu nước lên miệng giễng xây cao. Cứ như vậy gầu này tới gầu khảc đổ vào hai xô. Rồi hai tay hai xô xảch vào nhà tắm, đổ cho đễn khi đầy vại. Để cái Ngàn và mẹ tôi tắm. Tôi thì tắm ngay ở giếng Tôi nhớ đễn tiễng chổi quét sân của cái Ngàn. Nhớ tiễng con lợn hộc hộc đòi ăn ngoài chuổng. Nhớ đàn chim bay đỗ trên cây nhãn cằn cỗi ngoài vườn. Nhớ con đường đất núi đỏ Hồng với những mảnh đả dăm đỏ như son dàn dạt ra hai bên đường mòn, lối đi đễn trường ở sườn đổi... Năm giờ rưỡi. Cái giờ ba mẹ con tôi bận bịu.
Con tàu vẫn thẳng hướng xé nước ra khơi. Tôi quay lại nhìn về phía tây. Mặt trời đã xuống thấp. Chân trời rực đỏ. Cửa sông chúng tôi vừa vượt qua đã xa lắm, thấp lắm, gần như nằm dưới mặt nước. Điệu lắc con tàu mỗi lúc một mạnh. Tiễng ào ào của những con sóng bị thân tàu đập.
Nước xanh thẫm. Bốn cái ván lưới treo ở hai càng chênh chếch là là trên sóng như những bàn chân con vịt giời sắp đáp xuống mặt nước. Một sợi cáp võng từ đầu càng theo nhịp đu đưa của con tàu, lạng cắt những vạt nước mỏng tung lên trắng xóa như người ném thia lia. Biển đây rồi! Tôi đã đi tới biển!
Cuộc họp do giám đốc xí nghiệp triệu tập bàn về chuyển hướng sản xuất kinh doanh được tiến hành ở hội trường mới, nằm ở tầng hai khu nhà mới xây hình thước thợ, một cạnh giáp với xưởng lạnh, nơi trước đây vẫn sản xuất đá cây, giờ đã ngừng hoạt động do thiết bị xuống cấp, do nhà máy lạnh Bungari và nhà máy đá vảy xây dựng ở khoảng đất trống phía đông đã đi vào sản xuất, chỉ còn mỗi nhà kho là vẫn hoạt động, cái kho lạnh cao, cánh cửa sắt nặng nề đóng kín, cái nhà kho giờ đây chứa cá thì ít mà chứa thịt thì nhiều, thịt lợn móc hàm, thịt lợn sữa, ngỗng, gà... của công ty thực phẩm, công ty xuất nhập khẩu và của xí nghiệp chuẩn bị xuất đi Hong Kong. Một cạnh khác của dãy nhà mới xây là gần mười gian quay lưng ra cầu cảng, cách cầu một bãi phù sa xoai xoải, mọc thưa thớt mấy khóm năn mấy cây sú, nơi sinh sống của rất nhiều cáy và cá lác. Những con cá lác nhanh nhẹn sung sướng thỏa thích quẫy đuôi trong những vũng nước hoặc phóng mình trượt trên nền phù sa bóng nhẫy mượt mà. Những con cáy im lặng chui ra chui vào lỗ, luôn cảnh giác với tất cả. Đó là những khi nước xuống. Còn lúc triều lên là mênh mông nước, khi ấy những con tàu đỗ dọc cảng nổi dềnh để lộ thân tàu sơn đỏ, sơn xám, sơn đen, những vệt gỉ han từ những lỗ thoát nước trên boong cắt ngang thân tàu xòe hình nan quạt. Đám đất phù sa từ cầu cảng tới giáp bức tường đá van vát bó lấy rẻo đất trồng bạch đàn sát với rãnh nước chảy, bên trên là tường hành lang mài granite của dãy nhà mới xây; biến thành một hồ nước nhỏ sóng gợn lăn tăn. Cánh văn phòng hay chiếm lĩnh trận địa hành lang này. Bởi nó khuất nẻo. Sếp ít khi đi ra đây. Bởi ở đây có thể nhìn thẳng xuống tàu, biết được người quen của mình có ở dưới tàu không để xuống xin con cá, hay tới tàu vận tải nước ngoài kiếm bánh xà phòng thơm, cái xích xe đạp Nhật. Bởi ngồi ở đây có thể đón ngọn gió từ sông thổi vào, nghe tiếng lá bạch đàn lao xao mà nghỉ ngơi thư giãn, hay nhìn mấy đứa trẻ lội bì bõm dưới bãi câu cá lác. Chúng câu thật tài. Vung tay một cái, lưỡi câu chùm đã móc ngang thân con cá lác.
Dãy nhà mới xây đã làm thay đổi hẳn bộ mặt xí nghiệp. Không còn những căn nhà lụp xụp cửa gỗ ốp tôn lá nóng rẫy, mái ngói fibro xi măng, mấy cái quạt trần quay lờ đờ, càng quay càng hắt hơi nóng vào người. Giờ đây là những phòng làm việc hiện đại. Là những quạt cần National, Hitachi vàng óng có đèn ngủ có hẹn giờ, là những tủ lạnh trong buồng các tổng và phó tổng. Rồi tranh treo tường. Toàn tranh thảm. Những con hổ nằm nghỉ ngơi trong rừng thông. Con đại bàng xòe cánh trên một mỏm đá giữa biển cả sóng cồn...
Tất nhiên trang thiết bị hội trường cũng đã hoàn toàn khác. Bàn ghế trong hội trường toàn loại sang trọng, đắt tiền. Ngày trước hội trường là một ngôi nhà được xây từ khi xí nghiệp mới thành lập, rộng thênh thang, ngồi được hàng trăm người, nay đã dột nát, cánh cửa bung gãy, những chiếc ghế dài có chỗ tựa lưng mà ta thường thấy ở các hội trường bất kỳ, vất chỏng chơ, cái nọ chồng lên cái kia, cái mất chân, cái long đinh, những thanh gỗ dựa lưng rời ra... Hội trường cũ vẫn tồn tại như một phế tích hoang tàn, nhưng một thời vang bóng. Ớ đó đã diễn ra bao nhiêu buổi lễ, buổi kỷ niệm long trọng, bao nhiêu cuộc phát động, cuộc tổng kết, đón nhận bằng khen của chính phủ, huân chương của nhà nước. Và những cuộc hội nghị, hội nghị công nhân viên chức, đại hội Đảng, đại hội công đoàn. Những cuộc thảo luận về ngư trường bao giờ cũng là những cuộc bàn thảo sôi nổi nhất. Bởi người thuyền trưởng đánh cá cũng có những điểm giống như nhà văn vậy. Đưa con tàu rời bến ra biển mênh mông, thả lưới, công việc của anh ta hoàn toàn đơn độc và chưa thể nói trước điều gì. Ai cũng đầy lòng tự tin ở bản thân, ở những kinh nghiệm mình tích lũy được, ở sự phán đoán luồng cá, nhìn dòng nước chảy, căn cứ vào gió vào nước mà trừ độ giạt, thế nhưng cứ có người đạt sản lượng cao người sản lượng thấp và những kết luận rút ra thường là tại khách quan. Như Lê Mây đái bãi đái xái chuyến buôn. Mình cùng về bến với ông Bôn một ngày, cùng điện một ngày, cùng báo bốc cá một ngày, thế nhưng tàu ông Bôn được bốc trước, tàu mình phải lấy đá phủ mặt. Tàu ông ấy bốc xong, lấy dầu đi luôn. Tàu mình bốc xong lại phải chờ dầu. Xà lan dầu đến lúc ấy mới rời bến đi Sở Dầu. Lại chờ hai ngày nữa. Chậm mất ba ngày rồi. Ba ngày đang vụ, mỗi ngày năm mẻ, mỗi mẻ một tấn thôi là mười lăm tấn rồi. Mình ra đánh được bốn ngày thì biển động. Ông Bôn đã quất được bảy ngày, đẫy chuyến rồi, chạy về bến bốc cá. Mình còn dầu còn đá, cứ nằm trú gió thôi.
Hay như bài diễn văn của một thuyền trưởng đánh cá vào loại trên trung bình khác: Một đặc điểm mà chúng ta ai cũng biết là cả di chuyển theo đàn. Từ nục, sủ, cá lô, cá hố, sao to, bã trầu, mối, đổng, sơn mỡ, chỉ vàng, lò tó, tới bạc má, đỏ dạ. Nhưng phán đoán cá di chuyển thế nào? Chúng ta có nhìn thấy nó đâu? Con cá cũng không như đống thóc, nằm im một chỗ cho mình xúc. Nó có vây, nó có đuôi, nó bơi, nó di chuyển. Lại còn sóng, còn gió, còn nước đánh giạt tàu mình đi. Làm thế nào để bám được trung tâm bãi cá. Đó là nhiệm vụ quan trọng số một... đã được mọi người đón nhận bằng cách hút thuốc lào, nói chuyện hoặc bỏ ra ngoài đi vệ sinh. Bởi vì ai chả biết đấy là điều quan trọng số một. Kéo mẻ lưới lên, nhìn chất đáy dính vào lưới, nhìn con cá sống, con cá chết, biết được đang đánh ở đâu, có trúng đàn cá không. Một cậu thủy thủ bậc một nếu chịu khó học tập, để ý tới công việc, đi biển một năm là biết. Thuyền trưởng tàu đánh cá đáy được mệnh danh là người dương gian làm việc âm phủ giống nhà văn ở chỗ ấy. Ớ chỗ chưa thể nói trước được điều gì khi bắt đầu thả lưới (cũng như khi bắt đầu viết). Ớ chỗ không ai chịu ai, chỉ có mình là nhất. Thuyền trưởng tàu đánh cá đáy còn giống nhà văn ở chỗ tính nết ngang tàng và tất nhiên cũng không thiếu kẻ bợ đỡ, nịnh hót.
- III -
Nhưng cuộc họp hôm nay không phải bàn về đánh cá chung chung như những cuộc họp trước mà là một cuộc họp bàn về chuyển hướng đánh cá, đánh thế nào để có thể tăng nguồn cá xuất khẩu. Các đại biểu ngồi chờ đã lâu. Giám đốc cùng khách mời, gồm các vị lãnh đạo sở và cả hai đại biểu bộ ở phía trên. Đám cán bộ chủ chốt của xí nghiệp ngồi tách ra một chỗ, ở những hàng ghế dưới cùng, chuyện rì rầm, thỉnh thoảng lại cười phá lên vì một chi tiết thú vị nào đó như những cái vĩ đại trong nhà ông Phục, hay chuyện cô Thiện cung tiêu chồng đi biển về chổng mông cho chồng bắt giun kim, rồi đến giọng trưởng phòng đời sống đọc bài thơ mới sưu tầm được trong một cuộc họp trên thành phố làm mọi người cười lăn cười lộn: Nói có người nghe. Đe có người sợ. Vợ có người chăm. Nằm có người bóp. Họp có người ghi. Chi có người bù. Tù có người chạy. Cuộc họp nào cũng vậy, người trước, người sau. Giờ giấc không bao giờ được bảo đảm. Tổng giám đốc Hoàng Quốc Thắng đã mấy lần xem đồng hồ tỏ vẻ sốt ruột:
- Quá nửa tiếng rồi. Xưởng lạnh chưa tới à? Cái ông Tạp này không bao giờ đúng giờ. Không cuộc họp nào không đến muộn. Tác phong nông nghiệp. Tôi đến chết với mấy ông. Lần sau còn thế này nữa văn phòng chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Chánh văn phòng Điều đứng lên:
- Các phòng ban đủ. Kế hoạch, kỹ thuật, hàng hải khai thác, cung tiêu, đời sống. Các phân xưởng mới có cơ khí, còn thiếu xưởng lạnh. Các tàu đủ, thiếu 414. Chúng tôi đã cho người báo rồi. Trần Bôn đâu nhỉ? Kinh nghiệm sốt dẻo. Vừa về bến sáng nay. Ba mươi tấn cá trong đó có mười lăm tấn cá ăn tươi...
