Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2018

Biển và con chim bói cá 3

Biển và con chim bói cá 3
Phần thứ hai:
Ấnh thi đua Đỗ Trung Tín được chuyển về phân xưởng lạnh làm thống kê. Là một anh giã giò, đầu óc ngu si tứ chi phát triển, như chánh văn phòng nói, Tín “không làm được một việc gì”. Bản tin không viết được. Báo cáo lại càng không. Chỉ giỏi rượu. Với lại những lúc rỗi việc, ngồi ở bàn, anh ta có cái tật chép miệng khan, không chép miệng như người ta, tiếng chép miệng của anh kêu to như pháo nổ, có thể làm ai yếu bóng vía giật mình. Anh ra đi khi vẫn chưa ai phá được câu chào của anh ta:
- Xin chào ở như các cụ.
Hai tiếng ở như kéo dài, quai hàm trẹo bên nọ sang bên kia, cằm dưới đưa ra, lúc ấy trông anh rất tươi tắn đáng yêu. Vào phòng thanh tra, tới văn phòng công đoàn, lên đảng ủy, tới phòng hàng hải hay đi đâu trở về văn phòng, thấy đám nhân viên cùng phòng, có khi chỉ toàn phụ nữ, những cô Phòng văn thư, bà Nga chạy văn phòng phẩm hay cái Nhạn đánh máy, cái Tám tiếp tân, anh cũng nở nụ cười rất tươi, hai mắt long lanh, cái cằm râu ria đưa ra xin chào ở ở ở như ư ư các cụ! Mãi sau khi anh đi được một tháng, cô Phòng, vâng chính cô Phòng dân bánh chưng đất, văn thư đã nghĩ ra câu đối đáp lại.
Ây là vào cái hôm cả hội vừa ăn ốc luộc xong (hôm ấy sếp đi họp trên thành phố - vắng chúa nhà gà vọc niêu tôm) thì Giò Tìu từ phân xưởng lên ghé vào văn phòng có việc gì đấy, vừa bước vào cửa, đã đưa cái hàm dưới ra:
-  Xin chào à ở như các cụ!
Đang dương dương tự đắc và nở nụ cười thỏa mãn vì biết người ta không thích mình, không thích cả câu chào độc đáo của mình mà vẫn phải cắn răng chịu, bỗng anh ta tái mặt.
-  Để mời à các cụ ngồi chơi!
Đó là cô Phòng! Phút xuất thần của cô Phòng! Chánh văn phòng Điều vỗ tay trước tiên:
-  Con này giỏi! Con này giỏi! Khá! Tao sẽ xin giám đốc tăng cho mày một bậc lương con ạ.
Tất cả cười ngặt nghẹo và đều công nhận câu đáp của cô Phòng hay. Cái Tám hỏi:
-  Chị nghĩ ra từ bao giờ đấy?
Cô Phòng hai gò má đẫm nước mắt, tính cô hễ cười nhiều là nước mắt cứ chảy ra:
-  Vừa nghĩ xong. Tức quá. Tự nhiên bật ra thôi.
Chánh văn phòng đưa cằm ra phía trước:
-  Xin a chào à ở như các cụ.
Cả hội đồng thanh, trừ Tín:
-  Để a mời à các cụ ngồi chơi.
Và cười ầm. Tín cung cúc bước ra cửa đi về xưởng lạnh trong tiếng cười giòn tiễn đưa của anh chị em đơn vị cũ. Chánh văn phòng còn nói thêm một câu đủ để Tín nghe thấy:
- Cho hết cái thói nhăn nhăn nhở nhở như mồm lở sơn...
Người về thay Tín làm thi đua cờ đèn kèn hoa là một người ít nói nhưng lại có khiếu hài hước. Một người nhiều tuổi hơn cả chánh văn phòng, văn hay chữ tốt, hơn thế, một người từng trải, nếu có thể nói được như vậy. Toàn, Nguyễn Đức Toàn, hơn tuổi chánh văn phòng, đã từng làm trợ lý giám đốc sở công nghiệp thành phố, đã đi thanh niên xung phong Trường Sơn, đã ba lần được là đối tượng kết nạp Đảng nhưng cả ba lần đều hoãn kết nạp vì những lý do khách quan. Một lần ở thanh niên xung phong. Chi bộ đã định ngày kết nạp thì Toàn bị trúng bom. Nằm bệnh viện nửa năm, khi ra viện về một đơn vị khác, làm công việc nhẹ hơn cho phù hợp với sức khỏe. Thế là lại bắt đầu lại từ đầu. Lại phấn đấu. Lại được đi học lớp cảm tình. Lại nghe giảng về đấu tranh giai cấp, về chủ nghĩa tư bản giãy chết, chủ nghĩa cộng sản văn minh. Và lại được đứng trong hàng ngũ đối tượng phát triển. Bỗng có chủ trương tạm ngừng công việc phát triển Đảng một thời gian để tập trung vào nhiệm vụ củng cố Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên. Hết thời gian đó Toàn đã xin được về Hải Triều, thành phố quê Toàn và cũng là nơi vợ con Toàn sinh sống. Làm tổng hợp cho đồng chí giám đốc sở công nghiệp thành phố. Có trí nhớ tốt, được việc, trở thành người thân cận của giám đốc, lại một lần nữa, Toàn được là đối tượng kết nạp nhưng giám đốc chuyển đi sau một vụ đấu đá, phó giám đốc - người mâu thuẫn gay gắt với giám đốc, người thắng cuộc - lên thay. Hiển nhiên là ông không dùng Toàn làm thư ký tổng hợp. Việc kết nạp Đảng càng không thể đặt ra. Từ ấy Toàn gạt hẳn mục tiêu vào Đảng ra khỏi đầu óc. Và Toàn cũng hiểu con đường tiến lên của anh thế là hết. Ý chí phấn đấu của anh bị giáng một đòn căn bản, bởi anh biết không vào Đảng thì khó lòng được thăng tiến. Chẳng những thế anh còn phải tạm nghỉ để chờ tổ chức phân công công tác. Hơn một năm sau vẫn chẳng được giao việc, anh gặp giám đốc mới xin tự liên hệ công tác và được giám đốc chấp nhận. Các xí nghiệp trong sở không ai dám nhận anh. Họ đều biết anh bị giám đốc cho ngồi chơi xơi nước cùng với một số cán bộ trong ê kíp cũ. Thế mà trong khi anh còn đương chức, họ tiếp đón anh nhiệt tình đến thế. Phải gần một năm nữa, giám đốc mới (nay đã thành cũ) mới cho anh liên hệ công tác ở ngoài ngành. Đó là một việc bất đắc dĩ vì đồng chí không muốn ngành thất thoát cán bộ! Được về Liên hợp Hải sản Biển Đông - Biendong Fiscom, anh coi như mình trúng số độc đắc và lao vào công việc với tất cả hào hứng, phấn khởi. Nghĩ lại hai năm trời thất nghiệp dở mà rùng mình. Hai năm trời chợ búa nấu cơm, giặt giũ trước bao con mắt tò mò dò xét, những lời xầm xì vào ra của những người trong khu tập thể. Hai năm trời không làm tròn trách nhiệm người chồng, người bố. Vẫn có đồng lương nhưng đó là lương thất nghiệp, bảy nhăm phần trăm lương cơ bản. Tất cả gánh nặng chi tiêu dồn vào vai vợ. Mà nào vợ anh có dễ dàng gì cho cam. Công nhân một xưởng sản xuất cân, sản phẩm không tiêu thụ được, xí nghiệp phát lương bằng các loại cân, từ cân bàn, đến cân móc, cân treo. Về nhà, tháo những dây chằng buộc, những túi đựng quả cân, đĩa cân, méo mặt vì lo, vợ anh vẫn còn hài hước:
- Phóng xe ra tới cổng bảo vệ, tất cả cán bộ công nhân hét to: “Nhấc ba de lên cho chúng tớ đèo lương về đây này!” Giám đốc còn định gán lương bằng cân tạ cho bọn em, ba bốn người chung nhau một chiếc vì cân bàn tồn kho quá nhiều. Chúng em kêu lên sếp có lĩnh lương loại vĩ mô ấy thì lĩnh, chứ chúng em không nhận đâu. Sếp quen các thủ trưởng, sếp bán được cân vĩ mô.Chúng em chỉ có thể mang cân vi mô ra chợ đổ cho mấy bà buôn hay gạ bán cho mấy nhà hàng xóm thôi.
Bán cân. Xí nghiệp tính theo giá của xí nghiệp, còn mình làm sao bán được như đầu ra tính trên giấy ấy. Đồng lương đã kém lại càng kém. Toàn đã đi ra chợ bán cân. La cà dãy các bà bán cá, bán tôm, buôn gà vịt, bán hàng khô. Và gặp nhiều người cũng ra bản lương ở các xí nghiệp khác. Người ta cũng mang bán sản phẩm của xí nghiệp gán thay lương nhưng có lẽ chẳng ai khổ như vợ chồng Toàn, chẳng ai khổ như những người làm xí nghiệp cân. Công nhân xi măng lĩnh lương bằng xi măng rời quá ư dễ bán. Hợp tác xã xe đạp, lương trả toàn bằng poóc ba ga, gác đờ bu, cũng khó bán đấy nhưng cũng còn dễ hơn cân. Hay như cái Liên hợp Biển Đông này mới sung sướng làm sao! Được phát lương bằng cá. Cá băng, cá đông. Cá đóng túi ướp đá. Sau này khi anh đã đi làm thi đua ở Biendong Fiscom, cùng anh chị em văn phòng ôn lại cơ đận ấy, cô Phòng cười khanh khách bảo anh:
- Chúng bố lĩnh lương bằng gạo, gạo các tàu chở từ miền Nam ra. Chúng bố lĩnh lương bằng cá. Thật danh giá. Đạp xe ra Ngã Ba là con buôn đã ơi ới ơi ới gọi rồi. Chỉ có cái chán là cá xí nghiệp tính cao. Bán cho con buôn có được thế đâu. Mỗi cân thế nào cũng mất mấy giá.
Và cô tiếp luôn:
- Nhưng chúng bố không sợ. Chúng bố tát nước theo mưa. Lấy mùa bù chiêm. Xuống tàu xin cá. Trà trộn cá xin với cả lương.Đem qua cổng bảo vệ thoải mái.
Cô Phòng có kiểu nói như vậy. Khi mới đến công ty làm thi đua, về sinh hoạt ở văn phòng, ấn tượng mạnh nhất đối với Toàn là cô Phòng. Cô trạc ba nhăm ba bảy tuổi, có biệt hiệu là “bánh chưng đất” vì quê Hải Dương. Con một gia đình trí thức. Bố là một ông giáo già đã về hưu, học trò ông có những người là tướng, là bộ trưởng. Cô có một anh là phó tiến sĩ, còn một cô em gái là nhà văn đã được giải thưởng Tảc phẩm tuổi xanh. Cô cũng có phải dân văn thư chuyên nghiệp đâu. Báo vụ có hạng được đào tạo chính quy đấy. Trong các cuộc thi tay nghề cô luôn nằm trong danh sách năm người đứng đầu. Chỉ đến khi lấy chồng có con (cái con bé bây giờ đã học lớp 5, thỉnh thoảng vẫn theo mẹ ra văn phòng mà cô gọi là con mảnh sành cong này này), không thể làm ca kíp được, cô mới xin chuyển từ đài thu phát trung tâm về công đoàn làm công tác thư viện, rồi khi anh chàng Trần Minh Mẫn ở đâu lù lù về văn phòng công đoàn phụ trách bổ túc văn hóa kiêm thư viện, cô lại chuyển về làm văn thư. Nước da nâu mịn màng, má lúm đồng tiền, mỗi khi cười gò má lại đỏ lên, một thời từng làm chết mệt bao chàng trai kể cả thuyền trưởng Trần Nhân Chơn, cuối cùng lại rơi vào tay anh chàng Nghiêm, kỹ sư vỏ tàu quê xứ Bọ, hiền như đất.
Toàn hòa nhập rất nhanh với công việc ở đơn vị mới. Hai công việc đầu tiên phải làm là căng lại dây loa truyền thanh và viết phiếu đặt hàng đưa chánh văn phòng ký đề nghị xưởng cơ khí làm một bảng tin bằng sắt, chôn dưới gốc bàng. Anh đề nghị phòng tổ chức điều cho một thủy thủ dự trữ cùng anh kéo lại những đoạn dây loa bị đứt. Cậu thủy thủ dự trữ này là người đầu tiên thuộc khối dưới nước mà anh tiếp xúc. Trước tiên anh ngạc nhiên về những gì anh ta mang trên người. Còn rất trẻ. Nhưng diện ngất trời. Quần áo, kính, mũ, đồng hồ, nhẫn vàng và lạ nhất là túi áo túi quần, túi nào cũng có ba số và cứ nhất định ấn một bao vào túi áo Toàn. Mà quần áo anh ta nhiều túi lắm.
- Chú cầm lấy hút.
Đó là món lộc đầu tiên của Toàn ở Liên hợp Hải sản Biển Đông:
- Ớ đâu ra lắm thuốc lá thế.
- Bọn tàu 19 mới về. Mỗi thằng cho vài bao.
Toàn ước tính trên người anh thủy thủ dự bị này phải đến hai cây thuốc lá. Nếu Toàn có chỗ ấy, đó là cả một khoản thu nhập. Anh bóc bao thuốc, lấy một điếu hút. Đã lâu lắm mới đàng hoàng bóc bao thuốc ba số như thế này. Từ ngày còn làm tổng hợp cho giám đốc sở công nghiệp...
Mới kéo được một đường dây từ xưởng lạnh ra phòng đời sống, cậu thủy thủ đã bảo:
-  Vào căng tin nghỉ một tí đã chú ạ. Chú ăn sáng chưa? Ăn rồi cũng cứ vào với cháu. Cháu chưa ăn. Đói lắm rồi.
Mới hơn chín giờ. Toàn chưa đói. Nhưng rõ ràng chẳng thể bắt cậu dự bị công tử này làm việc tiếp, bởi cậu đã cố gắng hết sức cũng như cậu rất nể và kính trọng Toàn, hơn nữa cũng chẳng thể một mình làm cái việc căng dây. Chưa đến giờ cao điểm, căng tin còn vắng. Một bàn bốn thuyền viên đang ăn phở. Cô căng tin béo núc, cúc áo chật căng, da rất trắng bưng cái khay có bốn bát phở nghi ngút khói lên.
-  Sao bát vơi thế em Lan?
-  Thế này mà năm nghìn à?
-  Đắt thế, anh bắt đền em đấy.
Một giọng ồ ồ của người thứ tư, cất lên:
-  Đắt rẻ là phụ thuộc vào mình: Ăn nhiều ớt hay ít ớt.
Tất cả cười ầm. Đúng là ớt năm ấy quá đắt. Và chỉ ngoém một cái, bốn người bốn cái sẻ, đĩa ớt hết veo. Người có giọng ồ ồ chìa đĩa không về phía cô căng tin:
-  Cho thêm đĩa ớt đây em. Nếu hết ớt thì thay bằng thịt cũng được. Giá tiền cũng tương đương nhau ấy mà.
Cánh thuyền viên không biết Toàn, nhưng biết chàng lính dự trữ:
- Khương! Tàu bao giờ đi?
Chàng thủy thủ kéo dây cười:
- Chào các anh. Em lên bờ rồi anh Chất ồ ạ.
Chất ồ, người có giọng nói ồ ồ, tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Đã lên à? Mới đi được hơn hai chục chuyến chứ mấy?
Lại cười đồng loạt. Khương cười khẩy:
- Chính xác là hai bốn chuyến, mười chín chuyến Hong Kong, hai chuyến Sing, ba chuyến Nhật. Kể thì nhiều nhưng cũng không nhiều.
- Càng nhiều càng ít.
Toàn chỉ biết nghe. Khương gọi bia Heineken, một đĩa bò xào. Nâng lên đặt xuống. Bia sủi bọt mát lạnh. Thịt bò mềm. Ba số thơm. Lại thêm hai bát phở. Ăn xong, Khương bảo Toàn nghỉ thôi chú ạ. Ăn xong nặng bụng leo trèo mệt lắm. Chiều chú cháu mình làm tiếp.
Thế là nghỉ. No. Ca cơm mang theo có mấy viên lạc rang mỡ mắm, không dùng đến, không phải vào bếp đặt ghé bên bếp than chung quanh thùng nước của bà Nhàn, vần vần xoay xoay cùng với bao nhiêu người, bao nhiêu ca, cặp lồng khác. Toàn lang thang. Đứng nhìn cầu cảng. Chầu rìa mấy ván tiến lên. Chiều chẳng thấy cháu đâu. Chú đến phòng tổ chức. Không thấy cháu. Lại ra cầu cảng thì thấy cháu từ trên tàu 19 bước xuống. Toàn rảo bước tới gặp Khương: Chiều không làm à? Chú cứ chờ mãi. Mặt Khương đang bừng bừng tức giận: Chú xin người khác đi. Cháu không làm nữa đâu. Rồi Khương trèo lên một chiếc xe máy đen kềnh càng những ống thép mạ kền, hai ống xả sáng chói mắt, ghi đông thì vểnh lên xòe cong ra hai bên, ấn nút khởi động. Xe không nổ. Mấy lần xe không nổ. Co chân đạp. Chỉ rồ lên được một tí lại tắt lịm. Một thanh niên còn rất trẻ đứng cạnh chiếc xe DD đỏ chót mới cứng dựa trên chân chống sát cầu, cạnh mũi tàu HL19 cười:
-  Xe gì thế. Vất đi thôi!
Khương quắc mắt nhìn anh thanh niên:
-  Mày nói gì thế thằng Duy? Nói lại tao nghe xem nào!
- Thay xe đi! Giọng anh thanh niên tên Duy đã có vẻ dìu dịu.
-  Được rồi! Nhớ đấy! Nhớ lấy nhé thằng con giời ạ!
Đám người rải rác trên cầu tàu dừng cả lại chăm chú theo dõi câu chuyện đang có chiều căng thẳng. Duy - cũng là người sang trọng từ đầu đến chân, phủ lên người anh ta là toàn những thứ đồ ngoại đắt tiền - cười cười đùa vui cho bớt căng:
- Đạp như thế một chân to một chân nhỏ về vợ nó không nhận ra đâu!
Không ngờ câu ấy càng làm Khương tức hơn. Đỏ mặt tía tai, lấy hết sức bình sinh đạp cần đề. Xe nổ. Khương điều chỉnh ga, tiếng máy gầm lên nhức óc:
- Tao cho cái xe của mày xuống sông đây này. Mày muốn không?
- Dám à?
Khương dận số, chiếc xe lao tới chỗ Duy. Quá hốt hoảng, Duy nhảy vọt ra, tránh được chiếc xe máy đang phóng thẳng vào mình. Không giảm tốc độ, Khương cho xe lượn sát chiếc xe DD đỏ, co chân đạp mạnh vào thân xe, chiếc xe máy đỏ chót bóng loáng rơi xuống lòng sông. Tất cả kêu lên. Không quay lại, đang đà phóng, anh chàng thủy thủ thuộc lực lượng dự trữ phụ việc căng dây truyền thanh cho Toàn tăng ga phóng ra phía cổng xí nghiệp.
Có lẽ sau khổ chủ Duy, Toàn là người sửng sốt nhất về việc ấy. Mà sao lúc đi căng dây với anh, Khương một điều chú hai điều cháu, ngoan ngoãn, lễ phép, hiền lành đến thế. Nó cả gan đạp chiếc xe máy của người ta xuống sông. Không suy nghĩ đắn đo. Không thương tiếc. Chiếc xe máy có giá trị bằng cả một gia tài. Chiếc xe máy có thể làm bất kỳ ai sở hữu nó, hay chỉ ngồi phía sau ôm eo lượn quanh phố thôi, tăng thêm hàng chục nấc thang giá trị. Cả cầu cảng náo động. Mấy chiếc máy hàn của cánh thợ sửa chữa thôi hoạt động, những tiếng hú inh tai của máy hàn tắt hẳn. Rồi đến tiếng gõ gỉ từ phía đà nổi cũng tắt. Chị em gõ gỉ quần áo, khăn trùm đầu, khẩu trang găng tay một màu gỉ sắt lệt sệt giày ủng đứng xa xa. Tạm ngừng mọi công việc. Người ở các tàu kéo ra cả boong. Chỗ chiếc xe máy rơi đông đặc người. Toàn cũng ra đứng đó, nhìn xuống sông. Chẳng thấy gì. Chỉ có dòng nước đang ròng, trôi ra phía cửa sông, kéo theo rến rác, lá sú, mấy miếng xốp trắng bập bềnh cùng những giọt dầu loang...
Đã qua cơn bất ngờ, bình tĩnh trở lại, khổ chủ Duy ngồi bệt xuống nền bê tông cầu cảng, rồi đứng phắt dậy, chạy tới chiếc xe máy dựng gần đấy, thét lên:
- Anh Thu ơi! Chìa khóa xe anh đâu! Cho em mượn. Em phải sống chết với thằng này.
Bao nhiêu người lên tiếng can ngăn Duy. Hãy bình tĩnh. Việc đầu tiên là lo vớt cái xe lên đã. Ngâm lâu dưới nước mặn là hỏng hết. Chiếc xe nặng thế không trôi đi đâu. Ngay dưới này thôi. Một người bước tới chỗ Duy đang đứng bên chiếc xe máy:
- Chìa khóa đây. Nhưng mày định đánh nhau với nó à? Đánh nhau tay đôi với nó mày thua hay nó thua? Lo tìm người vớt xe đi. Ông Chín lặn tốt đấy. Nói cảng vụ cho mượn cái cần cẩu thiếu nhi. Rồi làm đơn lên giám đốc, lên tổ chức. Tre có chỗ chẻ chứ. Vừa nãy ở trên tàu anh đã thấy nó điên điên. Con giời đang cú. Lên bờ mấy chuyến rồi. Bố nó làm đơn gửi tổng giám đốc xin đi tăng nữa. Nhưng chưa được giải quyết.
Bao nhiêu người bày tỏ sự phẫn nộ về hành động của Khương. Qua những lời bàn tán, đến lúc ấy Toàn mới biết Khương là con ông Nguyễn Thạc, phó giám đốc công an thành phố. Học mãi thi mãi không đỗ phổ thông, đàn đúm ăn chơi với đám bạn bè toàn những đứa như mình, bố mẹ làm sếp, lắm tiền nhiều của, Khương là một trong những thanh niên sành điệu nhất Hải Triều. Con đường hư hỏng đối với Khương khó mà tránh được. Chỉ còn là thời gian thôi. Biết tin Liên hợp Hải sản Biển Đông mới tổ chức cho mấy tàu đánh cá chuyển sang vận tải nước ngoài, ông phó giám đốc công an vội xuống gặp tổng giám đốc Hoàng Quốc Thắng. “Không được đâu anh ơi. Con anh cũng như con tôi.
Nhưng xuống tàu phải có chức danh. Phải qua đào tạo. Giá cháu có một cái chứng chỉ đào tạo ở một trường nào đó, công nhân thôi cũng được thì tốt quá. Anh làm gì không kiếm được cái chứng chỉ ấy”. Ngừng một lát ông cười: “Có thằng cháu nhà anh xuống tàu, chúng tôi càng yên tâm. Anh em có gì sơ suất đã có các anh trên ấy giúp đỡ”. Con anh cũng như con tôi. Tổng giám đốc đã nói rất thực lòng. Ông cũng đã chịu biết bao khổ sở đắng cay vì con cái. Không biết bao nhiêu đêm, ông đạp xe đi (không dám một mình đi xe máy ban đêm) các nơi tìm con. Đến nỗi những người bán hàng đêm khuya các đầu cầu đã quen mặt ông. Họ biết cả con ông và băng đảng của nó. Những đêm tìm con, ông hiểu thêm thế giới ban đêm và càng thấy sự nguy hiểm đã ập đến gia đình ông. Ông đã nhìn thấy nhiều đứa con trai và cả con gái còn trẻ hơn con ông từ đâu ào vào một quán hàng ở bờ sông ăn uống, cười nói, rồi lại ầm ầm phóng xe đèo nhau đi vào lúc hai giờ đêm. Thằng ngồi sau giơ cao kiếm, mã tấu, côn, chùy... hoa múa trên đầu, hò reo như những đoàn quân xông lên giao chiến trên phim ảnh. Ông vội chạy vào hàng nước gọi điện cho cảnh sát 113. Bà hàng nước cười bảo ông: “Chỗ này bao giờ chả có cảnh sát trực. Họ chỉ giải quyết hậu quả thôi chứ không can thiệp đâu. Có hỏi thì bảo: Cho chúng nó giết nhau bớt đi”. Đêm khuya, trong mùi phân hoai nồng nặc ven đê, ông đã mò mẫm gần như nằm rạp xuống đất, nhìn vào sát gầm cầu, bấm đèn pin và thấy một lũ nằm nghêu ngao hát cải lương. Ông đã thấy một cái xác nằm co trên bãi sông, một đàn chuột đang xúm vào gặm đầu và cổ. Theo lời chỉ dẫn của một người hàng nước tốt bụng, ông xông vào một chiếc lều bỏ hoang, kéo tung những cái lõi chăn bông bẩn thỉu, hôi hám thủng rách phủ trên ổ rơm và thấy gần chục đứa còn rất trẻ hoàn toàn trần truồng ngồi bật dậy co rúm vào nhau, trong đó có hai đứa con gái chỉ mười bốn mười lăm đẹp như thiên thần và ông đã lôi được thằng con ông về nhà. Nhưng rồi nó lại bỏ đi. Ông lại đi tìm và lại một lần nữa xông vào nơi tụ tập của chúng nó nhưng lần này không có con ông ở đó và ông bị bọn chúng đuổi đánh, suýt mất mạng, nếu không có một người đàn ông cũng đi tìm con như ông phóng xe máy đến... Ông giám đốc Liên hợp cũng rất thành thật khi nói: Có con anh xuống tàu chúng tôi càng yên tâm. Anh em có gì sơ suất đã có các anh trên ấy giúp đỡ. Ông phó giám đốc công an cũng rất cởi mở và thân mật: Điều ấy anh không cần phải nói. Nhưng cũng phải bảo anh em làm cái gì cũng vừa vừa thôi, giới hạn thôi. Rồi ông chép miệng than thân: Đến khổ vì con vì cái. Ngay hôm sau ông phó giám đốc công an đã đích thân cầm hồ sơ của con trai ông có cả chứng chỉ đã tốt nghiệp khoa boong của trường công nhân kỹ thuật. Và Khương xuống tàu. Khương xuống tàu, đi hơn hai mươi chuyến. Hơn hai mươi chuyến tàu 19 an toàn. Không bị khám. Không bị thu. (Tất nhiên đối với hải quan công an vẫn phải thu xếp cống tiến như đã thỏa thuận trong hợp đồng ngầm). Không xảy ra một hiện tượng đáng tiếc nào, một trục trặc kỹ thuật nào.
Đưa Khương lên dự trữ sau hơn hai mươi chuyến đi nước ngoài là ý kiến của trưởng phòng tổ chức Nguyễn Văn Thục. Lý lẽ của trưởng phòng tổ chức khiến giám đốc thấy thật có lý có tình, khó bác bẻ. Hơn nữa chính ông cũng nghĩ như vậy: Khương là một thanh niên ở đâu đến đây, chưa có một đóng góp nào cho xí nghiệp thế mà được xuống tàu đi nước ngoài ngay, đi liền hơn hai năm nay. Trong khi ấy bao nhiêu cán bộ công nhân cả khối dưới nước lẫn trên bờ cống hiến cho xí nghiệp từ thời còn tàu vỏ gỗ, đánh giã đôi, cho tới thời chiến tranh bắn phá vẫn còn phải xếp hàng chờ đợi. Như thế đã là ưu tiên quá rồi. Hẳn ông phó giám đốc công an cũng nhận thấy điều ấy. Tổng giám đốc nghĩ vậy. Với lại thằng con ông cũng đi tàu vận tải nước ngoài. Hai thằng như vậy đi nước ngoài là không ổn. Lại còn cái mối ân tình với bác sĩ Bá nữa... Để Khương lên bờ dự trữ rồi ta hãy định liệu sau. Tổng giám đốc Hoàng Quốc Thắng gật đầu, bảo Thục:
- Cậu làm quyết định đi. Mình tán thành.
Ông không biết mỗi chuyến tàu đi nước ngoài về cập bến, trưởng phòng tổ chức đều xuống thăm tàu, tươi cười tay bắt mặt mừng với mọi cán bộ, thuyền viên. Sau khi hỏi thăm sức khỏe, là một câu nói xanh rờn, thản nhiên như chẳng có gì quan trọng:
- Tàu chuẩn bị nhé. Chuyến này có một số thay đổi về nhân lực đấy.
Thế là cả tàu nháo nhào lên. Xôn xao. Hoang mang. Lo lắng. Và người ta không ai bảo ai đều tìm tới nhà trưởng phòng tổ chức. Không đến người không. Hẳn rồi. Cũng không đến với những thứ cồng kềnh, những quạt máy, đầu máy khâu, tivi hay tủ lạnh. Những thứ ấy sếp có đủ rồi, thừa rồi. Mà đến với cái phong bì, mỏng thôi bởi không phải phong bì tiền Việt. Mọi chuyến lời báo trước của trưởng phòng tổ chức “tàu, chuẩn bị nhé, sẽ có một số thay đổi về nhân lực đấy ” chỉ là lời báo trước. Nhưng chuyến vừa qua, lời báo trước ấy đã biến thành sự thật. Bởi Thục thấy cần phải biến thành sự thật. Vì đã có những dư luận đến tai Thục. Những dư luận không hay. Nào là thằng ấy luôn khủng bố tinh thần anh em, xóc như xóc cua trong giỏ để gặt hái.
Nào là cái thằng đi biển say sóng không chịu được giờ lên bờ tác oai tác quái. Xuống tàu làm thủy thủ không xong... Với lại cái thằng Khương này chưa một lần đến nhà Thục, chưa một chút quà, nó làm như đã là con phó giám đốc công an thì có thể qua mặt tất cả, coi thường tất cả. Thục cũng biết giám đốc muốn đưa bác sĩ Bá xuống tàu. Chính giám đốc nói với Thục điều ấy. Thu xếp cho ông bác sĩ người dân tộc đi một vài chuyến. Phục vụ viên. Ông ấy kêu quá. Gặp đâu cũng nhăn nhó, xin xỏ, mè nheo. Sốt cả ruột. Bác sĩ Bá thì chẳng lấy đâu ra tiền rồi. Nhưng cũng chẳng phải vì sốt ruột mà sếp cho đi. Mà vì cái chứng thần kinh tọa của sếp. Đủ các thứ thuốc. Các thứ bệnh viện không khỏi. Bá chỉ châm cứu và bó mấy lần bằng thuốc gia truyền. Thế là cái bệnh đau nhói từ hông xuống đến mắt cá chân của sếp biến đi lúc nào không hay. Tổng giám đốc và trưởng phòng tổ chức đã gặp nhau ở một điểm.
Trưởng phòng tổ chức viết quyết định đưa giám đốc ký nhưng giám đốc bảo đã phân cấp rồi, ký quyết định điều thủy thủ là trưởng phòng tổ chức. Có lẽ sếp đã quên. Quy chế là trưởng phòng tổ chức chỉ ký quyết định điều động thuyền viên tàu đi đánh cá. Còn thuyền viên đi tàu vận tải nước ngoài là sếp. Sếp trực tiếp quản. Sếp trực tiếp ký. Càng hay. Càng chứng tỏ vị trí của mình, Thục nghĩ vậy. Thế là quyết định điều động lên khỏi tàu thủy thủ Trần Đắc Khương có chữ ký trưởng phòng tổ chức T/L giám đốc (thừa lệnh giám đốc) được thi hành.
Tưởng thế là xuôi. Nào ngờ lại xảy ra sự cố, ầm ĩ cả xí nghiệp. Chiếc Honda DD nhanh chóng được vớt lên. Xí nghiệp không tính tiền cẩu. Nhưng Duy phải trả tiền cho thợ lặn. Phải đem xe lên phố bảo dưỡng... Tất cả căm phẫn hành động của Khương. Duy thề sẽ trả mối thù này. Chí ít là đưa ra hội đồng kỷ luật. Nhưng thật không ngờ. Duy có quyết định lên bờ về lực lượng dự trữ ngay chuyến ấy. Chính ban chỉ huy tàu lên gặp giám đốc đề nghị đưa Duy lên. Nếu không cả tàu sẽ chết. Cả tàu sẽ bị giết. Xí nghiệp cũng gay chứ chẳng riêng tàu. Duy lên. Khương xuống. Ngay. Không chậm trễ. Khương xuống tàu với quyết định do đích thân tổng giám đốc Hoàng Quốc Thắng ký.
Suốt thời gian kéo dây loa, đặt hàng bảng tin rồi giồng bảng tin, Toàn chỉ nghe người ta nói về chuyện ấy.
Khương đã xuống tàu vận tải nước ngoài. Phụ cho Toàn không phải Duy (Duy đã xin nghỉ phép) mà là Nhược, anh chàng đã đánh chén cả suất cơm của giám đốc Trần Công Bằng ngày nào. Rồi khi cần phải thêm nhân lực để giồng cái bảng tin bằng sắt dài sáu mét dưới gốc cây bàng ở giữa sân thì có thêm cả Thuyền, người thủy thủ to béo đã đi tù về tội buôn bốn ki lô đá lửa. Cả hai đều là thuyền viên của đại phó Phạm Cương, thủ trưởng tàu 307, con tàu có số chuột nhiều hơn toàn bộ số thuyền viên của Liên hợp Biển Đông. Buổi chôn bảng tin lại xảy ra một sự cố nhỏ nhưng vui. Khi Toàn, Nhược, Thuyền đang de chân chèo, cố dựng chiếc bảng tin nằm dưới đất đứng thẳng lên sao cho sáu chân cọc của nó vào đúng sáu cái lỗ đã đào sẵn, giám đốc ở đâu xộc tới:
- Ông Toàn! Chánh văn phòng không nói gì với ông à?
Toàn ngơ ngác:
- Báo cáo tổng giám đốc, không ạ!
- Để đấy đã! Ông vào đây với tôi!
Toàn xoa xoa hai bàn tay đất cát (thật phúc là lúc này lại có hai bàn tay đầy đất cát), bước theo sau giám đốc, vào buồng văn phòng tổng giám đốc, ngơ ngác không hiểu có chuyện gì. Buồng văn phòng tổng giám đốc cũng là buồng làm việc của Toàn. Mặc dù là buồng làm việc của mình nhưng Toàn không dám ngồi mà cứ đứng vịn tay vào chiếc ghế dựa đặt sau bàn làm việc của anh. Giám đốc bừng bừng tức giận bước thẳng tới bàn Điều:
- Ông Điều! Ông Toàn! Hai ông ra đây với tôi! Ra đây!
Điều vội xếp các giấy tờ trên bàn, đặt chiếc cặp ba dây đè lên, rồi đứng dậy theo tổng giám đốc ra ngoài. Toàn đi sau cùng. Tổng giám đốc dẫn hai người tới toa lét.
- Các ông không ngửi thấy gì à? Tôi đã bảo các ông từ hôm qua là cho vệ sinh thật sạch sẽ cái toa lét này cơ mà? Sao các ông không làm? Rồi cho kẻ ngay hai cái bảng đóng lên cửa để phân biệt bên dành cho nam bên dành cho nữ mà các ông không chịu làm gì cả. Việc nhỏ như thế mà các ông không làm được, hỏi còn làm việc gì nữa. Tôi đến chết với các ông mất thôi. Các ông đúng là những thợ nói.
Toàn im lặng. Còn Điều phân trần:
- Báo cáo giám đốc toa lét chiều qua trước khi về đã cho cọ rửa kỹ rồi. Khai thế này là mới từ sáng. Sáng nay nước lại bị cắt...
Tổng giám đốc lắc đầu chán nản:
- Mới từ sáng đến giờ đã khai nhức óc lên thế này. Phòng ban nào cũng vậy. Làm việc thì ít. Uống chè thì nhiều. Uống chè rồi đi đái. Đúng là ăn hại đái khai. Chỉ lo tiền mua chè với đun nước sôi cho mấy ông cũng đủ chết. Ông cho người gánh nước từ bên bể xưởng lạnh về đây. Cọ ngay cho tôi. Ông Toàn vẽ ngay cho tôi hai cái biển. Như ở các khách sạn ấy. Một cái dành cho nam. Một cái dành cho nữ. Ông hiểu ý tôi chứ? Ông đã đến khách sạn bao giờ chưa?
Toàn lí nhí:
- Rồi ạ.
- Bên dành cho nam vẽ cái đầu đàn ông dưới viết Gentleman, bên nữ vẽ cái đầu đàn bà dưới đề Lady. Đây. Ông có biết tiếng Anh không? Tôi viết ra cho ông đây. Cứ thế mà làm. Hay là thôi, để sau cũng được. Trước mắt lo cọ ngay cái toa lét. Đi mãi xa, chưa vào đến sân đã ngửi thấy mùi khai rồi. Không ra làm sao cả. Bước vào xí nghiệp là thấy mùi khai. Mũi các ông điếc hết cả rồi à? Ông biết khách sắp đến rồi chứ. Cái toa lét là bộ mặt của xí nghiệp ông hiểu chưa? Khách quốc tế đến một xí nghiệp thực phẩm, ngửi mùi nước đái người ta đã khiếp còn nói gì chuyện làm ăn.
Ông giơ tay xem đồng hồ:
- Thằng cha Robert Lee sắp đến rồi đấy.
Sếp lên phòng sếp. Điều làu bàu:
- Có cái toa lét chứ cái đếch gì đâu mà cứ nhặng lên. Thôi ông Toàn, ông bảo hai thằng dự bị ngừng việc chôn bảng tin lại, để đến chiều, lên đây lấy xô, cọ nhà xí. Còn ông đi lĩnh sơn, kẻ bảng treo ngay lên cho tôi.
