Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2018

Biển và con chim bói cá 2

Biển và con chim bói cá 2
- IV -
Giống một con trâu kéo cày, con tàu với hai sợi dây cáp hai bên mạn cắm sâu trong nước hun hút, nhoai ra nặng nhọc bền bỉ tiến lên, một công việc mà bác Suất bảo là nó kéo lưới trả nợ ơn người. Chú Hùng bảo tàu đang dắt lưới ở rãnh nhưng nhìn chẳng thấy rãnh đâu mà vẫn là biển cả mênh mông. Chỉ một lần thuộc ca chú Hùng bỗng nhiên tàu mắc cạn mới biết trông thế thôi, chứ biển chỗ ấy cũng không sâu lắm. Con tàu không nhúc nhích được. Không thể cứ đỗ một chỗ chờ nước lên. Hôm nay nước ương nghĩa là không lên không xuống. Bác Sĩ bảo nước sinh con. Bố tôi vào buồng lái. Bác Suất nhanh nhẹn xuống buồng máy. Rẹt rẹt rẹt. Tay chuông kêu liên tục. Máy nổ rầm rầm. Chân vịt quạt nước về phía sau cuồn cuộn, cuồn cuộn đục ngầu. Tất cả đứng ngoài boong, nhìn về phía đuôi tàu lo lắng. Bố tôi quát: Thu lưới. Phải kéo lưới lên để giảm sức nặng cho tàu. Tơi lại hồng hộc hồng hộc cuốn cáp. Rồi đẽn dây đõi là thứ dây cáp được quấn lẫn với dây đay. Nước bùn từ dây đõi miết vào cái pu li bắt trên be tàu chảy xuống boong lái bẩn thỉu. Những chiếc lưới đã treo lủng lẳng ở móc cẩu chìa ra chênh chếch phía đuôi tàu. Nắng. Nắng rát mặt, rát vai. Biển mênh mông lóa mắt. Rẹt rẹt. Con tàu chỉ nhè nhẹ rung khi kéo lưới bỗng run lên bần bật. Tiếng máy gầm vang. Ầm ầm. Hộc hộc. Bàn chân đứng trên boong gần như nảy lên. Luồng nước bùn duỗi mạnh, đạp mạnh, thục vào biển xanh. Nhiều lần như vậy. Mọi người nhìn cả về một hướng theo luồng nước đục ngầu một vùng biển. Con tàu lắc mình quẫy đạp. Bố tôi đánh tay lái sang phải. Đánh tay lái sang trái. Tàu đã hơi nhúc nhắc quay đi quay lại cái mũi. Lùi không được. Tiến không được. Cứ ì ra một chỗ. Nó lại lắc. Lắc mạnh. Tiếng máy vẫn ầm ầm. Bỗng nó rùng mình mấy cái rồi nhoài đi. Tiếng vỗ tay reo hò. Tôi cũng vỗ tay. Con tàu lượn nghiêng nửa vòng và trườn đi, rướn đi, bỏ lại phía sau một vùng nước đục ngầu, một vùng nước cực kỳ nguy hiểm, đè lên những con sóng trong xanh đang uyển chuyển xô tới. Không chết gí một chỗ quẫy đạp nữa, nó duyên dáng lướt trên biển xanh. Tôi thở phào. Nét mặt bố vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra. Bố và chú Hùng lại lúi húi đo đo tính tính trên hải đồ. Hai người đánh dấu chỗ con tàu vừa mắc cạn.
Bố Tích rất thiêng. Vừa nhắc đến đã thấy hiện ra ở cổng chào, cái cổng chào ngăn đôi con đường bê tông dẫn ra cầu cảng, cái cổng chào mà anh thi đua Đỗ Trung Tín cứ có công có việc, ngày lễ lại căng lên đó một tấm khẩu hiệu đỏ tươi. Đó là một người đã có tuổi, gầy nhỏ, tóc hoa râm, cổ lộ hầu, có biệt danh là tay nái thân yêu. Hai tay hai làn nặng, bố Tích đi như chạy.
- Đi đâu mà bây giờ mới về, bố?
- Thì cũng phải đi bát ngát một tí chứ. Thế nào gọi là thủy thủ về bờ. Già cũng vẫn là thủy thủ chứ. Các thủ trưởng cứ yên trí. Xương ninh rồi. Cá nấu rồi. Bún đây. Luộc mực, rửa rau là xong. Cứ yên trí ở tay nái thân yêu này. Còn một tiếng nữa cơ mà.
Tích đã ngoài năm mươi, được cả tàu gọi bằng bố, kể cả thuyền trưởng. Làm việc không chê vào đâu được. Nếu có hội thi cấp dưỡng tàu toàn xí nghiệp, Tích đoạt giải nhất là cái chắc. Khác với phần lớn cấp dưỡng tàu thiên về chém to kho mặn, hoặc chỉ chú ý đến chất lượng cũng như số lượng, bố Tích tay nái thân yêu anh nuôi tàu 414 rất chú trọng đến cách trình bày hoa lá cành cho những món ăn, ví như mực xào bao giờ bố cũng khía những đường chéo nhau trên con mực đã làm sạch rồi mới thái, không thái nhỏ mà thái những miếng hình vuông, khi xào miếng mực cuộn thành những ống tròn, trông thật mê ly. Mỗi khi tàu sắp tách bến, bao giờ trong kho của bố cũng có từng can chíu chương, cả bao hành khô đủ dùng cho hai chuyến biển. Để phòng xa, như bố nói. Cho nên cái món mì tôm bố Tích ăn đứt các thứ phở toàn mì chính là mì chính trên phố. Ngon đến nỗi anh chàng Mai sợ tuột đụt phải són ra thơ: Tôm mì nấu với mì tôm / An vào một bát no luôn dạ dày... Mẻ lưới buổi hừng đông kéo lên, vừa giật đụt xong, bất kể mưa nắng cũng đều thấy bố Tích tay cầm cái rổ đủng đỉnh đi sau lưng anh em đang ngồi nhặt cá, nhòm nhòm ngó ngó, cặp mắt hau háu như quạ nhòm chuồng lợn. Nhiều ít thế nào bố cũng kiếm được khi dăm lạng, nhiều thì cân, hơn cân, đủ các chủng loại: tôm vàng, tôm bộp, tôm he, tôm sắt, tôm tít, bề bề, nhiều khi cả một con tôm hùm kềnh càng nữa. Riêng cái khoản tôm hùm này lúc được nhiều tôm nhỏ bố cũng chẳng tơ màng, bởi lắm khi tranh nhau xảy ra to tiếng, chỉ vì nó là món được nhiều thuyền viên ưa thích. Moi hết ruột, đánh quang dầu vỏ, con tôm hùm khô và rỗng ruột là một thứ trang trí trên tường nhà hấp dẫn, mang nặng đặc trưng nghề nghiệp. Bao nhiêu năm làm cấp dưỡng, bố Tích quen thân với nhiều cửa hàng mậu dịch, cần cái gì bố tay nái thân yêu được hết. Mỡ hiếm thế nhưng khi cần mua toàn mỡ cũng được. Vợ thuyền trưởng đẻ, bố mua chân giò cho thuyền trưởng mang về ninh để vợ ăn cho sẵn sữa cũng được. Không phải xếp hàng. Cứ thấy tay nái thân yêu là cắt thịt ngay. Bố còn bông đùa:
- Các cô ấy trẻ quá chứ không tao cũng tay nái thân yêu rồi.
Cánh thủy thủ trẻ thừa biết bố Tích đánh đĩ mồm. Bố là người chân chỉ hạt bột vào bậc nhất. Tất cả cho vợ con ở quê. Đi biển dài ngày, tiêu chuẩn bia, thuốc lá được cả cây cả két bố đem bán hết. (Bán cho anh em thôi. Đắt ngang giá ngoài, có rẻ cũng chỉ rẻ nửa giá, một giá là cùng). Tàu cập bến Vũng Tàu, anh em lên bờ ăn chơi xả láng, bồ bịch, nhà hàng, bia ôm, karaoke đến khuya, nhiều anh qua đêm, chỉ bố Tích ở nhà cùng với trực ban. Giáp bảo bố:
- Lên bờ đi. Các em Vũng Tàu hay lắm. Ki cóp làm gì. Vua Ngô ba sáu tàn vàng. Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì. Chúa Chổm uống rượu tì tì. Chết xuống âm phủ kém gì vua Ngô.
Tích bảo:
- Tao già rồi.
Anh em nhâu nhâu:
- Bố cứ đi thử một lần xem nào. Càng già càng dẻo càng dai. Còn khối vị già hơn bố nhiều. Tóc bạc trắng hết, không một sợi đen cũng vẫn chiến đấu tốt. Có mà bố tiếc tiền thì có. Bố đi. Con bao.
Trêu quá đà. Bố cáu:
- Tao mà bằng tuổi chúng mày, chúng mày phải gọi tao bằng cụ. Nói thật với các chú chứ lão này con rơi con vãi cũng kha khá đấy.
Tất cả cười ồ khen bố giỏi võ miệng, nhưng rồi sau đó đứng im phăng phắc há hốc mồm nghe. Nghe bố Tích kể chuyện thời gian còn ở bộ đội, thời gian “bằng tuổi chúng mày bây giờ”. Đập lúa giúp dân. Có một cô bé hay quá. Chúng mày biết gái Thủy Nguyên đập lúa rồi chứ gì. Khăn mỏ quạ bịt kín mặt chỉ để hở hai con mắt, chẳng biết già trẻ xấu tốt ra sao. Đập xong, tất cả ra về, chỉ còn tao và một cô ở lại quét dọn, về sau. Đến khi ra cầu ao, cô ấy cởi khăn ra giũ. Ôi trời! Đẹp quá. Má hồng rực, tóc mai dính bết, mắt bồ câu long lanh. Hai đứa xắn quần lội xuống bậc gạch bên dưới. Cô ấy cúi xuống. Tao cũng cúi xuống nhưng chưa vục nước ngay mà còn nhìn sang cô nàng. Hai bắp chân trắng như cá chép ngâm dưới nước. Cô ấy cũng nhìn lại tao cười, má cứ rực lên rồi lại cúi xuống ao, hai bàn tay khum khum định vốc nước lên mặt. Tao mới đưa tay sang xoa xoa vào mặt nước chỗ khuôn mặt cô ấy. Cô ấy cười tủm tỉm, rồi nắm lấy tay tao, giữ chặt không cho tao khỏa nước nữa. Lại còn đưa một tay sang xoa chỗ ao tao đang soi xuống. Trả miếng đấy. Có đi có lại đấy. Ăn chết rồi! Tao cũng nắm lấy tay cô ấy, giữ tay cô ấy lại, bóp một cái thật mạnh. Cô nàng nhăn nhó há miệng ra chiều đau. Chỉ há miệng chứ không kêu thành tiếng. Chà! Cái nhăn mặt ấy mới chết người.
- Thế rồi làm sao?
Cánh thủy thủ trẻ hồi hộp nín thở. Có anh nuốt nước bọt ừng ực.
- Công nhận bố giỏi phịa.
- Kể tiếp đi bố!
Bố Tích thủng thẳng:
- Rồi dắt nhau vào nhà kho ngay cạnh chứ còn làm sao nữa.
- Bố không sợ à?
- Sợ gì mà sợ. Cài then bên trong. Định bụng có ai đập cửa cũng không mở. Với lại cũng phải liều chứ còn biết làm thế nào.
-  Bố nói cứ như thật.
-  Công nhận bố tài bịa.
Bố Tích không thèm trả lời những kẻ hoài nghi chủ nghĩa. Bố nói tiếp một điều đầy sức thuyết phục với vẻ thản nhiên nhất trên đời:
-  Tao còn vớ được ở đấy một hột thóc.
Tất cả reo hò. Đến nước này thì tất cả đều công nhận chuyện ấy đích thị là thật rồi! Mười phần đúng chín chín phần trăm rồi! Thật một trăm mười một phần trăm rồi! Không phải chuyện bịa nữa. Chẳng thể là chuyện bịa. Ngay các nhà văn nói láo nhà báo nói phét cũng không thể bịa được một chuyện như thế! Tuy vậy nhưng khi hết reo hò cũng có anh nói:
- Làm sao có hột thóc ở đấy được. Con không tin. Lời phản đối yếu ớt, càng chứng tỏ anh ta đã tin xái cổ, chẳng qua chỉ muốn bố khẳng định lại một lần nữa cái chuyện hạt thóc ấy. Nên bố Tích cười:
- Không tin thì thôi. Ừ. Chuyện tao bịa đấy mà. Cánh thanh niên nhìn khuôn mặt khinh bỉ của bố, liếm môi hồi hộp:
-  Rồi sao nữa hở bố? Bố đóng quân ở đấy có lâu không?
- Sáng hôm sau đã phải hành quân rồi. Một năm sau mới có dịp quay về.
Bố cứ lửng khửng như vậy. Đúng đến chỗ hồi hộp nhất thì ngưng câu chuyện. Lại phải hỏi:
- Bố có gặp lại cô nàng không?
Bố Tích thủng thẳng:
- Có. Nhưng không phải về đóng quân ở đấy, mà chỉ là đi ngang qua thôi. Tranh thủ cuốc mười cây số, tạt vào gặp lại cô nàng thì cô nàng đã lấy chồng. Cô nàng khóc bảo em bây giờ ván đã đóng thuyền, hạt thóc đã nảy mầm rồi anh ơi!
Cả bọn lại cười, nhìn bậc tiền bối với con mắt kính nể. Hăng lên trước đám hậu sinh há hốc mồm chờ đợi, bố kể tiếp một câu chuyện tình khác. Với một cô gái khác cũng ở Thủy Nguyên trong đợt đóng quân lần thứ hai khi bố bị sốt rét phải nằm lại gần nửa tháng. Cô con gái bà chủ nhà mười bảy tuổi chăm sóc, cơm cháo, giặt giũ, nâng giấc...
- Chúng mày tính thời ấy khó khăn là thế, cơm độn rau má, mà tao muốn ăn củ cải xào, thế là cô nàng chỉ xào củ cải, bao nhiêu lá bỏ lại hết.
Một anh sốt ruột:
- Nhưng đã xơ múi gì chưa?
Bố lắc đầu:
- Người này tính nết đoan trang, mỏng mày hay hạt, tao chỉ ôm mỗi một lần. Rồi cầm tay nhau hứa hẹn thế thôi. Đến khi khỏe rồi thì về đơn vị, mấy tháng sau cô ấy lên thăm, mình đang phải đi tập trung học lớp cải tạo cho anh em xuất thân giai cấp bóc lột, tương lai mờ mịt. Chả ông bố tao trong cải cách bị quy oan là địa chủ. Thằng cha trợ lý chính trị nói với cô ấy là tao phải đi tù hai năm. Cô ấy khóc trở về. Thế mới thương chứ. Bây giờ tao vẫn gặp đấy. Cô ấy lấy chồng ngay Hải Triều này. Một đàn con rồi. Đạp xe qua nhà, cô ấy gọi mình mới biết. Cô ấy bảo: Em vẫn trông thấy anh nhưng hình như anh tránh mặt em hay sao. Có cả chồng ngồi đấy mà nói với các con: Lẽ ra đây mới là bố chúng mày. Các cậu bảo thế có kinh không. Tớ đoán chắc là cô ấy không muốn lấy anh chồng này, nhưng anh chàng cứ lăn vào bám riết. Thế rồi nướng mực khô. Rượu Tây ngày ấy quý lắm cũng đem ra mở. Rồi bảo: Anh uống đi. Mực khô đây. Ngày xưa mực tươi anh không ăn, bây giờ anh ăn mực khô vậy.
Tất cả cười ầm. Mai bảo:
- Bố nhỏ con thế này mà cũng nhiều sức quyến rũ gớm.
- Bố xấu dây tốt củ đấy các cậu ạ.
- Này, con mực tươi của cô ấy khoảng mấy lạng hở bố.
- Cô này bố đã làm ăn gì đâu mà biết mấy lạng. Phải là cô đập lúa chứ.
Thế rồi tranh luận sôi nổi. Người thích cô mực khô. Người chỉ cô đập lúa mới là nhất. Nhưng ai cũng công nhận gái Thủy Nguyên là vô địch.
Bố gật đầu:
- Gái Thủy Nguyên chúng mày đứa nào chưa biết coi như chưa biết gì hết.
Lại Giáp chuyện gì cũng sành điệu:
- Gái Vũng Tàu gọi gái Thủy Nguyên bằng cụ! Nhưng mà bố bịa rồi bố ạ. Làm sao có hột thóc ở đấy được! Con tính đường đi cũng quanh co, vòng vèo lắm chứ.
Anh nuôi Tích không tranh luận. Dường như cực chẳng đã phải cho các chú biết ta từng là người thế nào. Vẫn Giáp:
- Khiếp. Bố mất vệ sinh bỏ mẹ. Vừa đập lúa xong. Mồ hôi mồ kê. Chẳng tắm rửa gì.
Tích cười:
- Bộ đội ngày xưa đánh nhanh rút nhanh, lai vô ảnh khứ vô hình chứ đâu như các cậu bây giờ, thuê phòng rồi toa lét, lắm chuyện.
- Con tin bố. Nhưng chuyện hạt thóc nảy mầm con không tin. Bố có biết điều kiện nảy mầm là như thế nào không?
Bố Tích không trả lời. Cánh trẻ lại cãi nhau, người bảo không được, người bảo được vì nó cũng hội tụ đủ các điều kiện nhiệt độ và độ ẩm. Người bảo đấy là cô gái nói theo nghĩa bóng chứ không phải nghĩa đen, nghĩa là cô ta đã có mang rồi. Đồ ngu. Ai để hạt thóc ở đấy lâu thế mà cũng nói. Rặm. Ngứa chịu sao nổi. Người khẳng định để ở đấy nửa năm thì nó mọc mầm, lên cây, trổ bông ra hạt thật, hạt mẩy thật ấy chứ. Ớ đấy nhiều chất dinh dưỡng lắm chứ. Chỉ không biết nó bắt rễ vào đâu thôi...
Từ ấy mỗi khi trú gió, nằm ngồi ê ẩm, cánh trẻ lại có anh đem bút giấy đến buồng bố Tích bảo bố:
- Bố vẽ cho con đường đi của hột thóc đến đấy xem nào, con thấy nó cũng ngoắt ngoéo lắm chứ.
Tất nhiên Tích không thể biết được bằng cách nào hột thóc lại nằm ở đấy, nên chẳng thể vẽ được. Còn cánh thanh niên mỗi người vẽ một cách, lúc nó đi từ trên xuống, lúc từ dưới lên, lúc lại đi tạt ngang, rồi đem bản vẽ trình bố Tích, cách nào bố Tích cũng công nhận đúng. Có anh còn vẽ một cây lúa trĩu hạt mọc trên một gò đồi cỏ mọc um tùm mang đến Kính tặng bố Tích một kỷ niệm xưa như chữ đề dưới bức tranh. Bố Tích cười không nhận. Anh ta dán bức tranh lên bảng đen treo ở câu lạc bộ khiến ai đi qua cũng phải dừng lại xem. Lại có anh đang ngồi nhặt cá trên boong, thấy bố Tích cắp rổ vè vè đi quanh kiếm tôm nấu mì liền quăng cho bố một con mực nang to bằng cái quạt nan, bảo bố:
- Mực tươi của bố đây. To khủng khiếp luôn. Mực thế mới là mực. Bố ăn không hết thì cho anh em mỗi người mấy miếng. Đừng cố, bội thực đấy. Ăn tham một mình không được đâu.
Bố Tích chỉ cười, xách con mực vào bếp xào cho cả tàu.
Hôm nay đặt hai cái làn thức ăn vừa mua về, anh nuôi Tích chân năm tay mười và đúng như Tích nói: Xong ngay. Vẫn còn đủ thời gian lên căng tin tay nái thân yêu chai rượu mùi dù khi đi chợ về, trong chiếc làn Tích xách đã có một can cuốc lủi.
Cabin buồng lái được dùng làm nơi tiếp khách ăn trưa. (Ớ dưới phòng ăn nhếch nhác quá, vừa gần hầm cá, lại người ra người vào). Đó là một khoảng không gian mà chiều dài vừa bằng chiều ngang của thân tàu, trừ đi hai hành lang hai bên, chiều rộng chừng hai mét, ở giữa buồng một cái vô lăng to bằng gỗ, bên trái một cái rađa, một cái tay chuông hoen rỉ vì gần như không được sử dụng, còn bên phải là cái tay chuông khác giống hệt tay chuông bên trái cũng bằng đồng thau nhưng sáng bóng lên khiến nó hơi có sắc xanh vì luôn được tay người nắm đến. Một thau men canh chua cá song. Một khay mực ống luộc, một thau men rau sống. Một bát chíu chương. Chanh. Và ớt. (Bố Tích không có thời gian tỉa tót, bày biện các món ăn. Với lại bố biết rằng với các ông trên bờ quanh năm đói, quanh năm thèm, thì cứ làm sao thật chất, thật nhiều là được. Ăn kiểu thủy thủ thô mộc như thế này họ lại thích. Mà đúng thế thật. Chỉ trông cũng đã chảy nước miếng rồi. Chất lừ). Chậu cá song nấu chua, cá nhiều hơn nước, mà nước cũng đặc sệt, những tảng cá song nổi lên, lớp da xám ôm lấy lớp thịt trắng nõn giữa những miếng cà chua đỏ hồng thái lát. Cái khay tráng men tròn vẫn dùng để đựng ấm chén uống nước đầy lùm lùm những con mực luộc hồng hồng, tròn xoe, hai vi chạy dọc hai bên lườn, xòe ra đều đặn rất giống những quả tên lửa xòe cánh trên bệ phóng, phía đuôi múp nhọn, phía đầu bung ra những cái chân và hai cái râu rất dài, dụng cụ săn mồi của chúng khi còn sống. Tất cả nghi ngút khói.
Tàu vẫn sản xuất quanh vùng biển Trà Sơn. Mười mấy mẻ lưới không mẻ nào giống mẻ nào. Trong nhật ký khai thác, chú Hùng chỉ ghi vắn tắt:
-  Mắc rạn, đứt xích, phát hiện được.
-  Quấn đụt. Tôm không vào.
-  Rách lưới.
-  Vục bùn. Đứt xích.
-  Hai lưới bên phải quấn nhau. Không được gì.
-  Lưới bên trái toàn ốc.
-  Bị gãy số tám xoay. Mất hai ván hai lưới.
Sản lượng thật bấp bênh. Mẻ năm mươi ký, mẻ bảy mươi kí, mẻ kí rưỡi, mẻ không được kí tôm nào.
Bác Sĩ bảo: Nghề này là người dương gian làm việc âm phủ. Chẳng biết thế nào mà chắc.
Một con chim bói cá không biết từ đâu bay tới gần tàu. Không hiểu sao nó bay đi xa thế. Từ ngày đi biển tôi cứ mong gặp chim hải âu mà không thấy. Thứ chim đặc trưng của biển mà tôi khao khát. Mong chim hải âu lại thấy chim bói cá. Chỉ có một con. Nó chao đi lượn lại gần tàu như thử sức với biển. Trên biển mênh mông không một cánh chim, trừ nó. Nó bay tít xa, hút tầm mắt rồi lại bay lại. Bỗng nhiên nó chắp cánh lao nhanh xuống biển rồi bay lên, mỏ ngậm một cái gì trăng trắng vút qua thân tàu, thẳng hướng về phía tây in hình một vệt cây cối xanh đen. Phía ấy là tổ ấm, là đàn con đang mong. Không biết đây là con chim bố hay con chim mẹ. Quê tôi cũng có nhiều chim bói cá. Không to như con chim này và cũng không bay như con chim ở đây. Chim bói cá quê tôi cứ đỗ im lìm như ngủ lịm trên một cành vối mọc chìa ra ao. Thế rồi từ cành cây nó lao vút xuống nước rồi bay lên, trên mỏ thế nào cũng ngậm một con cả nhỏ. Con chim bói cả ở đây kiẽm ăn vất vả quá. Còn đang suy nghĩ vẩn vơ thì con bói cá lại bay đến gần tàu. Nó đã về tổ, cho con ăn xong rồi sao? Hay một con chim khác. Lần cuối cùng nhìn thấy con chim bói cá là lúc mặt trời đã lặn. Nó ngậm con cá mới bắt được từ biển khơi bay mải miết về phía tây. ơ đó một góc trời mù mịt tối sầm. Bay nhanh chim ơi không lại gặp mưa giữa đường. Tôi nhìn về đằng tây, nơi con chim bói cá bay tới, một cơn mưa đang lập. Chớp càng làm rõ hơn những màn nước đang trút xuống và những đám mây đen hình thù kì dị đầy vẻ hung dữ hăm dọa. Nơi ấy là mưa, là dông, là làng. Không biết quê tôi có mưa không. Mẹ đang nấu cơm đây. Cái Ngàn chắc đang quét sân. Tự nhiên tôi nhớ nó quá. Tôi nhớ cả con lợn giờ này chắc đang hộc lên đòi ăn. Mẹ lúc nào cũng vất vả. Tôi thương mẹ và yêu mẹ vô cùng. Còn mẹ lại thương chúng tôi. Và mẹ thương bố lặn lội sông nước biển cả vì ba mẹ con tôi. Giống con chim bói cá ngậm con cá nhỏ vừa bay từ biển vào bờ.
-  Nào. Xin mời ở như các cụ.
Anh chàng Đỗ Trung Tín thi đua dường như không thể chờ đợi lâu hơn được nữa. Anh ta rót rượu và cầm lấy đũa.
-  Ăn đi. Các bác ăn đi.
Cương và Bôn cùng giục. Ngồi quanh mâm hôm ấy chỉ có bốn khách và hai chủ. Khách gồm trưởng phòng khai thác, phó tiến sĩ Trần Văn Dưỡng, trưởng phòng kỹ thuật Nguyễn Minh Thưởng, trưởng phòng điều độ Phạm Đức và anh thi đua Đỗ Trung Tín. Chủ là Bôn và Cương.
- Nâng cốc chúc thuyền trưởng, đại phó.
Tất cả đều cạn chén. Tín múc một bát nước canh chua, thứ nước cánh trên bờ vẫn bảo nhau bổ hơn bất cứ một thứ nước sâm nào, làm một hơi, chép chép mồm:
- Món này được lắm các vị ạ. Tỉnh người.
Rồi múc tiếp bát thứ hai. Đó là kinh nghiệm của Tín. Uống nhiều canh chua. Rồi hãy uống rượu. Sẽ uống được nhiều rượu hơn.
Mỗi người khách múc vào bát mình một muôi nước canh chua và xắn một miếng cá song phần nạc nhất, thịt trắng như lườn gà. Thuyền trưởng gắp một miếng đầu cá song bổ tư, được chặt rất khéo bằng những nhát dao điêu luyện của Tích:
- Bọn tôi đi biển ăn nhiều cá nên chỉ thích mút mát cái đầu. Ăn đầu ăn được nhiều. Ăn thịt nó xác, chóng chán, cố lắm cũng không nổi nửa khúc.
Câu chuyện xuất khẩu cá đá vẫn là đề tài trong lúc ăn. Ai cũng thấy đó là một hướng đi tuyệt vời. Tuy nhiên trưởng phòng kỹ thuật Nguyễn Minh Thưởng vẫn dè dặt:
- Không đơn giản đâu. Trên lý thuyết, trên tính toán thôi. Còn nhiều khó khăn lắm.
Dưỡng cũng thấy như vậy. Đó chỉ là một thử nghiệm, hơn thế, anh còn biết những gì ẩn đằng sau chủ trương ấy của tổng giám đốc. Nhưng anh im lặng. Mấy năm gần đây anh đã tập được thói quen im lặng như Mơ dặn anh. Thưởng là người anh tin. Đức thì không. Tín lại càng không. Im lặng là vàng. Im lặng sẽ tạo điều kiện cho anh thay đổi chỗ đứng, nghĩa là thay đổi cuộc sống hiện nay.
Thi đua Tín đúng là người động viên thi đua:
- Khối tàu 600 (mã lực) mà đi nước ngoài thì dễ đến non nửa thuyền viên được đi nước ngoài còn gì nữa. Quyền huynh thế huỵch. Mấy ông anh ngồi đây toàn trưởng phòng thế nào chẳng được đi.
Đức bảo:
- Ông là người trước tiên phải đi. Tôi nói phải đi chứ không nói được đi đâu nhé. Ông phải đi để động viên thi đua, động viên phong trào.
Dưỡng định nói bên ấy không có thi đua đâu, nói đùa vui thôi vì ai chẳng biết như vậy, nhưng anh đã kìm lại được. Tín cười:
- Thì các ông anh quyền huynh thế huỵch giúp đỡ thằng em...
Cương ngồi ngoài, giáp với cửa ra vào, đứng lên ngồi xuống. Anh vẫn không quên nhiệm vụ trực ban, luôn phải đảo ra phía sau, nhìn xuống miệng hầm cá lúc này khá đông người. Trưa rồi. Đã đến giờ cao điểm của công việc xin cá, của những đội phượng hoàng bay, nghĩa là dân ở địa bàn quanh xí nghiệp, cả đàn ông, đàn bà, trẻ con người lớn. Tiếng đồng chí bảo vệ quát:
- Lui. Ai không có nhiệm vụ lên bờ.
- Cương ơi. Ra xem tí đi.
Cương chạy ra lan can. Quanh miệng hầm là mấy cô công nhân phân xưởng lưới và rất đông dân Cầu Đỏ. Anh tụt xuống chiếc thang dốc đứng được hàn liền vào thành cabin, bước tới miệng hầm, nói với mấy chị công nhân quen:
- Thôi. Các chị ơi. Để khi khác. Bốc cá xong đã. Tàu có dành riêng một ít bồi dưỡng chị em phân xưởng.
Anh nói như van nài. Bởi anh rất hiểu cuộc sống khó khăn của chị em. Rồi anh cao giọng:
- Tất cả mọi người ai không có nhiệm vụ lên hết!
Không ai nhúc nhích. Cương cũng biết trước tác dụng của những câu nói như vậy. Nói để mà nói. Và khi có ai nhặt dăm con nục hay hai con bạc má hoặc vài con phèn, con sơn mỡ chỉ vàng cho vào thùng đồ nghề cờ lê mỏ lết hoặc gói vào giấy báo, vào ni lông, vào nắm giẻ lau đầy dầu mỡ cầm trong tay, anh cũng làm như không biết. Chẳng riêng anh. Cả đồng chí bảo vệ cũng làm như không biết. Miễn là người bảo vệ có lương tâm.
Người bảo vệ ca sáng trên tàu 414 là một người có lương tâm.
Trong buồng lái bữa ăn vẫn tiếp tục. Trưởng phòng khai thác Trần Văn Dưỡng là người đầu tiên tấn công vào món mực ống luộc. Dưỡng còn được gọi là Trần Văn Bơm - phụ danh của thằng con trai anh. Trong thời gian chiến tranh bắn phá, anh về thăm vợ ở nơi sơ tán và không thể nào gần vợ được vì ông bà chủ nhà vợ anh ở thuộc loại phong kiến đặc sệt, hai vợ chồng đành phải rủ nhau ra ngoài trạm bơm với danh nghĩa chúng con đi chơi mát một tí, trong này nóng quả và yêu nhau ở đấy. Kết quả cuộc làm tình vụng trộm chớp nhoáng bên những ống bơm nước bằng gang uốn cong cắm thẳng xuống bờ sông và nơm nớp sợ dân quân du kích hoặc ai đó bắt gặp đòi làm biên bản, muốn kéo dài nhưng lại phải kết thúc cho nhanh ấy là một đứa con trai. Anh đặt tên con là Trần Văn Sinh nhưng mọi người đều gọi nó và gọi luôn cả anh là Trần Văn Bơm.
Ba ông khách còn lại cũng nhanh không kém. Cầm con mực hồng hồng bốc khói lên. Xé hai cái vi hai bên lườn nó như hai cánh tên lửa đi. Rút những đầu những mắt những râu những chân xòe như một bông hoa đi. Chú ý bọc mực - thứ vũ khí thoát hiểm của nó khi còn sống - đen sì giữa những tua lòng ruột. Rồi rút cái lá mỏng như lá lúa trong suốt dọc sống lưng nó ra. Xương của nó đấy. Mai của nó đấy. (Giống mực ống không như mực nang mai dày và xốp). Cuối cùng là bóc lượt da mỏng hồng hồng nâu nâu của nó. Con mực giờ đây là một cái ống trắng nõn mịn màng, ấm nóng, cứng cứng mềm mềm. Nom thật hấp dẫn, thật mê li. Quệt con mực vào bát chíu chương. Đưa lên miệng cắn. Sựt. Đẫy mồm đẫy miệng. Nước luộc đọng trong bụng mực trào ra. Bỏng cả mồm. Nhai cho cái vị ngòn ngọt thơm thơm dẻo dẻo của miếng mực dập ra nhuyễn ra áp vào hàm, cho vị cay của tương ớt ngấm vào lưỡi, vào chân răng cho ấm lưỡi ấm chân răng. Rồi nhặt ngọn ngổ, ngọn húng đưa lên miệng cho tất cả hòa quyện vào nhau trôi tọt xuống cổ. Xong đâu đấy chiêu một ngụm rượu. Không. Rượu chanh quốc doanh không ngon. Phải là cuốc lủi cơ.
- Trương Xá chính cống đấy các cụ ạ. Rượu này đốt cháy đấy.
Tín nói vẻ thành thạo. Bữa ăn nào dưới tàu Tín cũng có vẻ thành thạo ấy. Thành thạo, tự nhiên và thân mật, như giữa mình và chủ nhân có một mối quan hệ đặc biệt thân thiết, còn những người kia chỉ là khách lạ. Ây cũng bởi Tín biết rõ vị trí của mình trong đám khách. Bao giờ ngồi quanh bữa rượu do thuyền trưởng các tàu vừa cập bến tổ chức như thế này cũng là các trưởng phó phòng, khi phòng này khi phòng khác tạt ngang qua, chỉ có Tín là nhân viên trơn, đã thế lại còn rất ít khi vắng mặt. Tín biết nhiều người đã nói về chuyện ấy, chuyện “không tuần chay nào không có nước mắt” của anh, nhưng anh không thể nào cưỡng lại được khi nghĩ đến những đĩa mực xào, mực luộc, những khay tôm, những chậu men cá nấu chua nghi ngút khói. Và rượu. Nhất là rượu. Rượu trắng đựng trong can. Rượu Vân, rượu Trương Xá chai nọ tới chai kia. Rượu quốc doanh xanh nhạt, hồng tươi trong vắt. Uống vô tư. Uống thả sức. Uống không phải nghĩ chén này là chén thứ mấy. Uống không cần nhìn chỗ còn lại trong chai. Uống không phải nghĩ đến đồng lương bị lẹm vào, đến đồng tiền phải bỏ ra. Cả nhà anh nghiện rượu và anh cũng nghiện. Nghiện từ khi còn đi học. Đã có những buổi anh đấu rượu với cánh dưới tàu. Càng uống nhiều càng được vỗ tay hoan hô tán thưởng... Để bù lại những ngày nhịn thèm nhịn nhạt, ra quán nước ngã ba một nghìn hai chén rượu lờ lờ nhạt thếch chua loét. Cứ chèm chẹp cái mồm mà không dám uống thêm vì đồng lương có hạn.
Bôn nhặt cái đầu râu mực các vị khách bỏ lại trên khay cho vào bát của mình:
- Ăn cái này ngon. Ăn được nhiều. Không chán. Ăn mình mực chẳng mấy chốc mà ngán. Không ăn được nhiều đâu.
Bôn vừa nói vừa cười. Anh cố gạt đi hình ảnh vợ đang cúi cúi tìm cái gì đó, eo thắt lại, mông tẽ đôi ra dưới lượt vải xa tanh. Bôn hỏi mấy vị thực khách: “Được không? Được không?” Và hướng dẫn các ông khách một chỗ ngon nữa của con mực: Cái đuôi của nó. Cái đuôi nhòn nhọn hình đầu tên lửa của nó. “Nó giòn. Ăn không ngán”.
Tín cắn cái đuôi. Giòn thật. Nhưng có cát. Tín thành thật:
- Tôi là cứ ăn mình. Ăn mình cũng ăn được nhiều. Còn lâu mới ngán.
Rồi tay bốc một con mực khác, miệng công bố một nguyên tắc:
- Ăn mực ống luộc dứt khoát phải năm binh mới ngon các thủ trưởng ạ.
Đó cũng là một chân lý đã được thừa nhận lâu rồi. Tất cả đều lấy tay mà bốc, mà bóc mà chấm chíu chương rồi đưa lên miệng. Chẳng mấy chốc mười đầu ngón tay đen sì, môi đen mép đen, hai hàm răng cũng đen. Lắm khi má cũng đen. Nước đen nóng hổi chảy xuống đến tận khuỷu rỏ giọt làm ố cả tay áo sơ mi. Đó là những bọng mực bị vỡ, đọng trong bụng con mực.
Tín lại làm ra vẻ thạo:
- Ăn mực phải có tí bọng mực đen đen vỡ ra mới ngon mới ngọt. Mực làm kỹ, trắng phau, ăn nhạt thếch.
Cái vẻ quá thân mật, thành thạo của Tín làm Dưỡng nhăn mặt. Anh cố giấu vẻ khó chịu, quay sang hỏi Bôn về tình hình khai thác, và thông báo cho Bôn biết năng suất của các tàu đang đánh cá ở các khu ô khác nhau. Ngồi ăn với Tín là một điều anh không muốn. Nói thẳng ra, anh luôn coi khinh anh cán bộ thi đua xuất thân từ một anh giã giò này. Anh luôn ý thức được sự khác nhau giữa anh và Tín. Một bên là phó tiến sĩ tốt nghiệp loại ưu ở Liên Xô, đã có những bài in trong sách giáo khoa ở trường đại học với một bên là một người viết cái tin trên bảng đen chưa xong, sự khác nhau giữa một trưởng phòng khai thác hàng hải và một anh nhân viên có cũng được, không có cũng xong, làm toàn những việc vô bổ, giữa một người nói năng bỗ bã nhưng được coi là thành phần cơ bản, hơn nữa còn là đảng viên, với một phó giáo sư phó tiến sĩ xuất thân quan lại (ông nội anh là tri phủ) ngoài bốn mươi vẫn còn bạch vệ. Cái áo len dài tay quý thì quý thật nhưng anh bật cười khi thấy Tín mặc nó trên người lại nói thêm về người đan ra nó với một giọng đầy vẻ tự hào:
- Cái áo này do một bà cỡ trưởng phòng sở đan cho đây.
Không. Phải nghe chính Tín nói câu ấy cơ. Chữ cd và chữ sở được nhấn mạnh, được kéo dài với cái cằm dưới đưa ra, nghe như cddd, sssở.
Trước đây Dưỡng không có một ý niệm gì về Tín. Anh bắt đầu làm cái việc so sánh giữa hai người khi Tín phản đối việc kết nạp anh vào Đảng. Tín là đảng viên sinh hoạt trong chi bộ khối cơ quan. Là đối tượng phát triển Đảng, Dưỡng đã được đưa ra lấy ý kiến biểu quyết trong chi bộ để kết nạp, nhưng cái câu phát biểu của anh về kế hoạch năm, về sản lượng cá Vịnh Bắc Bộ trong lúc trà dư tửu hậu đã làm hỏng tất cả:
- Một vạn tấn cá năm là không thể đạt được. Tôi lấy đầu ra cược với bất kỳ ai kể cả bộ trưởng. Giám đốc cứ bảo sản lượng cá Vịnh Bắc Bộ là một triệu tấn. Có be bờ tát cạn bắt từ con cá ót liệt bắt đi thì may ra được!
Mơ cho anh biết chính Tín là người nêu ra câu nói của anh trong hội nghị chi bộ, một phiếu phản đối của Tín đã khiến anh phải kéo dài thời gian thử thách, để đến đợt sau.
Đã mấy lần có sự thuyên chuyển đề bạt trong hàng ngũ giám đốc, phó giám đốc, nhưng cấp trên không nghĩ đến anh. Chính anh cũng không nghĩ đến anh. Bởi một lẽ giản đơn: Anh chưa phải đảng viên. Anh đã hiểu được sai lầm của mình. Anh hiểu cái tác hại ghê gớm của việc nói sự thật cũng như hiểu sức mạnh của một đảng viên như Tín. Và anh thực hiện triệt để nguyên tắc “Im lặng là vàng”. Càng thi hành triệt để hơn khi anh thấy tất cả bạn bè, cả những em út của anh đều đã là những vụ vị, những tổng giám đốc, bét nhất cũng là chủ nhiệm, không ai còn là một trưởng phòng quèn như anh, nghèo như anh. Anh im lặng trước tất cả, lại càng im lặng trước Tín. Anh thận trọng với tất cả. Với Tín lại càng cẩn trọng. Nhất là đang trong thời gian thử thách thêm.
Sau một thôi một hồi giáp chiến, hăng hái, nhiệt tình và đã cảm thấy lưng lửng dạ dày cũng như đầy ắp chất bổ trong người, không ai bảo ai, tốc độ cùng chững lại. Bây giờ mới là lúc vừa ăn vừa bày ra những trò vui cho ngon miệng. Trưởng phòng điều độ Đức, chọn một con mực, cẩn thận rút râu, xé vây, bóc da, nhòm vào bên trong con mực một lần nữa rồi đưa mời Tín:
- Mời trưởng ban thi đua. Con này ngon lắm.
Cảnh giác, Tín cũng nhìn phía trong con mực trắng nõn:
- Cái gì thế này?
Anh nói và bóp mạnh con mực, một thỏi mềm mềm, trắng ngà trào ra. Anh nặn cho nó ra hết. Đức cười:
- Cái này tốt lắm, sao không ăn. Tinh trùng mực đấy bố ạ.
Ăn chứ. Nhưng chỉ ăn mực, không ăn tinh trùng mực. Và vẫn uống. Mực ngon như thế bổ như thế làm sao không ăn. Rượu ngon như thế nhiều như thế làm sao không uống. Vừa uống rượu vừa uống nước canh chua cá song. Rượu nóng và cay trôi qua họng khiến thèm một chút nước chua chua ngòn ngọt. Nước canh vừa chua vừa ngọt lại làm thèm một chút nóng nóng cay cay. Lại ăn. Ăn cá. Ăn mực. Ăn một bữa cho cả tuần, cho cả tháng. Tín đã ăn hết con mực Đức đưa. Vừa xong, Đức đã chuẩn bị sẵn sàng và chìa cho Tín một con mực khác, cũng đã rút đầu, bóc da. Vẫn còn đủ tỉnh táo, Tín lại nặn, lại bóp con mực. Từ bên trong con mực lại trào ra một thứ đằng đặc vàng vàng như lòng đỏ trứng, quanh quánh chứ không nhũn như lần trước. Đó là trứng mực.
- Cái này ngon lắm sao không ăn. Bổ âm. Bổ dương. Món kia khỏe lắm đấy. Ăn xong về Thủy Nguyên cho bà ấy biết thế nào là sức mạnh.
- Thôi để phần ông. Ăn cái này đẻ con trai đấy. Nhà ông ba vịt giời, ông ăn đi. Nhà tôi hai thằng mũ gậy rồi.
Chỉ là những câu đùa vui nhưng không khí đã có vẻ hơi căng. Bôn hiểu những gì ẩn sau câu nói của hai vị thực khách. Bôn biết, mấy vị khách ngồi đây không thích Tín, nhưng anh hiểu tầm quan trọng của Tín, cũng như tầm quan trọng của bất kỳ người nào thuộc khối phòng ban. Đừng để một ai ác cảm với tàu mình, trong hoàn cảnh sản xuất gặp rất nhiều trục trặc khó khăn này.
Bôn đỡ con mực trong tay Tín, đưa lên miệng nhai rất ngon lành. Tín lại múc một muôi nước canh chua, cái thứ nước ngon hơn bất cứ một thứ nước dùng phở nguyên chất nào, thứ nước có thể làm cho người ốm sắp chết tỉnh lại. Anh uống cạn một chén rượu, chiêu một bát nước canh. Và tự chọn cho mình một con mực khác. Cũng rút đầu, lột da, xé vây và nhòm vào bên trong con mực. Rồi đưa lên miệng cắn. Ngon. Bình thường như những miếng mực khác. Nhưng đến miếng thứ hai thì cắn mãi mới đứt. Sao thế nhỉ. Con mực này có xương à?
Nhai. Ráp rô cả miệng. Nhè ra lòng bàn tay: Bên trong khoanh mực anh cắn là một khúc cá phèn với cả đầu, cả xương và vảy cứng, kết quả của cơn hoảng loạn khi chúng sa đụt lưới.
Tín bước ra cửa cabin, vất cái thứ ở lòng bàn tay xuống sông và trông thấy Cương đang đứng cạnh miệng hầm.
- Đại phó. Vào đây làm với anh em tôi một chén.
Rồi trở vào rót từ can ra một chén rượu đầy. Nâng chén rượu đầy tràn lên ngang mày, chân bước những bước chậm chạp, hơi chéo bên nọ chéo bên kia như trong những buổi tế tửu ở sân đình, Tín đi ra phía cửa buồng lái, nơi anh vừa từ đấy đi vào và cất tiếng gọi Cương. Từ miệng hầm cá, thấy vậy, Cương leo thoăn thoắt lên boong và bước tới đỡ chén rượu trong tay Tín. Anh thò đầu vào:
- Mời các anh. Em xin phép còn phải trực ban ở ngoài này.
- Em ăn rồi. Tranh thủ lùa bát bún với chúng nó ở dưới kia rồi. Đã có thuyền trưởng tiếp các anh. Em xin phép.
Cương cạn chén rượu và đưa trả chén cho Tín. Suốt lúc Cương đưa chén rượu lên miệng và từ từ uống cạn, Tín cứ đứng ngây ra nhìn Cương uống từng hơi, cổ họng Tín đưa lên đưa xuống nhịp nhàng theo từng ngụm rượu Cương nuốt như rượu đang chảy qua họng Tín. Và khi Cương kết thúc chén rượu bằng một tiếng khà, Tín cũng khà một tiếng rõ dài.
... Tất cả đã say. Trừ Bôn. Đức nhìn Bôn rồi lại nhìn Dưỡng:
- Ăn thế này mà không gặp nhau ở máy bơm thì gay đấy ông Dưỡng ạ.
Dưỡng gật gù:
- Một mình mình còn đỡ. Hắn mà cũng được ăn thế này mới gay. Cam đoan hắn không cho mình dẫn ra đến trạm bơm ven đê. Mà cũng chẳng có thằng Bơm. Chỉ có thằng Sân thôi. Trần Văn Sân. Ớ ngay sân. Chẳng thể bước quá sân nhà chủ.
Bôn cười nghĩ đến cái khao khát của mình được gần vợ. Anh nhớ tới kết luận có tính chất khoa học của anh em dưới tàu về cái thói ấy của những chàng nhải biển: Ăn uống toàn những thứ chất lừ thế này thì phải vậy chứ. Cứ xem các bố dân chài, có bố nào ít con không?
Đức chép chép miệng “ngon” và ghé vào tai Tín:
-  Chủ tịch hội đồng thi đua ăn có ngon không?
- Đừng có cho thằng này đi tàu bay giấy. Chủ tịch hội đồng thi đua là giám đốc. Ử... ử...
