Đọc “Ma chiến hữu” của Mạc Ngôn.
“Ai da! Đau quá! Đau quá, mẹ ơi! Đau quá,
Thân hình con đã bị đạn xuyên qua.
Viên đạn xuyên qua
đập vào thân cây con đang tựa,
Nó cũng bị thương rồi kêu lên thê thảm:
Mẹ ơi!”
Thân hình con đã bị đạn xuyên qua.
Viên đạn xuyên qua
đập vào thân cây con đang tựa,
Nó cũng bị thương rồi kêu lên thê thảm:
Mẹ ơi!”
(Ma chiến hữu)
Chiến tranh! Trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của nhân
loại như là một định mệnh! Có những cuộc chiến chính nghĩa, nhưng hầu
hết đều là chiến tranh phi nghĩa.
Cho dù chính nghĩa, hay phi nghĩa chiến tranh bao giờ cũng
mang đến những bi kịch thảm khốc cho nhân loại. Nó là vết thương không bao giờ
lành da trên số phận mỗi con người, cũng như mỗi dân tộc. Lý do để khởi động
chiến tranh đôi khi rất mơ hồ, vô lý: “Một bài học” mà giới
lãnh đạo một nước này muốn dành cho một nước khác.
Ma chiến hữu của Mạc Ngôn, là cuốn tiểu thuyết viết về một
cuộc chiến tranh như vậy.
Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh tại huyện Cao
Mật, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Thời thơ ấu, đang học tiểu học, Mạc
Ngôn phải nghĩ học giữa chừng vì Cách mạng văn hóa. Ông phải tham gia
lao động nhiều năm ở nông thôn, chăn dê ngoài đồng. Thời gian này ông luôn bị
đói khát và cô đơn. Năm 1976 Mạc Ngôn nhập ngũ. Đến năm 1984, ông trúng tuyển
vào khoa Văn thuộc Học viện Nghệ thuật Quân Giải phóng và tốt nghiệp năm 1986. Tháng 10
năm 1987 ông
chuyển ngành, hoạt động trên lĩnh vực báo chí và
viết văn chuyên nghiệp. Năm 1981, Mạc Ngôn bắt đầu công bố tác phẩm, đến nay ông đã cho
in 10 truyện dài, 20 truyện vừa, hơn 60 truyện ngắn và 5 tuyển tập gồm những
bài ký, phóng sự, tùy bút..., tổng cộng trên 200 tác phẩm. Mạc Ngôn từng được
thế giới biết đến qua tác phẩm Cao lương đỏ do Trương Nghệ Mưu chuyển thể thành phim. Bộ phim giật giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes năm 1994. Tháng
12.1995, Báu vật của đời đạt giải nhất về tiểu thuyết của Hội Nhà văn Trung Quốc. Đàn
hương hình đạt giải Mao Thuẫn. (1)
Tác phẩm Chiến hữu trùng phùng, Mạc Ngôn viết năm
1992, đến năm 2008 Nxb Văn học và công ty văn hóa Phương Nam mua bản quyền phát
hành. Dịch giả Trần Trung Hỷ dịch sang tiếng Việt lấy tựa đề “Ma chiến hữu”.
Sau khi xuất bản và lưu hành ở Việt Nam cuốn tiểu thuyết đã dấy lên một làn
sóng tranh luận mạnh mẽ tại các trang web và blogger Việt Nam (2) vì tác phẩm đề
cập đến một vấn đề “nhạy cảm” của hai quốc gia: cuộc chiến tranh biên giới
Trung - Việt năm 1979, cách đây đúng 30 năm.
Vài nét về chiến tranh biên giới Việt - Trung năm 1979. (3)
Chiến tranh biên giới Việt - Trung năm 1979 là một cuộc
chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam,
nổ ra vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi Trung Quốc đem quân tấn
công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới giữa hai nước. Chiến tranh biên giới Việt
- Trung xuất phát từ quan hệ căng thẳng kéo dài giữa hai quốc gia.


Cuộc chiến kéo dài trong chừng một tháng với thiệt hại nặng nề
về người và tài sản cho cả hai phía. Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc hoàn
thành rút quân vào ngày 18 tháng
3 năm 1979,
sau khi chiếm được các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, và một số thị trấn
vùng biên. Mặc dù Trung Quốc tuyên bố rút quân, chiến sự vẫn tiếp diễn ở một
số nơi. Dân thường Việt Nam vẫn tiếp tục bị giết, chẳng hạn như vụ thảm sát ngày 9 tháng 3 tại
thôn Tổng Chúc, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng,
khi quân Trung Quốc đã dùng búa và dao giết 43 người, gồm 21 phụ nữ và 20 trẻ
em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai, rồi ném xác xuống giếng hoặc chặt ra
nhiều khúc rồi vứt hai bên bờ suối. Trong thời gian chuẩn bị rút quân, Trung Quốc
còn phá hủy một cách có hệ thống toàn bộ các công trình xây dựng, từ nhà dân
hay cột điện, tại các thị xã thị trấn Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn... Mục
tiêu của Trung Quốc buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia không
thành, nhưng cuộc chiến để lại hậu quả lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam và
quan hệ căng thẳng giữa hai nước. Xung đột vũ trang tại biên giới Việt - Trung
còn tiếp diễn thêm 10 năm.