Điều vừa nói vừa nhìn vào dãy ghế trên cùng, nơi đoàn đại biểu Sở, ông vụ trưởng vụ kế hoạch, vụ phó vụ kỹ thuật trên Bộ ngồi, một cái nhìn đầy ý nghĩa.
Trần Bôn chưa đến à? Văn phòng đâu. Đã báo họp cho Mười bốnchưa? Báo cáo giám đốc rồi. Tàu vừa về bến là cho người xuống báo ngay. Rồi chính tôi trực tiếp báo. Cho người xuống tàu mời lên ngay đi. À đây. Đại phó đây. Về nói thuyền trưởng lên họp ngay. Chánh văn phòng Điều nhanh nhảu.
Cương đứng ngay cửa hội trường, lắc đầu:
- Báo cáo. Thuyền trưởng cầmy bạ đi khám bệnh rồi ạ.
Cương đã thêm ba tiếng cầm y bạ để tăng thêm tính
thuyết phục. Thật ra lúc rời tàu, Bôn có cầm y bạ đâu.
- Thuyền trưởng về bảo lên họp ngay nhé.
Vẫn chưa thể khai mạc cuộc họp chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Giờ đây chữ kinh doanh đã được dùng một cách trơn tru, không thấy vương vướng trong tư tưởng, ngường ngượng khi phát âm nữa. Bởi vì từ ngày cách mạng thành công, tất cả đã được giáo dục rằng kinh doanh nghĩa là không phục vụ, kinh doanh nghĩa là buôn bán, nghĩa là không sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội mà chỉ mua rẻ bán đắt, kiếm lời, một kiểu làm ăn chỉ có trong xã hội tư bản. Từ khi ông Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam trong buổi đến chúc tết một gia đình nào đó, chúc gia chủ sang năm mới làm ăn buôn bán một vốn bốn lời, cả nước rung chuyển bởi sự mới mẻ trong lời chúc ấy và sau đó biết bao nhiêu cuộc họp, các thuyết trình viên đã nhắc đi nhắc lại câu này cũng như không quên giơ tay chém chém vào không khí:
- Mới lắm các đồng chí ạ. Ông cha ta ngày trước nói Nhất bản vạn lợi. Giờ Đảng ta nói Một vốn bốn lời!
Bây giờ đơn vị nào cũng làm kinh doanh. Chẳng riêng ngành thương nghiệp chuyên buôn bán. Bây giờ sản xuất đồng nghĩa với kinh doanh. Kinh doanh không còn là một hành động đáng miệt thị, mà ngược lại nó biểu hiện tài tháo vát năng động của người đứng đầu đơn vị. Khi việc xuất khẩu thủy hải sản trở thành mũi nhọn của toàn ngành và vào thời điểm ấy còn là mũi nhọn của cả nền kinh tế, khi những chuyến hàng hải sản đông lạnh đầu tiên của công ty xuất khẩu thủy sản được tàu HL02 chở sang Hong Kong, ông giám đốc Hoàng Quốc Thắng còn đang làm trưởng phòng kỹ thuật của một tổng công ty trong ngành. Rất nhanh ông hiểu cái gì đang chờ đợi ông. Hoặc ông sẽ đổi đời, nên người, hoặc ông mãi mãi là anh trưởng phòng kỹ thuật, xếp hàng lấy nước ở máy nước công cộng, gánh leo lên gác ba suốt đêm. Triết lý sống của ông là không thể để những đứa ngu lãnh đạo mình. Ông giám đốc tổng công ty của ông, theo ông, cũng là một người ngu. Ông ta ngu bởi vì ông ta không biết chia động từ “ăn”. Chia động từ “ăn” phải là “tôi ăn” “anh ăn” “nó ăn”. Quan trọng nhất không phải là tôi ăn mà là anh ăn. Nó ăn xếp xuống hàng thứ yếu. Không thể chia động từ ăn một cách công bằng. Anh ăn là quan trọng nhất rồi đến tôi ăn. Nhưng thực ra anh có ăn cũng là để tôi ăn được nhiều hơn, bền vững hơn, lâu dài hơn. Với lại các đại ca đâu có ăn ít hơn tôi. Các đại ca nắm trong tay bao nhiêu đầu mối. Nguồn thu nhập chẳng ai bì được. Còn nó ăn chỉ là để nó cho mình ăn nhiều hơn, núp dưới cái câu cửa miệng hài hòa ba lợi ích. Ông tổng giám đốc của ông chia động từ nặng về tôi ăn nên chỉ đến đấy là kịch tường rồi.
Mà trong tay ông ta có bao lợi thế... Phải biết đầu tư từ xa. Ông Thắng đã làm được việc ấy. Ngay khi còn đang đi tàu, giữa lúc gạo châu củi quế, từ thành phố Hồ Chí Minh trở ra đong được tạ gạo, đến nhà Đại Ca chơi (dạo ấy Đại Ca cũng chỉ giữ một chức vụ quan trọng trong thành phố, chưa oanh liệt như bây giờ), nghe phu nhân Đại Ca than thở về đàn con ăn không biết no, ông hiểu ngay mình phải làm gì. Một tạ gạo nàng hương khi ông xe về nhà làm sáng bừng khuôn mặt vợ con, mấy hôm sau được ông xe đến nhà Đại Ca. Vẻ mặt thất vọng của vợ con ông đã biến thành những nét tươi rói trên khuôn mặt cả nhà Đại Ca. Qua truyện trò, biết vợ Đại Ca ao ước chiếc xe mini Nhật hai dóng đỏ để đi làm, ông không chút ngần ngại biếu không chiếc xe như vậy của vợ ông, quà tặng của một người bạn thân thiết bên Vosco đi Nhật. Vợ ông hàng ngày đi làm với chiếc xe khung dựng mới mua cọc cà cọc cạch, nhớ chiếc xe thời thượng đã nâng cao giá trị của mình trước những người bạn cùng phòng, cùng đơn vị, thỉnh thoảng tỏ vẻ tiếc nuối, đã được ông tâm tình một buổi mang tính triết học: muốn nhận phải biết cho, muốn được phải biết mất, muốn thu hoạch phải biết gieo hạt... Vợ ông gắt lên:
- Có cái gì cũng mang đi biếu. Chỉ còn vợ là ông chưa mang đi thôi. Ông ấy có cùng ngành đâu mà giúp được mình.
Ông đã giảng cho vợ biết về những triển vọng của việc sắp xếp cán bộ trong năm tới, về tương quan lực lượng và triển vọng thăng tiến gần như chắc như đinh đóng cột của Đại Ca, Đại Ca sẽ giữ một vị trí quyết định, bởi Đại Ca của ông có những cái ô cực mạnh và ông thầm nghĩ nếu Đại Ca cần, mình cũng có thể đưa bà vợ đến như một món quà tặng lắm chứ. Ngẫm cho cùng chỉ cần cô ấy vẫn yêu mình còn chuyện ấy chẳng qua chỉ là chuyện đụng chạm trong chốc lát mà thôi. Như ông với những người đàn bà đã qua tay. Tuy vậy ông vẫn cười:
- Bà chỉ nói bậy. Của biếu lúc còn hàn vi mới quý. Chuyện bát cơm phiếu mẫu, bà nhớ chứ. Với lại cứ cho là Đại Ca không lên được như ý muốn thì bè bạn Đại Ca cũng ghê gớm lắm, mình không thông qua Đại Ca mà nhờ vả được hay sao? Bây giờ là phải có ô dù. Không có ô tài mấy cũng không làm ăn gì được.
Điều ông nói bà cũng biết, ai cũng biết, chỉ có điều có làm được không thôi. Bà nói vậy cũng còn là muốn được nghe ông phân tích để thêm tin tưởng ở tương lai, và càng thêm phục ông chồng nhìn xa trông rộng.
Có tuần nào ông không đến nhà Đại Ca vài ba lần và được cả nhà coi như người trong gia đình. Cái việc “đầu tư chiều sâu” đúng chỗ của ông đã thành công. Đại Ca của ông lúc đạt đến đỉnh cao quyền lực khi cùng bè bạn ôn nghèo kể khổ thường hay nhắc đến những ngày bao cấp khó khăn đã được ông xe đến nhà hai bao tải gạo, mua cho bà mấy con lợn giống không lấy tiền, “còn cái xe đạp thì không ai đi nữa, nhưng cũng không cho, không bán, để dưới ga ra ô tô làm kỷ niệm...” Cho nên khi những chuyến tàu chở hàng đông lạnh đầu tiên của Liên hợp Biển Đông đi nước ngoài, ông hiểu ngay mình phải làm gì. Ông đến nhà Đại Ca và ở đó gần hết buổi sáng. Thế rồi ông Trần Hữu Bằng còn sáu tháng nữa mới nghỉ hưu đã được điều về Hà Nội để đi nghiên cứu thị trường thủy hải sản một số nước châu Âu, châu Á. Dĩ nhiên người thay ông Trần Hữu Bằng là ông Hoàng Quốc Thắng. Cái bước khởi đầu khó khăn vất vả của ông Bằng, từ chỗ chỉ lo nghiên cứu ngư trường, chạy vật tư, phát động thi đua bước vào vụ cá Nam, sơ kết vụ cá Bắc, chuyển sang làm quen với thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan, lấy hộ chiếu, làm visa, sang bên Vosco học tập cách tổ chức con tàu, xây dựng các chức danh... được ông Thắng về tiếp quản. Hai năm đầu ông Thắng làm giám đốc là thời gian các địa phương thi nhau làm thủy sản xuất khẩu. Các tỉnh thành có biển đều xây dựng các xí nghiệp chế biến thủy sản, các nhà máy đông lạnh. Rồi đắp đê lấn biển, các rừng đước bị chặt trụi để biến thành những vuông tôm. Công ty xuất khẩu thủy sản Seaprodex nổi tiếng toàn quốc và được quốc tế tặng giải thưởng Uy tín và Chất lượng.
Năm con tàu khai thác đông lạnh của xí nghiệp ngừng hẳn việc sản xuất, chuyển sang vận tải thuê cho công ty xuất khẩu thủy sản, chở thủy hải sản ra nước ngoài mà trong xí nghiệp gọi là đội tàu vận tải ngoại thương. Công việc thuận lợi như diều gặp gió. Hàng nhiều, tàu ít, gần như chỉ có tàu của công ty Seaprodex và của xí nghiệp ông. Chiếc ăn hàng ở thành phố Hồ Chí Minh, chiếc đang trên đường từ Nhật trở về, chiếc xuống hàng ở Hong Kong. Tiền vận tải thu được ông xin cấp trên cho nhập dầu, một mặt hàng chiến lược. Định mức dầu luôn luôn thiếu. Số dầu chỉ tiêu cả năm cho đánh cá chỉ dùng trong bảy tháng hết veo. Các tàu đánh cá đều đã cũ, phụ tùng thay thế không có, uống dầu chẳng kém voi uống nước. Ông là người táo bạo trong suy nghĩ. Ông chỉ thị cho hai phòng kế hoạch, khai thác hàng hải tính toán đổi dầu đổi đá cho những thuyền ngư dân sản xuất trên biển lấy cá mà không cần phải tự mình thả lưới. Ông rất hãnh diện, tự hào vì mình đã có những chủ trương táo bạo như vậy. Cũng bởi dạo ấy ngư dân miền Trung ra Vịnh Bắc Bộ đánh lưới vây nhiều. Cá của họ là cá đi đàn con nào con ấy bằng nhau, đều tăm tăm, nhưng họ lại không có dầu để đánh cá, không có đá để ướp cá. Chủ trương này của ông là kế tiếp sự thành công của chủ trương bán đá cây tự do. Thời gian mới về xí nghiệp, ngày nào ông cũng phải nhận từng xấp đơn của cán bộ công nhân trình bày khó khăn, xin được mua mấy cây nước đá về cho vợ con bán hàng nước, cải thiện. Ông thừa biết số nước đá đám công nhân viên dưới quyền ông mua được, không có cây nào mang về nhà mà bán cho con buôn chầu chực ở cổng xí nghiệp. Phần lớn họ không mua đi bán lại mà bán ngay tờ giấy có chữ ký phê duyệt của ông cho cánh buôn, nghĩa là mỗi chữ ký của ông có giá bằng nửa tháng lương. Sau một tuần ký giấy, mệt phờ người, ông nói chánh văn phòng Điều thảo cho ông một cái quyết định giao cho quản đốc phân xưởng nước đá căn cứ vào giá nước đá từng ngày, được quyền bán đá theo giá thị trường, mà không phải qua giám đốc duyệt. Thế là cái mỏ vàng ấy, cái chữ ký ra tiền ấy, từ ông chuyển về cho ông quản đốc phân xưởng đá cây. Ông quản đốc cũng hiểu mình phải làm gì, chắc chắn không thể quên ông Tổng. Ớ ông Tổng, nó không thể thành tiền. Nhưng nằm trong tay ông quản đốc, nó biến thành tiền cho cả hai ông. Và tất nhiên, nó cũng thành tiền cho xí nghiệp.