-  Thế thường trực hội đồng thi đua ăn có ngon không?
- Thường trực hội đồng thi đua là chủ tịch công đoàn. Ử Ử Tôi chỉ là thằng thi đua chuyên trách. U ử...
Những tiếng ử ử gầm gừ trong họng vọng ra khi Tín mím chặt môi nghĩa là Tín đã say lắm rồi. Dưỡng, Đức, Thưởng cùng phá lên cười. Dưỡng nói thêm:
- Tưởng là thường trực hội đồng thi đua, hóa ra chỉ là thi đua chuyên trách thôi à?
Chắc chắn Dưỡng say, nên anh đã không “im lặng là vàng được”. Nhưng vừa nói xong, lập tức anh tỉnh rượu. Trí óc trở lại mẫn tiệp và hiểu ngay rằng mình vừa phạm sai lầm. Một sai lầm nguy hiểm có thể biến tất cả những cố gắng im lặng trước đây thành công dã tràng. Anh vội cầm can rượu rót cho Tín một chén đầy. Một trăm phần trăm. Phải là một trăm phần trăm phiếu ủng hộ. Anh nghĩ vậy và chạm cốc với mọi người:
-  Một trăm phần trăm!
Đức vẫn tiếp tục câu chuyện với Tín:
- Nhưng mà tôi hỏi thi đua chuyên trách ăn có ngon không?
-  Ử ử... ngon.
-  Có ngon hơn giò không?
-  Ử ử ngon hơn giò.
-  Giò bộ đội cơ mà.
Tất cả cười. Dưỡng cũng cười nhưng đã kịp mím chặt môi lại. Tín trừng mắt:
-  Tức là giò Tìu chứ gì?
-  Đúng rồi! Giò Tìu!
- Giò thằng này giã chứ gì. Ngon hơn làm sao được. Giò Tìu nổi tiếng cả Bộ Tư lệnh. Tư lệnh xuống thăm đơn vị nào là trưởng phòng hậu cần cử thằng này ử ử đi trước. Ử ử xuống trước. Cho nên cứ thấy giò Tìu xuống ử ử hôm trước là y như rằng hôm sau tư lệnh xuống thăm đơn vị. Mình xuống nhưng không được ử ử ló mặt ra để tư lệnh thấy. Tư lệnh nhìn thấy là cắt suất, là kỷ luật ử ử là đi chiến trường đấy bố ạ.
Tín cười bè nhè. Khi say, việc quan trọng cũng biến thành bình thường. Khi say Tín đã nói toạc ra tất cả những điều ai cũng biết mà Tín vẫn còn giấu dầu cũng ngờ ngợ có lẽ mọi người đều biết cả rồi.
- Giò Tìu chính là thằng này. Tìu là tên bố mẹ đặt cho. Chẳng có gì xấu...
Tất cả reo hò trừ Dưỡng. (Anh đã hoàn toàn tỉnh rượu và biết mình phải làm gì). Bây giờ họ đã được nghe chính mồm Tín nói ra điều bí mật ấy. Nhà Tìu ba đời làm nghề mổ lợn. Mổ lợn và làm giò chả. Học xong cấp 2, Tìu đi nghĩa vụ quân sự. Huấn luyện ba tháng. Chuẩn bị đi B. Trước khi đi, đơn vị mổ lợn liên hoan, có cả bộ tư lệnh xuống dự. Tìu trổ tài giã giò. Món giò lụa ngày ấy người ta chỉ nói đến chứ ít khi nhìn thấy, lại càng ít khi được ăn. Mâm cỗ có giò. Một khoanh giò lụa mịn màng, phía ngoài xanh, phía trong phơn phớt hồng, chỉ trông cũng đã xuýt xoa:
- Ớ đâu ra giò thế này?
Tư lệnh hỏi. Tham mưu hỏi. Chủ nhiệm hậu cần hỏi. Sau bữa ăn chủ nhiệm hậu cần trực tiếp gặp Tìu. Và bàn bạc với ban chỉ huy đơn vị. Một quyết định vào giờ chót Tìu không ngờ đến. Chẳng riêng Tìu. Tất cả đều không ngờ. Tìu được điều về bộ tư lệnh. Danh sách đi B năm ấy và những năm sau không có Đỗ Văn Tìu.
Từ ấy, các sĩ quan trong bộ tư lệnh và cả các sĩ quan các quân chủng bạn đóng gần đấy đều được thưởng thức món giò lụa Tìu làm. Trong những buổi liên hoan hoặc hội nghị, người ta hỏi nhau: “Có giò Tìu đấy hở?” Cái tên giò Tìu bắt đầu từ đấy. Giã giò, liên tục giã giò, Tìu đã được kết nạp Đảng và đeo tới quân hàm chuẩn úy. Chuẩn úy giã giò là kịch cỡ rồi. Tìu xin chuyển ngành. Trong bộ tư lệnh có nhiều cán bộ quen biết ngoại giao rất rộng. Họ thích món giò Tìu nghĩa là có cảm tình với Tìu. Vài lần đi về xí nghiệp của một đại tá, việc chuyển ngành của Tìu đã được giải quyết. Mặc dù học lớp 7 dở dang, viết một cái văn bản không nên thân, Tìu được Quốc doanh đánh cá Biển Đông nhận về làm thi đua, khi anh cán bộ thi đua cũ, đã tốt nghiệp trung cấp đánh cá nhất định nằng nặc đòi xuống tàu, để được thực hành những kiến thức đã học trong suốt ba năm mài đũng quần trên ghế nhà trường. Trong quyết định chuyển Tìu về quốc doanh đánh cá, Tìu không còn là Tìu nữa. Không phải Đỗ Văn Tìu mà Đỗ Văn Tín. Nhưng trong các văn bản Tìu viết trình giám đốc, Tìu ký tên là Đỗ Trung Tín.
Tín lại xắn một miếng cá song. Tất cả có vẻ uể oải rồi. Mực không ngọt nữa. Cá song thì bã. Rượu thì ơn ớn. Nhưng vẫn cố ăn. Gắp miếng cá vào bát, Tín lờ đờ cặp mắt nhìn mọi người:
- Xin mời ở như các cụ...
Chiều nay trời đẹp. Mặt trời đang lặn, hắt ảnh sảng vào cảnh cửa cabin chếch lên đình màn gió rung bần bật. Cái chỏm bên trên như bị cắt ra bằng một vệt sẫm. Một con thuyền với hai cảnh buồm nhọn hoắt phía xa nằm gọn trong lòng mặt trời to lớn đỏ rực nhưng không chói mắt. Tôi nom rõ mặt trời chìm từng phần xuống biển. Từ chỗ mặt trời đang chìm dần, một vệt vàng lấp lảnh chạy tới thân tàu. Rồi khi mặt trời lặn hẳn, không còn một chút ảnh sảng nào nữa, mặt biển vụt thay đổi hoàn toàn. Không vàng rực lấp lóa nhức mắt mà bốn phía mênh mông mềm mại. Chỉ còn những mảng hồng, da cam và xanh thẫm nhấp nhô.
Trăng sảng. Tàu dắt lưới. Biển tròn, mờ nhạt. Những gợn sóng vàng và những gợn sóng lân tinh xanh. Gió nhẹ. Những hàng đèn lưới vây ảnh sảng khiến một vùng biển và trời sảng rực lên. Biển nuôi người cả ban đêm. Con người lao động cả ngày đêm. Như thầy Tuyền dạy: Mọi thứ trên đời đều do lao động. Không chỉ của cải vật chất mà cả tư duy, trí tuệ. Tôi yêu quý và kính trọng bố, bảc Suất, chú Hùng lùn, chú Hồng, bảc Sĩ. Tôi yêu quý và kính trọng những người đảnh cả đang đảnh lưới đèn trên vùng biển sảng như một đám chảy. Nằm trên boong thượng với bảc Sĩ nghe bảc kể chuyện. Ngoài bố tôi ra, người trên tàu thân nhất với tôi là bảc Sĩ. Bảc đã về nhà tôi nhiều lần. Bảc thân với bố tôi. Bảc gọi tôi là thằng Ba Đùi. Mới đầu tôi không hiểu ra sao, nhưng rồi tôi đỏ mặt. Bảc Sĩ nói cứ thản nhiên như không, như đó là một cái tên chính hiệu chẳng bao hàm một ý nghĩa nào khảc. Bảc Sĩ sinh ra trên biển, lớn lên bên biển. Không như bố tôi, sinh ra ở một làng vùng Yên Thế, có những con sông mảng và những đồi dẻ um tùm. Khi còn bé đã một lần bảc Sĩ được đi biển với bố. Biển mịt mù với những kẹp câu, với nghề giã tôm, những “dậu”, những con sứa bơi dưới nước trong suốt như thủy tinh hả cái miệng rộng ra hớp nước, kéo theo từng bát tép biển đỏ tươi vào miệng. (Kể đến đây, bác cũng ngửa mặt lên, tròn mồm hớp hớp trông rất buổn cười). Chiều chiều bác lang thang trên bãi biển săn đuổi những con dã tràng với lũ trẻ con cùng xóm và đón bố trở về. Trong những đêm nằm gối đầu lên tay bố, bác đã được nghe bố kể chuyện vùng biển quê bác. Vùng biển ấy xa lắm. Xa không nhìn thấy đất liền. Vùng biển ấy sôi sục đỏ máu. Cá xà và cá Ong Voi đánh nhau. Cá Ồng đi như một ông vua, quan quân đằng trước đằng sau uy nghi bệ vệ. Đằng trước cá Ồng là những con “cá nạng’ chỉ biết tiến chứ không bao giờ biết quay trở lại. Đó là những võ quan. Những lưỡi kiếm sắc như dao của các võ quan này xòe ra giống như cái nạng, khi bơi nó cắt đứt dây neo thuyền cũng không quay lại. Cứ lừng lững thẳng một lèo dắt thuyền đi mãi đi mãi. Rồi đến những con cá heo tinh khôn đạp nước nhào lộn để cá Ồng vui, những con mực to bằng cái nón đi thành hàng hai bên, bơm mực làm nước biển đen ngòm đánh lạc hướng cá xà. Tôm cua, bạch tuộc, cá khế, cá song... lội tung tăng phía trước phía sau. Cá Ồng hiền lắm. Cá Ồng đội thuyền đưa người bị nạn vào bờ. Còn cá xà thì khác. Nó có thể cắn ẳứt ẳôi những con mập hung dữ nhất. Bác Sĩ bảo chính bố bác trông thấy trận ẳánh nhau ròng rã tám ngày tám ẳêm giữa cá Ồng và cá xà. Cả một vùng biển không có gió mà sôi sục. Thuyền bè không ra khơi được. Cá xà đánh nhau với cá kiếm cá nạng cá Ồng mấy ngày ẳêm rồi. Máu đỏ loang cả một vùng biển. Nếu đôi bên cứ đánh nhau mãi thì cá Ồng chết mất. Một người thợ rèn lấy sắt đánh tám cái lưỡi câu, giết thịt một con lợn tám mươi cân, đóng một cái bè tám mươi cây tre lớn, móc con lợn vào lưỡi câu và cột vào bè, lựa nước, lựa gió thả xuôi bè vào vùng biển chiến trường. Tất cả đứng nhìn theo cái bè nhỏ xíu ở phía xa, trên bè có cắm một lá cờ đại vuông gió bay phần phật. Bỗng dưng bè chìm nghỉm. Lá cờ đại chìm nghỉm. Cá xà cắn câu rồi!Mặt biển trở lại yên tĩnh và xanh lại dần dần. Đến chiều, một cột nước vút thẳng lên trời và tỏa xuống thành một cái cầu vồng. Cột nước của cá Ông báo hiệu thanh bình đã trở lại. Cá heo lại nhào lộn. Cá nạng lại vác kiếm đi tiên phong, cá song, bạch tuộc, cua bể, tôm hùm lại nhảy múa chung quanh cá Ông hiền lành đường bệ. Con cá dữ, con cá ác đã bị giết. Nhưng nó chết ở đâu? Hai ngày sau cái bè tre nổi lên ở chỗ cũ. “Mày ạ. Con cá to nào cũng quay về chết ở nơi nó đã ra đi. Nó về chết ở nhà của nó”.
Nằm trên boong thượng con tàu đang dắt lưới quành đi quành lại, quầng sáng lưới đèn khi gần khi xa, khi ở bên phải khi ở bên trái, bác Sĩ đã kể cho tôi câu chuyện cổ tích thật hay về biển. Biết là chuyện không có thật mà sao cũng cứ mê đi. Cũng hay như thế, bác giảng cho tôi nghe về các loài cá. Chỉ nghe tên cá thôi đã rối tinh lên rồi. Cái con cá bé tí như con cá ngạnh có dọc xanh ở thân ấy là con cá ngác. Mày phải cận thận đừng để gai nó cắm vào chân. Không chết người nhưng thối thịt ra đấy. Nhức chịu không nổi đâu. Con cá lá tre lép kẹp như cái lá tre, có một lượt áo trắng như ni lông ép dẹt chẳng được tích sự gì. Muối chượp làm mắm không xong. Con cá nóc phồng hơi tròn như quả bóng. Rất ít loài cá dám ăn thịt nó. Không phải vì cái gai đâu mà nó rất độc. An vào là chết. Người ăn cũng chết. Thịt trắng như thịt gà nhưng mổ không cẩn thận vỡ gan mật là toi đấy. Nó độc ở cái gan. Rồi bác nói về con cá bã trầu, con cá khế, cá hiên. Chiều nay kéo lưới được hai con cá hiên. Cá hiên trông rất hiền và đẹp. Mình tròn, vảy nhỏ trắng, gần giống cá chim trắng. Đầu nhỏ và miệng rất nhỏ. Chú Hồng vừa nướng một con. Giống cá ít xương và rất nhiều nạc. Thịt thơm và ngon. “Mấy lần kéo lưới được cá hiên, mày có để ý thấy gì không?” Bác hỏi tôi. “Không. Để ý cái gì cơ?” “Không bao giờ đánh được một con. Cá hiên không bao giờ vào lưới một con. Bao giờ cũng một đôi. Cá vợ cá chồng. Giống cá hiên đi đâu cũng có đôi”. Đến lúc ấy tôi mới biết có giống cá đáng yêu như thế. Thật là thủy chung. Sống cùng nhau và chết cùng nhau. Một giống cá đáng để con người học tập.
Chuyến biển cuối cùng trước khi vào sửa chữa định kỳ của tàu VT 250 do Lê Mây làm thuyền trưởng cách đây có dễ hơn một năm. Đúng rồi. Mười bốn tháng. Tuần đầu con nước lớn tháng mười một dương. Trú gió liên miên, sản lượng thấp, đá tan, dầu tiêu hao nhiều. Vừa không dám bán cá, lương sản phẩm lại chẳng được là bao, phải nợ tiền xí nghiệp (nói vậy thôi, đó chỉ là tàu nợ xí nghiệp chứ còn khoản tiền cho thuyền viên hàng tháng, thuyền trưởng và quỹ công đoàn tàu bao giờ cũng phải bảo đảm). Trú gió, anh em thuyền viên vui cười quanh ván bài, còn thuyền trưởng Lê Mây thì buồn. Anh lại lẩm bẩm một mình câu tổng kết của anh: “Đái bãi đái xái chuyến buôn”. Lẽ ra anh có thể hoàn thành kế hoạch chuyến biển, bước vào sửa chữa từ chuyến trước. Không phải đi chuyến này để chịu gió mùa suốt chuyến. Sẩy một chút xíu, thế là nó cứ dồn, dồn mãi. Nếu ba chuyến trước, tàu anh được bốc cá ngay thì đã có thể đi sau ba ngày đỗ bến đúng như quy trình giữa hai chuyến biển, như vậy không bị trú gió mất bốn ngày, và chuyến biển ấy sẽ được nhận dầu trước khi kho dầu của xí nghiệp cạn, phải chờ hơn tuần xin bổ sung chỉ tiêu rồi chờ xà lan nhận dầu về bến... Đấy, đại loại là như thế. Mỗi thứ một tí một tí, việc nọ dồn việc kia, chuyến biển bị lùi lại hơn một tháng. Chuyến biển kết thúc trước khi trung tu (kế hoạch trung tu là sáu tháng nhưng bao giờ cũng kéo dài vô hạn định, bởi biết bao nhiêu nguyên nhân không thể lường hết được) trước khi anh em ở bờ dài dài, anh muốn sao cho mỗi người có một khoản tiền kha khá nhưng thế là hỏng rồi. Anh đã uống hết chai rượu Vân thứ hai. Chỉ còn một chai nữa. Anh ngắm nhìn nó rồi mở nút lá chuối rót ra lưng chén làm một tợp, bụng nghĩ: Sắp gay rồi đây. Phải uống dè thôi. Cả đời đi biển mình chưa thấy bao giờ biển động liên miên thế này. Nhìn chân trời đằng đông hừng hừng đỏ đọc như có ngọn lửa cháy hắt lên từ bên kia đường chân trời, biết biển chưa thể êm ngay nhưng anh vẫn dặn Sơn VTĐ (vô tuyến điện): Nghe cả thời tiết bên Trung Quốc xem sao nhé. Chẳng qua không có việc gì, không biết đi đâu thì vào phòng VTĐ nói vậy thôi. Với lại cũng là bấu víu vào một hy vọng mỏng manh: Biết đâu quy luật thời tiết khác rồi.
Mây đi biển từ nhỏ. Cả nhà Mây đi biển. Bố Mây, anh Mây và Mây. Hai anh em theo cha đi câu. Cha dạy hai anh em nghề câu vì đó là nghề khó khăn nhất trong tất cả mọi nghề đi biển khi ấy. Ba cha con cùng câu thuê. Rồi cha một thuyền, mỗi con một thuyền - cũng vẫn của chủ - cứ sáng sáng nhổ neo tách bến. Mây yêu mặt biển buổi sáng nắng tràn, gió về ào ạt. Một vệt sóng vàng lóa mắt như gang chảy trong lò, nhỏ dần ở mãi phía chân trời, càng gần càng to, loang loáng băng băng về phía mũi thuyền. Nó giống một dòng sông vàng rực rỡ giữa mặt biển xanh sẫm gần như tím lại. Vượt qua những vàng lưới dùng, những vàng mành dắt hình bán nguyệt, anh cho thuyền đi mãi đi mãi. Đến Cù lao Chàm vẫn dóng thẳng một lèo cho tới khi “dầm lao” (1), mặt trời đã ngả về phía tây, chiếu xiên khoai rát lưng, anh mới neo thuyền lại, bắt đầu thả câu.
Vùng biển đó sâu trên trăm sải, rất nhiều cá mập. Thả xong vài dàn câu, anh nằm ngủ chờ tới sáng hôm sau thu cá. Cũng có khi trở về tay không, nhưng chỉ là hãn hữu. Còn nhiều ngày, rất nhiều ngày, với một dàn câu, anh vớt được hai, ba con mập. Một lần anh đã câu được một con cá mập dài hơn cả chiếc thuyền câu. Vừa động dây câu, con cá đã nổi lên mặt nước. Con cá mập dính câu đột ngột nhô lên như một chiếc tàu ngầm, làm mặt biển như dềnh lên cách anh vài chục sải, cái lưng màu xám xanh, cong lên ở phía giữa. Hai vi bụng quạt nước sôi sục ào ào. Nó xé nước mà đi, sung sức mềm mại, lúc ngoan ngoãn, khi tức giận làm mặt biển khi êm ả, khi cộn lên trắng xóa. Như một chiếc thủy phi cơ màu xám, nó kéo thuyền anh đi. Hẳn là nó mới dính câu, còn đang tràn trề sức lực, chiếc vi lưng cong cong khổng lồ hình lưỡi hái dựng đứng, in trên nền trời đang ửng hồng mãi lên. Nước chảy trên làn da xám bóng trơn nhẫy của nó ròng ròng. Con cá còn rất khỏe và anh đã phải thả dần số dây giềng dự trữ để trên sạp thuyền. Khi chỉ còn một đoạn ngắn, anh quyết bắt con cá dừng lại ở đó. Con cá chạy quanh thuyền vẽ một vòng tròn trắng xóa, bán kính có tới non trăm sải. Anh quấn một vòng sợi dây giềng vào cọc lái để san sẻ bớt sức nặng vào đó đồng thời vẫn có thể thả thêm dây khi con cá bỗng đột ngột tức giận phóng nhanh, hai chân đạp vào mạn thuyền, ngả hẳn người về phía sau. Bàn tay anh như xé làm hai, chân anh dội lên sống lưng một cảm giác đau nhói xối tới sọ não. Anh vận hết sức lực trong người ghì chặt, giữ chặt đoạn dây mà lúc đó anh coi như tất cả sinh mệnh của mình, quyết không thả thêm cho con cá một li một tấc. Mắt anh lồi ra (khoảng ít phút sau anh sờ lên mắt mình và ngạc nhiên: Nó phồng phồng mềm như mắt nhái). Mặt anh phù đỏ. Nhưng con cá đã không bơi ra phía khơi nữa. Nó đã quay đầu lại. Suốt một ngày hôm ấy, anh đấu trí, đấu sức với con cá. Cho đến khi thấy ánh nắng buổi chiều chiếu thẳng vào mặt, anh biết mình đã thắng, con cá đã chịu thua rồi. Nó đã quay về phía tây. Nó đang trở về chỗ cũ. Nó quay lại chỗ nó ở. Cũng giống con người muốn được chết giữa gia đình vợ con, giống cá lớn bao giờ cũng muốn chết tại nơi ở cũ. Mãi chập tối anh mới phóng được cái lao thép vào bụng nó, và dùng chày đập liên tiếp vào đầu nó. Rồi có sự giúp sức của mấy thuyền bạn, anh bẩy được nó lên thuyền. Quá nửa đêm cá mới về tới bến. Chủ thuyền đốt đuốc sáng rực. Tám đòn, mười sáu người khiêng như một đám hội. Anh được chủ thuyền thưởng một số tiền kha khá nhưng phải nằm liệt ba ngày mới cử động được chân tay...
Biển với Mây có biết bao kỷ niệm. Sau này khi cách mạng thành công, rồi kháng chiến, Mây đã vào dân quân, đã tham gia phục kích địch ở Hòa Vang, đã rải truyền đơn trong thành phố Đà Nẵng, anh luôn ao ước khi kháng chiến thắng lợi sẽ đưa tàu đi đánh cá ngoài biển khơi, biển của anh, tàu của anh, của những người như anh, khai thác biển vàng biển bạc, xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh, sánh vai cùng các nước khắp năm châu bốn biển.
Mây đã toại nguyện. Tập kết ra Bắc, anh được đi học bổ túc văn hóa công nông. Rồi được học trung cấp đánh cá. Về Quốc doanh đánh cá Biển Đông, tiền thân của Liên hợp Biển Đông sau này. Anh yêu biển. Một tình yêu tự nhiên không phải cố gắng chút nào. Anh yêu công việc anh làm dù có vất vả đến đâu. Đi biển, có mẻ lưới nào anh không có mặt, dù đó không phải ca anh, dù lúc đó là giữa trưa hè nung boong bỏng giãy hay nửa đêm
mưa phùn gió bấc. Biển động thì thôi rồi, không còn nỗi khổ nào hơn. Ăn cơm cũng phải “đứng tấn”, xoạc chân vào bàn, ghì lưng vào vách cabin cho khỏi ngã. Muốn tới nhà vệ sinh phải bò, ruột gan như bị xóc lộn cả lên. Có lẽ anh là người chịu sóng khỏe nhất. Chưa có cuộc thi nhưng theo như kết quả anh em các tàu bình chọn trong những lúc trú gió chẳng có việc gì làm, thì người chịu sóng tốt số một là Lê Mây, thuyền trưởng tàu VT 250. Cũng vì chịu sóng tốt nên gió vừa hạ xuống cấp 6 anh đã đi vào từng buồng ướm lời với những thủy thủ còn đang lử khử vật vã trên giường: “Êm lắm bay ơi. Êm lắm bay ơi”. Như nhà báo Duy Thông đã nói. Cái chuyến cuối cùng trước khi vào sửa chữa ấy, anh cũng “êm lắm bay ơi” nhưng anh em không nhóc nhách được. Đến nỗi máy trưởng Đay còn có tên Fa Ra Đay phải bảo anh:
- Tôi sẵn sàng đi với ông. Cấp tám thằng này nôn. Nôn thì đeo túi ni lông đứng máy. Nhưng anh em không đứa nào đứng vững trên boong đâu.
Mây biết anh đang động viên anh em làm một việc quá sức mình. Nhưng anh chau mày khi nghe Đay nói. Có bao giờ Đay góp phần giúp Mây động viên anh em đâu. Có bao giờ Đay đeo túi ni lông đứng máy đâu mà cứ nói như đã làm thế nhiều lần. Anh giãi bày:
- Cuối động bao giờ sản lượng cũng cao. Với lại phải chịu khó cày còn có sản lượng cho quỹ công đoàn, quỹ sửa chữa của tàu chứ không thì gay. Đói đã hẳn, sửa chữa mà không có tiền bồi dưỡng thợ, bồi dưỡng tổ trưởng, quản đốc, đến bao giờ mới xong.
Không lo được về mặt đời sống cho anh em, không chuẩn bị được quỹ tàu để bước vào sửa chữa là cái khổ thứ nhất của Mây. Cái khổ thứ hai không kém, có khi còn hơn cái khổ thứ nhất là hết rượu. Năm ngày cuối chuyến cả tàu hết rượu. Khi anh em moi móc các xó xỉnh, lật cả sạp trong buồng lái lên kiếm đầu mẩu thuốc lá vất đi từ thời nảo thời nào, Lê Mây đi các buồng lục lọi xem còn tí nước cay nào sót lại không. Mọi chai đều khô. Nhịn thèm nhịn nhạt. Sáng dậy không có chất cay cay nóng nóng chảy qua cổ lan tỏa vào cơ thể, mắt cứ díp lại. Người nhão ra. Bữa ăn lùa bát cơm cho nhanh. Có rượu, anh có thể đưa cay nửa cân bạc má hay nhấm nháp cả cái đầu một con song ba ký. Anh không giấu mọi người chuyện ấy. Chuyện anh ăn được cá ấy. Thời giám đốc Trần Hữu Bằng còn ở xí nghiệp, đã tuyên dương thành tích ăn cá của Mây trong hội nghị công nhân viên chức: “Ăn được cá như Lê Mây mới có thể gắn bó cả đời mình với biển. Những người ăn được cá là vốn quý của xí nghiệp”. Không rượu, cá cũng không muốn ăn, mồm miệng đắng ngắt, ngáp ngắn ngáp dài, nước mắt nước mũi cứ giàn ra, lử khử lừ khừ như đàn bà ốm nghén. Anh em bảo thuyền trưởng đang bị rượu nó vật. Khi thức đã vậy, lúc ngủ càng khổ hơn. Vừa chợp mắt đã mơ thấy rượu. Những bữa rượu vỉa hè với chai rượu Vân trong vắt thân thương. Những bữa giỗ tết ở nhà nâng lên đặt xuống cùng vợ con đầm ấm. Và những bữa liên hoan dưới tàu vang lên “Dô! Dô!” “Trăm phần trăm!” vui vẻ ầm ĩ. Cả những bữa tiệc sang trọng Mây chưa từng dự bao giờ. Bàn ghế phủ khăn trắng muốt, cốc pha lê bày bốn chung quanh với những đĩa thức ăn hình bầu dục. Rượu nhiều vô kể. Toàn những thứ rượu sang trọng, cổ vàng cổ bạc, thứ trong như nước mưa, thứ đỏ sẫm sóng sánh trong cốc. Ác cái là đúng lúc ấy, đúng lúc Mây cầm cốc rượu đưa lên chạm vào môi, hít mùi thơm của nó là choàng tỉnh. Lần nào cũng vậy. Cứ sắp dốc vào họng là choàng tỉnh. Choàng tỉnh nằm. Choàng tỉnh đau. Choàng tỉnh tiếc. Đau hơn, tiếc hơn chàng trai mơ thấy một thiếu nữ khỏa thân trên giường chờ đợi mà mỗi khi bước tới bên giường, vừa ngồi xuống giơ tay ôm nàng thì tỉnh giấc. Lại càng nhức đầu. Cố ngủ lại, mơ lại để được làm nốt động tác cuối cùng: Dốc ly rượu thơm lừng ấy vào miệng. Khổ nỗi những lúc nằm chờ ngủ để mơ tiếp là cứ nghĩ đến những bữa rượu đã uống. Những bữa rượu quên đời. Nhiều bữa rượu đáng nhớ. Đáng nhớ nhất, bữa rượu hay trở đi trở lại trong óc Mây nhất là bữa rượu ở Năm Căn. Với hai phụ nữ thu mua cá Cà Mau. Danh tiếng các bà mả Năm Căn này đã vang dội khối tàu. Bọn bợm rượu các tàu khi nhắc đến chị Hai, chị Ba đều tỏ lòng kính nể và cả quyết trong Quốc doanh Biển Đông không ai địch nổi. Thuyền trưởng Đại nói với anh:
- Ông cũng phải đo ván thôi. Rượu như Túy mà còn thua đấy.
Ngày ấy thuyền trưởng Đại còn sống, và Mây cũng mới là đại phó. Anh không tin có một phụ nữ nào lại uống được nhiều rượu hơn anh và ao ước được uống với họ. Cầu được ước thấy, trong một lần buông neo ở Hòn Khoai, bốc cá lên trạm sơ chế của xí nghiệp, tàu thu mua của chị Hai cũng vào đảo và cặp sát tàu anh. Một tay tóm cổ hai chai Lúa Mới, một tay nắm thang dây, Mây tụt xuống tàu chị Hai và nói thẳng không úp mở:
- Em nghe đại danh hai chị đã lâu. Hôm nay thật may mắn, tàu em và tàu hai chị lại áp mạn thế này, em xin phép được hầu rượu hai chị.
Cả chị Hai, chị Ba đều mừng rỡ, mời ngồi ngay trên buồng lái. Tàu thu mua nhỏ, ngồi đấy nhìn ra chỉ thấy sườn tàu Mây sơn xám dập dờn theo từng con sóng. Mây bước ra lan can, ngước nhìn lên, vẫy thuyền trưởng Đại: “Ông Đại ơi! Cả hai chị mời thuyền trưởng xuống đây đấy!” Đứng trên boong, Đại cười: “Nói hộ mình vô phép hai chị. Ông uống thế nào để sáng mai còn tách bến đấy”.
- Phải có tí nhắm chứ chú? Chị Hai hỏi.
- Tùy hai chị. Mồi cũng được. Xếch cũng được.
Chị Ba từ bếp đi lên:
- Ta cứ uống dần đi. Nhà bếp đang làm rồi. Cũng chẳng có gì. Dưới tàu quanh quẩn chỉ canh chua, chả mực.
Mây toan vặn nút chai Lúa Mới bắt đầu bữa rượu, nhưng chị Hai đã giằng lấy, cất dưới chân vô lăng rồi vào trong buồng lễ mễ xách ra một can 20 lít đầy ắp. Và nghiêng can, đổ rượu vào một chiếc ca nhựa, thứ ca một lít vẫn dùng ở các hiệu bia hơi. Rượu từ ca nhựa được rót vào các cốc thủy tinh. Liếc nhìn rất nhanh thứ nước nhờ nhờ đùng đục trong cốc, Mây đã biết ngay loại rượu này chẳng ra gì. Mà đúng thế thật. Sau khi em xin nâng cốc chúc sức khỏe hai chị, chúc cuộc hội ngộ của chúng ta, Mây làm một tợp cạn cốc. Đúng mà. Rượu gì nhạt thèo thèo. Rượu này uống cả can cũng chẳng say. Chỉ tổ đi đái.
Chính thứ rượu anh khinh thường ấy đã quật ngã anh. Uống hết nửa can, anh vẫn vững. Vẫn đều đều ba cốc một, ba cốc gần tràn miệng như nhau. Mỗi người một cốc. Chả mực chưa đụng. Canh chua chưa đụng. Khô mực thỉnh thoảng mới làm một xé nhỏ. Vẫn còn giành thế chủ động bắt chị Hai chị Ba uống theo cách của anh: Lấy răng cắn vào cốc rượu rồi ngửa cổ cho rượu chảy vào miệng, không được dùng tay. Hay cầm cốc rượu dốc thẳng vào họng mà không được chạm cốc vào môi. Chú muốn kiểu gì cũng xong. Chị Hai chị Ba bảo vậy. Nhưng đến nửa can còn lại thì anh gục. Bắt đầu là một sự chếnh choáng, hơi lắc lư cái đầu. Rồi đầu nặng. Rồi ngây ngây. Muốn nằm. Cố không ngáp. Nhưng vẫn uống. Vẫn cứ đều đặn mỗi người một cốc. Và vẫn cạn một hơi. Rồi nhìn chị Hai chị Ba thấy nhoè nhoè. Lúc như chập làm một. Lúc lại thành ba thành bốn. Khi thuyền trưởng Đại từ thang dây tụt xuống bước vào, anh vẫn biết nhưng không nói được nữa. Dù vẫn nghe loáng thoáng tiếng Đại: Hết cả 20 lít chị Hai? Và tiếng cười giòn tan của các chị như vọng về từ một nơi nào xa lắm. Mây ngả người dựa vào trụ lái, mắt nhắm nghiền. Hình như có người đỡ anh nằm xuống sạp dưới chân trụ lái, ngay cạnh mâm rượu.
Tỉnh dậy, Mây ngơ ngác thấy mình đang nằm trên một chiếc giường hẹp, đầu gối lên chiếc gối vải hoa quen thuộc. Anh dần dần nhận ra chiếc giường của anh, chiếc gối của anh, căn buồng của anh, đúng là buồng của anh, buồng đại phó có treo bức hải đồ trên vách, cửa sổ hình chữ nhật trông ra chiếc ống khói sơn đen. Vội choàng dậy. Nhìn qua cửa sổ xem tàu chị Hai cặp ở bên. Không thấy. Vội chạy ra boong. Bốn chung quanh là biển. Thì ra anh đã ở ngư trường. Tàu đang dắt lưới. Nhìn đồng hồ, đã 2 giờ chiều. Mãi sau, anh mới biết đêm qua, anh em tàu anh đã phải sang tàu chị Hai, khiêng anh ra boong, đặt vào một tấm lưới, buộc lại và dùng cẩu, cẩu anh lên tàu như cẩu một con cá lớn rồi khiêng anh vào phòng để tàu tách bến đi sản xuất.
“Sai lầm của mình chính là ở đấy. Rượu không ra gì nhưng uống tới sáu bảy lít thì cũng toi đời”. Nằm trong cabin cố nối lại giấc mơ ngắt quãng, nghe gió mùa đông bắc hú u u trên những dây chằng cẩu, dây ăng ten, Mây tự nhủ. Và thèm đến tứa nước dãi, ước ao một vài lít, không thì chỉ nửa lít cái thứ nước không ra gì ấy cũng được.
Chuyến ấy khi tàu cập bến, khi tàu đã được buộc chặt vào cột bích, cầu thang đã bắc từ tàu xuống mặt bê tông cầu cảng, Mây khoác áo ba đơ xuy dạ, mũ lông, hai tay thọc vào túi áo, đi một mạch ra căng tin. Anh đi từng bước khoan thai, gặp ai cũng tươi cười gật đầu chào mà không bắt tay một ai, không dừng lại nói chuyện với một ai. Khác hẳn mọi chuyến, anh muốn đi thẳng tới nơi mà ở đó rượu tia xối vào họng, mát rượi, nóng bỏng, tràn vào miệng, tràn vào lưỡi, ngấm vào các chân răng và trôi vào cơ thể, trôi đến đâu chảy đến đâu nóng rực lên tới đó, hồi sinh tới đó, ngấm vào từng tế bào, từng lỗ chân lông, nghĩa là anh sắp thoát khỏi tình trạng nửa thức nửa ngủ, nửa ốm nửa khỏe, đói mà không muốn ăn, mồm miệng lúc nào cũng nhạt thếch, đắng ngắt này.
- Chào thuyền trưởng. Vừa về à? Khỏe không?
Một người chào anh. Người ấy ôm vai anh như rất thân thiết. Huy! Một thuyền trưởng cùng được phong một đợt với anh nhưng trẻ hơn anh nhiều. Và bây giờ rất vui vẻ vì được từ thuyền trưởng xuống làm thuyền phó. Không phải thuyền phó tàu đảnh dậm mà là thuyền phó tàu HL 19, một trăm thằng Vosco không bằng cái xô tàu Hạ Long 19. Toàn bộ những thứ trên người Huy đều đắt tiền. Kính Mỹ đổi màu, đồng hồ Thụy Sĩ, áo bông Nhật, quần bò Levi’s, giày da bóng lộn. Và ghê hơn là nhẫn vàng đỏ ngón tay... Huy móc túi, lấy ra bao ba số. Mây miễn cưỡng rút một điếu. Huy bảo anh cầm cả mà hút. Nhưng anh lắc đầu:
- Cám ơn. Mình hút thuốc nặng quen rồi. Thứ này nhẹ quá. Thôi. Đi nhá. Mình vào báo cáo chuyến biển với giám đốc.
Anh rũ được Huy như người rũ được một cái gì nhơ nhớp bám trên người (nhất là Huy lại vừa quàng tay qua vai anh). Vốn tính thẳng thắn ngang tàng, anh là một mẫu người khác hẳn Huy. Cái chuyện Huy lê la ở nhà giám đốc, bí thư đảng ủy, trưởng phòng tổ chức là việc của Huy, anh không có ý kiến gì, nếu có ý kiến chỉ là bái phục Huy, cái việc anh không thể làm được, Huy làm tự nhiên dễ dàng như đã làm việc ấy từ lúc lẫm chẫm tập đi. Anh vẫn không quên lần tàu anh làm dự trù nhận thêm một chiếc lưới mới và mấy chục mét dây đõi. Kho hết. Hỏi ra thì kho còn nhưng thủ kho nói là tàu Huy đã làm hóa đơn rồi. Thuyền phó tàu Huy, một người đã đi với Mây nhiều năm và khá thân nói với anh rằng tàu anh ta còn những hai cái lưới mới dự trữ. Chẳng qua là... Là gì thì anh tự hiểu lấy. Mây hiểu. Làm gì không hiểu. Anh đã sang gặp Huy, đề nghị với Huy cho tàu anh vay tấm lưới ấy, để có thể đi sản xuất. Huy nhất định không cho. Huy nói tàu anh ta cũng chỉ còn một tấm lưới dự trữ mà ông anh biết đấy, kỳ này vào Cồn Cỏ, nhiều rạn nhiều đá ngầm, xác máy bay, không có lưới dự trữ là vỡ mặt. Anh biết cái tính khó chơi của Huy, thói ganh ghét kèn cựa của Huy. Huy muốn vượt hẳn lên cả khối tàu, không chịu thua ai, nhất là thua Mây. Và nhất là để ăn chắc một suất xuống tàu vận tải, mặc dù đó chỉ là cái cớ, ai cũng biết chuyện điều người xuống tàu đi nước ngoài phụ thuộc chủ yếu vào giám đốc, có người còn nói thẳng ra phải nhiều đạn và đã có cả ba rem. Ba rem từ phòng tổ chức tới sếp. Nhưng chủ yếu là sếp. Tổ chức có đề xuất cũng chỉ là một chuyện, đảng ủy họp duyệt cũng chỉ là thủ tục phải làm mà thôi. Nhiều mối như vậy nên đạn phải nhiều như lá tre, nhiều như quân Nguyên! Huy cũng biết điều ấy. Và đã lo cửa ấy. Nhưng sự đời chẳng biết thế nào, cứ phải thật chắc cái thân mình, thời buổi mật ít ruồi nhiều, tránh mọi sự trục trặc, Huy cố gắng mọi mặt để hoàn thành kế hoạch của tàu, chẳng nhất cũng phải nhì khối. Trong khối tàu 400 mã lực, người luôn đạt thành tích cao là Mây. Tất nhiên Huy không nhường Mây chiếc lưới dự trữ. Mây cũng như nhiều tàu còn bị với Huy một vố. Mùa cá Nam năm ấy, anh đánh ở khu 18 chỉ hai, ba tạ mẻ. Anh bảo vê tê đê bám tàu Huy xem sản lượng có cao không. Huy cũng chỉ báo hai, ba tạ mẻ. Mây đã định đưa tàu tới đánh nhưng nghĩ đi nghĩ lại không kinh tế, có tăng được vài chục ký một mẻ thì cũng bù vào thời gian chuyển ngư trường. Đến cuối chuyến Huy báo vọt lên một, hai tấn mẻ, Mây và các tàu bạn chạy đến mới biết rằng không phải. Những mẻ trước đạt sản lượng cao, Huy báo thấp và bây giờ khi sắp về bến, khi đàn cá đã tan, Huy báo vọt lên để phù hợp với sản lượng đã khai thác được. Cái đểu là khi họp bàn về khai thác, Huy còn nói tại Mây không bám được luồng cá, chứ sản lượng khai thác của Huy là đúng như đã báo. Có lần Huy còn báo sai khu ô. Sản xuất ở khu 27 nhưng lại báo về là khu 18, mọi người đưa tàu đến khu 18 chỉ thấy mênh mông gió nước, chẳng thấy một con tàu nào! Anh em nói là Huy báo dã man. Nhưng với Mây, dã man nhất là cái chuyện Huy nẫng tay trên các tàu những vật tư quý hiếm dù chưa cần dùng đến.
Và cái điều Mây không thể chịu được Huy có lẽ là sự khác nhau giữa hai tính cách, là thói “đi đêm” với trưởng phòng cung tiêu, sự tấu hót, nói xấu các bạn đồng nghiệp, nhiều khi chẳng phải vì muốn hại người mà chỉ để tỏ ra mình cái gì cũng biết, là sự lui tới nhà lãnh đạo xí nghiệp bất kể người ta tiếp đón mình như thế nào để đạt được nguyện vọng: xuống tàu vận tải ngoại thương. Mây dị ứng với cách mời mọc thuốc lá, mời Mây xuống tàu uống rượu của Huy. Nhiều người không hiểu bảo Mây khái tính. Không phải. Mây đã xuống tàu vận tải ngoại thương uống rượu với bạn bè, khi về còn đút túi vài bao ba số, Capstan bạn tặng. Nhưng với Huy thì chưa bao giờ. Cái kiểu mời quá nồng nhiệt của Huy với Mây như một tiếng cười chế giễu: Cuối cùng ai thắng? Ông hay tôi? Vất vả lắm phải không? Cố mà chịu nhé. Giờ đây ít người biết đến mâu thuẫn giữa Mây và Huy từ thời xa xưa. Từ hồi cả hai còn đi tàu 1000 mã lực. Từ hồi Mây còn làm trưởng ca. Nghỉ phép nghỉ bù về Quảng Nam ra trở về tàu, về giường mình, anh thấy có người đã nằm ở đấy rồi. Người ấy là Huy.
- Anh nằm đây à? Giường tôi đây mà!
- Anh Trường phân công tôi về đây nằm.
- Không được. Quần áo, tủ của tôi còn đây. Nhiệm vụ tôi chưa bàn giao.
Huy cười:
- Không. Tôi không đi đâu cả. Thuyền phó một nói tôi về đây. Có gì anh lên gặp đại phó.
Chú thích:
1. Không trông thấy cù lao.
- V -
Thế đấy. Mới có hơn tháng nghỉ phép nghỉ bù thôi đã có cuộc đảo chính. Huy từ trên bờ được điều xuống làm trưởng ca. Thực ra khi mới đến xí nghiệp trả phép, anh em gặp Mây đã nói hết cả sự tình. Họ bảo Huy đã làm việc với tổ chức, lại đã mời ban chỉ huy tàu lên phố ăn nhậu mấy bữa kể cả khoản em út thì Mây khó mà địch lại được.
-  Tình hình thế đấy. Liệu đi thì vừa.
- Liệu. Liệu cái gì. Mình chỉ có lao động thôi. Từ trước đến nay mình chỉ liệu có vậy thôi. Làm người lao động chứ không muốn làm ông kia bà nọ.
Huy nằm đấy. Mây đi ngủ nhờ. Nay buồng này, mai buồng khác, ôm khăn gói lang thang. Một hôm thủy thủ trưởng bảo Mây: “Ông Phú ông ấy bảo khó nói với cậu quá”. Mây cười: “Sao anh ấy lại nói thế nhỉ. Có gì mà khó nói. Anh ấy là thuyền trưởng. Sao lại khó nói với thủy thủ. Nếu anh ấy làm đúng, nói đúng thì không có gì khó cả”. Thế rồi thuyền trưởng gặp Mây:
-  Trước cậu ở tàu nào nhỉ?
-  110.
- Anh Thăng làm thuyền trưởng phải không? Anh em bên ấy khen cậu lắm.
Mây chán ngán cắt ngang:
- Anh xem chuyện tôi công tác ở đây có vấn đề gì không thì nói. Còn chuyện tôi ở trăm mười để khi khác. Tôi ra gõ gỉ đây.
Phú bảo:
- Cái này Trường nó đã làm như vậy. Cậu thông cảm cho mình.
Mây cố nén cảm giác bị sỉ nhục:
- Không có gì đâu anh ạ. Tôi nghĩ tôi phải cố gắng rất nhiều. Các anh giải quyết hay tổ chức giải quyết tôi đều chấp hành. Tôi nghĩ không ai ngăn cản được tôi tiến bộ. Có gì mà phải thông cảm hở anh.
Ngày ấy Mây chưa lấy vợ, chưa có cái tổ ấm ở khu Bãi Cát nên mới phải chịu cảnh ngủ lang như vậy. Khi Lưu Văn Vượng xuống tàu làm đại phó ít ngày thay Trường nghỉ phép, Mây nói với Vượng:
- Anh em gõ gỉ, bẩn thỉu chật chội nóng bức lắm, ngủ nhờ bất tiện. Anh cho tôi nằm nhờ cái đi văng.
Vượng lấy vợ Hải Triều, ở phố Cầu Gỗ trung tâm thành phố, trưa tối về nhà. (Đã có tối đi chơi phố, Mây ghé vào nhà Vượng, thấy cửa ngoài khóa, cả nhà đi vắng, trong nhà chỉ có một con mèo bị nhốt gào thảm thiết). Vượng đồng ý ngay. Thế là Mây tay hòm chìa khóa buồng thuyền phó 1 mát mẻ đỉnh đương. Cho đến khi Trường giả phép ra, Trường gọi Mây vào buồng trưởng ca:
- Tổ chức điều Huy xuống. Anh em mình nói thật. Cậu ở đây không có tương lai đâu. Không có con đường tiến lên nữa đâu. Ý cậu thế nào. Có muốn chuyển sang tàu khác thì cứ đề đạt.
Vấn đề đặt ra thật bất ngờ. Họ định cẩu mình lên. Mây nói:
- Tôi lao động cũng muốn có con đường tiến lên của mình. Nghĩ mình có cố gắng nhưng vẫn còn thiếu sót. Nếu làm được tốt hơn nữa thì yên tâm hơn. Chứ chỉ nghĩ đến chuyện đề bạt thì mạt quá.
- Nhưng cậu ở đây thì kẹt.
- Anh nhận xét tôi ở đây có những kẹt gì?