Tại Việt Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 đã được
nhắc tới trong hai bộ phim Đất mẹ (1980) của đạo diễn Hải Ninh và Thị xã trong tầm tay (1982) của đạo diễn Đặng Nhật Minh. Năm 1982, một bộ phim tài
liệu với tựa đề Hoa đưa hương nơi đất anh nằm do Trường Thanh thực hiện
để nói về một nhà báo người Nhật chết trong thời gian đưa tin chiến tranh biên
giới, bộ phim này sau đó đã được đánh giá cao ở Nhật Bản. Trong thời gian chiến
tranh biên giới nổ ra và những năm sau đó, hàng loạt bài hát Việt Nam về đề tài
chiến tranh và bảo vệ tổ quốc cũng ra đời như Chiến đấu vì độc lập tự do của nhạc
sĩ Phạm Tuyên, Lời tạm biệt lúc lên đường của nhạc
sĩ Vũ Trọng Hối, Bốn mươi thế
kỷ cùng ra trận của nhạc sĩ Hồng Đăng, Những đôi mắt mang hình viên đạn của
nhạc sĩ Trần Tiến và Hát về anh của nhạc sĩ Thế Hiển. Về văn học có tiểu thuyết Đêm
tháng Hai (1979) của Chu Lai và Chân
dung người hàng xóm (1979) của Dương Thu Hương.
Tại Trung Quốc, rất nhiều bộ phim về đề tài chiến tranh biên
giới 1979 được sản xuất tại Trung Hoa lục địa như Trận chiến ở núi Trường
Bài, Hành động chớp nhoáng, Xe thiết giáp 008…, tại Hồng Kông có
Phim Câu chuyện của Hồ Việt (Châu Nhuận Phát vào vai nạn nhân Việt
Nam), Đồng chí thương dân (do Lưu Đức Hoa vào vai phóng viên
Hương Cảng)…
Việc nhà văn Mạc Ngôn viết Chiến hữu trùng phùng nói
về cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung dưới con mắt của người
Trung Hoa cũng là điều bình thường trong đời sống văn học nghệ thuật.
Từ khi quan hệ ngoại giao giữa hai nước được cải thiện, cuộc
chiến hầu như không còn được nhắc đến trong các phương tiện truyền thông đại
chúng, không được nói đến trong sách giáo khoa lịch sử ở Trung Quốc cũng như Việt
Nam.
Chủ đích của Mạc Ngôn và ý nghĩa tác phẩm “Ma chiến hữu”.

Cuộc gặp gỡ của hai chiến hữu - một người sống và
một hồn ma chỉ là cái cớ để tác giả Mạc Ngôn lên án cuộc chiến tranh
vô nghĩa. Thân phận con người sau cuộc chiến và những hệ lụy của nó.
Quân đội lạc hậu, kinh tế đói nghèo.
Vào những năm 70, 80 của thế kỷ 20, về mặt quân sự khi các cường
quốc trên thế giới đã trang bị các phương tiện kỹ thuật quân sự hiện đại, vũ
khí tối tân thì quân đội Trung Quốc vẫn còn nằm trong một nước có nền quân sự lạc
hậu. Hãy xem nhà văn Mạc Ngôn giễu cợt nền quân sự của nước mình, khi miêu tả
các vị chỉ huy suốt ngày chỉ biết hô khẩu hiệu nghiêm, nghỉ. Chiến thuật chủ yếu
là dạy cách ném lựu đạn, gài bộc phá, đào hầm… Săm soi từng cách gấp chăn của
các tân binh. “Tiểu đội trưởng La Nhi Hổ chỉ là một gã ngốc nghếch, suốt
ngày chỉ biết cầm thước đo chăn gấp, miệng lúc nào cũng chỉ biết nói: rộng quá
một phân, hẹp quá một phân… khi vào chiến trường thì chân nhũn, tay ôm lấy đầu,
ném lựu đạn thì quên rút chốt”(tr 35).
Vũ khí thì thô sơ lạc hậu: “Mẹ kiếp! Thế mà cũng gọi là súng à?