Hai quyết định bán nước đá và thành lập tổ thu gom (không phải thu mua) cá nổi của ngư dân được mọi người trong xí nghiệp ca ngợi ông là người táo bạo dám chịu trách nhiệm, dám nghĩ dám làm nhưng cũng bị nhiều lời bàn tán ra vào, kể cả những sự vu khống xuyên tạc, mà phần lớn là của các bạn đồng cấp, những sếp trên sở, kể cả những sếp trên bộ. Họ bảo ông bỏ đánh cá. Họ bảo ông gian lận, ông đã cộng số cá đổi được ấy vào sản lượng của xí nghiệp, như vậy một con cá được tính sản lượng hai lần! Và tệ hại hơn, họ bảo ông giờ đây tối mắt tối mũi với những con tàu đi Hong Kong, đi Singapore, đi Nhật, mỗi chuyến thu hàng chục nghìn đô tiền quà, tiền cống, bỏ bễ cả hai chục con tàu đánh cá, đánh mất chức năng cơ bản của xí nghiệp: Khai thác hải sản. Người ta nói với vẻ đầy khoái trá rằng thằng Hoan con trai ông nghiện, cũng như người ta truyền tai nhau về số tiền ông có, số tiền ông đút lót cấp trên kể cả Đại Ca. Không hiểu sao quan hệ giữa ông và Đại Ca kín đáo vòng vèo là thế mà họ cũng biết. Chính vì những dư luận của bọn ghen ăn ghét ở ấy mà ông tổ chức hội nghị hôm nay. Hội nghị chuyển hướng sản xuất kinh doanh có mời đủ các quan chức trên sở và cả trên bộ, nhằm đánh tan những dư luận bất lợi cho ông.
Hội nghị khai mạc chậm hơn dự kiến nửa giờ. (Hội nghị nào cũng bị chậm. Hôi nghị giao ban hàng tuần, hàng tháng còn có thể cho qua, nhưng một hội nghị quan trọng như hôm nay, mà cũng cứ phải chờ đợi thật không thể tha thứ được!)
- Ông Điều đâu? Văn phòng chịu trách nhiệm trước giám đốc về các cuộc họp mà quá nửa tiếng rồi, đại biểu chưa đến đủ, ông cứ ngồi đấy bình chân như vại.
Chánh văn phòng Điều đứng lên, cầm quyển sổ mời họp, chìa ra trước khoảng không:
- Văn phòng đã mời từ hôm qua. Tàu ông Bôn sáng nay cập cảng, cũng mời ngay rồi. Đây. Xưởng lạnh đây. Ông Tạp ký đây. Đi hay không là tùy ở các ông ấy. Văn phòng làm gì có biên chế để đi giục từng đơn vị.
Giám đốc đã bực lại càng bực với kiểu ăn nói ngang cành bứa của chánh văn phòng. Thật sự ông không ưa
Điều, một người tính khí thất thường. Lúc ngoan ngoãn nhẫn nhục hết mực, cho dù ông quát mắng vô lý đến đâu cũng cứ một vâng hai dạ, báo cáo anh báo cáo anh, lúc sẵn sàng sửng cồ lên như thế này. Đã nhiều lần ông định thay nhưng chưa tìm được người. Điều là người duy nhất làm một cái văn bản mà ông không phải sửa chữa, hoặc sửa chữa rất ít, nói được đầy đủ ý ông. Đã làm chánh văn phòng cho ba đời giám đốc, là người rất biết công biết việc, hơn thế còn là người có trí nhớ rất tốt. Vấn đề xin thêm chỉ tiêu ngư lưới cụ, mình đã có văn bản rồi, ký vào thời gian nào, công văn trên bộ về khoán dầu cho các tàu cá, đã chuyển cho phòng hàng hải khai thác tháng trước chưa thấy phòng đề xuất ý kiến gì... Hơn nữa ông biết làm cái anh trưởng phòng thì chánh văn phòng là khô nhất. Ông dịu giọng:
- Cái ông Tạp này không có cuộc họp nào không đến muộn. Phê bình mãi vẫn chứng nào tật ấy. Ông Điều xuống xưởng lạnh gọi ông Tạp lên cho tôi. Bất cứ việc gì cũng để đấy. Lên ngay!
Chánh văn phòng không giấu vẻ bực tức, vừa bước ra khỏi phòng vừa làu bàu:
- Văn phòng làm gì có biên chế để chạy theo các bố ấy mà giục.
Một lúc sau Điều bước vào phòng họp, theo sau là quản đốc xưởng lạnh. Không để giám đốc phê bình, Tạp nói luôn khi mới bước vào cửa:
- Báo cáo giám đốc, sắp sửa đi thì nhà lạnh Đan Mạch báo cáo tang trông đá vảy vỡ, phải điều thợ sửa chữa. Sửa chưa xong đã nhận được điện của nhà máy điện báo ngày mai cắt điện để duy tu đường dây. Lại phải làm việc với Ban điện năng chỗ ông Chinh khẩn trương hoàn chỉnh máy phát của mình để phát thay thế. Nhưng dầu cung tiêu báo hết. Xin thủ trưởng cho vay dầu của các tàu đỗ bến ngay để ngày mai chạy máy...
Trình, trưởng phòng cung tiêu, gầy gò, mảnh khảnh như một thư sinh, vẫn ngồi tại chỗ, trả lời rành rọt như một người nắm rất vững công việc của mình. Anh nói đã cho người làm hóa đơn ở Sở Dầu hai hôm nay rồi. Chỉ tiêu còn hai trăm năm mươi tấn, chưa kể số dầu xin bổ sung ngoài chỉ tiêu là năm mươi tấn. Nhưng hiện nay kho hết dầu. Sở Dầu hẹn trong ngày mai dầu về sẽ phát cho mình một trăm tấn. Vân vân. Rồi câu chuyện lại quay về sở điện, tất cả những phiền toái rắc rối do sở điện gây ra. Mà mình chiều mấy ông điện mấy ông nước hơn chiều bố đẻ. Ngày lễ, ngày tết đều có quà, quà đậm. Con ông ấy lấy vợ lấy chồng mình không thể không có mặt. Bố mẹ các ông ấy mất, mình phải đến viếng, không những thế còn phải bán cho các ông ấy tạ cá ngon, nhiều gấp đôi tiêu chuẩn của cán bộ công nhân viên trong liên hợp. Các ông ấy nắm yết hầu mình. Làm hàng đông lạnh mà ông ấy cắt điện, cúp nước chỉ có chết...
Cuối cùng cuộc họp cũng khai mạc. Giám đốc nói. Về tình trạng sản xuất. Về ngư trường mỗi ngày một cạn kiệt. Thiết bị xuống cấp. Về việc cần thiết phải mở một hướng mới trong sản xuất kinh doanh. Về chuyến đi Singapore vừa kết thúc của ông. Ông đã làm việc với một số đối tác ở Singapore, bên ấy người ta sẵn sàng mua cả cá ăn tươi ướp đá. Tôi đã thảo luận với họ chi tiết về giá cả, về chỉ tiêu chất lượng. Tóm lại là bây giờ làm thế nào bảo quản số cá từ loại 1 đến loại 5...
Ông nói đến việc tổ chức muối ướp trên các tàu đánh cá đá, đến việc sản xuất các khay tôn tráng kẽm để ướp, tránh tình trạng cá bị dập nát, vỡ bụng, và quan trọng hơn là tổ chức sản xuất theo đội, các tàu đánh được cá dồn cho một tàu chở sang Singapore, cán bộ phòng OTK phải đi với các tàu ra biển, trực tiếp chỉ huy việc chọn rửa muối ướp trên biển, phòng tổ chức trước mắt lo làm thủ tục đi nước ngoài cho hai tàu khối 600 (mã lực)...
- Chỉ cần xuất khẩu được một nửa số cá loại 1 đến loại 5, chúng ta cũng có một sản lượng trên hai nghìn tấn các đồng chí ạ. Làm được như vậy, chúng ta có thể không hoàn thành kế hoạch tổng sản lượng nhưng sẽ hoàn thành vượt mức chỉ tiêu xuất khẩu, chỉ tiêu giá trị, sẽ có ngoại tệ nhập thêm dầu và mua phụ tùng sửa chữa. Làm được như vậy, không chỉ khối tàu đông lạnh đi nước ngoài mà lần lượt các tàu sẽ được đi nước ngoài hết.
Phòng họp ồn ào sôi nổi hẳn lên. Người phấn khởi, người tỏ ý nghi ngờ, người nêu những khó khăn. Giám đốc hiểu rõ diễn biến tâm lý của mọi người. Ông kết luận một cách đanh thép:
- Còn nếu cứ tổ chức sản xuất như chúng ta vẫn làm, chỉ có lỗ. Càng đánh càng lỗ. Đánh sạch biển Đông! Đánh sập xí nghiệp!
Ông nói và liếc rất nhanh vào đám khách trên sở, trên bộ ngồi ở hàng ghế đầu. Đấy là điều ông muốn nhấn mạnh với họ.
Bố tôi cầm cái tay chuông bên phải buồng lải kéo mạnh. Một tiếng rẹt phảt ra. Tôi hiểu rằng tay chuông ở buồng mảy chỗ bảc Suất cũng chuyển động như vậy, cũng kêu như vậy. Tiếng mảy bỗng nhẹ đi. Tàu đi chậm lại. Bố ra lệnh:
- Thả lưới.
Và bước về phía lải, đứng ngay chỗ đầu cầu thang dốc đứng, cái cầu thang hàn chặt vào vảch tàu, bắc từ sàn giữa gần ống khói xuống tới mặt boong lải. Cảc chú cảc bảc đã có mặt đông đủ. Có tiếng tút tút sảu giờ chiều. Nhà sắp ăn cơm đây. Ất hẳn mẹ tôi với cái Ngàn ngồi ăn và nhắc đến tôi, nhắc đến bố nữa. Ba mẹ con tôi tự hào về bố. Bố là chỗ dựa cho mẹ cho hai anh em tôi. Mẹ vẫn thương bố biền biệt nơi sóng nước. Mỗi lần bố về, nhà lại như mở hội. Chúng tôi không biết cụ thể nhưng ắt hẳn bố đưa cho mẹ nhiều tiền. Để mẹ nuôi chúng tôi ăn học, để mẹ sắm sửa, để mẹ làm nhà, xây bể nước mưa, để mẹ có đồng ra đồng vào. Nhờ bố, mẹ được dân làng vì nể. Nhờ bố, chúng tôi được thầy quý bạn yêu. Bọn cùng lớp, khảc lớp nhìn tôi và cái Ngàn, ao ước thèm thuồng. Mọi thứ trên người chúng tôi đều khảc chúng nó. Từ bộ quần ảo tới đôi dép, chiếc cặp sảch, cái mũ đội trên đầu. Tiền học, tiền mua sảch vở, tiền kế hoạch nhỏ, tiền góp đi cắm trại... chúng tôi bao giờ cũng là những đứa nộp đầu tiên. Nhà chúng tôi ở cũng khác. Cả xã chỉ có trên chục gia đình được như vậy. Nhà xây, mái ngói, sân gạch, trong nhà đủ quạt trần, quạt bàn, tivi màu. Bố mẹ còn bàn nhau sang năm được tuổi xây nhà hai tầng cho mát. Tất cả là nhờ bố. Bao giờ về nhà bố cũng mang theo một túi du lịch phổng căng. Bánh kẹo cho chúng tôi và tiếp khách. Chè, thuốc lá. Và rất nhiều mực khô, cá khô. Những con mực khô hổng hổng phủ đầy phấn trắng, râu dài gấp quặt vào thân bó chặt. Những con cá kìm khô tròn mỏ dài gần bằng thân, thơm phức. Tôi thả sức nướng, nhai trẹo cả hàm vẫn còn muốn nhai nữa. Nướng ăn và mang đến lớp cho mấy đứa cùng bàn. Đứa nào cũng thích. Chúng nó lạ nhất là cái đầu cá có mỏ dài trong suốt giống hệt cái kìm. Vất đi thì tiếc, chúng đã thử nhai nhưng rồi lại phải lè ra.