Trường đáp chung chung. Mây bảo:
- Vậy tôi tự kiểm điểm anh nghe nhé. Tôi lao động
tích cực. Công tác cũng dô hò lăn vào làm với anh em. Có ý thức xây dựng, có tinh thần đấu tranh. Tôi ở đây đã lâu. Các anh hiểu tôi. Tôi hiểu các anh. Mặt tốt cũng như mặt xấu, giúp đỡ nhau tốt hơn. Nhưng tổ chức cũng như ban chỉ huy tàu điều, là một thằng thuyền viên, tôi chấp hành.
- Thế nghĩa là ý cậu thế nào.
Mây cười:
- Thế nghĩa là ý tôi thế đấy.
Thật may cho Mây. Ngọt một trưởng ca khác được điều đi học. Mây không bị cẩu lên.
Mây, Huy, hai người hai ca nhưng lại cùng chung một phòng, phòng của trưởng ca. Trong phòng, hai trưởng ca không nói với nhau một lời. Có lần hết ca, Mây lay gọi Huy dậy thay ca, Huy làm như đang ngủ giật mình tung chân đá vào mặt Mây. Quá bất ngờ, Mây túm chặt cổ chân Huy xoay một vòng, mười ngón tay thủy thủ từng săn cá mập và trầu cáp như những gọng kìm thép khiến Huy phải lật người nằm sấp rất nhanh để khỏi bị trệch khớp háng và kêu to:
- Ông chơi trò gì thế này?
Mây cười:
- Đây là thuốc chữa bệnh cho những kẻ giả vờ ngủ chơi xỏ người khác. Chỉ một lần là khỏi.
Hình như đó là lần đối thoại cuối cùng trong phòng của hai trưởng ca. Còn trên boong vẫn có đối thoại. Như một hôm ở Cồn Cỏ. Huy đang ngồi vá lưới, thấy Mây
ra, cứ xoay lưng lại phía Mây, che chắn không cho Mây nhìn. Hẳn có chuyện gì đây. Mây đi quanh nửa vòng, buông một câu:
-  Không xong rồi!
Huy buông ghim, ngẩng lên:
-  Sao?
-  Không được.
-  Sao lại không được?
- Anh không tháo ra vá lại, thả lưới xuống lại rách, lại vá tốn công tốn nhợ. Kỹ thuật không chiều ai đâu.
Lưới rách gần biên, lẽ ra phải kéo lại lưới, so xem có mất miếng nào không, rồi vá từ trong vá ra, đuổi theo đường biên, lưới mới không bị chùng, không dúm. Cũng có thể vá từ ngoài vá vào nhưng phải căn thật chính xác. Huy đã không làm được như thế. Quả nhiên chỉ một mẻ lưới, chỗ ấy lại rách. Có lần Mây đang làm lưới, Huy cho cẩu lưới lên. Chân Mây móc vào chỗ lưới rách, Mây bị kéo ngược lên cao, la hét ầm ĩ: “Ông kia. Điên đấy à? Có hạ xuống ngay không?” Huy vừa cho hạ lưới vừa cười thích thú. Mây bước tới, giơ nắm đấm ra dí vào mặt Huy:
- Cẩn thận nhé. Lần sau thế chắc chắn ăn đấm đấy. Hay muốn ăn ngay lần này. Hả?
Câu chuyện giữa hai người kết thúc sau chuyến khai thác ở Bạch Long Vĩ. Một mẻ lưới hở đụt, kéo lên chỉ hai tạ cá. Thuyền phó Trường, thuyền trưởng Phú kêu thét:
- Một mẻ lưới vất đi cũng hơn tấn cá. Mất đứt tấn cá. Bao nhiêu tiền. Mây đâu. Làm ăn thế à? Phá hoại!
Mây cười:
- Không phải tôi. Anh Huy thắt đụt đấy.
- Huy đâu? Huy đâu?
Huy ra. Kiểm tra lại đụt. Bỏ mất bốn vòng khuyên mỗi vòng khuyên hai mắt lưới là một mét sáu đụt không thắt. Đụt hở. Chưa hết. Ngày hôm sau, Huy đứng cẩu. Đụt lưới đã lên sàn dốc. Hai tay hai công tắc. Một công tắc lưới. Một công tắc đụt. Đụt cá đã được treo vào móc. Sóng to. Tàu nghiêng ngả. Huy đứng như đứng tấn. Hai chân choãng ra. Rì rì. Rì rì. Chiếc đụt cá lên cao dần. Một anh giật cái nút hoạt. Cá bắt đầu tụt xuống ở chỗ nút sổ. Nhưng ngay lúc ấy một con sóng lớn đánh ngang tàu. Đụt cá văng ra ngoài be. Nút hoạt bung hết cỡ. Cá trút xuống biển. Mây chạy vội ra cầm dây kéo đụt, lôi vào vớt vát được vài tạ. Sai lầm của Huy là ở đấy. Là ở chỗ cẩu đụt cá lên cao quá. Nếu để đụt thấp, sóng xô đụt chỉ đập vào be, không mất cá. Thuyền trưởng Phú từ boong trên nhảy xuống. Mặt sàn chông chênh. Phú loạng choạng chạy tới, vịn vào tơi, đứng thẳng lên, giơ nắm tay toan đấm Huy nhưng rồi chỉ ấn vào vai Huy. Mỗi cái ấn lại làm Huy lạng người đi.
- Một tấn cá! Mày chết đi Huy ơi! Sao mày ngu thế!
Anh em cười. Mây cười. Thủy thủ chỉ có cười. Buồn làm gì. Đã hiếm dịp cười. Cười cho giãn xương cốt, cho đỡ nhức đầu. Để lại bắt tay vào mẻ lưới mới. Với lại nhiều lên hay ít đi một tấn cá chẳng mảy may ảnh hưởng đến cuộc sống anh em. Nếu có, người ta ghi thành tích cho thuyền trưởng.
Sau sự cố ấy, Huy phải chuyển sang tàu khác nhưng trước khi chuyển đi Huy còn nhiều lần được nghe câu nói ấy. Những lúc làm lưới, nhặt cá hay đánh bài, thỉnh thoảng anh em lại nghiến răng nhiếc nhau để được giải lao, để có trận cười:
- Mày chết đi! Sao mày ngu thế.
Biết anh em giễu mình, Huy cắn răng chịu, giả điếc và cười thầm trong bụng: Rồi chúng mày biết tay tao. Cái ý chí làm mọi việc, bằng mọi giá để trả thù đời hình như được định hình từ đấy.
Huy về tổ chức, xung vào đội dự trữ, rồi lại được đi tàu. Và khi Mây lên thuyền phó rồi thuyền trưởng thì Huy cũng có tên trong danh sách đề bạt cùng một đợt. Chẳng ai biết thực hư cái giá Huy phải trả trong những lần đề bạt ấy cũng như cái giá của Huy xuống tàu vận tải ngoại thương ra sao. Cả xí nghiệp một dạo đã ầm lên chuyện đánh ghen ở nhà giám đốc Hoàng Quốc Thắng. Từ Hà Nội về đây làm giám đốc thay ông Trần Hữu Bằng về hưu, ông Hoàng Quốc Thắng để vợ con ở lại Thủ đô. Theo chỉ thị của ông, phòng đời sống xếp cho ông ở tầng hai một cái biệt thự bỏ không, xí nghiệp vẫn dùng làm nhà khách mà họa hoằn mới có khách nghỉ lại. Cái biệt thự nhà khách gần đây không có ai đến nghỉ bởi khách về làm việc đều được chánh văn phòng đưa đến những khách sạn sang trọng ở trung tâm thành phố, thậm chí còn ra mãi Đồ Sơn. Giám đốc Hoàng Quốc Thắng ở đó và cũng ăn luôn ở đó, cái biệt thự nhà khách ấy. Phòng đời sống cử hẳn một người cơm nước, giặt giũ cho tổng giám đốc. Người ấy là Hoa, vợ Huy. Người ta nói nhiều về chuyện này. Chuyện Hoa đến phục vụ riêng cho giám đốc. Không phải ngẫu nhiên đâu. Phòng đời sống có bao nhiêu người. Vì sao lại là Hoa. Vì Hoa vừa trẻ vừa ngon mắt. Vì trưởng phòng đời sống muốn làm vừa lòng sếp. (Chính trưởng phòng đời sống cũng nói thẳng ra: phục vụ sếp không thể là Thị Nở, trông cũng phải sạch sẽ một tí). Người bảo cái thằng Huy định thả cỏ vợ hay sao? Người rành rọt hơn: Huy là bạn cánh hẩu với trưởng phòng đời sống, chính Huy nhờ trưởng phòng đời sống điều vợ từ căng tin lên phục vụ sếp. Từ ấy Huy thường lui tới chỗ sếp như người nhà. Mấy năm liền như vậy. Những khi vợ con giám đốc từ Hà Nội về, Hoa phục vụ rất chu đáo. Cũng chẳng xảy ra điều tiếng gì. Chỉ đến khi cô em họ của giám đốc về chơi mới sinh chuyện. Bà ta làm ầm lên. Hoa sợ quá đạp xe một mạch về nhà. Giám đốc bịt mồm bà nhưng bà vẫn rỉa rói, riếc móc ầm ĩ cả xí nghiệp. Lúc bấy giờ mọi người mới vỡ lẽ đấy không phải cô em họ giám đốc mà là bồ cũ của giám đốc. Một cô kế toán từ cái thời ông còn làm ở Viện. Và chỉ bà ta mới có một dàn ăng ten đặc biệt để khám phá ra tình ý giữa giám đốc và Hoa. Chỉ những người đang yêu mới phát hiện được những biểu hiện của những người đang yêu cho dù họ không để lộ bất cứ một sơ suất nào. Đảng ủy, công đoàn đã có những cuộc họp cán bộ chủ chốt giải thích rằng sự việc không có gì. Đây là một sự hiểu lầm. Hơn nữa phải cảnh giác với những luận điệu của kẻ xấu. Mà có vẻ như lắm kẻ xấu thật. Họ nói rằng đã nhiều lần
Hoa vào nhà tắm kỳ lưng cho giám đốc. Đấy chỉ là những lời đồn thổi. Nhưng Mây thì biết chính xác sự việc là có thật mà không dám hé răng. Một buổi trưa đi nhậu về vì quá yêu ông giám đốc mới nói toàn những điều tốt đẹp về người, về nghề, về sự lao tâm khổ tứ để đưa xí nghiệp tiến lên, Mây rẽ vào thăm giám đốc. Thấy cửa đóng, hơi men lâng lâng, Mây trổ tài trèo lên cây phi lao ngoài vỉa hè, nhìn qua cửa sổ tầng hai xem giám đốc ngủ hay thức thì thấy giám đốc và Hoa đang... “Ngồi! Như Tây!” Mây tụt nhanh xuống đất, vẫn chưa hoàn hồn và cứ lẩm bẩm một mình như người mất trí. “Ngồi! Như Tây!” “Như Tây! Ngồi!” Và lo không biết hai người có nhìn thấy mình không? Nỗi lo ấy ám ảnh anh. Đã nhiều đêm anh suy nghĩ. Rồi lại tự động viên mình: Sếp nhìn thấy cũng tốt, không nhìn thấy cũng tốt. Không nhìn thấy thì chẳng có vấn đề gì. Còn nếu nhìn thấy có nghĩa là mình đã nắm được huyệt của sếp. Sếp sẽ phải chú ý tới mình hơn. Anh tự nhủ sống để dạ chết mang đi. Nhưng rồi lại tự hỏi: Mình không nói, sao mọi người lại biết nhỉ? Và tự trả lời: Chắc sếp ăn vụng nhiều lần. Nhiều người nhìn thấy, chẳng riêng mình. Câu chuyện hư hư thực thực ấy như đã có kết luận rõ ràng khi mấy tháng sau Huy được làm hộ chiếu rồi xuống HL 19 làm đại phó! Huy được đổi đời. Hình như cũng biết những dư luận không hay về mình, mặt Huy càng vênh lên, càng làm ra bất cần mọi thứ và càng khoe khoang của cải, như muốn nói tất cả không là cái đinh gì, chỉ tiền là đáng kể. Mà tiền thì Huy nhiều. Đang có rất nhiều. Sẽ còn có rất nhiều. Lạ cái Huy càng nhiều tiền, mọi người càng coi thường, càng khinh Huy, nhất là Lê Mây.
Trả lời Huy “phải lên gặp giám đốc” nhưng Mây đi thẳng ra căng tin. Xúng xính trong chiếc áo ba đờ xuy dạ đen dài tới đầu gối, anh bước vào nhà bán hàng phòng đời sống lúc ấy còn vắng. Cô Ngụ nhân viên bán hàng, từ đài thu phát chuyển sang, gái tân mà lại đi lấy một ông góa có con trai lớn hơn mình vài tuổi, to cao trong chiếc áo bông bảo hộ lao động xanh rộng thùng thình, tươi cười chào Mây:
- Thuyền trưởng về bao giờ đấy. Trưa em xuống tàu. Cho em mấy con cá ngon đấy.
- Thích cá gì để anh bảo thằng đại phó của anh nó gói sẵn cho.
- Em chỉ thích con mực.
- Xong. Một con mực nang. Hai ki lô được chưa.
Anh mua một chai rượu quít. Rượu không bán tự do, phải có giấy của trưởng phòng đời sống hoặc bán theo tiêu chuẩn đi biển. Nhưng Mây được cô ưu tiên. Cả kho chỉ còn hai loại rượu: rượu quít và rượu chanh. Rượu chanh nặng, rượu quít nhẹ hơn. Mà lúc này chưa ăn gì lại muốn tu cho đã. Giơ chai rượu đỏ tươi lên ngang mặt ngắm nghía đầy âu yếm như ngắm nhìn khuôn mặt người bạn tình bấy lâu khao khát, lấy tay lau sạch bụi, rồi vặn cái nắp nhựa chụp xuống miệng chai. Vỗ mạnh vào đít chai mấy cái như quy trình vẫn phải vậy, để rượu thúc mạnh vào nút nhựa xoáy bịt cổ chai, lấy móng tay cậy cho nút kênh lên, cuối cùng là vặn cái nút xoáy ra. Mây làm những việc ấy một cách vừa trang trọng vừa trìu mến và bây giờ anh giơ chai rượu đã được lau hết bụi lên cao, đắm đuối ngắm nhìn chai rượu đã mở sóng sánh một thứ nước đỏ hồng, như người ta cởi bỏ xiêm y của một người đàn bà và chiêm ngưỡng tấm thân ngà ngọc. Ngước nhìn chai rượu một lúc rồi ngửa mặt há miệng, hàm dưới râu ria lởm chởm hơi đưa ra, Mây nghiêng chai từ từ rót thẳng vào cổ. Rượu vừa mát như nước, vừa nóng như lửa xối vào họng.
Anh nuốt. Từng ngụm, từng ngụm. Rượu tràn ra hai bên mép, đọng trên râu. Anh lấy mu bàn tay quệt ngang. Rượu ngấm vào từng mạch máu. Rượu làm anh phút chốc bừng tỉnh lại như tê đi, như đờ dại lại như bay lên. Thêm một lần dốc nghiêng chai từ trên cao xuống miệng. Ngậm đầy miệng thứ dung dịch khát khao ấy rồi từng ngụm nhỏ, từng ngụm nhỏ nuốt nó qua họng vào người, cảm thấy hết sức sống của hơi men lan tỏa. Và lại đưa chai rượu lên ngắm nghía như người ta nhìn ngắm say mê thân thể bạn tình trong lúc đang yêu. Đã hết khoảng nửa chai. Lần thứ ba ngửa cổ, nghiêng chai. Rượu tràn ngập cổ cái hương vị gần một tuần nay mong mỏi. Uống đến lần thứ ba thì gần hết chai rượu. Mây đứng lặng, chai rượu trong một tay buông thõng, mắt nhìn vào một chốn vô hình. Lắng nghe từng mạch máu giãn nở, từng tế bào cựa mình. Nghe máu dồn về tim và từ tim chảy đi, tỏa lên đầu rần rật và tới mọi ngóc ngách cơ thể. Thấy mình như đang bay lượn, mình không đứng ở phòng đời sống, cũng chẳng phải đang tay nắm tay thằng con trai bé đi dung dăng trong xí nghiệp, cũng chẳng phải đang trên giường với vợ trong buổi tối đầu tiên về bến, lại cũng không phải lúc đánh một mẻ lưới trúng tim luồng cá, cái đụt căng tròn kéo lên trong ánh nắng sớm mai. Cái gì cũng không phải. Mà là tất cả những cảm giác trên cộng lại. Thỏa mãn. Phấn chấn. Yêu đời. Coi khinh mọi khó khăn. Việc gì cũng trong tầm tay. Và thắng lợi... Giơ cái chai đã gần cạn lên lần thứ tư, nhìn trìu mến rất lâu chất nước đỏ hồng còn trong chai như nhìn một cái gì kỳ lạ lắm, không hiểu nổi và cũng là để xem nó đã vào trong người mình bao nhiêu. Lắc lắc chai, định làm thêm một ngụm nữa, nhưng đưa gần tới miệng thì đổi ý. Ngần ngừ một giây rồi dốc ngược chai đổ rượu xuống nền nhà. Uống thế thôi. Cũng phải cho nó uống một tí, mời nó một tí. Nó đã được tí nào đâu. Rượu đỏ chảy qua miệng chai, tóa xuống cạnh chân anh. Nền xi măng cóc ghẻ của phòng đời sống nuốt chỗ rượu Mây rót mời rất nhanh. Nhanh hơn cả Mây. Còn lại vỏ chai không. Anh lẳng nó vào một góc nhà chất đầy vỏ chai bụi bậm cái lành cái vỡ, thọc hai tay vào túi áo ba đơ xuy bước ra ngoài, đi trong gió mùa ào ào lên phòng giám đốc.
Nửa đêm qua mưa dông. Những làn gió mát lạnh lúc sắp mưa khiến tôi và bác Sĩ đang nằm ngủ ngoài trời phải ôm chăn chiếu chạy vào trong phòng.
Sáng nay dậy tìm mặt trời mọc nhưng không thấy. Nhiều mây. Gió tây bắc. Biển êm lạ thường. Chỉ là những gợn sóng lăn tăn. Chú Hồng bảo tôi:
- Biển thế này có điên không. Cầu biển sóng cấp sảu cho thằng này say sóng để nó biết bố Đảng khổ như thế nào. Mày chưa say là tao rất buổn cu con ạ. Nhưng cẩn thận đấy. Biển êm thế này là chỉ nay mai thôi sóng gió nổi lên, biết thế nào là lễ độ.
Tôi cười: Chảu không say. Đấy rồi chú xem.
Cảc chú thủy thủ dậy kéo lưới, nhặt tôm cả đưa xuống hầm xong, đi đảnh răng rửa mặt rồi ai lại về giường người ấy nằm ngủ. Ngủ tranh thủ, ngủ dễ dãi. Ngủ lắt nhắt nhưng thoải mải ngon lành và khi có tiếng chuông kéo lưới là vùng dậy ngay. Hai tiếng rưỡi một mẻ lưới. Cả ngày cả đêm. Những bộ mặt ngái ngủ. Những khăn mặt vắt vai. Những dảng đi lừ khừ, loạng choạng. Rửa mặt. Vớ cái bảt vặn nước uống trong thùng men súc miệng. Những chiếc ảo bảo hộ dày cộp quàng qua vai. Một chú ngực béo đầy lông lả từ giường đứng dậy bước ra hành lang, chỗ vắt quần ảo, vừa đi vừa nói: “Quần đẹp của tôi đâu?Ảo đẹp của tôi đâu?” Chú Quẹn tơi trưởng xỏ chân vào quần bảo hộ lao động rảch đầu gối, chân thòi qua chỗ rảch. Chú Hồng mặc quần ngược, quay chỗ đầu gối rảch về phía sau khoeo, rồi vòng tay cài khuy ở sau lưng. Chú vê tê đê vớ bộ quần ảo đầy những vết bẩn đưa cho bảc Sĩ:
-  Quần đẹp đây.
-  Ảo đẹp đây.
Bác Sĩ xỏ tay vào cái ảo blu dông quả rộng, cái quần xanh vén ống, lượt vải phía trong còn xanh gần như mới, khác hẳn lượt vải bên ngoài bạc phếch. Chú Đỉnh chú Quẹn đứng tơi. Tơi kêu hồng hộc, quay ù ù. Dây cáp lên. Tơi ghì lôi tấm lưới. Dây cáp chỗ sát mặt nước rung bần bật, nhích dần. Đã tới chỗ tám xoay. Từ chỗ ấy dây cáp chẻ ra làm ba: Một vào “quả bom”, hai dây còn lại vào hai ván. Cái tám xoay nhảy lên qua pu li. Bác Sĩ cầm sào có móc đứng chờ. Bác lao cái móc vào dây kéo đụt. Hụt. Lần thứ hai móc được, kéo được. Hai người nữa xúm lại kéo cái đụt lủng lẳng ròng ròng nước. Bắt sợi dây vào tang tơi. Cho tơi cuộn. Tất cả mũ áo đứng trên boong. Một người giật đụt. Reo hò ầm ĩ. Reo vì mẻ lưới thất bại, chỉ có mấy con cá nhỏ, một ít ghẹ và mấy con tôm. Kéo xong lưới bên trái rồi đến lưới bên phải, tấm lưới vẫn được nhiều hơn. Hai cái đụt phinh phính như hai quả bầu. Hai chú giật dây. Tụt xuống một đống tròn. Một búi rắn biển cuộn khoanh, đầu ngóc cả lên ngơ ngác nhìn quanh. Lại reo hò ầm ĩ. Rất ít tôm. Có một cặp cá hiên nhơ nhỡ đập mình. Đúng là giống cá hiên đi đâu cũng có đôi.
Bố hạ lệnh cẩu lưới. Vào vụng Ngọc trú. Giời này biển lặng, trăng sáng, ít tôm. Chờ một vài ngày nữa xem sao. Bác Sĩ nhìn giời bảo:
-  Chỉ ngày mai chậm lắm là ngày kia biển động thôi.
Bố bảo bác Sĩ:
-  Thay cái đụt bên thằng Quẹn đi.
Tàu chạy vào vịnh. Trên đường vào vịnh, tất cả biến vào cabin. Giữa trời nắng, chỉ còn bác Sĩ áo đẹp mũ lá có quai ni lông trắng và chú Hồng quần đẹp mặc lộn đằng trước ra đằng sau lúi húi giữa boong với tấm lưới.
Tôi quên không kể chuyện hai con lợn. Hai con lợn tàu nuôi. Chúng nó rất khôn. Cứ tha thẩn ụt ịt ngoài hành lang. Nắng chiếu vào hành lang bên này thì rủ nhau sang hành lang bên kia. Khi tàu dắt lưới ngược lại, nắng chiếu ngược lại, chúng cũng chuyển hành lang, nằm thở phì phò trong bóng râm. Cái đêm mưa to, tôi và bác Sĩ ngủ ngoài boong phải chạy vào trong nhà, chúng cũng không phải nằm ngoài mưa. Bác Sĩ rút hai chiếc ngăn kéo ở một cái giường thủy thủ bỏ không, lùa chúng vào trong buổng. Như đã quen với những chuyện ấy, chúng thành thạo nhảy qua bậc cửa sắt cao, vào cabin và mỗi con một ngăn kéo, nặng nề nằm xuống ngoan ngoãn. Mẻ lưới nào chúng cũng có mặt ngoài boong. Chỉ đứng xa nhìn. Không thấy ai để ý, chúng kêu ụt ịt. Và bao giờ chúng cũng có phần. Các chú thủy thủ quãng ra cho chúng khi con cả, khi con ghẹ. Chúng ăn rất thiện nghệ. Chúng dẫm một chân lên con cả mối, ngoạm vào chỗ thịt giáp với đầu, bóc ngay được nửa con, không dính một tí xương nào. Rồi lấy mổm lật giở con cá và lại làm như vậy. Hai cái rứt là xong một con mối tươi nguyên. Chỉ còn lại đầu với cái xương sống chạy dài tới đuôi lởm chởm xương dăm. Chúng ăn ghẹ mới thật cừ. Khôn ngoan như người vậy. Con ghẹ giương hai càng dài lên đe dọa. Con lợn vừa đưa mõm tới gần, con ghẹ lùi lại rất nhanh, hai càng khua khua trước mặt con lợn. Lợn ta đứng sững. Hai con vật nhìn nhau. Lợn giả cách đi chỗ khác như bỏ cuộc. Rồi bước nhẹ nhàng về phía sau con ghẹ. Bỗng rất nhanh, lợn đặt một chân lên lưng con ghẹ, ấn chặt. Hai càng ghẹ quều quào trong không khí nhưng bây giờ đã trở thành vô tác dụng, chẳng làm sao cắp nổi lợn. Ấn mạnh chân, giữ chắc con ghẹ trên mặt boong, lợn ta cúi xuống, há miệng ngậm lấy cái mai, nhích chân sang những ngoe con rồi hất mạnh đầu, con ghẹ đã bị tách làm hai, hệt như mẹ tôi hay cái Ngàn chách cua đồng nấu cơm vậy. Nhìn hai con lợn ăn cua ăn cá thạo thế tôi đã hiểu vì sao chúng béo rụt đầu rụt cổ. Đúng là những con lợn sướng nhất thế giới!
Sau chuyến ấy tàu VT 250 do Lê Mây làm thuyền trưởng vào sửa chữa. Như mọi con tàu vào sửa chữa định kỳ khác, nó bị kéo dài. Công việc sửa chữa của xí nghiệp cơ khí ùn lại. Do thiếu vật tư, do không đủ phụ tùng thay thế, do việc lên đà một con tàu nào đó phụ thuộc con nước bị chậm. Trăm thứ lý do. Dồn toa. Tàu này lùi đẩy tàu khác lùi. Tình trạng mười phương kiệt nguyên liệu thống trị sản xuất. Hai tháng sau vẫn không ai ỏ ê đến VT 250. Rồi ba tháng. Đói. Đói không khác gì 307. Và cũng phải xuống cuối cảng đỗ ngoài thằng 307. Nằm mãi, vô công rồi nghề tù túng đói rách bứt rứt không chịu được. Mây nghĩ ra một mẹo: Xin giám đốc cho đi thêm một chuyến, vừa để tăng sản lượng cho xí nghiệp, vừa đỡ lãng phí thiết bị, lãng phí nhân lực. Máy trưởng Fa Ra Đay nhất trí cao. Anh em thuyền viên reo hò tán thưởng. Nhưng phải có quà lên giám đốc. Chẳng thể nói suông. Quà gì? Anh em mình nghèo, giám đốc thừa biết. Về vật chất chẳng thể nào bằng được thằng Hạ Long 19, thằng Hạ Long 02, chúng nó tiền tấn. Mình cốt cái lòng thành. Ta biện cái lễ nhỏ thôi. Giám đốc mấy hôm nay có phu nhân và tiểu thư xuống chơi. Vậy ta cứ làm con gà, chai rượu. Thuyền trưởng, máy trưởng phải xuất tướng. Thuyền trưởng nói về việc thực hiện kế hoạch. Máy trưởng báo cáo thiết bị vẫn đi tốt. Nhất định được. Xin đi đánh cá cho xí nghiệp chứ làm gì đâu mà không được. Nghe có vẻ xuôi. Nhưng Mây không ngờ các thứ quỹ tàu đều đã xoẳn dù chưa bước vào sửa chữa. Túi anh, túi Fa Ra Đay đều cạn, đều mắc bệnh viêm cơ túi. Cuối cùng anh phải thân ra Ngã ba Đông Dương, tới quán bà Bảy Béo quen, tháo cái đồng hồ Seiko five (quen thì quen, ăn mòn bát mòn đũa vẫn phải như vậy, cái ngã ba này nhờ cánh tàu cá mà bao nhà giàu có hẳn lên) đặt hai con gà mái tơ và một chai ba sì đế(1) đúng chập tối lên lấy. Nhớ là chập tối. Mấy giờ à. Đồng hồ cắm quán cô em rồi còn hỏi giờ giấc. Nhớ là phải có cả lộc(2). Nhiều lộc vào. Kế hoạch thực thi tốt đẹp. Bà Bảy giao gà giao rượu đúng thời gian. Lộc nhiều. Hai con gà luộc vàng ươm được gói giấy báo đặt trong mâm nhôm và để kín đáo, bà Bảy còn úp cái lồng bàn lên trên. Nhọ mặt người, Đay đội mâm, Lê Mây cầm chai ba sì đế. Từ Ngã ba Đông Dương tới nhà sếp khá xa. Đay đội ê cả cổ.
Tới nơi, đội lễ lên ngang cầu thang lại phải đội xuống. Nhà sếp không chỉ có vợ chồng sếp. Mà còn có khách. Lại phải sang bên kia đường. Vào hàng nước. Chờ. Nhưng đám khách vừa xuống lại một người khách đi xe máy tới, khóa xe ở sân, lên thang. Ông này trông lạ. Hình như ở hải quan. Hay trên Bộ. Chờ lâu. Cuối cùng khách cũng xuống. Rất nhanh, Mây và Đay đội mâm xách rượu bước lên. Cái gì thế này? Giám đốc kêu lên. Đay mở lồng bàn. Mây đặt chai rượu nhìn giám đốc: Biết chị và cháu về chơi, tàu chả có gì, nằm bờ lâu quá rồi, gọi là lòng thành có tí quà mang biếu thủ trưởng với chị và cháu ăn cơm khỏi phải đi ăn tiệm, phiền ra.
Lần đầu tiên trong đời tổng giám đốc nhận được một món quà biếu như vậy. Ông cố nín cười bảo vợ chặt ngay con gà ăn cơm, nhiều khách quá đang đói mềm ra đây và mời hai anh ăn luôn thể. Không thể nói đánh độp cái chuyện xin đi thêm một chuyến biển được, không thể về ngay được, thuyền trưởng, máy trưởng đành phải ở lại. Và cũng không thể để phu nhân giám đốc chặt thịt gà, Mây nói:
- Ông Đay ra chặt cho chị Vân đi. Chị cứ để đấy, chúng tôi làm nhoắng cái là xong.
Đay nhanh nhẹn bước tới chỗ đặt thớt có cái mâm mình vừa đội đến. Gì chứ, chặt hai con gà, làm bữa nhắm chỉ là chuyện vặt. Ác cái là chờ đợi lâu quá, hai tờ báo dính bết vào lớp da gà béo nhẫy những mỡ, mủn ra.
Vừa chặt vừa phải bấu bấu, nhặt giấy mủn để vào một góc mâm. Năm người ngồi ăn. Vợ giám đốc, cô con gái giám đốc ăn xong trước, còn lại ba người. Và bây giờ mới là lúc vui, lúc câu chuỵên cởi mở, rôm rả. Mây mạnh dạn đề nghị được đi thêm một chuyến với những lý lẽ khó mà bác bỏ, chính đáng không chê vào đâu được, hoàn toàn vì công việc, vì lợi ích của xí nghiệp và kết luận:
- Báo cáo giám đốc, tôi là đứa con hay lo hay làm của Đảng, không xin giám đốc đi nghỉ mát hay đi dưỡng bệnh. Chỉ xin được đi biển đánh cá mang về cho xí nghiệp thôi. Nằm nhà lâu nó hỏng mất người.
Có lẽ vì hương vị John đen ngon êm quá, hai vị khách uống hết chén này tới chén khác. (Giám đốc cất chai rượu trắng của tàu đi, và lấy ra một chai Johnnie Walker đen, loại rượu có thứ hạng trung bình trong số những bạt ngàn các chai rượu trong buồng, đủ loại vang, sâm banh, uyt ki, cô nhắc, quà của các tàu vận tải ngoại thương, cái món này đối với dân nghiện như Mây, như Đay thật mềm môi). Đay đế theo đúng kịch bản đã xây dựng từ trước:
- Báo cáo giám đốc. Thiết bị vẫn còn gọ gẵng được. Có cái bơm nước làm mát bị hỏng, chúng tôi đã liên hệ với thằng 217, tàu nó lên đà, nó hứa sẽ cho mượn một chuyến biển. Dầu của tàu còn năm tấn. Chỉ xin xí nghiệp cho nhận thêm năm tấn nữa thôi.
Lê Mây nhăn nhó:
- Bây giờ đang mùa cá bánh đường. Các tàu đánh đều đạt sản lượng cao. Chúng tôi ở nhà nghe bạn bè nói mùa vụ, ruột gan chúng tôi cào xé lắm.
Giám đốc cười:
- Uống đi đã. Công việc hãy để đấy. Tính sau.
Ông thừa biết lý do xin đi thêm chuyến biển nữa. Ông hiểu ngay cái lý do không được nói ra, mà đó lại là lý do chính. Các tướng nằm bờ lâu hết tiền. Nhưng chẳng lẽ nói với giám đốc rõ ra cái ý ấy, có khác gì nhận tôi không vì xí nghiệp mà chỉ vì tôi. Ai cũng vậy. Nói ra miệng điều mình không nghĩ, và giấu biệt trong lòng những điều mình mong ước, giấu biệt mục đích của mình. Trong hàng ngũ những thuộc quyền của ông mà ông giao tiếp, người ta đều giấu ông ý nghĩ thật và thỉnh thoảng mới xì ra những sự thật cỏn con rồi thổi phồng lên, coi đó như bản chất trung thực của mình để được ông tin tưởng, được ông coi là tâm phúc. Cũng như ông đối với cấp trên ông thôi. Nói dối, giấu đi những ý nghĩ thực của mình, lúc nào cũng vì công việc, vì cái chung, lo lắng suy nghĩ... Đó là cung cách ứng xử của tất thảy. Mọi người ông nhìn thấy, kể cả chính ông nhìn ông và nhìn cấp trên, cấp dưới của ông, chỉ là con người biểu kiến chứ đâu phải con người thực. Cũng giống như chân trời biểu kiến khác với chân trời thực mà ông đã học khi còn là sinh viên. Cái chân trời mình nhìn thấy luôn không phải là chân trời thực. Cụm từ “trằn trọc trăn trở” của người lãnh đạo luôn được nói tới thực chất chỉ là trằn trọc trăn trở sao cho được việc chung để từ đó mình có thể rút ra cái phần tối đa cho mình. Và quan trọng là cái phần tối đa ấy bao giờ cũng phải có một phần dành biếu cấp trên. Phần biếu cấp trên có khi là ba mươi phần trăm, có khi là năm mươi, thậm chí đột xuất lên đến một trăm phần trăm cũng không được tiếc. Đau đấy nhưng không được nhăn nhó, mà phải giữ được nét mặt tươi như hoa. Phải biết nhìn những bước tiếp theo. Điều quan trọng là biết nhìn những bước tiếp theo.
Như bữa ăn hôm nay. Là toàn bộ quà biếu của tàu VT 250. Tàu đánh cá chẳng lấy đâu ra tiền. Lại là tàu nằm bờ mấy tháng nay rồi. Của cho không quan trọng bằng cách cho. Quà biếu không quan trọng bằng cách biếu. Nói vậy thôi. Quà biếu, của cho cũng quan trọng lắm. Vô cùng quan trọng. Không kém gì cách biếu cách cho. Món quà biếu hôm nay rõ ràng chẳng quan trọng gì. Lại còn tai tiếng nữa. Ông đã định không nhận. Nhưng rồi ông nghĩ lại. Nếu hai cán bộ tàu của ông đội mâm về sẽ ra sao. Hẳn sẽ trở thành một chuyện thời sự. Và bọn thối mồm, bọn ghen ăn ghét ở sẽ cười khẩy: Sếp đời nào nhận cái thứ vớ vẩn ấy. Đúng là mấy lão hấp. Sếp chỉ nhận những thứ thật gọn nhẹ thôi. Gọn nhẹ nhưng giá trị gấp trăm gấp nghìn lần. Hai con gà, sếp sẵn sàng nhận, nhưng phải là hai con gà bằng vàng. Chuyện thời sự ấy không chỉ nằm trong xí nghiệp. Nó còn lan truyền trong thành phố, thậm chí bay lên tận Hà Nội. Cách tốt nhất là nhận rồi mời hai người ở lại uống rượu với ông. Sẽ là một giai thoại vui. Hình ảnh ông sẽ được tô vẽ thêm, đáng yêu hơn trong con mắt mọi người. Ông uống rượu với hai thuộc cấp và rất thân mật hỏi hai người khách:
- Tôi hỏi thật hai ông nhé? Ớ dưới tàu, thuyền trưởng máy trưởng có ăn cắp cá không?
Câu hỏi đánh độp, tung ra rất bất ngờ. Ông không dùng chữ lấy, lấy cả, mà ăn cắp, ăn cắp cả. Gọi sự việc đúng tên của nó. Cả hai lặng đi. Lê Mây còn chưa biết trả lời ra sao trước câu hỏi vừa thân mật vừa sỗ sàng, vừa nghiêm túc ấy, Fa Ra Đay đang đưa chén rượu lên môi, chợt ngừng lại, nghiêm mặt trả lời:
- Báo cáo thủ trưởng có ăn cắp chứ. Không ăn cắp sống sao được!
Lê Mây chết lặng trước câu trả lời cũng sỗ sàng như câu hỏi. Nói thế là đúng, là nói sự thật. Nhưng không nên đốp chát như vậy. Phải nói sao cho có tình có lý để giám đốc biết thời buổi này nếu cứ ngang bằng sổ ngay, làm ăn lương thiện thì không thế nào đủ sống. Với lại mang tiếng đi đánh cá quanh năm suốt tháng, khi về nhà không có con cá mang về cho vợ cho con nghĩ nó cũng tủi. Nói đến đấy rồi có thể nói thêm báo cáo thật với giám đốc là cá mang về nhà phải là cá ngon, song, tráp, chim, thu... rồi nếu có thể nói dấn lên, báo cáo thật với giám đốc chẳng nói các anh cũng biết nhiều khi vợ ốm con đau thuốc men cũng chỉ trông vào con cá. Cực chẳng đã mới phải làm cái việc khốn nạn ấy chứ ai muốn làm gì.
Vẫn cầm chén rượu trên tay, đầy tự tin và cả tự hào vì mình là người đầu tiên dám công khai nhận với tổng giám đốc việc ấy, Đay nói thêm để tổng giám đốc biết mình không phải loại ăn cắp thông thường:
- Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi ăn cắp nhưng không ăn cắp như những người khác. Chúng tôi ăn cắp có văn học!
Tiếng có văn học Đay tung ra nghiêm túc, nặng trĩu đầy hãnh diện khiến tất cả cười ầm. Cả vợ giám đốc đang ngồi gọt những quả táo tây tím lịm mà tàu vận tải nước ngoài biếu để chuẩn bị cho món đét xe cũng phải phì cười. Cả cô con gái giám đốc ngồi cạnh mẹ cũng bật cười. Giám đốc hỏi tiếp khi trận cười đã dứt:
- Thế nào là ăn cắp có văn học?
Mây im lặng chờ Đay trả lời.
- Khó nói lắm thủ trưởng ạ. Nghĩa là nó không thô. Nó có văn học. Thế thôi.
Giám đốc gật đầu, vẻ như đã hiểu. Ông thấy thằng cha máy trưởng trông sù sì như con gấu này được. Được ở chỗ hắn ta thật. Cái phần biểu kiến của nó không đến nỗi. Lần đầu tiên ông nghe một thuộc cấp trả lời ông như vậy. Có thể nói chuyện rất thẳng thắn với hắn về những chuyện khác nữa, nhưng không phải lúc này, không phải ngay bây giờ.
Bữa rượu chỉ kết thúc khi mấy vị chức sắc trong ngành công an đến chơi. Kết quả là số không. Tàu VT 250 cứ phải nằm bến chờ sửa chữa còn Đay được điều xuống làm máy phó tàu HL 19, cùng một chuyến với bác sĩ Nông Đức Bá, trưởng phòng y tế. (Chuyện đó sẽ kể sau). Và cũng khó khăn lắm Mây mới chuộc được cái đồng hồ. Bằng tiền của báo vụ Quân. Quân cùng quê xứ Quảng. Quân đi tàu HL 12 từ vịnh Thái Lan mới về. Tiền đang xủng xoẻng. Đưa theo tàu ra dăm tấn gạo, mặt hàng bao giờ miền Bắc cũng cần, cầm chắc lãi ba chục phần trăm, hơn trăm quả dừa khô chắc chắn lãi gấp đôi, thêm mấy chục kí bún khô để ăn và làm quà. Quân bảo Mây đèo về hai bao gạo, dăm kí bún. Lại cả một cặp dừa. Quân nói:
- Chi viện đồng hương thế thôi. Nếu thằng này đi tàu nước ngoài thì quà sẽ nhẹ hơn. Chỉ một cái tivi thôi. Hay cái phong bì là xong. Không phải cồng kềnh thế này. Nhưng bây giờ ra ngã ba Đông Dương cái đã. Nhớ bia hơi Hà Nội lắm rồi.
Hai người ra quán bia, vào đúng quán bà Bảy Béo. Uống và chuyện. Đến lúc ấy Quân mới biết Mây cắm đồng hồ ở quán. Thế là Quân chửi vung lên, bảo bà chủ quán:
- Chắc lép à? Có hai con gà mà bắt đồng hương của tôi phải cắm đồng hồ à? Muốn phá sản không thì bảo? Có muốn không ai vào đây ăn uống thì bảo?
Quân điên thật sự. Và Quân đã say. Bà chủ quán lắc lư bộ ngực đồ sộ rối rít thanh minh em cũng tưởng anh ấy quên tiền ở tàu, rồi anh ấy về lấy ngay, anh ấy gửi lại đồng hồ thì em giữ hộ thôi chứ có phải chắc lép đâu. Em cứ chờ mãi không thấy anh ấy đến lấy. Đây. Em cất trong tủ cẩn thận...
Mây đeo đồng hồ vào tay. Quân ngửa cổ dốc vại bia uống dở vào họng, dằn mạnh cốc xuống mặt bàn, bảo chủ quán:
- Tính tiền. Hai con gà, chai ba sì đế bao nhiêu. Cả lãi nữa. Chỗ bia uống hôm nay bao nhiêu. Thanh toán. Không uống ở đây nữa. Đi hàng khác.
Trả tiền xong, Quân dắt tay Mây dung dăng dung dẻ bước ra. Anh nhìn chiếc đồng hồ trên cổ tay Mây:
- Cả tàu không đứa nào có tiền à?
- Đứa nào cũng kêu cháy túi. Kể ra để một cái mũ giữa câu lạc bộ rồi thằng nào có bao nhiêu tiền vất cả vào cũng thừa đấy, nhưng ai lại làm thế. Mình là thằng thủ trưởng phải lo chứ.
Quân nhìn Mây âu yếm, tủm tỉm cười:
- Chịu bố. Giám đốc có thể dát vàng cả nhà xí, không thiếu thứ gì mà bố dám chơi cái văn đôi gà với cút rượu thì liều thật. Lại còn đội nghênh ngang giữa đường nữa chứ. Chỉ có bố là dám chơi cái văn buổi dải ấy thôi.
Rồi làm ra bộ nghiêm nghị nói với giọng khiển trách nhưng Mây biết đấy là bạn mình đang sướng, là lòng bạn mình yêu mến vô cùng:
- Đồng hương buổi dải quá đấy đồng hương ạ.
Ớ quán bia mới, hai người còn uống nhiều uống lâu. Biết bạn thèm rượu thèm bia, Quân chiêu đãi Mây một bữa túy lúy. Và cũng biết bạn túng, Quân rút ra một xếp tiền đưa cho Mây:
- Cái này là biếu đồng hương để uống, không phải đưa cho bà ấy. Bà ấy có khoản gạo kia rồi.
Thế là túi Mây rủng rỉnh. Trong thời gian tàu sửa chữa Mây có đồng ra đồng vào, nhưng cũng chẳng được lâu. Tính Mây thế. Tính cánh đi biển thế. Gặp nhau, kéo nhau vào quán, làm vài chén là thôi đấy. Mềm môi, cứ thế đưa cay. Khi tàu sửa chữa được già nửa công việc, nghĩa là có nhanh cũng còn hai tháng nữa, Mây đã nhịn rượu cả tuần rồi. Người bã bời, đắng ngắt, mồm miệng nhạt thếch, chân tay rời rã. Giống hệt cái hồi đi chuyến biển cuối cùng năm ngoái. Đang lang thang trên cầu thì gặp Huy. Huy rút trong túi ra bao thuốc Capstan mời Mây xuống tàu làm một tí cay cay.Chỉ nghe thấy thế bao nhiêu nước miếng đã tứa ra rồi. Chân Mây cứ bước theo Huy như một cái máy không thể nào cưỡng được. Họng Mây như đã được thứ nước nóng bỏng ấy tưới vào làm cho tươi lại, sống lại. Cái cay cay của Huy không phải là thứ cuốc lủi nhạt phèo ở mấy hàng nước quanh đây, ngay cả rượu Vân cũng chẳng thấm gì. Mà nó giống rượu ở nhà giám đốc hôm nào. Trong veo. Thơm. Thơm lạ lùng. Cầm chén rượu lên chưa uống đã thơm. Uống rồi thơm mãi, ấm mãi trong họng. Và đặc biệt uống thoải mái không nhức đầu. Ngấm. Và êm. Nhưng đi được mấy bước anh quay ngoắt lại trước sự ngạc nhiên của Huy. Nhìn theo Mây, Huy cười một mình: Cà cuống chết đến đít vẫn cay. Không xuống thì thôi. Càng còn rượu. Rồi cười một mình: Đã thế mai gặp lại mời, xem giữ được bao lâu.
Mây đi một mạch đến nhà gửi xe. Đạp về nhà. Anh ở khu bãi cát, một khu tập thể của xí nghiệp. Lục tìm trong túi ni lông treo ở một cái đinh trên tường. Lấy ra quyển y bạ. Đút vào túi, xem đồng hồ rồi phóng xe đi. Vừa ra ngõ, gặp ngay Quân rỗ đang đi vào.
- Tôi đang định vào rủ ông đi kiếm tí ba si đế.
Mặt Mây sáng lên. Nhưng lại ỉu xìu khi biết Quân cũng cháy túi.
- Xuống thằng mười chín với tôi. Quân bảo. Vào thằng Dân vê tê đê. Nó vẫn mời tôi xuống nó.
Nghĩ đến việc xuống đấy có thể gặp Huy, phòng đại phó và phòng báo vụ nhìn thẳng sang nhau, Mây bảo:
-  Y bạ ông để đâu?
-  Ở tàu. Làm gì?
-  Ông về lấy ngay ra đây. Đi với tôi luôn.
Một lúc sau hai người hai xe, hai quyển y bạ bước vào trạm xá. Mây khám trước. Đồng chí Bá, bác sĩ người dân tộc nhưng tinh ranh hơn bất kỳ một người Kinh nào, có cô vợ trẻ đẹp như mơ nhưng đang rất lo chuyện ấy của vợ ngày một yếu, đã mua các thứ thuốc cho vợ uống vẫn không kết quả đành chịu bó tay và giờ đây tập trung sức lực vào việc mở cuộc vận động đi tàu nước ngoài với chức danh bác sĩ cũng được nếu không thì phục vụ viên cũng được, tươi cười chào Mây:
- Chào thuyền trưởng. Lâu lắm mới gặp thuyền trưởng. Thuyền trưởng đau ốm làm sao?