Là chiến lợi phẩm thu được của bọn quỷ Nhật trong thời kỳ kháng chiến, giống
như một bà mẹ đã đẻ mười đứa con không bằng, nòng rộng hoác, đạn rời khỏi nòng
là bay xiên xiên vẹo vẹo, các bộ phận thì rệu rã hết” (tr 143). Thậm chí, Mạc
Ngôn còn chua chát, khi nhận xét quân lính mình không sáng tạo trong chiến đấu
bằng lính Việt Nam. “Pháo cao xạ mà bắn ngang là sáng tạo của những người
phía bên kia chiến tuyến”. (tr 33)
Trong khi đó, kinh tế Trung Quốc còn đang đói nghèo, phần
đông người lính xuất thân từ nông thôn thất học, thiếu hiểu biết nên dễ bị lợi
dụng, tuân phục mệnh lệnh vô điều kiện. Không ít người, tình nguyện vào quân đội
vì sẽ đỡ miệng ăn cho gia đình, đi lính còn có “gạo trắng, canh rau”, ở quê nhà
họ chỉ có khoai, củ mà vẫn không đủ ăn. Cảnh vật làng quê nghèo xơ xác. Đây là
hình ảnh của gia đình người lính Khương Bảo Châu trong một lần về thăm nhà:
“Nhà cửa tan hoang, khắp nơi phân gà vương vãi, mấy chiếc bát sứt mẻ nằm
chỏng chơ trong nồi, trên bếp lò chỉ có vài củ khoai mốc thếch. Bố mắc bệnh
lao, mà vẫn ra ngoài đồng chăn trâu. Việc đồng áng một tay vợ anh quần quật cả
ngày, bỏ lại đứa con chỉ mới vài tháng tuổi cho mẹ anh ở nhà chăm sóc. Nhà quá
nghèo, không có tiền mua sữa bột. Con bé đói quá, người bà phải nhai mấy mẩu
bánh khô mớm vào mồm. Có hôm vét mấy hạt cơm dưới đáy nồi còn sót cho vào phích
nước đã hỏng, không còn giữ được độ nóng, cho con bé uống thứ nước ấy) (tr 47- 49).
Mặt khác, trong quân đội, nhân sự mục ruỗng, nhiều kẻ cơ hội,
có địa vị nhờ đút lót, nạn tham nhũng tràng lan: “Ông già mặt mày hồng hào và mập
mạp có con trai làm cán bộ huyện, ăn nói rất bốp chát: Bảo bố anh bỏ ra tí
máu mua một ít quà cáp ở quê mang về đơn vị biếu cho tiểu đoàn trưởng, chính trị
viên, nhất định sẽ có chỗ tốt…Cứ tin lời tôi, ông hãy bỏ ra ba trăm mà lo liệu,
chờ cho đến khi Bảo Châu làm quan quân đội, nó sẽ thu về, ông chẳng lỗ vốn đâu
mà sợ”. Con trai ông - từ người làm một việc tẹp nhẹp trên huyện - nhờ ông mua
chuộc các vị lãnh đạo ở huyện mà sau đợt cải tổ nhân sự, con trai ông được đề bạt
lên chức cục trưởng. Bây giờ nó ngồi xe con bóng lộn, thuốc lá thơm ngoại
nhập, uống rượu hảo hạng, bữa ăn nào cũng bảy tám món, trong nhà nuôi con chó
béc giê chỉ biết ăn thịt cá, ăn đến nỗi lông bóng mượt” (tr 52-53)
Thông qua tác phẩm, nhà văn Mạc Ngôn phê phán nhà cầm quyền
nước mình quá tham vọng trong khi thực tế nguồn lực quân sự, kinh tế của đất nước
còn yếu kém. Chính mâu thuẫn này đã dẫn đến sự thất bại trong chiến tranh biên
giới Việt - Trung 1979.
Sau cuộc chiến, thân phận người lính bao giờ cũng chịu nhiều
thiệt thòi, bên cạnh những chấn thương về mặt tâm lý, cuộc sống vật chất của họ
cũng rơi vào cảnh thương tâm. Đây là lời tâm sự của hai người lính: “- Tai
tớ bị đạn làm cho điếc rồi… Miệng tớ cũng bị lửa đạn thiêu cho cháy sém… nhưng
cái gì chờ tớ nào? Phục viên! Đ. mẹ nhân gian sao mà bất công!” (tr. 131); còn
đám chiến hữu trở về cùng một lúc với cậu ra sao? “Ngụy Đại Bảo thì đi tù do lỡ
tay đánh chết vợ hàng xóm. Vì từng tham gia chiến tranh nên hình phạt giảm nhẹ
còn hai mươi năm tù. Cậu ta vừa vào nhà giam, vợ ở nhà ôm con đi tái giá.