Nhiều lần bố tôi về không chỉ một mình. Đi cùng còn có các chú các bác dưới tàu như bác Sĩ thủy thủ trưởng, như chú Hồng, bác Suất. Mẹ con tôi giết gà nấu cơm mời khách. Khách dưới tàu thi thoảng mới tới nhà. Còn phần lớn khách đến nhà tôi là họ hàng xóm láng giềng. Thế nào các ông khách cũng được bố tôi rót rượu mời. Uống rượu với mực khô, với cá kìm. Ai cũng biết đấy là đặc sản. Cả xóm lấy làm vinh dự vì có bố tôi, một thuyền trưởng Lại càng quý bố tôi khi nghe đài phát thanh đọc một bài dài về bố tôi. Qua bài báo tôi mới biết bố tôi cũng giống tôi, rất yêu biển, khi đi học đã sưu tầm nhiều bài thơ về biển, không những thế nhiều người bạn còn gửi cho bố tôi những bài thơ hay về biển mà họ đọc được trên báo, trong sách. Trong chiến tranh bắn phá, tàu bố tôi đi đến Cửa Ong thì bị máy bay Mỹ phát hiện. Đêm. Nó thả pháo sảng hết đợt nọ đẽn đợt kia. Rồi ném bom. Nổ sát tàu. Một thủy thủ bị mảnh bom văng vào tai. Một thủy thủ bị phạt đầu. Xác còn chôn ở Cửa Ông. Trong đêm tối, bố tôi nhận đưa tàu tới vị trí tập kết và đã mò mẫm tới Hòn Chông an toàn. Trong sản xuất bố tôi đã lập nhiều thành tích, từ đánh cá, tới thăm dò khảo sát tôm biển. Đặc biệt trong nghề đánh tôm, bố tôi là người đi đầu trong kỹ thuật đánh tôm bốn lưới thay cho kỹ thuật đánh tôm hai lưới từ trước đến nay. Và cũng nhờ bài báo đó, tôi mới biết bố tôi đã được đề nghị trên thưởng huân chương lao động. Tôi còn nhớ tên tác giả bài báo: Duy Thông.
Đứng trên boong giữa, cạnh bố, tay vịn lan can, tôi nhớ lại tất cả những chuyện ấy. Tôi muốn xuống boong lái, nhưng sợ vướng chân mọi người. ơ dưới ấy, bốn tấm lưới tôm đang được xếp ra. Mỗi tấm lưới đều có xích sắt. Mỗi bên càng (tăng gông) hai lưới, giữa hai lưới có mắc một thỏi sắt to bằng cổ chân tôi, trông giống quả bí xanh nhỏ được gọi là “quả bom”. Tơi bắt đầu hoạt động. Hồng hộc, hồng hộc. Nó kêu những tiếng khô khốc quái gở. Mọi người xốc lưới thả xuống biển. Bắt đầu là đụt lưới rồi đến lưới, hai “quả bom”, xích sắt. Và ván lưới. Tất cả mất hút dưới mặt nước nhấp nhoáng ánh đèn pha. Bố tôi đi về phía buồng lái. Rẹt. Rẹt. Tay chuông trên buồng lái kêu. Máy tàu chuyển nhịp. Con tàu rẽ nước tiến về phía trước. Nó đang dắt lưới.
Nếu Cương được định biên hẳn xuống tàu HL 414 chắc anh sẽ được biết sự thật của việc thuyền trưởng vắng mặt khi tàu vừa cập bến này. Nhưng anh chỉ là lính đánh thuê một hai chuyến nên thuyền trưởng chẳng cần phải nói cùng anh. Hoặc nếu là người thuộc tổ trông xe của xí nghiệp, Cương cũng biết. Biết thuyền trưởng đã ra nhà gửi xe lấy xe máy vù về nhà rồi. Về tay không. Không một cân cá. Một con mực khô cũng không. Về nhà với cái điều Bôn đã nghĩ tới từ khi còn ở ngư trường, khi kéo mẻ lưới mà chỉ Bôn mới biết đó là mẻ lưới cuối cùng, bởi vì lúc ấy anh chưa ra lệnh tổng vệ sinh, rời ngư trường về bến. Cái điều bất kỳ thuyền viên nào đã có vợ đều nghĩ tới ngay khi nghe lệnh tổng vệ sinh tàu dù đang ở Vịnh Bắc Bộ hay còn tận mãi Vịnh Thái Lan: Ngủ với vợ (và nhiều anh đã cứng lên ngay từ lúc ấy - cánh đi biển xơi nhiều chất đạm, lại bị dồn nén lâu ngày mà!). Bôn đã nghĩ tới giờ phút đầu tiên bước vào nhà. Anh nghĩ tới những lần hai vợ chồng ân ái, nghĩ tới tấm thân mát rượi mà bốc lửa của chị. Nghĩ tới khi người chị dâm dấp mồ hôi, thứ mồ hôi của ái ân, anh gục đầu hít một hơi dài cái mùi nồng nàn tỏa ra từ nách chị mà thấy người ngây ngất. Anh nghĩ tới niềm đam mê không bao giờ chán của chị, đến lúc chị hổn hển: “Anh ngồi như ông Thế Trường đi”. Anh đã ngơ ngác không hiểu vợ nói gì mà vì sao trong lúc đang yêu nhau quên hết cả trời đất này lại có ông Thế Trường chen vào, cái thằng Thế Trường khốn nạn đã ngồi như thế nào, cái thằng Thế Trường là thằng nào đã làm gì vợ anh để vợ anh bắt anh ngồi như nó. Như biết anh nghĩ gì, chị lăn từ trên người anh xuống chiếu, nâng anh ngồi dậy: “Ồng Thế Trường biểu diễn yoga trên tivi ấy. Anh quên rồi à?” Anh hiểu. Anh đã hiểu chị muốn gì và vội làm theo. Nhớ ra rồi! Kiểu ngồi ấy là một kiểu ngồi chưa từng thấy. Ngay lúc xem ông Thế Trường biểu diễn trên tivi, anh đã bảo chị kiểu khoanh chân cong người, đầu xuống dưới của ông trùm yoga Thế Trường là một tư thế khó làm nhưng tuyệt vời. Anh nói với chị rồi anh quên đi, nhưng chị nhớ. Anh vội vàng làm theo lời chị, cố bắt chước ngồi như ông Thế Trường và ghì chặt lấy chị bởi anh biết chị vẫn khao khát anh ngồi như vậy và lúc này anh đang ngồi như vậy...
Gần một tháng trời lênh đênh ngoài biển, nằm trên chiếc giường hẹp, đêm đêm thức giấc anh hay nghĩ đến chị, nhớ chị và có những lúc nỗi nhớ biến thành sự thèm khát mà anh vội xua nó đi ngay. Cũng chẳng phải anh là người quá độ đâu. Có chuyến anh chỉ nghĩ tới con bé con. Anh hình dung rõ từng chi tiết về đứa con gái khi ấy mới lên năm, còn đang học lớp năm tuổi trường mẫu giáo Mầm Non. Thế là cập cầu xong, anh lấy xe đến trường xin phép các cô đón nó. Anh đèo nó đi lòng vòng phố. Anh mua kem cho nó. Anh dắt nó ra vườn trẻ. Hai bố con vừa đèo nhau trên xe vừa thủ thỉ chuyện trò... Chuyến này anh nghĩ đến chị (phần lớn các chuyến anh nghĩ đến chị). Nhớ chị. Thèm chị. Anh biết anh em thuyền viên cũng cùng chung với anh một nỗi niềm. Người xoay ra ghi nhật ký, người vùi đầu vào bài bạc cho quên đi, người công khai nói ra điều thầm kín ấy. Có anh còn diễn đạt điều ấy một cách rất tục tĩu: Lấy một con cá mối màu đất bãi cắm vào bụng con cá ó mịn màng, trắng nõn treo lên vách hầm bảo quản. Bốn vách hầm cá treo kín những con cá ó với cái bụng trắng phinh phính, con nào con ấy đều có một con cá mối nâu cắm vào chỗ ấy. “Để chị em bốc cá xuống hầm biết chúng ta nhịn thèm nhịn nhạt khổ sở như thế nào”. Một thủy thủ đã nói thẳng ra như vậy. Cái lần ấy anh còn ở tàu đông lạnh. Kế hoạch chỉ chuyển tải một chuyến, nghĩa là hai tháng mà ba tháng cũng chưa được về. Còn phải ở lại ngư trường, còn phải bám biển để góp phần hoàn thành kế hoạch năm. Về là mất hơn trăm tấn cá ngay. Dù máy có chạy quá thời hạn cả trăm giờ. Dù rau tươi hết từ đời nảo đời nào rồi. Dù có người lở loét hết cả hàm ếch vì thiếu rau mà anh em gọi là mắc bệnh “lở mồm long móng”. Bao nhiêu kế hoạch bị vỡ hết. Người về sang cát cho bố. Người về phép đi hỏi vợ. Anh thì vợ đẻ. Cũng có khi chẳng có việc gì quan trọng nhưng cứ kéo dài chuyến biển, cứ chuyển tải cá tại ngư trường, là cái cảm giác mình bị coi như một thứ công cụ nhằm phục vụ cho những bước thăng tiến của mấy ông lãnh đạo xí nghiệp, để các ông ấy lên chức, làm giàu lại đến, là lại thấy ngán ngẩm và nhiều khi sôi lên, muốn tung hê tất cả. Là thuyền trưởng, nhiều lúc anh cũng muốn hét vào mặt giám đốc những điều nung nấu ấy khi báo vụ đưa cho anh bức điện vừa nhận: 414 chuyển tải cả cho HL 02 ngày..., nhận dầu, nước, thực phẩm từ HL02 tại đảo Hòn Khoai. Thế là tất cả dự định đảo lộn. Lẽ ra kéo lưới, tổng vệ sinh, về bến và sau đó là bao nhiêu niềm vui chờ đợi trên đất liền, những niềm vui nhỏ nhoi mà những người trong đất liền chẳng bao giờ để ý như tiếng bánh xe ô tô lăn trên đường nhựa, hay một vòi nước công cộng vỉa hè, túm tụm người lấy nước, rửa ráy, giặt giũ. Phải xếp những thứ đó lại. Phải gạt ngay cái mùi mồ hôi, mùi da thịt vợ nồng nàn quen thuộc đã phảng phất đâu đây, như đã ngửi thấy, đã sờ thấy để rồi triệu tập ngay cuộc họp ban lãnh đạo tàu. Phải có một vẻ mặt thích hợp để điều khiển cuộc họp, nghĩa là biểu lộ sự bực dọc nhưng không thái quá để giải thích, thuyết phục anh em chấp hành lệnh một cách tự giác mà vẫn không mang tiếng là người theo đuôi lãnh đạo dù mệnh lệnh có kỳ quái thế nào chăng nữa. Để không phải van nài anh em, được anh em thông cảm nhưng vẫn giữ được cái uy của mình, của người thuyền trưởng, vẫn hoàn thành nhiệm vụ được giao. (Và mỗi khi chuyển được tình trạng bất mãn, tức giận của toàn tàu sang trạng thái mọi công việc trôi chảy băng băng, anh có cảm giác giống như khi vừa đưa tàu vào nơi trú ẩn an toàn thì cơn bão lớn ập đến, nằm trên con tàu buông neo trong vịnh, nghe biển trời gào rú, lồng lộn ngoài kia và hiểu rằng mình đã thắng).