Phải nói sếp rất quan tâm đến cái toa lét. Nó nằm sát ngay cửa văn phòng tổng giám đốc và ăn hoắm vào chân cầu thang, bên dưới chỗ chiếu nghỉ, lối lên tầng hai, trên ấy là nơi tổng giám đốc và các phó tổng giám đốc làm việc. Cái toa lét mới được sửa lại, nền lát gạch men, tường ốp gạch men trắng muốt, với những bàn cầu, những trang bị tiểu tiện gắn vào tường cho nam và những nơi vệ sinh cho nữ. Có đèn tuýp, có gương, có la va bô rửa tay. Và cũng có cả vòi nước để rửa chân. Đúng là chỉ trông thôi cũng thấy mát mẻ, hiện đại. Khác hẳn cái nhà toa lét cũ, cũng là cái này nhưng tường gạch, nền láng xi măng, cặn nước giải bám trên rãnh cáu khú vàng khè, cọ rửa thế nào cũng chẳng hết mùi.
Chánh văn phòng nói tiếp:
- Hôm qua sếp bảo kẻ hai cái biển ở toa lét thì cứ nghĩ lúc nào kẻ mà chẳng được. Hôm nay ông dựng bảng tin. Mai kẻ. Nào biết đâu phải có biển ngay để đón thằng cha Robert Lee. Nó đến để bàn kế hoạch làm ăn chứ nó đi vào xem toa lét làm gì. Nhưng thôi, ông cứ kẻ ngay đi.
- Nó đầu tư cái gì hở anh?
- Thằng này quốc tịch Mỹ chuyên buôn bán cá. Nó gặp ông sếp nhà mình ở Singapore. Cái dự án xuất cá ướp đá thẳng từ ngư trường sang Sing mà ông Thắng đề ra là sau buổi gặp nó. Nó muốn sang khảo sát các thiết bị phương tiện đánh bắt của mình. Cách thức muối ướp. Phương tiện vận tải. Nếu cần nó sẽ đầu tư cho mình tàu thu gom muối ướp đá trên biển. Dự án lớn lắm. Ông Thắng rất hy vọng. Nếu thành công thì đây sẽ là cứu tinh của xí nghiệp.
Nghe biết vậy thôi. Mãi sau Toàn mới hiểu được những con tàu đang vận tải cá ra nước ngoài kia là chỉ chở cá đông lạnh. Mà năng lực sản xuất của xí nghiệp chủ yếu lại là những con tàu đánh cá ướp đá. Tàu đánh cá ướp đông thiết bị ngày một kém, càng đánh càng lỗ, đã tìm được lối thoát là vận tải hải sản đông lạnh cho các công ty hải sản xuất khẩu, trong khi ấy các tàu đánh cá ướp đá cũng trong tình trạng thiết bị xuống cấp, ngư trường ngày càng ít cá, càng đánh càng lỗ nhưng vẫn chưa tìm được lối thoát. Và bây giờ một hy vọng được nhen lên là ông khách người Mỹ Robert Lee, cái ông khách sắp đến xí nghiệp.
Dưới sự hướng dẫn của chánh văn phòng, Thuyền, Nhược, hai người vớ hai cái xô trong kho cái Tám và mượn hai cái nữa của phòng công đoàn, xách nước từ xưởng lạnh băng qua sân huỳnh huỵch, huỳnh huỵch vào trong toa lét cọ dội ào ào.
-  Làm thật sạch hộ tôi các bạn nhé. - Chánh văn phòng vào tận nơi chỉ trỏ - Tí nữa ông sếp ông ấy vào kiểm tra đấy. Tính ông ấy là cứ phải làm ngay như thế.
Và quay lại nói với đám nhân viên các phòng ban đang lượn lờ gần toa lét:
-  Tôi xin các bố các mẹ có đi đái chịu khó sang xưởng lạnh mà đái nhé. Chỗ này cọ sạch là để làm mẫu đấy, không phải chỗ toa lét đâu. Các bố các mẹ đái còn tôi lĩnh đủ đấy.
Có tiếng cười:
-  Thế thì ông Toàn phải kẻ dòng chữ vào đây: Cấm đái.
Một người gầy gò da xám ngoét răng nâu xỉn, cười cười nói với một phụ nữ cao lớn, xinh đẹp hai má ửng hồng rừng rực khí thế:
- Liễu ơi. Có sang xưởng lạnh toa lét cho anh gửi một bãi nhé. Xa lắm anh không đi được đâu.
Cô gái tên Liễu, nhân viên phòng tài vụ lườm nguýt:
-  Anh rủ thêm người nữa đi. Hai người mới đầy. Mình anh chỉ được một góc thôi.
Càng cười giòn giã. Chánh văn phòng bảo với anh chàng gầy gò xám ngoét vừa nói:
- Thằng Lập mà vào đây đái tao cắt dái. Gửi được ai cứ gửi.
Khi công việc dọn nhà xí đã xong, đám đông đã giải tán, chánh văn phòng đã vào tận nơi hít hít, gật đầu tỏ vẻ hài lòng, không những thế còn bảo cái Tám tiếp tân xịt thêm một ít nước thơm, hai anh thủy thủ dự trữ sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chưa muốn trở về quan tài sắt ngay, còn đang ngồi cả ngoài hành lang xem Toàn lúi húi vẽ hình một người mặc váy, bên dưới đề chữ Lady (Quý Bà) thì khách đến. Tổng giám đốc đã ngồi chờ ở sa lông trong văn phòng. Một chiếc ô tô sáng bóng, lượn vào và dừng ở giữa sân. Lái xe mở cánh cửa phía sau, nghiêng người, giang tay nhìn vào trong xe. Một người từ trong xe bước ra. Như chỉ đợi có vậy, tổng giám đốc đứng bật dậy, tươi cười sải những bước dài ra sân, cái sân mới được phủ một lớp xi măng cát, láng một lớp phù sa, dấu vết của những ngày nước lớn tràn vào lếnh láng một nửa sân hơi dốc.
- Chào ông Robert Lee.
Hai người ôm lấy nhau vỗ vỗ vào vai nhau như những chiến hữu lâu ngày mới gặp. Khách là một người nhỏ nhắn, ăn mặc giản dị, da nâu, có cái trán bị bóp lại, khuôn mặt càng xuống phía dưới càng to ra, điểm cực đại là chỗ bắt đầu xương quai hàm dưới, từ đó cái cằm đưa ra, môi dưới dày hơi bị thưỡi trong khi môi trên lại mỏng. Trông rất bình thường nếu không nói là bẩn tướng, ấy thế mà lại là một nhà tư bản kếch sù, buôn bán xuyên quốc gia.
Chủ khách dắt tay nhau lên gác. Chánh văn phòng Điều cắp cặp theo sau.
Toàn, Thuyền, Nhược cùng nhìn theo ba người đang vui vẻ lên từng bậc thang. Bỗng Toàn nghe thấy tiếng Thuyền bên tai:
-  Quen quá. Lạ quá nhỉ? Hay là...
Thuyền đứng thẳng lên, ngây người lẩm bẩm:
-  Robert Lee à? Đúng rồi. Không chệch đi đâu được. Sao lại có thể thế được nhỉ?
Toàn hỏi anh thủy thủ to béo:
-  Anh quen à?
-  Quen. Nhưng không biết có đúng không.
Nhược cười:
-  Thấy người sang bắc quàng làm họ. Người ta là một nhà tư bản bên Mỹ, còn mình là thằng thủy thủ dự bị mà cứ nói quen. Thôi về tàu đi bố.
Nhược về. Thuyền không về. Thuyền ở lại xem Toàn kẻ chữ Ladyvà chờ ông khách Robert Lee xuống. Dù có phải chờ đến trưa. Nhưng Thuyền không phải chờ lâu. Có tiếng giám đốc cười nói:
-  Mời ông đi thăm quan xí nghiệp. Có thể nói xí nghiệp chúng tôi là xí nghiệp đầu đàn trong ngành. Ta mời khách ra xem cầu cảng, xem tàu trước đã ông Điều nhỉ.
Khi tổng giám đốc, ông khách Mỹ và chánh văn phòng trịnh trọng xuống hết bậc thang cuối cùng, đi qua cửa toa lét không còn tí mùi khai nào và bước dọc hành lang, tiến về chỗ Thuyền, Thuyền buột kêu lên khe khẽ:
-  Đúng rồi! Nhọ...
Và đứng lên nhìn thẳng vào Robert Lee. Ông khách Mỹ sững lại:
-  Ai như... Ôi! Anh Thuyền! Thuyền Lồn!
Hai người ôm lấy nhau. Ghì chặt. Đẩy nhau ra. Nhìn vào mặt nhau. Rồi lại ghì chặt. Đấm vào lưng nhau. Ép má vào nhau. Thuyền thì thầm rất khẽ vào tai Robert Lee chỉ đủ để một mình Robert Lee nghe thấy:
-  Lý Sinh Keng! Nhọ mõm. Nhọ mõm!
Và Robert Lee đáp lại cũng bằng những tiếng thì thầm:
-  Thuyền Lợn! Thuyền Lợn!
Họ nhìn vào mặt nhau cười lớn.
-  Anh làm ở đây à? Chiều gặp nhé. Bây giờ tôi còn phải theo ngài Tổng giám đốc đi làm việc đã. Thế nào chiều cũng gặp đấy. Anh cứ chờ tôi ở sân này.
Nói rồi Robert Lee chạy tới ô tô, mở cửa xe, lấy ra một cây ba số đưa cho Thuyền:
-  Cầm lấy hút tạm. Chiều nói chuyện nhiều. Thật không ngờ gặp anh ở đây. Chiều nhé. Cuộc sống ổn không?
Thuyền chỉ cười ổn ổn.
Khách đã đến rồi. Sếp đã cùng khách xuống tàu rồi. Chẳng cần làm cấp tập cái hình người đàn ông với chữ Gentleman nữa. Toàn thu dọn đồ nghề, bút lông, mấy hộp sơn màu đem vào cất ở góc phòng, đi ra hành lang phía sau nhìn ra cầu cảng. Thuyền cũng đứng đó. Cũng nhìn về phía ba người chủ và khách đang leo lên cầu thang dốc ngược bước vào cabin tàu HL 406 sơn đỏ đỗ áp cầu, nổi dềnh lên để lộ gần hết mạn tàu vì tàu đã bốc hết hàng, vì nước lớn. Ôm cây ba số, Thuyền vẫn còn chưa hết xúc động, nắm tay Toàn, gần như kéo Toàn đi:
- Ra căng tin uống cái gì thôi chứ sếp?
Hai người ra căng tin. Bia ướp lạnh nhưng vẫn bỏ thêm đá. Thuyền bóc bao ba số, ấn một bao vào tay Toàn:
- Sếp cầm lấy hút, sếp mới về xí nghiệp à? Thảo nào lên trên phòng ban bao nhiêu lần hôm nay mới gặp sếp. Cái thằng cha Robert Lee này chính tên là Lý Sinh Keng. Trời ơi cứ tưởng đón ông Robert Lee mắt xanh mũi lõ nào cơ. Cọ rửa nhà xí tí chết. Khớ khớ. Không còn tí mùi nước đái nào. Xách nước bại cả tay. Lại xịt thêm dầu thơm nữa. Nếu tôi biết nhà doanh nghiệp Mỹ Robert Lee chính là Lý Sinh Keng thì tôi đã đề nghị tổng giám đốc huy động thêm một số anh chị em đái thêm một chập nữa. Thì thế. Khớ khớ. Điều đó rất có lợi cho xí nghiệp. Có thể vì vậy mà hợp đồng được ký kết cũng nên. Khớ khớ. Bởi vì doanh nhân Mỹ Robert Lee này đặc biệt thích mùi nước đái. Thế. Thì thế mà lại. Khớ khớ. Thật mà. Ớ trong tù chúng tôi gọi là Keng nhọ mõm. Vì mồm lúc nào cũng như nhọ, cũng như vừa ăn sắn nướng xong mà không chùi mép. Còn tôi to béo nên anh em gọi là Thuyền lợn. Gọi vui thôi không ác ý gì đâu. Với lại cái tên ghép ấy mà. Hai thằng tù với nhau mãi. Bố ấy lại không có tiếp tế. Vợ bỏ. Tôi thì nhận tắc đều đều. Có gì tôi cũng chia, cũng cho ăn chung. Thì sếp tính cả toán chỉ có hai anh em người Hải Triều thôi, nhiều nhặn gì cho cam. Tù lâu hơn tôi. Mà bây giờ khá thế đấy. Thủy thủ bên Vosco. Cũng buôn lậu. Tôi ra, tay ấy còn tù. Mà bây giờ nên người. Ha ha. Sướng. Ai ngờ đâu mình lại quen với thượng khách của tổng giám đốc. Khớ khớ. Lại nghĩ đến cái nhà xí. Cái nhà xí trong tù ấy mà, không thể tả được đâu. Khai chảy nước mắt nước mũi. Thế mà chẳng mấy tối tôi với Lý Sinh Keng tức là cái ông Robert Lee này này không đun đun nấu nấu ở trong ấy. Mà đâu chỉ mình mình đun. Bao nhiêu người nữa chứ. Khói không mở được mắt. Mồ hôi mồ kê. Thế. Thì thế mà lại... Ai ngờ lúc vượt biển ra đi là đồ phản quốc mà khi trở về lại danh giá thế!
Suốt từ ấy cho đến trưa gần như chỉ một mình Thuyền nói. Thuyền nói hai người gặp nhau ở trại Tân Lập. Rồi cùng chuyển lên trại Phố Lu. Được cái không bị quản chế. Mà là tù tự giác. Tự giác có đỡ hơn nhưng cũng đói lắm. Thích nhất là gánh phân hay lấy lá làm phân xanh. Nhổ được sắn. Nhổ của trại. Nhổ của đồng bào. Thuyền cười lớn:
- Một hôm tôi với ông Robert Lee này này đang cùng anh em ngồi nhổ cỏ vườn rau của trại, nắng quá, nắng hơn hôm nay, có mấy bà người dân tộc địa phương đi qua, tự nhiên Nhọ mõm lại ngẩng lên rền rỉ: Bà ơi! Bà thấy chúng tôi tù thế này bà có thương không hở bà? Một bà trả lời đốp chát: Thương gì mà thương. Có nương sắn của chúng tôi các anh nhổ hết còn thương cái nỗi gì? Thế là tất cả chúng tôi cười ầm. Khớ khớ. Nhưng có cái này phải công nhận. Gầy gò nhỏ bé, làm việc nặng không được, thường xuyên phải ăn mức mười ba cân (gạo), nhưng Lý Sinh Keng à không phải Robert Lee khơ khớ khớ cứ quên thôi này cái tên Robert Lee nghe hay nhỉ, nghe rất Mỹ mà dễ gọi. Lại vẫn giữ được cái họ Lý của mình. Lý là họ phải không sếp. Còn Robert là tên. Phương T ây người ta để tên trước họ có đúng không sếp. Ây là tôi cũng nghe nói thế chứ chữ Tây chữ Tàu là tôi mù tịt. Đang nói cái gì nhỉ? À. Nhớ ra rồi. Đang nói đến trong tù Lý Sinh Keng yếu nhưng rất nhanh. Rất tháo vát. Tôi chưa từng đi đến một bản làng nào, một nhà dân nào thế nhưng Keng nhọ mõm đâu cũng biết. Trùm phe đấy. Anh muốn mấy quả trứng gà bồi dưỡng? Có ngay. Một chai con con mật ong? Nói sáng là chiều có. Kể cả rượu cũng có. Bỗng dưng thấy đã là mùa mít, thèm mít và cần chục múi ư? Có ngay. Cứ vải mưa đem đi là khi về cái gì cũng có. Không vải mưa thì tiền mặt cũng được. Tiền mặt chứ không phải tiền âm phủ đâu. Còn những bánh mì, thịt kho, thuốc lá là những thứ có sẵn trong trại không nói làm gì. Những thứ ấy có thể mua bằng tiền âm phủ [1].
Và Thuyền cười sảng khoái:
- Khớ khớ khớ. Thật là hay! Tự nhiên sáng nay lại được điều đi giồng bảng tin cho sếp mới được gặp bạn cũ. Chiều nay ta cố gắng hoàn thành sớm nhé. Để anh em tôi có thời gian hàn huyên tí chút. Chắc chẳng thể tránh được một chầu lên bờ xuống ruộng.
Buổi chiều ba người, cả Nhược nữa kết thúc công việc sớm. Lúc Toàn và Nhược đang mỗi người một đầu bảng tin giữ cho nó đứng thẳng và Thuyền đang ngắm lại một lần nữa trước khi chèn gạch vỡ, đá vụn vào sáu cái chân cột dưới tán lá gốc bàng và chờ Robert Lee thì tổng giám đốc bước tới. Ông hất hàm về phía Thuyền:
-  Đồng chí... gì nhỉ?
-  Báo cáo thủ trưởng tôi là Thuyền. Lê Văn Thuyền ạ.
-  Đồng chí quen Robert Lee đấy à?
-  Vâng ạ.
-  Lâu chưa?
-  Khoảng hai chục năm rồi ạ.
-  Ông ấy vượt biên năm nào?
-  Năm bảy chín.
-  Ớ nhà ông ấy làm gì?
-  Báo cáo thủ trưởng. Thủy thủ bên Vosco.
-  Tôi mời ông ấy đi ăn cơm tối. Nhưng ông ấy nói đã hẹn với đồng chí rồi. Có gì trong bữa ăn, đồng chí nói thêm vào dùm nhé. Ông ta còn ngại khoản máy lạnh trên tàu 600 mã lực. Hơi bị cũ. Nếu ký được hợp đồng, mình sẽ phải đầu tư phục hồi sửa chữa chứ. Đồng chí đang là lực lượng dự trữ à? Bao lâu rồi? Được. Được. Để rồi sẽ tính...
Chẳng biết giám đốc sẽ tính cái gì. Mà có tính cái gì chắc cũng là điều tốt đẹp thôi. Với lại khi sếp chưa nói thì mình chưa thể hỏi. Buổi tối với Robert Lee rồi cuối cùng cũng đến. Ô tô đón Thuyền từ sân xí nghiệp.
Thuyền bước lên xe trước con mắt ngạc nhiên, thèm thuồng của bao nhiêu người đang thập thò ở cửa buồng làm việc, chờ kẻng tan tầm. Một bữa ăn sang trọng tại nhà hàng. Hai người trong phòng nhỏ. Xúp vây cá khai vị. Rượu uyt ki. Tôm hùm nướng. Thịt nhím xào sả. Một cô phục vụ váy ngắn đứng chờ ở phía ngoài cửa phòng sẵn sàng bước vào khi có lệnh của thực khách. Cuối tiệc còn có một phong bì với ba tờ đô. Họ không nói chuyện làm ăn. Mà nói chuyện tù. Bắt đầu là câu chuyện sếp Thắng quát tháo về cái toa lét khai mù, chính Thuyền phải xách nước từ xưởng lạnh lên cọ rửa để đón ngài Robert Lee. Rồi đến cái nhà mét trong tù. Ông khách Mỹ gốc Việt ngả ưỡn người trên ghế làm ra vẻ mơ màng:
- Ôi! Cái mùi khai đến cay mắt ấy.
Và cười rinh rích:
- Ông về nói với tổng giám đốc là tổng giám đốc làm hỏng hết việc rồi. Nếu còn cái mùi khai nhớ nhung thân thương ấy thì hợp đồng đã được ký ngay buổi chiều. Ông tư bản Mỹ gốc Việt này đặc biệt thích mùi khai. Sở dĩ hợp đồng còn lằng nhằng chưa ký là vì không có mùi khai đấy.
Lại cười:
- Mai tôi phải vào toa lét xem thế nào mới được.
Một lúc sau Robert Lee như nói một mình:
- Giờ đây nghĩ lại vẫn rợn người. Giá ngày ấy ông nghe tôi, đi với tôi có phải bây giờ khác rồi không?
Thuyền như đã suy nghĩ rất nhiều lần chuyện ấy:
- Ngày ấy đi là không có ngày về. Đi là mắc tội phản quốc. Mà tôi còn bố mẹ già. Đâu biết đi rồi lại được về, trở thành Việt kiều yêu nước, đón tiếp trọng vọng thế này. Với lại con người tôi ông biết. Chỉ ăn no vác nặng thôi. Đâu tháo vát nhanh nhẹn được như ông.
Rồi Thuyền kể những ngày lao vào kiếm sống sau khi mãn hạn tù. Mình thì xí nghiệp đã cho trở lại đi làm. Nhưng bữa đực bữa cái không đủ sống. Còn bốn cái tàu há mồm nữa phải lo. Tối đêm, tôi với thằng nhớn ra bờ sông khiêng về nhà một miếng sắt không biết nằm ở đấy từ bao giờ. Đục khuôn dép. Khuôn dép trẻ con. Vì tôi đã nghiên cứu trẻ con là hay đánh rơi dép nhất. Người ta chỉ làm khuôn hai chiếc một, giỏi lắm là hai đôi bốn chiếc, tôi chơi cái khuôn tám chiếc. Thế rồi bốn đứa con lớn bé chặt băm dép cũ, màu xanh để riêng, màu đỏ để riêng, màu nâu để riêng, hòa xà phòng bột rửa sạch, xếp vào khuôn nướng trên bếp than. Khổ lắm. Vất vả suốt đêm. Mùi nhựa khía vào hai lỗ mũi, bật máu. Kiếm ăn được. Đàng hoàng. Nhưng ông phòng thuế đến. Thì cũng chỉ mất bữa rượu thịt chó thôi. Nhưng ông công an đến, truy hỏi nguồn gốc của miếng thép làm khuôn thì gay rồi. Đòi xuất trình hóa đơn chứng từ của công ty kim khí hóa chất. Đây là mặt hàng nhà nước độc quyền quản lý. Ông thấy khó sống không? Miếng thép vất ở bờ sông không sao. Mình đem về làm một việc có ích cho xã hội thì lôi thôi. Biết các ông vòi đây, muốn ăn đây. Lại phải một chầu thịt chó nữa thêm vào mỗi ông hai đôi dép trẻ con. Làm được mấy năm, khi hàng nhựa Trung Quốc vào, phải chuyển sang làm máy xay xát.
Ông Việt kiều yêu nước chia sẻ với bạn:
- Tôi sang bên ấy những ngày đầu cũng vất vả lắm. Vất vả không kém trong tù. Nhưng rồi lại nghĩ phải làm sao mở mày mở mặt với đời. Thế là lại cố. Lúc nào thư thái tôi kể cho ông nghe.
Nhấp một ngụm rượu, ông tiếp:
- Vấn đề là phải có nhiều tiền ông Thuyền ạ. Tôi đã rút ra được điều ấy. Ai có tiền người ấy là chủ xã hội. Tiền mua được tất cả. Cái gì tiền không mua được thì nhiều tiền sẽ mua được. Có tiền, người ta sẽ phải phủ phục dưới chân ông. Không có tiền ông chỉ là cục cứt. Trước khi về đây, tôi đã nằm ở Hà Nội nửa tháng. Gặp nhiều kiều khác cũng về tính nước làm ăn. Gặp nhiều quan chức cỡ bự. Tôi biết. Không gì mạnh bằng tiền. Người ta nói thế này thế nọ nhưng ai cũng thích tiền. Nói một đằng nhưng nghĩ và làm một nẻo. Nói cách mạng nhưng thích tiền. Đô la là nhất. Tiền Việt cũng không đứng hạng nhì đâu. Bởi thế bạn ơi, bạn phải có tiền. Tôi có thể biếu ông dăm ba trăm thậm chí một nghìn đô. Nhưng chẳng giải quyết được vấn đề gì. Cái chính là tạo ra công việc cho ông để ông kiếm được tiền. Nếu việc mua cá đá của công ty Biển Đông suôn sẻ, ông sẽ là đại diện cho tôi ở đây. Được không?
Một điều Thuyền chưa hề nghĩ tới. Một điều trên cả tuyệt vời cầu mong thành hiện thực. Cầm cái phong bì ba trăm đô của bạn, Thuyền nghĩ ngay tới cái máy xay xát cọc cạch đặt ở nhà, không ngày nào không giở chứng. Thằng Trịnh con nhớn anh luôn miệng kêu ca cằn nhằn, chân tay bê bết dầu mỡ vì sửa chữa. Kỳ này phải thay một cái máy mới hoàn toàn. Mô tơ ngoại. Đi lại đường dây điện. Thay mới cái cầu dao điện ba pha. Thiếu thì lấy tiền bán máy cũ bù vào...
Chú thích:
[1] Tiền âm phủ: Số tiền được ghi trong một tờ giấy có xác nhận của giám thị trại tù.
- II -
Hôm sau, xuống chiếc tàu bẹp, đưa cho Phạm Cương bao ba số, vừa mới giải thích đôi điều về lai lịch của bao thuốc lá với Cương, đã có người trên văn phòng xuống gặp Thuyền:
- Anh lên ngay giám đốc gặp.
Dường như giám đốc rất hy vọng vào việc xuất cá đá này. Ngồi thẳng người trên xa lông, đối diện với giám đốc, nhìn cái Tám, cô gái thon thả trẻ trung phục vụ tiếp khách cho giám đốc bưng ấm trà ra, ngón tay cong cong rót nước vào chén sứ, rồi khẽ khàng đi sang buồng bên, anh cảm thấy mình như đã là đại diện của một công ty nước ngoài, một đối tác với Liên hợp Biển Đông rồi.
- Sao? Hôm qua tốt chứ hả?
Thuyền thuật lại tất cả, kể cả ý định của Robert Lee muốn anh sẽ làm đại diện tại Việt Nam khi công việc trôi chảy. Tổng giám đốc tươi cười:
- Được thế càng tốt. Trước mắt tôi sẽ nói tổ chức chuyển đồng chí xuống tàu sản xuất. Xuống ngay tàu 600 làm chế biến trưởng. Đánh cá đá xuất thẳng. Ngay chuyến đầu tiên. Có đồng chí, chắc Robert Lee sẽ không làm khó dễ. Hộ chiếu đồng chí có chưa nhỉ. Để tôi bảo tổ chức làm ngay cùng đợt với tàu. Tàu đang làm đấy.
Chỉ ngày hôm sau, anh đã nhận quyết định xuống tàu 600 mã lực với chức danh chế biến trưởng, rồi đi chụp ảnh làm hộ chiếu, đúng như giám đốc nói, chấm dứt chuỗi ngày tháng lê thê nằm canh quan tài sắt.
Cương, Nhược, Thuyền, Kích bốn người làm một bữa liên hoan chia tay. Không căng tin, không nhà hàng. Làm ngay tại tàu. Vừa ăn. Vừa nằm. Vừa ngồi. Nó mới sướng. Chúc cho một thằng thoát kiếp dự trữ thường xuyên. Chúc cho một thằng nhờ tận đâu đâu đã thoát khỏi kiếp thủy thủ dự trữ nhọc nhằn. Và có thể sẽ nên người.

Từ khi Toàn về thay Giò Tìu, công tác thi đua đã có những thay đổi đáng kể. Sau một thời gian quá dài không được làm việc, Toàn lao vào công việc với một nhịp độ “như điên”. Sau khi giồng bảng tin và căng xong dây truyền thanh, Toàn mời một nhà nhiếp ảnh về chụp toàn bộ cầu cảng, làm một cái panorama bốn kiểu ảnh ghép lại lồng khung kính treo ở văn phòng giám đốc, chỗ Toàn và chánh văn phòng ngồi làm việc. Trưởng phòng điều độ trông thấy thích quá, đề nghị phóng thêm một bộ treo ở điều độ, rất tiện lợi trong việc theo dõi cầu bến, xếp tàu. Toàn còn lên đài phát thanh thành phố ký một hợp đồng mua ăm li, mắc thêm loa. Rồi gửi tàu đi nước ngoài mua micro mới... Cũng có trục trặc kỹ thuật đôi chút. Ây là khi bàn giao, anh kỹ thuật cơ công nhất định đòi bản vẽ mà anh cán bộ kỹ thuật đài truyền thanh nói là không có, chúng tôi đã làm hàng trăm hệ thống loa đài cho các xí nghiệp không thấy nơi nào đòi bản vẽ cả, bên A chỉ cần biết hệ thống loa chúng tôi mắc song song. Anh kỹ thuật cơ công nhất định không chịu chấp nhận, không thể đồng ý với cách làm việc thủ công như thế. Cuối cùng Lê Xuân Vân, phó thư ký công đoàn phải đến giải quyết. Vân hỏi Toàn về số loa đã mắc, vị trí các loa, về công suất ăm li. “Bác bật công tắc tôi xem”. Vân bảo Toàn. “A lô a lô. Chúng tôi thử hệ thống loa. A lô. A lô”. Tiếng loa trên các nóc nhà vang khắp xí nghiệp.
Vân quay lại nói với anh cán bộ kỹ thuật đài truyền thanh:
- Tôi nghiệm thu. Hệ thống loa vận hành tốt. Cám ơn các đồng chí.
Buổi nghiệm thu kết thúc. Nhưng còn bữa cơm liên hoan tại căng tin đang chờ đợi. Anh cơ công chắc tự thấy không có đóng góp gì cho buổi nghiệm thu, không những thế lại còn gây khó khăn, và cũng để phản đối cách làm ăn luộm thuộm, thiếu khoa học nên là người ra về đầu tiên. Anh cán bộ đài phát thanh đã nổi cơn tự ái, cũng nhất định ra về. Bốn suất ăn với đầy đủ bia, thịt gà, chả cá thu, sườn ninh khoai sọ, tim gan xào thập cẩm giải quyết sao bây giờ. Toàn sang văn phòng công đoàn mời Vân đi ăn, Vân lắc đầu quầy quậy. “Ai lại thế. Giá không có cái chuyện ông Nhự hâm bên cơ công cứ nhất định đòi bản vẽ để em phải sang giải quyết thì em đi với bác ngay. Đằng này mình giải quyết, rồi mình đi ăn. Hơi thô, bác thông cảm”. Toàn báo cáo khó khăn ấy với chánh văn phòng Điều. Điều cười: “Yên tâm. Để tôi giải cho. Kiếm người làm khó chứ kiếm người ăn dễ ợt”. Chánh văn phòng vận động cô Phòng văn thư. Phòng giãy nảy: “Không đâu. Nhét. Khơ ra sô!” Chánh văn phòng cười ngặt nghẹo: “Lào giáp Căm-pu-che!” Đấy là câu chào của chị Nhuệ, tạp vụ nấu nước ngày trước. Cái dạo tàu Liên Xô vào nhiều, gặp thuyền viên Liên Xô nào chị cũng cười rất tươi, để lộ mấy chiếc răng vàng lấp lánh: Dờ-đáp-tơ-vui-che. Và Huy, chính Huy, đại phó HL 19 bây giờ đã Việt hóa lời chào tiếng Nga ấy bằng một câu thật dễ nhớ: “Lào giáp Căm-pu-che”. Lào giáp Căm-pu-che cô Phòng xong, đi tìm bà Nga. Bà Nga đồng ý ngay. Toàn gật gù: Đúng. Bà Nga là cộng tác viên tương lai của đài. Khi đọc phải có giọng nam giọng nữ chứ. Người thứ ba là trưởng phòng điều độ Đức. Cũng lại rất chính xác. Điều độ là đầu mối của mọi tin tức trong xí nghiệp. Toàn và Điều sang điều độ. May Đức vừa từ ngoài cảng về, theo sau là ba người khách. Đức ngồi vào bàn, những người khách kéo ghế ngồi quây phía đối diện. Tặng phó phòng ngồi ở bàn phía ngoài nhưng tất cả không ai để ý đến, coi như không có Tặng ngồi đấy. Dường như họ đang tiếp tục cuộc tranh luận dở dang. Đức giơ tay chém chém vào không khí, giọng oang oang, gay gắt:
- Tôi phản đối cách làm như thế. Yêu cầu các thuyền trưởng Lát phải ký vào biên bản. Tàu phải có người trực chứ! Tàu Lát nào cũng phải có người trực.
Một người khách tóc bạc trắng lễ phép:
-  Tôi đã báo cáo giám đốc của tôi rồi. Cái này lỗi không phải của chúng tôi. Giám đốc của chúng tôi sẽ sang thưa chuyện với anh sau.
Đức dường như vẫn đang cơn say máu:
- Các anh cứ bảo một Lát vào làm ma nơ hết hai triệu đắt quá. Nhưng các anh làm ăn như vậy, chúng tôi làm sao bốc được hàng.
Những người khách tỏ vẻ biết lỗi. Họ đứng lên nắm tay Đức ân cần:
- Chúng tôi sẽ rút kinh nghiệm. Lần đầu tiên. Mong anh thông cảm.
Lúc họ vừa bước ra, Đức như chợt nhìn thấy chánh văn phòng và Toàn, anh cười rất tươi, vẻ mặt thay đổi hẳn:
- Chào các chiến hữu. Có việc gì đấy. Làm ăn như thế này chết cả. Sao? Tan tầm ra căng tin à. Xong rồi.
Và giật giọng gọi một thanh nhiên đi ngang qua:
-  Tuyến ơi. Vào đây. Các bồ chờ tôi một tí. Ngồi đây. Ba số đây. Mấy thằng Lát vừa biếu đây. Tuyến. Tình hình thế nào mày?
Tuyến là một thanh niên to lớn, đội trưởng đội bốc xếp, một tổ chức đánh thuê cho xí nghiệp, tay chân đắc lực của Đức.
-  Cháu mở máng từ một giờ đến giờ chưa có xe.
-  Xe của nó đâu? Phải hỏi chủ hàng chứ!
Điều và Toàn mỗi người châm một điếu ba số rồi trở về phòng sau khi đã dặn lại Đức một lần nữa: Đúng năm rưỡi nhé!
Thấy thái độ kính phục của Toàn về cung cách làm ăn của trưởng phòng điều độ, Điều cười:
- Ông không biết. Thằng này siêu đấy. Chỗ dựa vững chắc của sếp đấy. Cảng bây giờ là cảng tổng hợp, không chỉ là cảng cá. Tàu gạo, tàu xi măng, tàu sắt thép... Chở đến. Chở đi. Hợp đồng làm ba ngày thì đỗ năm ngày. Tàu dài một trăm mét, bảo tàu dài năm mươi mét. Đội quân cửu vạn của thằng Tuyến phải nộp đều đều. Cống cho bố Đức. Bố Đức lại cống cho bố Thắng. Thằng Đức giở mặt như bàn tay. Ông Vệ, giám đốc cũ ở đây, nghỉ hưu chuyển về Quy Nhơn, đi đánh thuê, hôm nọ đưa tàu ra đỗ ở cảng, không có hợp đồng, nó yêu cầu làm hợp đồng, ông ấy không làm, nó đuổi đi ngay. Ông Vệ trước khi tách bến còn lên đứng giữa sân, gọi nó ra chỉ tay vào mặt nó: “Mày là thằng ăn cháo đái bát. Mày thừa biết chính tao là người đề nghị đề bạt mày. Mày cũng biết chính tao xây dựng cái cầu này. Thế mà bây giờ cầu rộng tao đỗ có một ngày, mày cũng đuổi tao à?” Bây giờ ông Thắng thử về hưu xem nó coi không bằng con tép.
Ngừng một lát, Điều tiếp:
- Còn cái chuyện ở phòng điều độ vừa rồi là thằng Đức nhận thêm một Lát của Nga vào bốc hàng. Nhưng thằng Tuyến không kham nổi ba dây cùng bốc. Thằng Đức cáu. Chắc cái Lát của Nga này thằng Đức vớ bẫm. Tàu Nga là nó tính giá thuê cầu bằng đô đấy. Nó cứ làm như nó tích cực lắm. Qua làm sao được mắt tôi.
Nghe Điều nói Toàn mới biết được đầu đuôi câu chuyện ở phòng điều độ. Khi anh sang để nhắc lại với
Đức về thời gian ra căng tin, vẫn còn thấy Đức và Tuyến đang trao đổi với nhau. Bàn ngoài, phó phòng Tặng ngồi im như một pho tượng dửng dưng vô cảm, không tham gia vào câu chuyện.
-  Chú thông cảm với cháu. Cháu không có đủ người để bốc.
- Nhưng cái này liên quan đến thằng Ivan Tuyến ạ.
- Ivan thì Ivan chứ. Nó cũng là người chứ.
- Thế xe của nó đâu.
-  Ớ ngoài cổng. Xếp lốt kẹt cứng ngoài cổng. Mở cửa là nó ùa vào.
- Mày cứ mở máng cho chú.
- Máng mở từ một giờ đến giờ.
Đức cầm cái chìa khóa xe máy trong tay Tuyến:
-  Thôi. Mày để chú giải quyết. Cái này dính đến thằng Ivan. Để chú lo.
Đức bước ra sân, mở máy phóng xe đi. Tuyến nói như phân bua với Tặng:
-  Tôi không thích những ai coi người nước ngoài hơn người mình. Nước ngoài cũng là người thôi chứ.
Ngừng một lát Tuyến tiếp:
-  Mà thực tế bọn Ivan này chỉ là Bế Văn Đàn cho bọn chủ người Việt Nam thôi. Chúng nó kiếm ăn nhưng dưới danh nghĩa thằng Ivan cho dễ bề hoạt động. Ivan thì Ivan. Cũng là người thôi chứ.
Tặng chỉ cười. Nụ cười như muốn bảo: Tao biết quá rõ, kể cả mày nữa. Chúng mày làm ăn với nhau thế nào
tao biết hết. Không qua khỏi mắt tao. Tuyến bước ra, Toàn định nói với Tặng một câu gì đó bỗng chuông điện thoại đổ hồi. Tặng vẫn ngồi yên không nhúc nhích. Một hồi. Hai hồi. Ba hồi... Giòn vang. Thúc giục. Tặng vẫn ngả người ngó ra phía ngoài sân. Toàn nhắc:
- Điện thoại. Anh Tặng.