Trương Tư Quốc thì vẫn là “lính phòng không”…, nó trở về quê với một thân hình
đầy thương tích, mặt cũng đã bị phá nát, nằm chết gí trong làng, ngay cả cái chức
chi ủy viên cũng không đến tay nó… Mấy ngày trước có đến tìm tớ mượn tiền, bảo
rằng muốn tích góp chút vốn để làm ăn buôn bán. Tờ nghèo rớt mồng tơi, làm gì
có tiền cho cậu ta mượn”. (tr 132)
Những gia đình liệt sĩ neo đơn thì không ai quan tâm. Người bố
già tàn tật của Tiền Anh Hào không ai giúp đỡ, khi cậy nhờ bạn cùng chiến đấu với
con mình cũng bị từ chối, nhưng ở đây không phải cậy nhờ tiền, mà là cậy nhờ
“cái tình con người”. Hãy nghe ông già còm cõi, cậy nhờ bạn con mình: “Cháu
Kim Khố à, cách đây mấy ngày bác có nằm mơ thầy Tiền Anh Hào nói với bác: Bố
ơi, con ở nơi này không quen vì khí hậu quá ẩm ướt, trong nhà thì đầy dẫy giun
đất…bố ơi, bố đến đây đem hài cốt con về quê chôn ở bờ bắc con sông, bên cạnh
phần mộ mẹ con…Cháu Kim Khố à, cháu và Anh Hào là bạn của nhau, vừa là chiến hữu,
lại đã từng đánh nhau ở biên giới phía nam, quen đường quen sá. Bác định nhờ
cháu đi về đó một phen, đưa nắm xương của Anh hào về đây, chi phí cho công việc
bác lo toan chu tất … ”Nhưng Quách Kim Khố thẳng thừng từ chối lời đề nghị đi
tìm mộ bạn vì “sợ phải tốn tiền”. (tr 166-167) Để rồi cuối cùng, ông già cụt một
chân, phải một mình lê bước về phương Nam. “Đêm ấy mưa rất lớn. Những ánh
chớp màu lam xuyên thấu qua đất đá và bê tông, chiếu sáng những rễ cây tua tủa
như râu bạch tuộc chung quanh vách mộ, nước mưa thấm theo những rễ cây nhỏ xuống
như những giọt nước mắt khiến chung quanh tớ, đất sình lên nhão nhoẹt. Tớ dùng
một miểng bom thật sắc chặt đứt rễ cây, nhưng chỉ qua một lát là chúng lại mọc
ra như cũ.
Quả nhiên vùng đất phương nam này là một nơi biểu tượng của sự sinh sôi nảy nở vô cùng mạnh mẽ (…). Lại một tia chớp nữa lóe lên, tớ vô cùng kinh ngạc khi nhìn thấy một bóng người còm nhom, bước thấp bước cao xuất hiện trước phần mộ của mình. Cái âm thanh lộc cộc quen thuộc kể từ khi tớ ra đời vang lên…(…) - Anh Hào con, bố đã đến đây, bố sẽ đưa con trở về quê hương!” (tr 178-179)
Quả nhiên vùng đất phương nam này là một nơi biểu tượng của sự sinh sôi nảy nở vô cùng mạnh mẽ (…). Lại một tia chớp nữa lóe lên, tớ vô cùng kinh ngạc khi nhìn thấy một bóng người còm nhom, bước thấp bước cao xuất hiện trước phần mộ của mình. Cái âm thanh lộc cộc quen thuộc kể từ khi tớ ra đời vang lên…(…) - Anh Hào con, bố đã đến đây, bố sẽ đưa con trở về quê hương!” (tr 178-179)
Thái độ của nhà văn trước cuộc chiến.
Phê phán cuộc chiến vô nghĩa.