Anh luôn nghĩ mình là một thứ đệm chống va. Mỗi khi cập cầu nhìn cái đệm chống va bị ép kiệt giữa tàu nọ với tàu kia, hay giữa tàu với cầu tàu anh lại nghĩ mình cũng giống như vậy. Anh em ép lên. Trên ép xuống. Hai chiều cùng ép lên anh. Lực ép nào cũng ghê gớm. Như sắt ép vào sắt. Như sắt ép vào bê tông. Nhưng anh cũng lại thông cảm với trên. Trên cũng là một thứ đệm chống va. Trên cũng lại bị dưới ép lên và một trên nữa ép xuống. Ai cũng là một thứ đệm chống va thôi. Anh hiểu nỗi lòng mọi người. Anh thông cảm với những phản ứng của anh em. Gọi đi ca, đéo đi. Trưởng ca biết vậy không nói nữa. Nó nói thế nhưng vẫn đi. Nếu giục, trả lời: Nói nữa đổ máu đấy. Dậy ra boong rồi, nhưng cả ca cứ ngồi hai bên mạn boong. Cứ gục đầu xuống hai tay khoanh trên gối như người ngái ngủ. Như người mới ốm dậy. Thế rồi bỗng một thủy thủ đứng phắt dậy bước ra. Trò gì thế nhỉ. Bôn vẫn theo dõi diến biến của mọi người, nhưng anh không giục cũng như lúc này không hỏi. Anh thủy thủ quần áo bảo hộ lao động dày cộp, ủng lệt sệt hùng dũng, mặt sát khí đằng đằng. Mai. Một anh chàng rất ham đọc sách. Lại làm cả thơ nữa. Mai đã chép tặng Bôn một bài thơ bốn câu cho đến nay Bôn vẫn nhớ:
Giẽng trong xanh mây trắng đẽn soi gương Lòng giẽng, lòng người hay lòng đất Mạch nước, mạch thời gian hay dòng sữa mát Xa nhau rồi giẽng bỗng hóa quê hương.
Bài thơ Mai làm để nhớ đến cái giếng làng mình. Cái giếng của những chiều gánh nước, cô nàng buông gầu thì Mai giữ dây gầu để cùng nhìn xuống bóng hai người in giữa một khoảng tròn thăm thẳm trời xanh, rồi nhìn vào mặt nhau, cô nàng đỏ mặt. Đó chính là người của ta bây giờ. Mai bảo vậy. Cô nàng vẫn ở quê, Thanh Hóa. Chuyến này Mai đã làm bao nhiêu ruốc cá thu, chỉ chờ nghỉ phép mang về. Mai vẫn làm thơ nhưng không đọc và cũng không chép cho Bôn. Hỏi thì Mai cười: “Báo cáo thuyền trưởng bây giờ vợ bìu con ríu, việc quân cơ trăm sự nghĩ sao”. Ra cái điều sắp có con. Lấy vợ mấy năm, mấy lần về phép, rồi chọn đúng lúc tàu đậu bến, vợ ra thăm chồng, ở với nhau cả nửa tháng trên nhà - hạnh - phúc vẫn chẳng thấy gì. Đêm nằm sờ tay lên bụng vợ, Mai hỏi: Sao vẫn cứ cấy chăng dây thẳng hàng thế này. Bao giờ thì cấy ngửa tay? Cho đến chuyến vợ ra đầu năm trở về được ít ngày, nhận thư vợ, Mai nhảy lên, khoe với mọi người. Tất cả xúm lại đọc: Sau khi em ra thăm anh về, cái chu kỳ ấy không đến nữa. Bây giờ không cấy chăng dây thẳng hàng nữa, cấy ngửa tay rồi! Một anh kêu to: Cũng chu kỳ như chu kỳ vòng quay chuyến biển mới khiếp chứ, cái chu kỳ gì đây ông Mai? Còn cấy ngửa tay là gì? Cứ như mật mã tình báo ấy. Mai còn tâm sự với nhiều người trong tàu rằng lá thư mới nhận, vợ Mai viết khi ở cữ sẽ về nhà mẹ đẻ, sợ mẹ chồng không giặt giũ được cho nàng dâu. Vợ Mai không biết mẹ Mai đã giặt giũ cho các bà chị dâu Mai như thế nào. Mai đã thức một đêm viết thư về cho vợ, một bức thư “dài từ ngọn nguồn tới giữa biển” như Giáp lưới trưởng sau này tố cáo. Giáp bảo trong thư có câu: Em định bảo vệ luận án của em tới bao giờ, luận án đây không phải là luận án phó tiến sĩ đâu mà luận án mẹ chồng không giặt cho nàng dâu. Giáp còn dọa Mai: Khéo tuột đụt đấy. Có nghĩa là cẩn thận không sảy. Nhưng Mai cười: Không lo. Mình đã thắt một cái nút hoạt rồi. Nút hoạt là nút thắt đuôi đụt. Rất chắc. Vướng rạn cũng chẳng việc gì. Nhưng chỉ giật nhẹ một cái là đụt cá sổ ra. Đã tính toán sít sao, đã làm cả ruốc cá thu thế mà vỡ kế hoạch. Vợ đẻ không về được. Món ruốc cá đành đem cho anh nuôi vay nấu mì. Anh nuôi nể lắm mới nhận vì mì ruốc cá so làm sao được với mì nấu tôm tươi. Mẻ lưới nào chẳng lẫn mấy lạng tôm. Giờ thấy Mai hùng dũng sát khí đằng đằng bước ra boong, qua chuồng cu (chòi micrô sau lái), Bôn lặng im xem Mai giở trò gì. Bình thường Mai nói năng rất từ tốn, gần như không bao giờ văng tục. Nhưng chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra. Một khi mọi kế hoạch bỗng tan tành mây khói, mọi mơ ước sụp đổ. Đi đến giữa boong, Mai dừng lại. Tất cả nhìn theo. Những người đi ca và cả những người không đi ca. Trò gì thế nhỉ? Vẻ mặt Mai vẫn hầm hầm, trông phát sợ. Vẻ mặt ấy là của người bất cần đời, giời cũng bé. Mai dừng lại, mắt trừng trừng về phía mũi. Tất cả nín thở chờ một điều gì đó xảy ra. Mai giơ hai nắm tay về phía trước như người nắm ghi đông xe đạp. Không phải xe đạp. Xe máy. Bởi Mai đã co chân lên đạp đạp mấy cái như kiểu đề ma rơ, tay xoay xoay chỉnh ga, mồm dẩu raprừprừ rứ rứ rứ... Nhao nhao những câu hỏi và những lời nhắn:
- Phóng xe đi đâu đấy?
- Nhớ quành ra Ngã Sáu mua ít rau tươi nhé!
- Mua về đây một tút Hero nghe không? Nhịn cả tuần rồi.
Giáp, lưới trưởng, trong những tình huống căng thẳng như thế này thường được gọi là Giáp hấp tỉ độ cười nhạt gọi Mai:
- Nhớ tranh thủ về Thanh Hóa xem vợ mình đẻ chưa nhé. Nếu con gái thì thôi. Nếu con giai là phải đẻ đứa nữa đấy. Nói hộ rằng mình còn lâu mới về. Cứ đi kiếm với thằng nào cũng được. Nhưng phải đợi khô lò đã.
Câu nói châm chọc. Khích bác. Khoét vào nỗi đau của Mai. Rất có thể Mai sẽ ra đòn lại, và câu chuyện chẳng biết sẽ đi đến đâu. Không khí như lặng đi dù gió vẫn thổi, sóng vẫn xô và con tàu vẫn nâng lên hạ xuống. Như được khuyến khích bởi sự im lặng giông bão ấy, Giáp làm ra vẻ rầu rĩ:
- Bảo với nó mình đã làm ruốc cá thu định đem về nhưng phải ở lại nên cho nhà bếp rồi. Gắng đợi năm năm nữa mình về.
Mai bỗng buông thõng hai tay, không nắm ghi đông nữa. Và quay lại lừ đừ nhìn Giáp. Nhìn như thôi miên. Giáp hấp tỉ độ, Giáp gai cá gúng chăm chăm nhìn lại Mai. Tất cả nín thở chờ đợi một cuộc xô xát. Nhưng Mai vẫn đứng nguyên một chỗ. Rồi lại nhìn thẳng ra phía trước, phía mũi tàu, phía cái cẩu giương cần nghiêng nghiêng. Tay lại giơ lên. Chân lại đạp. Tay xoay xoay như người xoay tay ga. Đặt hết tâm trí vào việc đề ma rơ.
- Prừ prừ rứ rứ rứ...
Và văng ra một tiếng bất ngờ nhất. Một tiếng chẳng liên quan gì đến xe máy. Cũng chẳng liên quan gì đến đánh cá. Một tiếng tục không chịu được, to tát giữa chỗ đông người, giữa thanh thiên bạch nhật vang lên cùng trời cao biển rộng. Một tiếng tục bắn ra như một viên đạn nghe rất lạ tai vì cường độ của nó. Một tiếng người ta chỉ có thể nói nhỏ, nói thầm bỗng văng ra thành một tiếng thét. Chưa bao giờ tiếng ấy được thốt ra như một tiếng gào lớn lao và thống thiết đến thế. Tất cả cười vang. Bôn cũng cười. Rung cả người. Giáp bật dậy chạy ra ôm lấy Mai. Hai người ôm nhau vỗ vỗ vào vai nhau như những người bạn thân thiết xa nhau quá lâu nay gặp lại. Nỗi bực dọc của mọi người biến đi đâu hết sau cái tiếng Mai bất ngờ thét to hết cỡ ấy. Người cứ nhẹ lâng lâng. Làm thôi. Đằng nào cũng phải làm thì làm thôi. Cả ca ai nấy đứng vào vị trí: Tơi trưởng lên máy điều khiển, tơi phụ đứng cạnh bàn tời, ca trưởng thì vẫn gù chuồng cu sau lải, bốn thủy thủ chia nhau hai người một, bước về hai trụ ván hai bên mạn. Công việc lại chạy băng băng. Lại những tiếng rin rít của pu li cẩu kéo lưới từ biển lên sàn dốc. Dây cáp. Rồi dây đõi quấn đay xơ xác. Nước bùn chảy ào ào trên boong tràn qua mạn. Tiếng rì rì của tời kéo đụt cá. Giật đụt. Cá trút xuống mặt boong. Bơm nước mặn rửa cá. Lấy xẻng xúc lên băng chuyền. Băng chuyền cao su tràn nước, những con cá mới sa lưới còn sống chen nhau giương mang nghiêng mình lách ngược dòng nước chảy. Cá trên băng từ phía lái ngược lên đổ xuống hầm chế biến. Xếp cá vào khay. Rốp xình. Rốp xình. Cá đầy khay, đậy nắp lại, móc khuy một đầu, rồi tì khuỷu tay ấn một cái thật mạnh. Rốp. Rốp. Rốp. Nghe cứ ghê người. Phải lấy hết sức mà làm. Không khỏe ấn mãi cái nắp cũng không xuống. Đưa khay cá vào tủ đông. Xình. Xình. Xình. Rốp. Rốp. Rốp xình. Rốp xình. Đinh tai nhức óc.
Bôn biết anh em. Họ rất tốt. Nhưng những lúc như vậy chớ có lên lớp họ. Lúc ấy tất cả sẵn sàng văng ra những câu giọng đuôi cá đuối. Kết quả chắc chắn sẽ là ngược lại. Bởi vì lòng vả cũng như lòng sung. Điều anh nghĩ tới đầu tiên khi nhận lệnh chuyển tải đánh thêm hai trăm tấn cá nữa là nghĩ tới giám đốc: Tất cả cho 10.000 tấn cả, khẩu hiệu ấy nếu thực hiện được và vượt nữa có lợi cho ai? Trước tiên là lãnh đạo xí nghiệp mà giám đốc là người được hưởng nhiều nhất rồi đến đám cán bộ trung gian, trưởng phó phòng, thuyền trưởng thuyền phó, cuối cùng mới đến anh em công nhân thủy thủ, may mắn ra thì được thêm một tháng lương, tháng lương thứ 13. Thuyền trưởng sẽ được chú ý, lên lương, được điều sang các tàu máy móc thiết bị còn tốt, được tặng các danh hiệu thi đua và quan trọng hơn cả là tăng thêm hy vọng được điều xuống các tàu đông lạnh chở hàng đi nước ngoài để được đổi đời. Anh em thuyền viên chỉ được hưởng cái xái xa xôi nhưng rất ít: Lời nói của thuyền trưởng tàu hoàn thành kế hoạch bao giờ cũng có trọng lượng hơn, chữ ký của thuyền trưởng tàu hoàn thành kế hoạch đề nghị thi nâng cấp nâng bậc, đề nghị điều chỉnh lương bao giờ cũng được trên lưu ý và được bố trí vào thời gian thích hợp nhất. Bôn biết cái đám ăn xái đang làm việc kia có lý khi nghĩ về lãnh đạo con tàu, lãnh đạo xí nghiệp như vậy. Anh thông cảm với họ, từ những chuyện nhỏ nhất như sự so sánh cửa miệng của anh em: Không gì khổ bằng cái nghề này. Giời mưa con chó cũng biết chạy vào trong nhà, thế mà mình lại phải lao ra ngoài mưa. Cả cái câu của lưới trưởng Giáp trong một bữa bia ở Ngã ba Đông Dương khi tàu kết thúc chuyến biển dài ngày, cập bến, một câu nói tự đáy lòng như một lời than thở:
- Lên bờ trông người phụ nữ nào cũng đẹp.
Thế là đã nói bớt đi, nói cho lịch sự rồi đấy. Đi biển lâu ngày, về bờ nhìn người phụ nữ nào cũng thấy uyển chuyển, dịu dàng, duyên dáng, xinh đẹp và gợi tình. Người phụ nữ nào cũng làm mình muốn ôm chầm lấy, cũng làm sống dậy trong mình cái máu đa si!
Thế mà phải lùi cái ngày ấy lại, cái ngày về bờ để nhìn thấy người phụ nữ nào cũng đẹp cũng gợi tình lại. Mà xí nghiệp có đến cả chục lý do để lùi, để kéo dài chuyến biển: Tàu về bến quá đông, không có cầu đỗ, thực phẩm Hà Nội hết chỉ tiêu lấy cá, kho lạnh điện phập phù, mấy thằng điên nặng này ngơi phong bì là hết ưu tiên v.v...
Tôi đi ngủ sớm. Nằm. Không định ngủ nhưng mắt cứ díp lại. Những mẻ lưới về đêm kéo lên tôi không được biết. Cũng chẳng rõ tàu đi đến đâu nữa. Nhưng mẻ lưới sáng sớm hôm sau có mặt tôi. Bác Sĩ bảo tôi:
- Con giời. Sao ngủ sớm thế. Hôm qua tao gọi mày dậy ăn cá nướng mà cứ ngủ thôi.
Tôi dậy đúng lúc kéo lưới. Hai cái đụt tôm phinh phính treo trên mỗi càng tăng gông. Chú Hồng giật cái dây, tôm cá xổ xuống mặt boong gỗ. Râu tôm đỏ đọc giương lên. Những chân tôm, những vi ở bụng tôm vẫy vẫy như múa trông rất vui mắt. Tôm búng tanh tách làm bắn cả nước lên mặt tôi. Nhưng cá vẫn nhiều hơn. Rắn biển từng búi từng khoanh. Một con nhệch nghiến chặt một con tôm. Con cá ó to nhất hội nằm ngửa như một con chim lật ngược, vẫy hai cánh cố ưỡn cái bụng trắng lốp lên. Một con bạch tuộc chết. Còn con bạch tuộc sống nằm giữa đống tôm cá, thỉnh thoảng phổng mình lên rất to rồi lại xẹp xuống.
Tôi túm lấy con bạch tuộc. Nó nhão nhớt, trơn tuột. Nhưng một cái râu của nó quấn vào cổ tay tôi, và những nốt sần trên râu hút chặt lấy tay tôi. Tôi ném mạnh nó xuống biển. Ngay lập tức con bạch tuộc phồng cái bụng như một quả bóng hình bầu dục và giật lùi về phía sau. Khi di chuyển những chân tay của nó chụm lại thành một búp thon thon gọn gàng trông giống một quả bầu nậm nhỏ và dài. Mấy cái giật lùi như vậy, nó đã mất hút trong làn nước biển. Nhưng phải nói đẹp nhất là con tôm bơi. Khi chú Hồng điều khiển tơi thả lưới, một con tôm to vướng vào tấm lưới treo ở đầu tăng gông rơi xuống biển. Nó bơi. Hai chiếc râu dài cong vút về phía sau. Hàng vi ở bụng quạt nước lấp lánh lấp lánh, mình tôm duỗi thẳng, đuôi xòe rộng dưới làn nước biển xanh... Rất nhiều loại cá. Tôi không biết tên. Con nào cũng đẹp. Đủ các màu sắc. Tôi nhặt một con cá nhám còn sống đặt lên tang tơi nhìn ngắm. Trông nó thật đẹp. Nó không bềnh bệch như con cá nhám chết đang nằm dưới kia. Da nó có những màu sắc của da trời. Trong, xanh, vàng, bàng bạc thay đổi liên tục. Mang nó phồng lên xẹp xuống cũng như nó luôn cựa mình. Chơi một lúc, tôi ném nó vào đống cá dưới boong. Một con cá to màu xám đã lách theo mạn be rồi lại cứ ngược dòng nước xối từ mảy bơm trở về đống cả. Có hai con sam bé tí, đuôi dài thẳng đơ, vụng về bò ra be, ngay lỗ thoát nước mà không biết đường lăn xuống biển. Toàn tàu ra nhặt tôm. Tất cả tôm cá được phân loại, cho vào lổ đưa xuống hầm đá. Những làn mưa mỏng buông chung quanh chỗ chúng tôi. Có lẽ chỉ ở biển mới được thấy những làn mưa mỏng, võng từ trên trời xuống như vậy. Một cơn mưa dày hơn, đen hơn đang trút xuống phía đất liền. Bố tôi bảo với chú Hùng:
-  Hôm nay nước ương. Cho tàu đảnh xuống rãnh được.
Bố tôi và chú Hùng chụm đầu vào hải đổ. Tấm hải đổ có in những chữ số nhỏ li ti, chi chít ghi độ sâu của biển, trải trên bàn, thực ra không phải là bàn mà chỉ là một tấm gỗ phẳng đảnh véc ni được bắt chặt vào vảch cabin buổng lải. Lưới treo trên tăng gông. Tàu hành trình đến rãnh. Những mẻ lưới ở rãnh quả là nhiều tôm. Nhiều tôm nhưng ít cả. Cảc chú bảo hễ được nhiều tôm là ít cả. Ngược lại ít tôm là nhiều cả. Những con tôm búng nhảy, những con tôm nằm yên một chỗ vây bụng đỏ hồng chuyển động đều đều phảt ra tiếng rì rào nhè nhẹ. Bảc Sĩ nhặt một con cả trắng, tròn, nhỏ xíu bảo mọi người:
- Kỳ trước về Bắc Giang, bà Đảng (tức là mẹ tôi) cắp rổ đi chợ mua về một rổ cả bướm. Tưởng cả bướm là cả gì, hóa ra cả này.
Tất cả cười ầm. Tôi hỏi bảc Sĩ:
-  Cả này gọi là cả gì hở bảc?
-  Con cả ót. Ót liệt.
Hôm nay Bôn phóng xe tranh thủ về gặp người phụ nữ của anh, người phụ nữ xinh đẹp dịu dàng yêu quý anh lúc nào cũng muốn ấp vào anh. Gửi xe ở một hàng nước đầu phố, (anh không muốn tiếng xe máy bố cáo với mọi người rằng anh đã về) anh đi bộ về nhà mà như đã nghe tiếng chị thở hổn hển dồn dập bên tai. Lần này chắc chắn anh sẽ ngồi như ông Thế Trường ngay từ những giây phút đầu tiên mà không đợi chị phải nhắc, phải giục. Trên đường về nhà, anh chỉ sợ gặp người quen. Chỉ cần lúc lỏn vào nhà không gặp ai, không có ai trông thấy là được. Anh cười thầm: Cứ như thằng đi ngoại tình. Cứ như thằng ăn trộm. Rồi nghĩ: Giờ này hai đứa con anh đang ở trường. Còn vợ anh thế nào chẳng biết ngày giờ tàu cập bến. Và cái anh chàng Đức, trưởng phòng điều độ thế nào chẳng vừa cười vừa đưa sổ ghi điện cho chị bức điện xin cập bến bốc cá của anh. Nửa chặng đường, không gặp người quen, Bôn hồi hộp cầu mong cho quãng đường còn lại. Cầu được ước thấy: Không một ai quen! Đã nghĩ đến bữa tiệc ái ân sắp được hưởng nhưng vừa đến chân cầu thang lối lên nhà anh, một người từ trên xuống. Trông thấy anh, người ấy reo to:
- Chào thuyền trưởng! Chờ mãi. May quá, đang định về.
Một đòn choáng váng! Thông! Một người bạn từ xa xưa, thời còn học trung cấp thủy sản! Cùng một khóa nhưng sau khi tốt nghiệp, Thông văn hay chữ tốt nên được về làm phóng viên tờ báo địa phương, theo dõi ngành thủy sản. Thỉnh thoảng vẫn xuống xí nghiệp lấy tin viết bài. Và bởi đã từng học thủy sản nên Thông quen biết rất nhanh, nhất là hàng ngũ thuyền trưởng thuyền phó các tàu. Đến tàu nào Thông cũng được quý trọng và đón tiếp nồng nhiệt. Chuyện nghề nghiệp. Chuyện mùa vụ. Cả chuyện nhân sự thành phố. Chuyện thời sự quốc tế. Ăn, nhậu và quà. Quà sang trọng: Cá chim. Tôm he. Mực tươi, mực khô. Thông lại có cách nói toạc ra những điều thầm kín pha lẫn hài hước. Ví như tối hôm trước, sau khi ăn nhậu dưới tàu VT 250 và được thuyền trưởng Lê Mây cho một lồ mực ống tươi, phải lấy miếng vải nhựa đi mưa ra đùm, lại còn thân hành đưa ra khỏi cổng bảo vệ; sáng hôm sau Thông xuống tàu để cảm ơn, một kiểu cảm ơn thật thà như đếm: Cám ơn thuyền trưởng. Thuyền trưởng làm hai vợ chồng tôi gần chết. Ăn thế chó nào hết gần chục cân mực. Đem cân ra cân, chính xác là chín kí bảy. Nhà tôi phải sắm một cái cân đấy bố ạ. Chỉ để cân cá cân mực xin được. Tin làm sao được cân của mấy mụ hàng cá. Nó cân cho mình, một cân chỉ tám lạng. Nó mua của mình, một cân của nó ăn cân ba. Cân lên chín kí bảy tươi. Hai vợ chồng hai đứa con, ăn nhiều lắm là ba kí. Đèo nhau ra chợ Trần Quang Khải, bán bảy ký. Coi như được một tháng lương.
Mỗi khi ăn ở dưới tàu, Thông hay cười cười nửa đùa nửa thật: Có vào người bữa đạm này, về nhà ăn rau cả tháng vẫn đủ chất, nhường mọi thứ tiêu chuẩn thịt cá cho vợ. Được một con hồng bự của tàu đông lạnh, cho vào bao dứa, Thông nói với mọi người dưới tàu: Đem con cá này về vất đánh huỵch một cái giữa nhà rồi ngồi thở. Chỉ thở thôi. Vợ con mắt sáng lên. Con lấy quạt quạt cho bố. Vợ pha nước chanh. Đèo cá qua cổng bảo vệ, Thông nhăn nhở: “Anh là nhà báo đây. Vì vậy rất đói. Tàu cho anh con cá, đừng bắt anh, em nhé”. Nói vậy thôi chứ ai cũng coi phóng viên Duy Thông như một thứ người nhà rồi. Tuy làm báo nhưng Thông lại có mộng viết văn, làm thơ. Đã có thơ đăng báo của hội văn nghệ địa phương và gần đây viết rất lên chân (cách nói của Thông) bằng chứng là có thơ in cả trên báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn. Không những thế, còn mới in một tập thơ, mỏng thôi, thuyền trưởng cho cá hay không cho cá đều được Thông tặng:
- Tự bỏ tiền in đấy các chiến hữu ạ. Tiền bán cá các chiến hữu cho, chứ mình lấy tiền đâu ra mà in. Thơ đọc được đấy. In xong trong túi không còn đồng nào. Xuống xin các chiến hữu chi viện đây. Lúc đi qua ngã tư Trại Lính, chẳng biết đang nghĩ ngợi cái chó gì, vượt đèn đỏ. Công an tít, giở biên lai ra ghi phạt. Mình bảo: Anh là nhà thơ đây. Nghèo lắm, chẳng đồng nào trong túi. Nó bảo thật không? Mình rút tập thơ trong túi ra: Đây, ảnh anh in ở bìa đây. Nó cầm tập thơ xem rồi bảo: Anh là nhà thơ thật nhỉ. Anh cho em tập này nhé. Mình ký tặng ngay. Thế là cứ thế đi thôi. Không phạt phung gì nữa. Với lại trong túi không còn đồng nào thật.
Gặp Thông, Bôn chết lặng. Gặp người quen là đã đại hạn rồi. Huống hồ gặp Duy Thông! Mà lại gặp ngay chân cầu thang lối đi lên nhà mình! Không trốn đi đâu được! Thông nắm chặt tay anh. Anh gỡ ra nhưng Thông càng nắm chặt hơn với tất cả nhiệt tình vồn vã. Tôi vừa lên nhà. Gặp bà ấy. Bà ấy nói ông đi biển. May quá. Suýt nữa không gặp. Sao, chuyến này thắng chứ hả. Hôm nọ xuống xí nghiệp gặp thằng Đức điều độ, nó bảo ông đánh ở Bạch Long Vĩ, sóng lắm phải không. Ông chịu sóng cũng xoàng. Chịu sóng khá nhất trong hàng ngũ thuyền trưởng phải kể đến Lê Mây. Biển động tàu vào trú gió, sóng mới hạ xuống cấp 6 đã lay từng thằng một, giục nó ra biển. Nịnh từng thằng một. Dỗ như dỗ em. Nhưng mà đánh thế là phí sức. Phải biết tiết kiệm sức lực của anh em như ông mới đúng. Căn bản là năng suất mẻ lưới chứ không phải số mẻ lưới. Cứ nồng nhiệt như vậy, tào lao chi khươn như vậy, gần như Thông lôi Bôn đến cửa nhà anh. Buồn nản cùng cực, nguyền rủa cuộc gặp mặt, nguyền rủa Thông, Bôn nhìn vợ với hai con mắt chứa chan tình yêu, ham muốn lẫn tràn đầy thất vọng. Anh nuốt một cái gì vào họng, cố nặn ra một nụ cười mà không được:
- Có anh Thông đến chơi.
Liếc nhanh bộ mặt đâm lê của chồng, rồi nhìn sang Thông vẫn đang đầy một niềm phấn khích, chị Ngát lạnh lùng:
- Thế là anh lại gặp nhà em đấy hở.
Rồi quay đi, giấu một cái nguýt rõ dài. Rõ ràng Ngát còn thất vọng hơn Bôn. Bởi chị đã xin phép công ty nghỉ buổi sáng hôm nay, lại đã tắm rửa cẩn thận chỉ để được gần chồng ngay sau khi tàu cập bến chứ không phải chờ đến tối.
Chiếc cần cẩu thiếu nhi - người ta gọi nó như vậy có lẽ vì nó nhỏ, đặt trên một cái bệ có bốn bánh xe bằng sắt, một người có thể dùng tay đẩy nó đi từ đầu đến cuối cầu cảng, do một công nhân nhỏ nhắn đã có tuổi tên là Chín điều khiển. Tổ bốc cá mà ở đây người ta gọi gọn là tổ bốc chỉ có mỗi ông Chín là đàn ông. Trước đây tổ bốc toàn chị em người Việt gốc Hoa, họ nói tiếng Việt như người Việt gốc Việt, nhưng họ nói với nhau toàn bằng tiếng Hoa, ríu rít như một đàn chim hót líu lô. Sau năm 1979, đám nữ công nhân gốc Hoa ấy biến đi đâu hết. Chỉ còn trơ lại mỗi ông Chín. Thấy ông vẫn đứng điều khiển cần cẩu trên cầu cảng, nhiều người nhìn ông ngạc nhiên. Ông hiểu cái nhìn ấy, tròn mắt:
- Anh tưởng tôi là người Hoa à? Tôi là người Việt trăm phần trăm. Thế mà ai cũng nghĩ tôi là người Hoa. Rõ chán.
Ngày trước ông đứng cẩu. Bây giờ ông vẫn đứng cẩu. Chị em làm dưới hầm cá lạnh và tanh hôm nay là những chị em người Việt.
Chiếc cần cẩu kêu ro ro. Nó hạ thấp cần xuống miệng hầm cá. Rồi nó lại kêu. Lần này tiếng kêu của nó nặng hơn vì đã mang tải. Đầu cần ngóc lên. Dây móc cẩu căng làm bắn ra những giọt nước đùng đục màu vàng. Dưới hầm chị em tổ bốc ngoắc cái đụt cá đan bằng những sợi ni lông trắng đã ngả màu cháo lòng, xơ xác bẩn thỉu, ướt đẫm, trương phềnh, cái đụt đã chất đầy cá nục, cá mối, cá đổng và các thứ cả ba quân vào móc cẩu. Cần cẩu quay nặng nề, vừa quay vừa từ từ ngóc lên cao và hướng về một chiếc xe ô tô đang nổ máy. Trên thùng xe, một chị công nhân quần bông áo bông, ủng cao tới gối, mặt bịt kín giơ bàn tay đi găng đón cái đụt cá. Chiếc cần cẩu như chỉ chờ có vậy. Ông Chín như chỉ chờ có vậy. Cái đụt cá dừng lại lửng lơ. Nó rỏ những giọt nước lờ lờ như nước gạo và nặng mùi bị gió thổi bay chéo. Chị bốc cá giật mạnh sợi dây ở đáy đụt. Đó là cái nút hoạt mà Mai đã nói tới khi mọi người nhắc anh phải cẩn thận kẻo không vợ anh bị sảy. Cá xổ tung trên thùng xe. Cần cẩu lại bắt đầu một chu kỳ mới, quay một nửa vòng về phía miệng hầm cá và từ từ hạ xuống. Nước cá đục chảy trên thùng xe xuống mặt cầu thành dòng, thành vũng.
Trên cầu tàu, ngoài những người có nhiệm vụ, những cán bộ OTK của xí nghiệp, người của bên nhận hàng - lúc này là người của công ty thực phẩm Hà Nội, lúi húi phân loại cá, nhân viên bảo vệ, còn có những công nhân phân xưởng sửa chữa, những công nhân phân xưởng lạnh, cán bộ nhân viên khối trên bờ đi đi lại lại, có công việc hay không có công việc. Họ đảo ra cầu tàu. Đảo ra để nhìn những đụt cá, những xe cá biết bao hấp dẫn. Đảo ra để được ngửi cái mùi nằng nặng ủng ủng của những tạ cá, những tấn cá không còn tươi đã bắt đầu phân hủy mà ao ước có được mấy con. Bởi vì những bữa cơm của gia đình họ, của vợ chồng con cái họ quá ư đạm bạc, không một chút mỡ dính bát, không một miếng thịt, không một con cá, chỉ rau dưa nấu mắm và một tí mì chính tra vào như tra thuốc đau mắt... Thì ra đây nhìn. Nhìn cho sướng con mắt. Nhìn cho thêm quyết tâm, thêm can đảm, thêm kiên trì và nhẫn nhục để lựa thời cơ, xuống tàu bằng cách này cách khác kiếm mấy con đem về nhà cải thiện.
Với Cương những con cá trong hầm cá chỉ còn là những con số tấn, tạ, những đụt cá được chuyển lên xe. Những xác chết nhờn nhợt một màu. Những con cá để biến thành những con số thực hiện kế hoạch chuyến biển, những con cá không còn cả tính. Con cá thu không còn cái dáng chắc nịch hình thoi lao đi như tên bắn dượt theo chiếc lông gà mà bố Tích cấp dưỡng mệnh danh tay nải thân yêu thả trên mặt biển. Con cá khế mất hẳn cái màu sắc óng ánh hai bên lườn dèm dẹp, lớp da mỏng tang của nó kỳ diệu thay, ở sâu dưới nước mà lại lưu giữ màu sắc óng ánh luôn thay đổi của bầu trời lúc bình minh. Con cá hồng đỏ rực giương vây, cái màng mỏng đỏ tươi dính vào các gai mọc trên lưng nhọn hoắt, các vây ngực vây bụng xòe rộng, nửa thân phía dưới - bắp đuôi- rất khỏe quẫy cựa làm lệch cái vây đuôi hình đuôi én. Nằm giữa đống cá nhỏ, con cá hồng như khoe sức mạnh, vẻ đẹp của mình lần cuối cùng trước khi chết. Và con cá ong hương nhỏ nhoi đầu to, cổ rụt, có dáng dấp của một nhà tư tưởng ngẫm nghĩ sự đời vẫn tiếp tục dòng suy tưởng ngay khi bên cạnh nó những con cá dưa dài như cột nhà vàng nhẫy da lươn đang ngáp ngáp trong cơn hấp hối. Con cá song há cái miệng rộng lởm chởm răng, mang phồng ra đỏ tươi như máu, lách xuôi theo dòng nước từ ống cao su của máy bơm nước mặn xối vào lưng nó. Không thể không nhìn con cá kẽm màu xám đang nghiến chặt con cá đổng hồng tươi như một thỏi son môi giữa hai hàm răng sắc, nghiến mãi nghiến mãi cho đến khi con cá đổng đứt làm hai, rồi rùng mình mấy cái, đờ ra bất động, như đã cố thu hết tàn lực hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng.
Thỉnh thoảng mới được đi biển, Cương hay ngắm những con cá ấy. Không mẻ lưới nào anh không có mặt. Để nhìn cá. Để nhìn chất đáy. Nhìn con cá sống con cá chết, nhìn chất bùn đất rong rêu theo cá lên boong. Từ đó mà phán đoán khu ô, phán đoán luồng cá. Cá còn tươi, còn giãy là mới chớm vào luồng cá. Cá chết nhiều là đã vượt qua đàn cá. Rong rêu, bùn cát là tàu đang ở đâu, đã giạt đi bao nhiêu độ. Cát bùn là đang ở đâu. Gặp nấm biển mà anh em gọi là cốc chén của vua Thủy Tề là đang ở đâu. Cứ thế mà tính mà trừ độ giạt. Mà bám luồng cá.
Bài học về chất đáy là bài học của cả đời. Vua chất đáy không phải Bôn, Mây, cũng không phải Chơn. Vua chất đáy là Lê Uy, cháu họ Lê Mây, gọi là cháu thôi chứ còn nhiều hơn Mây vài ba tuổi. Không cần chạm tay miết chất đất dính vào đụt lưới, dính vào hàm chì, chỉ nhìn thôi, nhìn màu sắc chất đáy, nhìn những tạp chất khác kèm theo, Uy đã biết tàu ở vị trí nào trên hải đồ. Bởi vậy đánh cá đáy không ai có thể bằng Uy. Cá mối là chết với ông ấy. Cá mối là loài cá đáy. Nhưng cá nục Uy cũng chỉ như Bôn thôi. Cá nục đi nổi.
Uy còn đang trú gió ở Bạch Long Vĩ. Trú gió ở đấy chẳng ăn nhằm gì. Trú gió ở đấy cũng gần như không trú gió. Nhưng không thể chạy về Long Châu. Chạy đi chạy về như vậy, dầu hết, còn thời gian đâu đánh cá.