Tặng thản nhiên:
- Điện thoại gọi ông Đức đấy. Mình có nhấc máy thì cũng chỉ “cho tôi gặp anh Đức”. Ông Đức đi vắng là cúp máy ngay. Chỉ làm việc với ông Đức thôi mà.
Và xem đồng hồ:
- Sắp hết giờ rồi. Hôm nay phải về sớm. Có “ông trưởng” ra chơi. Đưa ông ấy ăn cơm tiệm. Ông ấy chỉ thích thế thôi. Mười ba tuổi mà uống bia rất giỏi. Tôi bảo hơn bố rồi. Bố mười ba tuổi đi học về còn phải chăn trâu bạc áo ở đồng đất Thái Bình kia kìa. Tiếp đãi ông ấy cẩn thận không có ông ấy lại nói xấu mình với mẹ ông ấy. Lần trước ông ấy ra chơi, khi về ông ấy mách mẹ: Con thấy hai con đĩ phi dê đến chơi nhà thầy.
Tặng cười phá lên trước ông con giai ghê gớm. Rồi lấy xe đi. Tan tầm Đức về. Đúng hẹn. Đức đã giải quyết được việc bốc ba dây. Sang bên cảng chính thuê hẳn một dây. Đức đúng là người năng động tháo vát, hơn thế còn là một người dễ gần, thoải mái với tất cả. Một mẫu người Toàn rất thán phục. Công việc cứ vui vẻ và nhẹ tênh tênh. Lúc sắp ăn, một cô căng tin đến, ghé sát vào người Đức. Một cô gái béo núc, sơ mi trắng cúc chật căng, da rất trắng, mặt bầu bĩnh dễ thương, vai chạm vai Đức, cố
tình liếc Đức tình tứ cứ như một đôi tình nhân thực sự vậy. Đáp lại cú liếc chỉ còn hai lòng mắt trắng giã, Đức cầm bàn tay múp míp của cô đưa lên miệng hôn.
-  Em Lan. Lấy ghế ngồi xuống đây.
Lan cười:
-  Nhớ quá hả?
-  Ly hôn đi.
-  Ly hôn là gì hở anh?
-  Là cái hôn không khít.
Rồi cầm cốc bia lên miệng uống một hơi, và đưa cho cô căng tin:
-  Cạn. Uống đúng chỗ này.
Chỗ này là chỗ Đức vừa đặt môi mình vào. Lan vẫn đứng, ngoan ngoãn làm theo lời Đức. Uống xong, cô cúi xuống tì cả hai khuỷu tay lên bàn, nghiêng người về phía Đức. Đức mở khóa chiếc túi treo trên ghế, rút ra một xếp tiền 5000, đếm. Đây. 200 nghìn. Đây 35 nghìn nữa. 235 nghìn. Viết giấy cho anh nhé. Tiền bữa trước chiêu đãi mấy thằng Ivan đây.
Trong bữa ăn, Đức bảo:
-  Làm ăn bây giờ cứ chờ là chết.
Toàn lấy câu nói đó làm đầu đề cho bài viết về sự năng động sáng tạo của phòng điều độ. Buổi phát thanh kết thúc, về phòng, gặp Điều, Điều bảo:
-  Con nhà Đức ngồi im lặng nghe. Con ấy phổng mũi. Nhưng mà ông hơi đề cao con ấy quá đấy.
Toàn thanh minh:
- Tôi có nói cá nhân nào đâu. Toàn là biểu dương phòng điều độ thôi.

Toàn đã có một thời oanh liệt. Ngắn thôi nhưng oanh liệt. Từ trong phòng bả âm toa lét (phòng truyền thanh đặt trong một cái toa lét cũ làm từ thời Tây đã hỏng, không dùng nữa) Toàn bật ăm li, khẽ gõ vào micro mấy cái nhè nhẹ:
Đây là buổi truyền tin Liên hợp Hải sản Biển Đông.
Đây là buổi truyền tin Liên hợp Hải sản Biển Đông.
Buổi phát tin hôm nay có những tin chính sau đây...
Những tiếng ấy vang lên ở tất cả các cơ sở của công ty Hải sản Biển Đông. Khi hai ngày một lần, khi một tuần hai lần, tùy theo có nhiều tin hay ít. Tin ít thì đọc thêm chỉ thị nghị quyết của đảng ủy, giám đốc, công đoàn, những văn bản của nhà nước, hỏi đáp sinh đẻ có kế hoạch, thông báo tổng vệ sinh chiều thứ bảy của phòng y tế gửi tới. Mời cả bà Nga lên đọc có giọng nam giọng nữ như đã định.
Toàn sang đài thu phát trung tâm lục sổ điện báo, ghi lại toàn bộ những bức điện của các tàu hoạt động trên biển báo cáo về xí nghiệp (mỗi tàu phải điện về hai lần trong ngày) viết thành tin. Cũng có khi phát lại nguyên văn những bức điện để thấy rõ cuộc vật lộn của anh em thuyền viên trên biển như sửa chữa sự cố đột xuất về máy móc thiết bị, tinh thần khắc phục khó khăn khi đi biển dài ngày, thiếu cả nước ngọt tắm rữa, phải hứng nước ngưng từ các dàn lạnh chảy ra để dùng... Anh có quyển sổ theo dõi sản lượng các tàu sát đến mức nhiều khi phòng kế hoạch phải mời Toàn sang đối chiếu số liệu... Tàu vừa cập bến, anh em thủy thủ còn đang làm dây, hầm cá chưa mở, chị em bốc cá còn đang chuẩn bị cần cẩu, xe chở cá chưa đến, đã nghe loa truyền thanh vang vang truyền đi khắp xí nghiệp bài viết chào mừng chuyến biển vừa kết thúc, với những khó khăn vừa vượt qua, những chuyện anh em thuyền viên vừa trải, những sóng gió cấp năm, cấp sáu, những bơm nước làm mát bị hỏng, những ly hợp máy chính “ly không ly hợp không hợp”, những mẻ lưới lép kẹp, những mẻ lưới trúng tim luồng cá... Còn gì phấn khởi hơn. Nghe mà mát cả ruột. Nghe mà cứ thấy như giám đốc và phòng tổ chức sắp chuyển mình sang tàu đi nước ngoài đến nơi.
Toàn không quên khối trên bờ. Toàn mời đồng chí quản đốc đà nổi lên trực tiếp phát biểu trước micro. Toàn viết tin tổng hợp về xí nghiệp sữa chữa, xí nghiệp lạnh đông (hai phân xưởng này đã lên xí nghiệp cả rồi, xí nghiệp cơ khí sữa chữa hạch toán độc lập, còn xí nghiệp lạnh đông hạch toàn báo sổ). Toàn biểu dương phòng cung tiêu đã chạy đủ am mô ni ac trong tình hình khan hiếm... Ngày ấy người ta gọi Toàn là nhà báo. Dù tòa soạn và phòng bá âm đặt ngay trong cái toa lét hỏng.
Nhà báo đến đâu cũng được yêu quý. Không phải lòng yêu quý suông. Sơ kết sáu tháng, tổng kết cả năm được mời ăn. Hoặc ở căng tin. Hoặc lên khách sạn. Bia
bọt lu bù. Khi về mỗi đại biểu còn được một món quà gói trong giấy báo. Một mảnh vải pô-pơ-lin may áo. Hay mảnh xa tanh đen. Những thứ cực quỳ quý hiếm, mặc vào phẩm giá được nâng lên, tuy không bằng cưỡi trên chiếc DD, hay Cup - 81 - chót - chét - bảy - mươi - phân - khối - kim - vàng - giọt - lệ - màu - ốc - bươu nhưng cũng là oanh liệt.
Các tàu thì không đợi đến sơ tổng kết. Mỗi tàu cập bến kết thúc chuyến biển thi đua xuống ngay. Bao giờ thi đua cũng là một trong những người đầu tiên xuống thăm tàu, cùng với Đức đen, trưởng phòng điều độ và anh chàng Thơ bắt dây, quân của Đức.
Sau những buổi phát thanh, những tin tức trên bảng đen, tàu nào cũng coi Toàn là người nhà, người thân. Thuyền trưởng hoặc đại phó bảo:
- Bốc cá xong, xuống nhé.
Nghĩa là khi bốc cá xong, khi tàu trở lại vắng vẻ, Toàn xuống tàu nhận suất cá của Toàn.
Rặt những thứ ngon. Mực nang, mực ống, chim, thu, song, tráp, cá khế, cá cam. Cá to tươi nguyên, đem về nhà mổ, máu tươi còn chảy ròng ròng. Nhà Toàn được cải thiện một cách căn bản. Cả nhà bận rộn nấu rán rồi quây quần quanh bữa cơm ngon. Hạnh phúc hẳn lên. Hòa thuận hẳn lên. Trong thời buổi thực phẩm cao hơn nhân phẩm như nhà báo Duy Thông đã nói này, Toàn thấy thật đúng là con người ta có số. Hóa ra bị đẩy đi khỏi ngành công nghiệp lại hay. Vợ Toàn nước da tái mét nay có sắc ửng hồng nơi gò má. Uống chén rượu nhìn vợ thấy yêu yêu. Lũ con Toàn mạnh khỏe, hoạt bát, thông minh, đứa nào đứa ấy mắt đen lay láy. Chả bù cho ngày trước, chen chúc nửa ngày cắt phiếu mua được mấy lạng cá nục muối mặn đắng. Giờ thì cá rán, cá riêu, cá xốt cà chua cả nhà ăn thoải mái. Lại còn khi tàu tôm về mới thích. Một túi tôm nát. Gọi là nát vì đầu nó bị dập, vỏ nó bị sầy khi mắc trong đụt lưới, không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, chứ thứ ấy là tuyệt vời nhất, chất lượng nhất. Mà cái món tôm tẩm bột rán, tôm bóc nõn xào xu hào cần tỏi mới tuyệt làm sao!
Cũng có khi cả nửa tháng không có một con tàu nào về bến bốc cá. Cầu cảng vắng tanh. Bữa ăn đạm bạc. Mòn mỏi đợi chờ. Nhưng sau đó sẽ là tàu về dồn dập. Bốc hai giây. Bốc ba giây. Ô tô chở cá xếp hàng. Người đen cầu cảng. Lúc đó phải tăng cường độ hoạt động. Đi đi về về. Lên lên xuống xuống. Điều nhìn đám nhân viên của mình tất bật, cất lời than:
- Lúc thì lồn ra. Lúc thì ba váy!
Xin được nhiều, ăn không hết đem bán. Ai cũng là con mẹ hàng cả. Từ cầu cảng về, nhìn trước nhìn sau không thấy sếp, cánh phòng ban, người trước kẻ sau xách túi cá nặng vào buồng làm việc, mở tủ đứng hay tủ bàn dúi vào, và khép nhanh cánh tủ lại, đi ra ngoài cửa, đứng nghênh ngó xem có ai nhìn thấy mình vừa xách cá về không rồi trở vào kéo ghế ngồi trước bàn làm việc, giở tài liệu ra xem như người trách nhiệm nhất trên đời. Cô Phòng còn nói to khi Toàn sang hỏi cô về chiến lợi phẩm cô vừa cho vào hộc tủ:
- Hôm nay nước nủi, bán cá hạ đây.
Bán cá lấy tiền mua lạng mỡ. Lấy tiền đóng tiền học, mua sách vở cho con (đủ tiền mua cả vở ô ly đấy). Kha khả thì đổi hột, bản gạo mậu hút hùn hụt (tiếng nhà quê của cô Phòng) đong gạo quê. Chỉ mỗi việc đem cá ra khỏi chỗ giấu trong phòng là phải cẩn thận. Phải chờ các sếp về đã rồi mới xách ra. Phải tia các sếp cho thật chắc. Các sếp có thấy cũng giả cách quay đi thôi, nhưng nó vẫn rợ rờ rờ (vẫn tiếng nhà quê của cô Phòng). Thành ra những ngày bốc cá, đám nhân viên đều chăm chỉ ở lại làm việc, thực hiện tám giờ vàng ngọc (mà đúng là vàng ngọc thật) hơn thủ trưởng.
Cho tới khi giám đốc có văn bản cấm tiệt các tàu cho cá tươi và chỉ thị phòng bảo vệ kiểm tra thật kỹ các túi xách khoác trên ghi đông xe đạp cũng như các gói đèo sau pooc ba ga, toàn xí nghiệp ngao ngán, cánh trên bờ thở hắt ra. Chánh văn phòng và Toàn đã bàn nhau cách đối phó. Toàn định nói cách của mình nhưng Điều xua tay:
- Không được. Mỗi người một cái bút viết vào tay rồi cùng xòe ra cho nhau xem.
Hai người ngồi đối diện ở bàn chánh văn phòng, nhìn nhau long trọng rồi đầy tự tin, cầm bút bi viết vào lòng bàn tay biện pháp của mình. Khi cả hai cùng xòe ra, lòng bàn tay người nào cũng cùng có một chữ khô (nghĩa là các thứ đã phơi khô - mực khô, cá khô) to đùng và cười lớn. Cười như Gia Cát Khổng Minh và Chu Du bàn kế đánh Xích Bích, cùng ghi một chữ Hỏa vào lòng bàn tay vậy.
Toàn nghĩ mình thật may mắn được về đây. Ngoài việc có một nguồn cung cấp thực phẩm, nguồn đạm cực kỳ, giá trị gấp mấy lần tiền lương, còn có một người thủ trưởng trực tiếp khá thông cảm với mình. Mà bằng kinh nghiệm cuộc đời đã sắp chiều, Toàn biết có một sếp trực tiếp thông cảm với mình là quan trọng biết chừng nào. Chánh văn phòng rất hợp với Toàn, có lẽ là do cùng trải qua nhiều đận cơ hàn ba chìm bảy nổi, đặc biệt là chuyện kết nạp Đảng. Tuy đứng trong hàng ngũ chức sắc nhưng Điều có phải là đảng viên đâu! Điều cũng đã ba lần suýt được kết nạp Đảng, giống hệt Toàn. Dạo xa xưa Điều làm cán bộ sở thủy sản tỉnh Q. đã được vào diện đối tượng. Nhưng sếp chánh sếp phó đấu đá nhau. Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết. Điều là người của sếp chánh. Đến khi bỏ phiếu, toàn chi bộ đều ủng hộ trừ sếp phó. Không đủ trăm phần trăm số phiếu nên không được kết nạp. Rồi Điều về làm giám đốc một xí nghiệp nước mắm. Một hôm gần tết có ông vụ vị từ bộ về thăm huyện. Ông chủ tịch huyện cho người sang gặp Điều lấy một bình 5 lít nước mắm ngon biếu ông để ông đem về ăn tết. Điều thân hành đi lấy loại nước mắm cá quẩn nguyên chất 25 độ đạm đưa lên huyện. Nào ngờ ông vụ trưởng lại cho đo độ đạm trước khi sử dụng. Và tai họa đã xảy ra. Một hôm ông chủ tịch huyện về thăm xí nghiệp, mở cửa buồng họp thấy đông người, hỏi bâng quơ: “Các đồng chí họp gì thế này?” Và khi biết họp Đảng bàn chuyện kết nạp Điều, ông giơ tay, hét lên: “Ngừng lại ngay! Ông Hào vụ trưởng đang làm ầm lên kia kìa. Huyện ủy, ban giám đốc sở khốn đốn vì thằng Điều đấy. Thằng ấy tôi sắp đưa truy tố. Thằng phá hoại! Nước mắm cao nhất là hai muơi độ đạm mà nó làm hai nhăm độ đạm. Lãng phí của nhà nước không biết bao nhiêu tiền! Tha truy tố là phúc rồi! Lại còn kết nạp Đảng. Dừng lại ngay!” Sau này biết chuyện, Điều đã thanh minh với ông chủ tịch rằng đấy là loại nước mắm chỉ sản xuất một ít dùng để quảng cáo và đối ngoại, chứ không bán đại trà. Ông chủ tịch đã thân hành xuống kiểm tra, xác nhận đúng nhưng vẫn phê bình Điều vô nguyên tắc, phải thử thách thêm một thời gian nữa. “Dạo ấy mình mới hai mươi sáu tuổi ông ạ. Kỹ sư hiếm lắm. Cả huyện chỉ có hai kỹ sư. Vốn quý đấy. Nên dù bạch vệ mà vẫn được làm giám đốc. Rồi lại được đi học lớp đối tượng phát triển. Đã học được bảy ngày. Sang ngày thứ tám, ông trưởng ban tuyên giáo thân chinh đến giảng về chiến lược chống cộng của Mỹ qua các đời tổng thống. Đến khi ông nhấn mạnh: ‘Đặc biệt nguy hiểm là thằng Ke-tơ-ri!’ thì mình đếch hiểu là thằng tổng thống nào nữa. Ông có biết thằng Ke tơ ri là thằng nào không?” Toàn lắc đầu. Điều cười ngặt nghẹo. “Ông trưởng ban tuyên giáo nói tiếp: Thằng này còn trẻ, rất hung hăng. May mà nó đã bị nhân dân Mỹ ám sát. Ông ta còn cầm phấn viết lên bảng ba chữ Ke-tơ-ri và gạc một cái rõ dài rồi vênh mặt lên nhìn chúng mình. Đến bấy giờ mình mới hiểu. Đó là tổng thống Kennedy. Thế là mình bỏ học luôn. Nói là công việc sản xuất đòi hỏi, phải về điều hành, và xin đi học lớp sau”.
- Đến bây giờ tôi vẫn oán thằng cha ấy ông ạ. Năm ngoái, ra Q. gặp ông ta, mình bảo giá anh không nói Ke-tơ-ri mà nói Kennedy thì đời tôi đã khác rồi. Đã là đảng viên rồi. Đã là ông nọ bà kia rồi. Lão ta đã nghỉ hưu, cười khì khì: “Thì mình nông dân nghèo tham gia cách mạng với tất cả nhiệt tình, có được đào tạo học hành như các ông đâu. Cái tên không quan trọng. Ke- tơ-ri với Kennedy là một. Chủ yếu là nắm được sự hiếu chiến của bọn đế quốc đầu sỏ mà nâng cao tinh thần cách mạng tiến công”.
Thế có tức không? Một thằng không biết cái chó gì lại dạy mình có đau không? Mà đi học có đơn giản đâu. Từ xí nghiệp đến lớp chín cây số, vừa đi vừa về mười tám cây số, đường Quang Hanh ông biết rồi đấy, toàn lên đèo rồi lại đổ dốc. Địt mẹ chính thằng ấy hại tôi. Nếu không đời mình đâu đến nỗi thế này. Còn cái ông Ân chủ tịch huyện định bỏ tù mình thì thế nào ông có biết không? Hôm đi nhậu ở Vạn Xuân, thấy lão ta lục sục trên gác lửng với em Ngà. Lúc xuống giả cách không trông thấy mình. Mình chào rõ to: Chào thủ trưởng. Thủ trưởng khỏe không ạ. Lão ta cung cúc đi ra cửa, vừa đi vừa trả lời: Điều đấy hở. Lúc nào lại mình nhé. Mình vẫn không tha: Lâu quá mới gặp thủ trưởng. Thế nào em cũng lại. Thủ trưởng ngồi uống với chúng em chén rượu đã. Lão ta bảo để khi khác hôm nay mình bận. Rồi lên xe nổ máy phóng đi mất. Bảy mấy tuổi mà đi xe máy rất tốt.
Điều cười lớn: Lại một lần đến Liễu Xanh, thấy lão ta mở cửa buồng bước ra cùng với một em mắt xanh mỏ đỏ, mũ sùm sụp, mặt bịt kín, chỉ để hở hai con mắt như ninja. Nhưng mình vẫn nhận ra. Làm sao không nhận ra cơ chứ. Mình nói một mình, nói to để lão ta nghe thấy: Trông giống ông Ân quá! Địt mẹ. Đạo đức giả mãi. Bây giờ thì lộ mặt.
Không chỉ chánh văn phòng, mà toàn thể anh chị em trong văn phòng đều dễ chịu. Cô Phòng văn thư chẳng hạn. Rất mau nước mắt, bị giám đốc mắng là rân rấn nhưng lại luôn nghĩ ra những chuyện hài hước. Chính cô đặt cho Toàn cái tên Tí cho nó có vẻ nhà quê. Và gọi tất cả thủ trưởng bằng con, gọi ngay trước mặt, tất nhiên là chừa các chánh phó giám đốc.
- Anh Tí ơi. Hôm qua con Điều con ấy trúng quả đậm. Một phong bì dày. Của đại diện ở miền Nam gửi ra. Con ấy có mời anh đi uống bia không?
Chánh văn phòng mím môi, giơ tay huơ huơ như sắp đấm vào đầu cô Phòng: “Con này láo. Bố đánh cho bỏ mẹ bây giờ”. Cô Phòng giả cách giơ tay đỡ và nghiêng đầu tránh đòn. Nụ cười lúm đồng tiền, chiếc răng kênh. Rất xinh. Rồi cháu Nhạn đánh máy. Là vợ bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản, nhưng ăn nói rất kinh. Khi chánh văn phòng kể chuyện một ông sếp to tướng tận đẩu tận đâu rất liêm khiết, không nhận quà biếu, không nhận hối lộ, một cái tết ông ấy nộp cho tài chính hơn bảy tỉ tiền biếu xén, đang gõ máy rào rào như tập trung tất cả vào công việc, Nhạn bỗng dừng lại quay ra hỏi Điều:
- Thế bụng nó không có cứt à bá?
Quá bực về những văn bản của các phòng đưa đến viết cẩu thả, dập xóa nhằng nhịt, Nhạn cứ gõ như bản viết tay. Ông trưởng phòng xuất nhập khẩu nhăn nhó cầm bản đánh máy sang hỏi Nhạn:
-  Sao chữ Hong Kong em lại đánh như thế này.
Nhạn hỏi lại:
-  Thế anh xem bản chính chưa? Chả Honkon là gì đây.
-  Nó viết thế nhưng em phải hiểu là Hong Kong chứ.
- Em đi đến đâu mà biết HonKon là Hong Kong. Nhỡ HonKon là HonKon thì chết em à. Lẽ ra anh phải bảo nhân viên của anh viết cẩn thận thì anh lại trách em.
Toàn với Điều cùng đứng đó cứ im lặng cười. Điều bảo Nhạn:
- Cái con này có chồng nằm trong bộ tứ lãnh đạo xí nghiệp mà chẳng xây dựng tí nào.
- Thanh niên với công đoàn ăn theo nói leo. Có được cái tích sự gì đâu bá.
Và Nhạn đọc luôn một bài ca dao:
Công đoàn với lại Thanh niên Hai anh rách việc đi liền với nhau An đi trước, làm đi sau Có tí công việc thi nhau họp bàn.
Anh chị em đói. Đói nên hay khùng. Khùng thì bày những trò như vậy nói những lời như vậy để giải tỏa, để vui. Điều biết anh chị em thỉnh thoảng vẫn kiếm được tí cá cả khô lẫn tươi, nhưng là một trò chơi nguy hiểm, nhất là lại mới chuyển ở đâu về một tay bảo vệ rất ghê gớm, hình như đang có ý định leo lên chức đội trưởng, trẻ không tha già không thương, có thể gây ra những sự cố chưa thể nào lường được. Đã có mấy công nhân xin cá mang qua cổng bị thu để ươn thối ra ngay cạnh chòi gác và bị ghi tên trên bảng đen cạnh đấy. Điều lập quỹ của phòng. Cũng chẳng giải quyết được gì nhưng nó là cái để đoàn kết mọi người, là chút tình trong phòng, gắn bó mọi người lại với nhau. Ngoài quỹ của phòng lại còn quỹ của từng nhóm nữa. Quỹ của phòng ra tấm ra miếng hơn, chỉ để phát cho anh chị em những ngày lễ lạt: Quốc tế lao động mồng 1 tháng 5, Quốc khánh mồng 2 tháng 9, tết Nguyên đán. Phòng xuất nhập khẩu phong bao năm trăm nghìn đồng. Cảng vụ phải nôn ra ba trăm nghìn đồng. Cửa hàng giới thiệu sản phẩm một triệu. Rồi đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh gửi ra. Các tàu thì nhỏ thôi. Nhưng đều đều. Tàu nào đi nước ngoài về cũng có một túi đựng một cây thuốc lá hoặc Ba số hoặc Capstan, mấy cục xà bông Fa hay Zest... Điều đáng trách các tàu là họ bình quân chủ nghĩa. Phòng ban nào cũng như nhau, chẳng kể đông người hay ít, đói hay no, cũng một cây thuốc lá mấy cục xà bông đựng trong cái túi ni lông hồng hồng xách đi các phòng phát như phát chẩn. Thành ra chỉ có văn phòng đảng ủy, văn phòng công đoàn, văn phòng thanh niên ít người là trúng quả. Văn phòng tổng giám đốc có tới những hăm mấy người, quá đông!
Cô Phòng có máu hài hước, bàn:
- Ta phải bảo các tàu lên xem danh sách các phòng ban ở bên tổ chức cho nó nắm vững, chứ không thế này thiệt quá. Chánh văn phòng ơi! Em xin sang văn phòng thanh niên đây. Bên ấy chúng nó chỉ có hai mống.
Nhạn cười:
- Các tàu phải làm như thời gian phân phối lốp ấy chứ. Hai nhăm người một lốp là cứ vậy mà làm.
Thời gian ấy, Toàn chưa về Liên hợp Biển Đông. Thời gian ấy Toàn còn nằm khàn ở nhà chờ phân công, ăn 75% lương cơ bản. Cô Phòng bảo Toàn:
- Ngày ấy văn phòng ta danh giá lắm anh Tí ạ. Được riêng một lốp. Chẳng phải chung chạ với thằng nào. Cứ thế đem luộc, chia nhau mỗi đứa húp một húp.
“Luộc lốp lây nước húp”, “luộc quạt cóc lấy nước húp”, “luộc màn lấy nước húp” “luộc quần lót lấy nước húp”... nghĩa là đem bán ở chợ đen các thứ được mua theo giá cung cấp như lốp, quạt cóc, màn, quần lót... lấy tiền lời chia đều. Cũng có khi chẳng phải đem đi đâu mà (học các cơ quan xí nghiệp trong thành phố Hồ Chí Minh) bán ngay cho người trong phòng theo giá làng. Biện pháp rất thông minh khi hàng năm mới có một đợt phân phối lốp, phân phối quạt, màn, quần lót. Hai nhăm người một chiếc lốp, nếu cứ bốc thăm lần lượt thì phải hai nhăm năm sau người cuối cùng mới được. Bây giờ tút thuốc, mấy cục xà bông cũng được đem bán lấy tiền nhập quỹ, nhưng người ta không gọi là “luộc lấy nước húp” nữa mà là “quy ra thóc”.
Những món quà ấy cũng có thể do lòng tốt. Họ thương văn phòng nghèo. Nhưng có một điều chắc chắn rằng quanh năm văn phòng đã giúp đỡ họ, họ đã phải nhờ đến văn phòng. Văn phòng tổng giám đốc có một đội xe con từ Lada cho đến Toyota chạy lạnh. Văn phòng có máy photocopy, có máy chữ, có con dấu...
Anh chị em trong văn phòng có thể gây cho những đơn vị khác những khó khăn bất ngờ, lặt vặt thôi nhưng rất khó chịu. Phải chờ đóng dấu vào sổ công văn vì văn thư bận hoặc đi vắng, máy photocopy hỏng còn đang tìm người sửa, đánh máy công văn lấy ngay à, chờ đã nhé, còn một xếp ông Thăng phó tổng mới đưa đánh để làm việc với đăng kiểm đây hay là dừng của ông Thăng lại, hoãn chương trình làm việc với đăng kiểm ngày mai... Lại còn điều tối quan trọng nữa: Xe ô tô. Toyota à? Cái bốn chỗ Kháng đi Thanh Hóa chưa về. Cái Corona ông Bình vừa đi Quảng Ninh, cái bảy chỗ đang sửa, cái Mazda tổng giám đốc đi họp. Thế là đành phải đi Lada mà các thủ trưởng nhỏ chẳng ai thích đi Lada không có điều hòa đã hẳn, lại cũ quá rồi, hay chết máy dọc đường, chưa kể còn kém thớ.. Bởi thế những món tiền cứu đói cho anh chị em văn phòng đúng là “tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Hơn nữa chánh văn phòng còn là người ghê gớm. Điều nói toạc ra những điều người ta vẫn thầm thì. Điều có tài bắt các đơn vị khác phải nôn ra. Điều oang oang:
- Đây là vì chúng mày, vì anh em. Chứ tao thì bao giờ cũng có một suất riêng, một suất đẹp.
Có lần Điều gọi một thuyền trưởng đánh cá đang đi ở ngoài sân:
-  Hoàn ơi! Vào đây.
Thuyền trưởng Hoàn thấp đậm, bụng to, trông giống con cá nóc, nên được gọi là Hoàn nóc, bước vào:
-  Thủ trưởng bảo gì cơ?
Điều nghiêm mặt ra lệnh:
- Chuyến biển này về cho văn phòng hai ki lô mực khô, nghe chưa. Một ki lô cho tập thể. Một ki lô cho chánh văn phòng. Ki lô cho chánh văn phòng phải là hiện vật để chánh văn phòng uống bia. Còn ki lô cho tập thể thì quy ra thóc cũng được!
Quá bất ngờ trước một giọng quyền uy như vậy, thuyền trưởng Hoàn chỉ còn biết ấp úng:
-  Vâng. Vâng.
Mặt lạnh tanh, Điều tiếp:
- Vâng là phải làm chứ không được để đấy. Không được quên. Nghe chưa? Có đông đủ anh em ở đây. Đừng đùa với chính quyền! Chính quyền không ưa đùa!
Không ai hiểu Điều nói thật hay nói đùa. Nhưng ai cũng biết mực khô là phải có, hoặc bằng hiện vật, hoặc quy ra thóc cũng như ai cũng hiểu chẳng chính quyền nào lại thích đùa bao giờ!
Ngoài quỹ của văn phòng, mỗi nhóm lại có một quỹ riêng. Tất nhiên mạnh nhất là nhóm lái xe con. Nhóm tạp vụ (chủ yếu là phục vụ nhà khách), nhóm văn thư đánh máy cũng có. Đó là sáng kiến của cô Phòng văn thư và cháu Nhạn đánh máy. Họ lập ra “Nhóm xin đểu” có hôm được bốn năm chục nghìn.
-  Chúng bố ăn cả chả nem đấy con ạ.
Cô Phòng bảo Toàn như vậy. Anh chị em văn phòng rách việc hay trêu nhau. Và giả cách phát khùng, xưng ông và gọi người khác là con. Cách trêu chọc nhau phổ biến nhất là moi gốc gác quê hương nhau ra. Ví như Toàn thì được gọi là “Đứng bên bẽn Bính ta thề”. Chả Toàn quê Thanh Nguyên. Ai cũng biết câu 8 tiếp theo câu 6 ấy là “Không lấy được cứt không về Thanh Nguyên”. Do ngày trước khi nhà nước còn quản lý cả phân bắc, bà con Thanh Nguyên đêm hay đi đò (không dám đi phà, với lại phà cũng không chở) vượt bến Bính sang phố mua lậu phân bắc về bón ruộng, bón hoa màu.
Anh chàng Thám thợ điện (thay Nhược) được gọi là Lô tha ba vì người Thanh Hóa, “Khu Bốn đẩy ra khu Ba đẩy vào”. Thám tiếp ngay, liến thoắng, tự họa chân dung mình một cách hoàn chỉnh: “Sát nhập sang Lào, thì Lào không nhận. Đùng đùng nổi giận, lập quốc gia riêng. Thủ đô thiêng liêng, là miền Nông Cống. Quốc ca truyền thống, dô tả dô ta..”
Toàn bảo:
- Than hoạt tính. Thuốc lá Bông Sen có than hoạt tính thật à? Than hoạt tính là gì?
Thám khẳng định:
-  Nó chống được phóng xạ đấy bố!
Cô Phòng ngoài biệt hiệu “Bánh chưng đất” còn có tên “Dâu xứ Bọ” để chỉ xuất xứ quê hương nhà chồng. Cái Nhạn đánh máy quê Nam Hà có biệt hiệu “Cưỡi trâu đi họp tỉnh”, đến hội nghị báo “suất cơm suất cỏ”. Còn chánh văn phòng Điều quê Ninh Bình là “Lạt, không lạt” để nhớ sự tích hồi tổng khởi nghĩa, dân vùng quê Điều tập đi mốt hai mốt không phân biệt được chân trái chân phải, phải buộc lạt vào một bên ống quần, người chỉ huy hô “lạt, không lạt” thay cho tiếng một, hai...
“Hội xin đểu” chủ yếu do Nhạn và Phòng hoạt động. Bọn Toàn, Thám và cả cái Tám phục vụ tiếp tân nữa chỉ hỗ trợ. Thắng to thì nem chua, bún gà. Còn không thì bắp rang bơ, luộc ốc. Phổ biến nhất là luộc ốc. Rồi củ đậu, mít, bưởi, bánh... mùa nào thức ấy. Đối tượng xin đểu bao gồm các phòng ban (không xin tàu bao giờ, nhất là các tàu đi nước ngoài, chúng nó khinh) hội lái xe, cảng vụ, điều độ. Mà toàn đàn ông thôi. Không xin đàn bà. Thấy trưởng phòng điều độ bước vào để đóng dấu hợp đồng thuê cảng và bốc dỡ là reo lên:
-  A! Con vịt béo đây rồi! Vặt lông đi chúng mày ơi!
Thế là cả bọn xúm lại. Trưởng phòng điều độ Đức
tủm tỉm cười nhìn vòng vây khép lại xung quanh. Ai cũng biết tàu vào là Đức có màu. Không thoát được. Đức tươi cười:
-  Nào! Cần gì? Bao nhiêu?
-  Năm sọi(1) được không?
-  Nhiều thế! Bốn sọi.
-  Cũng được. Đưa đây bốn sọi.
Với hội lái xe đi đón Tây về thì hỏi khác:
-  Quà đâu?
-  Quà gì?
-  Quà đi với Robert Lee ấy.
-  Không có đâu.
-  Nôn ra đi!
-  Đây. Chỉ có chỗ này, xem được bao nhiêu. Cho tất. Bốc trong túi quần một nắm tiền vụn, quăn queo ném ra bàn. Nhạn vuốt thẳng, đếm và reo:
-  Được ba nghìn bảy bá Toàn ơi!
Nhạn còn rất trẻ, học phổ thông với con gái Toàn nên gọi Toàn bằng bá. Trong phòng có hai người nhiều tuổi được Nhạn gọi bằng bá là Toàn và Điều. Thám ít tuổi hơn chút ít nên chỉ được gọi là anh thôi, dù đã có cháu ngoại. Một hôm Nhạn tươi cười đến nói với Điều:
-  Hôm nay sếp đi vắng, luộc ốc được đấy bá ạ.
-  Đứa nào luộc ốc chết với tao.
-  Bá cho con xin ba nghìn.
-  Ba trăm cũng không có nữa là ba nghìn. Nhăn nhăn nhở nhở.
Nhạn cười, hai má đỏ hồng, hàm răng trắng rất đều:
-  Con chỉ xin bá hai cân ốc thôi. Cho vào siêu điện đun nhanh lắm.
“Hội xin đểu” chẳng tha một ai. Có lẽ chỉ chừa một tổng giám đốc. Phó tổng giám đốc được tăng lương. Phát truy lĩnh 600 ngàn và hỏi phó tổng:
-  Còn 59 ngàn thủ trưởng nghĩ sao?
Phó tổng cười:
- Thôi đấy, cho mấy đứa con gái chúng mày.
Được hẳn bữa bún gà ăn trưa bia bọt đàng hoàng chứ có ít đâu. Mời cả chánh văn phòng, cả mấy chàng “giặc lái”. Chợ búa nấu nướng từ chín giờ sáng, nổi lửa ở trong góc phòng kho cái Tám có đầy đủ nồi, bát đĩa, thìa, nĩa, bếp điện, siêu điện, đĩa, cốc..., nơi tổng giám đốc không đi đến bao giờ. Chỉ có mỗi trục trặc kỹ thuật là mùi nước xáo măng thả hành thơm quá. Tổng giám đốc đi ngang qua, ghé vào bảo khẽ cô Phòng:
- Nói các cháu nấu gì từ từ thôi. Thơm thế ai cũng biết bất tiện.
Suốt bữa ăn, cô Phòng cứ nhắc đi nhắc lại câu chuyện ấy. Vừa kể vừa cười ngặt nghẹo. Ai cũng đồng ý với cô là dạo này tổng giám đốc dễ tính đi nhiều, chứ như ngày trước, con ấy chửi cho vuốt mặt không kịp.
Nhưng hóa ra đấy là một nhận xét hết sức sai lầm.
Vừa khen tổng giám đốc dễ tính đi nhiều hôm trước, hôm sau cô Phòng đã bị tổng giám đốc quạt một trận nên thân. Và lại khóc. Chỉ vì một chuyện cỏn con. Một cái giấy triệu tập họp, sếp ghi vào công văn để phó tổng thứ nhất đi. Sáng hôm sau gặp phó tổng thứ nhất, tổng giám đốc hỏi sao không đi họp, lúc ấy mới vỡ nhẽ: văn thư không đưa giấy triệu tập. Thế là tổng giám đốc làm ầm lên, quạt cô Phòng tơi bời khói lửa. Cô lễ phép trình bày rằng cô phải đưa chồng đi bệnh viện. Cô đã bàn giao cho Thám làm thay văn thư. Thám chờ đưa công văn cho
Điều để đúng trình tự thủ tục. “Tôi không hiểu các cô làm ăn thế nào. Đu đa đu đưa. Ôm thì nghỉ. Đi làm là phải bảo đảm công việc. Phải năng động sáng tạo. Từ nay trở đi cấm tuyệt đối không được nấu nướng trong giờ làm việc. Làm ăn như thế có chết người ta không”.