Từng là một người lính, Mạc Ngôn thấu hiểu và thương xót cuộc
đời của các chiến sĩ. Nhà văn căm phẫn khi nhìn thấy cuộc chiến vô nghĩa đã giết
chết bao chàng trai trẻ của đất nước một cách vô lý. Tiền Anh Hào là một người
lính cừ khôi, tiền đồ còn rực rỡ, biết sống theo suy nghĩ của riêng mình, vượt
xa những đồng đội khác khi chỉ biết tuân lệnh rập khuôn, dù đó chỉ là những quy
định vô lý. “Cả một năm chúng tôi không dám phơi chăn, vì phơi chăn xong khó mà
gấp lại cho có góc cạnh… có khi họ phải phun nước vào chăn để xếp vuông vức như
một viên gạch”. Trái lại, cả trung tâm dự bị chỉ có mình Tiền Anh Hào dám phơi
chăn. Ngày nào anh cũng đem chăn ra phơi, vì theo anh “ánh nắng có tia tử ngoại
có thể tiêu diệt được vi khuẩn, siêng năng phơi chăn rất có lợi cho sức khỏe,
không phơi chăn sẽ làm cho sức khỏe hao mòn”. Thế nhưng, cuối cùng một người luôn
đứng đầu khi thao tác các kỹ thuật quân sự, tài trí, thông minh như anh lại chết
lãng nhách: “… khi nằm chờ giây phút xung phong, cái mông của tiểu đội trưởng
La Nhi Hổ vỗng cao lên quá, cặp mông của cậu ta nhô lên trước mắt kẻ địch, làm
mục tiêu cho nòng pháo cao xạ, vậy là La Nhi Hổ bị toi mạng, kéo theo cả Tiền
Anh Hào mới vừa ra chiến trường, chưa kịp bắn viên đạn nào cũng bị chết oan uổng. Đến
nỗi, người lính Triệu Kim đã phải thốt lên: “Anh Hào, cậu đáng ra phải trở
thành một đại anh hùng, tiếc thay vận cậu lại không ra gì.” (tr 35)
Điều ray rứt của người lính trong chiến tranh biên giới Việt -
Trung 1979, là sợ bị xã hội lãng quên. Đó là một cuộc chiến “tế nhị” mà cả hai
nước đều không muốn nhắc đến. Chính vì vậy khi đọc báo thấy tin “mối quan hệ giữa
hai nước Trung Quốc và Việt Nam đã bắt đầu bình thường hóa”, hồn ma Hoa Trung
Quang khóc than trong nấm mồ. “Tiếng khóc rất dễ lây lan, nhiều chiến sĩ cũng bật
lên khóc nức nở” (tr 171), thế là hơn một ngàn hồn ma cả nghĩa trang biên giới vang
rền tiếng khóc. Đó là tiếng khóc uất nghẹn của những linh hồn trẻ, hầu hết là
những tân binh, cảm thấy mình chết thật oan uổng. Và để khỏa lấp những cái chết
vô lý đó, Nhà nước Trung Hoa thường xoa dịu bằng những ngôn từ tốt đẹp vinh
danh một cách giả tạo. Với những câu khẩu hiệu vô hồn: “Chúng ta hy sinh là
vinh quang, quá khứ của chúng ta là vinh quang, lúc này cũng vinh quang, tương
lai cũng vẫn cứ vinh quang”. (tr 171) Nó giống như một thứ ánh sáng “đom đóm lập
lòe trên từng nấm mộ”. Sự thật chỉ là hư danh, theo phép “thắng lợi tinh thần”
của AQ.
Không nên thu lợi từ chiến tranh.
Thái độ vô tư, không cầu lợi của người lính Trương Tư Quốc ở
cuối tác phẩm, chính là điều mà nhà văn Mạc Ngôn muốn mọi người hướng đến.
Trương Tư Quốc là một chiến sĩ phá mìn, trong một trận đánh, anh cùng đồng
đội phá xong 5 qua mìn định hướng, cả nhóm tiếp cận đến một điểm cao ở phía bên
phải trận địa thì hai đồng đội anh vướng mìn hy sinh, riêng anh bị thương. Chẳng
kêu tiếng nào, anh tiếp tục phá mìn mở đường. Mọi người đều thấy anh bò lên
trên sườn dốc cao rồi lăn lông lốc xuống, sau đó mìn nổ vang rền, anh bị thương
và được đưa đến trạm xá.Cuộc chiến vừa kết thúc, người ta ghi công, chuẩn bị
tài liệu để báo cáo phong danh hiệu “anh hùng phá mìn”, nhưng anh không nhận.
Anh nói với các chuyên viên cục chính trị rằng tất cả tài liệu đều bảo tôi phá
được năm quả mìn là không đúng, thực ra tôi phá có một quả, còn bốn quả kia là
do đồng đội anh phá, họ đều đã chết. Hãy ghi công cho họ, tôi còn sống được
là đã hưởng nhiều diễm phúc lắm rồi (tr193). Dưới con mắt những người cơ hội
thì Trương Tư Quốc là “thằng ngốc đã vứt cái danh hiệu anh hùng đã nằm gọn
trong tay mình…”. Trong khi đó, không ít người, sau thời hậu chiến
đã dùng “nhãn hiệu” anh hùng để ăn bám suốt cả cuộc đời. Luồn lách
qua mọi kẻ hở của chính quyền để tranh giành địa vị, hưởng bổng lộc, từ đời cha
đến đời con, trở thành gánh nặng của đất nước. Qua chi tiết này, nhà văn Mạc
Ngôn muốn nhắn nhủ cho dù một cá nhân hay một dân tộc không nên thu lợi từ chiến
tranh.