Đã được mấy xe cá chọn rồi. Cương đảo ra ngoài miệng hầm. Anh bảo vệ đứng ghếch một chân lên miệng hầm nghe chừng đã mỏi, bước ngược lên buồng lái, vớ lấy ấm trà đặc làm liền vài chén. Anh ta loay hoay tìm bao thuốc lá nhưng thuốc lá là vật bất ly thân, Cương đã cho vào túi áo bông, không thể để thành một thứ xê xê xê pê [1] trong buồng lái được.
Cương ngó xuống hầm cá, ước lượng số cá đã bốc, số cá còn trong hầm và đảo vào bếp. Một nồi cá song đã được đặt trên bếp sôi lom rom. Và một chảo sườn ninh. Chỉ có vậy.
-  Bố Tích ơi!
-  Bố Tích đi chợ rồi. Đi từ nãy cơ.
Anh thủy thủ trực bốc cá đứng sát bàn cân trả lời.
- Chết không. Sắp trưa rồi mà vắng tanh vắng ngắt thế này.
Sắp trưa và trưa. Đó là thời gian bận bịu căng thẳng của anh. Và kia kìa cái dấu hiệu đầu tiên của sự căng thẳng đến kia rồi. Đó là Nhược và Thuyền, hai người trông con tàu bẹp cùng anh. Nhược gầy cao xách chiếc xô tôn thủng thẳng đi trước. Thuyền to lớn bệ vệ theo sau.
-  Chào thủ trưởng.
-  Thủ trưởng khỏe không?
-  Khỏe. Anh em ở nhà thế nào?
-  Bình thường. Nghĩa là đọi. Bà cả Đọi. Có cái khác là nhớ thủ trưởng thôi.
-  Cám ơn tấm lòng không lấy gì làm thơm của các bạn.
Nhược chìa xô ra:
-  Thủ trưởng cứ cho đầy đầy cái xô này là được.
Ba người bước đến miệng hầm cá. Cương nói với mấy chị bốc cá đang lấy cào ba chia cào cá vào miệng đụt. Cái xô được quăng xuống. Thuyền gọi to:
-  Chị Liền ơi. Cá bạc má nhé.
Nhược tiếp:
-  Đầy xô vào.
Cả tổ bốc, cả anh bảo vệ đều biết Thuyền và Nhược là lính dưới tàu 307, là quân của Cương, cần phải ưu tiên. Họ bốc ngay chỗ cá nục, cá bạc má ngon nhất mà họ đã lựa ra theo phản ứng nghề nghiệp, chẳng thể để những con cá ngon như thế giao cho mậu dịch được, hơn nữa thế nào cũng có những người tới bắt họ phải nhặt những con cá chưa bị vỡ bụng, mắt còn trong vào túi vào xô.
-  Cho đầy vào. Lắc lắc xô mấy cái đã nào.
Chị bốc cá làm đúng như mệnh lệnh. Nhược cúi gập người thõng tay xuống nắm lấy cái quai xô chị bốc cá đang cố kiễng chân đưa lên.
-  Đánh nhanh. Rút nhanh.
Hai người nhảy lên cầu tàu, đi về phía cuối cầu cảng, nơi con tàu bẹp đỗ. Ớ đấy đã có mấy người đàn bà phe cả đứng đợi.
Thuyền, Nhược vừa đi thì một đoàn rồng rắn xô thùng đến. Đó là những tàu sửa chữa định kỳ, nằm bến lâu ngày, những tổ xuống đá, những tổ súc sạc ắc quy, những tổ sửa chữa, những tàu lai tàu dầu... Tất nhiên là những suất cá ngon, nhưng ít người được toàn cá đẹp như Thuyền và Nhược. Chẳng ai ghen tị với anh em trông con tàu bẹp. Quanh năm suốt tháng đói. Chỉ trông vào viện trợ của chín nước anh em. Chỉ có đồng lương cấp bậc. Phụ cấp đi biển không. Lương sản phẩm không. Quỹ công đoàn không. Quỹ tàu càng không. Lương cũng lĩnh hai kỳ như khối trên bờ. Một mình tiêu không đủ, nói gì tới gia đình vợ con.
Giải quyết xong việc cho cá, Cương xem đồng hồ: Đã mười một giờ rồi. Bôn đã về. Cương bảo thuyền trưởng đi đâu, giám đốc tìm đấy. Sáng nay họp bàn chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Bôn bảo: Cậu báo cáo hộ mình rồi chứ. Cương đùa nhưng lại đúng sự thật:
- Có báo cáo ra trạm xá chứ không nói về nhà giải quyết khâu tăng cường hàng tiền đạo.
Bôn cười không trả lời. Nào anh đã được xơ múi gì đâu. Cái buổi sáng bao nhiêu hy vọng nhưng rồi không ra làm sao. Thông ngồi cũng không lâu lắm. Đủ để đọc cho anh nghe mấy bài thơ về biển Thông mới làm và muốn xin ý kiến người bạn đã gắn bó với biển nửa cuộc đời.
Biển ơi biển bạc làm chi Biển vàng mà rất nhiều khi không vàng
Ông bạn nhà thơ trợn mắt nhìn Bôn:
- Ông thấy hai câu này của tôi được đấy chứ hả. Biển bạc là hỏng rồi. Bạc là trắng phớ ra, là bạc bẽo. Là đổ mồ hôi sôi nước mắt mà chẳng ăn gì. Chưa kể biển còn là nấm mồ chôn bao người. Còn biển vàng cũng là nói động viên thôi. Có vàng đấy nhưng vàng rất ít. Tôi rất ưng hai câu này. Có thể đây là tuyên ngôn về cuộc sống của tôi. Cuộc sống là như thế. Không vàng mà bạc.
Những câu nói của Thông cứ như những mũi khoan xoáy vào đầu óc. Anh cũng chẳng biết mình có gật gù làm ra vẻ tán thưởng không nhưng trong đầu anh đã bật ra một câu chửi, thơ với phú cút mẹ mày đi ông bạn giời đánh ạ lại còn cái gì nữa đây à một bài thơ tình để tôi đọc bài thơ tình đã rồi bài thứ ba lại là bài thơ về biển cho nó thay đổi không khí đi ăn mãi một món sợ chán hôm qua em có về không anh đi đến giữa cánh đồng thì mưa mưa hay nắng cũng mặc xác anh mặc xác em, thơ phú cái con tườu. Không có thằng nhà thơ dở hơi này thì từ nãy đến giờ cũng xong rồi. Mà trông nàng mới tuyệt vời làm sao, ôi bây giờ được ôm nàng vào lòng được bế nàng lên giường đóng chặt cửa lại hai đứa quấn vào nhau hay ngồi như ông Thế Trường, ai gọi cửa cũng mặc em ơi em đã về chưa đi sao cho hết buổi trưa lòng mình em như trúc mọc đầu đình trúc mọc đầu đình thì mày ra đầu đình với trúc còn tao không, tao chỉ ở nhà tao thôi. Mày làm thơ hay rồi. Đúng là đang lên chân nhưng ông ngồi mười lăm phút nữa là chết con, là con bé con đi học về, là khốn nạn thơ phú cái con khẹc.
Bôn không dám nhìn vào mặt bạn nữa. Anh sợ rồi mình sẽ tống một quả đấm vào bộ mặt đang tràn đầy chất thơ kia. Ôi cái thứ thơ văn lai láng giết người. Có câm ngay đi không. Thằng chó chết. Bây giờ tôi đọc cho ông nghe bài thứ ba lại một bài thơ về biển. Loáng thoáng bên tai anh những cánh chim hải âu, những biển của tôi, rồi người chinh phục những chân trời. Cái lúc ấy, cái lúc anh đang nghe những vần thơ mênh mông biển cả chân trời ấy, chị Ngát vợ anh lại cúi cúi tìm một cái gì đó, lượt vải xa tanh bóng bẩy mềm mại chia cặp mông tròn của chị ra làm đôi khiến cổ anh nghẹn lại. Anh bực bội cắt ngang lời người bạn thi sĩ của anh bằng câu nói của Giáp:
- Ông phải nói được điều này của cánh đi biển chúng tôi. Đó là khi kết thúc một chuyến biển dài ngày về bờ, chúng tôi nhìn thấy người phụ nữ nào cũng đẹp.
Thông reo to:
- Hay! Quá hay! Tôi sẽ thêm ý này vào bài. Nhưng ông thấy cái ý lấn biển của tôi có được không? Lấn biển không chỉ có nghĩa là quai đê lần biển như thời cụ Nguyễn Công Trứ ngày xưa. Lấn biển còn là từng bước chinh phục biển cả.
Cái thằng này đúng là không hiểu một cái gì. Nói đến thế mà nó vẫn cứ hơn hớn ra mà thơ phú lấn biển thế kia. Chẳng biết đã trút hết nỗi niềm thơ hay hiểu được vẻ mặt chủ nhân, Thông đứng dậy cáo từ. Bôn như cất được gánh nặng nhưng vừa định cài cửa, lại lù lù một vị khách nữa dẫn xác đến. Vị này mới cực kỳ vô tư và khảng khải:
- Thấy cửa mở là biết ngay ông mới về mà. Ông về, bà ấy mới nghỉ ở nhà đón ông chứ.
Ngu đến như vậy là cùng. Rặt một bọn ngu, một lũ ngu. Nói thế thì phải biết vợ chồng người ta mong gần nhau như thế nào chứ. Cứ ra cái điều mình tâm lý mà chẳng tâm lý tí nào. Anh vào chơi. Tôi vừa về. Cám ơn anh tôi vẫn khỏe. Đi biển hơn nửa tháng sốt ruột quá, không biết ở nhà tình hình ra sao, tranh thủ về nhà được một tí rồi lại phải đến xí nghiệp ngay... Vừa tiếp chuyện, Bôn vừa liếc nhìn đồng hồ. Anh biết hỏng tất cả mất rồi. Chỉ lát nữa con bé nhớn đi học về. Chờ lúc vị khách nhìn ra ngoài sân, chị Ngát liếc chồng, cười kín đáo. Nụ cười vừa như chế giễu, vừa như hứa hẹn sẽ đền bù lại cho anh gấp nhiều lần vào tối hôm nay. Nụ cười làm anh nhẹ đi, vợi đi biết bao bực bội trong lòng. Ông khách đến sau hồn nhiên không kém gì ông nhà thơ đến trước. Chuyện vệ sinh khu tập thể. Chuyện phố Lán Bè có thằng thanh niên đứng ngoài cửa ném lựu đạn vào giữa nhà lúc bố mẹ anh em đang xem tivi vì không cho nó tiền mua xe máy, may mà lựu đạn không nổ, chuyện một ông bố nào đấy ngủ với con riêng của vợ, bị bà vợ bắt được... Thấy con Linh đi học về “con chào bố, con chào bác” còn reo lên: “Đã tan học rồi, trưa rồi à. Thôi chào hai ông bà tôi cũng phải về đây. Ngồi lâu quá. Về cơm nước không bà ấy lại tế cho”. Thế là một cái ôm vợ cũng không được. Anh đi bộ ra hàng nước lấy xe phóng tới xí nghiệp, rú ga thật to như muốn trút nỗi thất vọng qua cái ống xả và cũng để bù lại lúc về phải trổ tài lái xe sao cho máy thật êm.
Cương phấn khởi nói với Bôn:
- Thế này có lẽ được mười tám tấn cá chọn đấy.
- Làm gì được.
- Cá mối nặng, cân dôi lắm. Mới hai hầm mà đã ba xe rồi.
- Sao bếp núc vắng tanh thế này?
- Bố Tích bảo đi mua tí bún, tí rau sống mà bây giờ vẫn chưa thấy tăm hơi đâu.
Chú thích:
[1] CCCP: Nhãn hiệu Liên Xô, được xuyên tạc là Của Công Cứ Phá, Các Chú Cứ Phá, Cứ Cho Cứ Phá, Còn Cho Còn Phá.
Bùi Ngọc Tấn
Dịch giả: Dương Tường
Theo https://vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Chùm thơ của Lưu Lãng Khách 15 Tháng Hai, 2023 Ngoài kia xuân đang qua rồi sao!/ Thềm hoa hanh hao – trên trời cao/ Chim non ca vang n...