Tất cả im thin thít. Cả chánh văn phòng. Mãi tới khi Tổng giám đốc đã đi xa, sinh hoạt văn phòng trở lại bình thường, Toàn mới cười bảo Phòng:
- Nào. Cứ khen con ấy dễ tính mãi đi.
Từ ngày các tàu đánh cá nằm bến hàng loạt, Toàn rất sợ giáp mặt tổng giám đốc. Bởi tổng giám đốc ngày càng bẳn tính. Bởi Toàn tự thấy mình là một người thừa. Sản xuất trì trệ, tàu nằm bẹp vì thiếu vật tư, phụ tùng thay thế, kéo theo tình trạng công nhân khối trên bờ (xưởng lưới, xưởng sửa chữa, nhà máy lạnh...) nghỉ luân phiên, ăn lương 75%. Mỗi buổi sáng đạp xe đến xí nghiệp, Toàn cứ phải khắc phục cái cảm giác mệt mỏi, uể oải, “ngại như đêm” và đã nghĩ bao giờ cho đến tan tầm buổi trưa. Dù suốt tám tiếng chẳng công nên việc xuống vất vả gì. Nhưng thà công nên việc xuống. Thà rằng vất vả. Chứ lờ vờ thế này còn mệt gấp mấy. Cũng may, ít lâu nay, trên đường tới xí nghiệp, Toàn tìm được một thú vui giải trí là “thả hồn” vào bức tường bao của cảng mới xây, một bức tường bao bổ trụ, gạch chỉ, trát vữa rất đẹp, hơi lùi vào bên trong, cách mặt đường ba bốn mét (chắc là vì quy hoạch mở rộng đường bao trong tương lai), dài suốt chiều dài của cảng, gần như vô tận. Thành ra liền với đường nhựa là một con đường đất bỏ hoang mọc đủ các loại cây dại, cỏ dại. Nhiều người đã tranh thủ dựng quán dựa vào tường bao bán hàng quà, hàng nước, sửa vá xe, cắt tóc. Ngoài hơn chục quán đã định vị, trên bức tường dài hàng cây số đầy những mũi tên, những vạch vôi và vạch sơn các màu. Những chữ ghi trên tường thật muôn hình muôn vẻ, không một người nào có thể nghĩ ra cho được: /Có chủ//Có người//Có ông//Đã có ông đây//Có Sơn/ /Có Tích/ /Lồn/ /Có bố/ /Có rồi/ /Có ông Hải/ /Có tất/ /Buồi/ /Ô này của nhà Nhớ ký tên đóng dấu/... Nhiều khi giữa hai mũi tên đánh dấu chủ quyền chỉ là những hình vẽ: Một cái sọ đầu lâu giữa hai xương chéo, hoặc một hình tam giác với những vạch đen chĩa ra chung quanh như tia nắng mặt trời... Thì các sếp đua nhau chiếm nhà chiếm đất, đua nhau ra mặt tiền, những người khố rách áo ôm cũng phải làm ra có tí đất, tí mặt tiền và công bố với bàn dân thiên hạ cho vui chứ. Vui và cũng phòng xa khi sảy chân lỡ bước.
Vừa đạp xe mệt nghỉ giữa những hàng chữ và hình vẽ khẳng định chủ quyền ấy vừa tủm tỉm cười (làm sao không cười cho được trước những hình thức công bố sở hữu, khi nhũn nhặn, khi hăm dọa, khi nghiêm trang, khi hài hước đầy sáng tạo như vậy) thế là chỉ rẽ một quãng ngắn đã đến xí nghiệp. Lại thêm vui khi cất xe đạp nhờ bên văn thư, cô Phòng hỏi:
- Thế đã đến rồi đấy như.
(Đấy là lời chào buổi sáng của cô. Còn lời chào khi tan tầm là: “Đã về rồi đấy cơ nhi”. Sau khi đại thắng giò Tìu, cô Phòng càng hay nói tiếng nhà quê). Toàn nói với cô Phòng:
- Đạp xe đi làm là cứ nghĩ đến ca dao vùng mỏ thôi.
- Lại thế nữa cơ nhi. Ca dao thế nào?
- Bước chân vào mỏ như lê vào tù.
Bốn tiếng rưỡi đồng hồ buổi sáng sao mà dài. Bình thường bốn tiếng rưỡi đã dài rồi, lại còn vị trí cái buồng khiến nó dài thêm. Một giao điểm của hai hành lang vuông thước thợ có cầu thang lên gác. Nghĩa là một cái ngã ba, chẳng kín đáo khuất nẻo chút nào.
Càng thêm khốc hại là dạo này tổng giám đốc lúc đầu giờ hay đảo qua ngồi xa lông, lập tức có ngay vài người thuộc hàng chức sắc (khi một, hai phó tổng, khi chủ tịch công đoàn, hoặc bí thư đảng ủy) đến ngồi, tất nhiên có cả chánh văn phòng. Có thể chỉ vài câu trao đổi về thời tiết. Có thể bàn công việc ngay. Hay dập dạp đề cương những việc phải làm trong thời gian trước mắt. Có thể là những điều tổng giám đốc không vừa ý, những nhận xét về khuyết điểm của một người hay một đơn vị nào đó, những ý nghĩ vừa nảy trong đầu tổng giám đốc đêm qua. Thường là những lời phàn nàn chê bôi. Điều ấy đúng thôi vì cứ mười việc thì có tới bảy, tám việc trục trặc, mà trong thời buổi người khôn của khó, cạnh tranh gay gắt, việc ít người nhiều, thiết bị ngày một xuống cấp này, một trục trặc xảy ra là gượng không nổi. Mọi người kêu lương thấp. Làm như thế sao không thấp? Một cái tết, mỗi người một trăm nghìn đồng thôi, cả xí nghiệp đã mất hơn trăm triệu rồi. Kiếm một trăm triệu nào đễ dàng gì. Đổ mồ hôi sôi nước mắt, không cẩn thận vào tù như bỡn. “Suýt nữa mình nghe lời cô Dần lấy một trăm tấn tỏi về có chết không? May mà mới thử có một tấn. Xuất không xuất được. Kho không dám để, sợ có mùi. Quẳng ở chỗ tập văn nghệ. Đi qua toàn mùi tỏi là mùi tỏi. Cho nên tôi mới nói sợ nhất tham mưu dởm”. “Thằng tàu 14 bục hầm hàng nằm lại Hong Kong. Tàu lên đà mới được sáu tháng. Tôi không biết mấy ông kỹ thuật làm ăn thế nào nữa”. “Thằng cha Robert Lee mới phảch sang, yêu cầu hạ giá tôm. Thế có bỏ mẹ không. Làm ăn với tư bản không cẩn thận chết có ngày”. (Nhân đây lại nói chuyện về ông Robert Lee tức Lý Sinh Keng nhọ mõm. Kế hoạch xuất cá đá đã khơi dậy bao nhiêu hy vọng cho xí nghiệp và nhất là cho Thuyền, thất bại thảm hại. Mặc dầu các con số đã được phòng tài vụ, phòng hàng hải khai thác tính toán rất kỹ từ số ngày đánh bắt, số ngày đi Sing bốc cá rồi về, số dầu tiêu hao, lượng đá mang đi, số phơ rê ôn chạy lạnh hỗ trợ, số cá chọn bình quân khai thác, tỉ lệ phần trăm xuất khẩu... là hòa vốn, còn mình được lãi chỗ cá 6(1), được khấu hao, hơn thế còn duy trì được hoạt động của đoàn tàu kéo theo nó là hoạt động của khối trên bờ; trên giấy tờ là hoàn toàn chính xác nhưng vẫn thất bại. Mặc dầu chưa bao giờ cán bộ thuyền viên trên tàu và riêng Thuyền lại có tinh thần trách nhiệm như chuyến ấy, nâng từng con cá, nhặt từng con nục, con bạc má, con chỉ vàng, sơn mỡ cho vào khay, một lượt cá một lượt đá, và xếp khay nọ lên khay kia đúng quy trình, để khí lạnh thổi khắp sáu mặt khay vẫn là thất bại. Bởi thời tiết, nên chuyến biển phải kéo dài, bởi các ống lạnh trong hầm xì xoẹt, không cung cấp đủ hơi lạnh hỗ trợ như dự kiến, bởi lẽ ra phải có tàu mẹ để chuyển tải cho các tàu, con cá chỉ nằm ở tàu ba, bốn ngày là cùng, bởi vân vân, nghĩa là bởi vô vàn thứ. Con cá đưa sang không đủ chất lượng, bị ươn, bị vỡ bụng, hoặc đơn giản hơn: Mắt cá bị bạc màu. (Mẹ bố chúng nó. Chúng nó ăn gì mà sành thế. Mắt cá bạc màu đã không ăn rồi. Chúng ông cá vỡ bụng vẫn xài tốt, vẫn khỏe như vâm, con chúng ông vẫn giải nhất thi toán quốc tế, Điều bảo vậy). Đã tưởng giải quyết được công việc cho bốn tàu 600 mã lực có máy lạnh phụ trợ, xuất khẩu cá đá, mở ra một hướng sản xuất mới, tạo điều kiện cho non một trăm thuyền viên ra nước ngoài, thế là giấc mơ ấy tan thành mây khói. Chỉ bở đám thuyền viên, tàu từ Sing trở về chở đầy cá thối nhưng cũng đầy hàng. Xe máy ít thôi (không như ở Nhật, tại Sing người ta ít đi xe máy, có bói cũng chỉ tìm được vài xe máy cũ) nhưng tủ lạnh tivi, dàn loa thùng, quạt máy, máy giặt máy khâu cũ, nồi cơm điện... thì nhiều vô kể. Thuyền cũng mua được một số đồ nhưng điều may nhất cho anh là dù không được làm chế biến trưởng, không làm đại diện cho ông Robert Lee, Thuyền cũng không phải lên bờ, không phải về con tàu 307 với đại phó Phạm Cương. Anh đã được định biên hẳn ở tàu 600 mã lực).
Có khi sếp bực tức về những chuyện rất nhỏ. Tàu vào cảng bốc gạo nhiều. Xe ô tô nối nhau trong xí nghiệp, lái xe ngủ kín nhà khách. Khách lái xe chỉ ngủ ở nhà khách bình thường thôi, không phải loại nhà khách chạy lạnh - dù cũng phải trả tiền, bây giờ là dịch vụ tất, từ cầu cảng, bốc dỡ tới nhà khách - nghĩa là ngủ ở dãy nhà ngay phía sau nhà tổng giám đốc.
- Lẽ ra các anh phải biết tôi cần gì khi hết giờ làm việc trở về nhà chứ. - Vừa bước chân vào văn phòng, tổng giám đốc đã súc miệng - Khách khứa tùm lum. Ỉa đái khắp nơi. Tám tiếng làm việc nhừ người, tôi cần sự yên tĩnh. Mong ước đó là tối thiểu. Đâu có được. Cứ phải đi dọn cứt. Hai vợ chồng thay nhau dọn. Đến mức vợ tôi nó bảo: “Thôi. Hay anh chuyển đi chỗ khác ở thôi”. Sau một ngày nói sa sả, làm việc như ngựa, mong muốn được yên tĩnh nghỉ ngơi của tôi là chính đáng. Mình có đặc quyền đặc lợi gì đâu mà phải chịu như vậy. Ừ, thì khách nhưng mà chọn khách mà xếp vào đấy...
Chú thích:
[1] Sọi: chục nghìn.
[2] Cá 6: Cá loại 6, chỉ để’ làm chượp hoặc xay bột chăn nuôi.
- III - 
Chánh văn phòng liếc nhìn Toàn, cái nhìn đầy ý nghĩa. Toàn ngồi im thin thít tại bàn phía trong, càng ý thức được rằng mình là kẻ vô tích sự, một người ăn bám, một người thừa, một người có lỗi, không làm gì, đêm được ngủ trong yên tĩnh, không phải đi dọn cứt.
Điều làm ra vẻ bận rộn, sắp xếp lại đống công văn giấy tờ vừa nhận do cô Phòng chuyển sang, khuôn mặt như được dát một lớp kim loại rất mỏng, căng và rắn, hắt trả lại mọi tia nhìn nảy lửa của tổng giám đốc. Chờ tổng giám đốc đi ra, Điều bảo Toàn:
- Nhà khách ông Nam thì mấy thằng đi tàu nước ngoài còn ở đấy. Thằng Tuyền, thằng Bảo, mấy con ấy giàu phải ở phòng có điều hòa cơ. Ớ thế nhưng đéo giả tiền. Mình làm gì được. Nhà khách có phải của liên hợp đếch đâu. Của xí nghiệp thành viên. Địt mẹ. Chúng nó nuôi bọn nhà khách tốt thế thì làm sao đuổi được chúng nó đi.
Rồi làu bàu:
- Nói như ho vào lồn ấy mà cũng nói. Làm lãnh đạo không có đặc quyền đặc lợi làm làm cái đếch gì. Cứ tưởng người ta mù cả đấy. Chúng tôi không ngu đâu.
Toàn cũng nghĩ như Điều. Ai làm sếp mà chẳng thế. Anh vui vẻ chấp nhận tình trạng ấy như mọi người trong thế gian này vui vẻ chấp nhận tình trạng ấy (tuy nhiên cũng như mọi người, Toàn vẫn ao ước giá họ cứ ăn nhưng đừng thuyết lý rao giảng thì dễ chịu hơn nhiều, rồi bật cười nghĩ đến câu nói của phóng viên Duy Thông nói với anh trong một lần xuống xí nghiệp lấy tin: “Thiếu cái gì thì nói về cái ấy. Người ta thiếu đạo đức, người ta nói về đạo đức. Anh em mình thiếu tiền, nói về tiền).
Mỗi người có một cửa của mình. Hãy cố gắng tạo cho mình một cửa. Người làm to cửa to. Người làm nhỏ cửa nhỏ. Không thể ghen tị. Mình làm sếp cũng vậy thôi. Ai làm sếp cũng vậy thôi. Cũng vừa măm vừa dạy dỗ đạo đức. Cũng đứt dây thần kinh xấu hổ. Đã vào guồng là phải vận hành theo guồng. Nếu không sẽ bị văng ra.
Hơn nữa dạo này phát sinh hai từ dôi dư. Trong các cuộc họp, tổng giám đốc đều nói tới điều ấy. Sợ lắm. Mà đúng là dôi dư rành rành chứ còn gì. Như Toàn chẳng hạn. Đích thị dôi dư. Văn phòng tổng giám đốc khối người dôi dư. Cảnh dôi dư. Phó văn phòng công tử Nhương dôi dư. Thám mà không dôi dư à? Các phòng ban khác nhiều người dôi dư. Như Mơ khai thác. Như Lập kỹ thuật. Như Mẫn công đoàn. Như Liễu tài vụ... Buổi sáng hôm ấy, Toàn đang ngồi đọc báo ở bàn làm việc thì Liễu bước vào. Đó là một phụ nữ to béo, chẳng liễu tí nào. Cao lớn, da trắng mịn, nhìn Liễu đi dọc hành lang, hai bầu ngực núng nính nảy tưng tưng, cặp mông căng đung đưa, má cứ hồng rực lên, đôi mắt ươn ướt lấp lánh, nhiều người nuốt nước bọt. Nuốt nước bọt vì ngày ấy cả xí nghiệp chỉ có vài người như Liễu. Thiếu ăn, phụ nữ phần lớn thuộc loại đét đê mo nang, khô khốc như con cá mắm. (Liễu bảo Liễu ăn nhầm phải bột nở nên người nó thế thôi chứ nhà Liễu có gì mà tẩm bổ). Nuốt nước bọt còn vì Liễu đã li dị mấy năm nay. Ai cũng biết Liễu đang kiếm tấm chồng. Liễu đã cặp với Chiêu, một máy trưởng tàu cá. Câu chuyện gần như công khai. Cả xí nghiệp ai cũng biết. Vợ Chiêu từ Nam Định đã ra đánh ghen mấy lần. Nhưng chẳng ai có thể tách được họ ra. Chỉ đến khi Liễu tự thấy mình phải rời Chiêu. Tự thấy mình phải chấm dứt cuộc sống bồ bịch và có một tấm chồng. Không thể cứ thế mãi. Ai cũng nói Liễu ngấu lắm rồi. Người ta công khai nói với nhau về Liễu: Tốt mái hại sống. Cái Liễu li dị vì thằng chồng yếu quá, không đáp ứng được. Thằng chồng nó trước cũng không đến nỗi nào nhưng càng ngày càng gầy, khéo ho lao rồi không biết chừng. Đêm bảy ngày ba, may li dị sớm chứ không toi là cái chắc. Chính Điều còn nói sẽ làm mối cho Liễu một cụ lão thành cách mạng, bảy mươi chín tuổi, vợ chết, có hai biệt thự, mày lấy cụ ấy chỉ một tháng là cụ đi tong. Toàn bộ tài sản, tem phiếu của cụ, mày quơ hết. Thắng lớn đấy em ạ!
Chiến dịch tìm chồng của Liễu tại Hà Nội và Hải Triều thất bại. Chính Liễu kể. Liễu chẳng giấu cánh văn phòng. Chẳng làm gì phải giấu. Ăn cắp ăn trộm gì đâu mà giấu. Tiến trình tìm hiểu đang ở đoạn nào, Liễu kể lại hết. Khi năm ăn năm thua, khi được ăn cả ngã về không, khi bổ sung vào lực lượng dự trữ và cuối cùng đều phải tinh giảm biên chế thôi, không duyệt được.
Liễu là nhân viên phòng tài vụ, một cộng tác viên của Toàn, chuyên cung cấp số liệu lỗ lãi của các tàu, các đơn vị sản xuất trên bờ để Toàn viết tin. Liễu vừa nghỉ hai tháng vào Sài Gòn, thăm mẹ ốm nặng, nhưng anh em bảo Liễu vào để giải quyết dứt điểm phi vụ chồng con, Liễu cười: Cũng là một công đôi ba việc.
- Em chào chánh văn phòng. Em chào anh Toàn.
Liễu nói như quát khi bước chân vào văn phòng tổng giám đốc.
Toàn vẫn cắm cúi đọc báo. Điều hỏi:
- Quà đâu?
- Em làm gì có quà. Nghỉ hai tháng không lương làm gì có quà.
Điều đính chính:
- Nghỉ hai tháng nguyên lương chứ. Anh cũng đang mong được như em đây.
-  Em chào anh Toàn! - Liễu lại hét to - Sao anh làm việc say mê thế?
Toàn buông tờ báo:
- Anh đã qua được cái cơn nhớ em rồi. Em cứ ngồi uống nước đi. Anh trở lại bình thường rồi.
Cô Phòng cũng có mặt ở đó, cười rất tươi:
-  Kinh không. Công khai thú nhận tình yêu.
Liễu bảo Toàn:
-  Anh cứ ra đây ngồi với em một tí, lại nhớ ngay ấy mà. Đi có hai tháng mà dỗi. Ghê chưa! Lúc em đi thế nào về vẫn nguyên thế ấy, chẳng suy suyển tí nào. Anh cứ yên tâm.
Toàn buông tờ báo, ra xa lông rót nước mời Liễu:
- Trông em trắng ra đẹp ra đấy. Đã kiếm được một thằng đàn ông nào chưa?
- Được rồi. Ớ lâu thế là được rồi. Trông cái mặt thì biết. Cô Phòng đế theo.
- Suýt nữa được. Mà cũng có thể được. Còn đang suy nghĩ đây. Phòng này. Anh Tí này. - Liễu hạ giọng. - Anh chàng này tuổi ngoài năm mươi. Mình thấy là được. Thì cậu tính mình cũng ba mươi sáu rồi chứ còn ít ỏi gì. Chánh văn phòng một quận. Người Bắc. Ly dị vợ. Thế là được chứ còn gì nữa. Con lớn hai hai. Con bé mười lăm. Thế là tương xứng với mình. Mình cũng hai con, đứa lớn mười hai, đứa bé lên mười. Mình chăm con người ta thì người ta chăm con mình. Con người ta có mẹ lo thêm thì con mình có bố lo thêm. Mới gặp mấy lần nhưng rất nhiệt tình. Cứ nói chuyện ra Hải Triều để gặp các cụ, thưa chuyện với các cụ rồi tổ chức. Chỉ mỗi chuyện hình thức hơi kém. Bụng to. To hơn bụng anh Điều này này.
Tất cả phá lên cười. Điều bước ra xa lông, cố phưỡn bụng, hai tay xoa xoa bụng:
- Bụng anh thế này mà em bảo to à? Là thủ trưởng bụng phải to, em nghe không? Bụng anh thế này hơi nhỏ đấy.
Cô Phòng đầy vẻ háo hức:
- Yên. Yên. Kể nốt đi xem nào.
- Bụng to. Hình thức kém, rõ ràng rồi. Nhưng thôi. Mấy người trước, người được cái nọ mất cái kia. Căn bản là tình cảm, là vẻ đẹp bên trong. Mình thấy cũng có vẻ được. Thế rồi một hôm em hẹn sáu giờ chiều đón em ở chỗ nọ chỗ kia. Chờ mãi. Chờ mãi. Sáu giờ. Rồi sáu giờ mười lăm. Hay là bị kẹt xe. Kẹt gì mà kẹt. Hẹn ngay chỗ đầu Nơ Trang Long, ông ấy nhà bên kia Cầu Đỏ. Sáu rưỡi vẫn không thấy, mình phóng xe đến thẳng nhà thấy chàng đang bế cháu đích tôn. Đứa cháu mười bốn tháng như cái rãi khoai khóc ngằn ngặt. Cả nhà chỉ có hai ông cháu. Thằng bé nóng như than. Thì ra thằng con giai hai hai tuổi có con với đứa nào đấy, nó đem con đến nhà trả rồi bỏ đi đâu mất. Khi mới gặp nhau chàng cũng thành thật nói với mình là đã lên chức ông nội, thì cũng cứ tưởng chúng nó có vợ có chồng có nhà có cửa, làm ăn trông nom nhau, ngoài năm mươi là ông nội chẳng có gì phải nghĩ. Ai ngờ đâu lại thế. Thằng con hai hai tuổi biết cái gì mà nuôi con. Còn con kia chắc mười sáu mười bảy biến rồi. Em mới hỏi: Bà nội cháu đâu? “Bà nội cháu mặc quần áo đẹp đi nhảy rồi!” Bà ngoại đâu? “Bà ngoại mỗi ngày đến một lần. Vừa về rồi! Bà ngoại bảo phải tiếp nước cho thằng bé”.
Em hoảng lên: Sao lại tiếp nước cho cháu? Tiếp nước rất nguy hiểm. Người lớn tiếp nước không cẩn thận cũng chết như chơi! Cháu bé thế này ven mạch ở đâu mà cắm kim, lại còn chằng buộc thế nào để giữ yên tay nó mấy tiếng đồng hồ? Anh phải cho cháu đến bệnh viện ngay. Thế là đưa đến bệnh viện. Thì ra nó viêm tai giữa. Đàn ông đàn ang tắm cho nó, người béo ngón tay ngắn ngủn không bịt được tai cháu, để nước chảy vào tai...
Tất cả lại cười. Liễu buồn buồn:
- Mình nghĩ thì ra ông ta không cưới vợ cho mình mà cưới bà cho cháu. Chắc chắn lấy ông ta mình phải trông nom thằng bé. Không biết thế nào chứ Phòng ạ, mình đã qua cái đận trông con thơ, sợ lắm rồi. Đã mất mười lăm năm giờ lại mất mười năm nữa còn gì là đời.
Phòng vẽ ra một viễn ảnh sáng ngời:
- Rồi để ràng buộc, thắt chặt tình cảm giữa hai vợ chồng, mày cũng phải đẻ một đứa chứ. Ba sáu tuổi còn đẻ tốt.
Và Phòng bàn một cách rất nghiêm chỉnh:
- Hay là thôi mày ạ. Cứ cặp với ông nào cho nó xong đi.
Liễu cũng thành thật không kém:
- Cặp thì tao cũng cặp rồi. Cặp với một người gay lắm. Tan cửa nát nhà người ta. Chẳng lẽ lại nay cặp người này mai cặp người khác. Thế thì mình là điếm mất rồi còn gì nữa. Cứ vui chơi cho đến khi không vui chơi được nữa à? Cứ vui chơi có thưởng à?
Buột miệng câu nói sau cùng, Liễu đỏ nhừ mặt, đỏ xuống cổ, đỏ xuống tận ngực nơi chiếc cúc áo sơ mi đính trễ. Trông Liễu lại càng duyên hơn mọi lúc.
Chờ mọi người cười xong, Toàn thở dài đầy cam chịu, như biết rằng cuối cùng việc khó khăn này lại đến tay mình thôi, rằng cái thân phận mình là như thế, bao giờ cũng là như thế, không đẩy cho ai được:
-  Thôi. Để anh cố.
Liễu đỏ đến cả hai con mắt lúc nào cũng ươn ướt:
-  Anh thì gươm cùn giáo gỉ rồi. Không cố được em đâu.
Phòng cười, mặt còn đỏ hơn cả Liễu:
-  Chưa cùn đâu. Còn sắc lắm.
-  Đấy. Có Phòng xác nhận đấy. Gươm chưa gỉ. Giáo chưa cùn. Vẫn tốt. Tất cả vì em. Với người khác thì mặc xác nhưng với em, anh phải có trách nhiệm chứ.
Phòng biết mình lỡ lời, nghiêm mặt:
-  Không được huyên thuyên!
Liễu nói mà không nhìn ai, mặt rực lên như người say rượu:
-  Nếu cố được cũng không đến lượt anh!
Phòng thêm:
-  Đúng! Chí ít cũng phải là chánh văn phòng! Chức vụ. Rồi bổng lộc.
Liễu như nói một mình:
-  Thảo nào. Mới gặp nhau mấy bận, hôn chưa hôn, chưa một lần cầm tay để xem xúc động thế nào, luồng điện chạy ra sao đã muốn ra ngoài ấy gặp các cụ rồi...
Toàn an ủi:
-  Không phải nghĩ nữa. Anh cố được mà.
Như muốn chuyển đề tài, Liễu nhìn Toàn, giọng trách móc:
-  Anh chỉ được cái mồm thôi. Em về mở hàng khô. Anh bảo anh chạy hàng cho em mà chẳng thấy đâu.
Cô Phòng hưởng ứng ngay cái sự chuyển đề tài của Liễu:
-  Mày mà mở hàng khô con mày nó ăn hết.
Liễu vênh mặt lên:
-  Tao bán ớt ờ. Tao bán cà. Ờ. Tao bán mắm tôm. Ờ ờ. Có muốn ăn cũng không ăn được. Hờ hờ.
Những tiếng ờ ờ hờ hờ như thách thức lũ con háu ăn của Liễu đang quanh quẩn đâu đây. Phòng bảo:
-  Tao không về. Tao chẳng làm gì mà tao về.
Liễu tán thưởng:
-  Tao cũng không về. Sao không bảo bà về từ trước. Ờ ờ. Bảo bà về từ mười mấy năm trước có được không? Ờ. Sao bây giờ mới bảo? Ờ ờ. Sao bây giờ bà về mà những đứa mắt xanh mỏ đỏ lại được vào làm? Ờ. Nó cũng không có nghề ngỗng gì. Hờ. Ờ. Ờ.
Mà đúng là thế thật. Nhiều mắt xanh mỏ đỏ mới về. Một mắt xanh mỏ đỏ về văn phòng tổng giám đốc. Chẳng biết vì sao lại được về. (Ai cũng biết phải đẽm dữ nhưng không biết chính xác bao nhiêu). Từ nước Tiệp Khắc đã đổi màu về. Lao động từ Plden về. Cùng với cái Tám làm tiếp tân. Nhưng công việc chuyên môn chủ yếu lại là đánh bóng bàn. Cắt, giật, tiu, đỡ rất giỏi. Vừa chơi vừa rất hồn nhiên khi đối thủ sắp thua: Cụ lạnh tới chân rồi này. Cụ lạnh tới ngực rồi này! Cải này thì mũi cụ vẹo về một bên, sắp đi rồi này! Vô địch giải đơn nữ toàn xí nghiệp. Tham gia thi đấu giải bóng bàn nghiệp dư thành phố, được giải ba hẳn hoi. Rồi vay tiền xí nghiệp mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở phố Bắc Ninh. Chỗ trông ra Vườn hoa Đưa Người ngày trước. Cửa hàng to. Bán nước mắm, cá ướp đá, cá ướp đông, cá khô, mực khô. Lưới, dây nhợ vá, cước, dây ni lông. Sơn. Cả đồ hộp của xí nghiệp bên cạnh. Tổng giám đốc đi thăm cửa hàng về phấn khởi kể chuyện oang oang:
- Cô Hiếu bây giờ tiền đầy túi. Đếm tiền cực nhanh, cực giỏi. Đấy! Làm ăn phải mạnh dạn bung ra như thế chứ. Tôi đã nói với tất cả mọi người rằng bây giờ phải biết kiếm tiền.
Điều lụi hụi nói với Toàn khi chỉ có hai người: “Không phải dạy khôn. Chúng tôi cũng muốn kiếm tiền như sếp lắm nhưng đâu có được”. Trước mắt mọi người, Hiếu là một ngôi sao sáng. Có tiền. Được sếp hay lui tới và đánh giá cao. Một mắt xanh mỏ đỏ mới về nữa là Ngọt, cô phiên dịch tiếng Anh. Cô này ăn mặc hiện đại không kém Hiếu. Váy bò ngắn. Bít tất màu da chân cao đến gối. Sơ mi hồng chẽn. Ngọt về phòng xuất nhập khẩu. Dù ở phòng xuất nhập khẩu nhưng cũng là đề tài sôi nổi cho cánh văn phòng tổng giám đốc. Nhạn chỉ vào Điều, bảo Toàn:
-  Trưa nay bá con đi sau, cô Ngọt đi trước, trông bá con rất buồn cười nhé. Mặt mũi nghiêm trọng, chăm chú đi sau cung cúc cung cúc. Con gọi: “Bá ơ ơ ơi ơi!”
Nhạn dài mồm, cất tiếng gọi thảm thiết. Toàn gật gù:
-  Bá hiểu. Đó là tiếng gọi thê thảm, tăm tối, tuyệt vọng của đứa con sắp mất bố.
Chánh văn phòng Điều chỉ cười không thành tiếng. Cô Phòng nói:
-  Cái Nhạn nó bảo em: “Chị mà ở đấy nhìn bá em. Buồn cười lắm”.
Điều chê bôi:
-  Ba mươi tư tuổi mà già cốc đế.
Cô Phòng bảo:
-  Đẹp như kiều hối hả còn gì nữa. Cái Nhạn bảo nó sẽ nói với nàng là con giai bá em nhớn hơn chị rồi đấy. Con giai bá em chính là thằng Cảnh điên đấy.
Cảnh, một nhân vật hâm hâm, một kẻ rách việc nhất trong những người rách việc bỗng dưng nói một câu rất oách:
-  Hay là bá sang tên cho con đi.
Điều cười:
-  Bố tổ cái thằng này. Đi nhổ cỏ đi!
Cô Phòng “tố cáo” với Toàn:
-  Phó văn phòng “công tử” Nhương dắt cô Ngọt đến, bảo em cấp cho cô ấy một bút bi, một thếp giấy, sếp nói trước mặt cô ấy chẳng lẽ không cho. Thế rồi một lúc sau chánh văn phòng lại đến bảo đưa tao hai cái bút bi, cho cái Ngọt, nó viết nhiều. Em bảo này không có đâu nhé. Một chiếc thôi. Thì nó một chiếc, tao một chiếc. Em bảo anh không thèm viết bút bi nội cơ mà.
Điều chỉ cười, không nói. Cô Phòng tiếp:
-  Công nhận chánh văn phòng dễ tính. Anh Tí ơi. Anh đi đâu cứ đi. Xuống cơ sở. Lên thi đua thành phố. Chánh văn phòng không nói gì đâu. Công nhận khi yêu người ta dễ tính đi nhiều.
Câu chuyện cứ như vậy, vui vẻ, tếu táo. Vừa lúc ấy, Vân phó chủ tịch công đoàn vào. Cái Nhạn than thở:
- Có mỗi cô phiên dịch mới mà bao nhiêu người thương thuê, khóc mướn.
Điều làm ra vẻ sừng sộ:
-  Khóc mướn cái gì nào?
-  Xin bút bi hộ đấy thay. Bá còn cãi nữa hay thôi.
Cô Phòng chỉ vào Vân:
-  Đây, phó chủ tịch công đoàn áo kẻ. Chánh văn phòng áo kẻ, phó tổng giám đốc áo kẻ. Cả một trường phái áo kẻ. Xem ai thắng ai nào.
Vân cười:
-  Tôi là tôi múc luôn.
Đúng mọi người nhận xét mắt xanh mỏ đỏ mới nhận về cũng chẳng có nghề ngỗng gì. Cô Ngọt sếp kêu dịch kém. Còn cái Hiếu bỗng dưng làm đơn trình bày bị khách hàng chiếm dụng vốn, không còn khả năng thanh toán, xin thôi việc, ở nhà mở cửa hàng, không phải cửa hàng giới thiệu sản phẩm của xí nghiệp mà bán đồ may mặc. Thế là xí nghiệp mất toi mấy trăm triệu. Nhưng theo chánh văn phòng, tiền không rơi vào túi Hiếu cả đâu. Mà theo đúng tỉ lệ phân chia. Hiếu, trưởng phòng tài vụ, tổng giám đốc mỗi người một phần ba.

Phòng văn thư đánh máy ngay cạnh phòng Toàn, nhưng trái ngược với phòng Toàn, nó rất khuất nẻo. Đó là khúc nhô ra khỏi cái góc vuông của hành lang, cái góc có hai buồng vệ sinh hiện đại, mà ngày nào Thuyền và Nhược đã xách nước từ phân xưởng lạnh sang cọ rửa cho hết mùi khai để đón nhà tư bản Mỹ Robert Lee. Tổng giám đốc làm việc ở tầng trên, có toa lét riêng ngay trong buồng nên chẳng bao giờ đi vào ngõ cụt ấy.
Một cái tuyệt nữa của phòng văn thư đánh máy là giữa phòng có mấy chiếc tủ đứng chắn ngang, chia thành hai phòng nhỏ. Cô Phòng, văn thư ngồi bên ngoài, cái Nhạn đánh máy ngồi bên trong vì phòng đánh máy có nhiều công văn giấy tờ quan trọng, cần phải kín đáo đôi chút.
Cũng như mọi phòng khác của cánh thước thợ phía này, phòng văn thư đánh máy có hai cửa ra vào. Một cửa nhìn ra hành lang đằng trước, nhìn ra tiền sảnh hình vòng cung có treo cái bảng mà Toàn kẻ dòng chữ tiếng Anh: “Welcom to Biendongfiscom”, bên dưới là một hàng chữ tiếng Việt: “Liên hợp Hải sản Biển Đông kính chào quý khách”. Và một cửa thông ra hành lang phía sau, nhìn ra cầu cảng.
Khi Toàn đi từ cái bồn dầu đã không sử dụng giáp với xưởng làm nước đá xây dựng từ thời sau tiếp quản nay đã bỏ hoang, tay xách cái ghế dựa, theo sau là Thám, anh chàng thợ điện có nhiều tài vặt, bước tới hành lang phía sau, thì Toàn đặt vội cái ghế xuống hành lang, lững thững mở cửa sau phòng văn thư, vung vẩy hai tay bước vào.
Phòng, Nhạn quay cả lại:
-  Đã cắt tóc xong rồi đấy. Nhanh thế!
-  Cái ghế lấy mang đi đâu? Không giả người ta à?
Toàn vội quành ra hành lang, xách cái ghế dựa vào:
-  Cũng phải trinh sát xem có ai không đã. Ngộ nhỡ gặp sếp thì làm sao?
Thám bảo:
-  Cắt tóc chỉ có sang kho kiến thiết cơ bản là thích nhất. Khóa cửa ngoài là yên trí. Sếp chẳng đi đến đấy bao giờ.
Cái Nhạn đi lại phía Toàn, nhìn chăm chú và kêu lên:
-  Đầu bá một mất một còn hở bá?
Thám bĩu môi:
-  Một mất một còn! Thế này mà một mất một còn à?
Nhạn níu lấy hai tai Toàn, giữ cho Toàn nhìn thẳng, kéo cho Toàn nhìn nghiêng rồi hỏi:
-  Đây. Không bên xanh bên trắng là gì đây. Chị Phòng xem này. Con cho bá mượn cái gương. Bá soi xem con nói có đúng không. Thợ dởm.
Một anh chàng bước vào. Còn trẻ. Gầy. Mặt khắc khổ. Cảnh, nguồn vui bất tận cho anh chị em văn phòng. Cảnh nhìn Toàn, cười:
- Một mất một còn như bá không sợ. Một mất một còn như Thúy tài vụ mới sợ.
Tất cả cười ầm. Thúy là tên cô phó phòng tài vụ, vừa đi mổ vú tháng trước. Thúy được chánh văn phòng gọi là Của một đống tiền. Đi triển lãm Giảng Võ, chánh văn phòng giao cho lái xe kèm Thúy:
- Mày trông nó cẩn thận nhé. Của một đống tiền đấy.
Mà đúng là một đống tiền thật. Đoàn tham gia triển lãm Giảng Võ của xí nghiệp với đông đủ các đại diện phòng kỹ thuật, phòng cung tiêu, xưởng cơ khí, chánh văn phòng và cả thi đua Toàn cùng lái xe nữa, gần một chục người ăn trưa, bia bọt giải khát ở Hà Nội thoải mái đều được chánh văn phòng chi và Thúy nhận thanh toán, khi về đến Hải Triều đã nhá nhem, tưởng ai về nhà nấy hóa ra còn dừng lại Lưu Lang làm một chầu bia với mì xào thập cẩm và hoành thánh chiên giòn. Anh nhớ lấy hóa đơn nhé. Mai đưa em thanh toán. Khiếp. Cái món ăn gì có tên đến khiếp. Hoành thánh. Đọc cứ trẹo cả mồm. Tàn bữa Lưu Lang, Thúy bảo Điều như vậy. Từ ấy Thúy có tên là Của một đống tiền. Sau khi đi mổ về, cô có hai tên mới là Của một đống rưỡi tiền và Một mất một còn. Tùy. Ai muốn gọi thế nào thì gọi.