Là một tác phẩm viết về chiến tranh, nhưng nhà văn không miêu
tả cảnh hô hào bắn giết, uống máu quân thù của người lính. Trái lại,
bạn đọc sẽ bắt gặp những cảnh bi - hài của người lính trên thao trường, trong
cuộc sống. Họ là những người xuất thân từ nông dân hiền lành, ngốc nghếch, cả
tin. Trường đoạn miêu tả cảnh các chàng tân binh mê đắm cô giới thiệu chương
trình Ngưu Lệ Phương được “tô son trét phấn”, ôm bó hoa nhựa lộng lẫy trên sân
khấu với đôi môi đỏ rực, cặp nhũ hoa “độn cao” săn cứng, cười nói nhỏ nhẹ;
nhưng thực chất sau hậu trường là một người ăn nói chanh chua, với đôi mắt độc
ác, cái mũi to, miệng rộng quá khổ. Sự đối nghịch giữa thực - và ảo trong các
chi tiết là dụng ý của tác giả, để nói lên sự giả dối của cái hào
nhoáng. Chính những người nông dân kém hiểu biết ấy, là những người
dễ bị lợi dụng trước cái giả dối, dễ phục tùng vô điều kiện trước mệnh lệnh. Bản
chất họ là những người hiền lương, sống có nghĩa có tình. Tiền Anh Hào, cương
quyết thả con chim nhạn mà cả bọn vừa bắt được, tính làm thịt chỉ vì những
giọt nước mắt của con linh vật biết khóc như người. Trương Tư Quốc
thì mơ ước sau này phục viên sẽ lấy số tiền giải ngũ để mua con ngựa ở đơn vị
đã từng cứu sống mình, đem về nuôi. Bên trong họ vẫn là những thanh niên thích
đùa nghịch, trong độ tuổi tán tỉnh, thèm cuộc sống bình yên: “Buổi tối,
tớ dẫn tiểu đội đi tuần tra, không hiểu làm sao tớ lại vượt qua biên giới, bị bốn
người bên phía đối phương chụp lấy, tớ trấn tĩnh tinh thần bật dậy, ba chân bốn
tay tả xung hữu đột giữa bọn họ. Tớ chạy đằng trước, họ đuổi theo sau, vừa đuổi
vừa gọi: Này, người anh em, không đánh nhau nữa, đùa với nhau một tí thôi mà!”.
Trong lúc cuống cuồng chạy nấp vào khu chợ biên giới thì thấy: “Những cô gái
bên đối phương và những chàng trai bên ta đang đứng hai bên một con phố trêu
đùa nhau”. Và nêu lên quan điểm rỏ ràng “Đã có quy ước rồi, chúng ta không cho
phép họ sang, tất nhiên chúng ta cũng không được sang bên ấy một cách tùy tiện”
(tr 176).
Thủ pháp nghệ thuật.
Về mặt nghệ thuật, đây chưa phải là tác phẩm hấp dẫn làm say
mê người đọc của Mạc Ngôn, nhưng là một tác phẩm có nội dung “nhạy cảm” cần được
hiểu rõ. Về mặt thủ pháp, xuyên suốt tác phẩm là những hình ảnh ẩn dụ, mỗi chi
tiết Mạc Ngôn đưa ra đều có dụng ý. Ngôn ngữ sử dụng thường mang tính giễu nhại,
hình ảnh đối nghịch, không gian mang màu sắc huyền ảo để diễn đạt không khí hư
hư, thực thực làm lạ hóa cách đọc cho phù hợp với nội dung truyện.
Chỉ với cách đặt tên nhân vật thôi, tác giả đã cố tình dùng
thủ pháp giễu nhại đối nghịch. Những nông dân nghèo rớt mồng tơi không một xu
dính túi đặt tên là Triệu Kim, Quách Kim Khố. Một người lính cừ
khôi Tiền Anh Hào - chưa kịp thể hiện khí phách anh hùng đã chết
ngay khi vừa mới ra trận (ảo tưởng làm anh hùng). Một người lính nhát gan như
thỏ đế, ra chiến trường gối nhũn, tay run nhưng đặt tên La Nhị Hổ. Một hồn
ma mơ mộng, yếu mềm hay khóc - lại tên là Hoa Trung Quang (ảo tưởng về
một đại Trung Hoa bừng sáng)…làm cho người đọc cảm thấy bi - hài khi liên tưởng.