Mây đưa quyển y bạ, làm ra mệt mỏi nhăn nhó tật bệnh ốm đau:
- Chân tay tui nhức hết. Lưng nhức, ngực nhức. Anh xòe bàn tay to lớn chai sạn của mình ra trước mặt bác sĩ: Tay nhơm nhớp, chân nhơm nhớp, cứ ra mồ hôi trộm. Khó chịu quá bác sĩ ạ.
Bá đeo ống nghe, luồn vào lưng vào ngực Mây, vẻ mặt nghiêm trang chăm chú. Một lúc sau lại bảo:
-  Anh thở mạnh vào.
Mây thều thào thiểu não như sắp quỵ đến nơi:
-  Ngực tưng tức, khó chịu lắm.
Bá vừa nghe phổi nghe tim cho Mây vừa nói với Quân ngồi chờ ở ghế gần đó:
- Chờ một tí nhé. Anh Quân bệnh gì?
Mây nhanh nhảu trả lời thay Quân:
- Nó cũng như tau. Nó cũng như tau. Tay chân nhơm nhớp...
Không chịu được sự nhăn nhó giả vờ của Mây, Quân đứng lên:
- Hắn nói bậy đó. Không bệnh trạng chi hết đó.
Anh bước tới cầm quyển y bạ của Mây để trên chiếc
bàn có phủ mảnh vải màu cháo lòng, lật từng tờ trước mặt bác sĩ:
- Y bạ trắng tinh. Một viên aspirin cũng không. Từ ngày vào xí nghiệp hắn chưa một lần đến phòng khám bệnh. Lần này là lần đầu tiên. Hắn khỏe nhất xí nghiệp đó. Chẳng bệnh gì. Chẳng qua là thèm rượu thôi. Thèm rượu nhưng hết tiền. Không có tiền mua rượu. Tôi cũng thế. Chẳng bệnh tật gì. Y bạ đây. - Quân lại chìa quyển y bạ của mình ra, giở từng tờ - Trắng tinh. Xí nghiệp chưa tốn một xu thuốc nào. Viên B1 cũng không. Lưng tôi lưng xuất khẩu đấy bố ạ. Báo vụ nhưng những lúc cần, ngồi nhặt cá suốt đêm với cánh thủy thủ. Bọn boong còn phải nghỉ giải lao chứ thằng này thì không. Bụng dạ cực tốt. Lên bờ bát ngát, về tàu muộn, xuống bếp, chảo cá kho không đậy vung, gián trong vạc bò ra rào rào như mưa, thằng này vẫn gắp ăn, chẳng sao. Bụng tôi bụng inox đấy bố ạ...
Bá bật cười:
- Thế bây giờ các bố cần gì, ốm không ốm đau không đau. Lưng thì xuất khẩu, bụng thì inox...
Không phải đóng vai người ốm nữa, Mây tươi tỉnh mặt mày nói năng lưu loát, anh cười làm những nếp nhăn sớm có nổi lên chằng chịt trên khuôn mặt nâu sạm râu ria lởm chởm:
- Cứ cho mỗi thằng bốn chai canh kí na hay phong tê thấp cũng được. Nói thật với bác sĩ thèm quá rồi. Chẳng còn xu mẹ nào. Tàu nằm bờ lâu quá. Thằng đánh cá nằm bờ là túi xoẳn. Có như thằng đi tàu nước ngoài đâu.
Bá lắc đầu:
- Hai chai thôi. Tiêu chuẩn khám chỉ mỗi người một chai rượu thuốc. Hai chai là đã ưu tiên rồi.
Quân gắt yêu:
- Cứ ghi vào đây, mỗi y bạ bốn chai. Y bạ trắng tinh đây này. Phải bốn chai chứ hai chai ai uống ai đừng.

Bác Sĩ, chú Hồng nói không sai: Hôm trước biển lặng, thả cái bát xuống biển không chìm thì phải coi chừng, có gì ăn trước đi. Hôm sau biển động đấy! Tàu vào vụng Ngọc trú gió hôm trước thì hôm sau biển động. Vừa buông neo trong vụng, đã nghe tiếng bơm nước hùm hụp hùm hụp. Mọi người trần truồng hết, chen chúc trong nhà tắm, không ai xấu hổ xấu han gì. Lạ thế! Vào đây tắm với chúng tao thằng Ba Đùi. Giờ thì tất cả mọi người trên tàu (trừ chú Hùng lùn và bố tôi) đều gọi tôi là thằng Ba Đùi. Tôi cũng quen rồi. Không ngượng nữa. Hơn thế, tôi hiểu mình được cả tàu quý men. Nóng. Nóng quá. Không một phe phẩy gió. Tắm xong, mở bia, nước ngọt rót vào ca. Một thau đá dùng để ướp cá ướp tôm từ dưới hầm đã được đặt giữa buồng ăn. Tiếng lắc ca cho đá chảy, tiếng nhai đá rau ráu giòn tan. Hai chiếc thuyền nan từ trong bờ chèo ra áp mạn tàu. Mỗi thuyền là một phụ nữ. Một người hơn tuổi mẹ tôi đứng trên sạp thuyền chung quanh toàn mít, dứa và quả tai chua. Một người chỉ khoảng ba mươi, mặc quần hồng áo hồng, nét mặt sáng sủa nhẹ nhõm rất hay cười, trong thuyền bà ta chỉ có những lồ không. Bà ta đứng dưới thuyền gọi tên từng người trên tàu. Bố tôi cũng bước ra: Chào cô Nguyệt. Thế nào? Xây nhà chưa? Chào thuyền trưởng. Làm ăn ngày một khó khăn. Lấy đâu tiền mà xây nhà. Thuyền trưởng có chiếu cố cho em đâu. Chú Hồng cười: Chiếu cố đi thì phải chiếu cố lại, quan hệ hai chiều mới bền chứ. Tất cả cùng cười. Người đàn bà có tên Nguyệt lại nói: Cho em lên tàu đi. Cứ bắt em đứng phơi nắng dưới này à? Hôm nay cho em bao nhiêu lồ? Bác Sĩ bảo: Nhiều lồ. Lồ to. Bọn anh chỉ đổi lấy một lồ bé tí của em thôi. Em đổi. Sẵn sàng. Có ngay. Mọi người lại cười. Cả bà già đứng trên thuyền mít cũng cười. Trong khi thả thang dây thì đổi cá lấy mít, lấy dứa đã. Đổi mít, đổi dứa không phải dùng thang. Hai lồ cá vụn (đã chuẩn bị sẵn, để ngay ngoài be) chỉ đổi được hai quả mít chục quả dứa và mươi quả tai chua. Người dưới thuyền cứ đứng dướithuyền. Cả dòng dây chuyền qua be, mít dứa tai chua kéo lên qua be. Lổ đựng hoa quả là lổ sạch. Tôi chưa thấy ai mua bản đổi chảc như vậy bao giờ. Người mua cũng như người bản không cần biết mặt hàng mình mua tốt xấu ra sao. Rất nhanh mặt nước biển chung quanh tàu đã nổi lềnh bềnh những vỏ mít chỉ còn toàn xơ nhựa loang thành vảng, những miếng vỏ dứa vạc sâu cho hết mắt. Và cũng rất nhanh bà bản hoa quả chèo thuyền vào bờ. Đó cũng là lúc thang dây đã được thả xuống thuyền. Cô Nguyệt nắm thang dây trèo lên. Bốn năm bàn tay giơ ra đỡ cô nhảy từ trên be xuống mặt boong. Bố tôi, chú Hùng vẫn ở trên buổng lải. Trừ bảc Suất, bảc Nhớn cấp dưỡng và vài người nữa, tất cả vây quanh cô Nguyệt. Người nắm tay cô. Người vỗ vai cô. Cô cười với tất cả. Rồi cô bảo: Thôi. Cảc anh giao cả cho em đi. Tối em ra. Cần cẩu hoạt động. Nắp hầm cả vuông bằng gỗ dày và nặng bịt thép được cẩu lên rồi đặt xuống mặt boong đảnh rầm. Nhiều người nhanh thoăn thoắt xuống hầm. Những lổ cả được đưa lên. Mười tảm lổ tất cả. Bảc Sĩ bảo mới đảnh mấy ngày được ít nhưng toàn tươi ngon đấy. Cô Nguyệt thì chê cả bé cả xấu. Bảc Sĩ cầm con cà mối nâu to đùng giơ lên: Của em bé thì có. Của bọn anh to thế này còn chê bé, đòi to đến đâu nữa. Tất cả hau hảu nhìn vào cô Nguyệt. Cô Nguyệt đỏ rừ mặt, phảt vào vai bảc Sĩ: Phải gió cái nhà anh này. Rồi hai người vào trong cabin bảc Sĩ đóng cửa lại. Chắc là để giao tiền. Chú Hồng nhìn cái cửa gỗ phoóc mi ca đóng chặt nói: Lãi nhất là bố Sĩ nhọ. Lẽ ra bố ấy chỉ được năm mươi phần trăm định suất. Chú Quẹn còn bảo: Không được phần trăm nào cũng lãi rồi. Tất cả cùng cười. Hai người đóng cửa trong phòng không lâu. Cô Nguyệt mở cửa bước ra. Tôi tò mò nhìn vào: Bác Sĩ đang nằm bò trên giường lúi húi viết gì trên một tờ giấy, bên cạnh là một xếp tiền. Một lúc sau từng người một vào nhận tiền bán cá. Rồi bác Sĩ cầm tiền lên buồng lái. Không cần lên theo, tôi cũng biết bác đưa cho bố tôi và chú Hùng lùn. Tôi hoang mang quá. Không hình dung được việc cả tàu bán cá như vậy. Mà bán rất tự nhiên. Rất công khai. Chẳng phải suy nghĩ đắn đo. Không phải bàn bạc. Nhận tiền cũng vậy. Bây giờ tôi đã hiểu những đồng tiền bố đưa cho mẹ là thế nào rồi. Không phải tất cả là đồng tiền mồ hôi, đồng tiền lương thiện. Quyển sách, bộ quần áo, đôi dép của tôi và cái Ngàn đẹp hơn những đứa bạn cùng lớp là nhờ những đồng tiền bán cá này. Cả căn nhà cũng vậy. Việc này đã diễn đi diễn lại bao lần rồi. Từ bao giờ? Và vẫn còn tiếp diễn. Từ hôm ấy giữa tôi và bố tôi có một khoảng cách chứ không còn như trước nữa. Tôi quan sát bố, ngẫm ngợi, vừa không hiểu vừa quý lại vừa thương. Bố làm việc ấy vì chúng tôi, vì mẹ. Tất cả những người trên tàu vừa bán cá của nhà nước, đút tiền vào túi cũng đều vì gia đình, vì vợ vì con. Tôi bỗng nghĩ đến con chim bói cá. Mọi người trên tàu cũng giống như con chim bói cá hôm qua. Vất vả kiếm ăn nuôi đàn con nhỏ.
Hết nghĩ đến con chim bói cá tôi lại nghĩ đến bác Sĩ, đến mấy đứa con bác mà bác đã kể cho tôi nghe. Bắt đầu từ việc uống chè. Bác Sĩ uống chè rất đặc. Cái ca pha chè của bác có khi bã gần đầy. Nước đặc quánh. Tôi không bao giờ dám uống chè của bác. Chát săn cả môi, sít lưỡi. Mỗi khi bác về quê là mang theo hàng cân chè. Cả xóm đẽn uống. Khách đến ngồi giường uống chè, xem tivi. Chỉ sợ sập giường. Bác bảo vợ con bác rất chiều bác. Đám con bác cứ thứ bảy là đứa lớn cõng đứa bé ra ngõ đón bố. Bảy đứa tất cả. Bác đọc tên từng đứa, đọc đi đọc lại mà mãi tôi không nhớ nổi. Không nhớ tên. Không nhớ đứa nào là chị, đứa nào là anh, đứa nào là em. Chỉ đến khi chú Hồng cao giọng ngâm như ngâm thơ, tôi mới nhớ. Nhập tâm ngay kể cả thứ tự lớn bé trai gái: “Tú, Tình, Đức, Độ, Lý, Loan, Đô”. Tú là cái Tú, Tình là cái Tình. Thằng Đức, thằng Độ, cái Lý, cái Loan, thằng Đô. Đọc xong câu thơ, chú Hồng nói: Kết bằng Đô. Hay! Đô là đô la. Có hướng đi lên.
Bác Sĩ còn kể khi ngủ thì cái Lý lên năm một bên, cái Loan lên ba một bên, hai đứa sờ hai ti. Thằng Đô lên một ngủ với mẹ. Bố về, bố chiều, lại có quà. Hộp sữa, cân bánh, cả tiền nữa. Vợ bác rất tằn tiện. Nghiêm. Có hộp sữa bác giai cho cũng chờ bác giai về mới ăn. Hoặc bán cho con lấy năm nghìn. Bác Sĩ cười bảo: Lũ trẻ nhà bác có vốn riêng. Tiền bố cho chứ ai. Nó đòi ăn sữa ăn kẹo. Cho ăn rồi vẫn đòi. Trẻ con nó thế. Thấy còn là đòi. Hết thì thôi. Thế là mẹ bảo con: Mày ăn tao bán cho hộp sữa. Năm nghìn. Nó mua ngay. Rồi lại đục mời cả nhà. Bữa ăn, cả nhà chỉ có một con tôm he rim. Mẹ nhường con. Con nhường bố. Bác cười: Ai ăn thì ăn đi. Có mỗi một con tôm he, này mẹ nó vất vả nhất, ăn đi. Người ta đi đánh tôm thiếu gì. Bác gắp vào bát bác gái. Bác gái lại nhai cho dập ra rồi bón với cơm cho thằng Đô bé nhất. Phụ nữ là chúa hay nhường. Bác bảo vậy. Bác gái cũng giống mẹ tôi. Bữa cơm có miếng gì ngon lại nhường tôi, nhường cái Ngàn. Nếu bố tôi ở nhà thì nhường bố tôi. Bác Sĩ rất thương vợ. “Ngườiphụ nữ là khổ. Nam giới đã khổ nhưng phụ nữ còn khổ hơn nhiều”. Bác thương bác gái, thương thật lòng, nhưng sao bác lại đóng cửa với cô Nguyệt. Chỉ giao tiền làm gì phải đóng cửa. Chắc chắn đã có một chuyện gì xảy ra. Mọi người trên tàu đều biết. Cả bố cũng biết. Tôi nghi ngờ những điều bác Sĩ nói về tình cảm của bác với bác gái. Từ bây giờ một khoảng cách cũng đã có giữa tôi và bác. Không còn tin vào những điều bác nói như trước nữa. Bác và cả bố, không giống như tôi vẫn nghĩ.
Đại thắng, hai người tám chai rượu thuốc về nhà Lê Mây.
Nhà Lê Mây ở khu Bãi Cát, trước đây là trận địa pháo cao xạ. Bây giờ chẳng còn dấu vết gì của một thời bom đạn, của những pháo thủ đã hi sinh, của những nòng pháo ngụy trang chĩa lên trời, những ra đa quay bốn phương dò bắt tín hiệu, canh giữ vùng trời. Chiến tranh qua lâu rồi. Trên mảnh đất này, những mái nhà tranh đã mọc lên như một xóm nghèo. Nhà nọ cách nhà kia bằng một hàng rào rau ngót, rau mồng tơi, gà nhà này sang vườn nhà khác bới và đạp mái. Ngọn mướp bò cả vào cửa sổ, tay mướp xanh quấn từng vòng chấn song cửa bằng róc. Cách đây mấy năm, thời còn bao cấp cũng có một hai nhà gạch, mái ngói, niềm mơ ước của bao người. Nhưng giờ đây không phải những mái ngói nhà một tầng, những căn nhà mà ta vẫn gọi là cấp bốn như thế nữa. Nhà hai tầng, nhà ba tầng vươn cao trên trời xanh ngạo nghễ, đón gió bốn phương. Đó là những nhà có người đi tàu vận tải đông lạnh nước ngoài, nhà của những người thuộc phòng kinh doanh (một phòng mới lập ra khi ông Thắng về làm giám đốc thay ông Trần Hữu Bằng) chuyên thu mua và xuất khẩu sắt vụn, gỗ bạch đàn, những công việc chẳng liên quan gì đến con tôm con cá. Ngôi nhà to nhất khu Bãi Cát là của một người thuộc phòng này chứ không phải của người đi tàu vận tải nước ngoài. Quán. Quán Mèo. Cũng chẳng ai biết Quán Mèo từ đâu đến, vào làm xí nghiệp từ ngày nào, chuyển về phòng kinh doanh từ bao giờ, nhưng giờ đây ai cũng nể Quán Mèo. Quán Mèo như từ trên trời rơi xuống đúng lúc cần có Quán. Một cái biệt thự ba tầng, với khuôn viên bao quanh, với những con béc giê to lớn, đuôi cúp, tiếng sủa ồm ồm. Quán nuôi béc giê cho đúng mốt, cho vui thôi, bảo vệ ngôi nhà này là hai thanh niên gầy gò, lừ đừ chậm chạp, mắt long lên sòng sọc trên khuôn mặt nhò nhọ bẩn thỉu tái bủng thoạt nom cũng đã sợ rồi. Đúng là dân nghiện trăm phần trăm. Chỉ Quán mới có thể giải quyết nổi những vụ việc rắc rối khó khăn nhất trong việc xuất khẩu gỗ, xuất khẩu sắt vụn. Một đoàn người phóng xe máy ầm ầm vào sân xí nghiệp, dẫn đầu là một phụ nữ xinh đẹp, quần áo bó, hai tay áo xắn cao, bắp tay phải bị chém, vết sẹo mang hình cái lưỡi, nói cho dễ hiểu đó là một chữ V mà đầu nhọn là ở cổ tay, sát chiếc vòng ngọc, rồi xòe ra chạy lên bắp tay. Nhìn vết sẹo, người ta nghĩ đến ngay một nhát dao lóc vào thịt, sát xương róc ngược từ cổ tay lên khuỷu tay mà rùng mình. Khoác trên người cô là chiếc áo mút xơ lin hoa màu thẫm, mỏng tang tương phản với chiếc quần bò Levi’s mài bạc trắng hai đùi và phía sau mông. Tất cả bó chặt càng làm nổi thân hình chắc nịch của cô. Mặt đẹp, thân hình đẹp, quần áo đẹp, chiếc vòng ngọc bự, môi tím, móng tay nhuộm bạc, và vết sẹo được may rất khéo bám trên bắp tay trần, dấu tích của một trận thư hùng sống mái nào đấy, đẹp hơn mọi thứ trang sức cô đeo trên người, một thứ siêu trang sức, tất cả nói rằng cô là người của thời đại, không dễ gì bắt nạt, hơn thế, phải e dè kiêng nể. Cô xông vào phòng kinh doanh. Theo sau là một thanh niên lực lưỡng, vệ sĩ số một của cô, còn mấy thanh niên khác đứng chờ ngoài hành lang. Cô yêu cầu phải tính lại chất lượng sắt vụn cô nhập cho xí nghiệp. Trưởng phòng kinh doanh giải thích, cô không nghe. Trưởng phòng điều độ, một người có tài thuyết khách và có quen biết cô sơ sơ anh anh em em với cô ngọt xớt, cô không nghe. Anh chị em trong phòng kinh doanh bỏ ra ngoài hết. Để mặc trưởng phòng với cô. Tổng giám đốc biết chuyện không những không xuống, còn đóng chặt cửa phòng. Tình thế thật nguy nan thì may quá, Quán Mèo ở đâu về. Quán Mèo ở đâu đi Mazda về. Chào cô em! Sao? Cái gì mà ầm lên thế? Rất tự tin và bề trên, cái anh chàng mới mấy năm trước còn cù bất cù bơ, lang thang đói rách và chưa học quá lớp bảy kia đã thuyết phục được cô, khi tiễn cô ra cửa còn cười rất tươi:
- Anh đã cứu em bao nhiêu lần, em phải nể mặt anh chứ. Đấy là anh chưa kể số sắt của em có lẫn hơn chục quả lựu đạn mỏ vịt còn nguyên kíp đấy. Trước khi đưa xuống tàu, may anh phát hiện ra kịp chứ không thì khốn. Nó mà nổ ở dưới tàu chỉ có sập tiệm, vào nhà đá là cái chắc.
Chỉ Quán Mèo mới thuyết phục được cô, cũng như chỉ Quán Mèo mới mua được chiếc cần cẩu chân đế còn mới tinh chưa lắp ráp của Cảng nặng hàng mấy chục tấn rồi thuê xe chuyên dùng chở về xí nghiệp mà không sợ bị ách lại, và thuê thợ phân xưởng cơ khí sửa chữa đem chai gió cắt chiếc cần cẩu còn nguyên nước sơn ấy ra thành từng khúc nhập vào sắt vụn. Quán Mèo dặn những chàng lái xe trong xí nghiệp chở sắt vụn trên đường, công an có làm luật thì cứ bảo xe của Công ty Thủy sản Biển Đông, chở cho anh Quán Mèo đây. Mới đầu lái xe không tin nhưng rồi tất cả đều thấy đấy là một câu thần chú màu nhiệm. Không ai biết vì sao Quán Mèo có thể làm được những việc tài tình như vậy. Và tất nhiên Quán Mèo tiền nhiều như nước Sông Đà. Thời gian ai là chủ sở hữu một con Đê Đê (Honda DD) có thể coi khinh tất cả thiên hạ, Quán Mèo đã chơi ô tô rồi. Có lẽ Quán Mèo là người đầu tiên trong thành phố mua ô tô. Một chiếc Mazda đã qua sử dụng nhưng còn rất tốt. Như ô tô của giám đốc. Chắc chắn Quán là người đầu tiên trong thành phố bỏ ra gần chục cây vàng mua một bộ dàn đĩa hình laser. Quán biết giá trị của mình. Biết không cần chơi với những ai cũng như biết phải quan hệ tốt với những ai. Cánh đi tàu nước ngoài, Quán cũng chỉ xã giao đôi chút, còn cánh đánh cá, Quán Mèo chẳng buồn nhếch nửa nụ cười mỗi khi gặp họ, mặc dù cùng trong một xóm. Nên chẳng mấy người ưa Quán. Quán giải thích chuyện ấy theo cách của Quán: Họ ghen ghét đố kỵ với sự giàu có của Quán. Kệ họ.
Trong cảnh giàu sang, Quán thương họ, thương đám chúng sinh nghèo đói, nheo nhếch hai tay vày lỗ miệng, chạy bữa sáng lo bữa tối. Chẳng ai biết Quán giàu đến đâu. Chỉ biết tổng giám đốc cũng trọng nể Quán lắm. Tổng giám đốc là người ưa sạch sẽ, tôn trọng nội quy, nếp sống văn minh. Ai vất đầu mẩu thuốc lá ở cầu thang, trên hành lang là chết với giám đốc. Các ông chỉ có mỗi việc vất đầu thuốc vào thùng rác thôi cũng không làm được à? Mà có phải đi đâu xa cho cam. Chỗ chiếu nghỉ cầu thang nào tôi cũng cho đặt một cái chứa rác tự động gửi mua tận thành phố Hồ Chí Minh chỉ lấy chân ấn vào là xong. Công lên việc xuống gì? Tôi hoàn toàn không hiểu được các ông. Mấy ông mà sang Thụy Sĩ có bán nhà đi cũng không đủ tiền nộp phạt vì tội vất rác ra đường!
Tổng giám đốc không hút thuốc và tất nhiên không vất đầu thuốc lá xuống cầu thang. Ây thế mà một lần từ tầng trên đi xuống, giữa chừng tổng giám đốc gặp Quán Mèo từ dưới đi lên, Quán Mèo rút bao Ba số trong túi ra mời. Sếp cầm điếu thuốc. Quán Mèo lấy một điếu cho mình sau khi đã vất mẩu thuốc trên môi xuống cầu thang, bật lửa cho sếp châm thuốc, rồi châm cho mình và đi lên gác. Chờ Quán đi khỏi, tổng giám đốc lẳng lặng cúi xuống nhặt đầu mẩu thuốc của Quán, đi ngược lên chiếu nghỉ vất vào sọt rác và cũng vất luôn điếu thuốc gần như còn nguyên Quán Mèo vừa mời vào đó. Tất cả sự việc không qua được mắt cô Phòng văn thư đang đứng ở hành lang tầng trệt. Cô Phòng đã kể lại cho Lê Mây nghe sau cái lúc Lê Mây quen thói luộm thuộm lính tráng trên tàu vất đầu mẩu thuốc ra hành lang và bị giám đốc chấn chỉnh. Cô Phòng bảo: Sếp chỉ nể mỗi Quán Mèo thôi. Với con Thi nữa. Nó làm phòng xuất nhập khẩu, chồng nó đi tàu nước ngoài, chắc có quà đậm. Tết vừa rồi chẳng thấy tổng giám đốc thăm ai ở nhà A. Cả dãy nhà A bao nhiêu người, phó tổng có, thuyền trưởng có, chiến sĩ thi đua có, giám đốc chỉ chúc tết mỗi nhà cái Thi Hải. Thi là cô Thi, nhân viên phòng xuất nhập khẩu vừa trúng một quả móc nối với một đơn vị trong thành phố xuất lợn móc hàm và lợn sữa đi Hong Kong. Còn Hải là chồng Thi, dân cơ công đi tàu 19 mười mấy chuyến rồi. Hết Sing, Hong Kong, lại Nhật.
Thấy chồng và bạn lấy trong túi ra tám chai rượu thuốc đặt lên bàn, chị Bấm ngơ ngác:
- Hai ông đi đâu về? Ôm đau gì mà nhiều thuốc thế?
Quân trả lời thay Mây:
- Ốm đau gì đâu. Anh em tôi khỏe như vâm. Thèm rượu quá mà nhẵn tiền. Kéo nhau lên y tế xí nghiệp khám bệnh, mang về uống đấy.
Mây sốt sắng:
- Bà có gì làm nhắm không?
- Chả còn gì. Có mấy quả trứng gà. Con gà mơ mới đẻ. Năm sáu quả.
- Con gà mái nâu chưa đẻ à?
- Chưa.
- Bắt con gà nâu.
Chị Bấm kêu lên:
- Không được. Của thằng Sĩ đấy. Cả nhà chỉ có hai con gà của hai đứa. Chốc nữa chúng nó đi học về bắt đền chết.
Hai con gà kế hoạch nhỏ của hai đứa con trai xin ông bà ngoại từ quê mang ra lúc mới xuống ổ. Thằng Lê Chí Dũng và thằng Lê Chí Sỹ bắt bố làm ngay cái chuồng gà. Mây bỏ ra đúng một ngày từ sáng đến tối làm cật lực mới xong. Xây bằng gạch pa panh cẩn thận. Chuồng hai tầng. Tầng trên nhốt gà, tầng dưới chứa phân gà. Hai đứa chăm hai con gà như ngày trước hai vợ chồng anh chăm chúng vậy. Thi nhau bốc gạo trong thùng cho gà ăn. Cả tép trong rổ chị mới đi chợ về. Nhìn hai cái diều bé tí tròn căng như sắp nứt mà hai đứa vẫn bốc gạo rồi xòe tay ra cho chúng mổ ngay trong lòng bàn tay, chị Bấm quát con:
- Thôi. Không nó bội thực đấy.
Lại nữa, những khi có con cá kiếm được từ xí nghiệp mang về, chị Bấm bắt hai đứa nhốt gà lại, không cho chúng mổ ruột cá trên thớt lúc chị đang làm cá. Ruột cá đông lạnh, gà còn bé thế này ăn vào là chết ngay.
Mây ngần ngừ. Tính làm sao khoản thức nhắm bây giờ. Chẳng lẽ lại đạp xe vào xí nghiệp, xuống xem tàu nào còn cá kiếm lấy một con mang về. Nó ê chề quá. Mà cũng chẳng còn tàu đánh cá nào đỗ bến. Ông Chơn đi chưa về, thằng Bôn cũng đã tách bến một tuần rồi. Thằng Uy mới đi hôm qua... Anh rất muốn thịt con gà mái nâu. Nhưng anh thương thằng Sĩ, thằng con trai bé của anh. Những ngày tàu cập bến kết thúc chuyến biển, anh hay nắm tay thằng Sĩ, hai bố con đi dung dăng dung dẻ ở xí nghiệp. Dắt nó ra căng tin. Bố làm chai bia. Con lon xê vần nắp. Hai bố con một đĩa thịt bò xào. Dắt con xuống tàu. Thằng bé con sung sướng nhảy nhót, khiến bác Xin, thủy thủ trưởng cứ phải chạy theo, không dám rời nửa bước, cho đến khi anh quát, nó mới chịu lên cabin. Nó xoay cái vô lăng gỗ. Nó nắm tay chuông. Chỉ có bố cháu với các thuyền phó mới được cầm cái này thôi cháu ạ. Cháu có thích làm thuyền trưởng như bố cháu không? Thủy thủ trưởng chỉ vào cái tay chuông bảo nó. Nó cười: Cháu thích. Xin bảo anh: Nó thích làm thuyền trưởng đây anh Mây này. Thích thì phải cố học. Không học chỉ làm thủy thủ như bác đây khổ lắm. Làm thuyền trưởng như bố cháu mới sướng. Mây bảo Xin: Không. Hai thằng con, tôi nhất định không cho đứa nào đi đánh cá. Xin cười: Nghề của anh em mình khổ thật. Vất vả, sóng gió lênh đênh, nguy hiểm, mà cứ rời tàu là hết tiền, về hưu lên bờ tay trắng vẫn hoàn tay trắng. Mây cười ôm lấy thằng con vào lòng, cọ râu vào má nó: Lớn lên làm nghề khác, nghe không. Và nói với Xin: Nghề này đời cha đi làm, đời con đốt sách.
Nghe chuyện, thằng Sĩ chẳng hiểu gì. Nhưng chắc nghe bác Xin nói, nó càng tin bố là người có học. Mây nghĩ vậy và cười. Anh nhớ đến một ngày hai vợ chồng đạp xe về quê ngoại. Bố mẹ anh đã mất từ lâu. Xứ Quảng quá xa, rất ít khi anh về thăm quê. Giờ đây quê vợ là quê anh. Bố mẹ vợ, anh coi như bố mẹ đẻ. Anh đi biền biệt. Một mình chị Bấm không sao trông nom xuể được cả hai đứa con. Cai sữa cho thằng Lê Chí Sỹ xong, anh chị phải gửi nó về quê. Ông bà ngoại quý cháu như vàng. Căn nhà hai ông bà già từ nay có tiếng khóc tiếng cười, tiếng bi bô con trẻ. Nó ở với ông bà cho tới khi nó đến tuổi vào lớp một. Khi nó lên năm, để chuẩn bị cho cháu ra phố đến trường, mỗi ngày ông dạy cháu dăm ba chữ cái, ghép vần. Tháng nào anh chị cũng về thăm quê. Khi anh, khi chị, khi cả hai và thằng Lê Chí Dũng. Mỗi lần về, lại thấy thằng Sĩ một lớn, một khác. Nhất là khi nó mặc cái áo thủy thủ có sọc xanh. Anh dắt tay nó đi quanh sân, ra vườn. Hai bố con hái lá chè xanh. Chè trồng ở bờ rãnh sát những cây chanh. Sĩ dặn bố:
- Khéo không lá chanh lẫn vào thì hỏng đấy bố ạ. Không uống được đâu.
Bàn tay thô ráp nhẹ nắm bàn tay bé xíu của con:
- Sao con biết?
- Bố cứ thử đun một nồi nước to, bỏ cái lá chanh vào mùi nó ra hết. Con có học con biết.
Rồi nó ngước mắt nhìn anh:
- Bố có học không hở bố?
Một lúc sau:
- Mẹ có học không hở bố?
Anh trả lời bố có học, mẹ cũng có học và thật ngạc nhiên và sung sướng biết bao khi nó đọc được truyện tranh Thánh Gióng cho anh nghe. Có cái bản đồ Việt Nam treo trên vách, nó và anh tranh nhau đọc những tên ghi trên bản đồ. Anh biết tất cả là nhờ công lao của bố vợ.
Một ông hàng xóm sang chơi thấy hai bố con bảo: Bố Sĩ đấy hở? Mấy cháu rồi? Khi biết anh được hai thằng con trai, ông khách nói: Đẻ hai đứa con gái nữa cho nó cân. Anh chị cùng cười, nhưng thằng Sĩ trả lời: Hết trứng rồi còn đâu mà đẻ.
Cái thằng thật đáng yêu. Nó là tất cả nguồn vui của anh. Anh yêu nó hơn mọi thứ trên cuộc đời này. Đi biển về, anh chỉ ngủ với chị một tối trọn vẹn, còn những tối khác, chị chỉ được chiếm hữu anh một khoảng thời gian vừa đủ rồi anh sang với nó. Để được ôm nó, nắn chân nắn tay nó. Cho nó gối đầu tay. Nó ngủ là phải gối đầu tay. Ê ẩm. Anh càng phục chị. Mới cho nó gối đầu tay một lúc anh đã thấy ê ẩm, đã phải chờ nó ngủ say rồi khẽ khàng rút cánh tay ra, mà chị thì quanh năm suốt tháng, từ lúc đẻ nó đến giờ. Không, không thể thịt con gà mái nâu được. Nhưng giữa lúc ấy, Quân đã tóm được con gà mái nâu. Hai con gà rất dạn người. Chỉ việc ngồi xuống chìa bàn tay ra miệng kêu túc túc túc túc là nó đến ngay. Thì từ lúc mới nở đến giờ chúng toàn được hai thằng Lê Chí Dũng, Lê Chí Sỹ cho ăn cách ấy.
- Dao đâu? Ngồi thụp xuống sân, Quân Rỗ ngước mắt nửa đùa nửa thật hỏi Mây.
Mây đau khổ:
-  Không được đâu. Của thằng Lê Chí Sỹ. Để nói bà ấy làm mấy quả trứng vậy.
-  Không được. Ai lại ăn trứng gà của nó. Không được chứ. Sai chứ.
Và bắt chước giọng mếu máo của thằng bé con: “Chú Quân ăn mất trứng gà của cháu rồi”. Nó ô danh. Không được chứ! “Thế nhà không còn đồng nào à?”
-  Xoẳn. Còn mấy chục, chiều nay mang đến trường đóng tiền học cho hai đứa là vừa.
Quân tư lự:
-  Bất khả kháng nhỉ.
-  Bất khả kháng. Mai, tiền ăn sáng cũng chưa nghĩ lấy đâu ra đây.
Con gà mái nâu được thả vẫn quanh quẩn bên bàn tay Quân. Anh đứng lên:
-  Thôi được. Vào nhà. Nhậu. Tôi đã nghĩ ra món nhắm rồi.
Hai người vào nhà. Quân nhìn lên tường và bước tới chỗ hai cái đinh thuyền buộc dây treo võng, cái võng làm bằng một mảnh lưới ni lông xanh:
-  Nhà có kìm không.
-  Có. Làm gì?
-  Đem ra đây.
Cầm cái kìm chủ nhà đưa, Quân cởi dây buộc võng, lấy kìm gõ ngang cái đinh, lay đi lay lại rồi nhổ. Một chiếc. Hai chiếc.
- Chốc tôi đóng lại cho ông.
Ra vại nước rữa sạch. Trở vào, lấy mũi dao gậy xi, vặn nút một chai phong tê thấp, rót ra hai chén uống nước cáu bẩn:
- Uống rượu mút đinh. Ngon lắm. Làng tôi nhiều người uống rượu kiểu này. Khởi xướng là ông Buồi Gật. Cười cái gì. Tên nghiêm chỉnh đấy. Cả làng đều gọi như vậy. Làng nhiều ông Buồi lắm. Bất kỳ ai có con trai đều gọi là Buồi. Ông Buồi. Anh Buồi. Buồi Gật là con ông Buồi Gân. Đến khi Buồi Gật làm trương tuần mới được gọi là Trương Gật. Còn con ông Trương Gật là Gù có con trai mà vẫn bạch đinh nên vẫn gọi là Buồi Gù. Tôi đã uống kiểu ông Buồi Gật rồi. Ông thữ xem. Được lắm. Đinh nó tanh tanh như mút cái xương cá ấy ông ạ. Ông lấy mấy quả ớt ra đây. Nào. Dô.
Cứ như một bữa tiệc linh đình. Chị Bấm từ vườn trở vào tròn mắt kêu lên:
- Hai ông uống rượu kiểu gì thế này. Thôi. Để đấy. Chờ tôi tí đã.
Chị lấy xe đạp ra cổng và một lát sau trở về với một bọc lá sen đựng trong túi ni lông: một túi thịt quay. Đổ thịt quay ra đĩa, chị bảo:
- Hai ông cứ ăn uống từ từ nhá. Tôi hái thêm nắm rau muống về xào.
Hai người uống và đều nghĩ rằng chỗ này là nữa suất tiền học phí rồi.
Quân bảo:
- Cứ yên tâm đi. Chiều tôi sẽ có tiền đóng học phí cho hai thằng. Tôi xuống tàu 19. Vay thằng Dân. Làm gì không được. Bà Bấm đâu. Vào đây nhậu với hai anh em tôi. Rau cứ để đấy. Đến trưa ăn với cơm luôn thể. Bà chị thật tuyệt vời. Bà Bấm muôn năm! Vợ ông Mây muôn năm!
- Công nhận bà ấy nhà tôi chiều tôi. Không chỉ chiều chồng mà còn chiều bạn của chồng nữa. Giàu vì bạn sang vì vợ. Như cái Hoa vợ thằng Huy ấy thật ô danh.
- Ông nói thế nào! Cái Hoa chiều thằng Huy hết mực đấy chứ. Chồng bảo ngủ với giám đốc là ngủ liền. Tôi hỏi ông: Có ai chiều chồng như thế không?
Cả hai cùng cười. Quân bảo:
-  Mẹ kiếp. Vợ tôi mà chìu chồng như thế, tôi giết.
Có tiếng béc giê vọng tới, tiếng béc giê ngắt quãng,
vang vọng, sang trọng, quý tộc.
- Quán Mèo đấy. Thằng ấy phút chốc nên người. Không biết nó ở đâu dạt về xí nghiệp.
Quân Rỗ trừng mắt:
- Ông không biết nó à. Nó là thằng trông đầm tôm ở Hà Sơn chứ đâu. Sau thành một anh chị ở phố. Có dính đến ma túy. Thằng lái xe với thằng bảo vệ nhà nó trông đặc nghiện chứ còn gì nữa. Đệ tử của nó thời nó buôn ma túy đấy.
-  Thế thì thế nào cũng lại về mo thôi.
- Còn lâu nó mới về mo! Cứ mỗi tàu sắt xuất đi là nhà sếp lại có thêm một thứ đồ. Lúc cái tivi, lúc cái tủ lạnh, lúc bộ dàn. Đấy chỉ là khoản anh em mình trông thấy
thôi. Phần phong bì mới quan trọng. Nó nuôi sếp tốt thế về molàm sao được! Sếp cứ tưởng không ai biết gì, cứ bảo thằng cháu Hoan nhà tôi nó mới mua. Xì! Cứ làm như thằng Hoan nhà sếp làm ăn giỏi lắm ấy.
Mây lại nghĩ về thằng Hoan, con trai lớn giám đốc. Học hành dở dang. Tụ bạ bè bạn chơi bời. Giám đốc sợ quá vội cho đi học một lớp sơ cấp ngành boong rồi cho xuống tàu vận tải ngoại thương, đi nước ngoài hơn năm nay rồi, một việc như cái gai chọc vào mắt cán bộ công nhân xí nghiệp nhất là với những người kỳ cựu, xuống tàu từ thời còn vỏ gỗ, phá vòng vây thủy lôi mà đi, giờ đây vẫn hì hụi đánh cá và vẫn ngong ngóng chờ được làm hộ chiếu. Quân tiếp tục làm nhiệm vụ cung cấp thông tin:
- Thằng Hoan mua gửi về! Có mà gửi cái xác nó về. Rồi ông xem. Tôi nói có đúng không. Kỳ vừa rồi tàu tôi vào Sài Gòn chuyển tải đỗ cạnh tàu 19, sang chơi với mấy thằng bên ấy. Thằng Định cơ công, thằng Dân báo vụ, ông Nguyên thuyền trưởng. Lúc nào cũng thấy thằng Hoan đánh bạc. Anh em nói nó nợ mấy chục nghìn đô rồi. Thằng ấy sẽ nghiện ma túy. Tôi bảo đảm với ông thế. Anh em dưới tàu sẽ đưa nó vào ma túy.
Mây ngơ ngác không hiểu.
- Sếp ăn dữ quá. Chúng nó ức. Chúng nó sẽ đưa thằng Hoan vào ma túy. Một chuyến đi Hong Kong về được là bao. Sếp xuống gặp thuyền trưởng nói thẳng: Chuyến này tàu lo cho hai trăm triệu nhé. Ông Nguyên ngơ ngác: Báo cáo giám đốc... Chưa kịp nói hết câu, sếp đã bảo: Một con tàu chuyến này đi Hong Kong, chuyến sau đi Nhật, chuyến sau nữa đi Singapore mà không có lấy nổi hai trăm triệu thì đi làm gì. Để người khác đi. Trên bờ người ta đã lo hết cả rồi. Hải quan, công an, quản lý thị trường, lo hết. Lại còn hàng hóa, hợp đồng, thủ tục, không phải động chân tay. Hai trăm triệu chứ ba trăm triệu cũng phải nôn ra. Thế là anh em lại phải đóng góp. Đây chỉ là khoản đóng góp đột xuất thôi. Các chuyến khác thấp hơn nhưng vẫn phải bảo đảm chỉ tiêu.
- Chết. Chết. Mây lại thở dài. Cũng phải thôi. Sếp về đây là đã phải chi rồi. Bao nhiêu người nhăm nhe cái chức này nhưng sếp đánh bật ra hết. Tiền tấn. Chi dữ rồi. Phải hoàn vốn chứ. Lại còn phải tích lũy, còn phải tiếp tục thăm nuôi. Ông Nguyên xuống tàu làm thuyền trưởng cũng phải thu hồi vốn, cũng phải thăm nuôi. Đâu phải một mình sếp. Còn các phó giám đốc. Còn tổ chức. Còn công đoàn. Nghĩa là phải thu của anh em. Chỉ chết cánh chân đất. Chết thằng cu li lao động.
Quân cười:
- Còn lâu chúng nó mới chết. Có mình chết thì có.
Mây nghĩ đến giám đốc, đến dáng người thấp đậm, khuôn mặt đầy đặn vương trượng của giám đốc, đến những buổi họp cán bộ chủ chốt, đến hội nghị công nhân viên chức, sếp lên nói chuyện. Sếp toàn nói về những điều to lớn hệ trọng, về toàn tâm toàn ý xây dựng xí nghiệp, xây dựng chủ nghĩa xã hội, về năng động sáng tạo, về chống lãng phí tham ô, về phát huy tinh thần làm chủ, đấu tranh xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Nói mà không hề ngượng nghịu, không hề vấp váp.
- Giá các ông ấy cứ ăn nhưng đừng giảng đạo đức cho mình thì dễ chịu hơn.
- Cái tài của các sếp chính là chỗ ấy. Có thế mới làm sếp được. Ông chưa biết đấy thôi. Đấy chỉ là một nguồn thu. Còn nhiều nguồn thu lắm. Thằng Quán Mèo chẳng hạn. Tháng trước nó mượn đâu được cái Mercedes, đem theo hai va li tiền đưa sếp với chánh văn phòng đi xuyên Việt. Nhất dạ đế vương. Thì chính chánh văn phòng nói tiếc quá không biết nó mang hai va li tiền mà tiêu. Thành ra chuyến đi chỉ tiêu của nó bốn chục triệu.
Chú thích:
1. Ba si đế: Rượu.
2. Lộc: Rau thơm, lá non ăn kèm.
- VI -
Rượu cứ rót. Rượu thuốc ngăm ngăm nhưng cũng bừng bừng. Món thịt quay mềm, bì giòn tan. Khi chị Bấm mặt đỏ ửng bưng đĩa rau muống xào vào, Mây xúc động rưng rưng:
- Mình ngồi đây, uống với anh em tôi cho vui.
Quân cũng chèo kéo nhưng chị Bấm nhất định không ngồi, chị bảo còn phải nấu cơm trưa, hai thằng nhỏ sắp về rồi. Mây nhìn dáng đi ra đi vào tất bật của vợ mà thương quá:
- Bà ấy lấy tôi toàn là vất vả. Cái tivi cũng mới có tháng trước. Mình cũng chẳng có tiền mua. Một thằng lính của mình ngày trước đi tàu nước ngoài cho, giả tiền không lấy. Cũng chẳng riêng gì mình. Cả xóm này trước đây ai có tivi ngoài ông Quán Mèo. Cứ tối cả xóm đổ xô đến nhà Quán Mèo. Chỉ vài người lớn dám vào nhà nó. Còn toàn trẻ con. Cứ đứng cửa. Nó phải ra mời vào.
Chè nước. Lại cả thuốc lá nữa. Bọn này không hút. Chỉ hút thuốc lào. Xì bẩn cả nền đá hoa nhà nó. Về sau dáng chừng cu cậu sợ bẩn. Lại mất thời gian, mất tự do nữa chứ. Thế là sắp bảy giờ nó đã đem cái ghế kê giữa ngõ, đặt tivi lên, câu điện ra, rồi khóa cửa đi chơi. Trẻ con thì chưa Bông hoa nhỏ(1) đã ngồi dài ra cả rồi. Tôi chỉ nghe thời sự với cải lương. Bà vợ tôi thì phim. Bây giờ nhà nào cũng có tivi mới hết cảnh ấy. Tôi là thằng có tivi sau cùng. Một hôm thằng Ân đến chơi. Nó cho mấy trăm với chai rượu Ông cụ. Nó bảo nhà anh chưa có tivi à? Thế là nó cho một cái. Từ ngày có tivi vợ con không phải đi xem nhờ nữa. Cám ơn thằng Ân quá.
Rượu cứ rót. Rượu thuốc cũng say. Mây gục đầu xuống bàn. Một lúc sau ngẩng lên, chém mạnh tay vào mặt bàn, rồi cất giọng buồn rầu:
- Giám đốc không hiểu tôi.
Quân cười:
- Giám đốc hiểu đồng hương quá rõ nên đồng hương mới thế này đồng hương ạ!
Rồi nhìn ra cửa ngó trước ngó sau, thì thầm vào tai Mây:
- Giám đốc biết cả chuyện ông nhìn thấy giám đốc ngồi như Tây với cái Hoa đấy.
Mây giật thót, tỉnh hẳn rượu:
-  Chết mẹ. Thật không? Ai nói ông biết?
- Ông Nguyên chứ còn ai. Chính ông Nguyên thuyền trưởng tàu 19 chứ còn ai.