Cảnh còn đang đứng thưởng thức thắng lợi từ câu nói của mình thì Thám hất hàm:
-  Nói với ai thế?
Cảnh cười nhạt:
-  À. Nói chỉ thiên đấy.
Chưa bao giờ Cảnh có vẻ mặt câng câng như vậy. Cảnh ngồi xuống chiếc ghế dựa phía trong, đặt sau cái tủ đứng, co một chân lên, nhưng rồi lại vội vàng thõng chân xuống, xỏ vào dép. Ngồi ở một chỗ khuất và xỏ hai chân vào dép, đó là đặc điểm của Cảnh. Thám đe:
-  Được. Cứ ngồi đấy mà nói chỉ thiên. Không ra nhổ cỏ đi. Cứ ngồi đấy.
Cảnh chìa hai bàn tay bẩn ra:
-  Vừa nhổ về. Nghỉ giải lao một tí.
-  Mày vừa nhổ phải không? Nhổ ở chỗ nào? Đưa tao ra xem.
Hai đùi Cảnh rung tít. Mặt Cảnh vênh lên:
-  Đã có sếp kiểm tra. Mỗi ngày hai nhăm mét vuông. Đúng chỉ tiêu.
-  Một mét vuông cũng không được. Hai nhăm mét! Thằng này rất kinh. Nó cứ ra chỗ bãi cỏ nhổ chừng hai ba cái cho tay có nhựa rồi xoa vào đất. Thế là xong. Đi vào ngồi đấy.
Cảnh càng rung đùi tít hơn, và ngước nhìn trần nhà, kiểu như muốn nói: Không thèm chấp.
Rồi bước lại cái bàn uống nước - cũng để sau tủ đứng cho nó kín đáo - lấy giấy bút ra vẽ, chăm chú, mải miết, cái mỏ thỉnh thoảng lại dẩu về bên này, dẩu về bên kia. Tất cả im lặng nhìn Cảnh. Nhạn, Thám bĩu môi đầy vẻ khinh bỉ. Cảnh vẫn say sưa vẽ, không biết chánh văn phòng đứng bên tự bao giờ.
-  Nhổ cỏ đến đâu rồi mà vào đây vẽ vời đấy?
Cảnh ngẩng lên, không hề bối rối về chuyện bị thủ trưởng bắt quả tang không đi nhổ cỏ mà lại ngồi trong buồng quạt trần chạy vù vù, vẽ vời. Nó chìa tờ giấy cho chánh văn phòng, vẻ nghiêm túc nhất trên đời:
- Chú ơi. Cháu định làm cái biểu đồ biểu diễn đường găng. Chú xem cho cháu với.
Cảnh đưa cho chánh văn phòng tờ giấy có vẽ biểu đồ, những trục tung, trục hoành, những đường chéo và trong khi chánh văn phòng im lặng xem, nó cũng ngó vào đó, môi dẩu ra, đầy căng thẳng và thỏa mãn. Rồi cầm bút bi chỉ chỉ:
- Biểu đồ đường găng thế này chứng tỏ công việc suôn sẻ chú ạ.
Chánh văn phòng vất tờ giấy ra bàn:
- Đếch phải rồi. Đường găng đâu phải đường này. Đường găng là diễn đạt cùng một lúc phải giải quyết rất nhiều công việc. Chọn công việc gì làm trước, công việc gì làm sau. Như thế nào nhỉ...
Điều ngẫm nghĩ và à lên:
- Như các cụ nói đấy. Đang khi lửa tắt cơm sôi. Lợn gầm con khóc, chồng đòi...
Không đợi chánh văn phòng nói hết câu, Cảnh gật gù tủm tỉm:
-  Tòm tem.
- Đấy. Thế. Đường găng là như thế. Trong ngần nấy công việc, làm việc gì trước. Phải nấu cơm đi. Chứ làm việc khác để hỏng nồi cơm là bỏ mẹ.
Nhạn cười:
- Làm việc khác là làm việc gì đấy bá?
Cảnh cầm tờ giấy biểu diễn đường găng trầm ngâm suy nghĩ, và chỉ đến khi ấy, khi nó thả chân xuống đất (không biết nó đã cao hứng co một chân lên ghế lúc nào) thì chẳng thấy một chiếc dép lê đâu nữa cả. Quên hết mọi chuyện nhổ cỏ, đường găng, quên cả chánh văn phòng đang đứng trước mặt, nó cúi cúi tìm dép. Và nó nhìn nét mặt từng người. Chẳng thể tìm thấy gì trên những vẻ mặt ấy, nhưng nó biết ai là người giấu dép của nó. Và nó biết thế là hỏng mất rồi, mất đứt mất rồi. Chánh văn phòng phì cười:
-  Cái này mới thật là đường găng đây.
Thám làm như bây giờ mới hiểu câu chuyện:
-  Mất dép à?
Và cười giòn tan sảng khoái. Lại nói đầy vẻ khiêu khích:
-  Đứa nào lấy dép của nó nhỉ?
Điều biết đám nhân viên của mình đã đi vào đề tài muôn thuở là trêu Cảnh. Anh làm mặt nghiêm, cắt đặt công việc:
- Chú Thám tí nữa đi chặt cành cây la ra lối đi. Thằng Cảnh nữa. Hôm nay đi theo ông Thám, phụ với ông ấy.
Thám giãy nảy:
- Không. Tôi làm một mình thôi. Làm được đến đâu thì làm. Tôi không làm với thằng Cảnh đâu. Hôm nọ sếp bảo nó phụ với tôi chữa quạt. Mình đã kê bàn bắc ghế leo lên chỗ cái quạt trần, bảo nó đưa cho hộp sơn. Sếp có biết nó làm gì không? Nó lại đi bật quạt. Điện giật chết thì sao? Cánh quạt phạng vào mắt vào mang tai thì sao? May mà kịp ngồi thụp xuống tránh được.
Cảnh nói với vẻ bề trên dạy bảo:
- Khi làm phải để các thứ gọn gàng, với tay là lấy được ngay. Để xa thế là không ổn rồi.
Bị chạm tự ái nghề nghiệp, Thám gầm lên:
- Phải. Mày cái gì cũng giỏi.
Chánh văn phòng cười dàn hòa:
- Thôi. Hai anh em đi tỉa cành. Ông Thám cho nó đi chặt cùng. Để nó chặt một mình nó lại chặt trụi như lần trước cho ông sếp ông ấy giết tôi à?
Đang bực mình, Thám cũng phải phì cười. Chả là lần trước, chánh văn phòng giao cho Cảnh chặt cây. Biết được trình độ thông minh của nhân viên của mình, trước khi tan tầm chiều, Điều đã đánh dấu phấn vào những cành phải chặt, để nó khỏi phạng đi tất cả, “sáng mai đến cứ cành nào có dấu phấn thì chặt, chặt bừa là chết tao đấy”.
Ai ngờ, Đức đen trưởng phòng điều độ tối hôm ấy trực bốc xếp. Rách việc, buồn tình, Đức lấy phấn đánh dấu vào tất cả các cành cây trong vườn hoa như trong tập truyện A li ba ba và bốn mươi tên cướp vậy. Thế là sáng hôm sau Cảnh ra sức phạt. Trụi một nửa vườn hoa mới biết.

Chánh văn phòng vừa ra thì lại một người bước vào.
- Chào thanh tra.
Cô Phòng nhanh nhảu.
- Chào em gái. Anh không ở thanh tra nữa rồi.
- Anh sang bảo vệ rồi à?
- Sang rồi. Xí nghiệp có nhiều của quý phải chia nhau canh gác chứ.
Đó là Vinh, nguyên phó quản đốc phân xưởng đá cây Liên Xô. Gọi thế vì phân xưởng này do Liên Xô xây dựng ngay từ những ngày đầu tiên thành lập xí nghiệp. Phân xưởng đá cây Liên Xô có một chánh hai phó nhưng luôn luôn lục đục. Mâu thuẫn căng từ khi máy móc còn mới tinh và chỉ được giải quyết khi phân xưởng đóng cửa vì thiết bị già cỗi không hoạt động nữa, ống ga đụng đến chỗ nào là chỗ ấy xì, ba vị lãnh đạo phân xưởng chuyển đi mỗi người một nơi. Quản đốc chuyển về bộ, một phó quản đốc về nhà máy đá vẩy mới xây dựng, còn Vinh làm phó ban thanh tra. Ban thanh tra có ba người, một trưởng, một phó, hai người lãnh đạo một nhân viên. Đó là một ban hoàn toàn rỗi việc. Công việc chính của ban thanh tra là tiếp ban thanh tra thành phố, ban thanh tra bộ về làm việc định kỳ tại xí nghiệp. Không giống Toàn và một số người khác, cán bộ thanh tra rỗi việc một cách danh chính ngôn thuận, bởi sếp chánh đã nói: “Các anh thanh tra rỗi việc là mừng. Chứng tỏ xí nghiệp không có vấn đề gì. Các anh bận việc là hỏng đấy”. Có lẽ sếp muốn “mừng”, sếp muốn thanh tra rỗi việc nên đã mấy lần thanh tra muốn bận, muốn có việc làm đều bị sếp gạt đi. Như chuyện cho thuê cầu cảng của điều độ chẳng hạn. Thanh tra đã cho qua, nhưng cái chính là Đức không biết điều. Cứ làm như mọi người mù. Rồi coi mọi người không ra gì. Kiểu khinh người, coi tất cả là đồ mù như vậy chỉ từ cỡ nào trở lên mới làm được, chứ cái anh trưởng phòng điều độ quèn mà cũng thế thì thật quá thể. Vừa thấy trưởng phòng điều độ ngoài sân, Nghi trưởng ban và Vinh phó ban thanh tra đã gọi to, với nét mặt rõ ràng là căng thẳng, vẻ mặt của thanh tra đang làm việc thanh tra:
- Anh về phòng đi, chúng tôi hỏi anh một tí.
Ba người trở về phòng điều độ. Đức định pha nước, nhưng Nghi, Vinh đi thẳng ra cửa phía sau, nhìn qua bãi phù sa lúc này nước lên đầy ăm ắp, chỉ tay vào một chiếc tàu vận tải lớn nổi cao phía cuối cầu cảng, giáp với con tàu 307:
- Tôi hỏi anh cái tàu này hôm nay còn vào đây là làm sao nhỉ?
Đức tỉnh bơ:
- Thì hôm nay nó vào, còn sao.
- Thế hợp đồng đâu?
Đức cười rất tươi, xuề xòa thân mật:
- Hai anh vào đây. Vào đây. Tôi giải thích để các anh rõ. Các anh chưa biết cứ hỏi không sao. Chúng tôi sẽ báo cáo. Đây. Hợp đồng đây chứ đâu.
Vinh liếc qua bản hợp đồng Đức mới đưa, mặt tái đi, chứng tỏ anh đang rất cáu:
-  Tàu vào cảng, thế hợp đồng đâu?
Đức thôi không cười nữa:
-  Hợp đồng anh đang cầm đấy thôi.
Cái hợp đồng Vinh đang cầm đã hết hạn hơn chục ngày rồi. Vinh cười nhạt:
- Thế thì tôi đề nghị anh ghi vào bên dưới: Hợp đồng này có giả trị vĩnh viễn.
Đức tỏ ra cáu kỉnh không kém:
- Tôi nói cho các anh biết: Mình là đại lý cho nó. Vấn đề thanh toán phải để sau một chuyến.
Nghi lắc đầu, mặt lạnh tanh, giọng nhỏ nhẹ nhưng kiên quyết:
- Hợp đồng quá hạn gần nửa tháng rồi. Tiền chưa nộp. Đã thế anh còn quát nạt chúng tôi. Tôi cũng nói cho anh biết: Chúng tôi không cho xe ô tô vào.
Thế nhưng tàu vẫn đỗ ở cảng. Ô tô vẫn vào. Lệnh sếp. Được. Hợp đồng của điều độ có chuyện gì ta sẽ có ý kiến sau. Nhưng các đồng chí không được cản trở sản xuất. Bây giờ khách hàng là thượng đế. Phải tạo mọi điều kiện để thu hút khách đến với cảng của mình. Thành phố này bao nhiêu cảng. Có phải chỉ riêng mình có cảng đâu. Hoan nghênh các đồng chí đã quán xuyến, công tâm. Nhưng cũng nên uyển chuyển. Cứng nhắc là hỏng việc. Sếp bảo vậy. Và cũng chẳng thấy chỉ thị gì thêm về cái hợp đồng. Mặc dù ai cũng biết mười mươi rằng Đức vớ bẫm. Hợp đồng ký hai ngày, lại hai ngày, rồi lại hai ngày, để làm gì? làm sao như vậy? ai cũng biết. Cũng như ai cũng biết cái chiều dài chiều rộng của tàu trong hợp đồng đã được rút ngắn đi nhiều. Ai cũng biết mọi chuyện Đức làm như vậy là đã được chủ hàng “lo liệu”. Chủ hàng chứ không phải chủ tàu. Mà bây giờ chủ hàng rất nhiều, rất nhiều người buôn bán từ thời gian đổi mới đến nay khi vị Tổng Bí thư Đảng đã nói Nhất bản vạn lợi.
Đức cứ như vậy mà nâng cao năng lực và chất lượng dịch vụ của cảng như bản tin Toàn viết trên bảng đen. Còn Vinh người hăng hái nhất ở thanh tra được chuyển sang bảo vệ.
Khi còn ở thanh tra, Vinh hay đi dạo các phòng, cả đảng ủy, công đoàn, thanh niên. Tới phòng nào anh cũng đứng ở cửa gõ cộc cộc, để mọi người tưởng khách, quay ra nhìn. Thế là anh cười rất tươi nhưng không thành tiếng rồi bỏ đi. Cũng có khi ghé vào nói chuyện. Toàn chuyện Gorbachev, Yeltsin. Cuối cùng là chuyện anh lấy vợ. Ai cũng khen Vinh lấy được cô vợ trẻ. Vợ anh chính là cô bán hàng phòng đời sống mà chúng ta đã nói tới khi cô bán chai rượu quít không phiếu cho Lê Mây. Cô Ngụ. Vinh đã có bốn người con với đời vợ trước. Khi vợ chết vì ung thư, anh đã định ở vậy. Nhưng chẳng hiểu duyên số thế nào anh lấy Ngụ, một cô gái tân, tuổi còn kém cả thằng lớn nhà anh. Chuyện với mọi người về cô vợ trẻ, anh lắc đầu với vẻ thán phục có pha khiếp hãi:
-  Chảu Ngụ kinh lắm. Máu lắm.
Và cười. Phải nói Vinh có hàm răng rất đẹp, trắng, đều tăm tăm.
Toàn pha trà mời Vinh. Vinh chỉ vào Cảnh:
- Bố thằng này ngày xưa nói giỏi lắm đây này. Nói hay lắm. Ông ấy nói là cứ im phăng phắc.
Cảnh chân dép chân đất:
-  Không bằng em.
Tất cả cười ồ. Cô Phòng bảo:
- Bố nó ngày xưa làm to lắm. Nổi tiếng ở thành phố này đấy.
Ai mà không biết tiếng ông Sinh, một người lãnh đạo xuất sắc trong thành phố, một người tổ chức tài ba và nhất là một nhà hùng biện. Hơn thế, ông còn là một nhà nghiên cứu về nhiều lĩnh vực chính trị và văn hóa. Ông thường xuất hiện trên tivi, cũng như trong những hội nghị quan trọng, giảng giải về con đường đi lên của cách mạng, kêu gọi mọi người hãy rèn luyện, cống hiến, trau dồi đạo đức, không ngừng học tập nâng cao năng lực với một giọng vang âm truyền cảm thiết tha. Toàn chưa được trực tiếp nghe ông nói. Chỉ được và nhìn ông qua tivi. Người anh nhiều khi nổi gai lên vì thán phục. Toàn cười:
-  Cái thằng này nói thật hay đùa đấy. Dám hơn bố cơ à?
Cảnh nói chắc như đinh đóng cột, như nó đã làm cái sự so sánh giữa hai bố con nó nhiều lần lắm rồi, và kết luận rút ra lần nào cũng giống nhau:
- Bố cháu nói nhiều thế nhưng chỉ cháu biết là quanh quẩn vẫn mấy bài cơ bản thôi. Buổi nói chuyện nào của bố cháu cũng phải có mấy câu thuận lợi rất nhiều nhưng khó khăn cũng không phải ít. Chúng ta phải đem hết sức mình ra cống hiến, thấm nhuần lời dạy của Bác. Nếu không lại thời cơ và thách thức, hòa nhập chứ không hòa tan, đổi mới chứ không đổi màu. Phải nắm vững xê cộng vê cộng em (C+V+M)... Đấy chú cứ xem mà xem. Quanh đi quẩn lại chỉ vậy. Về nông thôn thì thêm vào mấy câu như chúng ta phải nghiên cứu vấn đề vật nuôi cây trổng, trổng cây gì, nuôi con gì. Mới đây có thêm câu con gì nuôi nhốt, con gì nuôi thả...
Tất cả cười ầm. Cả Thám, cả Nhạn những người hay châm chọc Cảnh cũng cười. Điều ấy làm Cảnh nở mày nở mặt. Lại Vinh:
- Ngồi ghế mà nói như mày, ai nói chả được. Đứng trên bục, trước hàng trăm người nghe nó khác chứ.
Toàn động viên Cảnh:
- Cảnh đứng lên, làm điệu bộ xem có hơn bố không nào. Thằng này làm tốt.
Được khuyến khích, Cảnh chân đất chân dép đứng dậy, hai tay chống trên bàn, cạnh đĩa đựng chén uống nước, mắt nhìn về phía xa hắng giọng:
-  Thưa các đồng chí. Hôm nay tôi nói với các đồng chí...
Vừa xong câu mở đầu đã ngồi xuống ghế, ngượng nghịu:
- Em không nói nữa đâu.
Thám bĩu môi:
- Chỉ bốc phét. Nói thế chó nào được. Lòi mặt ra chưa!
Điên tiết, Cảnh đứng lên sừng sộ:
- Thật không? Thật không?
- Thật mười mươi! Cãi làm sao được! Thật như bố nằm với mẹ!
- Thưa các đồng chí! Giọng Cảnh sang sảng cất lên. Chúng ta phải không ngừng nâng cao cảnh giác chống mọi âm mưu của các thế lực thù địch diễn biến hòa bình. Mọi quyền lực về tay nhân dân. Một chính quyền của dân do dân vì dân. Dân biết dân bàn dân làm dân kiểm tra. Phải tăng nguồn hàng xuất khẩu. Phải thực hành tiết kiệm. Chống tham ô lãng phí. Tham nhũng đang là quốc nạn. Kiên quyết xử lý nghiêm minh. Không tắm từ vai xuống. Mà tắm là phải tắm từ đầu xuống. Không ai đứng trên pháp luật! Không ai đứng ngoài pháp luật!
Càng nói càng hăng. Càng vung tay múa chân, nghiêng người bên này nghiêng người bên kia. Nghiêm mặt. Nhìn bao quát. Khi mọi người bật lên vỗ tay tán thưởng một cách thành thực, tự đáy lòng, Cảnh không cười mà chỉ dừng một lúc, rồi cúi xuống như đang xem lại dàn bài và ngẩng lên tiếp tục:
- Bây giờ tôi xin nói kỹ hơn về vấn đề dân chủ hóa. Đây là vấn đề thiết yếu, sống còn. Chỉ có vậy mới phát huy được sức mạnh tổng hợp của nhân dân. Bác Hồ đã dạy: Dễ muôn lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong...
Chưa bao giờ “hội trường” lại phấn khởi như vậy. Vinh reo lên:
- Thế chứ! Như thế chứ! Công nhận thằng này nói giỏi. Tiến bộ rất nhanh. Lần đầu còn ngượng nghịu mà lần thứ hai đã nhập vai thuần thục ngay. Đúng là một diễn giả tài ba. Hơn bố là cái chắc.
Cảnh bốc:
- Mà bố em còn phải chuẩn bị, phải làm đề cương. Mà cũng chỉ nói giỏi về chính trị thôi. Em không phải gì chứ, nói ngay được về bất kỳ vấn đề gì. Như đề tài nhổ cỏ em cũng nói được hai ngày.
Lần này chính Vinh công khai tỏ ý nghi ngờ:
- Bốc phét. Nói sao được? Nói gì mà được những hai ngày? Hùng biện như ông Fidel Castro cũng chỉ nói được một buổi sáng...
Đang thăng hoa, Cảnh mắt long lanh hùng hồn giải thích:
- Tôi nói được hai ngày về cỏ. Phản xạ của người ta có hai loại: Phản xạ có điều kiện và phản xạ không có điều kiện. Khi lao động, sự vật thường xuyên tác động vào suy nghĩ của mình. Không trực tiếp lao động thì chỉ có thể là khó khăn cũng lắm mà thuận lợi cũng nhiều cứ thế mà nói. Hay xê cộng vê cộng em, thế thôi. Bởi vậy nội dung bài nói của tôi sẽ là: Chương thứ nhất:
Cỏ là gì? Chương thứ hai: Vì sao có cỏ. Chương thứ ba: Nước, đất và không khí. Thế nào là nước. Thế nào là đất. Thế nào là không khí. Ớ chỗ này có thể nói thêm về sự hình thành của quả đất. Sau vụ nổ Big Bang. Về các kỷ. Về khí độc lúc quả đất mới hình thành, về loài khủng long kỷ Jura...
Vinh cười:
- Nhưng thế nào cũng phải nói khó khăn thuận lợi, thuận lợi cũng nhiều mà khó khăn cũng lắm chứ. Không có cái ấy chó nó nghe.
Cô Phòng đế thêm:
- Đúng. Đúng. Mà cũng chỉ nói được vài tiếng đồng hồ là hết. Nói sao được hai ngày.
Không thèm để ý đến những lời khích bác, Cảnh chìm vào dòng suy nghĩ, giơ ngón tay bấm đốt:
-  Cỏ là gì? Vì sao có cỏ? Các loại cỏ trên thế giới...
Và reo ầm lên:
- Đúng rồi. Các loại cỏ trên thế giới. Cái này nói được một ngày đấy. Phong phú lắm. Cỏ gà, cỏ mật, cỏ may, cỏ gấu, cỏ gì nữa nhỉ, cỏ lác, cỏ ba lá... Cỏ có hại. Cỏ có lợi. Cỏ độc giết người. Cỏ cứu người, cỏ làm thuốc vân vân. Rồi còn cách nhổ cỏ, những hóa chất trừ cỏ, tội ác của Mỹ về chất độc hóa học màu da cam.
Thám bĩu môi:
-  Chuyên gia về môi trường đấy.
Nhạn mỉa mai:
-  Thế nào chẳng có câu: Chúng ta phải cố gắng nhổ cho hết cỏ. Nói xong vào trong phòng ngồi, quạt trần quay vù vù.
Không thèm nghe, không thèm đáp, Cảnh đang bị bài diễn văn nói vo liền hai ngày cuốn hút, ngẩng lên hỏi Vinh:
-  Anh thấy đã được hai ngày chưa. Nếu chưa đủ, em sẽ nói thêm về việc trồng cỏ trong vườn hoa, trồng cỏ nuôi bò sữa, phân tích thêm ý nghĩa văn hóa, ý nghĩa kinh tế của cỏ...
Vinh nhìn cái đùi đang rung tít và cái chân thõng của Cảnh:
- Đúng rồi. Cỏ có nhiều ý nghĩa lắm. Kinh tế, chính trị, văn hóa. Nhưng sao lại chân đất chân dép thế kia?
Cảnh không giấu vẻ thất vọng khi câu chuyện bị cắt ngang đột ngột bởi một vấn đề tầm thường đến thế, trả lời chiếu lệ, coi cái chuyện mất dép vừa nãy còn là vô cùng quan trọng ấy chỉ là chuyện vặt, không đáng quan tâm:
-  Mất rồi. Ai nghịch giấu đi ấy mà.
-  Vừa mất xong?
-  Vừa mất xong.
Phòng cười, má lúm đồng tiền rất tươi:
-  Cảnh báo cáo chú bảo vệ đi.
Cảnh trình bày:
-  Thế này. Em vừa đi nhổ cỏ về...
Nhạn cắt ngang:
- Nhổ ở chỗ nào? Được bao nhiêu mét rồi?
Cảnh đáp cho qua chuyện:
- Nhổ ở cổng bảo vệ. Về là vào thẳng đây.
- Lúc ấy vẫn còn hai dép?
- Vẫn còn hai dép.
- Về ngồi ở đây?
- Về ngồi ở đây.
- Vô lý. Dép ở chân làm sao mất được?
-  Em ngồi cũng có văn hóa thôi. Không như Thám ngồi kia đâu.
Thám đang ngồi xổm trên ghế. Rất cáu nhưng cũng phì cười.
- Ngồi có văn hóa là thế nào?
Cảnh thở dài nói lên một chân lý phổ biến:
- Ai chả có lúc ngồi chân nọ gác lên chân kia.
- Tức là chân co chân duỗi?
- Chân co chân duỗi.
- Có lúc nào co hẳn một chân lên ghế không?
- Có.
- Lúc nào?
- Không nhớ.
- Co chân lên ghế lúc nào phải nhớ chứ?
- Không nhớ. Lúc ấy còn mải làm việc.
-  Làm việc gì? Công việc là nhổ cỏ, sao lại còn việc gì ở đây nữa?
- Không. Chỉ là vẽ đường găng thôi.
Vinh làm như bây giờ mới vỡ nhẽ:
-  À. Tưởng văn phòng giao nhiều việc quá thì phải báo cáo giám đốc để rút bớt. Thế cửa này mở chưa?
Vinh chỉ tay ra cái cửa thông với hành lang phía sau, lối Toàn và ông phó cúp Thám vừa đi vào khi nãy. Cảnh gật:
-  Cửa mở từ sáng.
-  Ớ đây có những ai?
-  Có vài người.
-  Đường, bí thư đoàn vào chưa?
Đường là chồng Nhạn, nên Nhạn trả lời thay Cảnh:
-  Đường vào rồi. Nhưng lúc ấy Cảnh chưa về.
-  Thành, phó bí thư đảng ủy vào chưa?
-  Rồi.
-  Điều, chánh văn phòng vào chưa?
-  Rồi.
-  Thế thì chỉ có hai người ấy lấy dép thôi. Thành và Điều. Tí nữa lên phòng đảng ủy, sang buồng chánh văn phòng xem sao. Tao thấy họ ra gặp tao, tay lại cứ để sau lưng. Tao không biết mày mất dép nên không để ý.
Coi như cuộc điều tra đã kết thúc và đã có kết luận, Vinh đứng dậy, bước lên gác, gõ cửa phòng đảng ủy. Cộc. Cộc. Cộc. Tưởng khách đến làm việc, mọi người quay cả ra. Anh đứng ngoài nhìn vào không nói một lời. Chỉ cười. Rất tươi. Không thành tiếng. Hàm răng trắng đều tăm tăm. Rồi đi sang phòng công đoàn liền bên. Lại đứng ngoài cửa. Cộc. Cộc. Cộc. Để mọi người quay cả ra. Lại cười rất tươi không thành tiếng. Và lại bỏ đi.
Toàn chỉ ao ước được giao một công việc gì đó, đều đặn thường xuyên, có khối lượng cụ thể. Như cô Phòng. Như cái Nhạn. Hay như Cảnh cũng được. Bây giờ phải làm công tác phong trào. Thật là đấm vào không khí.
Cái khổ ở chỗ Toàn là một người trung thực, quá trung thực, không thể tự dối mình, không thể nhắm mắt trước sự thật, rồi cứ làm những đề cương thi đua cải tiến quản lý, xây dựng tổ đội,... không thể tràng giang đại hải về phong trào trong công nhân viên chức, cải tiến kỹ thuật, cải tiến lề lối làm việc, giải quyết khó khăn. Về lý luận, tập trung vào những việc ấy nghe chừng đúng đấy nhưng sự thật đâu phải thế.
Sự thật là với những người như Toàn (số này rất đông) đi làm chỉ để qua ngày đoạn tháng, giả vờ làm việc, giả vờ lĩnh lương, giả vờ bận bịu, giả vờ nghe, giả vờ nói và cả giả vờ... ăn nữa, vật vờ sống và mong đợi một cái gì sẽ đến, cái sẽ đến ấy là gì không biết rõ nhưng vẫn cứ mong, bởi cuộc sống như thế này khó mà chịu đựng lâu hơn nữa, phải chấm dứt đi thôi.
Sự thật là với những người như Đức, như giám đốc các xí nghiệp thành viên, những người làm ở các cửa hàng... đi làm là để tạo điều kiện, chớp thời cơ, lách qua các kẽ hở, liên kết với nhau để biến lưng vốn xí nghiệp, đồng lãi của xí nghiệp thành của riêng mình. Bản tổng kết của những người này là chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ và cả vị trí của mình đều luôn thay đổi, được ngày nào biết ngày ấy, mưa lúc nào mát mặt lúc ấy, phải biết tranh thủ, đừng bỏ phí cơ hội.
Sự thật là sản xuất kinh doanh trong xí nghiệp tùy thuộc vào sự xoay xỏa của mấy tổng và phó tổng mà thực chất là một ông tổng giám đốc, mấy trưởng phó phòng như xuất nhập khẩu, kinh doanh. Tài tháo vát, ngoại giao xoay xỏa này được gọi là “năng động sáng tạo”, thực ra với động cơ duy nhất tìm mọi cách vơ vét càng nhiều càng ít.
Đánh cá không được thì chuyển sang vận tải nước ngoài. Khi có phong trào sắt vụn, nổi lên những người làm sắt vụn. Khi có phong trào làm gỗ bạch đàn thì sáng láng nhất là những người làm gỗ bạch đàn. Tổng giám đốc cười tươi săn đón họ, bắt chân bắt tay vồn vã. Họ là những ngôi sao sáng, là những người đem tiền bạc về cho xí nghiệp, dù đã lấy chai gió cắt cả chiếc cần cẩu chân đế mới tinh chưa sử dụng chuyển xuống tàu nước ngoài bán sắt vụn. Nhân viên phòng xuất nhập khẩu, phòng tàu, những người làm ra tiền, đi đứng hùng dũng nói năng to tát, thuốc lá ba số, Capstan, đưa đánh máy, đóng dấu, photo những vận đơn, những quota, những công văn mở LC, những thứ chắc chắn sẽ sinh ra đô la. Nét mặt họ hớn hở, nghiêm trọng, bước những bước dài tất bật ở hành lang, từ phòng này sang phòng khác, không thèm để ý đến những người chung quanh đang nhìn họ một cách thèm thuồng và ghen tị, rõ ràng họ đang gánh vác cả một sứ mạng thiêng liêng. Họ diện giày da, họ phóng xe máy đi về, lượn những vòng cua thật đẹp ở sân. Mà phải công nhận họ lượn tài thật. Đúng chỗ cần đỗ là khựng lại. Chiếc nọ cạnh chiếc kia đều tăm tăm, cứ như những ông coi xe xếp xe đạp vậy. Họ cười nói. Họ xộc vào phòng tổng giám đốc như gặp bạn. Thật sung sướng, bình đẳng và làm chủ. Không chỉ sung sướng vì giá trị tinh thần được nâng cao, mà chắc chắn trong túi, trong tủ họ rủng rỉnh tiền, vàng, đô la... Chứ chỉ có đồng lương ký sổ thì vất vả làm gì. Lại còn vất vả thế mà cứ tươi cười hơn hớn.
Lép vế nhất có lẽ là đoàn thanh niên và thi đua. Chứ công đoàn không. Đồng chí chủ tịch công đoàn có nhiều việc để làm: họp thường vụ, dự hội nghị giao ban, xét duyệt lên lương, ký thanh toán bảo hiểm, làm việc với các cơ sở, xét trợ cấp khó khăn, họp hội đồng kỷ luật, lên Liên Hiệp Công đoàn thành phố mà sau này gọi là Liên đoàn Lao động, mở hội nghị công nhân viên chức từ cơ sở tới xí nghiệp, đại hội công đoàn, tiếp xúc với các đồng chí về hưu... Ngay đảng ủy cũng chẳng nhiều việc bằng!
Nói đúng ra đấy chỉ là công việc của đồng chí chủ tịch công đoàn mà văn phòng công đoàn có những năm người. Một phó thư ký Vân, một trưởng ban nữ công Phương, một cán bộ Xuân trố không biết làm gì. Mỗi quý một lần đi đặt sách báo, tổ chức giải bóng chuyền nhân dịp mồng hai tháng chín, giải bóng bàn nhân dịp mồng một tháng năm (mà cô Hiếu lao động ở Tiệp về luôn được giải nhất, chỉ đến khi Hiếu mở cửa hàng và nợ xí nghiệp hơn ba trăm triệu, xí nghiệp gạch tên, khoản tiền ấy được ghi vào tài khoản nợ khó đòi; giải nhất bóng bàn nữ mới về tay người khác). Người cuối cùng là Mẫn, cán bộ phụ trách bổ túc văn hóa, có một trường bổ túc văn hóa liên xí nghiệp dành cho anh ta. Khi trường liên xí giải tán anh ta chỉ có một việc đi lấy báo (do anh chàng Xuân trố “văn thể” đặt) phát cho các phòng ban, rồi rút về phòng thư viện ngồi đọc báo và cho mượn sách. Số sách đồ sộ kín các giá sách ngày một ít dần đi.
Toàn hay lỉnh đến phòng thư viện này. Nó nguyên là một phòng làm việc của ban kiến thiết cơ bản mà trong các văn bản được viết tắt là KTCB nên cả xí nghiệp gọi là ban Kiẽm Tiền Chơi Bời.Ban kiến thiết cơ bản có quỹ riêng, nguồn kinh phí riêng khổng lồ từ trên rót xuống với những công trình mở rộng cầu cảng, những nhà máy lạnh Nhật, những tàu Đức, tàu Na Uy... Không phải bỏ tiền mà có thêm nhà xưởng, thêm tàu, trị giá hàng bao nhiêu tỉ, ban kiến thiết cơ bản được coi như một vương quốc riêng biệt không dính dáng đến hoạt động sản xuất sôi động hàng ngày của xí nghiệp. Bởi vậy nên phòng làm việc của ban cũng rất riêng biệt, rộng rãi, có một phòng lớn thênh thang, một phòng nhỏ cho trưởng ban và một nhà tắm, tất cả đều nằm trong phòng lớn, biệt lập ở một góc xí nghiệp. Ngày xưa ở đây luôn có những chiếc ô tô đỗ ngoài cửa, bóng dáng cao lớn của các chuyên gia nước ngoài, nam có nữ có, tư bản có, xã hội chủ nghĩa có, và với bất cứ chuyên gia nào khi đã đến làm việc ít lâu cũng đều có cảm tình với cái Nhạn ngày đó còn chưa lấy chồng, nhỏ nhắn xinh xắn lúc nào cũng má hồng mơn mởn và được nó dạy những tiếng Việt đầu tiên:
- Chào đồng chí.
- Chào ẳồồng chí.
- Tên tôi là Hâm. Đồng chí Hâm.
-  Tên tôi là Hăm. Đồồng chí Hăm.
Mấy ngày liền ông chuyên gia mắt xanh tóc bạch kim cao hai mét com lê ca vát giày da bóng lộn nhận mình là Hâm và cúi đầu về phía Nhạn một cách rất ga lăng khi Nhạn chào đồng chí Hâm trong tiếng cười rộ lên của mọi người. Nhưng hẳn là thấy người ta cười nhiều quá nên vị chuyên gia rất lịch sự và cởi mở kia đã hỏi phiên dịch hoặc tra từ điển và sáng hôm sau khi Nhạn ửng hồng đôi má tươi cười chào đồng chí Hâm thì “đồng chí Hâm” lắc đầu quầy quậy: Không. Tôi không phải Hăm. Đồồng chí là Hăm...
Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, ô tô không đến nữa, chuyên gia không đến nữa. Ban kiến thiết cơ bản teo dần và giải tán. Trưởng phó ban, những kỹ sư công trình, những đội trưởng, những công nhân, đánh máy chuyển sang những phòng ban khác, những liên doanh với các xí nghiệp bạn, những cửa hàng... Trưởng ban được xuống tàu đi nước ngoài mấy chuyến rồi về hưu. Phó ban, một kỹ sư còn trẻ, cao gầy, tóc lúc nào cũng chải mượt, áo sơ mi cho vào trong quần, thắt ca vát, đi giày da tên là Nhương về làm phó văn phòng. Vì luôn ăn mặc tề chỉnh, nói năng nhỏ nhẹ nên mọi người gọi là công tử Nhương. Cái Nhạn cũng chuyển về văn phòng thay bà Ngọc nghỉ hưu. Cả Thám nữa. Thám chuyên trông nom về điện trong khu cơ quan thay Nhược. Cảnh cũng về văn phòng “đặc trách vấn đề cỏ”. Chỉ còn vài người hoàn toàn làm theo chế độ hợp đồng với xí nghiệp để sửa chữa nhỏ và thầu các công trình xây dựng bên ngoài, chủ yếu là làm mới hay sửa chữa nhà ở, bếp núc, làm lại nhà xí thành toa lét cho cán bộ công nhân viên trong khu tập thể. Việc này đang phát triển. Như một phong trào. Nhà nhà làm toa lét. Người người làm toa lét. Cố gắng dành dụm làm toa lét. Vay giật làm toa lét. Khách đến chơi nhà, không khoe gì, dẫn khách ra khoe toa lét. Làm không hết việc. Thật may!