Áp dụng thủ pháp huyền ảo, phóng đại những chi tiết nhỏ, nhà
văn Mạc Ngôn đã cường điệu hình ảnh dòng “nước tiểu” của Triệu Kim từ cành liễu
phóng xuống dòng sông bắn lên như cầu vồng đầy màu sắc, nghe có vẻ cực kỳ hoang
đường, nhưng lại là một sự ẩn dụ cao tay nghề của nhà văn: “Những gì đang
nung nấu trong thân thể tôi lập tức bung ra ngoài, giữa tôi và dòng sông cũng
đã tạo nên một chiếc cầu vồng nhiều màu sắc… những gì cặn bạ đang tích tụ trong
huyết quản, trong thịt da tôi bao năm qua đã bị bài tiết hết ra ngoài. Cảm giác
khoan khoái được bài tiết hết những chất dơ bẩn của cơ thể ra ngoài không thể
dùng ngôn ngữ để diễn đạt được… suốt quá trình bài tiết ấy tư tưởng tôi lại vô
cùng tự do, cảm giác lại vô cùng linh mẫn. Trước mắt tôi, chiếc cầu vồng không
ngừng biến đổi màu sắc, đỏ cam vàng xanh lam chàm tím giao thoa, những màu sắc
của trái đất đều có trong chiếc cầu vồng này (…) Khi chiếc cầu vồng biến thành
màu cam, một điệu nhạc du dương hồn hậu từ dưới dòng sông vang lên, như mây như
khói bay là đà trong không gian…âm nhạc càng mạnh, càng nhanh, chiếc cầu vồng
biến dần từ cam sang màu vàng… từ màu vàng biến thành màu xanh, không khí trở
nên mát mẻ lạ thường… Cuối cùng, một màu chàm cao qúy hiện ra trước mắt tôi khiến
tôi nhận ra từ trong tâm hồn mình tràn ngập một niềm cảm kích và lưu luyến đối
với thế giới này, cuộc đời này.” Để rồi khi ảo giác biến mất, con người trở về
với thực tại. Tôi nghe tiếng Tiền Anh Hào đang phát mệnh lênh: - Cài cúc
quần lại!. - Trở về hàng!. Tôi đứng đối diện với Tiền Anh Hào, nhìn vào mặt
nhau hồi lâu rồi không hẹn mà cùng cười phá lên, cười đến khi nước mắt chảy ra
ràn rụa mới thôi. (tr 63-65) Hình ảnh đối nghịch cầu vồng - nước tiểu, đã
nói lên ước mơ vươn tới tự do, vươn tới điều tốt đẹp của con người nhưng đã bị
thực tế của xã hội, của đời sống quân đội tước đoạt. Đây là một trong những trường
đoạn kỳ ảo, đẹp nhất của tác phẩm, mà Mạc Ngôn đã ẩn dụ thành công.
Xuyên suốt tiểu thuyết là hình ảnh dòng sông bên bờ đê khi lặng
lờ chảy, khi cuồn cuộn xoáy. Dòng sông biểu tượng cho dòng chảy của
thời gian, của lịch sử, luôn luôn thay đổi, nó là sự nối tiếp nhau của các triều
đại. Cây liễu bên bờ sông là chứng nhân của lịch sử nơi chứng kiến ước
mơ của những chàng trai được khắc trên thân cây, giờ đây đã là những linh hồn chết.
“Không hẹn mà chúng tôi cùng lúc tuột xuống khỏi ngọn cây. Trong cành lá rậm rịt,
trong nước lụt nhờ nhờ, chúng tôi tìm tên của Tư lệnh Tiền Anh hào, Lữ đoàn trưởng
Quách Kim Khố, Sư đoàn trưởng Triệu Kim, Trung đoàn trưởng Ngụy Đại Bảo và Chi ủy
thôn Trương Tư Quốc… Những giấc mộng huy hoàng ngày xưa cũ có lẽ đã được ươm mầm
từ trong vòng tuổi của cây, từ trong những thớ cây. Chúng tôi vuốt ve những vết
hằn đã mọc đầy rêu xanh trên thân cây, than thở không nguôi”. (tr 162).
Thông thường, những tác phẩm viết về hồn ma các nhà văn thường
dùng những chi tiết “ma” để gây kích thích người đọc bằng những cảnh tượng âm hồn,
rợn tóc gáy. Ở đây, chúng ta thấy nhà văn Mạc Ngôn cố tình không phân biệt thế
giới người sống và thế giới người chết trong khi miêu tả, có dụng ý để bạn đọc
thấy thế giới ma - người như nhau. Nhằm thể hiện tâm lý tiếp cận một cách tự
nhiên chan hòa. Tựa đề “Chiến hữu trùng phùng” của Mạc Ngôn phản ánh tâm lý đó.