Vụng Ngọc bốn chung quanh là núi đá. ơ Vụng Ngọc không nhìn thấy chân trời. Cửa vào rộng, trông về hướng nam. Đứng chắn ở cửa là một hòn núi đá đơn độc giống một chiếc hài nằm trên sóng vỗ. Bác Sĩ kể cho tôi nghe sự tích hòn núi đó. Nó tên là Núi Hài. Có một hôm các nàng tiên trên trời rủ nhau xuống biển tắm. Đã đến giờ phải về nhưng một cô tiên còn mải mê vui đùa bơi lội nên lên bờ sau cùng. Khi tất cả đã bay về trời, cô tiên này mới mặc xong quần áo và xỏ hài bay lên. Vừa bay thì một chiếc hài rơi xuống biển. Đã hết giờ, cô không dám quay trở lại nhặt hài. Chiếc hài đó là ngọn Núi Hài chơ vơ giữa biển, chắn sóng cho Vụng Ngọc. Từ trong vụng nhìn ra chẳng thấy chân trời đâu, chỉ có sóng biển xanh đập vào vách đá Núi Hài trắng xóa. Và sóng xô vào vách núi cửa vụng, dựng đứng, bắn tóe những bọt nước. Trong vụng rất nhiều tàu nhiều thuyền. Những tàu thuyền đánh cá tôm quanh đây đã tập trung cả ở vụng Ngọc. Biển động. Hôm qua sóng êm biển êm là thế mà hôm nay biển động. Đúng như bác Sĩ chú Hồng nói. Có những con tàu sơn xám cũ kỹ. Những con tàu như tàu của bố tôi nhưng không có càng xòe ra hai bên. Họ không đánh tôm. Có những con tàu rất to, sơn đỏ, cần cẩu như một cái cổng chào. Tàu nào cũng có những chiếc thuyền nan dập dềnh bên cạnh. Trên thuyền phần lớn là phụ nữ. Đó là những thuyền đi bản hoa quả, đi mua cả như hai chiếc thuyền đã đến tàu của bố tôi. Trong vụng còn có một loại thuyền nan nữa, loại thuyền không đi đổi hoa quả, mua cả, mà chuyên chở những người dưới tàu, từ tàu vào bờ, hoặc từ tàu này sang tàu khảc. Vụng rất rộng và êm ả. Nóng nữa. Ngoài kia gió là thế, sóng là thế mà trong này chỉ lăn tăn. Chú Hồng, bảc Suất, chú Quẹn, chú Đỉnh rủ nhau vào bờ. Thấy vậy tôi cũng đi theo. Tôi muốn biết ở cái bến xa xa với những mải nhà thâm thấp cây cối mọc nhiều kia có những gì. Và đằng sau những mải nhà ấy, đằng sau những cây cối ấy có gì nữa. Cả những ngọn núi đả nhấp nhô xanh đen phía xa. Nếu bây giờ không đi sẽ chẳng bao giờ tôi có dịp đặt chân đến. Thoảng một chút ngần ngừ. Bốn người nhìn nhau dò hỏi. Tôi không hiểu ra sao. Đã định không đi. May quả, chú Hồng cười, gật đầu. Rồi chú vẫy một chiếc thuyền nan. Chúng tôi tụt thang dây xuống thuyền. Cô lải đò quần ảo bạc phếch gầy gò đen nhẻm, tóc xơ xảc im lặng chèo. Chú Hồng bảo tôi:
- Taxi của thủ trưởng đấy mày ạ.
Chiếc “taxi của thủ trưởng” lướt đi khả nhanh, thẳng hướng vào bến. Gió mảt. Chú Quẹn phanh ảo bảo: Xuống đây còn đỡ. Trên quan tài sắt chảy mỡ ra. Thuyền cập bến, tất cả chúng tôi nhảy lên, leo một cái dốc xoai xoải là tới đường cái. Một con đường rải đả, phía vụng trổng nhiều cây còn phía trong là một dãy hàng quản có treo biển: Cà phê giải khảt, hàng cơm, cắt tóc, gội đầu thư giãn,... lèo tèo nhưng nó làm tôi ngạc nhiên, không ngờ ở một vụng hoang vắng ngoài đảo này mà cũng có nhiều hàng quản như vậy.
Cửa hàng nào cũng gọi chúng tôi. Gọi đúng tên từng người, tất nhiên là trừ tôi. Chúng tôi vào một quản cà phê giải khảt. Nóng quả. Không có điện không có quạt. Nhưng cốc nào cũng đầy ắp nước đả. Tôi nêu thắc mắc ấy với chú Hồng. Chú Hồng bảo: Mày cứ hỏi vớ vẩn. Đả cảc tàu thiếu gì. Ba cô gái trẻ mặc quần soóc bó từ phía trong bước ra. Em chào anh Suất. Em chào anh Hồng. Em chào anh Đỉnh. Em chào anh Quẹn. Em chào anh... anh gì nhỉ? Anh chưa biết tên. Bảc Suất bảo: Thằng con anh đấy. Nó còn đang đi học. Cả ba cô reo lên. Anh Suất có con lớn thế này rồi cơ à? Đẹp trai quả. Mà không phải rồi. Không được nói dối. Anh Suất làm gì có con trai. Bốn vịt giời chứ làm gì có con trai. Một cô vò đầu bảc Suất: Nói dối ai chứ nói dối chúng em sao được. Tôi xấu hổ quả, không dảm nhìn ai, lại càng không dám nhìn các cô. Nhất là khi các cô vây quanh năm chúng tôi. Những chiếc ảo chẽn như nhô ra, những đôi chân trần cứ sảng lóa ngay trước mắt tôi. Và mùi quần ảo, son phấn... Tôi rất hối hận đã lên bến. Tôi đã gây nên một tình huống khó xử và chỉ muốn độn thổ đi cho rồi. Làm một hơi cạn cốc nước mát, tôi đứng dậy:
- Cảc chú cảc bác ngồi đây. Chảu đi ra ngoài một lát. Nửa tiếng nữa chảu quay lại.
Và bỏ ra ngoài. Nửa tiếng. Tại sao tôi lại nói nửa tiếng. Tôi cũng chỉ có thể lang thang ở cái phố đảo này nửa tiếng là cùng. Xem ra cũng chẳng có gì. Với lại hình như nửa tiếng là thời gian cần thiết tôi vắng mặt ở cái quản cà phê giải khát ấy. Tôi đi mà không biết mình đi đâu. Đầu tôi vảng ù. Ấn tượng về các cô gái trẻ (chắc chỉ hơn tôi vài tuổi và không cao bằng tôi) vây quanh, mùi son phấn vừa lạ vừa thơm của họ như còn quanh quẩn bên tôi, bám vào người tôi, nói với tôi về một thế giới tôi chưa hề biết. Thế giới ấy đã gần tôi lắm. Tôi đã ngửi thấy hơi của nó. Thế giới ấy đang diễn ra trong quán cà phê giải khát tôi vừa bước ra. Tôi vừa đi vừa nghĩ trong mùi nước mắm ngào ngạt, mùi cá phơi được nắng thì có tiếng gọi tên tôi. Tôi quay lại: Chú Hồng. Chú Hồng chạy theo tôi: Thằng cu! Chờ chú. Hai chú cháu đi bên nhau chẳng nói một câu. Tự nhiên tôi đi sát vào chú Hồng vai chạm vai và ngước nhìn chú: Tôi đứng đến tai chú. Chú chẳng cao hơn tôi bao nhiêu. Thế mà mọi người nhìn tôi như một đứa trẻ con. Tôi cũng luôn nghĩ mình là một đứa trẻ con. Chúng tôi đi sâu mãi vào trong đảo. Đường vắt ngang sườn núi. Đi trên đường nhìn xuống thấy một thung lũng lúa đang lên xanh. Nhiều nhà dân mãi xa. Thấy xí nghiệp nước mắm. Thấy một công trường, có cả cần cẩu, xe ô tô và rất đông người làm việc. Chú Hồng bảo:
- Công trường xây dựng khu du lịch.
Tôi nói:
- Chú cháu mình về đi. Trưa rồi.
Tôi muốn nói “quá nửa tiếng rồi” nhưng lại thôi.
Bữa rượu đang đến độ, nghĩa là hơi men bắt đầu ngấm, cuộc vui còn nhiều hứa hẹn, rượu còn gần bốn chai, gói thịt quay còn già nửa, món rau muống xào cũng vẫn còn thì Đay, Fa Ra Đay đến. Nhìn dáng người cao lớn, cái lưng cánh phản, khuôn mặt nổi những múi thịt, chiếc cằm lẹm bên dưới cặp môi mỏng dính của Đay, Mây và Quân đều thất vọng. Họ không muốn có ai ngồi vào mâm rượu với họ trong lúc này, lại càng không phải Đay. Dù Quân chưa bao giờ đi cùng tàu với Đay, dù Mây là thuyền trưởng còn Đay là máy trưởng kiêm bí thư chi bộ tàu Mây. Cả xí nghiệp ai chả biết Đay. Đay ngồi chỗ nào là tất cả mọi người ở đấy đều biến thành người nghe, chỉ một mình Đay nói. Bởi Đay luôn đúng, luôn biết tất cả. Không chỉ giỏi lý luận nhất khối tàu, Đay còn là nguồn cung cấp mọi thông tin trên giời dưới biển. Đề tài gì Đay cũng có thế chen vào và trở thành người dẫn dắt câu chuyện. Thậm chí việc khai thác là của thuyền trưởng, nhiều khi Đay cũng nhảy xổ vào góp ý. Mây ao ước có một máy trưởng như Cải bên tàu Bôn. Hơn chục năm làm máy trưởng, Cải chưa một lần chịu gãy chuyến biển. Và lúc nào cũng tận tình làm theo ý đồ khai thác của thuyền trưởng. Đay cũng hăng hái đấy nhưng còn lâu mới được như Cải. Đang mùa cá, mà Đay có công có việc bận ở nhà, y như rằng máy tàu còn nhiều chuyện, chưa thể đi được. Phải ít nhất ba ngày nữa bố ơi. Còn cái ắc đỡ li hợp, bình thường năm ngày, làm ngày làm đêm cũng ba ngày. Khi cái bơm nước làm mát, khi mấy cái răng gạt cáp... Tàu sửa chữa, Đay cứ khoán mặc anh em trên phân xưởng, phóng xe đi đâu miết. Mây đã có lần góp ý với Đay là phải quan tâm đến anh em thợ một chút, đối với lính tráng phải niềm nở ân cần. Nó mượn cờ lê, nó mượn cái ống tuýp để bắt vào cờ lê mình phải lấy cho nó, nó mượn cưa, có ngay. Đay vặc:
- Quan tâm thế nào? Cười à? Chào anh à? Ừ thì cười, chào. Có khi nó còn chửi cho đấy. Trách nhiệm nó sửa thì nó phải sửa.
Mây nhẹ nhàng:
- Trách nhiệm của nó là đúng rồi. Còn vấn đề tình cảm nữa. Tôi nói ví dụ như cái gối đỡ. Đáng lẽ sửa thế này. Nó lại sửa thế này. Bảo nó. Nó bảo tìm tổ trưởng mà nói. Tổ trưởng bảo làm thế tôi làm thế. Tìm được mấy ông tổ trưởng mất nửa ngày. Thế nhưng thông cảm với nó, nó sửa ngay.
Đay xùy một cái rõ dài:
- Ông cứ nịnh chúng nó, chúng nó hư đi. Chúng nó làm thì chúng nó có lương. Cứ đúng nguyên tắc tôi làm.
Thấy Đay, cả hai cùng a lên một tiếng và cùng săm sắn: Ngồi đây. Ngồi đây. Không hẹn mà gặp mới thích. Chị Bấm vội lấy thêm bát đũa. Không khách khí, Đay ngồi xuống mâm ngay:
- Đang thèm rượu, hai hôm nay không có tí gì vào họng. Ừ. Có lẽ mình cũng phải cầm quyển y bạ lên y tế mới được. Sáng kiến của ông Mây hay ông Quân đây.
Chưa bao giờ Mây thấy Đay có khuôn mặt rạng rỡ tươi vui như vậy. Vui từ trong lòng vui ra, một niềm vui không giấu được. Có chuyện gì thế nhỉ? Nhưng thôi, không hỏi. Hãy để Đay tự nói ra. Đặt chén rượu đã uống cạn xuống mâm, Đay ngước cặp mắt sáng ngời nhìn hai người bạn:
- Khốn nạn đã biện cái lễ lên giám đốc xin tranh thủ đi chuyến nữa tăng thêm sản lượng cho xí nghiệp mà không được. Rách quá.
Quân cười:
- Cái lễ của các ông làm ô nhục cả giám đốc ra. Giám đốc đâu nhận cái lễ như vậy. Nhưng mà này tôi hỏi thật nhá. Ông Mây nói ông nhận với giám đốc là có ăn cắp cá, nhưng ông ăn cắp có văn học. Thế là thế nào? Ông nói cái ăn cắp có văn học của ông như thế nào cho tôi nghe.
Tất cả cười. Chị Bấm vừa lấy cái đĩa đặt nắm rau kinh giới mới rửa còn ướt đẫm nước từ sân bước vào cũng không nhịn được cười. Quân tiếp:
- Mà sao ông lại buổi dải thế?
Chị Bấm đỏ rừ mặt vì câu nói tục tĩu của Quân. Chưa trả lời ngay, Đay làm tiếp một chén rượu nữa rồi nhăn mặt:
- Tôi không thích món rượu thuốc này. Bí quá phải uống thôi. Còn cái ăn cắp có văn học là như thế này: Đại loại như bảo thằng cấp dưỡng chiều nay anh không ăn cơm tàu, làm cho anh mấy khúc cá ngon anh mang lên phố ăn trên ấy. Thế là báo cáo hai anh, một chị cá song đầu nó to phía trên bụng thì rỗng, tôi lấy mấy khúc dưới, khúc dưới chứ không phải khúc đuôi, nó đã sỏi vẩy rửa sạch rắc muối đàng hoàng chỉ việc gói ni lông đem đi thôi. Bảo vệ có hỏi cũng cứ nói thế với lại chính sách nào đi bắt cá muối. Cũng có khi bảo thằng thợ máy nhặt mấy con cá ngon sỏi vẩy cẩn thận mổ bụng xắt khúc tinh tươm, làm vài con mực nang to lột mai rữa ráy sạch sẽ cho vào túi xách về.
Tất cả đều công nhận đúng là cách lấy cá của Đay có văn học. Đay trợn mắt:
- Cứ thế cho nó đàng hoàng. Công khai. Không chui lủi giấu giếm. Mình là thằng thủ trưởng. Sao phải chui lủi giấu giếm. Anh em biết nó khinh cho. Như ông Thai thuyền trưởng 401. Mấy thằng thủy thủ, mấy thằng thợ máy đến nhà thủ trưởng chơi, thấy hai con cá hồng dài tổ bố, mỗi con hơn chục cân nằm đoàng đoàng ngay cữa bếp. Thế thì còn nói làm sao ăn làm sao bây giờ. Mình ăn nhưng còn phải nói. Đâu chỉ có ăn. Mình là thằng cán bộ, còn có trách nhiệm nói nữa chứ. Cho nên cứ phải đàng hoàng.
Lại một đòn gì với ông Thai nữa đây. Hẳn ông Thai mới vướng chuyện gì với Đay, nếu không đã chẳng có việc rêu rao hai con cá hồng thế này. Nhưng là chuyện gì? Cũng có thể không có chuyện gì mà chỉ tỏ ra việc gì cũng biết đấy thôi. Quân cười:
- Ông ăn thế còn nói làm sao được? Xấu hổ chết. Chúng nó cười cho.
Đay chìa chén rượu về phía Quân, cười lớn:
- Cạn với ông một chén. Câu hỏi của ông rất thẳng thắn. Tôi cũng xin trả lới thẳng thắn. Phải không biết xấu hổ. Làm gì mà xấu hổ. Cứ nói. Nói hăng. Thì ông Mây đây cũng thế. Ông lên làm thủ trưởng cũng thế.
Ai làm thủ trưởng cũng thế. Chúng nó thừa biết nhiệm vụ mình phải nói thì mình nói. Mình biết nói chẳng ai nghe nhưng cứ nói. Làm thủ trưởng không thể không nói. Nói giữa hội nghị. Lên bục nói. Cho mọi người bên dưới cùng nghe. Không được vấp váp. Biết mình nói một đằng làm một nẻo, nên lại càng phải nhiệt tình. Ông Thắng cũng vậy. Sếp của ông Thắng cũng vậy. Ai cũng thế tuốt. Đâu chỉ mình mình. Nhưng chỉ vài ba người ngồi riêng với nhau tốt nhất là nói thật. Trên dưới đều cùng một hội. Cho nên ông Thắng rất thích tính thẳng thắn của tôi. Tôi lên là pha chè ngay. Ông ấy bảo tôi phê bình ông ấy. Tôi nói thủ trưởng khôn lắm đấy. Ông ấy bảo thế nào là khôn. Tôi bảo phê bình phải đúng lúc đúng chỗ, cũng như thấy tôi, anh hỏi em ăn cơm chưa? Báo cáo anh ăn rồi. Chốc vào anh uống nước nhé. Thế là thằng bé biết có vấn đề gì rồi đây nhưng vẫn đến. Đến mà thoải mái vì anh bảo đến uống nước cơ mà. Chén thứ nhất không nói gì. Chén thứ hai, chén thứ ba xong anh mới bảo sao mày lại nói tao như thế, ô hay ngày nào mày cũng phải nói một câu lung tung à? Sao không góp ý thẳng với anh?
Hình như đoạn này đã là không có thật rồi, bao năm sống với nhau, Mây quá hiểu tính Đay, tuy nhiên anh vẫn hỏi:
- Câu gì? Nhưng mà câu gì? Ông nói ông Thắng câu gì mà ông ấy bảo lung tung?
Đang cười, Đay bỗng thay đổi hẳn nét mặt, vừa quan trọng vừa nghiêm túc:
- Không được. Không nói ra đây được. Dù là các chiến hữu cũng không nói được. Cho qua. Tổng giám đốc lại bảo ngoài điều ấy ra còn gì nữa nào. Cứ nói thẳng đừng loanh quanh, điện cứ chạy thẳng bắt trực tiếp không qua tăng phô biến thế giảm xuống 110 làm gì. Cứ 220 chạy thẳng. Anh cứ nói thế, thẳng cũng có mức độ. Có khi hai trăm hai. Có khi chỉ còn trăm sáu, trăm rưởi. Lại cũng có khi chỉ còn sáu mươi, tám mươi thôi. Chúng tôi như quả trứng trong tay anh. Các anh mở tay thì còn. Nắm tay thì xây xát mà bóp thì vỡ. Các anh hiểu cho thì được. Các anh thành kiến không dùng thì cho chúng tôi đi. Chúng tôi lao động được, gánh gồng được, đi biển được, ở bờ được mà theo con trâu vặt ra vặt vào cày cắt tám cắt bốn cũng được. Thậm chí làm anh cầm bút đề phong bì, dán hồ văn thư cũng được, chẳng mơ ước cao siêu gì. Có thủ trưởng mới mộng cao cục vụ thứ trưởng bộ trưởng, chứ chúng tôi không. Mà mộng ấy của thủ trưởng là có cơ sở. Này nhé phó tiến sĩ ngành mình ít, đảng viên lâu năm ít, thủ trưởng được cả hai. Thủ trưởng lại chỉ có hai đứa con, anh lớn đã đi làm, còn một cháu gái bé thủ trưởng nuôi cháu cũng như nuôi con họa mi thôi, không như anh em chúng tôi vất vả lắm.
Tiếp tục hỏa mù đây. Chắc là có dính dáng đến chuyện xuống tàu vận tải nước ngoài. Nói vậy để tô vẽ cho mình, rằng mình là người xuống tàu ngoại thương khác với mọi người, rằng mình với tổng giám đốc có một quan hệ thân tình, đặc biệt. Quân hỏi một câu mà anh biết sẽ làm cho Đay sướng:
- Thế không đề nghị giám đốc cho xuống tàu đi nước ngoài à?
Đúng là Đay sướng. Khuôn mặt da thiết bì sạm thế mà cứ ngời lên:
- Có đề nghị cũng chẳng được. Cũng chỉ là thử phản ứng sếp thôi. Như thử phản ứng penicillin ấy. Sếp bảo tớ thích tính cậu thẳng. Tôi bảo không, tôi có thủ đoạn đấy. Thủ đoạn kinh tế, thủ đoạn kỹ thuật, thủ đoạn với trên, thủ đoạn với dưới, đủ cả. Thế là thế nào? Thưa anh thủ đoạn kinh tế là tôi phải biết xoay xỏa chứ cứ đợi xí nghiệp thì có khi sặc gạch. Râu con mực mềm luộc ăn giòn thế mà quăng thì vướng lung tung, vướng hết, kéo đổ cả đấy. Tôi không móc ngoặc cho tôi. Tôi móc ngoặc vì xí nghiệp. Thủ đoạn kỹ thuật tôi cũng làm. Còn thủ đoạn với trên là gì? Là thành thật. Khôn ngoan chẳng lọ thật thà. Lòng vả cũng như lòng sung. Tổng giám đốc cũng là người. Với lại giấu sao được tổng giám đốc. Như hôm nọ lên xin tổng giám đốc cho đi chuyến nữa để tăng thêm sản lượng cho liên hợp là không thành thật. Thất bại ngay. Đừng có làm xiếc với lãnh đạo. Lẽ ra phải nói thật: Báo cáo anh nằm bờ lâu ngày khô quá. Khô như mực ống phơi ba nắng giời hanh ấy. Bản thân thế nào chịu cũng được. Còn vợ còn con. Vợ muốn mua cái áo cho con, không có tiền. Bố về không có cá, các con ra đón vẫn chào ba ạ nhưng không được nhiệt tình cho lắm. Cơm không có cá, các chiến sĩ ta uể oải hẳn đi. Cứ nói thế rồi mới nói đến thiết bị máy móc, kết hợp ba lợi ích... Sếp cười rất khoái rồi hỏi còn thủ đoạn với dưới là thế nào? Báo cáo anh cái ấy anh biết quá rõ còn gì nữa. Làm to thủ đoạn to làm nhỏ thủ đoạn nhỏ, tóm lại cũng là sự động viên hứa hẹn vẽ ra một tương lai tươi sáng thôi.
Mây hỏi:
- Ông nói với sếp thế thật à?
Gắp miếng thịt quay cho vào miệng nhai, Đay trừng mắt:
- Còn hơn thế nữa ấy. Nói cả chuyện tôi muốn làm thằng cấp dưỡng tàu. Sếp bảo tại sao. Tôi bảo đấy là người sướng nhất tàu cá. Ngày hai bữa cơm cùng lắm là thêm một bữa mì đều làm trong nhà, mưa không đến mặt nắng không đến đầu. Cái ấy không nói làm gì, trên tàu nhiều người như thế, thuyền trưởng, báo vụ, tổ máy chúng tôi chẳng hạn. Sướng là chỗ khác cơ, thằng cấp dưỡng tàu đứa nào cũng khẳm, thuyền trưởng máy trưởng chống gậy sắt đuổi mòn gậy mà đã kịp nó à, báo cáo thủ trưởng, trước hết gạo em cứ nấu hết tiêu chuẩn bảy lạng ăn hết hay không, mặc, còn thừa em sấy, cho vào máy, sấy nhanh lắm chóng khô lắm, đóng bao mang về nghìn rưỡi một cân cơm khô mà giá gạo này nghìn rưỡi sao được, một chuyến vài bao cơm khô. Rồi đến nước gạo, nước gạo tàu cầm chắc năm trăm một cân các bà ưng ngay, thùng đầy là một tạ đấy thủ trưởng ạ...
Chuyện này có thể thật, Mây cằn nhằn:
- Ông nói thế, gay cho cánh cấp dưỡng rồi.
- Không. Để sếp biết, quan tâm hơn đến thuyền trưởng máy trưởng thôi. Tôi mà nói hết sự thật thì thằng cấp dưỡng chết, thằng cấp dưỡng toi. Nó còn bao nhiêu thứ nữa chứ. Chẳng hạn như cá thu, cá song cứ chặt ra kho, ăn không hết em làm ruốc. Nhiều cá ít cá đêm hôm lưới rách máy hỏng kệ em không biết, cứ hai bữa em làm xong là em phì phèo thuốc lá quần ca dô đánh tú lơ khơ, lại quần ca dô mới chết chứ, nhưng tối kéo lưới em cũng ra nhặt dăm con tôm he, em không ăn mì đêm, em nhặt mấy con cho cháu, thì thằng nào ghen tị với thằng cấp dưỡng về mấy khúc cá thừa mấy con tôm vãi. Ớ biển thế, về bờ thì sao? Sáng sớm ông ấy đã xong xuôi cơm nước rồi, mình ngủ dậy nhìn lên bảng đã thấy cơm trong nồi, cá kho trong chạn, canh chua ở bếp, 3 mâm 4, 1 mâm 3, 1 mâm 2, các đồng chí tự giác lấy, ông ấy biến rồi, một bao lên chợ rồi, vất đi cũng dăm bảy cân, cứ tính mười nghìn một cân thôi, mười nghìn làm sao được, toàn cá ngon rẻ cũng phải mười hai nghìn, đấy là bán buôn cho người ta đấy, đến trưa đang ngủ đã nghe tiếng chặt bồm bộp, bố ấy đã làm cơm chiều rồi lần này không bao nữa mà cặp lồng, cá ngon xắt khúc cho vào cặp lồng thì bao nhiêu, vài cân đấy, mình ngủ dậy đã thấy chữ đề trên bảng mấy mâm bốn mấy mâm ba mâm hai, đấy là tăng hai, tăng ba là chiều tối nấu một cặp lồng cá nữa đem đến mấy bà bán bún riêu, bảo vệ có hỏi cũng chả làm sao, chính sách không đề ra bắt cá chín, chỉ cá sống chứ cá chín thì ai bắt làm gì mấy khúc cá nấu vớ vẩn. Một ngày ông ấy đá ba tăng như vậy là bao nhiêu? Đấy là khi tàu còn bốc cá, bốc cá xong xuôi thì...
Đay buông đũa đứng lên, cao lớn, sù sì khoanh hai tay lễ phép, đầu ngoẹo đi, bắt chước anh cấp dưỡng nào đó, thiểu não:
- Báo cáo anh, em nghỉ bù.
Rồi Đay cười phá lên. Tiếng cười tắt ngay, hai mắt giương tròn:
- Thuyền trưởng máy trưởng đuổi sao kịp nó? Ông có công nhận thằng cấp dưỡng nào cũng khẳm không? Đấy là chưa kể món chả cá không phải xay mà chạy mô tơ cái vẩy cũng rừ.
Đay làm động tác đổ cá từ máy xay ra khay, rưới mỡ vào khay, đút khay vào gầm lò, giơ tay ngang mặt xem đồng hồ rồi rút khay ra, lấy dao xắt khay chả, gói và cắp vào nách. Vở kịch câm ấy Đay biểu diễn rất thành thạo khiến ai nhìn cũng hiểu. Chị Bấm cứ cười rũ ra. Đay hất hàm:
- Một cân chả ai không biết chứ tôi là tôi bán được hai mươi nghìn (2) mà chè chai lông vịt lắm cũng phải bốn cân chứ nó chịu làm một cân à?
Rồi Đay lại tuôn ra một câu ngược lại, đầy bao dung làm tất cả không còn hiểu ra sao nữa:
- Nói đi thì thế. Nhưng nghĩ cho cùng cũng chỉ là gà què ăn quẩn cối xay thôi.
Mọi người không hiểu là đúng thôi. Bởi Đay đang vui. Đay đã nhìn thấy sự đổi đời. Trong lúc hào hứng, hơi men đang bốc, suýt nữa Đay nói ra cái điều Đay đã tự bảo phải giữ kín từ lúc bước chân vào đây: Tổng giám đốc đã hứa sẽ bảo tổ chức cho Đay chụp ảnh làm hộ chiếu vào đợt tới. Mới chỉ là lời nói. Chưa đưa được phong bì. Nên coi như hợp đồng chưa được ký. Đã điều tra: Thông thường là một nghìn đô. Tám trăm đô cho sếp. Hai trăm đô cho trưởng phòng tổ chức. Đay đã định liệu đâu vào đấy. Kể cả câu nói khi đưa phong bì cho sếp cũng đã được chuẩn bị: “Cám ơn anh đã cho em có cơ hội được đổi đời. Bây giờ em chưa xuống tàu, gọi là của ít lòng nhiều, chỉ có tí quà cho cháu. Em hứa sẽ không bao giờ quên ơn anh”. Còn trưởng phòng tổ chức là bạn học cùng khóa, đi biển say sóng phải lên bờ, nói thế nào cho thân mật là được.
Chỉ đến khi ấy mới có thể công khai với các chiến hữu, mới nghĩ đến bước thứ hai quan trọng không kém: biên chế dưới tàu Hạ Long 19.
Buổi tối ở Vùng Ngọc.
Một mình tôi nằm ngửa trên nóc cabin thượng, nơi tôi đã nằm với bác Sĩ nghe bác kể chuyện cá xà đánh nhau với cá Ông mấy hôm trước. Lúc này tôi muốn nằm một mình. Không muốn có ai ở bên. Điều tôi vẫn nhận thấy ở mọi người dưới tàu từ trước đẽn nay hóa ra chỉ là lớp vỏ ngoài. Mỗi người đều có hai khuôn mặt. Bác Suất, chú Hồng, chú Đỉnh, chú Quẹn, bác Sĩ... không còn là những người như tôi vẫn nghĩ. Còn bố? Cả chú Hùng lùn nữa? Chắc chắn bố cũng có hai khuôn mặt. Như mọi người trên tàu có hai khuôn mặt. Bây giờ mình tin rằng tất cả người lớn đều có hai khuôn mặt.
Tôi cứ nằm ngửa trên tấm chiếu trải ở mặt boong cao nhất của con tàu mà nghĩ ngợi một mình. Nằm đây cũng không nhìn thấy chân trời. Chỉ một bầu trời đầy sao úp xuống. Tiếng sóng trong vịnh êm đềm, có lẽ là từ những chiếc thuyền nan, “những chiếc xe taxi của thủ trưởng’ chở người từ tàu lên bờ, từ bờ về tàu hay từ tàu này sang tàu khác xô vào thân tàu. Vẫn nghe vọng về tiếng ì ầm của biển động ngoài kia. Có tiếng nhạc từ một con tàu nào đó vang đến. Có gió nhưng gió thổi trên cao, không thổi xuống chỗ tôi nằm. Vịnh rất nhiều tàu. Nhiều tàu rất giống nhau, trong bóng đêm nhìn hệt nhau, từ hình dáng, kích thước, đến chiếc cần cẩu chênh chếch, các cửa sổ cabin, nhưng cánh thuyền nan vẫn nhận ra ngay từng con tàu khác nhau, dù không nhìn số hiệu và không bao giờ phải loay hoay tìm gọi. Tôi đang nằm nghe tiếng sóng nhè nhẹ chung quanh thì có tiếng đụng khẽ vào thân tàu. Một chiếc thuyền nan. Và tiếng phụ nữ:
- Anh Sĩ ơi.
Tiếng cô Nguyệt. Cả tàu đang im lặng bỗng nhốn nháo. Tôi nghe thấy cả tiếng bố tôi, tiếng chú Hùng lùn, tiếng bác Suất, bác Sĩ. Nghĩa là cả ban chỉ huy tàu. Và tiếng chú Đỉnh, chú Quẹn. Rồi tôi nghe tiếng máy tàu nổ. Con tàu bỗng rùng rùng như sắp tách bến. Cần cẩu kêu. Tiếng rầm của nắp hầm cá vất xuống mặt boong. Tôi khẽ khàng nhỏm dậy bò ra cạnh boong thượng, sát với đầu cầu thang dốc đứng, nép vào sau chiếc trụ đèn pha phủ vải bạt nhìn xuống boong lải. Gần như cả tàu đang đứng trên boong. Và cô Nguyệt. Ba bốn người nhanh thoăn thoắt biến xuống hầm. Miệng hầm sáng trưng ánh điện. Mười hai lổ tôm được đưa lên. Nước chảy ròng ròng. Trong ảnh sảng hắt lên từ dưới hầm, tôi trông thấy những người trên boong nhanh nhẹn xếp sảu lổ tôm vào trong đụt, lổ nọ chồng lên lổ kia. Cần cẩu quay chênh chếch sang mạn, hạ xuống thuyền. Hai lần như vậy. Tôi không nom rõ thuyền vì nó khuất sau be, chỉ thấy cô Nguyệt nắm thang dây tụt xuống và biến mất trong khoảng tối om. Dù đã chứng kiến chuyện bản cả ban sảng bây giờ tôi vẫn ngạc nhiên. Sao tàu bố tôi có thể bản nhiều thế nhỉ? Cả. Rồi bây giờ lại tôm. Có lẽ cả là sản phẩm phụ bản ban ngày, còn tôm là sản phẩm chính phải cẩn thận hơn chăng? Liệu bố tôi có việc gì không? Tôi biết trên tàu người thuyền trưởng chịu trảch nhiệm về mọi mặt mọi chuyện xảy ra. Tôi biết khi tàu chìm, thuyền trưởng là người cuối cùng rời tàu và tôi rất tự hào về điều ấy. Tôi lo cho bố. Nhưng tôi thấy mọi người trên tàu kể cả bố không có chút gì tỏ ra lo lắng. Ngược lại, vui, phấn khởi. Bây giờ tôi đã hiểu chuyến nào tàu cũng bản cả và cả bản tôm. Không chỉ tàu bố tôi. Cảc tàu khảc cũng vậy. Nhưng chỉ riêng tàu bố tôi không có định mức vì là tàu khảo sảt thăm dò. Nhiều ít, không ai bắt bẻ được. Nhưng như thế còn gì là khảo sảt là thăm dò nữa một khi mọi con số đều đã bị làm sai lệch.
Đám đông trên boong lải đã giải tản rất nhanh cùng với sự biến mất của cô Nguyệt. Mảy tàu tắt. Đèn dưới hầm tắt. Vụng Ngọc trở lại êm đềm. Tôi nhìn ra cửa vụng.
Không trông thấy hòn Núi Hài đâu. Ở chỗ ấy chỉ thấy những mảng lân tinh xô tới, chạy lên cao rồi xòe ra như một bó hoa, rụng xuống lả tả. Cửa vụng cũng vậy. Những làn ảnh sảng xanh dựng đứng đập vào vách đả, đổ gập. Trong tiếng ầm ầm sôi động của biển khơi ngoài kia vẫn nghe rõ tiếng sóng Vụng Ngọc êm ả vỗ bờ. Tôi trở lại chỗ nằm trên boong thượng. Khí trời mát dần. Một mình tôi nằm nhìn sao chi chít trên trời mà thấy vũ trụ thật vô cùng. Lại càng thấy mình bé nhỏ cô đơn. Biết bao điều không dám nói với ai. Tôi nghĩ đến thằng Toán. Nó có cái cằm nhọn, khi cười cằm càng nhọn. Nó ngồi cạnh tôi. Hai đứa chơi với nhau rất thân. Nó không được vào thẳng cấp ba như tôi, vì môn văn của nó chỉ được năm điểm rưỡi. Tiếc cái là các môn khác, nó đều đạt điểm cao. Hôm tôi đi nó buồn buồn:
- Mày sướng thật. Đi chóng lên rồi về nhá. Nhớ có quà cho tao và cho cả em Nhã nữa đấy.
Cái Nhã là người nó yêu. Nó nói với tôi rằng nó yêu cái Nhã ngồi bàn trên. Cái Nhã con ông Thi giáo viên trường cấp ba. Cái Nhã bằng tuổi nó và cũng bằng tuổi tôi, mười sáu. Nó rất thích được tôi chế nó, nói với nó về chuyện cái Nhã. Đại loại như: Bằng tuổi nằm duỗi mà ăn. Hay: Cái Nhã là hoa khôi của trường đấy. Rồi: Mày lấy được cái Nhã thì chẳng lo gì, cứ thế mà lên cấp ba. Rồi vào đại học thôi. Anh chàng cười tít mắt: Tao sẽ viết thư tỏ tình chứ không nói đâu. Mày bảo viết thư hơn hay nói hơn? Tôi cười. Tôi biết thằng này chỉ mạnh miệng thế thôi. Thư không bao giờ viết. Nói cũng không bao giờ. Mà quả vậy.
Trông thấy cái Nhã là anh chàng lại luống cuống lảng đi chỗ khác hoặc giữ tôi ở lại với nó để gặp cái Nhã. Bao giờ cũng là cuộc gặp tay ba. Còn cái Nhã thì chẳng biết gì, vẫn cứ cậu cậu tớ tớ với nó như với tất cả các bạn. Giá có thằng Toán ở đây, tôi sẽ kể cho nó nghe bao nhiêu chuyện. Tôi bỗng thấy mình hiểu biết hơn thằng Toán rất nhiều, “già đời” hơn thằng Toán rất nhiều. Nó vẫn như tôi cách đây mấy ngày. Vẫn sống trong thế giới học trò, thế giới trẻ con. Thế giới này có rất nhiều điều chúng mình không hiểu được đâu Toán ạ. Nhưng rồi chúng mình phải hiểu. Bởi chúng mình sẽ là người lớn và sống trong thế giới ấy.
Đêm đã khuya. Trăng lên tự bao giờ. Ánh trăng gợn gợn trong vụng. Tiếng một con cá quẫy sát tàu. Lại tiếng sóng nhỏ nhẹ êm đềm bốn chung quanh. Và một tiếng sóng khác vẫn êm đềm như thế nhưng to dần, sau đó một tiếng động nhẹ vào thân tàu làm con tàu hơi cựa mình. Có một chiếc thuyền nan vừa áp mạn. Có ai đó vừa đi chơi về. Mà đúng thế thật. Tôi nghe thấy tiếng chân hai người nhảy từ trên be xuống mặt boong. Rồi tiếng chân bước lên boong trên. Và ngồi xuống ngay bên dưới chỗ tôi nằm. ơ đấy có một cái thùng gỗ to, đặt sát vào ống khói, gần với chân cần cẩu chĩa ra miệng hầm cá. Cái thùng mà tôi đã thử mở ra xem, bên trong đựng những mảnh lưới rách, những nhợ vá, ghim đan lưới và các thứ linh tinh khác.
- Con bé đi với ông trông khá đấy chứ.
Tiếng chú Lượng, một thủy thủ cao lớn, nước da trắng, một bên má có một nốt ruồi đen mọc những sợi râu dài. Chú Lượng rất vui tính. Chú có cái giọng của người chuyên hô hoán. Một buổi chiều, mọi người đang đứng ăn cơm ngoài boong lái, chợt chú Lượng vất cái bát xuống nắp hầm cá, chỉ tay ra ngoài biển kêu thét lên:
- Tàu cháy!
Mọi người hoảng hốt nhìn ra. Một con tàu to từ biển khơi tiến vào, ống khói bỗng nhả ra một cục khói tròn to đen sì. Hay mới hôm qua trong vịnh thôi. Một chiếc thuyền nan, “một chiếc taxi của thủ trưởng’ đi ngang qua. Chúng tôi đứng nhìn theo. Chú Lượng giơ tay chào. Người chèo thuyền - một đứa con gái trạc tuổi tôi - tưởng chú gọi chở, định ghé vào thì chú huơ tay ra hiệu cứ đi đi. Đứa con gái chèo đi, vừa chèo vừa nhìn chúng tôi rồi nói một câu gì đó. Chú Lượng gào lên: Nói to lên! Nghe không rõ! Đứa con gái trên thuyền buông chèo bắc tay lên miệng làm loa. Chúng tôi nghiêng tai lắng nghe. Chẳng biết nó nói gì. Bỗng chú Lượng ôm chầm lấy tôi, thét to: “Anh này hử?” Tôi giật mình còn tất cả cười ầm.
- Con bé của mình trông bình thường nhưng nội thất rất được!
Tiếng chú Đài vê tê đê. Tôi biết họ vừa đi đâu về. Tôi không muốn thuật lại câu chuyện họ nói với nhau. Tôi nghĩ đến bố. Không biết bố có như các chú ấy không? Nếu vậy thì thất vọng quá, buồn quá. Tôi bấu víu vào một hy vọng: Bố là thuyền trưởng. Là thủ trưởng của con tàu. Cầm cân nảy mực. Là người rời con tàu cuối cùng khi tàu lâm nạn. Chắc chắn bố không giống các thuyền viên khác.
- Hôm nay được năm lô, chi ái tình phí hết năm sọi. Tích cóp đến bao giờ mới làm lại được cái nhà. Tiếng chú Đài.
- Tao chưa dám nghĩ đến nhà cửa. Kiếm ăn vặt thế này nghĩ đến làm nhà sao được. Phải là quả cơ.
-  Đúng. Phải trúng một quả gì đó.
- Chúng mình làm sao có quả gì. Gà què ăn quẩn cối xay. Mày báo vụ còn cái cửa đi tàu nước ngoài. Chúng tao cánh thủy thủ xếp lốt đến bao giờ.
- Không hy vọng gì đâu. Bánh vẽ đấy. Rồi lần lượt tất cả các đồng chí thuyền viên đều được đi tàu vận tải ngoại thương, trước tiên là những người có thành tích trong sản xuất, có thâm niên cống hiến với xí nghiệp. Nói như trạng mẹ. Ồng Lê Mây đấy. Về đây từ ngày đầu mới xây dựng xí nghiệp, thời tàu vỏ gỗ, có được đi không. Tao về sau ông Mây hai năm. Có được đi không. Mà thằng Li mới về ba năm đã được đi. Chúng mình không có đạn. Cũng không có thế. Mày biết cái thằng tàu 19 đi cái xe 250phân khối hai ống xả không nhỉ. Nó có làm ở xí nghiệp một ngày nào đâu. Con một ông đại tá công an. Vô nghề nghiệp. An chơi đua đòi, tiêu tiền như rác. Sắp nghiện đến nơi. Ồng bố vội nói với sếp cho nó xuống tàu.
-  Thằng Khương. Mình biết.
- Thấy ông Đáng nói nó đi mười mấy chuyến rồi, tổ chức đã làm quyết định rút lên dự bị, bố nó viết một cái thư xuống, thế là lại đi tiếp.
- Chứ lại không à? Nó lên bờ là gay go. Nó còn đi tàu 19, bảo đảm tàu không bị khám, không bị giết. Cũng là một thứ hợp đồng ngầm cả.
-  Thôi cứ yên tâm ở đây thôi. Sống là đây mà chết cũng
- Tao tự an ủi là chúng mình vân hơn bọn đảnh cả. Bọn chúng nó phải bảo đảm chỉ tiêu định mức.
-  Cũng bản như điên. Hụt chỉ tiêu cũng bản như điên.
- Thì rõ. Nhưng không bằng tàu mình. Ồng Đảng cũng tả xung hữu đột lắm mới giữ được bộ khung tàu đấy. Chuyến nào về chả có phong bì. Không chỉ tổng giảm đốc đâu. Còn phòng tổ chức, còn đảng ủy công đoàn. Cái khoản mười phần trăm tiền bản cả không chia là vào mục ấy. Ồng Đảng không xơ múi gì vào chỗ ấy đâu.
-  Ai biết đâu ma ăn cỗ.
Nghe chú Lượng nói, tôi đỏ mặt. Tôi bỗng ghét chú Lượng vô cùng. Vậy ra là thế. Người tin bố tôi. Người không tin. Tôi tin bố. Như chú Đài. Chú Lượng không tin bố. Thế nhưng bình thường tôi thấy chú ấy đối với bố tôi cũng y như chú Đài, như mọi người trên tàu, chẳng có gì khảc. Có nhiều người như chú Lượng không? Mà bố có đảng tin thật không? Người ta có quyền không tin chứ. Có tiếng bật lửa lảch cảch. Mùi khói thuốc lả bay lên. Và tiếng chú Đài:
-  Cô bé Ngã Năm của mày đến đâu rồi.
-  Chẳng đâu vào đâu. Căng lắm.
-  Hôm nọ thấy đèo một túi tôm he đến nhà cơ mà.
- Chuyến trước xin thuyền trưởng hai cân tôm he, với hai con mực nang to mỗi con phải đến hai ki lô. Cho vào cái túi đem đến biếu bà mẹ. Bà mẹ vui lắm. Không phải vì túi tôm cả ấy đâu. Mà bà mẹ rất thương mình. Rất muốn gả con gái cho mình. Bà mẹ nói thương mình vì bố mình bị bắn chết trong cái cách ruộng đất, mình mồ côi. Nên bà coi như con. Bà nói cô cũng nói thật với cháu cái Liên nhà cô lấy cháu, nó không phải đi làm dâu. Cô đã đi làm dâu, cô sợ làm dâu lắm rồi. Ba đứa con gái nhà cô, hai đứa lớn đi lấy chồng đều không phải làm dâu. Rồi bà kể cho mình nghe chuyện bà làm dâu. Bà lấy chồng được ba tháng thì chồng đi bộ đội. Biền biệt mười một năm mới về. Một mình bà quần quật cơm nước hầu hạ bố mẹ chồng, các em trai em gái nhà chồng. Tổ chức cưới vợ cho hai em trai nhà chồng, lo đám cưới cho em gái nhà chồng. Lại là dâu trưởng, mọi công việc trong họ đều đến tay. Om cũng không được nghỉ. Ổm vẫn phải lo công việc đồng áng. Mình ốm nhưng mẹ chồng cũng ốm. Mình phải lo cháo lão thuốc thang... Mười một năm cháu ạ. Còn gì là đời! Cho nên cô nhất quyết lo liệu sao cho nó lấy chồng nhưng không phải làm dâu. Cô hãi lắm rồi. Bây giờ nghĩ lại vẫn còn hãi. Bà động viên mình cứ kiên trì. Lúc mình đến nhà, cô nàng dắt xe đạp đi. Mình muốn về nhưng bà bảo: Cứ ngồi chơi nói chuyện với cô. Chỉ tí nữa nó về thôi. Mình ngồi chờ. Chờ lâu. Chuyện với bà già. Hết chuyện nọ đến chuyện kia. Cuối cùng cô ấy cũng về nhưng cứ ở dưới bếp, nhất định không lên. Chán quá, mình chào bà già, xuống bếp chào cô nàng thì cô nàng xách túi tôm với mực ấn vào tay mình, mình nhất định không cầm. Hai đứa giằng co đến tận cửa. Cuối cùng mình đành phải cầm. Đạp được một quãng mình lẳng cái túi vào bụi cây ven đường, phóng một mạch về tàu nằm vật, chẳng thiết gì đời nữa.
Hai người im lặng. Một lúc tiếng chú Đài đầy thông cảm:
- Cho nên chỉ có những lúc đến với các em là quên tất cả. Mọi sự. Quên chuyện yêu đương Quên chuyện làm nhà. Quên cả chuyện làm việc dưới tàu vất vả như một con chó.
- Mình vẫn không quên được cô nàng. Trong khi ôm các ả ca ve mình cứ phải tưởng tượng đấy là Liên.
- Thế thì gay thật. Chỉ còn mỗi cách phải bám chắc lấy bà mẹ thôi.
Chú Lượng thở dài:
-  Khó lắm. Mình đi biền biệt thế này. Có nhanh cũng phải nửa tháng mới đến được một lần. Giá làm trên bờ còn dễ...
Tôi nằm im lặng nghe. Cố không gây ra một tiếng động nào. Cũng không sợ là mình nghe trộm chuyện người khác. Chẳng qua là không muốn làm đứt quãng câu chuyện của hai người thôi. Nếu các chú có lên boong thượng, tôi sẽ giả cách ngủ. Chẳng sao. Nhưng hai người không lên. Một lúc sau họ về cabin ngủ.
Tôi ngồi dậy, xuống chỗ hai chú vừa ngồi rồi quành về cabin bố tôi trong lòng rất hồi hộp. Chỉ sợ bố tôi không có trong phòng và thở phào: Qua cánh cửa ra vào để mở, tôi thấy bố đang nằm ngủ, một chân ghếch lên thành giường nhô cao. Tôi biết là bố không đi đâu cả mà! Cũng như tôi biết bố không lấy một đồng nào trong cái quỹ ngoại giao đút lót ấy. Tôi lại nghĩ đến chú Lượng Ai biết đâu một người vui tính tếu táo thế mà mang trong lòng biết bao điều. Tôi định trở lên boong thượng nhưng nghe thấy tiếng hai con lợn ụt ịt bên dưới. Không đi lối cầu thang gỗ bên trong, tôi tụt cầu thang sắt dốc đứng phía ngoài đến chỗ chúng. Khuya rồi, tất cả tàu đã ngủ nhưng chúng vẫn còn tha thẩn dạo chơi trên boong lái. Tôi ngồi xuống. Chúng quay cả đầu về chỗ tôi, dưới ánh trăng tôi trông thấy mũi chúng chun lại, cái đuôi ve vẩy ụt ịt ụt ịt. Rõ ràng chúng muốn nói gì với tôi. Hai tay tôi đặt vào gáy hai con lợn và khẽ gãi gãi như các chú trên tàu vẫn làm. Chúng thôi không ụt ịt nữa, cúi đầu ngoan ngoãn đứng im. Lợn ơi. Khuya rồi sao chúng mày chưa ngủ. Hay chúng mày cũng mất ngủ như tao. Chúng mày mất ngủ còn có bạn. Đêm nay tao mất ngủ đây, mà chẳng có ai trò chuyện. Bao nhiều điều muốn nói, nhưng biết nói cùng ai. Tôi nhớ đến thằng Toán. Nhưng tôi nghĩ nếu có thằng Toán ở bên, tôi cũng chẳng biết nói gì với nó. Tôi bỗng thấy mình già đi chục tuổi.

Quán Mèo biết rằng trong Liên hợp nhiều người ghét mình, nhiều người muốn mình về mo. Chỉ vì Quán đã thoát khỏi kiếp nghèo hèn. Quán đã trở thành giàu có, thành “tỉ phú” như nhiều người nửa đùa nửa thật chào Quán. Không. Không bao giờ Quán về mo, không bao giờ Quán trở lại kiếp sống khốn nạn ngày trước nữa. Giờ đây không ai có thể đẩy Quán trở lại nghèo hèn khốn nạn được nữa. Các cụ nói vạn sự khởi đầu nan. Quán đã qua bước khởi đầu khó nhọc ấy rồi. Quán không ngờ đời mình lại có lúc được như hiện nay. Một bao tải tiền.
Người ta thường nói với nhau như vậy để chỉ ai đó có nhiều tiền lắm. Thế nhưng Quán đã có nhiều bao tải tiền. Và Quán thấy kiếm tiền cũng khó nhưng cũng dễ. Căn bản là phải có máu liều. Phải có máu làm ăn lớn. Và phải chớp thời cơ. Thời cơ nó đến rồi nó đi. Không thể chần chừ. Thời cơ thứ nhất làm nảy sinh thời cơ thứ hai. Thời cơ thứ hai đẻ ra thời cơ thứ ba. Cứ như một phản ứng dây chuyền. Và phải biết xâu các đầu mối lại với nhau, liên kết những người cùng máu mê, chí hướng với nhau. Để tạo ra một sức mạnh tổng hợp. Người nọ dựa uy người kia, dựa thế người kia, dựa lực người kia. Thực ra bây giờ Quán mới có những suy nghĩ mang tính tổng kết như vậy. Chứ lúc mới bắt đầu, Quán chỉ làm như một người đang nghèo đói ngửi thấy cửa này làm ăn được, ngửi thấy hơi tiền mà không nguy hiểm. Nói vậy bởi Quán cũng đã có lúc làm ra tiền nhưng có thể tiêu đời. Lúc đầu là mang thuê thuốc phiện từ mạn ngược về thành phố. Tiếp theo là bồng thuê heroin. Được mươi chuyến sợ quá dù nhiều tiền. Đường dây vỡ. Hai người bị bắt. Nhưng họ thực hiện lời thề khi mới cùng nhau làm ăn, không khai ra Quán. Không chỉ một đường dây của Quán. Nhiều đường dây vỡ, nhiều người tra tay vào còng số 8. Có cả người dựa cột(3). Quán lại về trông đầm tôm cho hợp tác xã. Muỗi, dĩn đốt ngứa mẩn cả người. Đã mấy lần đổ trộm tôm đem bán. Nhưng rồi bị lộ. Quán bị đưa ra kiểm điểm ở hội nghị xã viên và bị đuổi việc.
Sự việc càng ô danh hơn khi Quán ngủ với vợ anh hàng xóm, bị anh ta bắt được, Quán phải viết giấy nhận mình hủ hóa và cam đoan cày cho anh ta ba sào ruộng đầm giữa trời rét đại hàn chi cực để anh ta không tố cáo trước xóm làng. Cày thì cày nhưng bí mật vụ việc không giữ được, vẫn cứ lộ ra. Lộ vì vợ Quán, cái con mụ mặc quần cá rô đớp. Chẳng thể tìm được lý do gì mà giữa ngày đông tháng giá, chồng mình lại dong trâu đi cày đầm nhà hàng xóm. Hỏi thì Quán bảo: Lão ta lười, thuê mình, mình làm lấy tiền chứ làm sao. Lại hỏi thuê bao nhiêu, công sá ra làm sao. Quán trả lời: Thuê trả bằng thóc. Mỗi sào hai mươi ki lô thóc. Đến vụ trả. Rồi cười với vợ, tình tứ: Nhà túng, người ta đi làm không thương người ta thì thôi, còn hỏi. Vợ Quán tưởng thật, yên trí chồng mình biết thương vợ thương con. Chỉ đến khi nghe tin đứa con trai bị đánh chết tại thành phố Hồ Chí Minh, vợ Quán vừa khóc vừa sang ông hàng xóm xin trả trước số tiền để thêm cặp đi vào lo tang ma cho con ở trong ấy, mới biết rõ đầu đuôi. Thế là con mụ quần cá rô đớp te tái chạy về làm ầm ĩ cửa nhà, ầm ĩ xóm làng. Ôi làng nước ơi. Ôi trời cao đất dày ơi. Có ai khổ như tôi không. Ông giời sao không vật chết tôi đi để tôi sống làm gì để khổ để nhục thế này. Tao tưởng mày cày ruộng thuê lấy tiền nuôi vợ nuôi con như mày nói. Ai ngờ mày đi cày cái lồn nhà nó cho nó sướng cái buồi của mày để phải lội xuống đầm giữa mùa mưa dầm gió bấc cày cho nhà nó ba sào ruộng. Ôi con ơi. Sống khôn chết thiêng về đây mà xem thằng bố của con bôi gio trát trấu vào mẹ vào cả nhà con ơi...
Vừa đau đớn mất con, vừa nhục nhã công nợ túng thiếu, Quán đã phải giở trò kiếm ăn vặt. Như đến vài người bạn bán thuốc lá vỉa hè vay mỗi người một cây thuốc lá Vina, nói là tổ chức đám cưới cho thằng con thứ, “khổ, nó mê con ông giám đốc ngân hàng quận, cứ đòi tổ chức, mà nghe chừng con bé bụng cũng lùm lùm rồi, không cưới ngay có khi gay dù trong túi thằng bố nó chẳng có đồng xu mẹ nào”. Vay rồi bán ngay. Cũng lại cho những hàng nước vỉa hè. Bán nhưng không trả gốc. Quán nghĩ có lẽ lại phải dính vào chất bột trắng thôi. Quán đã chuẩn bị bắt lại liên lạc với đường dây cũ thì trong một bữa rượu thịt chó, nghe một người nói công ty Liên hợp Biển Đông đang thu mua sắt vụn. Chỉ nói vu vơ thế thôi. Nhưng trong đầu Quán đã nảy ngay ra một kế hoạch. Tại Liên hợp Hải sản Biển Đông, Quán có quen một người. Một người bạn học thời còn học cấp một ở làng bên tên Xuân. Quán nhớ lại một kỷ niệm giữa hai người khi còn đi học. Trong một lần tắm ở hồ trước cửa trường, chơi trò lặn đuổi dưới nước Xuân lặn trốn thế nào mà bị mảnh sành rạch sứt môi, máu chảy ròng ròng. Cả bọn hoảng quá. Nghe nói chỉ có lông dái rịt vào là cầm được máu, cả bọn lên bờ, vạch vòi khám xét nhưng chẳng đứa nào có lấy một sợi mà nhổ, mà rịt.
Kiếm bao ba số, Quán đến xí nghiệp tìm Xuân, nhưng Xuân đã chuyển về Hà Nội làm một sếp gì đó rồi. Quán gặp trưởng phòng kinh doanh và dù không gặp Xuân, dù Xuân đã chuyển đi, nhưng câu chuyện đi tắm với Xuân thời còn con nít đã gây tác động không ngờ đến trưởng phòng kinh doanh vì Xuân chính là người đã kèm cặp nâng đỡ anh ta để anh ta được như ngày nay.
- Thì toàn mười hai mười ba tuổi, làm gì đã có sợi lông nào. Lão Xuân lớn nhất cũng chỉ mới lấm tấm.
Nghe Quán kể, trưởng phòng cười như nắc nẻ và viết giấy giới thiệu Quán đi các nơi: quân đội, giao thông, miền núi. Bên giao thông, Quán tìm ra một cái sà lan bẹp. Quán cùng trưởng phòng kinh doanh sang làm việc, ký hợp đồng. Hai tháng trời Quán tổ chức cắt bóc. Quán chiêu mộ những người đang lờ vờ không có công ăn việc làm, đang đói. Bạn của Quán. Bạn của bạn Quán. Bạn con Quán. Bạn của bạn con Quán. Những người thất nghiệp. Những người mới đi tù về. Họ làm như trâu. Quán cũng làm như trâu. Hai tháng trời không về nhà, lăn lộn trên một bãi sú đầy muỗi dĩn. Cái gì chứ khoản muỗi dĩn Quán coi khinh. Chống hai thứ này dễ ợt. Đem cái màn xô dấn nước rồi mắc lên. Chui vào trong màn nằm, muỗi dĩn chỉ có khóc. Để có tiền nuôi đám quân gia, Quán phải dựa vào xí nghiệp. Quán báo cáo với giám đốc, với trưởng phòng kinh doanh và tổ chức cho ba người (cả trưởng phòng tài vụ - chớ có quên nhân vật tay hòm chìa khóa này) đến thăm quan công trường của Quán bằng xe ô tô của xí nghiệp. Ngồi trên chiếc Mazda lún người máy điều hòa mát rượi Quán đã nghĩ mình phải có cái ô tô như thế. Cái bọn làm sếp này sướng thật.
Trước khi sung sướng phải gian khổ đã. Rất thích sung sướng nhưng Quán có ưu điểm đã quen chịu khổ.
Trong thời gian hai tháng vạn sự khởi đầu nan ấy Quán gầy rộc đi. Đợt tạm ứng đầu tiên, Quán không giữ lại gì cho mình. Giám đốc, trưởng phòng kinh doanh, trưởng phòng tổ chức, trưởng phòng tài vụ đều có phần. Càng không thể quên ông sếp bên giao thông. Sau khi chi lương, Quán chỉ còn trong tay hơn triệu bạc. Đã định cầm tiền đi xả hơi, giải trí, nhịn suốt mấy tháng rồi, đạp xe nửa đường nghĩ đi nghĩ lại, Quán quành về nhà. Quán sợ xui. Bước đầu khởi nghiệp không dính đến món ấy. Bấm bụng chờ kết thúc phi vụ này đã. Quán đưa tiền cho vợ, bảo làm cỗ cúng. Vợ Quán ngơ ngác:
- Hôm nay cúng ai hở bố nó?
- Mua con gà, thổi nồi xôi, thắp hương cầu xin cho công việc của tôi được đầu xuôi đuôi lọt.
Bữa ăn, vợ Quán nhìn chồng gầy rộc, đen sạm, thương quá:
- Chừng đến bao giờ xong hở mình?
- Được nửa công việc rồi. Một tháng nữa đời chúng ta sẽ khác. Nhưng chưa khác nhiều đâu.
Vợ Quán nghe câu tuyên bố chắc như đinh đóng cột ấy của chồng mà tự trách mình ngày trước đã không giữ được sự ghen tuông giận giữ làm khổ Quán. Nhưng chị không dám nói ra điều ấy, chỉ chép miệng thương xót:
- Bố nó vất vả quá.
Tối hôm ấy, hai người nằm cạnh nhau. Chị vợ ôm lấy anh chồng. Quán hất tay ra: Để yên cho người ta ngủ. Mệt bỏ cha ra đây. Nhưng sự đụng chạm ấy lại gợi Quán tới ý định đi vui vẻ lúc ban ngày. Tất cả những sự chung đụng với đám gái làng chơi trẻ trung, thơm tho chiều chuộng trở lại trong óc và Quán thở dài trở mình nằm nghiêng đưa tay ôm vợ. Vợ Quán rúc vào người Quán:
-  Em thương mình lắm.
Người Quán rạo rực một nỗi thèm muốn. Quán luồn tay vào chỗ ấy và rụt vội tay ra:
-  Thấy tháng à?
Vợ Quán nói với vẻ biết lỗi:
-  Bốn hôm rồi. Sao kỳ này lâu thế. Mọi lần chỉ ba ngày là sạch thôi.
Quán thở dài trở lại nằm ngửa. Im lặng. Một lúc sau, Quán làu bàu:
-  Cái đồ lồn teo vú tóp này mà cũng lắm chuyện. Cẩn thận không tao thay mái.
Vợ Quán xoay mình nằm nghiêng về phía chồng sợ hãi:
-  Hay là anh cứ ấy đi.
Quán xùy một cái:
-  Kinh bỏ mẹ.
-  Cũng gần sạch rồi. Buổi chiều chỉ còn dây rớt một tí thôi. Thật đấy. Nhè nhẹ thôi. Được đấy.
Chị vợ đã sẵn sàng. Quán với tay tắt ngọn đèn ngủ. Dù đã tối om, nằm trên vợ, Quán vẫn nhắm nghiền hai mắt, lẩm nhẩm trong óc:
-  Không phải vợ ta.
-  Không phải vợ ta.
-  Không phải vợ ta.
-  Không phải vợ ta.
-  Không phải vợ ta...
Câu cuối cùng hình như là câu thứ ba mươi mốt, Quán bỗng bật lên trong một tiếng rên dài:
-  Không phải vợ ta à à...
Một con tàu nữa vào vụng. Con tàu sơn hai màu đỏ trắng, to, cần cẩu như một cái cổng chào, giống hệt con tàu đã buông neo trong vụng mấy hôm nay. Mũi tàu xẻ nước gợn gợn, thân tàu ép mặt nước trong vụng thành những vệt sóng xòe ra hai bên làm tất cả các tàu thuyền trong vụng đu đưa. Nhiều người đứng trên boong mũi. Những tiếng gọi nhau ầm ĩ. Có tiếng gọi tên bố. Đứng vịn lan can ngay cửa buồng lái, bố giơ tay vẫy: Chào thuyền trưởng Đặng Việt. Tí sang nhé! Một người đàn ông cao lớn thét to: Neo xong là sang ông đấy. Có ba sì đế không? Còn cái gì nhắm không? Con tàu đi men vụng vào đỗ phía trong, gần sát bến. Những đợt sóng vẫn lan tỏa. Những chiếc thuyền nan trong vụng nâng lên hạ xuống dập dềnh như đang trên biển. Chỉ lát sau, thuyền trưởng Đặng Việt đã từ một chiếc “thuyền nan taxi” trèo lên tàu, vào phòng bố. Tiếng bác Việt oang oang:
- Trời còn gió nhưng cũng phải ra đây thôi. Ngày mai chắc gió giảm. Nửa đêm nổ máy. Sáng mai tới ngư trường chứ không lại mất một ngày. Với lại tàu sửa chữa nằm bờ lâu quả rồi. Ra đây kiếm con lợn khao quân cái đã. Bảo thằng Quang đại phó rồi. Nhắn cái Nguyệt đến ngay. Con lợn khoảng bảy chục cân. Giả bảy tạ cá loại bốn thôi. Chứ không có loại hai loại ba đâu. Hết chuyến biển sẽ trả. Trước mắt khuyến mại cho em hai tạ đá. Cứ thế mà làm.
Rượu được rót ra. Mấy con mực khô bác cấp dưỡng mới mổ phơi mấy hôm trước, một bát tương ớt. Bác Việt uống rượu rất nhiều, không như bố tôi. Càng uống da mặt bác càng bì bì tái lại. Bác uống và than thở về sửa chữa kéo dài, về chất lượng sửa chữa, về cái ly hợp... Uống và bảo bố tôi:
- Tối nay hai bố con ông sang tôi nhá. Làm bữa tiết canh lòng lợn. Thế nào cũng sang đấy.
Bác Việt về, bố tôi vào phòng vê tê đê hỏi chú Đài tình hình thời tiết. Bác Sĩ bảo: Giời này là ngày mai gió giảm, chuẩn bị mọi thứ, sớm mai tách bến là vừa.
Chú Hùng lùn ghi trên bảng đen treo trong phòng ăn: Hai ca xem lại toàn bộ dây lưới. Năm giờ sáng mai tách bến đi sản xuất.
Tôi cứ tưởng đến tối bố tôi cùng đi với tôi sang tàu bác Việt. Nhưng hóa ra lại là bác Sĩ. Gần đến lúc đi, bố bị đau bụng. Tàu bác Việt nổ máy rầm rầm. Đèn trên tàu sáng trưng. Chúng tôi bám thang dây leo lên. Lần đầu tiên tôi đặt chân lên một con tàu to như thế. Khác hẳn tàu bố. Cách bố trí các buồng, phòng lái, cầu thang đều khác. Và phòng ăn vẫn gọi là câu lạc bộ mới đẹp đẽ lịch sự làm sao. Rộng, những ba bàn ăn, mặt bàn sạch sẽ bóng lì. Trên tàu vui như hội. Những đĩa tiết canh đông cứng đỏ thẫm, với đủ cả lạc rang, rau thơm phủ lên trên những miếng gan. Những đĩa tây to trắng tinh đựng đầy lòng. Và những đĩa thịt xếp rất đẹp. Rồi nước xuýt. Rồi rau thơm. Hệt như ở nhà những hôm ba mươi tết giết lợn. Bác Việt tỏ ý tiếc là bố tôi không sang. Và rót rượu. Mọi người cũng rót rượu vào chén của mình. Tàu bác Việt đông. Phải đến hai chục người. Tôi cũng được một chén rượu trắng. Giá có bố ở đây, chắc bố không cho tôi uống đâu. Tôi cũng chạm cốc với bác Việt, bác Sĩ và với nhiều người khác. Lần đầu tiên tôi uống rượu. Tôi đưa cốc rượu lên môi khẽ nhấp thử. Nhàn nhạt lợ lợ cay cay. Tôi liều uống thử một ngụm nhỏ. Lập tức mũi tôi cay xè, như khi lặn ở ao bị sặc. Tôi hắt hơi liền ngay sau đó. Tất cả nhìn tôi cười. Tôi xấu hổ quá không dám nhìn ai. Định theo nghề của bố mà không biết uống rượu à? Con trai là phải biết uống rượu. Nam vô tửu như kỳ vô phong. Bố cháu uống rượu vào loại siêu đấy. Mỗi người một câu trêu tôi, động viên tôi. Bác Việt cụng li với tôi, bảo tôi:
-  Mày uống từ từ thôi con ạ. Nào hai bác cháu mình...
Tôi lấy hết bình tĩnh, mạnh bạo đưa chén rượu lên nhấp một ngụm nhỏ. Vẫn cay. Vẫn thấy khe khé ở mũi, nhưng không hắt hơi nữa.
Bác Sĩ bảo tôi:
-  An đã. An vào bụng đã rồi hãy uống.
Tôi xắn một miếng tiết canh. Rồi ăn một miếng thịt. Bác Sĩ múc vào bát tôi một muôi nước suýt. Tôi uống một hơi cạn bát nước suýt.
-  Được rồi. Bây giờ uống rượu được rồi.
Tôi lại đưa chén rượu lên miệng. Ngụm này nhiều hơn ngụm trước. Rượu trôi qua họng nóng ran cổ khiến tôi phải khà một tiếng rõ to cho mát cổ. Bác Sĩ khen: Thằng con giời uống được đấy. Rượu bốc lên đầu. Rần rật thái dương. Râm ran xuống ngực xuống tay. Người tôi lâng lâng. Tôi chưa có cảm giác như thế bao giờ. Bác Sĩ lại bảo: Thôi bây giờ ăn đi. Và bác đứng dậy chìa cốc ra trước mặt bác Việt. Tất cả đứng lên làm theo bác Sĩ, đưa cốc về phía thuyền trưởng. Tôi cũng làm theo. Cụng ly. Mọi người ngửa cổ dốc cả chén rượu vào họng. Tôi cũng làm như vậy và bị ho sặc sụa đến nỗi phải bỏ ra ngoài hành lang, một lúc sau mới trở vào. Bác Sĩ ghé tai tôi, dặn dò:
- Mày uống vừa vừa thôi. Thế là đủ rồi đấy. Kẻo không bố mày lại trách tao.
Bữa ăn rất ngon và vui. Trong đời tôi chưa được dự một bữa ăn nào vui thế. Toàn là dô, là trăm phần trăm, năm mươi phần trăm. Người ta uống nhiều hơn ăn. Người ta reo hò. Người ta cụng chén tay đôi tay ba. Người ta cầm chén rượu đi bàn này bàn khác. Tôi ăn đã no. Chỉ ngồi nhìn người khác. Mọi người như quên mất tôi. Chỉ chú ý đến các chén rượu trên bàn đầy hay vơi để rót thêm để bắt phải uống cạn. Không khí trong câu lạc bộ nồng nặc mùi rượu. Rượu đổ trên bàn ăn. Rượu tràn ly rớt xuống bàn chảy xuống chân. Tôi lặng lẽ bước ra boong. Mặt mũi nóng bừng nhẹ đi. Đầu óc căng nhức nhẹ đi. Thoang thoảng gió mát. Nhìn quanh Vụng Ngọc. Êm đềm. Vắng vẻ. Những ngọn núi đá xám không còn vẻ lồi lõm sù sì nữa, trông mỏng dính. Bầu trời nhiều mây như sà xuống thấp. Lại tiẽng một con cả quẫy. Thải dương tôi vẫn rần rật rần rật. Không buổn ngủ nhưng tôi ngáp một cái rõ dài. Tôi muốn nằm quả. Người tôi mệt rã rời. Có cái gì nghẹn nghẹn thúc thúc nơi cổ họng. Tôi muốn về ngủ hoặc chỉ nằm dài trên giường hay trên nóc cabin thượng.
Tôi lại vào câu lạc bộ xem bữa ăn đã xong chưa để rủ bảc Sĩ về. Nhưng không, không thể được. Mọi người đang trong giai đoạn hào hứng nhất. Mắt ai nấy đều long lanh còn khuôn mặt thì rạng rỡ. Đã có người say xỉn, đang lắc lư cái đầu cố ngổi cho vững. Một người khảc cất tiếng nói, giọng nói ríu ró, lè nhè không ngắt được tiếng nọ với tiếng kia. Tất cả lắng nghe nhưng không hiểu anh ta nói gì. Bảc Sĩ kêu lên: Thằng Thượng mản méo tiếng rồi. Câm đi. Đừng nói nữa. Bảc lại với tay cầm chai rượu trắng rót một lượt nữa:
-  Nào dô.
Tôi biết chẳng thể bảo bảc về được. Đành lại ra boong. Lại nhìn trời nhìn vụng. Nhìn về phía tàu bố tôi đen đen neo mãi xa. Bỗng một chiếc thuyền nan đột ngột hiện ra trong màn đêm chèo đến gần. Đứng dưới thuyền, người đàn bà dưới thuyền hỏi vọng lên:
-  Anh ơi! Có đi không?
Tôi mừng rỡ kêu lên: Có. Và quành ra chỗ treo thang dây. Không nói với bảc Sĩ, tôi tụt thang dây xuống thuyền. Và chỉ một lúc sau đã có mặt ở tàu của bố, sau khi đã trả tiền.
Nếu tàu bảc Việt ổn ào vui vẻ sảng trưng thì tàu của bố tôi ngược hẳn lại: tối đen, không một tiếng động, không một bóng người. Cảc cửa cabin bên dưới đều đóng im ỉm.
Như một con tàu chết. Tôi bước lên phòng bố tôi. Cảnh cửa cũng đóng như vậy. Tôi cầm cái tay xoay bằng sắt mạ inox sảng loảng vặn mạnh mở rộng cửa. Một cảnh tượng không ngờ được, không tưởng tượng được bày ra trước mắt: Ngọn đèn ngủ trên đầu giường bố tôi tỏa ảnh sảng yếu ớt màu xanh lơ. Và chính nhờ ngọn đèn ấy mà tôi trông thấy một người nằm trên giường bố tôi. Một người đàn bà mặc bộ đổ màu tím nhạt đang nằm duỗi dài trên giường bố. Thấy cửa mở, người ấy quay ra và giật mình ngổi dậy. Vừa bước một chân vào phòng, tôi vội rụt lại sập mạnh cửa bước ra boong trèo thẳng lên cabin thượng, chỗ nằm quen thuộc của tôi. Cô Nguyệt! Cô mua cả hôm tàu mới vào vụng! Cô mua tôm tối hôm qua! Chính vì cô ấy quay ra nên tôi mới biết là cô Nguyệt. Có lẽ cô ấy tưởng bố tôi mở cửa.
Nằm dài trên chiếc chiếu trải trên boong thượng, tôi không cựa mình, cố giữ sao cho không một tiếng động. Tôi sợ gặp bố. Lúc này gặp bố tôi biết nói gì. Tôi sợ bố biết tôi đã về, đã nom thấy cô Nguyệt nằm trên giường bố. Tôi khóc. Để mặc nước mắt chảy trên mả, tôi mở to mắt nhìn trời. Tôi thương tôi, tôi thương cái Ngàn và nhất là tôi thương mẹ. Bố không như chúng mình vẫn tưởng đâu. Mẹ ơi. Mẹ đã ngủ chưa. Mẹ đang làm gì. Mẹ có biết những gì đã đến với mẹ không? Mẹ có biết mẹ bị phản bội không? Tôi muốn về ngay với mẹ để khỏi phải nhìn thấy bố, gặp bố, để sống bên mẹ, giúp đỡ mẹ làm mẹ vui. Trong mấy ngày dưới tàu tôi đã biết được nhiều chuyện, học được nhiều điều. Tôi biết người ta có thể làm những việc không tưởng tượng được. Nhưng tôi vẫn hy vọng, vẫn nghĩ rằng đấy là chuyện của mọi người, tất cả, trừ bố. Bố là thuyền trưởng, là người lãnh đạo, là người chịu trách nhiệm về toàn bộ con tàu, là người cuối cùng rời tàu khi tàu lâm nạn. Bố không giống mọi người. Thế rồi mọi chuyện đổ sụp. Bố không còn là thần tượng của tôi nữa. Bố cũng giống hệt mọi người. Thế mà trước kia chúng tôi đã tự hào về bố biết bao! Vậy là từ lâu chúng tôi vẫn sống với những điều dối trá mà không biết. Tôi đau đớn nghĩ mới đây thôi chúng tôi còn tự hào khi bố về nhà và người bố ấy đã không còn nữa. Bây giờ là một người bố khác. Một người bố có những điều bí mật mà mình không nên biết. Một người bố có nhiều thói hư tật xấu. Quá thất vọng, tôi tự nhủ: Có lẽ phải quan niệm lại: Thế nào là bố chăng?
Có tiếng hai con lợn ụt ịt bên dưới boong mũi. Tôi muốn xuống với chúng nó quá. Nhưng lại sợ gặp bố.
Chắc là phải gần sáng tôi mới thiếp đi được. Ánh nắng chiếu vào mi mắt khiến tôi tỉnh dậy. Nhìn quanh. Những dãy núi đá quây lấy Vụng Ngọc không còn nữa. Tôi nhìn về phía lái: Không thấy Núi Hài đâu. Vậy là tàu nổ máy rời vụng từ sớm lắm. Nắng vàng lấp lóa rải đầy trên mặt biển phía trước mặt. Hoa sóng nở vàng rực trong nắng nhức mắt. Nhưng nhìn về phía sau sóng vẫn xanh dịu. Gió thổi ngược chiều tàu đi. Tàu gối sóng, mũi tàu chồm lên đè xuống. Đánh răng rửa mặt xong, tôi vào bếp ăn sáng. Trong bếp có nhiều người. Cả bố. Cả bác Sĩ, cả chú Hùng lùn, chú Đài, chú Lượng. Tôi liếc nhìn bố rất nhanh. Bố đặt tô mì tôm bốc khói ăn dở xuống bàn, nói:
- Lần này vào Lạch Trường xem có tôm vàng không. Năm ngoải cũng mùa này chúng mình chả gặp tôm vàng ở đấy là gì. Mẻ năm mươi cân. Mẻ một tạ. Cao nhất hai tạ.
Chù Hùng bảo:
- Trong ấy nhiều rạn. Lại có xảc mảy bay. Lưới rảch nhiều lắm. Có khi mất lưới. Anh em boong chuẩn bị sẵn tinh thần vả lưới.
Bảc Sĩ bảo tôi:
- Hôm qua con giời say xỉn về trước hả. Về mà không bảo tao lấy một câu. Tao cứ tìm.
Tôi liếc nhìn bố. Bố vẫn chẳng tỏ ra có vẻ gì đặc biệt, cũng chẳng nhìn tôi, và vẫn cứ tiếp tục câu chuyện về ngư trường:
- Xảc mảy bay không sợ. Mình đảnh bên trong, gần bờ. Nếu trúng tôm vàng chỉ ba ngày thôi là tấn tôm cầm chắc.
Bảc Sĩ bảo:
-Ở đấy nhiều lưới rê lắm đấy.
Tàu vẫn hành trình. Mặt trời mỗi lúc một gay gắt, nhưng vẫn mảt. Vì gió. Vì biển. Mãi tới gần trưa, ăn cơm xong, mới thả lưới. Bố tôi và chú Hùng đảnh dấu trên hải đổ. Rồi chú Hùng ghi nhật ký khai thảc. Hai tiếng rưỡi sau, kéo lưới. Tôi đứng ở chân cẩu, gần chỗ bố xem bố có nói gì không. Nhưng bố đang chăm chú nhìn vào hai cái đụt đã được kéo lên, nước trút xuống mặt boong gỗ ào ào như dội. Một người giật đụt. Bố tôi reo lên: Tôm vàng! Mọi người cùng bật lên tiếng reo như bố tôi. Hai đụt lưới khảc được kéo lên. Như hai quả bầu nậm, bên trên nhỏ bên dưới phình ra, hai quả bầu nậm khổng lồ. Lại giật đụt. Lần này tiếng reo còn to hơn lần trước: Tôm vàng!! Bố tụt xuống cầu thang bước ra boong nhìn đống tôm lùm lùm nằm phơi mình dưới ảnh nắng, bảo chú Hùng:
-  Tôm chết nhiều. Mẻ tới cho tàu chạy ngược lên hai lý rồi mới thả lưới. Chắc được nhiều hơn.
Rồi quay lại bảc Sĩ:
-  Ông Sĩ với thằng Quẹn xem lại cái lưới bên phải đi. Lưới không xuôi. Tôm không đi vào đụt, giắt lưới nhiều quả.
Và nói với cảc thủy thủ:
-  Nắng lắm đấy. Làm thật nhanh nhé. Không hỏng hết tôm đấy.
Rồi như nói một mình: Sóng này nhiều tôm.
Tôi cũng xuống nhặt tôm với cảc chú cảc bảc.
Chú Hồng xem xét kỹ bụng một con tôm nhỏ rồi đưa cho tôi:
- Cho thằng này một con tôm chưa cùng ai.
Tôi nhặt tôm, mấy lần bị cái gai nhọn ở đầu tôm đâm vào chảy mảu. Bảc Sĩ đang chữa cái lưới xanh thẫm bên cạnh bảo tôi:
-  Thôi đi bố. Không làm được nghề này đâu. Vất vả lắm. Cứ kiếm mấy cái lồ, một cái xe mảy chạy đường Bắc Ninh Hà Nội ngày được mấy trăm đấy.
Chú Hồng cười:
- Đúng. Ngày hai ba trăm thằng này làm được. Chẳng phải học tính toản làm gì.
- Nhưngphải học tính nhẩm cơ.
-  Các bà buôn làm tính nhẩm thì vô địch.
- Bao nhiêu cũng không phải hạ bút tính. Mà không hề sai.
- Em Nguyệt đấy. Một trăm bảy mươi lần năm nghìn rưỡi, biết ngay là chín trăm ba nhăm nghìn. Bố Sĩ nhà mình cứ phải giấy bút.
Bác Sĩ cười:
- Tôm cá bao nhiêu loại tao không hạ bút, nhầm phải đền oan à.
Chưa hết câu chuyện, đống tôm đã được phân loại xong. Còn cá thì nhanh thôi. Nhặt những con cá to, cá ngon để riêng, những con cá nhỏ thì xúc cả vào lổ lẫn lộn rồi chuyển xuống hầm. Tôi tụt xuống hầm xem các chú ướp tôm ướp cá. Đèn điện sáng chiếu vào những hầm đá sáng lóa mắt. Mát lạnh. Tôm được đổ vào những thùng sắt đựng nước có hòa nước đá. Còn cá thì đổ ngay vào chân một đống đá rồi cuốc đá lấp lên.
Giữa trưa nắng gắt, ngoài boong chỉ còn chú Quẹn bác Sĩ đang làm việc. Cái mũ lá, bộ “quần đẹp áo đẹp” dày cộp của bác Sĩ khi trên tăng gông, khi dưới boong. Bác leo trèo thoăn thoắt. Nắng tưởng đến mức cháy thịt. Bố tôi cũng trèo lên tăng gông. Nom bố ngồi vắt vẻo trên đầu ngoài cùng cái cánh tay sắt chìa ra đu đưa trên mặt biển, giống một diễn viên xiếc tài ba. Tàu vẫn gối sóng dập dềnh. Bên dưới là khoảng không. Là biển. Là sóng. Mà đâu chỉ có việc ngồi trên ấy. Còn cầm cơ lê, còn vặn, còn kéo dây, còn cân chỉnh. Tấm lưới vẫn đu đưa. Những cái ván vẫn chênh chếch là là trên sóng như sắp đáp xuống mặt nước. Một sợi cáp vẫn thõng xuống cắt lạng những lát nước mỏng tung lên như người ném thia lia. Tôi thử sờ vào một đầu tăng gông bằng thép và vội rụt tay lại. Giống như chạm vào nước sôi. Cuối cùng khi tàu đến vị trí thả lưới, công việc cũng vừa xong. Bố tôi, bác Sĩ, chú Quẹn, mặt đỏ gay vì cháy nắng vào bếp, mỗi người một ca bia bỏ nước đá, uống và nhai đá rau ráu. Rồi cả ba vào buồng tắm.
Thuyền trưởng Trần Bôn ở trong khu tập thể có nhiều nhà ba tầng xây song song, một thời đã từng là biểu tượng của cuộc sống đang thay da đổi thịt hàng ngày của thành phố Hải Triều. Những “cửa sổ sơn xanh mở đều một loạt, như một ban đồng ca cùng ngân giọng hát, như những người bên nhau cùng mở rộng tâm hồn”. Nhà thơ Duy Thông đã có những vần thơ như vậy về khu tập thể mới xây. Than ôi! Thời ấy đã qua lâu rồi. Những ngôi nhà đã xuống cấp thảm hại. Màu vôi vàng mới quét cùng với cửa sổ sơn xanh gợi tứ thơ cho Duy Thông đã biến mất từ bao giờ. Cửa chớp long, nan chớp gãy, phải bịt lại bằng cót ép, bằng giấy dầu. Tường loang lổ trơ vữa và nhiều chỗ trơ cả gạch. Mặt trước còn đỡ. Mặt tường phía sau nơi khu phụ mới thật thảm khốc. Cống thoát nước tắc. Nước sinh hoạt tràn từ tầng ba xuống tầng hai, từ tầng hai xuồng tầng một. Những vệt xám đen, những vầng rêu đen dày bám trên tường. Cỏ mọc trên tường.
Và cả những cây si, cây đa theo trường phải bon sai mọc nghiêng. Kinh khủng nhất là những thứ rác rưởi cứt đái lưu cữu trên mặt nền phía dưới. Ớ đó lúc nào nước cũng xăm xắp. Có lần về nhà, Trần Bôn suýt bị cả một bô cứt của Khoa, kỹ sư phòng kỹ thuật trên tầng ba hắt xuống trúng đầu. Sống trên tầng ba, Khoa bành trướng ngược lên sân thượng và độc chiếm trên ấy, quây một cái túp con con, nuôi mười một con lợn. Sân thượng là vương quốc của những con lợn gia đình Khoa nuôi. Mười một con lợn chạy lông nhông như ngựa. Phân lợn và cả phân người nữa rải khắp sân. Xỉ than đổ trên sân thượng từng đống. Khi nào đống xỉ đầy quá, Khoa mang xẻng lên. Hai ba nào. Xúc hất xuống mảnh đất phía sau. Họp tổ không xong. Kiện tụng ra chính quyền, ra công đoàn. Đồng chí Trần Ngọc Thu bí thư đảng ủy sau khi trực tiếp thị sát trên sân thượng đã tuyên bố:
- Tôi đố ông nào lên sân thượng nhà B mà không dẫm phải cứt. Nếu không dẫm phải cứt tôi xin mất chầu bia.
Cũng chỉ có một câu nói ấy thôi. Chẳng ai có thể dỡ được cái túp lợp giấy dầu của Khoa, đuổi được đàn lợn của Khoa xuống đất. Ai cũng biết nhà Khoa cực kỳ khó khăn. Bố mẹ già, vợ không có việc làm, hai đứa con nhỏ, chỉ trông vào đồng lương của Khoa. Cả bố mẹ, cả vợ Khoa đều đã nai lưng ra làm việc. Không kêu ca nửa lời, ngược lại còn cám ơn số phận, cám ơn xí nghiệp, nhờ con, nhờ chồng, đã được từ quê ra tỉnh làm ăn và tuy có vất vả, làm ăn ở đâu chẳng vất vả, nhưng có công có việc quanh năm. Công việc của ba người là khi tàu bốc cá xong thì xuống hầm, dọn hầm, móc vét những con cá nát trong la canh đem về nấu nuôi lợn hay ướp chượp. Dọn hầm là công việc nặng nhọc. Nhất là cái nước la canh. Mùi nó khó ngửi hơn mùi phân tươi, mùi cóc chết. Trên sân thượng ngoài lợn, phân lợn còn có sáu cái chum chượp nhơ nhỡ bốc mùi khủng khiếp. Dòi bò rơi xuống hành lang, chỉ nằm ngất một lúc lại tỉnh, lại tiếp tục bò. Bò dọc hành lang. Mon men bò vào các nhà. Bò ra cầu thang rơi xuống bất động và lại tiếp tục bò. Tầng nào cũng có dòi. Bậc thang nào cũng dòi. Chiếu nghỉ nào cũng dòi. Không nhiều thì ít. Bởi tầng nào cũng có người làm mắm, chẳng phải một mình Khoa. Dòi và than tổ ong. Những ngày đồng khởi nấu mắm mới thật là khiếp khủng (đó là chữ của Khoa, Khoa công nhận là khủng khiếp nhưng không bao giờ nói khủng khiếp mà cứ là khiếp khủng). Mùi chượp, mùi mắm nấu lan tỏa ướp đượm ngào ngạt, át mọi thứ mùi thường nhật đã ngửi quen. Rồi còn vấn nạn hố xí tự hoại đã thành hố xí tự hại. Nước thiếu. Hệ thống bơm nước hỏng từ thời nảo thời nào. Người đi vệ sinh không chịu giội. Tắc. Chọc. Vỡ ống tiêu. Phải xuống đi ra mãi dãy nhà vệ sinh công cộng hố xí thùng mới xây gần bãi rác. Đấy là những người lớn, những người tử tế. Còn cái món ấy của trẻ con, của những người đau bụng đột xuất, và của một vài ông độc thân hộ A1 gặp khi trời mưa là chỉ có bay theo một đường cong parabol từ trên nhà xuống dải đất phía sau. Cái ngày trưởng phòng tổ chức chưa mua đất xây nhà, còn ở tầng hai, sáng dậy mở cửa thấy một gói giấy báo đựng toàn phân đặt ngay ngắn ngay bậu cửa, bên trên có viết chữ Kính gửi... cẩn thận. Chẳng biết ai mà trị. Cứt ở đây thì nhiều. Cũng phải nói đôi chút về bãi rác của nhà máy đồ hộp gần đấy, nơi có dãy hố xí thùng của Liên hợp Biển Đông mới xây. Công nhân bên đồ hộp thường xuyên được mua xương lợn, đầu lợn. Những khúc xương ống, những dẻ xương sườn trắng hếu như đã được lạng bóc bằng manh xơ lam. Những chiếc thủ lợn lột hết thịt và da, chỉ còn trơ sọ đầu lâu mắt trắng dã nằm giữa hai vành lông mi cứng và đen. Xương ống, xương vè lủng lẳng treo ghi đông xe đạp đi trên đường khiến bao người thèm khát hỏi han xin mua lại, bởi ai cũng biết còn bao nhiêu chất béo bổ trong tủy, trong xương, trong sụn sẽ tiết ra khi cho lên bếp than ninh nhừ. Ninh nấu ăn xong, tất cả quẳng ra bãi rác. Cả một bãi xương trắng mênh mông như tha ma bị sét đánh. Mùi thối khẳn theo gió thốc đi các nơi. Chân trần dẫm vào đó chỉ có què. Dưới đất thì thế. Trên đầu, một thứ khiếp khủng khác. Dây điện. Dây điện lòng thòng, lằng nhằng như mạng nhện. Mỗi nhà một đường dây. Công tơ tổng cháy lâu rồi. Nhà Bôn ba quạt hai bóng đèn, một tủ lạnh trả sáu tư nghìn tiền điện, nhà Khoa bốn bếp điện chỉ phải trả hai nhăm nghìn. Mà máy lạnh có mấy khi chạy đâu. Điện sụt áp. Hai trăm hai mươi mà chỉ còn tám chín mươi thôi. Nhà máy điện không thu được tiền điện đe dọa cắt điện. Giám đốc đồng ý cắt, nhưng công đoàn có ý kiến: Khu tập thể là sân sau của xí nghiệp và đây là vấn đề do lịch sử để lại. Giám đốc đồng ý trước mắt xí nghiệp bảo trợ tiền điện song song với việc trích quỹ phát triển sản xuất và công đoàn trích quỹ phúc lợi hợp đồng với sở “Điên nặng” kéo dây mắc công tơ đến từng nhà. Từ bấy mới có điện ổn định. Các gia đình loại bỏ hẳn bếp điện. Cánh chè chai xe đạp cọc cạch hết chuyến này tới chuyến khác chở không biết bao nhiêu bếp điện từ khu tập thể tỏa đi các nơi.
Điện đã được giải quyết nhưng chuyện vệ sinh vẫn chẳng nhúc nhích. Vẫn dòi, phân, rác, khói than tổ ong. Đi về nhà, bao giờ Bôn cũng gần như chạy. Vừa vì sợ gặp người như đã nói ở phần trên. Vừa để bảo đảm an toàn, không bị hắt nước vào đầu, ném gói giấy đựng rác, hất bô đựng phân vào người. (Nhưng thật lạ. Bên ngoài bẩn thế mà mở khóa - các loại khóa - khóa nổi, khóa chìm, khóa từ tính, loại khóa hiện đại nhất do những người đi tàu nước ngoài mang về, bước vào nhà là cả một thiên đường sạch sẽ. Sạch không một gợn nơi bàn chân trần, mát lạnh. Tivi, cassette, tủ lạnh, dàn nhấp nháy đều không một hạt bụi. Lau. Lau suốt ngày. Sàn nhà. Mặt bàn, mặt xa lông...)
Đấy là nỗi khổ chung. Riêng nhà Bôn và các gia đình trong dãy nhà B còn một nỗi khổ khác: Những lời đối đáp, chửi nhau của vợ chồng một chị bán bia mới dọn đến hơn năm nay. Họ mua lại căn hộ của trưởng phòng tổ chức, khi trưởng phòng tổ chức chuyển đến ngôi nhà ba tầng mới xây ở Cầu Tre. Nghĩa là vợ chồng chị bán bia ở sát ngay nhà Bôn. Ban ngày ngôi nhà gần như hoàn toàn yên ắng. Chỉ có một thằng con giai đang học lớp 5. Anh chồng đã hai lần vượt biên sang Hong Kong, nhưng đều bị trả về, không được định cư ở nước thứ ba. Anh làm thợ xây tự do, khi đi khi về im như bồ thóc, lúc nào cũng khép cửa, xóm làng chỉ biết anh có nhà khi thấy thằng con anh cầm chai đi mua rượu. Cho đến khi chị vợ ở cửa hàng bia ngoài cổng cảng chính về, thường là mười một mười hai giờ đêm, nghĩa là buổi sum họp bắt đầu khi một ngày lao động mệt nhọc đầu tắt mặt tối kết thúc. Các nhà đã tắt đèn buông màn đi ngủ. Lúc ấy đèn nhà nọ sáng trưng. Và bỗng nhiên, tiếng quát của anh chồng vang lên:
- Sáng mai bố mày cứ nấu cơm ăn bình thường, mày không muốn ăn với bố mày thì mày đi chỗ khác. Nhà này là nhà của bố mày. Bố mày báo trước cho mà biết.
- Rất tiếc là bố mày chưa được uống máu lồn nhé.
- Đừng có mà dọa bố mày. Mày lồn sành ghe đá thì bố mày buổi vá xi măng nhé. Bố mày báo trước cho mà biết.
- Bố mày lấy mày. Bố mày không biết mày đĩ như thế nào à?
- Còn gạo là sáng mai bố mày nấu cơm ăn. Bố mày chậm lương chứ không phải bố mày không có lương nhé. Báo trước cho mà biết.
- Bố mày không bỏ mày. Bố mày cứ ám. Báo trước cho mà biết. Thách cả họ nhà mày cũng không bỏ được bố mày đâu.
Thường là nghe tiếng của anh chồng. Còn tiếng chị vợ chỉ văng vẳng tít mãi phía trong bếp. Thoảng khi chị vợ ở gian ngoài, những lúc ấy Bôn nghe rõ tiếng chị vợ đối đáp:
- Địt mẹ mày. Tao chửi mày đấy.
Anh chồng gầm lên:
-  Địt mẹ đồ đĩ.
-  Con mẹ mày đĩ. Đĩ cái thằng bố mày.
Im lặng một lúc rồi lại tiếng chị bán bia:
- Li dị. Không ghen tuông làm gì. Không hợp nhau thì li dị. Tao với mày không thể hợp được. Tao lấy mày từ lúc lấm tấm, bây giờ chấm kheo. Tao còn lạ gì mày.
Anh chồng gầm lên:
- Bố mày không li dị. Bố mày cứ ám. Mai bố mày có chết bố mày cũng không cần cơ mà. Tí nữa bố mày có chết bố mày cũng không cần cơ mà. Bố mày đang điên đây. Báo trước cho mà biết.
-  Điên thì làm đéo gì phải báo trước.
Cứ như vậy, những câu chữ tục tĩu nhất được văng ra trong đêm khuya lúc vang vọng cả dãy nhà, lúc ôn tồn trầm bổng như một cuộc tâm tình. Cứ tưởng sẽ đánh nhau đến nơi. Sẽ đập phá đến nơi. Nhưng bỗng nghe tiếng anh chồng hạ giọng:
-  Thôi. Bây giờ bố mày đi ngủ nhé.
Tiếng “nhé” nhẹ hẳn đi, gần như âu yếm.
Nằm bên này vợ chồng Bôn nghe những cuộc chửi nhau thường xuyên tối tối, mới đầu buồn cười, nhưng sau lại thấy buồn. Cuộc sống như vậy là địa ngục. Nhưng vẫn phải sống thôi. Bôn tự hỏi không biết nghe bố mẹ chửi nhau như vậy, thằng con giai của họ nghĩ gì. Nó có học được không? Thằng bé rất kháu khỉnh và lễ phép, gặp Bôn đâu là khoanh tay cúi đầu chào. Rồi anh lại nghĩ đến hai đứa con anh. Đêm nào cũng những cuộc đối thoại như vậy, hẳn sẽ ảnh hưỏng đến chúng nó. Và anh lại thấy cần phải nhanh chóng rời khỏi khu sân sau của xí nghiệp. Tìm mọi cách sớm rời khu sân sau của xí nghiệp. Anh chi tiêu rất tiết kiệm. Là một người chừng mực anh không sa lầy vào những cuộc nhậu, những cuộc chơi thâu đêm như một số cán bộ tàu khác hay như một số thuyền viên chính tàu anh. Đã có lần anh theo anh em thuyền viên tàu anh lên bờ khi cập cảng Vũng Tàu. Chưa tới cảng, không khí đã nhộn nhạo hẳn lên. Anh em buôn bột mì gièm pha cánh đảnh hàng sữa. Anh em buôn sữa trêu chòng trở lại: Bột mì kỳ này toi. Đi buôn là phải theo cái lỗ. Chuyến trước, buôn sữa bị lỗ thì chuyến này lại phải buôn tiếp sữa vì ai cũng sợ sữa lỗ rồi đổ xô vào buôn bột mì. Vì thế bột mì chuyến này nhất định ế. Và bắt chước giọng con buôn õng ẹo: “Anh ơi. Anh có sữa chúng em mua. Còn bột mì để chuyến sau anh nhé!” Tuy trêu nhau như đùa cợt nhưng ai cũng lo. Giá cả lên xuống thất thường. Bôn cũng lo. Khi đi đánh cá ở Vịnh Thái Lan, tàu to tàu nhỏ, tàu nào chả đầy ắp một bụng hàng. Hàng trong cabin, hàng trong hầm cá, hàng trong kho bếp, hàng trong nhiều ô, nhiều khoang ngóc ngách. Nhiều khi nhầm lẫn đi đến cãi nhau.
Mọi chuyến cập Vũng Tàu, anh đều ở lại tàu. Anh em lên bờ gần hết. Cả tàu gần như vắng không. Chỉ còn anh, cấp dưỡng Tích tay nải thân yêu và hai người trực ban, một máy, một boong. Tích bưng từ bếp lên chiếc mâm nhôm trên có một con gà luộc còn nghi ngút khói, một đĩa hoa, một chai Lúa Mới và gọi anh. Anh xách cái ghế đẩu nhựa xuống boong. Tích đặt mâm cúng lên ghế đặt sát mũi tàu, gần chỗ tơi neo. Anh thắp hương, kính cẩn vái năm vái. Anh không biết khấn. Phần khấn bao giờ cũng là anh nuôi Tích. Anh im lặng lắng nghe tiếng rì rầm của Tích. Chẳng thấy gì ngoài những tiếng xuýt xoa. Giữa trời nước mênh mông vắng lặng lúc chiều tà, trong khói hương bay, những tiếng xuýt xoa rì rầm của ông già Tích đầy vẻ thiêng liêng. Rồi sau đó, bốn người (cả hai đồng chí trực ban boong, máy) về câu lạc bộ thụ lộc. Uống. Ăn thịt gà. Xôi. Đã có lần Bôn hỏi T ích khấn những gì. Tích nghiêm chỉnh trả lời à thì cũng xin Hà bá, Thổ thần phù hộ cho tàu gặp may mắn, biển lặng gió êm, khai thác được nhiều, an toàn hàng hải, an toàn ván lưới, hài hòa ba lợi ích, hàng họ anh em mang vào lãi nhiều, một vốn bốn lời...
Bôn có cảm giác những lúc tàu vắng vẻ khi vừa cập bến Vũng Tàu, tất cả kéo nhau lên bờ chỉ còn lại bốn người như thế này là những lúc đặc biệt thanh thản trong lòng người cấp dưỡng già. Cắt tiết con gà, thổi nồi cơm nếp, bày đĩa hoa, mở nắp chai rượu, Tích đúng là người anh cả trên tàu, là người chủ một gia đình trong những ngày giỗ chạp tết nhất. Và sau bữa rượu như thế, Tích thường ngồi lại nói với Bôn biết bao nhiêu chuyện. Chuyện T ích đi bộ đội chống Pháp ngày trước. Chuyện Tích về nhà ở Thanh Miện. Chuyến về bắc được cái cầu ao. Chuyến làm được cái chuồng lợn, bỏ chuồng được đôi lợn con. Bố Tích có hai bà. Tích là con bà cả. Nhưng bà trẻ lại ở với vợ con Tích. Gọi là trẻ thôi cũng ngoài bảy mươi cả rồi. Tôi dặn nhà tôi, có nấu bát canh thì cứ cho thêm tí nước vào, rồi thêm tí mì chính, tiêu chuẩn mì chính của tôi lúc nào cũng có, bà không phải lo, cua vẫn thế, rau vẫn thế mà có thêm bát canh, bữa ăn bưng sang biếu bà già một bát. Thế là các cụ vui, thì tính người già ấy mà. Có gói kẹo cho trẻ cũng đừng đưa cho chúng nó. Đưa cho cụ nói là con biếu bà, bà nào ăn một mình. Với lại kẹo cứng các cụ chỉ ngậm thôi. Mà cũng đừng đưa cho một cụ. Phải mỗi cụ một gói. Nếu chỉ có một gói thì phải san đôi. Rồi Tích kể đến cái đận có tivi mới khổ. Tối nào cũng phải đun một nồi nước vối rõ to, một bó đóm để hút thuốc lào. Tối nào cũng phải thức khuya, khách về hết mới đi nằm. Mà nào có được đi nằm ngay đâu. Còn phải đem vồ gõ lại giường. Còn phải đổ xỉ ở bát điếu, còn phải quét nhà. Tất cả là thằng lớn hết. Bây giờ thằng lớn đã đi học trường công nhân kỹ thuật, thì đến ông thứ hai. Ông này tôi đang tính phải làm sao chứ như thằng anh thì chán quá. Tôi bảo cháu cố gắng con ạ, phải vào được đại học mới mát mày mát mặt được. Cháu học khá. Chỉ hơi kém môn toán. Tôi bảo bà ấy nhà tôi không bắt cháu làm lụng đồng áng, cơm nước. Để cháu tập trung vào học. Ưu tiên bồi dưỡng cho cháu để có đủ sức khỏe... Biết cá heo là loài cá đặc biệt thông minh, hễ đánh được con cá heo, thế nào Tích cũng cắt lấy cái đầu, cất vào kho lạnh, để khi cập bến đèo về quê cho con ăn óc cá...
Chú thích:
[1] Tiết mục Những bông hoa nhỏ dành cho trẻ em mở đầu chương trình truyền hình buổi tối.
[2] Đồng tiền của chúng ta giá trị lên xuống thay đổi không ngừng theo năm tháng. Xin hiểu theo ý nghĩa văn học.
[3] Tử hình.
- VII -
Chuyến ấy tới Vũng Tàu buổi tối, Bôn không ở lại tàu với Tích. Anh em chèo kéo, với lại anh cũng muốn đi một lần với các thuyền viên, tận mắt thấy những gì anh em làm khi lên bờ, những điều anh vẫn nghe anh em hào hứng kể lại. Vũng Tàu anh vẫn lên. Nhưng là lên vào ban ngày ban mặt. Để dạo chơi. Để ngắm thành phố. Để uống một cốc nước mát thư giãn. Đây là lần đầu tiên anh đi với mọi người, mà lại đi vào buổi tối...
Khi tời khởi động, chiếc xuồng cứu sinh được đưa ra khỏi be và hạ nhẹ nhàng xuống mặt nước, khi chiếc thang dây được móc chặt vào thành tàu, anh cùng mọi người lần lượt xuống xuồng. Và khi xuồng cập bến dốc đá xoai xoải, nhảy lên bờ, anh lom khom toan té nước rửa hai bàn tay đen bẩn vì vừa nắm thang dây, Chiêm, một máy hay vui tính nghịch ngợm trẻ trung và đẹp trai kéo tay anh:
- Không phải rửa thủ trưởng ạ. Bao nhiêu lồn đĩ nó chịu hết. Hôm nay thủ trưởng phải đi với em. Em làm hướng dẫn viên du lịch cho thủ trưởng.
Chiêm kéo anh đi như kéo tay một đứa trẻ. Anh gỡ ra và bước chậm lại phía sau. Bãi Trước. Những hàng dừa tối, vắng vẻ. Ánh điện đường hoe hoe lốm đốm. Thế mà lạ thay, từ trong bóng tối rặng dừa, từ các khay thuốc lá vỉa hè, tiếng những cô gái vang lên:
- Anh Chiêm!
- Tàu Hạ Long 414! Các anh tàu 414 đã vào!
- Em chào anh Mai!
Những tiếng chào cất lên trên dọc đường họ đi. Nhưng không ai dừng lại. Đến khi một đám con gái từ phía bờ biển chạy ra cản đường, Chiêm thay mặt các thuyền viên, hỏi các em:
- Bọn anh vừa vào đến đây. Tiền không có. Sữa chưa bán được. Các em có đồng ý cho chơi chịu không? Mai bọn anh bán được sữa sẽ trả.
Một cô bảo:
- Được chứ. Các anh Hạ Long có bao giờ lại quịt bọn em.
Vẫn Chiêm:
- Giá cả thế nào, có thay đổi gì không?
- Vẫn thế. Các anh làm phát một hay cả đêm?
- Hãy để bọn anh kiểm tra máy móc cái đã.
Chỉ cố gắng được đến thế, Bôn bước sang bên kia đường gần như chạy. Anh không thể hình dung được người ta có thể nói với nhau như vậy. Vẫn biết cánh thuyền viên là những người nói năng tục tĩu bỗ bã sống sượng nhưng đến mức ấy thì quá thể. Nhất là người ấy lại là Chiêm. Máy phó, một máy phó rất có trách nhiệm của anh. Một thanh niên cao lớn, đẹp trai đã có vợ, một con. Vợ Chiêm cũng là một cô gái nhan sắc, nước da trắng mịn, đôi mắt trong sáng mở to, hai má bầu bĩnh ưng ửng hồng như xoa một lượt phấn mỏng, làm nghề dạy học. Dù không nói ra nhưng ai cũng biết Chiêm tự hào về vợ. Là con một ông vụ vị gì đó ở Hà Nội, Chiêm nói năng từ tốn nhẹ nhàng, thỉnh thoảng lại chêm một vài câu bông phèng làm tất cả bật cười, nhưng chưa bao giờ Chiêm nói tục. Hình như hôm nay Chiêm cố làm ra vẻ bụi, ăn chơi bạt mạng, lọc lõi trên tài dân ăn chơi Vũng Tàu để được các em kính nể và nhất là không bị các em cho vào xiếc. Kìa! Chiêm đang thọc tay vào quần một cô gái và duề một cái rõ to ngụ ý chê bai, du mạnh cô gái ra, rồi tách khỏi đám đông, chạy sang bên kia đường với Bôn, vừa thở vừa cười:
- Làm thế để chúng nó sợ. Để chúng nó khỏi xả quác. Thủ trưởng thông cảm cho em.
Biết thuyền trưởng không muốn tham gia vào những trò chơi như vậy, nhưng đi đâu bây giờ? Nhìn nét mặt khó đăm đăm của thuyền trưởng, Chiêm khoác tay anh, reo lên:
- Hay là anh em mình đến nhà ông Nhâm đi.
Bôn tươi tỉnh hẳn lên:
- Phải đấy. Linh hai cũng mới từ Hong Kong về. Đang đỗ đây. Cuối bãi.
Anh không muốn sự có mặt của mình cản trở cuộc vui của anh em. Thủy thủ là vậy. Làm việc. Vật lộn với công việc. Hết mình. Nhưng cũng chơi hết mình. Cuộc đời họ gắn với biển, với các cảng, các bến sông, trôi nổi như sóng như nước, tàu là nhà, nhà là quán trọ, quanh quẩn mấy chục mét vuông, từ cái giường hẹp ra ngoài hành lang, từ hành lang ra boong, từ boong xuống hầm cá, xuống buồng máy, lúc nào bàn chân cũng dẫm lên sắt thép, lúc nào cũng trong nhịp tàu rung, trong tiếng rền rền của tiếng máy tàu, khi làm việc, cũng như khi chơi, khi đánh bài, khi ăn khi ngủ. Nhịp rung và tiếng rền của máy tàu đã là cuộc sống nhưng vẫn cứ giục giã làm người ta không yên, căng thần kinh, căng da đầu da mặt, thúc vào bụng vào ngực, bám vào từng tế bào như một chất keo dính nhớp không rời. Chỉ đến khi tắt máy mới thấy à, cuộc sống bình thường là như thế đấy. Mặt bằng bàn chân dẫm lên im lặng, bình yên, mặt bằng dưới lưng im lặng bình yên, bữa cơm bình yên, giấc ngủ bình yên, chiếc ghế mình ngồi lặng im ngoan ngoãn... Bỗng thấy một cuộc sống khác hẳn, một cuộc sống không có tiếng máy tàu. Tất cả dịu lại, chùng lại.
Những người đi tàu, kể cả Bôn, là những người sống giản đơn với những gì gần bản năng và cũng là những người lạc hậu. Quanh quẩn trong căn buồng hẹp. Đi trong hành lang hẹp. Rồi xuống buồng máy nếu là thợ máy, đi ra boong lái boong mũi nếu là thủy thủ. Cái boong lái giống như mảnh sân trong một gia đình. Làm việc ở đấy. Gieo trồng ở đấy. Thu hoạch ở đấy. Giữa trưa hè nắng đổ cũng là ở đấy. Mưa dầm gió bấc buốt xương hay trời mưa rào sầm sập trút nước cũng là ở đấy. Và khi trăng lên, nghỉ ngơi cũng là ở đấy. Người thủy thủ phải tranh thủ tất cả vì công việc. “Ăn nhanh lên!” Hoặc “Rồi hãy ăn!” Đó là những câu nói thường nghe thấy trên tàu cá. “Ăn nhanh lên!” hoặc “Rồi hãy ăn!” để có lưới đánh, để thả xong mẻ lưới, để cho cá vào khay, để cho cá xuống hầm, để kéo lưới. Đã ăn lưng lửng rồi thì “ăn nhanh lên!” Mới bưng bát cơm lên lùa vài miếng thì “rồi hãy ăn!” Để đến khi về câu lạc bộ, cơm canh nguội ngắt và đã quên hẳn bữa ăn rồi. Cứ như vậy cộng với bài bạc, đánh cờ ăn tiền (không thể đánh suông được. Nhạt phèo!). Và nói tục. Tục như tàu cá. Mở miệng là các từ tục tĩu văng ra. Như sắp điên đến nơi, sắp đánh nhau đến nơi. Cuộc sống là tối thiểu. Sợi dây liên hệ với gia đình không còn. Sợi dây liên hệ với xã hội chỉ là chiếc radio, những tin tức phát đi qua chiếc loa treo ở trụ đèn chính trên boong thượng. Loa kêu đấy, nói đấy, truyền đi tin tức đấy nhưng thật ít người nghe. Vì vậy khi lên bờ họ sống bù lại những tháng ngày lênh đênh trên biển. (Tàu cá còn khổ hơn tàu buôn nhiều. Tàu buôn trên biển là chỉ hành trình. Chẳng tàu buôn nào cày cuốc lao động ba tháng liền trên biển như tàu cá). Có người còn không biết Tổng bí thư Đảng, Chủ tịch Nước là ai.
Bôn biết chẳng thể gò anh em vào khuôn phép. Nhưng anh cố gắng thu hẹp khoảng cách giữa anh với những người ở đất liền. Nếu không có gì cản trở, anh nghe không bỏ sót một buổi phát thanh nào. Mỗi chuyến biển anh đều lên thư viện mượn một hai quyển sách và tranh thủ đọc. Trên tàu có hai thủy thủ giống anh: mượn sách. Giáp và Mai. Mai mượn sách văn nghệ: Quy luật của muôn đời. Rừng xà nu. Chiếc lược ngà. Giáp mượn sách lý luận, sách chính trị. Chủ nghĩa Lenin và vấn đề dân tộc. Đấu tranh giai cấp động lực của phát triển. Toàn sách nặng. Mai bảo Giáp: Cẩn thận đấy. Bên Viện Triết mà biết họ điều sang là ngành đánh cá mất toi một nhân tài đấy. Giáp cười: Mất một nhà đánh cá nhưng lại có thêm một nhà lý luận. Thỉnh thoảng Bôn hỏi Giáp: Đọc đến đâu rồi. Giáp cười: Đọc nát cả bộ óc dân chài mà chẳng hiểu gì. Dù sao Bôn cũng quý Mai quý Giáp. Họ cũng đánh bạc, khi điên lên cũng rặt một giọng gai cá gúng, đuôi cá đuối, sẵn sàng đi đến ẩu đả nhưng vẫn dành thời gian đọc sách. Những người đọc sách bao giờ cũng hơn những người không đọc sách. Qua cơn nóng giận, họ biết mình phải làm gì và thế nào là lẽ phải. Anh chẳng thể bắt mọi người trên tàu đều đọc sách. Anh chỉ đòi hỏi họ điều tối thiểu: Phải bảo đảm nội quy, đảm bảo chế độ trực ca, phải hoàn thành chức danh nhiệm vụ. Như Chiêm đây, tếu táo thế nhưng là một máy phó miễn chê.
Anh bước bên Chiêm như một người em bước theo một người anh, vì đất vỉa hè Vũng Tàu này là đất của Chiêm. Anh cám ơn Chiêm vì Chiêm đã giải thoát cho anh khỏi một tình huống khó xử: Đi đến nhà Nhâm. Nhâm cùng quê với vợ anh: Cẩm Giàng Hải Dương và có họ xa với vợ anh, vai vế còn là chú vợ anh nữa. Nhâm cũng đã một thời gian làm thủy thủ trưởng cho anh. Người nhỏ thó, nhưng công việc luôn hoàn thành. Các thiết bị trên boong luôn được vệ sinh, che đậy, chăm chút. Bôn nhớ nhất cái lần đi ngang qua vùng biển Quy Nhơn, gặp bão. Buổi sáng trời vẫn đẹp. Gió chỉ hây hẩy. Những con cá chuồn bay thành đàn qua tàu, nhiều con lao xuống boong, lao vào vách cabin như những viên đạn. Thế nhưng đến chiều trời chuyển. Bôn cho tàu chạy tiếng ba, cố vượt qua cơn bão. Nhưng không kịp. Gió về nhanh quá. Chập tối gặp bão. Tàu nghiêng ngả. Mấy chục chai gió, mỗi chai nặng non tạ xếp trên boong lái đã chằng buộc bằng dây cáp cẩn thận, xô vào nhau kêu rầm rầm. Nếu nó hất tung dây chằng thì thật nguy hiểm. Những bình thép như những quả bom sẽ lăn trên boong, xô vào nhau, thúc vào miệng hầm cá, nguy hại hơn là đâm thủng be tàu và đến lúc ấy tất cả sẽ bó tay, bởi không ai có thể bước ra giữa những bình thép lăn lóc, lao điên cuồng trên mặt boong nghiêng ngả. Bôn cùng anh em xông ra, trong ánh đèn pha mọi người dùng tay ghì lại sợi cáp chằng đang lỏng dần. Những hạt mưa chéo quất rát mặt.
Gió thổi nghiêng người.
Tàu tròng trành khiến nhiều người trượt ngã. Cái chính là phải có những sợi dây mềm như dây ni lông, dây manila. Dây cáp cứng quá. Khó ghì. Lạt mềm buộc chặt. Các cụ đã nói vậy. Vừa nghĩ đến sợi dây mềm thì Nhâm ở đâu chạy ra với một tấm lưới ni lông cũ. Nhanh như chớp, tấm lưới được tung ra choàng lên toàn bộ mấy chục bình thép. Rồi từng mối dây được buộc, được cột chặt vào be, vào trụ ván, vào bệ tơi, vòng quanh cả miệng hầm cá. Tàu chạy dăm hải lý thì ra ngoài vùng bão. Căn cứ vào dự báo của nha khí tượng, Bôn đã tính toán tàu sẽ qua vùng biển ấy bão mới đến, nhưng bão đã đi nhanh hơn dự báo nên tàu anh chỉ chịu bão có nửa tiếng đồng hồ. Âu cũng là một bài học kinh nghiệm. Cũng chỉ bởi Bôn không muốn chạy vào đảo trú gió. Nửa ngày vào, nửa ngày ra. Lại phải chờ ít nhất một, hai ngày cho bão tan...
Là người hiền lành chịu khó, Nhâm được nhiều người mến. Nhâm không thắc mắc với ai, kèn cựa với ai. Kiểu gì cũng xong. Anh em bảo thánh nhân đãi kẻ khù khờ. Vừa chuyển sang tàu 2 được mấy tháng, đã được cùng cả tàu chụp ảnh làm hộ chiếu đi nước ngoài. Đi ngay từ những chuyến đầu tiên. Nhâm đã lấy một cô vợ ở Vũng Tàu. Đã mua nhà. Cha mẹ mất cả. Bốn nhăm tuổi vẫn độc thân. Cũng đã một lần lấy vợ ở quê, nhưng lấy phải người chẳng ra gì. Chồng đi biền biệt, ở nhà một mình, vợ Nhâm trở thành mụ Hến của đám nghêu sò ở xã, đẻ ba năm hai đứa, chẳng biết con ai nhưng chắc chắn không phải con Nhâm. Từ bấy Nhâm không về làng nữa. Biết Nhâm buồn, muốn có vợ, có một gia đình, anh em chia sẻ với Nhâm bằng cách của những người thủy thủ:
- Vợ con làm gì. Cứ đâm bậy một thương rồi bỏ chạy.
Thế là mọi người thương Nhâm đấy. Bởi họ biết rằng Nhâm chẳng bao giờ “đâm bậy một thương rồi bỏ chạy” như họ. Nhâm không chơi bời. Nhâm ăn tiêu đúng kế hoạch, cố gắng dành dụm. Tàu sửa chữa, bao giờ Nhâm cũng cùng anh em nhận một công việc gì đấy như gõ gỉ, vệ sinh hầm la canh, dưới khẩu hiệu giải phóng tàu nhanh nhưng thực chất là để có thêm thu nhập. Chẳng biết số tiền Nhâm dành dụm được bao nhiêu, chỉ biết khi được đi nước ngoài, mọi người kể cả thuyền trưởng, máy trưởng đều phải đi vay tiền và nhận vàng từ những người thân gửi mua cái áo lông, cái quạt cũ, cái đầu máy khâu làm vốn buôn ban đầu nhưng Nhâm thì không. Có đánh hàng Nhâm cũng chỉ làm vừa phải. Nhiều lắm là gấp hai lần tiêu chuẩn. Mà chủ yếu là những hàng như thuốc lá, thuốc con nhộng, xà phòng thơm, xích líp, máy tính bỏ túi, những thứ gọn, nhẹ, qua mặt hải quan được, những thứ bông hoa nhỏ được. Những bông hoa nhỏ là danh từ anh em chỉ việc mang hàng ít một lên bờ, nói theo tên gọi chương trình truyền hình dành cho các cháu thiếu nhi hồi đó. Trong những lần hoa nhỏ ở Vũng Tàu, Nhâm đã gặp người sau này sẽ là vợ Nhâm: Một cô bán thuốc lá vỉa hè. Đang xách túi đi tìm người bán hàng quen thì có tiếng gọi “anh có gì bán đấy, cho em coi nào”. Tiếng gọi ngọt ngào, dễ thương gần như nũng nịu. Nhâm bước lại. Một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi. Son phấn, xinh tươi, người miền Nam mà da trắng thế. Thuốc lá, xà phòng, máy tính,... cô mua hết. Khi Nhâm về, cô đứng lên chỉ tay vào ngôi nhà tối ngay sau lưng:
- Em ở đây nè. Tầng hai. Có hàng anh mang đến cho em, bao nhiêu em mua hết. Em trả như người ta, không để anh thiệt. Không thấy em ngồi đây, anh cứ vô nhà. Hỏi em ai cũng biết. Em kêu tên Huệ. Dễ nhớ lắm mà.
Thế là tất cả những hàng bông hoa nhỏ chuyến ấy và những chuyến sau Nhâm đều bán cho Huệ. Rồi Huệ mời Nhâm lên căn buồng xoàng xĩnh độc thân của Huệ. Rồi chuyện mua đô la Nhâm cũng chẳng phải lo nữa. Đã có Huệ. Nhâm thấy Huệ là người hiếm có ở chỗ trong việc mua bán Huệ rất thật thà. Mua hàng của anh, Huệ chưa bao giờ trả thấp hơn những anh em thuyền viên khác, cũng như Huệ tính giá đô la với anh chưa một lần cao hơn.
Tất cả mọi chuyện ấy, Nhâm giấu kín. Anh em dưới tàu không một ai biết. Nhâm chỉ kể khi hai người quyết định lấy nhau. Cả tàu đã lên thăm căn buồng của Huệ giờ đây là căn buồng hạnh phúc của hai người. Cô ấy chính quê An Giang, chẳng hiểu làm sao lại lấy chồng Vũng Tàu. Nhà này là nhà thuê của nhà nước. Thằng chồng quá khốn nạn suốt ngày rượu chè, đánh đập cô ấy. Không chịu được, cô ấy đã li dị. Đã có một đứa con, nhưng nó chết vì sốt xuất huyết cách đây ba năm. Đại khái cái lý lịch trích ngang của vợ do Nhâm kể là như vậy.
Lấy vợ được mấy tháng trông Nhâm thay đổi hẳn. Hoàn toàn là một người khác. Béo đỏ, da căng. Mặt mày tươi tắn sáng sủa mỡ màng, không còn làn da khô khốc đen sạm trên khuôn mặt khó đăm đăm lúc nào như cũng đang suy nghĩ căng thẳng, tính toán một điều gì. Tàu về, không phải trực là lên bờ, về với Huệ. Là những bữa ăn ngon, bổ, những gà ác tần hạt sen, là chim hầm thuốc bắc, là rượu thuốc (cưng uống bia ít thôi, uống thứ ấy chỉ tội nặng bụng, không được việc gì cho em là em bắt đền đó nghe cưng) là cô vợ trẻ thơm nức từ gót lên đến đầu với những bộ váy áo mỏng manh quyến rũ hết lòng chăm sóc chồng, sẵn sàng chiều chồng bất cứ lúc nào, lúc nào cũng thương chồng vất vả. Là những buổi xe máy thong thả đèo vợ đi lượn phố hay vào các hiệu may chọn mặt vải đo cắt cho Huệ. Căn buồng của Huệ chật cứng những đồ đạc đắt tiền. Cái tivi màu 19 inch mua ở Nhật. Chiếc tủ lạnh Toshiba hai cánh 250 lít cũng là của Nhật. Rồi dàn loa, rồi quạt máy, rồi điều hòa, cả đến cái tủ trang điểm của Huệ cũng là đồ Nhật xịn. Chiếc tủ đứng cũ kỹ được thay bằng chiếc tủ gỗ cẩm lai mới cứng. Rồi xa lông. “Vợ Nhâm phải đúng là vợ Nhâm chứ!” Anh em đến chơi nhà đều mừng cho Nhâm, khen Nhâm tốt số. Cũng lại là thần hoàng đãi kẻ ngẩn ngơ! Rõ ràng Nhâm đã đổi đời. Và cũng rõ ràng căn buồng trên gác hai này đã trở nên quá chật. Huệ bàn với Nhâm mua một căn nhà khác. Một ngôi nhà hai tầng mặt tiền của một gia đình chuẩn bị vượt biên. “Cùng lắm mới phải chịu ở thế này thôi cưng. Em muốn chuyển từ lâu rồi nhưng không có tiền phải chịu. Rồi còn sinh con nữa chứ cưng. Hình như em mang bầu rồi đây nè...” Huệ kéo chiếc váy mỏng lên rồi cầm tay Nhâm day day xoa xoa vào bụng mình, nũng nịu. Khi Nhâm đồng ý mua ngôi nhà ấy (ai cũng công nhận rẻ được một cây) Huệ đánh đu lên cổ Nhâm làm Nhâm loạng choạng đổ xuống giường, và thế là một cuộc ngẫu hứng bất chợt ngoài dự kiến đưa hai người tới thiên đường...
Nhâm làm tất cả cho ngôi nhà mới mua thêm đẹp. Chăm chút từ màu sắc tường, màu sơn cửa, tấm rèm tới bức tranh treo tường, chiếc đèn ngủ. Và luôn miệng: Vợ Nhâm phải đúng là vợ Nhâm chứ. Mọi người bảo Nhâm tốt số, từ bé đến giờ không được ai thương yêu chăm sóc, bây giờ như vậy chẳng qua là luật bù trừ. Chiêm lắc đầu:
- Ông Nhâm vất vả quá. Cứ đâm bậy một thương rồi bỏ chạy có phải nhàn nhã hơn không.
Thế nghĩa là Chiêm mừng cho Nhâm đã nên người. Bôn cũng vậy. Cánh tàu khối người bồ bịch, có người có cả vợ hai. Điều ấy Bôn phản đối. Ái tình phí nhiều đã hẳn, cắt hẳn một khoản trong ngân sách lẽ ra của vợ đem cho bồ là phạm vào đạo đức, chưa kể nhẫn tâm lừa dối người vợ cùi cụi nuôi con cho mình ở nhà khi mình đi biền biệt và vẫn tin rằng chồng chung thủy với mình.
Mà khốn nạn. Trừ những anh đi nước ngoài nhiều ít thế nào không biết, anh em đánh cá tiền có được là bao! Tàu anh, anh nghiêm cấm điều đó. Nhưng kiểu ăn bánh trả tiền hay nói theo cách của Chiêm đâm bậy một thương rồi bỏ chạy thì anh coi là cũng được. Cuộc đời thủy thủ tàu cá nào có mấy niềm vui. Hơn nữa, anh cũng chẳng thể cấm đoán anh em.
Kìa. Cái ngã tư có ngôi nhà chung quanh trồng toàn hoa giấy đã hiện ra. Qua đó rẽ phải là đến.
-  Không biết ông Nhâm có nhà không.
- Tàu về hai ngày rồi. Chắc tối nay thế nào người cũng bông hoa nhỏ.
-  Đến không gặp ông ấy thì ngồi với bà Huệ một lúc.
- Nghe nói ông Nhâm chỉ đi chuyến này rồi lên bờ có phải không.
Bôn gật đầu:
- Chuyến này xong là lên. Hôm nọ nghe Thục tổ chức nói thế. Lên là đăng ký rồi tổ chức cưới đấy.
- Hai năm đi nước ngoài. Ông ấy trúng số độc đắc còn gì. Có nhà. Có vợ. Lại được cô vợ đảm, chiều chồng hết ý. Lên bờ xin hưu non mở cửa hàng cà phê giải khát sống đỉnh đương. Chẳng phải đi đánh cá làm gì.
- Mình cũng nghe Nhâm nói sẽ nghỉ ngơi một năm rồi mở cửa hàng giải khát.
Cửa nhà Nhâm mở rộng, đèn tuýp sáng choang hắt ra hè. Chắc ông Nhâm có nhà rồi. Ngồi một tí thôi. Làm lon bia rồi về. Cảnh thủy thủ về bờ. Chẳng nên ám lâu.
Bôn bảo Chiêm. Chiêm đồng ý ngay, nhưng lại nói: “Bao giờ thấy mụ Huệ lườm nguýt mới về. Cho mụ ấy tức một trận. Mụ ấy là ngấu lắm rồi”.
Thế nhưng vừa bước tới nơi, hai người sững lại ở cửa. Ngồi xa lông ngay phòng khách là một người đàn ông to béo, cởi trần bụng phệ, trên mình, trên hai cánh tay không chỗ nào không vằn vện những hình xăm trổ, cái quần xà lỏn màu cháo lòng, vừa rít thuốc lá vừa dán mắt vào màn hình tivi có hai người một nam một nữ đang ngửa cổ ca cải lương. Ghế bên kia là hai đứa trẻ, hai chị em, đứa lớn khoảng mười tuổi còn thằng em kém con chị chừng một hai tuổi. Một đứa hỏi:
- Ba! Sao ảnh lại bỏ cô Thúy, ba?
Người đàn ông gắt:
- Cứ coi tiếp đi rồi biết. Con Nhẫn! Mở tủ lạnh lấy cho ba lon bia nữa!
Hai người khách - vốn dĩ nhút nhát khi đến nhà một người lạ, lại càng thận trọng hơn trước những gì đang xảy ra, nép vội vào bóng tối vỉa hè. Không. Đúng là nhà Nhâm. Chiếc tủ lạnh Toshiba 250 lít hai cánh, bộ xa lông, cái rèm treo cửa sổ, bộ đèn chùm. Lại bức tranh hai con dê gặp nhau trên chiếc cầu bắc ngang suối sâu. Đúng là nhà Nhâm. Không nhầm mà. Nhưng ba bố con người đàn ông này là ai? Chỉ nhìn cách họ ngồi xem tivi, cách uống bia của người bố, cách mở tủ lạnh của đứa con gái thì rõ ràng họ là chủ ngôi nhà này. Kia rồi! Huệ! Huệ với chiếc váy liền áo, tóc búi cao từ phòng trong bước ra. Hình như vừa tắm xong. Tươi tắn, mát mẻ, rạng rỡ và thỏa mãn. Vẻ thỏa mãn của những người đạt được ước mơ.
-  Chị Huệ.
Theo phản ứng bản năng, Chiêm cất tiếng gọi. Cả bốn người trong nhà quay ra. Người đàn ông đứng lên, khệnh khạng bước tới. Cao lớn, tay chân nung núc thịt, gườm gườm nhìn hai người. Rồi Huệ. Huệ với nét mặt thay đổi hẳn, đanh lạnh, cáu kỉnh, nhăn lại ghê tởm như trong thấy một ổ vi trùng lúc nhúc. Hai đứa trẻ lại dán mắt vào tivi, chiếc tivi màu 19 inch thời đó là cả một sự mê mẩn. Quá bất ngờ, nhưng thôi, đành phải hỏi thôi, chẳng thể nào rút lui được nữa.
Bôn bước lại sát bậc cửa. Chiêm theo sau. Nhìn cảnh này Chiêm đã đoán ra cơ sự rồi. Nhưng vẫn phải bước theo để có gì còn chia lửa với thủ trưởng. Người đàn ông không giấu vẻ giận dữ:
-  Huệ. Người ta hỏi em nè.
Bôn lịch sự khe khẽ:
-  Chị Huệ à. Anh Nhâm có nhà không chị?
Huệ tròn mắt miệng há hốc như đột nhiên đứng trước những quái thai quái gở nhất trên đời, không thể nào hiểu nổi:
-  Nhâm nào? Ớ đây làm chi có ai tên Nhâm. Kỳ quá à!
Và quay ngoắt đi vào phía trong, ném một cái nguýt dài. Người đàn ông bước xáp tới Bôn, mắt long lên:
-  Vớ vẩn! Xéo! Biến! Lần sau đừng có đến đây giở trỏ vớ vẩn ra nữa nhé. Hối không kịp đó. Nói trước cho biết!
Chiêm tươi cười:
-  Vâng. Chúng tôi xin lỗi.
Hai người lặng lẽ bước tới ngã tư, nơi có ngôi nhà trồng toàn hoa giấy.
-  Đau quá. Ông Nhâm đau quá.
-  Cú lừa này mới là cú lừa thế kỷ.
-  Ky cóp cho cọp nó xơi.
- Cao thủ. Đại cao thủ. Cho vợ mình làm vợ người ta một năm trời để chiếm toàn bộ dinh cơ. Đúng là đại cao thủ.
Cả hai đều hiểu ngay tất cả đầu đuôi câu chuyện. Cái mỹ nhân kế ấy phải nhằm đến đích mua một ngôi nhà. Và ngôi nhà ấy mang tên Huệ là chủ sở hữu. Nhâm không thể đứng tên hoặc đồng đứng tên bởi một lẽ giản đơn: Nhâm không có hộ khẩu. Lại không có đăng ký kết hôn.
- Suốt một năm vừa rồi không thấy thằng chồng với hai đứa con lai vãng đến đây. Thế mới sợ.
Hai người đều thương Nhâm và cảm thấy hận thay cho Nhâm. Giá Nhâm chơi bời trai gái đĩ bợm lại khác. Lừa những người ấy là khốn nạn nhưng vẫn có thể chấp nhận được. Còn đây là Nhâm. Một người độc thân. Ngoài bốn mươi nhưng vẫn chưa biết thế nào là tình yêu. Chiêm nói thành lời suy nghĩ của mình:
- Khổ thân ông ấy. Hai lần lấy vợ đều bị vợ lừa cho nên sếp thấy triết lý của tôi có đúng không! Cứ là đâm bậy một thương rồi bỏ chạy.
Chiêm cố cười. Còn Bôn không sao cười được.
Trên bảng đen trong bếp chú Hùng ghi:
15 giờ 15 TL (thả lưới)
17 giờ 45 KL (kéo lưới)
Bên cạnh đó không biết ai đã vẽ hình con tàu của chúng tôi nom rất giống.
Trong thời gian tàu dắt lưới tất cả ngủ, chỉ trừ chú Lượng và chú Hùng đi ca hàng hải. Dưới buồng máy cũng có một thợ máy, tôi không biết là ai. Cuộc sống trên tàu thật đơn điệu. Những cái máy ăn. Những cái máy ngủ. Nhìn bố nằm ghếch chân lên thành giường mệt nhọc, những ý nghĩ giận hờn, hụt hẫng thất vọng tối hôm qua trong tôi có dịu đi phần nào. Tàu trở lại hoang vắng. Biển càng hoang vắng.
Một ngày một đêm tưng bừng phấn khởi. Toàn tàu linh hoạt hẳn lên. Bố linh hoạt hẳn lên. Bố gọi chú Hùng đang ở buồng lái vào, hai người cặm cụi trên hải đổ, đo đo tính tính. Mẻ nào cũng đạt trên một tạ tôm. Và rất nhiều cua. Những con cua bể giơ càng lởm chởm răng cưa dữ tợn. Nhặt tôm, muối cá và buộc cua. Có mẻ lưới không có thời gian ràng cua mà cứ lấy xẻng xúc vào lổ đổ vào nhà tắm rồi đóng chặt cửa lại. Những lúc mở cửa nhà tắm bỏ thêm cua vào, nhìn đống cua lổm cổm bò mà sướng mắt, mà phát khiếp: Chúng đổng loạt giơ càng lên cao như một rừng giáo mác. Trong lúc ngổi nhặt tôm với các chú thủy thủ, một con cua không biết từ đâu bò đến cắp vào mông tôi xuyên qua lượt quần lót máu chảy ròng ròng. Tôi đứng lên, con cua treo mình lủng lẳng càng cắp mạnh. Tôi cố gắng không kêu, không chảy nước mắt. Bác Sĩ vội xỏ găng tay vải bạt bẻ cái càng còn lại rồi ghé mồm cắn nát một gọng kìm của chiếc càng đang cắm sâu vào thịt tôi. Tôi phải vào buồng lấy dầu xanh xoa vào vết thương. Đúng là vết thương. Cái quần đùi bị thủng hai lỗ và ở mông tôi hai vết trũng rỉ máu như hai vết răng chó.
Tôm vàng. Cua bể và cá. Sáu mẻ lưới liên tiếp thắng lợi. Mọi người nhìn bố đầy vẻ kính phục. Họ nói với nhau: Ông Đáng bám tôm như ông Uy bám cá mối, không chạy đi đâu được. Và hát: “Không cho chúng nó thoát. Không cho chúng nó thoát. Chúng bay vào sẽ không có đường ra”. Niềm vui từ đáy lòng nên thật là đồng cảm. Bây giờ tôi hiểu những mẻ lưới được nhiều tôm cá làm mọi người mệt nhưng vui vì những lý do gì rồi.
Đêm qua ngủ ngoài boong mũi. Chăn dạ trùm kín dù đang giữa mùa hè. Mơ mơ màng màng thấy tàu đến gần những con tàu ngoại quốc lớn đang buông neo. Ánh điện trên tàu sáng chói một vùng trời một vùng biển. Rồi lại thấy hàng măng sông lưới đèn sáp lại, lấp lánh. Biết rằng mình ngủ được vì từ những con tàu ngoại quốc buông neo chờ vào cảng đến những vàng lưới đèn cách nhau xa lắm.
Sáng làm tôm xong, mặt trời vẫn chưa mọc. Biển hiền lành. Trời dịu, biển dịu. Nhưng khi có một mảng hồng đầu tiên trên trời, biển đổi màu ngay. Từ đó là một sự đổi màu liên tục của biển vì trời đổi màu liên tục.
Mẻ lưới buổi trưa chỉ được mấy con cả dưa, một đống cả ngảc. Một chú thủy thủ cầm con dao nhọn rạch một nhảt vào bụng con cả dưa, moi ra cái bong bóng ròng ròng mảu, vặn nước rửa sạch rồi đem phơi. Còn cả ngảc thì xịt nước cho giạt ra be xuống biển. Bố bảo: Chuyển về Vạn Sơn thôi. Đàn tôm vàng hết hoặc tan rồi.
Tàu lại cẩu lưới chuyển về Vạn Sơn. Là nói vậy thôi chứ tôi thấy vùng biển nào cũng giống vùng biển nào. Cũng sóng cũng nước và nhìn về phía tây thỉnh thoảng lại thấy vệt xanh mờ của cây cối thì biết phía ấy là bờ, là đất liền.
Vạn Sơn. Đêm. Trăng chênh chếch. Chuông kéo lưới. Mảy giảm tốc độ. Đèn tối lại. Quạt chạy chậm lại. Mẻ lưới được ít nhưng nhiều tôm he. Những con tôm he râu và vi bụng đỏ như mảu tươi nom thật thích mắt. Bảo đảm mẹ tôi cũng như cả làng chưa ai nom thấy những con tôm như thế. Tôi nhặt năm con tôm he to định đem xuống bếp nướng, nhưng chú Hồng gọi lại: Cho vào ống xả. Một lúc là chín thôi cu ạ. Chờ chú. Chú Hồngxảch một con cả chim trắng to như cái quạt đi cùng với tôi lên chỗ ống khói. Hơi nóng tỏa ra. Chú xỏ một sợi dây vào mang con cả chim, rồi kẹp mấy con tôm của tôi lại, cho vào ống xả. Chú Lượng đổ cả một rổ tôm tít vào nồi bắc lên bếp luộc. Làm xong mẻ lưới, mọi người tụ tập cả ở boong lải. Bảc Nhớn xảch can chíu chương đã vơi vơi, một can rượu còn đầy lên. Tôi bóc con tôm he nướng thơm phức mời bảc Suất, mời bảc Sĩ, mời bố, nhưng tất cả bảo nhường tôi. Con tôm he to chấm tương ớt cắn một miếng đẫy mồm đẫy miệng. Vị tôm ngọt thơm, vị chíu chương cay cay. Cố gắng lắm tôi cũng chỉ ăn hết hai con. Ba con còn lại được bác Nhớn, chú Hùng, chú Quẹn tương trợ. Rượu rót ra chén ra cốc nhựa. Tôi cũng có một chén rượu đầy. Nhưng bố bảo:
-  Thằng Phong không được uống rượu.
Tôi lại đặt chén xuống, mặc dù không muốn vâng lời chút nào, không muốn bị coi là trẻ con chút nào.
Nhưng bác Sĩ nói giúp tôi:
- Hôm nọ bên tàu ông Việt nó đã uống rồi đấy. Uống được. Con trai là phải biết uống rượu. Nam vô tửu như kỳ vô phong. Bác xin phép bố cho mày rồi. Uống đi. An những thứ này mà chiêu nước chè còn ra cái quái gì.
Tôi uống. Không bị sặc nữa. Nhưng vẫn cay quá. Nước mắt muốn chảy ra. Đúng là có hớp rượu, lại thấy muốn ăn. Tôi bóc một miếng cá chim. Rồi quay sang rổ tôm tít. Cái giống tôm bé, đầu to, có hai càng giống như hai càng cua này ăn rất mát ruột. Trăng sáng. Gió đã nhẹ đi nhiều. Sóng êm hơn. Chén rượu đầy để trên mặt boong chỉ sóng sánh chứ không nghiêng đổ ra ngoài. Đó là những giờ phút thư dãn đầm ấm dễ chịu nhất trên tàu, trong cuộc đời thủy thủ. Chú Hồng cười:
-  Cứ thế này thì đi biển muôn năm!
Rồi lại:
-  Biển này là biển hiền hòa. Biển này là bạn phương xa!
Bác Sĩ mỉa mai:
-  Thuận buồm xuôi gió chén chú chén anh. Lên thác xuống ghềnh buồi anh dái chú.
Bố tôi bảo:
-  Cố gắng đảnh được tấn rưỡi tôm thì về.
Rượu làm tôi lâng lâng. Các chú các bác rất cởi mở vui vẻ. Con cá chim đã biến mất hoàn toàn. Xương, vây, đầu cũng không còn. Rổ tôm tít chỉ còn lại vỏ. Bác Sĩ vào phòng đem ca chè trứ danh cùng phích nước ra. Tôi đứng dậy đi ra vịn lan can nhìn biển. Trăng chênh chếch lấp lánh. Những gợn sóng đẫm trăng rượt theo nhau như đã hẹn nhau đi tới một nơi nào đó, không dừng lại. Tàu vẫn đi, nhưng dù có quay ngược, quay xuôi thế nào cũng vẫn là một vệt trăng vàng bám đuổi không rời. Dòng nước phía đuôi tàu lõm xuống rồi cộn lên, hệt như biển đang đùn lên một dòng nước bằng vàng. Tiếng dây cu roa tải máy điện (bây giờ tôi biết những cỗ máy nhỏ vuông vức dưới buồng máy là máy điện rồi) tành tành, tành tành. Nhiều người cũng đứng dậy bước ra mạn, vịn lan can nhìn biển. Bố tôi bảo:
- Hồng ơi. Có nhớ Nam Cao không? Trăng chiếu trên sông và sông gợn biết bao nhiêu gợn vàng.
Bỗng ở phía xa trước mũi tàu một ngọn đèn lắc đi lắc lại rối rít. Bác Sĩ kêu lên: “Thuyền lưới rê!” Bố vặn vô lăng về phía phải. Bác Sĩ bảo:
- Thuyền nó ở cuối gió. Bao giờ cũng vậy. Lưới ở trên. Thuyền ở dưới. Rẽ ra là dính lưới đấy.
Bố cho tàu rẽ trái. Một lát sau, khi chúng tôi đang quây quần quanh đám tá lả ở buồng ăn, có tiếng thét của chú Hùng lùn: Lưới! Lưới rê! Bố vội nhảy lên buồng lái. Khi tôi lên còn nhìn thấy một cái cờ nửa đỏ nửa trắng nhấp nhô xa dần.
Tàu giảm tốc độ. Bố cho kéo lưới. Sợ bị quấn chân vịt.
Con tàu đã dừng hẳn dù mảy vẫn nổ. Khi trục tơi quay tròn kéo những mét dây cáp đầu tiên, nhìn những mảng lưới cước trắng quấn chung quanh cáp, một sự im lặng ghê gớm bao trùm tất cả. Không ai nói một câu. Nét mặt mọi người đầy lo lắng trừ bố. Tất cả im lặng làm việc. Không một lời nhắc nhở. Làm nhanh, làm dứt khoát. Làm vì biết nhiệm vụ phải làm. Làm để sớm xua đuổi nỗi ám ảnh: Gỡ cho nhanh những miếng lưới rê này để khỏi lôi thôi. Và cũng để biết rằng tàu có bị quấn chân vịt không. Ai cũng lo như vậy nên không ai dám nói ra. Nhìn nét mặt lạnh tanh của bố, tôi biết bố đang nghĩ ngợi rất lung. Nếu quấn chân vịt, máy không hoạt động được thì biết làm sao đây. Ba sợi cáp bị quấn chặt vào với nhau. Một lá cờ nhỏ đỏ trắng dắt ở ròng rọc đầu tăng gông. Những con dao nhỏ đầu nhọn sắc như nước được mang ra. Cắt lưới. Im lặng xẻo cắt. Trèo ra tăng gông. Tụt xuống ván. Ngồi hẳn trên giềng phao, ngâm chân xuống biển. Gỡ. Cắt. Xẻo. Rồi tất cả lên boong. Bố hạ lệnh tơi hoạt động để kéo đụt. Cái đụt đã ở ngay sát ván mà sao kéo không lên. Tang tơi cuộn từng vòng. Pu li rít ken két. Dây kéo đụt bằng ni lông trắng ngà to ngang chuôi dao căng thẳng. Đụt vẫn không nhúc nhích. Một chú nhấc dây cáp đặt lại trên be. Tơi lại rít ken két. Tàu hơi nghiêng đi. Mãi mới nhổ lên được cái đụt bê bết đất. Đụt bên kia cũng vậy. Lèo tèo vài kí tôm. Làm xong là mười một giờ đêm. Mọi người đã tưởng thôi không đánh nữa. Và đã có tiếng khe khẽ:
-  Về đây là đè lưới rê ngay thôi mà.
-  Cứ ở Lạch Trường lại hơn.
-  Quyết đạt một tấn rưỡi tôm để làm gì nhỉ.
Không biết bố có nghe thấy không. Bố lên buồng lải giật chuông. Mảy nổ. Tiếng mảy giòn giã. Những bọt nước quạt lại phía sau trong ảnh đèn pha lúc này sao đảng yêu đến thế. Nó chứng tỏ tàu vẫn bình thường, không phải thả trôi. Không phải nhờ tàu đến cứu. Tiếng bố:
-  Chuẩn bị thả lưới nhé!
Nhiều tiếng ngạc nhiên hỏi lại:
-  Thả lưới à?
-  Ừ. Thả lưới. Bố đáp nhẹ nhàng.
Đám người vừa lao động khẩn trương căng thẳng ôm đống lưới mới được buộc lại xốc xuống biển. Bố lại ra đứng chỗ chân cần cẩu nhìn xuống. Bác Sĩ nhìn theo chiếc lưới còn chưa duỗi hết đang quấn vào nhau trong nước biển phía đuôi tàu dưới ảnh đèn pha, hốt hoảng:
-  Sao thế kia.
Bố ôn tồn:
-  Tốt. Không việc gì đâu.
Tàu đi. Dưới nước, lưới duỗi xuôi đẹp xa dần, chìm dần. Xong mọi công việc lúc ấy mới thấy trăng vàng vẫn chênh chếch mặt biển. Nhưng thôi ăn mì đã. Mặc dù đã ăn cả chim nướng, tôm tít luộc và cả tôm he nữa, bảc Nhớn vẫn nấu nồi mì tôm phục vụ mọi người đêm nay vất vả.
Đêm tôi lại ngủ trên boong thượng. Boong mũi vẫn còn mùi tanh của bữa ăn bốc lúc tối. Mơ mơ màng màng. Nghe có tiếng quảt. Và tiếng chú Hùng: “Không. Không có gì đâu”. Ngồi nhỏm dậy thấy trong ảnh đèn hành trình hai cảnh buồm mở rộng, một chiếc nhô lên ngay mũi tàu. Và những người đứng trên thuyền lố nhố. Những người đi tìm lưới rê, tìm con tàu đã làm mất lưới của họ. Họ khua tay ra hiệu tàu dừng lại. Tiếng quát to:
- Tàu làm mất lưới rê của chúng tôi. Cho chúng tôi lên tàu.
Chú Hùng thét:
- Chúng tôi không biết lưới rê lưới kéo gì cả. Tránh ra, tàu đâm chúng tôi không chịu trách nhiệm.
Những người trên thuyền vẫn huơ tay ra hiệu. Sóng làm hai cánh buồm lúc hút xuống lúc nhô lên ngay bên mạn. Chú Hùng giật chuông. Máy tăng tốc độ, rùng rùng rướn tới bỏ lại chiếc thuyền buồm chở những người đánh cá mất phương tiện sinh sống trong bóng tối biển cả mênh mông. Tôi nằm, không ngủ được. Tôi ghét chú Hùng. Tôi ghét bố. Bây giờ tôi càng hiểu vì sao khi tàu quấn lưới rê, cả tàu phải cắt lưới và làm mọi việc nhanh như thế. Tôi thương những người đánh lưới rê. Trong bữa ăn tôi đã được nghe mọi người nói về lưới rê. Đó là thứ lưới thả nổi, dài hàng mấy trăm mét, rất nhiều tiền. Cuộc sống thật gian nan, vất vả, cực nhọc đầy rẫy những chuyện đau lòng.
Bố đã thức dậy đi ra buồng lái: Cái gì thế? Chú Hùng trả lời: Không có gì đâu. Họ đi tìm lưới rê đấy mà. Bố nhắc: Giảm tốc độ đi. Chú Hùng kéo tay chuông: Vừa nãy họ cứ chắn mũi tàu. Tăng tốc dọa họ tí thôi. Đã định nếu không tránh là mang súng ra bắn chỉ thiên. Bố nghiêm mặt: Đừng. Súng ống rách việc. 
-  Buông dây lái cho xà lan dầu! Buông dây lái cho xà lan dầu!
-  Mở van nước không vỡ ống bây giờ! Mở van nước ngay!
-  Xông hết dây mũi, chỉ để lại một tao thôi!
-  Xông từ từ dây mũi ra!
-  Xông từ từ dây lái ra!
-  Thu hết dây lái về! Thu hết dây lái về!
-  Chuẩn bị dây lái để ném dây lái!
-  Thu nhanh dây lái nếu bắt được dây lái!
-  Ném lại đi! Chỉ ném một đoạn dây mồi cũng không xong!
-  Ném dây lái lại đi!
Những tiếng loa vang động cả xí nghiệp rồi tắt hẳn khiến người ta biết ngay là tàu ông Chơn đang ở bến. Và sau những mệnh lệnh khi nghiêm khắc, khi càu nhàu gắt gỏng ấy là những tiếng còi tàu chứ không phải Đi mô chừ cũng nhớ về Hà Tĩnh thì người ta biết tàu ông Chơn tách bến đi sản xuất chứ không phải từ ngư trường về cập bến.
Trên buồng lái, Chơn nắm vô lăng, mắt căng ra nhìn về phía trước. Tất cả một màu trắng sữa. Trời mây sông nước, trước mặt, phía sau, bên phải bên trái, trên đầu dưới chân đều một màu trắng đặc như có thể lấy tay vốc được. Sa mù. Trời này gọi là tầm nhìn hạn chế đây. Có cả một chương về sa mù trong bài học hàng hải: “Khi đó chỉ được cho tàu hành trình với tốc độ vừa phải”.Chung chung quá. “Vừa phải” nghĩa là khi phát hiện ra mục tiêu thì tớp máy sao cho trớn tàu đi chớm đến mục tiêu là dừng lại. Thế đấy. Chẳng cụ thể tí nào. Anh phân công hai thủy thủ mạn phải, hai thủy thủ mạn trái, hai người trên boong lái. Nhìn. Căng mắt ra nhìn. Đứng ở mũi tàu nhìn không thấy lái. Chỉ thấy bóng cái cần cẩu mờ mờ chênh chếch chỗ hầm cá và bóng người thủy thủ đứng bên mạn, đốm thuốc lá thỉnh thoảng lại đỏ lên. Phát hiện tàu bạn phải tốp máy dừng lại quan sát. Đến khi thấy rõ hướng đi của họ mới dám cho tàu mình chạy. Còi mù liên tục. Còi mù không dứt. Còi mù như lạc bạn cất tiếng gọi. Tôi đang ở đây. Tôi đang ở đây. Với Chơn hôm nay, tiếng còi còn như tiếng chào Hòa vẫn đang đứng trên bến nhìn theo. Chào em. Cám ơn em. Anh đi. Hai tuần nữa anh về. Thông cảm với anh. Tu tu. Hòa nhé. Tu tu. Tu tu. Tu tu. Anh em bảo kính coong đấy. Giống xe đạp đi vào chỗ đông người. Kính coong. Kính coong. Tàu chạy tiếng một.Máy xình xình một nhịp. Tiếng máy cũng như nhẹ đi. Sóng được bọc trong một lớp bông xốp êm đềm. Tàu như rẽ lớp bông xốp mà đi. Bồng bênh. Bồng bênh. Tiếng còi đều đều. Như gọi. Như chào. Chơn biết trên cầu cảng Hòa vẫn đứng trong sa mù dõi theo bóng tàu anh, nghe tiếng còi tàu anh cất lên rời bến, nhưng anh không dám quay đầu lại. Với lại có nhìn thấy gì đâu mà quay đầu với chẳng quay đầu. Sao lúc này anh muốn có Hòa đứng bên đến thế. Để lại được ôm Hòa, cảm thấy hết chiều dày, chiều cao, hơi nóng rừng rực tỏa ra từ tấm thân Hòa. Để lại được gục đầu vào ngực Hòa thơm mùi sữa. Để cùng Hòa đi ra biển. Kể ra có thể lùi giờ tách bến lại chờ tan mù.
Nhưng như thế thì chậm mất so với tính toán của anh. Và nhất là chậm mất giờ tách bến đã được đại phó Lừng nghiên cứu kỹ. Hơn nữa biết đến bao giờ mới tan mù. Anh cũng không muốn phá vỡ kế hoạch đã định: Ghé vào Vụng Ngọc, đưa lên tàu con lợn non một tạ, làm một bữa lòng lợn tiết canh ra quân để tăng thêm khí thế. Mấy tháng nằm bờ sửa chữa kham khổ quá rồi. Lại còn phải bảo đảm thả mẻ lưới đầu tiên vào lúc hoàng hôn. Hừng đông, tắt quản, đó là hai mẻ lưới quan trọng nhất trong cả một ngày. Đây là một chuyến đi biển thực hiện theo cơ chế khoán mới: Lời ăn, lỗ chịu. Có thể nộp cá cho xí nghiệp nhưng cũng có thể nộp tiền. Nghĩa là có thể bán cá ngoài biển, bán cá ở cảng. Nộp tiền cho xí nghiệp theo định mức. Một chuyện rất khó nhằn. Đánh lưới vét là lọc nước lấy cái. Càng lọc nhiều nước càng được nhiều cái. Mà tốc độ tàu giảm, dù mới trung tu xong. Bởi có phụ tùng thay thế đâu. Dầu tiêu hao vượt định mức, nói theo cánh thợ máy “tàu uống dầu hơn voi uống nước”. Đó là chưa kể mấy chục năm nay chà đi xát lại, Vịnh Bắc Bộ có còn như trước nữa đâu. Nghề lưới vét là một nghề tàn phá môi trường, khai thác có tính hủy diệt, gần như chẳng còn nước nào duy trì. Chỉ mỗi Việt Nam... Khó khăn. Nhưng anh quyết chuyến ra quân thắng lợi. Không phụ lòng tin của anh em. Cố gắng đem lại thu nhập dù chỉ là tối thiểu. Thực hiện chính sách khoán trắng của xí nghiệp, trách nhiệm của thuyền trưởng thật nặng nề. Anh chỉ mong tàu đừng xảy ra sự cố...
Tối qua, buổi tối trước khi tách bến, như mọi thủy thủ khác, anh lên nhà xe, lấy xe dạo phố. Đi lang thang. Như những buổi tối trước khi tách bến, chỉ có mấy người trực ban ở lại tàu, còn tất cả lên bờ. Đi từ biệt đất liền. Đi để nghe nhìn. Nghe những âm thanh muôn hình muôn vẻ của cuộc sống. Nhìn những người giặt giũ, lấy nước ở vòi nước công cộng vỉa hè. Nghe tiếng ô tô lăn bánh trên đường nhựa. Để xa nó, ra biển. Người thủy thủ có lẽ là người có nhiều cuộc chia tay nhất. Đang vẩn vơ cảm nhận những cành lá ven đường ngay trên đầu mình, bỗng nghe có người gọi tên anh. Hòa. Thì ra anh đang lang thang ở phố Phan Bội Châu, ngay trước cửa nhà Hòa.
Đã lâu lắm mới gặp lại Hòa. Hòa luôn gợi cho anh những tình cảm tốt đẹp, tin cậy, chân thật đến mức cảm động. Hòa còn làm anh nghĩ tới thời gian đi sao thật nhanh, và con người ta biến đổi biết chừng nào bởi trước mắt anh không phải cô Hòa vừa là trẻ con vừa là người lớn năm nào. Một cô Hòa anh vẫn nhận ra ngay nhưng đã hoàn toàn khác. Một cô gái trưởng thành như muốn khoe tất cả sức sống bừng dậy trên khuôn mặt, trên cơ thể. Một cô Hòa khỏe mạnh, rực rỡ tươi tắn quyến rũ làm anh bất ngờ, gần như choáng ngợp. Hòa chạy ra sát lòng đường, nắm tay anh, kéo anh về nhà. Đã lâu lắm anh mới bước chân lên cái hè phố này. Nhà Huyền kia. Đứng ở trước cửa là những cô gái lạ mặt. Chắc mẹ Huyền cũng đã chuyển nhà rồi. Anh bước theo Hòa. Lại đi vào cánh cửa ngách ấy, lối đi hẹp ấy. Cái ô làm buồng tắm đã được chữa lại. Như đoán được những gì trong lòng anh, và cũng giống bà mẹ trước đây, Hòa dừng lại trước cửa gian buồng tắm, bật điện. Cửa gỗ mở, nhưng bên trong không còn xô chậu, gáo múc nước với cô gái bé nhỏ khom người bối rối lấy tay che chỗ kín nhìn anh. Một nhà tắm với đầy đủ các la va bô, bệ bệt, vòi hoa sen, bình nóng lạnh giữa những bức tường ốp gạch men trắng muốt.
- Mới chữa lại đấy anh ạ.
Hòa nói và nhìn anh. Anh cũng nhìn vào mắt Hòa và thấy ở đó có gì như giễu cợt, như trêu chòng lại như thách thức, một vẻ thách thức đầy tự tin. Đôi mắt nói hẳn anh còn nhớ em đã tắm ở trong ấy và anh đã nhìn thấy tất cả con người em không giấu giếm không che đậy. Ngày ấy em là một con bé con vừa sung sướng vừa sợ hãi và xấu hổ, nhưng sợ hãi nhiều hơn vì em còn là con nít trong khi anh đã là người lớn, mà người lớn bao giờ cũng mạnh mẽ bí ẩn, lũ trẻ con chúng em không hiểu được. Còn bây giờ anh xem em đã là như thế nào. Em cũng là người lớn như anh, hiểu những gì thuộc về người lớn như anh. Hòa lại nắm lấy tay anh, cái nắm tay thân thiết làm anh xao xuyến.
- Mẹ xem con đem về cho mẹ ai đây này.
Mẹ Hòa đang ngồi ở giữa nhà, ôm một đứa bé chừng sáu, bảy tháng, đứng vụt dậy:
- Anh Chơn. Sao lâu thế không thấy anh lại chơi.
Chơn nhìn đứa bé trong tay mẹ Hòa rồi lại nhìn
Hòa. Hai má Hòa ửng đỏ:
-  Con em đấy. Cháu trai.
Thật quá bất ngờ. Anh đứng ngây người nhìn thằng bé giơ hai tay về phía mẹ đòi bế. Hòa bế con và chìa nó về phía Chơn:
-  Bác bế con nào.
Thấy người lạ, thằng bé nép vào người mẹ. Chơn giơ tay xốc lấy nó, vô tình anh chạm vào ngực Hòa vừa mềm lại vừa căng. Nhưng nó nhất định không chịu, cứ ôm chặt lấy cổ mẹ.
Bà mẹ rót nước rồi quay lại hỏi anh:
- Đã vợ con gì chưa. Con Hòa nó cứ hỏi thăm anh mãi đấy.
Câu ấy cứ như một lời trách móc, như muốn nói lẽ ra anh đã là chồng Hòa và Hòa lúc nào cũng nhớ đến anh.
- Con ế bà ạ. Vẫn cứ lấy tàu là nhà, biển cả là quê hương thôi.
- Để tôi làm mối cho một đám. Thật đấy. Giá ngày ấy anh đồng ý em Hòa, bây giờ cũng đã con bồng con bế thế này rồi.
Anh cười. Hòa cũng cười. Cả hai cùng đỏ mặt. Thằng bé cứ rúc vào ngực Hòa đòi bú. Hòa bảo mẹ:
-  Mẹ bế cháu ra ngoài kia chơi một chốc nhé.
Còn anh và Hòa. Hai người ngồi nhìn nhau. Gái một con trông mòn con mắt. Trước mắt anh là một phụ nữ xinh đẹp và quyến rũ. Dù quần áo rộng vẫn thấy được một cơ thể căng đầy, nở nang, hơi xổ ra càng làm nổi tấm thân tràn căng nhựa sống. Da sáng mịn, dưới ánh đèn vàng vọt vẫn thấy sắc hồng nơi gò má. Nổi bật nhất là khuôn mặt đầy đặn và hai bầu ngực tròn mà anh biết vừa rắn lại vừa mềm. Ớ hai chỗ nhô xa nhất nơi ngực ấy, sữa thấm ra làm ố chiếc áo hoa. Không còn là cô bé Hòa nhỏ xíu năm nào dù khỏa thân vẫn chỉ gợi cho người ta ý niệm đứng xa xa nhìn ngắm. Anh cố tìm những mối dây liên hệ giữa cô gái như vầng trăng non mát dịu ngày trước với người mẹ một con như một mặt trời tỏa ra biết bao năng lượng có thể thiêu đốt người khác đang ngồi trước mặt anh:
- Hòa đẹp quá. Khác hẳn trước. Hòa trông anh có già nhiều không?
Hòa cũng chăm chú nhìn anh:
-  Trông anh trẻ ra thì có.
Đến lúc ấy anh mới biết trước khi cưới, Hòa đã mấy lần xuống xí nghiệp tìm anh đưa giấy mời, nhưng tàu anh đi biển. Chồng Hòa cũng là dân đi biển, thủy thủ trên một con tàu vận tải Bắc Nam.
- Sao lâu thế anh không đến chơi. Hòa nói như trách móc. Mẹ em cứ nhắc đến anh luôn. Nói thật với anh mẹ em quý anh lắm. Chỉ muốn anh làm rể thôi.
Đó là một lời thú nhận Hòa yêu anh, vẫn yêu anh. Chơn vừa sung sướng vừa như đánh mất một cái gì. Anh cố lấy giọng bông đùa để át đi sự xúc động:
-  Mẹ là một chuyện. Chủ yếu là em chứ.
-  Thì đã có bao giờ em nói không bằng lòng anh đâu.
Rồi như một ý nghĩ vụt đến, Hòa bước lên thang gác lửng:
-  Anh chờ em một tí nhé.
Từ trên gác lửng đi xuống là một Hòa khác. Không mặc bộ quần áo vải hoa thông thường khi ở nhà, Hòa khoan thai từng bước với bộ váy liền áo mút xơ lin mỏng màu đen. Đã thon thả lại càng thon thả. Đã nở nang lại càng nở nang. Trông rõ chiếc nịt vú như hai cánh bướm xòe trên ngực. Trông rõ đường cong nơi eo chạy xuống cặp chân dài. Vừa lồ lộ lại vừa bí ẩn. Anh kêu lên:
-  Hòa đẹp quá.
-  Anh chỉ khéo nịnh em thôi.
-  Đẹp lắm ấy. Ít người có được cái dáng như em.
Hòa cười hồn nhiên:
-  Ngày ấy anh chê em bé chứ gì?
- Không. Không phải chê em bé, mà em hãy còn là trẻ con. Anh lấy người lớn. Như em bây giờ. Anh không lấy trẻ con.
Cả hai cùng cười. Hòa bảo:
-  Như em bây giờ anh có lấy không?
Không trả lời, anh đặt bàn tay để mở lên bàn, chìa về phía Hòa và đăm đắm nhìn Hòa. Hòa cũng nhìn anh rồi cúi đầu. Anh vẫn kiên nhẫn để yên bàn tay mời gọi. Một lúc sau Hòa nhẹ nhàng đặt bàn tay mình vào đấy. Anh nắm nhẹ bàn tay Hòa mát lạnh, rồi ấp cả tay kia lên tay Hòa. Anh đứng lên bước sang phía ghế đối diện. Hiểu ý anh, Hòa ngoan ngoãn đứng lên. Hai người song song sát nhau. Anh cảm thấy hơi nóng từ người Hòa tỏa ra bao bọc lấy anh. Anh ôm Hòa nhè nhẹ. Hòa đứng nguyên trong vòng tay anh. Anh hôn Hòa nhưng Hòa quay mặt đi:
- Không được. Em bảo không được mà.
Chơn nói lắp bắp:
- Anh yêu em.
Dù không cho anh hôn, Hòa vẫn đứng nguyên trong vòng tay anh. Anh cảm nhận hết cơ thể dày dặn của Hòa song song với cơ thể anh đang bốc cháy.
Khẽ gỡ tay anh, Hòa quay lại ghế ngồi. Chơn cũng trở về ghế của mình, ngồi nghe Hòa nói. Chuyện Hòa lấy chồng và đau khổ là những bất ngờ liên tiếp đối với anh. Với những tình cảm vừa bùng lên trong lòng, anh nghe Hòa với tất cả sự chăm chú pha lẫn xót thương tiếc nuối. Chồng Hòa tên là Minh, bố mẹ ở cả Thái Bình nên khi lấy nhau Minh dọn đến nhà Hòa. Chó chui gầm chạn như bạn bè trêu chọc. Chính vì vậy mới phải làm thêm cái gác lửng, chứ trước đây anh đến có thấy đâu. Cái gác này là do công sức của Minh. Minh mua ống thép. Minh mua gỗ. Minh kéo mấy người bạn dưới tàu đến làm. Hai người đã có những ngày hạnh phúc. Chỉ sau khi đẻ, Hòa mới biết mình bị lừa dối. Do mấy con gà. Những con gà mẹ mua về nuôi để Hòa tẩm bổ khi sinh đẻ. Có một con đẻ. Nó nhảy tìm ổ’. Mò vào đống than. Chui vào gầm chạn.
Lên cả nhà trên. Cuối cùng nhảy lên gác bếp, chỗ để những kìm búa, cuộn dây điện cũ, những túi, những gói của Minh, những rổ rá, linh tinh chẳng ai đụng đến bao giờ. Khi nó từ trên ấy nhảy xuống cục ta cục tác điếc cả tai, Hòa xuống bếp định nhặt quả trứng con so mới đẻ. Trước mắt Hòa, trên nền bếp, những chiếc phong bì rơi tung tóe. Phong bì nào cũng đề “Anh Nguyễn Hoàng Minh, công ty vận tải biển 2”. Phong bì nào cũng những nét chữ nắn nót con gái. Và bên trong là những lời lẽ nhớ nhung yêu đương, những kỷ niệm không quên. Từ nhiều địa chỉ. Những địa chỉ, những bến cảng tàu Minh đã ghé vào ăn hàng hoặc bốc hàng. Có những bức thư trước ngày cưới và nhiều bức gửi sau ngày cưới...
- Thật không ngờ. Đã bao nhiêu ngày đêm em mong anh ấy. Mong anh ấy bước vào nhà. Mong anh ấy nằm bên em. Thì ra em chỉ là chỗ để anh ấy đi về, khi anh ấy không có ai. Em đã bị lừa dối, phản bội trước cả khi cưới. Mà anh biết đấy. Em trong trắng như thế nào.
Chơn không biết nói gì. Còn Hòa im lặng. Rồi chính Hòa bước tới bên anh, đặt hai tay lên vai anh. Anh đứng lên, một nỗi xót xa khiến anh ôm chặt lấy Hòa.
- Chỉ tại anh đấy. Không. Anh đừng sợ. Mẹ chưa về đâu. Biết anh đến chơi với em là mẹ không về đâu. Đến với em luôn anh nhé.
Nét mặt Hòa vừa đau đớn vừa tin cậy. Anh không hôn Hòa, chỉ lấy tay vuốt dọc lưng Hòa:
- Bảy giờ sáng mai anh đi biển rồi. Nửa tháng nữa mới về. Anh sẽ đến em luôn.
Rời nhà Hòa, anh đi như người mộng du. Có lẽ anh là người về tàu sau cùng. Trằn trọc không ngủ được. Lại phải nhờ đến rượu. Trong giấc ngủ anh mơ. Không mơ thấy Hòa. Mà mơ thấy vợ. Hai người yêu nhau. Như chưa hề li dị. Sáng dậy quên ngay. Chỉ đến khi thấy đũng quần ướt mới nhớ là có giấc mơ đó. Nhớ tới giấc mơ đó và nhìn ra ngoài trời thấy sa mù trắng xóa. Những ngọn đèn trên cầu cảng hoe hoe đỏ giữa những làn bụi nước trắng sữa khi đứng im, khi quẩn quanh kéo tới rồi lại nhẹ nhàng êm ả uốn lượn trườn đi. Anh vùng dậy, vào nhà tắm tắm rửa rồi lên nhà xe lấy xe đạp ra phố. Sương mù thôi thúc anh. Câu chuyện với Hòa thôi thúc anh. Giấc mơ vừa qua thôi thúc anh. Không thể nằm một mình trong phòng được.
Anh đạp xe chầm chậm trong sương. Sương như bột ẩm rắc lên da mặt, lên hai bàn tay nắm ghi đông mát dịu. Đèn hai bên phố cũng chỉ một quầng hoe hoe trông rõ những hạt bụi li ti. Như bơi trong bụi nước. Như bơi trong sương. Như đi vào một thế giới trong mơ, không có thực. Một thoáng kỷ niệm mong manh ẩn hiện, hư ảo như khói bếp của một ngày đã qua nào xa lắm. Một ngày đầm ấm nào của tuổi thơ, hay mơ mộng của tuổi trưởng thành. Và một điều gì chờ đợi anh trong tương lai. Có phải Hòa không? Hòa vẫn nghĩ đến anh từ ngày mới lớn. Hòa đau khổ trong vòng tay anh như trách móc lại như tìm thấy một niềm an ủi. Và sương mù. Sương mù huyền diệu như làm dịu lại tất cả căng thẳng của cuộc đời. Sương phơi phới từng làn qua cửa sổ ùa vào căn phòng gác nhà ai để mở, ngọn đèn tròn treo thõng trên trần cũng chỉ hoe hoe. Sương khuyên con người hãy yêu cuộc sống, hãy sống tốt hơn. Sương giục con người bơi trong sương, xê dịch, di chuyển trong sương. Giá bây giờ có Hòa cùng đi, hai người đạp xe bên nhau trong thế giới mỏng manh như không có thật này. Những ngôi nhà từ từ hiện ra và nối tiếp nhau trôi về phía sau. Trên bãi Máy Tơ, chiếc cần cẩu nhẹ quay cánh tay thép trong sương. Những chiếc ô tô đỗ trong bãi, xám và mảnh, hiền dịu nhẹ nhàng như một thứ đồ chơi con trẻ. Những người đi trên đường không có trọng lượng ẩn hiện. Như trong mây. Như rẽ mây mà đi. Chầm chậm đạp xe trong sa mù, mải mê với những ý nghĩ lộn xộn nhưng biết bao cảm xúc, khi nhìn đồng hồ anh giật mình vội đạp xe về bến. Và thật không ngờ: Hòa đang đứng ở cầu tàu! Bên cạnh là Lừng đại phó. Anh xúc động reo lên và tự lên án mình là một thằng vớ vẩn, đi lang thang trong khi Hòa đứng trên cầu cảng chờ anh:
- Em đến lâu chưa.
Lừng tươi cười, chỉ vào Hòa:
- Người đẹp chờ anh lâu rồi.
Anh sốt sắng:
- Xuống tàu. Vào cabin đi!
Anh muốn kéo Hòa xuống tàu trò chuyện và cũng để Hòa xem căn buồng chật hẹp của anh, ngôi nhà của anh, để Hòa thấy anh cần được thay đổi cuộc sống biết chừng nào, nhưng Lừng ngăn lại:
- Để khi khác thuyền trưởng ạ. Tàu sắp tách bến không cho phụ nữ xuống tàu đâu. Tôi là cứ nói thật.
Chơn và Hòa cùng cười. Nhất là Hòa. Cô coi như một câu nói đùa. Nhưng Chơn biết đấy là câu nói nghiêm túc nhất của người thuyền phó nhiều tuổi hơn anh, chỗ dựa đáng tin cậy của anh, lúc nào cũng mong muốn điều tốt đẹp đến với anh. Sống trong một gia đình cả nhà đi biển, sinh ra trên sóng, Lừng có thể kể không biết bao chuyện về những điều kiêng kỵ mà Lừng tận mắt chứng kiến hay nghe nói lại và kiên quyết thực hiện những điều kiêng kỵ ấy. Chính tàu anh đã bị một vố mà Lừng lấy làm bài học nhãn tiền. Chuyến ấy đang sản xuất thì bị quấn chân vịt, thả trôi gần một ngày trên biển. Mãi mới có một tàu đi đến gần. Còi liên tục. Nhưng nó không để ý. Bắn bốn phát pháo hiệu về phía nó. Nó rẽ sóng tới bên. Quăng cáp cho nó. Nó kéo. Bốn lần đứt cáp. Sóng to quá. Lần thứ năm mới kéo được vào vịnh. Anh em thay nhau lặn, cắt lưới. Đúng một ngày, tàu mới nổ máy cơ động được. Lại còn hai ngày hàn, trít lại tàu. Đó là chưa kể mất tấn cá ngon cho tàu vận tải gọi là chi trả tiền dầu. Chưa kể phải ngừng sản xuất hơn bốn ngày tất cả. Lên tàu tắm rửa xong, trong bữa cơm anh em tập trung ở câu lạc bộ, Lừng quát:
- Chuyến này trước khi tách bến có phụ nữ nào xuống tàu không?
Tra hỏi vặn vọ nhau mãi cuối cùng là có. Cô Lữu làm ở căng tin được anh nuôi nhờ mua hộ một can tương ớt, xách xuống lúc tàu sắp tách bến!
Anh nuôi Phiệt bị một mẻ nên thân. Mắng anh nuôi chán, Lừng quay ra nói với mọi người: Từ nay trước khi tách bến không ai được đưa phụ nữ xuống tàu. Nếu người ta xuống phải tìm mọi cách cản lại. Người quen của ai người ấy chịu trách nhiệm. Tôi biết các bố duy vật, không tin nhưng rồi các bố phải tin. Đấy rồi xem!
Không chỉ cấm ngặt phụ nữ xuống tàu trước khi tách bến, mà trên đường ra cửa sông, nếu có chiếc thuyền nào, con tàu nào có phụ nữ ngồi trên chạy cắt vát mũi tàu, thế nào Lừng cũng làu bàu tức giận rồi vào bếp lấy con dao làm cá ra mũi, ngồi thụp xuống, chém chéo bên nọ chéo bên kia đúng chín nhát, miệng lẩm bẩm đúng chín lần vía lành thì ở, vía dữ thì đi này! Tối qua, khi đi dạo phố và đến nhà Hòa, Chơn biết Lừng ở lại tàu nấu xôi, giết gà thắp hương cầu xin Hà bá, Thủy thần phù hộ cho chuyến đi kết quả. Lừng cũng đã xem lịch thủy triều, cũng như tra sổ định giờ tách bến như người trên bờ xem giờ xuất hành. Và giờ ấy là không thể thay đổi. Nhất là chuyến đầu tiên sau trung tu. Anh xem lại đồng hồ, bảo Hòa:
- Còn ít phút nữa tách bến. Đi với anh một lát trên cầu tàu.
Lừng nói thêm một câu chân tình:
- Cái nghiệp đi biển phải thế. Sóng nước chẳng biết thế nào. Cô thông cảm. Nửa tháng nữa tàu về bến mời cô xuống tàu chơi lâu lâu với anh em tôi.
Hai người nắm tay nhau đi trên cầu cảng đặc sương. Chỉ mươi bước chân đã chẳng thấy Lừng đâu, chẳng thấy tàu đâu. Đã lạc vào sương. Đã tất cả là sương dày. Họ đứng lại, nhìn nhau, nhìn sương che phủ bao bọc họ. Chỉ còn hai người giữa một vực sương trắng quây bốn chung quanh. Không ai bảo ai, anh và Hòa ôm choàng lấy nhau. Hòa hôn anh. Hòa hôn anh trước. Sôi nổi cuồng nhiệt, môi Hòa gắn vào môi anh, anh chỉ kịp nhấc hai hàm răng, lưỡi Hòa đã tràn sang quẫy cựa trong khoang miệng. Khi tưởng chừng ngạt thở, Hòa rời anh ra, thở gấp:
- Suốt đêm qua em chỉ nghĩ đến anh.
Choáng ngợp trước tình cảm Hòa dành cho mình, Chơn lắp bắp:
- Anh yêu em. Cám ơn em...
- Đến với em anh nhé. Chỉ có anh an ủi được em thôi. Em không đòi hỏi gì ở anh đâu.
Trong sương mù, anh thấy cặp mắt Hòa long lanh như van nài. Anh nhìn những giọt sương đọng li ti trên mái tóc Hòa, trên vai áo Hòa rồi ép má anh vào gò má nóng bừng của Hòa:
- Anh sẽ đến. Nhất định anh sẽ đến...
Hai người lại ép vào nhau. Bỗng anh thấy ươn ướt nơi ngực áo sơ mi. Sữa. Sữa từ ngực Hòa chảy thấm qua áo Hòa sang áo anh. Anh chậm rãi cởi khuy áo Hòa rồi cúi xuống, ngậm lấy bầu vú nóng hổi căng mọng vì ứ sữa. Những tia sữa ngọt thơm tưới vào anh hương vị tuổi thơ. Như đứa trẻ tham lam, anh vục đầu sang bầu vú bên kia. Hòa khẽ đẩy đầu anh ra:
- Nhẹ thôi. Đau em.
Nói thế nhưng chính Hòa lại kéo đầu Chơn vào ngực mình, lấy ngón tay ép vào bầu vú để sữa từ đó tia vào miệng Chơn. Trong sương mù, họ cảm thấy hai lần tự do. Cõi trần ngừng tồn tại. Chỉ còn họ. Trời sương này là dành cho họ. Để có thể đứng giữa trời mà ôm nhau. Để có thể có nụ hôn giữa trời này. Cho đến khi có tiếng còi tàu gọi Chơn. Hòa và Chơn càng ghì nhau chặt hơn. Dứt hồi còi thứ ba, hai người mới rời nhau, tay nắm tay đi về phía tàu đỗ.
Thế rồi cầu tàu được kéo lên. Những mệnh lệnh của Chơn vang trong trời mù. Tàu tách bến. Đứng trên cầu, Hòa nhìn theo HL 412, nhìn theo Chơn trong buồng lái với người thủy thủ lái tàu, hy vọng Chơn sẽ quay lại nhìn mình, nhưng không, anh đã đặt hết tâm trí vào công việc. Con tàu với những người trên tàu, tất cả như những chiếc bóng, nhẹ như đang tự động nổi trôi. Cần cẩu, dây cẩu, mũi tàu xám trên dòng sông mờ mờ giữa những gợn nước như đi trong một bức tranh thủy mạc. Tu tu. Tu tu. 412 mỏng dần, mờ dần rồi biến mất trong sương như chưa từng có nó trên khúc sông này, bến cảng này. Nhưng nghe tiếng còi của nó, Hòa biết nó vẫn đang ở đâu đây gần lắm, đang gọi cô trong bến sương ngay đây thôi. Nó chỉ ở bên kia bức màn sương, vừa quá tầm nhìn nhòe trong sương đặc thôi. Tu tu. Tu tu. Trong sa mù, tiếng còi tàu như tiếng kêu gọi bạn giữa bồng bềnh tiền sử. Tu tu. Tiếng gọi kiên nhẫn thiết tha. Tu tu. Tiếng gọi nhỏ dần. Nhỏ dần. Vọng lại từ phía sa mù đặc ngoài cửa biển. Vọng lại chỗ Hòa như còn cố gửi một lời chào, một lời hò hẹn.
Rồi không nghe thấy tiếng còi sương nữa.
Hạ Long 412 đã đi xa rồi.
Hòa vẫn đứng im lặng trên bến cảng nhìn vào cầu tàu nơi Hạ Long 412 vừa tách bến. Ớ chỗ ấy là một khoảng trống. Và một khoảng trống còn lớn hơn thế trong lòng Hòa.
Mẻ lưới sáng sớm. Một con cả ngựa. Vài con cả ó. Những con cá ó trông hệt những con chim bị thương nằm xõa cánh. Chúng cố bật đôi cánh lên. Đôi cánh rộng, khỏe đập xuống mặt boong. Rồi lại cố đập. Mẻ lưới chẳng được mấy tôm mà bao nhiêu khó khăn. Lần đầu tiên tôi thấy kéo lưới mà đuôi lưới ở phía mũi tàu (lưới trái). Lưới phải thì chỉ nhìn thấy một sợi cáp chéo ngang thân tàu. Bây giờ mới thật là nguy cơ bị quấn chân vịt.
Thế nhưng tất cả dửng dưng. Hôm qua quấn lưới rê, lo lắng, làm như điên. Hôm nay mọi người thản nhiên ngồi xổm giữa boong hoặc chống tay vào be nhìn xuống biển. Bình chân như vại. Tất cả đã có bố. Là thuyền trưởng, bố phải chịu trách nhiệm tất cả. Chú Hùng cũng chỉ trách nhiệm rất ít. Một chú uể oải cầm cái sào vươn ra móc dây kéo đụt nhưng không tới. Sào chỉ đập xuống nước. Đầu gần nhất của sợi dây là gần chiếc ván. Nước chảy mạnh, đánh bật cả lưới cả đụt ra mãi xa. Bác Sĩ trèo lên tăng gông. Lại chiếc blu dông xanh dài quá khổ, chiếc quần xanh bạc mà bác xắn gấu lên, lộn phía trong ra ngoài màu xanh thẫm. Không giấu được vẻ bực dọc, vừa leo bác vừa lẩm bẩm:
- Mẹ kiếp. Về thì không về. Cố làm tấn rưỡi tôm cơ. Chết cả nút.
Bác trèo ra đầu mút tăng gông, tụt xuống ván, kéo dây đụt ném mạnh về phía tàu. Chú thủy thủ giơ lèo ra đón nhưng không được. Mấy lần như vậy. Cuối cùng cũng kéo được đụt, cái đụt trôi ngược trước tàu lép kẹp toàn nước bùn đục đổ xuống ào ào.
Còn lưới bên trái. Chú Đỉnh đứng tơi. Tơi gầm lên quay. Sợi cáp căng thẳng nhưng không nhích dù chỉ một xăng ti mét. Sợi cáp kéo lưới biến mất ở sườn tàu. Mọi người lại trở lại thái độ dửng dưng. Im lặng. Không nói. Nhìn ra biển. Nhìn xuống nước. Bố cũng im lặng. Tôi lo cho bố quá. Bố vào buồng kho, lục lọi, lấy ra một sợi dây ni lông to lồng vào sợi cáp, rồi bảo ba thủy thủ kéo cáp vòng qua đuôi tàu. Bố lại lấy một cây sào dài bước ra be, cắm xuống biển. Rồi đo: Hai sải. Bố bảo chú Hùng lên buồng lái giật chuông. Máy nổ. Cuồn cuộn nước. Bố reo to: “Chân vịt không việc gì! Nó chỉ cạn. Nhưng nước đang lên”. Rồi bố nghiêm mặt:
-  Anh em đứng lại tôi có mấy ý kiến đã.
Bố nói. Mỗi lúc một căng thẳng.
-  Tàu chúng ta có những biểu hiện mà tôi cho rằng phải chấn chỉnh. Đó là thái độ của một số đồng chí không được đúng mực lắm. Tôi cứ nói thẳng ra rằng chúng ta làm cho chúng ta. Vì cuộc sống, vì gia đình vợ con. Là thuyền trưởng tôi chịu trách nhiệm trước xí nghiệp, nhưng tôi cũng chịu trách nhiệm trước anh em. Thế nào là hài hòa lợi ích. Không thể nặng về một vế. Nước có lên thuyền mới lên được. Chúng ta muốn có quỹ tàu để chia thì chúng ta phải có tôm, phải có kết quả thăm dò khảo sắt nộp cho xí nghiệp. Tất cả trách nhiệm dồn lên vai tôi. Nếu phải đi tù, tôi là người đi tù đầu tiên. Điều ấy chắc các đổng chí hiểu quá rõ. Mà tôi hoàn toàn công khai vấn đề này. Tôi được chia tỉ lệ một phẩy năm. Anh Hùng, bác Suất một phẩy ba. Có đổng chí nào muốn được một suất một phẩy năm một phẩy ba như chúng tôi không? Chúng tôi xin nhường ngay. Suất này là suất xương máu đấy. Thế mà khi tôi quyết định ở lại đánh lấy một tấn rưỡi tôm rồi gặp sự cố, các đổng chí tỏ thái độ ngay. Cứ như là tôi làm mọi việc vì cá nhân tôi ấy. Tôi làm vì quyền lợi của toàn tàu. Tôi làm mà lo ngay ngáy. Nếu cuộc sống chúng ta được bảo đảm, chúng ta nhất định không làm cái việc như thế. Có đổng chí nói rất đúng rằng con chó khi trời mưa cũng biết chạy vào nhà. Nói ngay hai con lợn của tàu thôi. Trời mưa là tìm chỗ trú. Còn chúng ta trời mưa, chuông kéo lưới vẫn phải ra boong. Đổng lương ký sổ không đủ sống. Năm trăm nghìn, ăn cũng không đủ. Mà đâu chỉ lao động tám tiếng. Hai tiếng rưỡi một lần kéo lưới. Ngủ thì lắt nhắt chập chờn. Đổng chí nào chán cảnh làm việc ở đây cứ xin chuyển. Tôi ủng hộ. Sang tàu vận tải nước ngoài càng hay. Tôi nhiệt liệt hoan hô. Tôi chỉ mong các đổng chí giữ sao cho nội bộ thật đoàn kết. Tôi cũng nói rằng số tiền phần trăm ngoại giao của tàu tôi chi hết. Không tơ hào một xu. Kinh nghiệm là mọi sự mất đoàn kết rồi đi đến tố cáo nhau đều bắt đầu từ việc ăn chia.
Tất cả im lặng. Nói rồi bố lên buồng lải, trực tiếp cầm vô lăng. Bố cho tàu rẽ phải, lựa đuôi tàu xoay theo chiều lưới. Nước ở đuôi tàu đục ngầu. Một xoáy nước tròn đục cuồn cuộn, ào ào. Chúng tôi đứng nhìn xoáy nước. Chú Đài VTĐ bảo:
- Người xuống đó chỉ có chết.
Tàu còn sản xuất thêm hai ngày nữa. Tôi thấy nhớ nhà quá rồi. Tôi nhớ cây me ở góc vườn. Tôi nhớ cái giếng sâu thăm thẳm cạnh sân. Nhớ con đường đất núi, những vụn đá đỏ au từ nhà ra trường học. Nhớ mẹ. Nhớ cái Ngàn. Nhưng những người chung quanh tôi không thấy ai nói gì về nỗi nhớ của họ. Kể cả bố. Vẫn bình thường như có thể kéo dài cuộc sống trên biển thế này đến bao giờ cũng được. Có lẽ mọi người quen rồi. Công việc đơn điệu đều đều. Đi ra đi vào quanh quẩn trên con tàu kéo lưới giữa biển hoang vắng. Hơn mười mẻ lưới nữa. Chẳng mẻ nào giống mẻ nào. Mọi công việc đều diễn ra ở boong lái. Mẻ được nhiều, mẻ được ít. Mẻ kéo lưới lên rồi thả lưới được ngay. Mẻ phải buộc lại dây, vá lại lưới cả tiếng đồng hồ mới thả. Nhưng có một mẻ lưới thật thú vị. Mẻ lưới sáng sớm sau cái hôm tàu bị sự cố sợ quấn chân vịt. Bốn đụt tôm. Đụt nào cũng phinh phính phồng phồng. Giật dây thắt đụt. Tôm xổ ra tràn trên boong. Những con tôm tươi xanh nhảy búng loạn xạ. Râu đỏ rực. Vi bụng đỏ rực quạt đều đều phát ra một âm thanh rì rào rì rào nhè nhẹ. Những giọt nước li ti bắn lên mặt chúng tôi như một cơn mưa nhẹ. Mặt trời vừa nhô lên khỏi mặt biển, chiếu ánh sáng tới chỗ chúng tôi ngồi nhặt tôm trên boong.
Một dòng vàng nhẫy từ chân trời chạy tới nơi tàu thả trôi, hai bên là biển xanh trong. Tàu khẽ nâng lên hạ xuống. Gió chỉ phây phẩy. Chúng tôi ngồi xung quanh đống tôm vừa kéo từ biển lên. Những giọt nước mát rượi vẫn bắn lên mặt, lên đầu tóc, quần áo chúng tôi. Một chiếc cầu vồng mọc lên từ đống tôm ấy. Chúng tôi vừa nhặt tôm vừa nhìn nhau qua chiếc cầu vồng.
Bùi Ngọc Tấn
Dịch giả: Dương Tường
Theo https://vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chùm thơ của Lưu Lãng Khách

Chùm thơ của Lưu Lãng Khách Ngoài kia xuân đang qua rồi sao!/ Thềm hoa hanh hao - trên trời cao/ Chim non ca vang như ngày nào/ Bên em anh...