Thống trị cả một gian buồng rộng thênh thang quá cỡ này là một anh chàng học vị cao nhất văn phòng công đoàn nhưng lại lép vế nhất: Mẫn. Trần Minh Mẫn. Ngoài bốn mươi, râu cằm lởm chởm, quần áo bẩn thỉu, Mẫn tốt nghiệp đại học sư phạm khoa văn và là giáo viên đã hành nghề trên chục năm tận vùng Đông Bắc. Vợ con ở cả Hải Triều, Mẫn tìm mọi cách xin chuyển, nhưng mãi gần đây mới được về Liên hiệp công đoàn thành phố, rồi được về xí nghiệp, phụ trách bổ túc văn hóa, tối dạy ngày nghỉ. Mẫn thỉnh thoảng có đến xí nghiệp họp hành gì đấy, rồi được giao thêm nhiệm vụ đi lấy báo, phần việc của “Xuân lồi”, để “Xuân lồi” tập trung vào giải bóng chuyền... Rồi khi tinh giảm biên chế, chuyển cô Phòng chuyên trông coi thư viện sang văn thư, Mẫn kiêm luôn thư viện, thành tích này được công đoàn báo cáo lên trên đã tinh giảm hai mươi phần trăm biên chế. Mà đúng là như thế. Một con số to đùng!
Thật may cho Mẫn, vì chỉ ít ngày sau trường bổ túc văn hóa liên xí nghiệp giải tán chứ không Mẫn lâm vào cảnh bơ vơ, không việc.
Hàng ngày Mẫn phải đem báo đến các phòng ban, riêng tổng và phó tổng thì giao cả cho văn phòng để văn phòng chuyển. Vì vậy mỗi khi đồng chí chủ tịch công đoàn lôi Mẫn từ thư viện sang bên xí nghiệp có việc gì đấy, Mẫn lẽo đẽo theo sau, trên đường đi gặp tổng giám đốc đều được tổng giám đốc cúi chào Mẫn một cách rất lịch sự vì rất ít khi đồng chí gặp Mẫn. Cử chỉ ấy được Toàn giải thích như sau:
- Chỉ thằng Mẫn là sướng thôi. Năm năm ở xí nghiệp rồi mà tổng giám đốc vẫn tưởng là người Liên đoàn lao động thành phố xuống làm việc. Gặp là cúi rạp đầu chào.
Mẫn cười rinh rích, nghi nghi hoặc hoặc không biết có đúng thế không? Nhưng từ ấy, Mẫn tự hạn chế mình, ít xuất hiện ở khu vực cơ quan và cũng từ ấy cửa phòng thư viện thường khóa luôn, chẳng biết Mẫn đi đâu.
Thế rồi một hôm Mẫn bảo Toàn, có cả bọn cái Nhạn cô Phòng “ông Thám”, vẻ mặt Mẫn đau đớn:
- Lộ hết rồi anh Toàn ơi! Sếp biết em là người xí nghiệp rồi. Gặp em trên đường ra căng tin, sếp gọi lại quạt cho em một trận. Thư viện của anh tụ tập toàn những người rách việc! Đọc báo suốt ngày! Phòng ban nào cũng có báo rồi! Chỗ đó chỉ cho anh em dưới tàu ngồi đọc báo thôi! Còn phòng ban tuyệt đối không! Mượn sách xong thì về!
Mẫn vừa nói xong, cô Phòng lập tức đứng lên bắt chước sếp, đưa bàn tay phải ấp vào ngực trái, cúi gập người chào Mẫn. Mẫn bảo Phòng, vẻ đau đớn:
- Bồ ơi! Thế là bồ với anh ít được gặp nhau rồi. Bồ có muốn anh sang cũng không được nữa rồi.
Phòng làm bộ nũng nịu, ngúng nguẩy lắc lắc cái đầu:
- Em ứ sợ. Em nhớ anh, em cứ sang với anh. Em ứ sợ.
Mẫn giãy nảy:
- Đừng. Em ứ sợ là bỏ mẹ anh đấy!
Lại cười. Bỗng Mẫn tươi tỉnh hẳn lên:
- Nhưng mà sếp sắp đi rồi. Sếp chuyển về bộ. Sếp khác về, lại phải năm năm sau mới biết anh không phải là người của Liên đoàn lao động bồ ạ. Thì lúc ấy sếp mới cũng lại sắp đi rồi. Ráng chịu ít ngày thôi. Lại tha hồ nhìn nhau.
Đúng là gần đây có tin sếp sắp chuyển thật. Tin đồn thôi. Nhưng không có lửa sao có khói. Người ta nói sếp bị nhiều đối thủ công kích dữ lắm. Nào là từ ngày ông Thắng về, đoàn tàu khai thác cá gần như không hoạt động, càng khai thác càng lỗ. Nào là các tàu vận tải nước ngoài đi buôn là chủ yếu. Tàu Hạ Long 03 chở hàng thuê cho ông Robert Lee từ Hong Kong về Trung Quốc, anh em thuyền viên buôn hàng lậu, bị Trung Quốc bắt giữ mất cả tàu. Toàn bộ thiết bị dưới nước ngày một xuống cấp. Còn về chuyện khoán sản xuất kinh doanh cho các đơn vị trên bờ, chánh văn phòng Điều đi đâu cũng bô bô:
- Đéo biết còn đỡ tức. Càng biết càng điên! Vụ cá ngừ đấy. Đưa cho ông Tạp xưởng lạnh 150 triệu, mua mười tám nghìn một cân, xí nghiệp giả hai mươi hai không bán, bán cho thằng Mềm mười chín, mà đéo phải mười chín đâu. Tôi bảo thanh tra mày cần xe ô tô lên Bắc Thái, tao cho. Chuyến này phải làm cho ra nhẽ. Số cá thằng cha Tạp bán cho Bắc Thái bao nhiêu, lãi nộp Liên hợp hết. Thế là phải lòi ra. Chỉ có mỗi mình ông Tạp ăn. Địt mẹ thằng Mềm, cái thằng ngồi nhà cân. Đi đái thì ngã ở nhà đái. Bây giờ cũng xe cúp vè vè. Các ông đến nhà thằng Mềm chưa nhỉ. Xa lông sang hơn xa lông này. Tủ lạnh cực điệu. Dàn năm thớt. Như ông hoàng. Lại còn thằng Tiêu. Tôi vừa nẹt: Ông là tổ trưởng thu mua. Tổng giám đốc trực tiếp chỉ đạo. Ông bật đèn xanh cho chúng nó làm trái quy định của xí nghiệp. Thằng này khôn lắm. Tổng giám đốc bảo gì cũng vâng. Vâng để đấy. Về làm nhảm. Năm sáu cái cửa hàng nuôi nó. Béo trắng ra. Cửa hàng con Chưng vốn chín tháng đầu năm một tỉ mốt. Thanh tra lãi mười tám triệu, trừ chi phí chín triệu còn lãi ròng chín triệu. Bây giờ khách hàng còn nợ 156 triệu, nó nợ xí nghiệp 68 triệu. Tóm lại là âm. Tỉ mốt gửi ngân hàng cứ cho lãi bốn phần trăm một tháng thôi(1), chín tháng là bao nhiêu? Bao nhiêu lần chín triệu? Lại còn cái thằng Bính lạnh, phó giám đốc gì mà trông như thằng ăn mày. Nó bảo chỉ có bảy mươi ki lô cá xuất khẩu. Tôi bảo đéo được. Tổng giám đốc cho anh năm mươi triệu mua cá xuất khẩu sao anh lại mua cá kém phẩm chất. Mà ai xác nhận cho anh là chỉ có bảy mươi ki lô cá xuất khẩu. Địt mẹ nói thế là không xong đâu.
Không chỉ vì những chuyện làm ăn nát tươm ra, anh em nói sếp Thắng có rất nhiều đối thủ vì dù sao cái Biển Đông phí cơm (anh em gọi chệch chữ BienDongFiscom) này vẫn là một chỗ thơm, hái ra tiền, một trong những đơn vị còn có thể cựa quậy được, làm ăn được. Những đối thủ có sừng có mỏ sẵn sàng hạ gục sếp, cho dù sếp có một ô dù vững chãi: Đại ca. Nhưng Đại ca hình như cũng đang gay. Cái tin Đại ca đang gay nghe chừng mơ hồ lắm. Khó tin. Đại ca ở nấc thang vòi vọi làm sao gay được. Những người hay bàn tán thường có những dẫn chứng rất độc, đưa ra những chi tiết không ai biết, và rất thú vị khi người nghe ngồi im phăng phắc hoặc xuýt xoa:
- Đại ca của sếp có vấn đề lý lịch. Trong kháng chiến chống Pháp, bố đại ca là cai thầu chuyên xây boong ke, lô cốt cho quân đội Pháp. Năm năm tư hòa bình lập lại bố đại ca đi Nam, đại ca ghi trong lí lịch là bố mất tích. Bây giờ người ta mới phát hiện ra.
- Khuya rồi. Việc ấy khuya rồi. Ông không biết rồi. Lạc hậu rồi. Công khai lâu rồi. Mới cách đây mấy tháng bố đại ca mất. Từng đoàn từng lũ rặt các kễnh bay vào
thành phố Hồ Chí Minh viếng và đưa tang. Mấy trăm người. Một bao tải phong bì đem đi đốt. Ông thử tính xem mỗi phong bì bao nhiêu triệu?
- Không có tiền Việt đâu. Đô. Toàn đô.
- Bố đại ca mới chết à? Thật không?
- Sao lại không thật. Chính ông chú tôi làm đại sứ mới về Hà Nội cũng vào thành phố Hồ Chí Minh viếng mà.
- Đấy rồi ông xem. Đại ca cao vòi vọi thì lại có những đối thủ cao vòi vọi. Những bậc đại cao thủ không kém đại ca. Các ông cứ để ý xem. Dạo này sếp Thắng hay cáu gắt, rất khó tính.
Những chuyện ấy đến tai Toàn. Toàn nghĩ điều ấy chẳng liên can gì đến mình. Sếp nào cũng vậy. Cò con như phó văn phòng công tử Nhương đây thôi. Thanh tra đã định thanh tra quà Tết vừa rồi. Nhưng Điều gạt đi. Điều kể cho Toàn nghe tất cả:
- Tết vừa rồi ông biết đấy. Mình vào thành phố Hồ Chí Minh ăn Tết với con gái. Giao cho công tử Nhương trực. Thế đéo nào mà ông ấy báo cáo chỉ có bảy đoàn đến chúc tết, chỉ có bảy túi quà có vô lý không? Xí nghiệp đầu ngành. Vào Nam ra Bắc. Đi nước ngoài quanh năm. Thanh tra nó bảo ông Nhương với bà Nga làm giàu cái tết này. Năm chục đoàn là ít. Nó định thanh tra. Tôi bảo thôi, cho qua. Thiên hạ kiếm nhiều chứ nó kiếm mấy. Đấy là nó chưa biết cái vụ mua sắm bàn tủ cho nhà khách. Ông Nhương với bà Nga chụm đầu tính toán suốt một tuần mới xong. Có gì mà phải tính lâu thế. Mua thì lấy hóa đơn rồi thanh toán mà phải cộng cộng trừ trừ cả tuần lễ. Tha cho thì được đấy thôi. Với lại chúng nó ăn nhiều chứ hai người ấy ăn là mấy...
Đúng là hai người ấy ăn là mấy. Nhưng đấy cũng là một cửa. Một cửa làm ăn. Một cửa để sống. Có lẽ vì cái cửa của mình hẹp quá so với các trưởng phòng và cũng có thể do một ức chế nào đấy lặp đi lặp lại quá nhiều lần nên trước tết, nhận được công văn trên gửi về nghiêm cấm các đơn vị lấy tiền quỹ mua quà biếu cấp trên. Điều đọc công văn, hầm hầm nét mặt:
- Công văn nhắc nhở đây. Bố biết rồi. Không phải nhắc. Giả vờ giỏi đến thế là cùng. Năm nào cũng có công văn cấm. Năm nào cũng biếu. Năm nào cũng nhận. Rồi lại có chỉ thị cấm. Tài thật. Giả vờ siêu hạng. Giả vờ mà như không giả vờ gì cả. Thế mới thánh.
Rồi đọc to một câu đinh, một câu chốt trong công văn:
- “Nghiêm cấm các đơn vị không được lấy tiền quỹ mua quà biếu cấp trên”.
Và vừa như nói một mình vừa như nói với người vô hình nào đó đang đứng trước mặt:
- Bố không lấy tiền quỹ mua quà biếu. Mà bố cho thẳng tiền quỹ vào phong bì đem biếu. Bố đéo mua quà. Bố đéo vi phạm. Bố lấy tiền quỹ cho thẳng vào phong bì.
Điều kể Điều và phó tổng thứ nhất đã bao nhiêu lần đem phong bì đi biếu như thế nào: Cho phong bì vào bó hoa. Đến nhà các sếp là chỉ có tặng hoa. Thế thôi. Bà vợ ông chủ tịch đỡ bó hoa còn cười nói với hai người:
- Đội hình các bác đẹp quá. Hai bác bác nào cũng đẹp.
Điều cười:
- Dạ. Báo cáo thủ trưởng chúng tôi là đội hình mẫu đấy ạ. Chứ anh em thì cũng gầy còm, bình thường thôi.
Điều giải thích cho Toàn: Mồng một tháng năm, mồng hai tháng chín, tết tây tết ta, năm nào cũng biếu nên thân quen, tôi cứ bỗ bã như thế cho thân mật. Con béc giê trông thấy bọn tôi còn vẫy đuôi mừng cơ mà! Thân quen đến mức thấy phòng khách đông người là cùng chủ nhà đem thẳng hoa vào bếp. Chứ đứng chờ à? Có đến đêm. Đông lắm. Xếp hàng. Nói xếp hàng thì không đúng, nhưng mặc nhiên thống nhất với nhau thằng đến sau chờ thằng đến trước ra rồi mới vào. Cứ tản ở các ngã ba, ngã tư gần đấy. Chờ. Kín nền nhà bếp toàn hoa. Ông tính xem bao nhiêu bó. Bao nhiêu cái phong bì?
Lại văng tục:
- Địt mẹ. Mình đi biếu thành phố chẳng xơ múi gì. Thằng chánh văn phòng ủy ban đi biếu các bố nó ở Hà Nội vớ bẫm. Phong bì hai nghìn đô nó bớt mẹ nó năm trăm. Ba nghìn nó bớt hẳn một nghìn. Chả lẽ mang danh các kễnh lại điện xuống hỏi à? Mà các kễnh ông đâu nhận. Chỉ các kễnh bà thôi. Mỗi lần đi, đâu ít phong bì. Một năm bao lần đi. Mà nó làm thế mấy chục năm rồi. Cũng cài phong bì vào hoa. Cũng quen hết béc giê. Ông tính xem nó có bao nhiêu tiền? Thằng con giai nó mới mua cái Mercedes mới cứng. Cũng cáo lắm. Về hưu mới cho con mua xe, xây nhà. Mình chén nước cũng chẳng được. Với lại thời gian đâu mà uống nước. Mà uống làm đéo gì. Vào nhanh còn ra để thằng khác vào chứ.
Rồi như sực nhớ ra một chuyện, Điều cười lớn:
- Hôm nọ đang ngồi uống bia ở cái quán gần nhà sếp tổng với Quân rỗ, thấy thằng cha Nguyên thuyền trưởng tàu 19 mới về, phóng xe máy đèo một túi to đi qua rồi quành vào nhà sếp. Thế là chờ lúc cha Nguyên vừa xuống, mình ập vào luôn. Sếp ông vội đút cái phong bì cầm trên tay vào túi quần, sếp bà đang giở các thứ trong gói ra xa lông. Thấy mình đến, Hoàng Quốc Thắng bảo vợ: Kiếm cái túi san cho chú Điều tí quà. Thế là trấn được của sếp. Sướng!
Toàn bật cười:
- Được những gì?
- Mấy thứ vớ vẩn thôi. Chai Remy, gói bánh, hộp sâm, cây ba số. Mình định bảo: Em không nhận những thứ này. Chỉ xin sếp một tờ trong cái phong bì ở túi quần sếp thôi ạ.
Rồi tiếp sau một lúc:
- Lão ấy cũng ngán tôi lắm. Định thay mấy lần nhưng không tìm được người. Với lại cái chức chánh văn phòng này chẳng đứa nào thiết. Lại đầu sai, bổng lộc chẳng đến lân...
Nói vậy thôi, dù sao Điều cũng còn có cửa. Toàn hay Mẫn hay đông đảo đám nhân viên khác chẳng có cửa gì. Toàn thân với Mẫn có lẽ ở chỗ Mẫn chẳng có cửa gì mà vẫn cứ tươi hơn hớn. Ớ văn phòng công đoàn Toàn thân với hai người: Mẫn và phó chủ tịch công đoàn Trịnh Vân. Vân cũng trạc tuổi Mẫn, ngoài bốn mươi. Đã lăn lộn ở chiến trường “Bê ba”, ăn cả lá bèo tây non và chôn không biết bao nhiêu đồng đội. Đã làm thủy thủ, làm thuyền phó, có biết bao nhiêu hiểu biết về ngành nghề “về cái khốn nạn của nghề đánh cá”. Câu chuyện làm Toàn xúc động nhất là chuyện Vân hành quân vào Nam. Đó là những ngày ngừng bắn trong dịp Tết nguyên đán. Khi sắp vượt sông, anh em tân binh móc túi ném hết tiền lại cho đám thanh niên xung phong hai bên đường. Những đồng bạc cụ Hồ, những tờ “cụ mượt” bay như cánh bướm. Những đoàn xe sang sông với tất cả khí thế hào hùng nô nức như đi trẩy hội. Vì như chính ủy đã nói: Phải ngày đêm hành quân để kịp tới chiến trường trước khi hòa bình, trước khi chiến thắng. Vào chậm, chỉ còn mỗi việc thu nhặt ống bơ gỉ, tháo gỡ dây thép gai thôi. Chẳng còn địch đâu mà đánh. Xe trước hát vang: Giải phóng miền Nam chúng ta thề quyết tiến bước. Xe thứ hai tiếp theo hào hùng: Diệt đế quốc Mỹ phá tan bè lũ bán nước. Xe thứ ba tiếp lời: Ôi xương tan máu rơi, lòng hận thù ngút trời... Cứ như vậy hành quân. Quang cảnh chiến trường ác liệt hiện rõ dần theo từng cung đường, từng cánh rừng dù vẫn bặt im tiếng súng. Những hố bom sâu hoắm. Những cánh rừng bị băm nát. Những cô thanh niên xung phong xanh xao, khô xác, áo quần tả tơi dừng mọi công việc nhìn những chàng tân binh tươi trẻ, hồng hào non mỡ, mắt sáng lên không giấu nỗi thèm khát, giơ tay làm những cử chỉ tục tĩu. Có cô còn lấy xẻng úp vào chỗ ấy. Một chàng tân binh ngỗ ngược bẻ một cành phi lao chọc mạnh vào giữa hai đùi một cô. Cô thanh niên xung phong kêu lên, ngã vật xuống đường. Người chỉ huy đơn vị thanh niên xung phong, một nam thanh niên, từ đâu chạy ra, súng lục nhăm nhăm giang tay chặn đầu ô tô, hét lên đầy căm phẫn:
- Tất cả dừng lại! Lập biên bản!
Cậu tân binh dại dột nọ mặt tái mét. Đoàn xe buộc phải dừng bánh. Thiếu tá chỉ huy bước rất nhanh lên đầu hàng quân, hạ lệnh đanh thép:
- Toàn đơn vị tiếp tục hành quân vào Nam! Tiến! Ai cản trở, bắn bỏ!
Người đi. Xe đi. Chẳng ai dám cản trở. Nhưng không một tiếng nói. Không một tiếng cười. Im lặng nặng nề. Càng im lặng hơn, nặng nề hơn khi đoàn quân nghỉ giải lao gần một nghĩa trang. Nghĩa trang đầu tiên trên dải Trường Sơn sắt thép và máu lửa. Như có một lực hấp dẫn, tất cả lính tráng tạt vào. Toàn tên con gái. Toàn lứa tuổi mười bảy, mười tám. Gần như cùng một năm sinh. Hồng, Nụ, Lan, Liên, Hà, Thương, Thoa, Hương, Hiền, Hạnh, Bấm, Mơ, Nguyệt, Nga, Ngân, Bích, Thúy, Vân, Tuyết, Trang, Hòa, Bưởi, Ngọt... Những tên dịu dàng mềm mại chỉ muốn được gọi lên, được trìu mến vuốt ve. Những tên ghi trên mộ chí ngút tầm con mắt mà nhìn nó ai cũng nghĩ đến một lớp thiếu nữ tuổi thanh xuân phơi phới từ khắp mọi miền đất nước, nằm bên dưới đang rữa nát vĩnh viễn lặng câm như đất...
Phải chăng em cô gái mở đường
Không thấy mặt người chỉ nghe tiếng hát
Ơi những cô con gái đang ngày đêm mở đường
Hỏi em bao nhiêu tuổi mà sức em phi thường
Em đi lên rừng cây xanh mở lối
Em đi lên núi núi phải cúi đầu...
Tiếng hát trên loa truyền thanh thời còn cắp sách đến trường vang lên bên tai Vân. Tiếng hát hào hùng thúc giục, rộn rã, tươi vui phơi phới...
- Bài hát thật hay. Có sức động viên rất lớn. Khi còn ở nhà em rất thích bài hát này. Nhưng lúc ấy em chỉ ao ước giá ông nhạc sĩ sáng tác bài hát ấy có mặt cùng với chúng em ở đó. Yêu biết bao cô gái vui ngày đêm mở đường. Rừng bao hoa thắm nở chẳng có hoa nào bằng. Em đi san rừng em đi bạt núi. Em như con suối nước chảy không ngừng...
Vân vừa nói vừa nhăn mặt, lắc đầu như mếu:
- Bác đã lăn lộn Trường Sơn mãi, còn lạ gì nữa. Chiến tranh có phải hội hè đâu. Nhìn cái nghĩa trang đầu tiên ấy, tất cả chúng em ai cũng chùng xuống, nghĩ về người, nghĩ về mình, nghĩ đến mẹ già, đến những đứa em thiếu thốn đủ thứ ở quê nhà. Trên đường hành quân còn không biết bao nhiêu nghĩa trang nữa.
Toàn đánh giá cao sự hiểu biết xã hội và nhất là sự trung thực của Vân trong đối xử với mọi người, trong sự đánh giá xí nghiệp và xã hội. Vân cũng kính trọng Toàn ở những điểm ấy và còn ở tuổi tác nữa. Mấy năm vừa rồi Vân cố cày lấy cái bằng kinh tế. Toàn động viên Vân:
- Còn ít tuổi như chú tội gì ngồi ở đây. Đói lắm! Chỉ có lỡ cỡ quá tuổi như mình mới chịu ngồi đây thúc thủ Hạ Bì thôi.
- Em cũng cố đây. Làm cái nghề phong trào của anh em mình không ra làm sao. Tháng sau thi xong. Cuối năm nhận bằng là em phới. Em đã ướm các sếp rồi. Các sếp đồng ý cả.
Toàn rất quý Vân. Có lẽ Vân là người tri kỷ duy nhất trong xí nghiệp. Vân biết rất nhiều chuyện. Thuyên chuyển, đề bạt, dây nhợ, mâu thuẫn, ai núp dưới bóng cây Kơ nia của ai. Vân bảo:
- Mau mau tìm đường thôi anh ạ. Chúng nó làm ăn tơi tới, xây nhà đi xe máy, mình cứ thế này chết cả!
Thỉnh thoảng trong những khi lang thang vô mục đích, cốt để tránh xa cái bàn hộp phủ tấm kính năm ly bóng loáng kia ít phút, Toàn lại rẽ vào phòng Vân. Ây là những lúc chỉ có một mình Vân ngồi với quyển sách học tiếng Anh hay đang cày một báo cáo nào đó cho chủ tịch công đoàn, dù đang làm gì Vân cũng dừng công việc lại, đổ bã, tráng ấm chén, pha ấm trà mới.
Có khi chẳng nói chuyện gì, chỉ nhìn nhau lắc đầu rồi cùng cười. Nụ cười đồng điệu hài hước nhưng ra nước mắt. Toàn nhìn hai cái bàn không người bên cạnh. Hiểu ý, Vân nói:
- Đi rồi. Anh lên liên đoàn. Chị xuống cơ sở.
Thế là Toàn có thể yên tâm ngồi đấy. Anh đây là Xuân trố hay Xuân lồi cũng thế, người đang hy vọng được là cán bộ kế cận. Chị đây là bà Phương, năm năm nay bà vẫn năm mươi ba tuổi nên gọi là đứng tuổi, và vẫn còn đang chuẩn bị về hưu, vẫn tuyên bố với Vân: “Hai năm nữa về hưu. Đúng tuổi là về. Nhường cho lớp trẻ. Một ngày tớ cũng không ở lại”.
Chú thích:
[1] Trong những ngày lạm phát đại phi mã lên tới 3 con số những năm 90 thế kỷ trước, ngân hàng nâng cao lãi xuất để’ thu về tiền mặt.
- IV -
Bà Phương đi cơ sở, hay đi liên đoàn, hay vào nhà trẻ... hoặc đi đâu đó, hoặc khi ngồi bàn làm việc, bao giờ trên bàn cũng có một quyển sổ bà tự đóng, để nguyên cỡ thếp giấy học trò có dòng kẻ. Quyển sổ ấy lúc nào cũng để mở, bà đã kẻ thành biểu với những mục: Số thứ tự, họ và tên, đơn vị với những tiêu đề SKSS (Sức Khỏe Sinh Sản) mà anh em xuyên tạc là Sau Khi Sung Sướng, và KHHGĐ (Kế Hoạch Hóa Gia Đình) được mọi người đọc thành Không Hối Hận Gì Đâu. Trang ghi tên chị em đăng ký hoãn đẻ con thứ hai, trang ghi danh sách nữ công nhân là lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua, những tổ viên tổ lao động xã hội chủ nghĩa toàn nữ (do Toàn cung cấp, một năm vài lần nhà thi đua được bà mời sang làm việc về những danh sách này để báo cáo lên cấp trên hoặc chuẩn bị cho các hội nghị công đoàn, nữ công - chính vì vậy mà Toàn luôn có tên trong số ít những người được thưởng mạng lưới của công đoàn, phần thưởng là những cái khay sắt tráng men tròn đựng chén tách, vợ Toàn tích lại được một chồng, đem đựng bún, đựng rau sống những hôm ăn tươi, nhưng cũng có một lần mạng lưới được thưởng mỗi người một cái cặp lồng, vợ Toàn dùng mang cơm đi ăn trưa ở chỗ làm, bỏ được cái ca sắt tráng men ở nhà, trong thời văn hóa cặp lồng thật là giá trị).
Thường thường biểu được điền trên dưới chục dòng gì đó và rất ít khi kết thúc, rất ít khi cộng biểu. Cũng như bao giờ biểu cũng được để mở giữa bàn, khi bà đi vắng có một cái thước to chặn ngang. Nắng nóng lâu ngày, những tờ giấy mở dù có thước chặn vẫn quăn cả lại.
Còn trên bàn Xuân trố chỉ có một chồng báo. Đủ các loại. Hàng ngày. Hàng tuần. Chuyên san chủ nhật. Nhân Dân. Quân Đội. Lao Động. Tiền Phong. Tuần tin tức. Thể thao Văn hóa. Bảo thành phố. Bảo An Ninh. Xuân đi đặt báo và xin cho mình một tiêu chuẩn. Xuân coi đây như một thắng lợi to lớn về mặt chính trị. Được tiêu chuẩn báo riêng đầy đủ như thế có thể đếm trên đầu ngón tay: Tổng giám đốc, các phó tổng, bí thư đảng ủy, chủ tịch, phó chủ tịch công đoàn, chánh văn phòng. Toàn phụ trách thi đua tuyên truyền cũng chỉ được hai tờ báo hàng ngày: Tờ Nhân Dânvà tờ báo địa phương.
Chồng báo ấy nâng cao uy tín của Xuân trước anh em đi tàu. Anh em gọi Xuân là trưởng ban tuyên giảo và xin báo về tàu đọc. (Mỗi tàu chỉ được một tờ Nhân Dân thôi. Tờ báo về tới tàu là biến đi đâu mất tăm, có khi chưa ai kịp đọc đã đem đi gói. Mà dưới tàu có nhiều thứ cần gói lắm. Thấp nhất là con cá. Rồi đến bộ quần áo. Loại cao cấp hơn là bánh xà phòng thơm, chiếc xích xe đạp, quả táo tây, thứ quả ở Việt Nam ít người được trông thấy, được sờ vào, thứ quả hình dáng màu sắc hương thơm thật kỳ diệu như quả táo ở thiên đường mà ông Adam và bà Eva nhìn thấy mà cầm lòng chẳng đậu).
Số báo cũ này khiến Xuân được anh em dưới tàu mến, có lợi cho Xuân trong đại hội công đoàn tới nếu Xuân được các sếp coi là cán bộ kế cận, giới thiệu cơ cấu chấp hành. (Xuân rất hiểu tầm quan trọng của cơ cấu và hay lẩm nhẩm một danh ngôn: “Cả đời phấn đấu không bằng cơ cấu một giây”). Đó là chưa kể có báo, anh em không quên Xuân. Tàu về thế nào cũng có tí quà. Có cán bộ tàu thuộc loại chiến hữu của Xuân còn được Xuân cho hàng ki lô báo về gói cá, gói quà nữa cơ mà. Đấy là cả một kho báo cũ của chủ tịch công đoàn mà tình cờ mở tủ tài liệu của đồng chí chủ tịch, Xuân đã phát hiện được. Thì ra đồng chí chủ tịch không đọc một tờ báo nào. Chính tay Xuân đưa báo cho sếp, Xuân biết. Trên cùng là tờ Nhân Dân, rồi tờ Quân Đội, thứ ba là tờ báo địa phương. Ba tờ báo hàng ngày Xuân xếp đúng thứ tự như vậy. Rồi đến những báo định kỳ cũng theo thứ tự: Lao Động, Thể Thao Văn Hóa, Tuần Tin Tức, An Ninh. Té ra cụ không đọc. Cũng không giở ra. Gấp đưa cho cụ thế nào vẫn cứ y xì thế ấy. Đúng thứ tự thế ấy.
Triệt để phát huy thế mạnh của mình là báo, Xuân chịu khó đọc và nhớ (Xuân có trí nhớ tốt) những mục Chuyện lạ đó đây, những con chó Ăng lê được thừa hưởng một gia sản kếch sù hàng chục triệu bảng, những cuộc thi ăn ở Mỹ, những tin tức thời sự về Ceausescu, về Gorbachev, Yeltsin và Liên Xô đang khôi phục chủ nghĩa tư bản. Anh em tàu, những người vốn rất lạc hậu với tình hình chỉ biết há mồm nghe.
Kế hoạch lọt vào hàng ngũ kế cận của Xuân còn một việc nữa: Xuân không quên khối trên bờ. Dăm bữa nửa tháng một lần, Xuân lên sở văn hóa mượn những phim bị tịch thu, bị cấm về chiếu hẹp cho cán bộ chủ chốt đơn vị xem. Ngày ấy những phim xếch nặng xếch nhẹ đều là của lạ, của độc. Và việc được nằm trong số ít người đóng cửa lại xem những phim cấm, tạo cho người ta một cảm giác được tin cậy, một sự hơn người và có cảm tình với Xuân.
Ngoài ra Xuân còn có một quyển sổ dày. Bây giờ người ta toàn dùng sổ lịch, bìa ni lông in ảnh tuyệt vời, Xuân vẫn dùng quyển sổ thời nảo thời nào, bìa các tông cứng dày đã sờn mòn, trong đó Xuân ghi những dòng chữ nhỏ li ti và họa hoằn Xuân giở quyển sổ ra tra cứu rồi lại gấp vội cho vào tủ, khóa kêu canh cách. Không ai biết Xuân ghi những gì. Quyển sổ ấy Xuân giữ kín như đàn bà thấy tháng vậy.
Hôm nay Toàn lại lảng vảng qua văn phòng công đoàn. Liếc nhìn vào, chỉ có một mình Vân. Thế thì phải rẽ vào thôi. Ngồi với Vân còn có cái yên tâm khi các thủ trưởng đi qua, cứ như mình đang trao đổi công việc vậy. Ai chả biết giám đốc là chủ tịch hội đồng thi đua, còn công đoàn là phó. Cùng cánh phong trào ngồi với nhau, trao đổi, xin ý kiến, ai dám bảo mình ngồi chơi, ai dám bảo mình không phải là làm việc! Chưa ngồi ghế vội, hãy đứng xem cái bảng Đi bảo việc về báo công treo trên tường cái đã. Rồi quay lại hỏi Vân:
- Lên Liên đoàn lao động thật đấy à?
Vân biết Toàn nói tới ai và chỉ tay về phía cầu cảng:
- Về rồi. Nhưng xuống tàu ngay. Tàu 19 về hôm qua. Phải xuống để hỏi xem chủ nghĩa tư bản giãy chết như thế nào chứ.
Rồi cười. Lại lắc đầu:
- Sắp về đấy. “Lên Liên đoàn lao động” lâu rồi.
Quả nhiên một lúc sau Xuân trố xuất hiện ở một đầu hành lang. Tay phía trong giáp bờ tường, nơi trổ một dãy cửa sổ của các phòng làm việc lúc nào cũng có những cặp mắt lơ đãng hau háu nhìn ra, cánh tay phía trong ấy vung vẩy hơi mạnh, hơi quá mức bình thường để che đi cánh tay phía ngoài thõng xuống xách cái túi ni lông màu hồng in hoa rất đẹp, vai phía ngoài cũng lệch đi để hạ thấp túi xuống dưới bậu cửa sổ, dưới tầm quan sát của những người đang nhìn ra cửa sổ. Bình thường Xuân trố có dáng đi rất đặc biệt. Nhanh. Tay vung vẩy. Bàn chân sệt sệt đất hơi đá ra phía trước, nghe rõ tiếng dép lê quét đất sệt, sệt, sệt, sệt. Và mắt bao giờ cũng nhìn thẳng. Rất thẳng. Như đang có việc rất gấp. Rất bận.
Lúc này Xuân càng đi nhanh hơn. Tới cửa sổ phòng mình, Xuân liếc nhìn, chuyển cái túi về tay giáp tường, để nó ở vòng cua phía trong kín đáo hơn, lượn qua cửa và đi thẳng tới chiếc tủ đứng của Xuân. Toàn và Vân cúi đầu như đang chăm chú vào chén trà, không để ý gì đến chung quanh. Xuân móc túi quần, lấy chìa khóa xoay hai vòng cách cách, mở tủ vất túi vào, rồi xoay hai vòng cách cách khóa lại và tất bật ra đi không nói một lời. Sệt, sệt, sệt, sệt.
Vân và Toàn rời chén nước trà nhìn thẳng vào mắt nhau. Cười. Khẽ thôi. Nhưng thành tiếng. Vân bảo:
- Thế là biết tư bản giãy chết thế nào rồi đấy.
Ai cũng biết cái túi Xuân xách về là quà của tàu HL19. Ngoài túi quà chung cho từng đơn vị mà cô Phòng cực lực lên án là bình quân chủ nghĩa, còn có những suất quà riêng như vậy. Có thể của tàu. Có thể của một người nào đó quen mình, thông cảm với khó khăn của mình. Cũng có thể là một món bố thí để tống khứ những vị khách không mời mà đến cứ ngồi ám suốt cả buổi trong khi mình còn không biết bao nhiêu hàng phải bồng lên, phải bông hoa nhỏ, phải đối phó với hải quan với công an, phải làm việc với họ... Trong những túi như vậy có thể có bánh xà phòng, lon bia, cái líp, cái xích xe đạp, hoặc lọ dầu xanh. Cũng có khi là món quà đặc biệt giá trị làm mọi người phát thèm: Một đôi giày da cũ. Đôi giày ấy xỏ vào chân đi dọc hành lang, rõ ràng mình đã thay đổi hẳn về chất, trở thành một người sang trọng, lịch sự, có văn hóa, đi đứng rất tự tin, ai cũng phải nhìn: “Giày Hong Kong đấy hở. Đẹp quá nhỉ?”
Xuân đi được một lúc có tiếng gõ của cá sắt xuống nền đá hoa từ xa vọng lại. Tiếng gõ nhanh, nhẹ, trong, dòn, đập vào thính giác nghe hơi ghê ghê. Cốp, cốp, cốp, cốp. Tiếng guốc có cá sắt quen thuộc của bà phụ trách nữ công. Cả hai biết bà đã đi cơ sở về. Xuân trố và bà Phương cùng đi nhanh như nhau, mắt cùng nhìn thẳng về phía trước như nhau nhưng bước chân của Xuân trố sệt đất, còn bà Phương nhấc chân cao nên mới có tiếng cốp cốp đanh giòn như thế.
Hai người bạn ngồi nhìn nhau làm ra vẻ khiếp hãi. Khác với Xuân khi vào cũng như khi ra không nói một lời, vừa đặt chân tới cửa, bà Phương đã nói to:
-  Học sinh tiên tiến ba năm liền được thưởng đây!
Tiếng vang lanh lảnh như tiếng rao tào phớ đây! vậy.
Không thấy ai nói gì, bà lại nói to và vẫn trống không như thế:
-  Năm nay là năm chín tư nhỉ.
Vẫn im lặng. Toàn lịch sự trả lời:
-  Vâng. Năm nay là năm chín tư.
Bà ngồi xuống bàn, nhấc cái thước chặn ngang quyển sổ, lật sang trang, kẻ một cái biểu mới, vừa kẻ vừa nói:
- Niên học 91-92, 92-93, năm nay là niên học 93-94 nhỉ. Đúng rồi.
Tay viết. Miệng méo đi theo từng nét chữ. Rồi lại vừa viết vừa hát khe khẽ: “Trèo lên quản dốc ngồi gốc ơi a cây đa rằng tôi lý ới a cây đa. Rằng tôi lới ới a cây đa. Ai xui ý a tính tang tình rằng cho đôi mình gặp, xem hội cái đêm hôm rằm...” Và buông bút nhìn hai người:
- Này. Tôi mới mua băng dân ca quan họ Bắc Ninh. Nghe thích lắm. Người ơi người ở đừng về này. Tình bằng có cái trống cơmnày. Rồi Trèo lên quán dốc. Nghe thích lắm.
Thế nghĩa là trong số những tài sản có giá trị ở nhà bà đã có cái cassette. Không biết một cửa băng hay hai cửa băng nhưng rõ ràng là một tài sản giá trị. Đó là mơ ước của Toàn và của không biết bao nhiêu người. Là thi đua, Toàn đã được sử dụng một cái để phát thêm ca nhạc vào buổi phát thanh và đến khổ vì nó. Hãng Sharp, một cửa băng. Đám cưới nào cũng có người hỏi mượn, mà nội quy là không được cho ai mượn. Toàn chỉ một lần cho Vân mượn dùng trong đám cưới cậu em vợ và một lần liều mang qua cổng bảo vệ về nhà, để vợ con được nhìn thấy sáng chế xinh đẹp gọn gàng kỳ diệu này của người Nhật. Cả nhà quây quần xúm xít quanh cái đài. Đêm ngủ, Toàn để ở đầu giường trong màn, hai vợ chồng nhỏm dậy nhìn những đốm sáng màu đỏ tươi trong như hồng ngọc nhấp nháy. Rồi nghe Thanh Tuyền nho nhỏ nỉ non. Mỗi năm đẽn hè lòng man mác buồn. Chín mươi ngay qua biết bao tình thương. Màu hoa phượng thắm như máu trong tim... Không biết cái cassette của bà Phương nhãn hiệu gì? Bà Phương cắm cúi viết. Im lặng. Miệng chúm lại. Chưa được một dòng đã ngẩng lên hỏi to:
- Con chú Vân năm nay là học sinh tiên tiến à? Tên gì nhỉ? Trịnh Thị Thu Hương à? Lớp 6 hở? Ba năm liền hở?
Rồi vừa ghi vừa lẩm bẩm:
- Ba năm liền. 92. 93. 94.
Lại nói to như người đang phát biểu trong hội nghị, nói với tất cả mà không nói với một ai:
- Xuống cơ sở làm việc xong, tranh thủ ra bưu điện lấy báo cho cậu Mẫn. Con nó ốm. Nó xin phép Vân rồi hở. Nhưng báo Nhân Dân hôm nay chưa về. Báo chí phải được đọc ngay chứ để vài hôm mới đọc một thể còn nói làm gì. Thế nào gọi là tin sốt dẻo.
Bỗng bà hạ giọng như tâm tình một chuyện gì thích thú lắm, không thể để trong lòng:
- Hai ông này. Bưu điện bây giờ diện lắm nhé. Ôi giời ơi. Má phấn môi son hết. Họ có tiêu chuẩn cả đấy. Được may áo dài quần trắng. Được cấp tiền son phấn. Lên bưu điện chính lịch sự lắm. Các cô quần chùng áo dài duyên dáng lắm. Chỉ ở bưu điện chính thôi. Còn bưu điện quận đây chưa đâu. Vẫn bình thường thôi. Tôi bảo ở đây triển khai sau cũng được. Bây giờ đang mùa hè nóng bức. Đường thì bụi. Bụi thế, nóng thế mà phải áo dài, son phấn cũng gay.
Rồi vẫn sôi nổi như vậy:
- Đường bụi nhá. Con đường xuống chỗ mình chỉ còn một khúc thôi mà không sửa nốt nhỉ. Sửa gần xong. Chỉ còn một tí thì hết kinh phí, để đấy. Thật chẳng ra làm sao. Lại định bắt các xí nghiệp đóng góp nữa đây. Lần trước xí nghiệp mình phải đóng góp bao nhiêu Vân nhỉ?
Vân trả lời cho qua chuyện:
- Bốn mươi triệu.
- Xí nghiệp mình bốn mươi triệu. Các xí nghệp khác cũng phải hai ba chục triệu chứ. Nhà nước và nhân dân cùng làm mà chẳng tính toán gì. Bây giờ còn một khúc để gần hai năm nay rồi. Cứ đến đấy là phải xuống xe, dắt lên vỉa hè, chen chúc nhau, toàn bùn với đất. Nắng còn đỡ. Mưa bẩn hết quần áo xe cộ. Hôm nào cũng có tai nạn ô tô. Chỗ ấy như cái ao rồi. Vừa nãy tôi đi qua thấy một cái ô tô chở kính lật ngược. Kính vỡ hết. Phải điều xe cần cẩu đến cẩu. Một xe kính biết bao nhiêu là tiền.
Lúi húi ghi chép đâu được hai, ba dòng trong tờ biểu KHHGĐ Không Hối Hận Gì Đâu, bà lại:
- Chỉ thiệt nhà nước. Tiền đóng góp bốn chục triệu, không biết đầu tư vào công trình bao nhiêu. Hay là vào túi các ông ấy quá nửa. Chỉ chết những người lương thiện như anh em mình. Chỉ chúng mình là nghèo. Lương thiện là chết. Có chức có quyền giàu ngay. Mà người ta bảo không gì kiếm bẫm bằng làm đường đâu các ông ạ!
Toàn chêm vào một ý kiến ngang cành bứa, trêu ngươi:
- Bà này mất tin tưởng ở trên rồi. Chúng ta có cả một đội ngũ đầy tớ đông đảo như thế làm sao mà khổ được. Bà không nghe họ nói trên tivi à? Chúng ta muốn khổ cũng không được.
Bà Phương nhìn Toàn cười, hạ thấp giọng, thân tình hơn:
- Họ ăn kinh lắm. Từ dưới lên trên. Từ trên xuống dưới. Không ai không ăn. Thằng con tôi chơi với con ông chủ tịch quận, hai đứa cùng học lớp 6 với nhau. Thằng con ông chủ tịch mở tủ lục đồ chơi. Thế nào một hộp rơi xuống đất. Toàn nhẫn vàng lăn ra khắp nhà. Hai đứa chui cả vào gầm giường nhặt. Tôi nghĩ đấy chỉ là chỗ lẻ thôi, mới để sơ sài thế chứ...
Toàn đứng lên, cất giọng đanh thép, mắt nhìn về phía xa:
- Chúng ta phải đẩy mạnh việc xây dựng đội ngũ, xây dựng con người mới. Chống mọi biểu hiện tiêu cực, bè phái, tham nhũng, lời nói không đi đôi với việc làm. Cái sợ nhất là chúng ta nói mà không làm. Phải rèn luyện, tu dưỡng vươn lên ngang tầm thời đại. Nhiều vấn đề mới lắm các đồng chí ạ. Như tin học...
Bà Phương cười trước tiên:
- Đúng. Đúng. Công nhận ông này nhớ thật đấy.
Toàn nghiêm mặt:
- Ngày nào cũng nghe trên tivi. Ngày nào cũng đọc trên báo. Không muốn nhớ cũng phải nhớ.
Vân đã định không tham gia vào đề tài muôn thuở ấy nữa, cũng phải phì cười:
- Em nói các bác nghe. Chuyện thật một trăm phần trăm. Một hôm em đi làm về muộn, về nhà đã bảy giờ hơn, đúng chương trình thời sự. Dắt xe đến cửa thấy vợ em đang đứng giữa nhà vái lia vái lịa. Nhà em vốn chăm chỉ hương khói. Người ta thắp hương ngày rằm mồng một. Còn nhà em sáng nào cũng thắp hương. Em nghĩ bụng quái lạ. Sao hôm nay cô ấy lại thắp hương cả buổi tối nhỉ. Có giỗ chạp gì đâu. Mà lại quay lưng về bàn thờ, vái đi đâu ấy. Đến lúc bước vào mới biết thì ra cô ấy đang vái cái tivi. Trên tivi một ông đang nói về nâng cao đạo đức cách mạng. Ông kễnh ấy nhà em biết quá rõ. Khi còn hàn vi, sáng nào cũng một chảo cơm rang. Bây giờ không biết bao nhiêu biệt thự.
Ba người cười ầm. Vân trừng mắt:
- Mà nhà em đứng rất nghiêm, thẳng người, vái rất cung kính.
Toàn bảo:
- Chắc là bà ấy vái thần tài. Mong thần tài phù hộ để lộc chảy vào nhà mình.
Câu chuyện đang có vẻ vào guồng thì Liêu, chủ tịch công đoàn từ phòng bên bước sang. Một người cũng kém tuổi Toàn, vốn là tổ trưởng sản xuất, chiến sĩ thi đua nhiều năm liên tục mà lên. Trình độ, năng lực có hạn, giờ đây nằm trong hàng ngũ lãnh đạo xí nghiệp, cái khổ của Liêu là cuộc họp nào cũng phải nhân danh công đoàn phát biểu ý kiến. Từ phương hướng sản xuất kinh doanh, xét duyệt lao động tiên tiến chiến sĩ thi đua, tổ chức học tập nghị quyết, giải quyết những rắc rối trong khu tập thể,... nói làm sao để vẫn là ý kiến riêng trong khi mình không có ý kiến riêng nào cả, chẳng lẽ cuộc họp nào cũng chỉ một câu: Tôi hoàn toàn tán thành ý kiến của đồng chí tổng giám đốc. Đó là điều băn khoăn trăn trở nhất của Liêu. Điều băn khoăn thứ hai của chủ tịch công đoàn là làm thế nào cho cái bụng to to lên một tí. Liêu vốn gầy, lại cao, bụng lép. Mà cả ban tổng giám đốc ai bụng cũng to, ngay chánh văn phòng cũng vậy. Đứng giữa những người ấy, Liêu trông chẳng có dáng dấp lãnh đạo tí nào. Toàn đã bắt gặp mấy lần chủ tịch công đoàn đứng trước tủ gương, ưỡn người lấy hai tay xoa xoa bụng, ngắm mình trong gương, rõ ràng đang khuyến khích động viên cái bụng to lên.
- Hai ông ngồi uống nước hay đang có việc gì đấy?
Với Liêu cùng cánh phong trào thì không cần giấu và không thể giấu.
- Chúng tôi ngồi chơi thôi.
- Ông Vân sang bên này tôi nhờ một tí.
Hai người đi ra. Toàn định về văn phòng. Bà Phương bảo:
- Ngồi đây đã. Vân nó sắp chuyển rồi. Sắp thoát khỏi đây rồi. Sang chính quyền. Tôi bảo nó từ năm ngoái, từ mấy năm nay rồi cơ. Mày còn trẻ. Còn có điều kiện. Tao già rồi. Năm nay hưu. Sang năm hưu. Vài ba năm nữa hưu. Nhường cho lớp trẻ. Tao chịu. Mày còn sức bật. Ớ đây ăn cám à? Rách lắm. Ai người ta để ý đến mình. Cứ sang chính quyền, sang kinh doanh là khá. Ông Thường đấy. Mới sang liên doanh, cửa hàng một năm. Xây nhà ngay. Sắp xong rồi. Chứ lọ mọ ở xưởng sửa chữa làm gì được. Sáng nào cũng cơm rang mì luộc. Tôi bảo ông Liêu: Vân nó còn trẻ. Cho nó đi. Công tác tư tưởng ông Liêu mãi đấy. Nói chung ai có điều kiện thì cho người ta đi. Cả thằng Mẫn nữa. Tìm chỗ mà đi dần đi.
Bà lại thủ thỉ:
- Như mình về là hai bàn tay trắng. Lương mình tất cả các khoản hơn trăm nghìn. Gạo, rau, chất đốt, tiền điện, tiền nước, bao nhiêu thứ... Tất cả vào ăn không đủ. Lấy đâu ra xe máy. Cứ bảo chống tham nhũng. Trừ những đứa trắng trợn lộ liễu thì bị thôi. Còn làm sao chống được. Nó đã thành dây thành nhợ, thành bè thành đảng có mà giời chống.
Điều ấy đứa bé con cũng biết. Kể cả mấy ông hô hào chống tham nhũng cũng biết. Nhưng Toàn chỉ cười. Không nói gì. Khi bà Phương mở máy, Toàn chỉ nghe chứ không góp chuyện, có chăng chỉ là phản đề như vừa nãy.
Bởi Toàn đã bị với bà Phương một vố. Năm ngoái bà có gặp nhà thi đua bàn việc xin tiền thưởng cho phong trào phụ nữ. Toàn ủng hộ thôi. Vì thi đua là việc của Toàn. Bà Phương làm một tờ trình, xin trích quỹ khen thưởng của tổng giám đốc, thưởng phụ nữ xuất sắc, thưởng phụ nữ tiên tiến, thưởng các tổ, thưởng sinh đẻ có kế hoạch, thưởng mạng lưới (mạng lưới là có cả Toàn đấy). Tổng số tiền thưởng lên đến ba triệu đồng. Toàn đưa trình tổng giám đốc. Bận nhiều việc, tổng giám đốc chưa xem ngay. Hôm sau tổng giám đốc vào văn phòng, ném lên bàn Toàn tờ giấy của bà Phương và quạt Toàn một trận nên thân:
- Ông làm thi đua mà không biết gì cả. Phụ nữ xin tiền thưởng. Thế thanh niên xin ông có cho không? Thanh niên được, công đoàn phải được. Còn Đảng thì làm sao? Quần chúng được, đảng viên không được à? Quỹ nào cho xuể. Sản xuất như thế. Kinh doanh như thế. Thưởng cái gì? Tiền lương còn lo méo mặt đây này.
Lúc ấy ở văn phòng có mặt bà Phương. Bà đang ngồi trước bàn chánh văn phòng Điều, xin Điều duyệt văn phòng phẩm. Bà đứng lên giơ tay chém vào không khí, hưởng ứng chân lý tổng giám đốc vừa nói:
- Đúng! Đúng!
Toàn thấy ơn ớn nơi họng, một cảm giác muốn ói. Khi tổng giám đốc ra, Điều bảo Toàn:
- Đâu. Đưa xem nào?
Điều xem qua tờ trình, cười:
- Nhảm rồi bà Sau Khi Sung Sướng ạ. Bà có hối hận gì không hay Không Hối Hận Gì Đâu?
Bà Phương nhận lại tờ trình cười hì hì:
- Cái ông này chỉ nói bậy thôi. Thì cũng tưởng dễ dàng, xin trích quỹ một ít động viên phong trào. Mình có xin bỏ túi mình đâu mà sợ. Với lại vẫn thấy khách khứa về là ra Đồ Sơn tơi tới thì tưởng xí nghiệp vẫn có nhiều tiền. Tiền động viên thi đua sản xuất chẳng hơn tiền ra Đồ Sơn ăn chơi à?
Điều chán ngán:
- Tôi chán cho bà quá. Tiền ra Đồ Sơn ăn chơi còn đẻ ra tiền, gấp mấy lần chứ không như đồng tiền để các ông bà trao cho hội thi đôi bàn tay vàng đâu.
Rồi lại bảo:
- Mà ai bảo bà chúng tôi ra Đồ Sơn không dự hội thi hai bàn tay vàng? Hát karaoke mà không phải dùng đến hai bàn tay vàng à?
Thực sự cùng cánh hoạt động phong trào, Toàn không ghét gì bà Phương. Toàn chỉ ghê ghê cái dáng đi pắp pắp pắp pắp như máy khâu Mitsubishi (theo so sánh của Vân), cái cách nói nhanh, nói hết những điều mình nghĩ, từ đâu xông đến, bất chấp những người có mặt đang nói chuyện gì, đang làm gì, bà phải xổ ra những ý nghĩ đầy ắp trong đầu, vợi nó đi ngay. Cái hôm Toàn đang cắm cúi ngồi nháp bảng tin, bà bước vào vừa cười thành tiếng vừa hỏi:
- Ông Toàn này. Tôi đố ông biết người già có sợ chết không nào?
Bà cười và cố nén những điều làm bà buồn cười lại. Bà còn chờ Toàn phát biểu đã. Toàn bị cắt ngang dòng suy nghĩ vì lịch sự phải trả lời:
- Có chứ.
Bà cười ngặt nghẹo:
- Hì hì. Già cũng vẫn sợ chết. Về hưu rồi. Bảy mươi tuổi rồi vẫn còn muốn sống. Ông Sanh già xí nghiệp mình về hưu rồi, ốm nặng ở bệnh viện. Tôi với anh Thu bí thư lên thăm. Ông ấy đang nằm. Tôi vào bảo: Anh Sanh này, các anh ấy đến thăm anh đấy. Thế là ông ấy vùng dậy khóc tu tu. Đến buồn cười. Buồn cười chết được. Thế mới buồn cười. Bảy mươi rồi còn sợ chết.
Và nói sau khi chùi nước mắt, vẫn là trong cái nức lên của sự buồn cười:
- Hay là đến lúc ấy mình cũng sợ chết nhỉ.
Đấy. Tính cách bà Phương là như thế. Bà rất được anh em tàu có cảm tình. Thương nữa. Chồng bà cũng là một thủy thủ kỳ cựu, một trong những người có mặt đầu tiên ở xí nghiệp từ khi mới thành lập. Bà cũng vậy. Bà hay nhắc đến những ngày đó. Cái thời đi đến xí nghiệp vui như hội, cái thời làm thêm giờ vì miền Nam ruột thịt chẳng cần nhận thêm lương. Cái thời tập tự vệ bò lăn lê toài dưới nắng, họp thanh niên ca hát thâu đêm. Cái thời tàu vỏ gỗ ra khỏi bờ mấy hải lý thôi, buông mẻ lưới nào cũng trăm con cá hồng, thủy thủ mổ cá kêu như vạc.
Những thuyền trưởng thuyền phó nhiều thâm niên ở xí nghiệp vẫn còn nhớ chuyện chồng bà hy sinh ở Hạ Mai. Hai tàu đỗ liền nhau sát vách núi đá, máy bay Mỹ bắn cháy tàu đỗ bên ngoài. Nước tràn vào, tàu từ từ chìm, kéo nghiêng cả tàu bên trong. Một người vọt từ trong khe núi đá nhảy xuống tàu, dùng rìu chặt phăng dây cáp chằng giữa hai tàu và gục xuống mặt boong. Một tàu chìm, còn một tàu được cứu thoát. Người thủy thủ gan dạ, dũng cảm ấy là chồng bà Phương. Anh không bao giờ trở dậy nữa. Một viên đạn xuyên vỡ toang lồng ngực.
Tất cả gánh nặng cuộc sống đè lên vai bà mấy chục năm rồi. Bà làm hết sức mình nuôi ba đứa con trai, “ba ông hoàng Lào” như cánh thuyền viên vẫn gọi đùa. Làm thêm giờ. Nuôi lợn. Mua cá vét hầm tàu làm mắm, đem bán. Xuống tàu xin cá. Anh em tàu bao giờ cũng dành cho bà những con cá ngon nhất đem về nấu cho ba ông hoàng Lào. Các tàu đi nước ngoài về bến thấy “chị Phương” xuống “thăm tàu” bao giờ cũng có quà: xà bông, dầu xanh, cả áo gió, áo rét cho các cháu. Bà còn dành dụm được vài chỉ vàng gửi mua quạt máy, cassette, tivi... Bây giờ các con bà đều đã tốt nghiệp trung cấp, đi làm.
Là một người hiếu động, nay không có việc làm, bà rất khổ tâm. Cố gắng thuyết phục mãi phân xưởng đông lạnh - một phân xưởng lao động chủ yếu là nữ - mới tổ chức được hội thi hai bàn tay vàng. Lập ban chấm thi. Toàn ở ban thi đua xuống lấy tin tức thông báo kịp thời từng giờ một trên hệ thống truyền thanh. Rồi tổng kết, khen thưởng. Nhưng phong trào chỉ lên được một ngày hôm ấy. Vì nguyên liệu phải dồn mấy ngày mới đủ cho một ngày thao diễn!
Cũng chẳng thể suốt ngày suốt tháng nắm tình hình kế hoạch hóa gia đình, sức khỏe sinh sản. Cũng chẳng thể suốt ngày lên Liên đoàn lao động.
Thật may, ở xí nghiệp có một việc ai cũng ngại. Đó là những đám ma! Đám ma ở thành phố thì đơn giản thôi. Nhưng đa phần ở những nơi xa: Ninh Bình, Hà Bắc, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh... Nó thường đến bằng những bức điện rất đột ngột. Cái chết của đích thân cán bộ, thuyền viên. Của bố, mẹ, vợ một đồng chí cán bộ tàu hay cán bộ phòng ban. Không thể không đi. Mà phải chuẩn bị xe đi ngay kịp dự tang lễ. Bên cạnh việc chuẩn bị tiền trợ cấp theo quy định của xí nghiệp, chuẩn bị xe, điều khó khăn nhất là ai đi? Hành trình xa, lại phà đò, lại đột xuất, chưa biết đường biết lối. Ai cũng ngại. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo, bị động ấy, bà Phương nổi lên như một ngôi sao sáng. Chỉ bà Phương đi. Nằm trong bộ tứ, bà đủ tư cách đủ cương vị thay mặt lãnh đạo xí nghiệp. Và bà đến rất kịp thời, đúng lúc.
Tại nhà đám, bà được tiếp đón, được kính trọng, được quý mến vì xa xôi như thế xí nghiệp cũng vẫn đến chia buồn và dự tang lễ với gia đình. Bà nói nghĩa tử là nghĩa tận, dù bận bịu đến đâu xí nghiệp cũng có nghĩa vụ phải đến viếng (ông, anh, chị hoặc bà) và chia buồn với gia đình. Anh (hay chị ấy) công tác ở xí nghiệp lâu năm có nhiều đóng góp. Một tổn thất lớn cho gia đình và cũng là cho xí nghiệp. Mặc dù đi xa hàng trăm cây số, ê ẩm cả người, ăn cỗ nhà đám nguội tanh nguội ngắt, ruồi bay vù vù, suốt đêm chập chờn trong tiếng kèn đám ma, bà Phương vẫn cứ tươi tỉnh. Bà hiểu rằng mình đã làm được một việc hữu ích. Và bà có một vị trí nhất định trong xí nghiệp.
Khi trở về xí nghiệp, bà tươi tỉnh gấp đôi dù bà mệt gấp đôi. Tổng giám đốc, bí thư đảng ủy, chủ tịch công đoàn, trưởng phòng tổ chức xúm lại quanh bà, hỏi han tình hình đi đường, sức khỏe của bà, tình hình đám xá... Bà báo cáo lại và còn nói cả những nhận xét của mình về gia đình nhà đám:
- Nhà ông Tuyên nghèo lắm. Ông ấy ở đây ăn diện thế. Thuyền trưởng bao năm rồi. Đi Hong Kong mấy chuyến mà nhà chẳng có gì. Nhà tranh vách đất, kém nhất xóm ấy. Thì ra ông ấy gửi về ít lắm. Bây giờ bà ấy chết rồi mấy đứa con mới gay đây.
Đừng nghĩ rằng cái sự đám xá như thế họa hoằn mới có. Không. Xảy ra luôn đấy. Có tháng tới hai ba đám. Nhưng cũng nhiều khi nửa năm chẳng đám nào. Những lúc ấy bà Phương buồn. Bà nhớ những chuyến đi xa. Một lái xe với một mình bà là thủ trưởng. Đúng là thủ trưởng. Bà nhớ những cái rạp dựng ở sân nhà đám. Nhớ các bà bổ cau têm trầu. Nhớ người đi ra đi vào mặt mũi nghiêm trang và bận rộn. Bà được ngồi ở vị trí danh dự, nhưng bao giờ cũng tìm cách xuống ngồi với cánh đàn bà... Bà nhớ mùi hoa huệ, mùi nhang đám ma, nhớ tiếng kèn đám ma quen thuộc và ảo não... Chính bà Phương đã một lần thổ lộ với Toàn:
- Lâu lâu đi xa một tí nó cũng thay đổi không khí ông ạ.
Toàn biết nội dung chữ đi xa ấy. Và cũng không phải vì thế mà Toàn đánh giá thấp bà trong những chuyến công du. Hãy nghĩ tới những chuyến đi hàng trăm ki lô mét trên con đường nắng chảy nhựa đường, chờ phà mấy tiếng đồng hồ. Hay gió bấc cắt ruột, hay mưa dầm đường làng lầy lội. Hãy nghĩ tới những bữa cỗ nhà đám, những đêm thâu nằm úp thìa với những người không quen biết, tiếng kèn đám ma ngay bên tai...
Toàn rất kính phục bà Phương. Toàn nghĩ mình không làm được việc ấy, không thể nào làm được việc ấy.
Thời tốt đẹp đã qua rồi! Cho đến bây giờ những người rách việc thỉnh thoảng vẫn ôn lại thời kỳ vàng son ấy. Thời kỳ chênh lệch giàu nghèo chỉ là sự chênh lệch giữa những người đi bộ với nhau, chả đáng là bao. Có hơn nhau cũng chỉ là cái áo pha lon, cái quần xa tanh, hay thỉnh thoảng nấu một nồi chè, múc ra mỗi người một bát. Không như bây giờ, sự chênh lệch giữa những người đi bộ với những người đi xe máy, đi ô tô, đi máy bay trên con đường thiên lý. Thời kỳ còn đánh cá, thời kỳ còn phong trào. Thời kỳ con người cốt sao chỉ có miếng ăn. Và mỗi tàu mất hàng tạ cá, hàng tấn cá - toàn cá ngon - một chuyến biển.
Cô Phòng bao giờ cũng cười chảy nước mắt mỗi khi nhắc đến những gói cá toát mồ hôi hột. Xin được cá, cho vào túi ni lông, bọc giấy báo bên ngoài thật vuông vắn rồi mới cho vào túi xách. Nhưng túi đổ mồ hôi cá lạnh. Đi qua cổng bảo vệ ra vẻ nghiêm nghị nhìn thẳng. Bảo vệ cũng ra bộ mải mê đắm chìm trong suy nghĩ nội tâm, mắt nhìn tận đâu đâu.
- Cái bố gì ở bộ về chứ. Cặp da đen bóng loáng, oai vệ lắm. Nắng tháng sáu chang chang mà cái cặp ướt đẫm. Thế bố hỏi con chứ cái cặp chứa tài liệu gì mà ghê thế?
Cô lấy mùi xoa lau nước mắt nói tiếp:
- Anh Tí này. Hôm ấy tàu đánh tôm về. Em xách túi xuống tàu. Lối đi xuống tàu đã chật thì chớ. Người đứng như nêm. Lại mất điện. Tối như hũ nút. Em cứ chen bừa. Mãi mới đến được cửa nhà tắm(1). Em gọi: “Anh Hùng lùn ơi. Lại Hùng lùn ơi mới kinh chứ! Túi của em đấy nhé. Nhớ đấy”. Nghển cổ nhìn vào, thấy ông Hùng đại phó quần áo bảo hộ lao động đứng trong nhà tắm. Dưới chân bao nhiêu là túi. Có một lồ toàn cá song với cá tráp, ngon lắm. Chắc là để biếu các sếp. Mấy người nữa đến sau, vất túi vào. Ông Hùng nhặt túi, bắt đầu bốc mỗi túi một ít. Rồi nói to: “Thôi nhé. Không nhận túi nữa đâu đấy”. Lại cười khì một mình: “Thật cứ như là mậu dịch ấy”.
Cô cất tiếng cười lanh lảnh và tiếp:
- Công nhận ông Hùng ông ấy tốt thật đấy.
Trước đây con người đối với nhau còn tốt như vậy. Dù là lấy của nhà nước đi cho. Nhưng cũng vẫn là còn nghĩ đến nhau, vẫn còn thương nhau. Khi mới bắt đầu chuyển một số tàu đánh cá đi vận tải nước ngoài, cái tình cũ vẫn còn. Cô Phòng và nhiều người khác vẫn được quà (ngoài suất quà tập thể trong túi ni lông). Thuốc lá ngoại, xà phòng thơm, xích líp xe đạp. Dùng và bán. Thêm vào nuôi con. Ngày ấy ở xí nghiệp có biết bao loại tình thương. Anh em nhân viên phòng ban sống nhờ vào tình thương đó. Và cả khối phòng ban đều phục cách phân loại tình thương của anh chàng Lập, kỹ sư lưới thuộc phòng kỹ thuật:
-  Tình thương lạnh lẽo (cả ướp đả)
-  Tình thương băng giá (cá ướp đông)
-  Tình thương thối nảt (tôm nảt)
-  Tình thương sắt thép (xích líp xe đạp)
-  Tình thương mây khói (thuốc lả ba số, Capstan)
-  Tình thương thơm tho (xà phòng thơm)
Hầu như tất cả cán bộ công nhân khối trên bờ đều được hưởng tình thương ấy, không ít thì nhiều. Mỗi người có một con đường riêng của mình để đến được với những tình thương trên, nhất là đến với ba loại tình thương lạnh lẽo, băng giả và thối nảt, nghĩa là đến với hầm cá.
Giờ đây tình người bạc bẽo. Có người chuyến trước đi đánh cá còn vui vẻ với Toàn, chuyến sau đi tàu vận tải ngoại thương về, gặp Toàn trong xí nghiệp, giả cách không nhìn thấy hoặc chỉ gật đầu chào nhạt nhẽo. Toàn cảm thấy như mình bị xúc phạm. Thật là giở mặt như bàn tay vậy. Bây giờ người ta chẳng cần thành tích, chẳng cần chiến sĩ thi đua, bằng khen huân chương. Bây giờ là tiền.
Chính Toàn đã nói hài hước:
- Tôi cũng phải xin đi nước ngoài một chuyến, xem cán bộ thi đua các hãng Hitachi, National hoạt động ra làm sao.
Và anh em tàu vận tải ngoại thương vỗ vai Toàn cười ngất:
- Bên ấy không có thi đua đâu, bố!
Với các tàu vận tải nước ngoài, thời đại thi đua đã qua. Và cũng qua luôn cái thời xách con cá về nhà. Chở cá tôm đấy nhưng không ai thèm lấy.
Toàn biết mình chẳng là cái đinh gì nữa. Chẳng ai cần đến Toàn nữa. Ngay anh em trên bờ, những giám đốc lạnh đông, những giám đốc cơ khí sửa chữa cũng chào Toàn, nửa đùa nửa thật: “Chào nhà thua đi”. Ừ, thôi, không cần là đúng thôi. Chẳng trách được họ. Nhưng dù sao cũng còn tình người cả chục năm nay chứ. Sao họ hà tiện lời chào đến thế? Thử mời xem Toàn có xuống tàu không? Những người như thế Toàn khinh. Dù có giàu đến mấy Toàn cũng khinh. Toàn thể hiện sự khinh bỉ của mình bằng cách có giáp mặt nhau, cũng làm như không nhìn thấy họ.
Thế rồi tiên trách kỷ hậu trách nhân. Toàn cho rằng nếu trước đây họ lợi dụng Toàn để được tiếng tăm, để được thỏa mãn lòng tự ái (con gà tức nhau tiếng gáy), để được đề bạt tăng lương thì Toàn cũng lợi dụng họ để kiếm miếng ăn nuôi vợ nuôi con. Đôi bên lợi dụng lẫn nhau thôi. Tình nghĩa gì đâu. Nếu mình được đi nước ngoài mình cũng làm như họ. Mưa sao được khắp. Nhất là việc buôn bán làm ăn ngày một khó. Có người đáp số bằng không. Có người đáp số bằng âm. Có người chết hẳn. Cơ số đạn ít. Mà có nhiều đạn chăng nữa cũng chẳng thể bắn vung vãi. Phải lựa chọn mục tiêu. Và đã bắn là phải trúng.
Ba loại tình thương sắt thép, mây khói và thơm tho không còn cũng không ảnh hưởng gì lắm. Gay go ở chỗ ba loại tình thương lạnh lẽo, băng giả và thối nát cũng đã ra đi. Vẫn có người còn được hưởng nhưng số đó là rất ít. Cùng làm ở phòng kỹ thuật nhưng Khoa vẫn được thương. Còn Lập thì nguồn thương gần như đã cạn. Vì Khoa là kỹ sư cơ khí. Khoa vẫn có việc phải xuống tàu. Các đơn đặt hàng sửa chữa đều phải qua Khoa. Khoa vẫn có cửa. Thuyền trưởng, máy trưởng, anh em tổ máy thế nào chả có quà mỗi khi tàu về bến, Khoa xuống khảo sát sửa chữa. Lập thì trều. Vì Lập là kỹ sư lưới. Có ai đặt hàng sửa chữa lưới, cân chỉnh lại tâm của ván và tính góc tống an pha của ván nữa đâu. (Mơ thì đã từ lâu rời xa những công thức ấy. Và cũng không ở xí nghiệp nữa. Mơ đã toại nguyện, đã trở thành một sếp, chuyển sang làm giám đốc công ty xuất khẩu thủy sản của thành phố và vẫn phòng không. Chẳng biết có ai đến với Mơ không, để Mơ tuyên bố bắt đầu việc ấy: “Nào, ta sinh hoạt nào anh!") Ngay các tàu còn đánh cá cũng không cần đến Lập. Họ tự làm. Với lại tính Lập rất tự trọng. Dù đói nhưng rất tự trọng. Từ khi trong hội nghị công nhân viên chức có thuyền trưởng phát biểu: Tàu cả về, người xuống như dòi thì Lập chỉ xuống tàu khi có người mời. Lập nhất quyết không chịu là dòi dù có đói đến đâu!
Một dạo Lập đã tưởng nghề lưới của mình rồi lại được trọng dụng. Ây là khi xí nghiệp có chủ trương thí điểm phát triển thêm nghề lưới đèn. Nếu thắng lợi sẽ làm cả nghề lưới vây ánh sáng nữa. Được giao trách nhiệm chủ nhiệm đề tài, Lập lao vào công việc. Lập tính toán thiết kế. Lập ra xưởng lưới. Chị em xưởng lưới quây lấy Lập. Họ bảo Lập:
- Thầy ơi. Chúng em quên hết cả nút chân ếch đơn với nút chân ếch kép rồi.
Đó là các cô nhắc lại với thầy giáo Lập những câu Lập hỏi họ trong kỳ thi nâng bậc do phân xưởng tổ chức. Không chỉ làm vợt và một vàng lưới rê để thả kết hợp thí điểm, là chủ đề tài Lập còn lao vào thiết kế thuyền, mua sắm đèn măng sông, lập danh sách thuyền viên lấy ra từ đám lực lượng dự bị để tổ chức duyệt, ra quyết định. Phạm Cương được chỉ định làm thuyền trưởng lưới đèn. Ông chủ nhiệm đề tài và ông thuyền trưởng mới phong này gặp nhau ở một điểm: Cùng muốn phá thế độc nghề lưới vét. Cái nghề lạc hậu tàn phá hủy diệt môi trường, hiệu quả kinh tế rất thấp. Cả hai cùng mơ tưởng đến thành công. Mà thành công chứ sao lại không. Chi phí thấp, chất lượng cá lưới đèn chắc chắn cao. Các tàu lưới vét già cỗi rồi, có muốn vét cũng không vét được. Nước lên thuyền lên. Đó là mong ước của Lập, chỉ của Lập thôi. Còn Phạm Cương không. Anh thuộc trường phái bi quan, vả lại anh đã có hướng: Về làm thuyền trưởng cho một hãng vận tải tư nhân mới thành lập ở quê. Cái chính là phải có tên trong danh sách thi thuyền trưởng kỳ này. Đoàn tàu thuyền hùng dũng ra đi. Đích thân Lập xuống thuyền nhỏ, thắp măng sông, nụ thuyền cùng với những thuyền viên khác. Say như cá say ánh sáng đèn. Đã lâu lắm mới lại nhìn thấy cảnh ấy. Những con cá giương mắt đờ đẫn, hai vây mang gần như trong suốt chỉ hơi động đậy như bị thôi miên. Những con mực liên tục đổi màu thật đẹp, nhất là khi toàn thân nó chuyển sang một màu đỏ rực, vây lườn mềm mại như sóng lượn. Chỉ việc cho vợt xuống xúc đổ lên thuyền. Người xúc, người nụ. Đèn măng sông sáng rực. Dù giữa biển, vẫn cảm thấy sức nóng của những chiếc đèn tỏa ra. Da vừa ra mồ hôi đã khô ngay. Chỉ một đêm đầu tiên, tất cả đều thấy mình óp đi. Tóp đi. Lập động viên anh em. Và lại xuống một thuyền khác. Nhưng ngay đêm thứ hai anh biết rằng thất bại rồi. Cái nghề dân chài cá thể hay hợp tác làm rất hiệu quả thì anh em trong “đề tài” của Liên hợp Biendongfiscom này không thể làm được! Nó quá vất vả. Sự chịu đựng, cường độ lao động bỏ ra gấp vài chục lần đi đánh cá. Lính quốc doanh xài lưới vét quen rồi. Nhàn nhã, công tử quen rồi. Thả lưới xong là nghỉ, là ngủ, là bài bạc, mặc cho con tàu kéo lưới. Chờ ba tiếng sau, khi chuông gọi kéo lưới mới “quần đẹp áo đẹp” đi ra. Nhiều cá, ít cá không cần biết, thả lưới muối ướp cá xong lại vào cabin nằm dài hay đứng trên boong hút thuốc lá ngắm trời ngắm biển. Rách lưới, xúc bùn, sự cố cũng vất vả đấy. Nhưng không thể so sánh với lưới đèn, suốt đêm nụ thuyền, suốt đêm đứng trong hơi nóng của những chiếc đèn măng sông trên con thuyền nhỏ nhấp nhô đầu ngọn sóng... Và còn một điều căn bản nữa là đồng lương chẳng thể phá khung, chẳng hơn lương đi đánh giã là bao. Sau hai tuần thử nghiệm, các thuyền viên của anh gần như lãn công. Ôm. Ôm la liệt. Người sốt. Người ỉa chảy. Người kiết lỵ, người không bệnh gì nhưng nói kiệt sức rồi... Việc chuyển nghề lưới đèn kết thúc sau lần ra quân thứ hai. Khi tất cả anh em đều báo cáo tổ chức xin nghỉ phép, nghỉ bù, hoặc nói thẳng ra là sức khỏe yếu không theo được.
Lập biết anh đã thất bại hoàn toàn. Bởi chính lãnh đạo cũng không quyết tâm. (Anh đâu biết tổng giám đốc sốt sắng duyệt phương án này cũng chỉ để chặn họng bọn “thối mồm” ganh ghét đi đâu cũng nói ông không tập trung vào đánh cá, không chịu phát triển ngành nghề mới, chỉ chú ý đến những tàu vận tải ngoại thương và bây giờ ông đã có câu trả lời bọn họ). Muốn chuyển đổi ngành nghề phải thay đổi ít nhất một nửa thiết bị và quan trọng hơn, phải đào tạo cả một đội ngũ thuyền viên mới. Phải đầu tư thời gian dăm bảy năm là ít mà các sếp đâu có tính chuyện lâu dài. Ai biết mình sẽ còn ở đây bao lâu. Cái chính là với một lực lượng thiết bị và con người sẵn có như vậy, anh sử dụng nó như thế nào, bóc nó như thế nào để cầm cự và vừa cầm cự vừa biến thiết bị, tàu, cầu cảng, kho lạnh thành tiền, thành vàng, thành đô la của mình, những thứ dễ cầm, dễ mang theo, dễ cất trong túi, trong tủ gia đình hay tủ phòng làm việc, nếu phải có quỹ đen, tránh sự giám sát của các phu nhân.
Những người có điều kiện đều biết chiết suất sắt thép, bê tông thành tiền thành vàng đút túi, chẳng cứ gì các sếp. Các phân xưởng biết. Anh em đi tàu biết. Các cửa hàng biết. Biết và làm. Nhiều người biết nhưng không có điều kiện làm. Như đám công nhân phân xưởng. Như xưởng lưới đang thất nghiệp. Như đám nhân viên phòng ban. Như Lập. Bây giờ Lập xác định được rồi. Cứ là khốn nạn thôi. Khốn nạn đến bao giờ không biết. Có lẽ cho đến khi lũ con lớn lên đi làm thêm cặp vào với Lập. Bấy giờ mới đỡ gay go. Đến lúc ấy Lập đã sáu bảy mươi rồi.
Hoàn cảnh gia đình Lập rất gay. Bốn đứa con đang tuổi học trò. Vợ Lập lại bị tâm thần. Lúc nào cũng phải có người trông. Vay giật, chạy vạy mãi đưa được đứa con gái lớn sang Tiệp Khắc lao động, mới gửi về được hai chuyến hàng thì nước Tiệp Khắc xã hội chủ nghĩa tan, phải về nước. Số tiền con gái được bồi thường do về nước sớm đủ mua chiếc máy khâu cho nó may gia công, và thả một đàn lợn. Chẳng có việc gì làm, Lập hay ôn lại chuyện ngày xưa. Lập mà kể thời các tình thương còn đang tràn trề lai láng thì ghê lắm. Thật là một thời thần tiên. Lập chẳng phàn nàn kêu ca cuộc sống nửa lời. Lập biết chẳng ai thương mình, nên Lập cứ cười. Lập bảo mọi người:
- Thằng út nhà tôi mới đổi tên. Làm lại giấy khai sinh nhưng công an không cho.
- Sao? Sao lại đổi tên? Vẫn thấy gọi là thằng Tiệp cơ mà. Tên hay thế còn gì nữa.
- Đấy. Chính vì thế mà phải đổi đấy. Bây giờ làm gì còn Tiệp nữa. Cả nhà tôi đều gọi nó là thằng Séc Và Slôvác. Họ Séc, chữ đệm là Và, tên Slôvác.
Người Lập ngày càng gầy. Da Lập càng tái xanh. Nhưng Lập lúc nào cũng hài hước. Lẽ ra Lập cũng là thuyền trưởng thuyền phó gì rồi. Bạn bè học khóa sau cũng đã có người là thuyền trưởng. Thời học phổ thông, Lập chỉ mê nghề đánh cá. Tốt nghiệp về đây, Lập đã đi đánh cá, làm lưới trưởng tàu 1000 mã lực. Một lưới trưởng có năng lực. Lập được điều về phòng kỹ thuật, chuyên theo dõi ván lưới. Lập đã giảng cho Toàn nghe một cách rất “oanh liệt”:
- Công thức về ván dài mấy trang giấy. Nó dựa trên nguyên lý của thủy động học như máy bay dựa trên nguyên lý của khí động học.
Bây giờ các tàu nằm bến cả. Đúng mùa vụ mới có dăm ba tàu nhúc nhắc đi đánh cá. Khi về bến kêu như cha chết. Dù nhặt từng con cá ót liệt bé bằng đồng xu, mỗi chuyến cũng nợ tiền dầu, tiền đá non chục triệu đồng. Phân xưởng lưới, nơi Lập đặc trách theo dõi đóng cửa im ỉm. Năm năm đèn sách. Thôi rồi những góc tống an pha, những dây giềng lực, những dây giềng hông, những lưới 8, lưới 6, những ma ní móc mở, những độ mở cao, độ mở rộng của miệng lưới và cũng thôi luôn những tình thương lạnh lẽo, băng giá, thối nát và tanh tưởi... Cái nguy ở đấy. Giờ Lập chỉ còn mỗi niềm vui là nghe mọi người nhắc lại bản tổng kết các loại tình thương mà Lập đã sáng tạo ra, đã tổng kết lại, trong đó Lập thích nhất, hay nhắc đến nhất là tình thương thối nảt. Bởi trên đời này lắm tình thương thối nát thật. Đâu cũng sực mùi thối nát. Gặp Toàn ngoài hành lang trong những lúc đi vẩn vơ, Lập bắt tay Toàn cười toe toét:
- Anh em mình xuống tàu kiếm tí tình thương thối nát đi.
Nói vậy nhưng lại kéo Toàn về phòng mình, mời Toàn ngồi xuống chiếc ghế dựa đối diện, lấy bút giấy ra vẽ, vừa vẽ vừa giảng:
- Đây. Miếng đất nó như thế này. Chỗ này là đường cái đi vào cổng. Khu nhà ở, em sẽ làm ở chỗ này vì nó trông ra hướng Nam. Em chỉ làm hai tầng thôi. Nhưng nhiều phòng. Mỗi tầng bốn phòng. Em chúa ghét làm nhà cao tầng. Leo mỏi chân. Với lại cũng còn phải tính đến tuổi già chứ. Leo làm sao được? Phòng nào có toa lét của phòng ấy riêng. Nhưng hóa ra phải làm hai tầng rưỡi cơ đấy. Vì phải mở cầu thang lên sân thượng. Bể nước cũng đặt ở trên ấy. Vừa có áp lực nước mạnh, vừa chống nóng. Chỗ này em đào cái ao, kè đá bốn chung quanh, thành một cái hồ. Giữa hồ là một căn nhà bát giác, toàn tre nứa lá hết, có cầu bắc từ bờ ra. Để bè bạn đến chơi, câu cá, uống rượu. Chỗ này em làm một con đường hơi cong, tạo thành một vòng cua để xe máy lượn. Hai bên đường đi vào cổng em trồng toàn bạch đàn. Bây giờ em hỏi ý kiến anh về vấn đề mấu chốt nhất: Nhà giữa hồ nên làm bát giác hay lục lăng? Vòng cua xe máy nên làm rộng hay hẹp?
Nói đến đâu, cây bút bi của Lập lia đến đấy. Một dinh cơ hiện ra với cả phối cảnh, cây cối trời mây. Lập đưa tờ giấy ra xa nheo mắt nhìn với vẻ trầm ngâm, suy tư nhất trên đời. Toàn cũng bắt chước vẻ mặt ấy, ngập ngừng:
-  Mây cứ ở chỗ ngọn cây này?
-  Cứ ở chỗ ngọn cây này! Lập nói chắc như đinh đóng cột.
-  Không bay?
Mặt xám ngoét, má hóp nhưng Lập cười rất tươi:
-  Nó bay đi rồi nó lại bay lại.
Toàn như cất được gánh nặng, thở phào:
-  Thế thì được!
Rồi anh rụt rè hỏi:
-  Nhà trên hồ có thể làm hình bầu dục được không?
-  Ừ. Bầu dục. Bầu dục. Sao lại không bầu dục nhỉ?
Lập thu tờ giấy về, khoanh một vòng bầu dục ở giữa “hồ”, và lại đưa tờ giấy ra xa, mắt nheo nheo:
-  Nhà bầu dục, hơi tốn một tí nhưng ăn chơi đâu sợ tốn kém. Còn chỗ vòng cua?
Toàn nói chắc như đinh đóng cột, giọng nói của những người sành điệu:
-  Vòng cua phải rộng! Để xe máy đi vào, nghiêng một tí nó mới sướng.
Lập khuỳnh hai tay làm bộ đang nghiêng đi và tán thưởng:
- Đúng! Vòng cua phải rộng! Sau này còn có ô tô nữa chứ.
Lập cúi xuống bàn lấy bút nguyệch ngoạc mở rộng đường cua, lẩm bẩm:
-  Vấn đề tầm nhìn của em vẫn còn hơi kém.
Và cười ha ha. Điệu cười của một tỉ phú đang nghĩ cách tiêu tiền, bắt đồng tiền phục vụ sở thích, niềm vui của mình và của bạn bè.
Lập cho tờ giấy phác thảo ngôi biệt thự tương lai vào ngăn kéo trong khi Toàn vẫn làm ra bộ suy nghĩ đăm chiêu:
-  Còn chuồng chó béc giê đặt ở đâu? Nhà thế này phải nuôi chục con béc giê giống Đức chứ ít à? Không nuôi chó thì nó thịt!
Lập kéo Toàn đứng lên, giải đáp cho Toàn nỗi băn khoăn ấy:
-  Em sẽ làm béc giê. Tự làm béc giê. Anh bảo có được không? Tốt quá đi chứ lại.
Hai anh em cùng cười ngặt nghẹo. Lập bảo:
-  Thôi hãy để phương án xây nhà lại. Đấy là cái thì tương lai sán lạn. Phải giải quyết thì hiện tại gay go này đã. Xuống tàu với em xem có chút tình thương nào không?
Thấy Toàn tỏ vẻ ngần ngại, Lập động viên:
-  Cứ xuống chơi. Tàu 12 mới về hai hôm nay. Vui vẻ, ngồi. Nhạt nhẽo, lên ngay. Vào chỗ thằng An thuyền phó một. Tàu cũ của em mà. Giá cứ ở đấy đâu đến nỗi thế này. Em lên thì thằng An xuống thay em làm lưới trưởng. Rồi nó lên thuyền phó. Cái thằng đi bước nào trúng bước ấy. Mình đi bước nào hỏng bước ấy. Nhưng cũng chẳng phải. Thằng An là em con chú con bác với ông sếp chánh. Ông ấy sắp xếp nó vào bộ khung đi nước ngoài ngay khi còn đang đánh cá. Mình đâu biết. Với lại có biết cũng chẳng làm gì được. Làm sao mà chống được ý trên.
Nói rồi Lập nắm tay Toàn, kéo Toàn ra cầu cảng. Trên đường đi, Lập rủ rỉ:
- Lứa lợn này của em không ăn thua gì. May mà gỡ được tiền giống. Có con lợn to nhất thì tự nhiên lăn đùng ra chết. Mà có phải không chăm đâu. Trời nóng ba bảy độ, vợ chồng con cái chỉ có một cái quạt cóc với chiếc Hoa sinh bài cũ tàu 19 mua hộ. Còn cái Hitachi to, nhờ thằng An mua tuốc năng cẩn thận dành cho đàn lợn. Nước khó khăn là thế mà ngày nào cũng phải tắm cho lợn. Người tắm lợn cũng tắm. Có kém cạnh gì đâu!
Lần đầu tiên Toàn xuống một tàu vừa đi nước ngoài về. Còn trước đây Toàn chỉ dám đứng xa xa, hoặc mạnh bạo lắm là đi lướt trên cầu tàu, qua gió thổi ngửi cái hơi hướng nước ngoài từ tàu đưa lên thôi. Bởi vì dưới ấy là một thế giới khác, là những người Việt thật đấy nhưng là những người Việt khác. Bởi họ đã đến Hong Kong đã tới Kobe, đã nện gót chân trên đường phố Singapore sạch như lau như lai, nghe chim hót điếc cả tai. Quần áo họ khác, đồng hồ họ khác. Họ đeo kính American. Họ đeo nhẫn vàng to như con đỉa sít ngón tay. Là đàn ông nhưng họ đeo cả dây chuyền vàng to như cái xích. Họ lại còn đi những đôi giày da bóng loáng. Họ mặc những chiếc áo có rất nhiều túi, nhiều phéc mơ tuya trông rất sừng sộ, họ khoác trên vai những chiếc xắc rất nhiều màu, dù to dù nhỏ đều rất gầm ghì, họ phóng xe máy nhanh hoặc chầm chậm áp tải những chiếc xích lô trên đó nghễu nghện những tủ lạnh, những quạt cần, những tivi, những dàn cassette, những thùng giấy chẳng biết bên trong chứa gì nhưng chắc chắn không phải giẻ rách, họ đốt thuốc lá ngoại thơm phức, họ bật lửa bằng những chiếc bật lửa đẹp như những đồ trang sức, họ mở nút những lọ dầu xanh nhỏ xíu thơm lừng xoa xoa lên mũi mỗi khi họ hắt hơi, họ nói chuyện với nhau bằng nét mặt dáng điệu của những người ở một thế giới khác... Nhìn họ mà buồn. Mà thèm. Mà thấy họ sao sung sướng thế. Và tất nhiên vợ con họ cũng có cuộc sống khác hẳn vợ con mình. Họ, gia đình họ là một lớp người ưu việt, lớp người đã tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, trong khi tuyệt đại đa số đám chúng sinh nghèo đói non trăm triệu người Việt còn đang trong giai đoạn dân chủ nhân dân.
Những con tàu từ nước ngoài về đặc vẻ một thế giới khác còn ở chỗ có công an, hải quan mặc sắc phục lên xuống canh gác con tàu. Như lúc này Toàn theo Lập đi qua chiếc xe ô tô đỗ phía boong lái và cần cẩu trên tàu đang bốc những kiện mì chính từ hầm lên ô tô (sao mà lắm mì chính thế hở giời! mì chính người ta đếm từng hạt khi tra vào nồi canh mà ở đây chất cao như núi!), rồi bước lên cầu thang xoai xoải (nước đang xuống) từ cầu cảng lên tàu Hạ Long 12, có hai nhân viên hải quan ngồi trên hai chiếc ghế nhựa đặt ở chỗ băng chuyền cá. Ngồi ở đó có thể bao quát tất cả con tàu. Cả hai còn rất trẻ buông tờ báo đang đọc, nhìn Toàn và Lập rất nhanh rồi lại chăm chú vào tờ báo, bên cạnh là hai lon Coca Cola uống dở đặt ở cái ghế thứ ba cùng với bao ba số.
Cửa phòng đại phó An có rất nhiều dép, những đôi dép lê bẩn thỉu, chiếc nọ chồng lên chiếc kia. Điều đó nói rằng An đang có nhiều khách mà toàn khách trong xí nghiệp. Toàn chững lại, ngần ngừ định quay lên, nhưng Lập gần như lôi anh bước vào. Khói mù mịt trong buồng. Người ngồi chen nhau trên đi văng, trên giường. Những lon bia, lon nước ngọt màu sắc óng ánh đã bật, đã uống. Trong phòng mấy thứ đồ dùng chỉ trông đã kính trọng rồi: Một chiếc quạt có hẹn giờ cánh vàng chóe, một chiếc tivi màu Philip và một tủ lạnh Toshiba trắng toát hai cánh đứng lầm lì ở một góc không nói không rằng, đầy tự tin ở giá trị của mình. Ai cũng biết đấy là những thứ được coi như mua để dùng trên tàu và không phải thuế. Thấy có khách mới, An đang ngồi nép trên giường sát cửa sổ đứng lên, niềm nở:
- Hai bác. Mời hai bác ngồi.
Rõ ràng không còn chỗ nào ngồi nữa. Thấy vậy, một vị khách - đồng chí Lâm, tổ trưởng tổ điện thuộc phân xưởng sửa chữa - đứng lên:
- Thôi anh em chúng tôi ngồi đã lâu rồi. Xin phép đại phó.
Nhiều người lục tục kéo ra theo Lâm. Toàn để ý: Mọi người đều ra về tay không. Và mừng thầm: Đông thế, của đâu mà rải cho thấu. Họ về hết chỉ còn mình và Lập ở lại có thể sẽ có chiến lợi phẩm, có quà. Nhưng họ không ra hết. Vẫn còn hai người ở lại. Một chị công nhân xưởng lưới, và Bính, phó quản đốc xưởng lạnh. Lập đón hai lon bia An đưa, cười tươi như ở nhà mình, như chính mình là chủ:
- Uống đi anh Toàn.
Toàn uống một ngụm và hỏi:
- Sao? Chuyến này đi suôn sẻ chứ ông bạn?
Vừa nhấp một ngụm bia mặt Toàn đã đỏ bừng. Đỏ bừng không phải vì bia mà vì câu hỏi ấy. Câu hỏi ấy là thừa. Ai chả biết chuyến đi suôn sẻ. Không suôn sẻ thì đã ầm cả xí nghiệp rồi. Chở hàng của xí nghiệp đi. Mua hàng cũ ở Hong Kong về. Làm luật với công an, hải quan. Đem hàng lên bán. Có khám tàu, có tịch thu hàng của ai đâu mà không suôn sẻ. Với lại ai cần sự quan tâm của anh. Tôi với anh là cái gì đâu mà anh quan tâm đến tôi như thế. Xuống tàu xin cá đã là một sự ê ẩm. Cũng may, về cái sự đi xin cá, Toàn là người danh chính ngôn thuận, có công có việc xuống tàu chứ không như thế này. Lấy tin tức thi đua. Về phát thanh. Viết bảng tin. Thế mà cũng không cất nổi mồm xin cá. Cứ ghi chép xong rồi ra về, thuyền trưởng thông cảm thì bảo: “Bốc cá xong xuống nhé”. (Thuyền trưởng nào quên cũng đành chịu, cũng đành phải giở trò chuyến sau tàu về, Toàn cũng quên không xuống lấy tin, quên luôn chuyện phát thanh về chuyến biển vừa kết thúc). Được lời như cởi tấm lòng rồi, thế nhưng khi xuống lấy cá mà phòng thuyền trưởng có khách cũng vẫn thấy cám cảnh cho cái nghề ăn xin ăn mày ăn cắp của mình. Và nguyền rủa những người khách còn cứ ngồi mặt dạn mày dày, con cà con kê, cười cười nói nói.
Toàn ngồi im lặng uống bia, nguyền rủa hai người khách, một bà xưởng lưới, một ông xưởng lạnh ngồi từ bao giờ rồi mà vẫn cứ còn ngồi. Cả bốn người khách đều không biết nói chuyện gì. Người này xụp xoạp, người kia xụp xoạp. Không khí đông cứng lại. Cuối cùng Lập lên tiếng:
- Bia ngon thật.
Toàn đế theo:
- Ngon.
Chỉ hai câu ấy rồi thôi. Khốn nạn. Bia ngoại mà không ngon còn bia nào ngon nữa. Không thể nghĩ được chuyện gì mà nói cho tự nhiên. Thật may, An là người nhanh mồm nhanh miệng. An hỏi Toàn:
- Thế nào, ở nhà có gì mới không thủ trưởng?
Toàn cười gượng. Chẳng biết trả lời ra sao. Bởi vì đấy cũng là một câu hỏi để mà hỏi. Hỏi vì chẳng lẽ cứ im lặng mãi. Lại một điều may tiếp liền sau đó: Tiếng động cơ cần cẩu bỗng im bặt. Không chờ khách trả lời, An thò đầu ra ngoài cửa sổ, nói một mình:
-  Sao đang bốc lại dừng thế này?
Một anh thủy thủ bước vào buồng nói với An:
-  Cần cẩu đánh tia lửa. Đang sửa. Phải dừng bốc một lúc.
An bảo người thủy thủ:
-  Này. Bảo Chải lên gặp tôi một tí nhé.
Anh thủy thủ ngần ngừ. An cười:
-  Gặp tin mừng đấy.
Anh thủy thủ tỏ ý nghi ngờ:
-  Khốn nạn thì có.
-  Đã bảo tin mừng mà lại.
Rồi An quay lại nói với bốn vị khách:
-  Tôi phải xin cho nó đấy, cậu Chải ấy. Bọn hải quan cú thằng này lắm. Tàu về là đóng cửa chặt. Lên bờ. Trốn. Mấy lần rồi. Nó bảo tôi: “Anh xem sao, giúp đỡ em với”. Giúp đỡ cái gì? Giúp thế nào? Chỉ nói thế thôi bố ai dám làm! Ngộ nhỡ mình bảo chặt. Nó lại bảo không. Của em chỉ chi một triệu hay hai thôi. Anh làm dày quá. Mình lấy đâu mình đền. Lại còn mang tiếng ra.
Câu chuyện có vẻ đã được khai thông. Đỡ cứng đơ. Đỡ đỏ mặt.
Bính hỏi:
-  Thằng nào phụ trách khám tàu?
-  Thằng Tụ. Tụ béo.
- Thằng ấy nghe nói được.
- Nó cứ ngồi một chỗ thôi. Bọn quân nó chỉ xuống cái hầm: Hầm này khám chưa? Nó gạt đi: Thôi.
Rồi An cười lớn:
- Tôi mong nó khám hầm ấy. Hầm ấy đéo có gì. Nó thu hết của ông Chải. Thu hết. Cũng chỉ có mấy cái đài thôi. Thế mà chả chết à? Tôi phải nói: Địt mẹ các ông. Ăn ở làm việc cũng phải để lại cái đức cho con chứ. Cũng phải để cho người ta cửa sống với chứ.
Lập hỏi:
- Là cái số để trên phòng chứ không phải đem xuống câu lạc bộ phải không?
Toàn biết những thứ đem xuống tập trung ở câu lạc bộ là những thứ mang tính tự giác, ít ỏi, có tính chất mua về dùng, chưa bao giờ bị thu. An trừng mắt:
- Là cái thứ mang xuống câu lạc bộ ấy chứ. Thì đã bảo hải quan nó cú ông này mà lại. Mẹ kiếp, ông ấy buôn thì muốn buôn to, nhưng về bến là run. Chạy. Khóa cửa trốn. Hải quan nó cú. Ông này toàn thế thôi. Tôi phải nói đỡ: Nó không trốn đâu. Vợ nó mới ở Thanh Hóa ra. Nó đưa vợ đi thu xếp ít công việc.
Chải. Toàn biết Chải. Một người không bao giờ cho ai một thứ gì. Luôn nhìn mọi người bằng nửa con mắt. Coi khinh tất cả. Có một anh bạn bạn học lại cùng quê với Chải làm ở phòng đời sống gửi Chải nửa chỉ vàng mua cái áo lông cho con gái lưng lửng đến đầu gối mà mãi năm chuyến sau mới nhận được một cái áo gió cho con trai chỉ đến thắt lưng, mua ở Hải Triều cũng chưa đến nửa chỉ.
Vẫn với niềm vui chất chứa trong lòng, (chắc là chuyến này An thắng, cả tàu cũng thắng) đại phó tàu 12 tiếp tục:
- Khám cậu Bê xong, ông Tâm phó ba bảo: Thằng ấy may thật. Chẳng bị thu lần nào cả. Tôi mới bảo: “Ông có muốn khám không?” Thế là im. Nó định khám bếp. Bố T âm cứ ngồi im thin thít. Tôi với ông Hồ phải nói vội nó mới thôi, chứ không ông ấy toi rồi. Hàng của bố ấy để hết trongphê ôn(1 nhà bếp. Bảo bố ấy trực là bố ấy chuyên bỏ. Mình đi bố ấy cũng đi. Đã thế bố ấy còn bảo: Tao cứ thế lại không việc gì. Còn các ông quan trọng hóa lại hay bị sự cố. Ngán cho ông Tâm quá. Nó xuống khám tàu phải cho nó ăn cơm chứ. Tôi ngồi chết ở đây tiếp khách liên miên rồi. Anh nuôi hỏi ông Tâm cơm nước cho hải quan thế nào. Ông ấy bảo lên hỏi ông Hồ thuyền trưởng với ông An. Tao chỉ lo thuyền viên ăn thôi. Khách tao không biết. Nói thế có chán không cơ chứ.
Suốt câu chuyện Toàn vừa muốn đứng dậy ra về vừa muốn ngồi lại và lo sợ có người nào trên bờ nữa xuống “thăm”. Rồi lại nguyền rủa chị công nhân xưởng lưới và anh cán bộ xưởng lạnh, vừa nguyền rủa vừa kính phục họ kiên trì. Nhìn vẻ mặt nhẫn nại của Lập, Toàn biết Lập không chịu về tay không. Không. Toàn thề sẽ không bao [2] giờ xuống tàu vận tải nước ngoài nữa. Không bao giờ! Lựa lúc cần cẩu đã sửa xong, tiếng máy rì rì ngay ngoài phòng, tất cả nhỏm dậy nhìn qua cửa sổ, câu chuyện bị cắt ngang, anh đứng lên:
- Thôi. Cám ơn đại phó đã cho uống bia. Lập ở lại nhé. Mình có tí việc bận, về trước đây.
Thật không ngờ. Chính câu nói ấy là chìa khóa thắng lợi cho tất cả những ai còn kiên trì bám trụ. An giơ tay:
- Thủ trưởng chờ một tí. Có tí quà biếu thủ trưởng. Gọi là của ít lòng nhiều.
Anh cẩn thận mở tủ lấy ra bốn chiếc xích Trung Quốc Ngũ Dương, và bốn bao thuốc lá Capstan, chia làm bốn suất cho bốn khứa. Thế là tất cả các khứa cùng đứng lên, bước theo Toàn sau khi đã cẩn thận cho quà vào túi quần.
Lên bờ, Toàn rẽ vào phòng Lập như một sự cảm ơn và chia sẻ niềm vui thắng lợi. Toàn rút chiếc xích đưa lên mũi hít hít:
-  Thơm quá. Toàn mùi xà phòng thơm thôi ông ạ.
Lập cười toe toét:
- Hôm nay ra ngõ bước chân trái. Thật may. Xe em xích phải lộn mà cũng đã đi gần hai năm rồi. Thế là hôm nay chúng ta vừa được hưởng tình thương sắt thép lẫn tình thương mấy khói!
Rồi lại cười hi hí:
- Hôm nào tàu cá về, hai anh em lại đi kiếm tí tình thương băng giá với tình thương thối nát.
Một lon bia San Miguel vào bụng rồi mà nước da Lập vẫn chẳng thấy hồng lên tí nào. Vẫn cứ là xám ngoét.
Khối phòng ban cũng đã có người được xuống tàu vận tải ngoại thương. Điều ấy thổi một luồng không khí phấn khởi trong các hàng chức sắc - chỉ trong hàng chức sắc, nghĩa là trưởng phó phòng ban, những người gọi là cán bộ chủ chốt mà sự khác biệt với những người không phải chủ chốt là được phát không hai chai nước mắm trong dịp lễ tết. Ít nhiều họ đều thấy một tương lai hứa hẹn đang chờ trước mặt. Nhất là khi sếp chánh tuyên bố: Rồi đây không cứ gì trên bờ dưới nước, bất kỳ ai công tác lâu năm trong xí nghiệp có nhiều đóng góp sẽ lần lượt được xuống tàu đi nước ngoài. Người bảo lãnh đạo đã có một tư duy mới,người bảo thật có lý có tình, người bảo chắc sếp cũng thấy bất công quá, chướng quá, anh em kêu quá... nên mới có chủ trương như vậy. Chẳng biết do đâu nhưng tất cả đều có quyền hy vọng. Thật không ai ngờ người đầu tiên thuộc khối phòng ban xuống tàu đi nước ngoài lại là Nông Đức Bá, vị bác sĩ trưởng phòng y tế, người đã cấp cho Quân rỗ và Lê Mây tám chai canh kí na để hai bợm rượu đỡ cơn thèm.
Nhận hộ chiếu và quyết định xuống tàu, sau khi bàn giao công việc cho phó phòng, Bá lao vào việc chạy tiền. Người ta bảo tối thiểu cũng phải có mười lăm, hai mươi vé. Một món tiền khổng lồ. Đào đâu ra bây giờ. Bá về Thái Nguyên, gặp mẹ, năm ấy cũng đã già lắm rồi. Vụng Thanh Giang trên dòng sông máng ngày xưa nước đầy ăm ắp nay cạn tới đáy, cỏ mọc xanh um. Qua ấp. Rẽ vào một con đường mòn dọc theo thung lũng giữa hai ngọn núi cao, tới một quả đồi xoai xoải... Bước vào ngôi nhà thuở nhỏ. Vẫn như xưa. Nhưng hình như tất cả đều bé đi. Từ nhà, đến vườn, đến sân và cả cái giếng ở góc sân cạnh bếp.
Đất cũng bạc màu hơn. Nương sắn bên nhà còi cọc khẳng khiu trên những luống đất trơ sỏi. Mẹ đã già lắm. Vợ chồng anh Vận, anh cả cũng già. Còn lũ trẻ con anh Vận, Bá không thể nhận ra. Đứa nào cũng cao, cũng đen, bẩn thỉu và gầy nhẳng. Bá nhớ đến một bài báo anh đọc trong đó có câu: Chúng ta làm rất nhiều cho nông dân, nhưng nông dân vẫn không hiểu chúng ta đã đem lại cho họ những gì. Anh đã cười thầm khi đọc bài báo ấy. Ớ đâu không biết chứ tại Phú Bình này cuộc sống chẳng khác trước là bao. Đúng là nhà anh bây giờ đã có màn che chắn muỗi, nhiều nhà có loa truyền thanh, có xe đạp, những thứ trước cách mạng không hề có. Nhưng hãy nhớ rằng đã hơn bốn mươi năm trôi qua rồi. Chẳng lẽ để thấy được sự ưu việt của hôm nay lại cứ phải so sánh với nạn đói khủng khiếp năm 1945, khi nước ta phải chịu hai tròng áp bức là Pháp và Nhật, mà cái nạn đói năm ấy cũng chỉ là đỉnh điểm của một giai đoạn cực kỳ tăm tối.
Năm nào giỗ bố Bá cũng về quê. Khi đi một mình. Khi cả vợ. Năm nào anh cũng chuẩn bị sẵn, đem về mấy cân cá khô (quê anh gọi là cá mắm) và nhiều ít thế nào cũng phải có dăm lạng, một cân mực khô, những thứ mà dân cả vùng, dễ đến cả huyện, chưa ai được nếm qua. Anh biết đó là những món quà cực kỳ giá trị, không những thế còn là nguồn dinh dưỡng, nguồn đạm tăng cường sức khỏe cho những người thân. Ngoài ra còn mấy gói bánh kẹo mua ở phòng đời sống xí nghiệp để mẹ anh chia ngay cho trẻ nhỏ, trẻ nhỏ nhà anh và trẻ nhỏ hàng xóm. Lần về phép này Bá có thêm một thứ quà đặc biệt văn minh khác: những vỏ đồ hộp nước giải khát các loại. Các màu xanh, đỏ, hồng, da cam, vàng, lon Heineken, lon Coca Cola, Pepsi, những lon Tiger, San-Miguel, những lon nước ngọt đã uống cạn mà trong những lần xuống tàu đi nước ngoài anh lượm được cho vào túi ni lông mang về. Không. Không chỉ có vỏ. Có một lon nước ngọt còn nguyên. Dành cho mẹ. Và một lon bia dành cho anh Vận. Kết quả của hai lần xuống hai tàu vận tải ngoại thương, khi thuyền trưởng đem bia và nước ngọt ra mời, anh đã làm ra vẻ rất tự nhiên, cười rất vô tư và khảng khái: hôm nay bị đầy hơi, chỉ xin thuyền trưởng chén trà thôi. Còn cái này xin phép thuyền trưởng mang về, lúc khác uống. Thực ra có phải bụng dạ làm sao đâu. Mà nó nằm trong kế hoạch của anh. Phải đem được ít nhất một lon bia, một lon nước ngọt về cho mẹ, anh Vận và lũ cháu.
Anh mở lon nước ngọt, rót ra cốc. Cả nhà tròn mắt nhìn những bọt nước thẫm màu nảy lên lách tách như mưa trong cốc. Mẹ uống một ngụm. Mẹ bảo ngon rồi đưa cho cả nhà nếm mỗi người một ngụm. Còn khoản bia. Anh Vận nhăn mặt. Anh Vận bảo khai. Khó uống lắm. Mấy đứa cháu uống thử. Đứa bảo ngon. Đứa bảo giống nước đái bò. Cái sự uống nước trong lon chỉ là để cho biết thôi. Điều chính là những cái vỏ lon cơ. Những cái vỏ lon óng ánh với những chữ in đẹp như tranh vẽ. Anh Vận chọn ra những vỏ đẹp nhất, mỗi loại một chiếc, không móp, không méo, đem ra giếng súc rửa sạch rồi bày vào tủ. Và nhặt bốn vỏ lon khác, mỗi chiếc một màu bảo lũ trẻ con mài trên nền xi măng trong nhà. Mấy đứa trẻ lao vào mài theo đúng hướng dẫn của anh. Tiếng sào sạo ghê người. Chẳng mấy chốc, cái nắp hộp rời ra. Anh xếp bốn chiếc vỏ hộp lên bàn, nở nụ cười mãn nguyện:
- Làm cốc uống nước. Hôm nọ lên tỉnh thấy người ta uống, đang ao ước...
Những chiếc vỏ hộp trên bàn, trong tủ, những dấu vết ấy của văn minh làm nhà anh cứ sáng trưng lên, khác hẳn mọi nhà chung quanh. Nhà anh đã có hơi hướm của một thế giới khác, một thời đại khác khi các nhà chung quanh vẫn còn đang triền miên thời làm nương, thời lúa nước. Và đến khi lũ trẻ được thoải mái chơi nghịch những vỏ lon còn lại mới thật tưng bừng. Đúng là một ngày hội. Chúng lăn trong nhà. Rồi chúng đem ra sân. Những chiếc lon rỗng khi lăn phát ra những tiếng động chưa từng được nghe thấy bao giờ. Lăn cho cái xanh chạm vào cái đỏ. Cho cái đỏ chạm vào cái vàng. Cho cái vàng vấp vào một hòn sỏi dựng đứng lên xoay mấy vòng rồi đổ kềnh. Lăn từ góc sân này sang góc sân kia. Lăn chán thì bóp ngang hộp. Lạ quá. Bóp ngang nó móp lại.
Bóp cái nữa nó lại phồng ra. Khi móp lại hay phồng ra nó đều kêu răng rắc. Nó kêu mới to chứ. Như người bắn súng. Như người vỗ tay. Tiếng kêu khi lăn, khi bóp cùng với tiếng reo hò chỉ trong chốc lát kéo lũ trẻ con cả xóm lại, đứng chật một đầu sân. Như xem một buổi biểu diễn văn công. Như xem một nhà giết lợn. Chúng đứng đấy nhìn. Thèm. Không một đứa nào dám ngồi xuống chạm tay vào những cái vỏ đồ uống như vàng như ngọc lấp lánh ánh mặt trời cả một lượt kia. Còn mấy đứa trẻ nhà anh cứ vênh mặt lên, đến nỗi Bá phải bảo: Các cháu ơi! Cho các bạn chơi với.
Anh Vận giết một con gà sống thiến làm cơm cúng bố. Bá ở nhà một đêm. Tất nhiên là đêm ấy anh chẳng thể nào ngủ được. Anh biết trách nhiệm của anh sắp tới thật nặng nề. Ngoài trách nhiệm đối với vợ con vẫn chưa thoát khỏi khó khăn vất vả nhưng cũng còn hơn nhiều lần cuộc sống hiu hắt của mẹ, của anh chị Vận và lũ cháu ở quê. Phải làm sao để mẹ được hưởng một chút gì đó trước khi nhắm mắt, không phải chỉ là mấy con cá khô, gói bích quy, hoặc cân đường. Bố chết, anh biết ngày mẹ ra đi theo bố gần lắm rồi. Mỗi ngày qua là khúc đời còn lại của mẹ ngắn đi một ngày. Phải giúp anh chị các cháu thoát khỏi cảnh nghèo, cảnh lạc hậu này. Sau khi bố mất, anh Vận đã bỏ học ở nhà, làm công điểm cho hợp tác để anh tiếp tục theo học. Mảnh bằng anh có được đâu phải của riêng anh. Mảnh đất này với anh là ơn sâu nghĩa nặng. Đêm nằm, anh thầm thì với vong linh bố mà anh cảm thấy như đang ở đâu đây: Con là Nông Đức Bá may mắn được xí nghiệp cho xuống tàu đi nước ngoài hôm nay về quê thăm mẹ. Con cầu xin bố là Nông Đức Thắng sống khôn thác thiêng phù hộ độ trì cho con gặp nhiều may mắn. Con đi kỳ này là tìm đường cứu gia đình. Mẹ, anh chị Vận, các cháu sống khổ quá. Phận làm con, con không giúp đỡ được mẹ già, thật là bất hiếu...
Chú thích:
[1] Nơi để tôm cá ngoại giao.
1[2] Phòng lạnh, chứa thức ăn của bếp tàu, thuyền phó 3 quản lý.
Bùi Ngọc Tấn
Dịch giả: Dương Tường
Theo https://vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chùm thơ của Lưu Lãng Khách

Chùm thơ của Lưu Lãng Khách Ngoài kia xuân đang qua rồi sao!/ Thềm hoa hanh hao - trên trời cao/ Chim non ca vang như ngày nào/ Bên em anh...