Nhưng, khi Trần Trung Hỷ dịch sang tiếng Việt thành “Ma chiến hữu” nó đánh mất
ý nghĩa này. Và khi NXB Văn Học cho in lời giới thiệu ở trang bìa bốn: “Một
cách ca tụng riêng về chủ nghĩa anh hùng”, theo tôi là một lời đề tựa lạc điệu,
trái ngược hoàn toàn với nội dung Mạc Ngôn thể hiện. Chính điều này gây ngộ nhận
nơi bạn đọc, làm dấy lên nhiều phản ứng mạnh mẽ. Ở đây, Mạc Ngôn không ca tụng,
xưng tụng ai, cũng không có chủ nghĩa anh hùng nào cả, mà thực chất là một tác
phẩm phản chiến.
Qua tác phẩm, Mạc Ngôn đã vượt lên trên chủ nghĩa dân tộc cực
đoan của một quốc gia, để hướng đến tinh thần chung của nhân loại. Chính những
nhà trí thức phản tỉnh này sẽ là cầu nối tương liên giúp các dân tộc hiểu nhau
hơn trên tinh thần nhân văn cao đẹp của con người.
Chiến tranh năm 1979 đã lùi xa, con người có thể chết, nhưng
lịch sử vẫn trường tồn, luôn đối thoại với hiện tại để cùng hướng đến tương
lai. Lịch sử, như một tấm gương, giúp con người cảnh tỉnh để không lập lại sai
lầm của quá khứ.
Có những con người trong hiện tại có thể được tôn vinh như
lãnh tụ anh minh, nhưng với thời gian lịch sử sẽ nhìn lại, họ có thể là những tội
đồ của dân tộc. Lịch sử trong thế kỷ 20 đã có biết bao lãnh tụ - tội đồ như vậy?
Đọc Ma chiến hữu để hiểu hơn về cuộc chiến đã
qua và không loại trừ khả năng lịch sử lập lại về một cuộc chiến mới của một đất
nước luôn nuôi mộng bá quyền. Chúng ta cần hiểu rõ, Trung Quốc năm 1979 và
Trung Quốc ngày nay sau 30 năm đã tiến rất xa. Vì vậy, việc cảnh giác và xây dựng
binh lực hùng mạnh là điều cấp thiết của quốc gia. Trong tình hình biển Đông nước
ta hiện nay (5), việc phân tích tác phẩm là điều cần thiết.
Ma chiến hữu là cuộc đối thoại giữa các linh hồn, cũng
là cuộc đối thoại của một dân tộc với một dân tộc! (6)
Tài liệu tham khảo:
(1) Tiểu sử Mạc Ngôn http://vi.wikipedia.org/
(2) Tranh cãi về “Ma chiến hữu”, có thể đọc trên blog Người buôn gió và blog Hoang Linh.
Thư ngỏ của nhạc sĩ Tuấn Khanh về tác phẩm “Ma Chiến Hữu” của
Mạc Ngôn http://radiochantroimoi.com/;
Bài viết của Bảo Ninh http://phongdiep.net/
Bài viết của Vũ Ngọc Tiến http://www.vietstudies.info/
Bài viết của Hoàng Kim http://www.ddcnd.org/
(3) Lịch sử chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979, tham khảo
trên tự điển http://vi.wikipedia.org.
(4) Mạc Ngôn, Ma chiến hữu, nxb Văn học, 2008.
(5) Tình hình biển Đông Việt Nam hiện nay: - Lê Minh Phiếu, Dương Danh Huy (Quỹ Nghiên cứu biển
Đông), Việt Nam trước chủ trương của Trung Quốc về biển Đông, TuầnViệtnam.net,
ngày 11.1.2009; http://www.tuanvietnam.net/
- Dương Trung Quốc, Cần “cập nhật” tình hình biển Đông
cho quốc hội, BBC ngày 28.5.2009; http://www.bbc.co.uk/
- Ngăn cản ngư dân Việt Nam đánh bắt trên biển Việt Nam là
xâm phạm chủ quyền, báo Sài gòn tiếp thị, ngày 5.6.2009 http://www.sgtt.com.vn/
- 2 tàu cùng 12 ngư dân đảo Lý Sơn bị giữ tại Hoàng Sa:
Bị chặn phạt hơn nữa tỷ đồng giữa biển. Báo Tiền Phong ngày 26.6.2009 http://tienphong.vn/
(6) Lá thư của hai người trẻ, BBC 1.7.2009 http://www.bbc.co.uk/
Trong cuộc đối thoại của hai người trẻ tuổi, một Việt Nam - một
Trung Quốc gửi đài BBC, có đoạn viết: “Biên giới ngăn cách - cũng như kẻ thù - là do nhà nước tạo ra”, “… Trước thềm xung đột, chúng ta tự hỏi ai sẽ chịu đau
khổ?” và họ mơ ước: “Hòa bình trong thực tế luôn là một lựa chọn, và một ngày
kia nó sẽ là lựa chọn duy nhất”.
4.7.2009
Ban
Mai
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét