Thứ Năm, 9 tháng 4, 2015

Bích Khê - Thi nhân Việt Nam

Bích Khê
Chính tên là Lê Quang Lương. Quê quán: Thu Xà (Quảng Ngãi).

Đã đăng thơ: Tiếng dân, Tiểu thuyết thứ năm. Người mới... (ký Lê Mộng hoặc Bích Khê).
Đã xất bản: Tinh huyết (1939).
Tôi đã gặp trong "Tinh huyết" những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam.
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.
hay mấy câu này trích trong bài "Tranh loã thể":
Dáng tầm xuân uốn trong tranh Tố nữ.

Ô tiên nương! Nàng lại ngự nơi này?
Nàng ở mô! Xiêm áo bỏ đâu đây?
Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường;
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc.
Đêm y huyền ngủ mơ trên mái tóc.
Và chút trăng say đọng ở làn môi.
Mấy câu ấy đã được Hàn Mạc Tử phẩm bình bằng những lời xứng đáng: "Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng ảo, nhìn vào thực tế thì sự thực sẽ thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xó sang địa hạt huyền diệu... Ở "Tranh loã thể", sự trần truồng dâm đãng đã nhường lại cho ý vị nên thơ của hương, của nhạc, của trăng, của tuyết. Quả nhiên là một sự không khen thanh tao quá đến ngọt lịm cả người và cả thơ".
Vừa bước vào đã thấy vàng ngọc sáng ngời như thế, ai không tin đây là biệt thự một nhà triệu phú. Huống chi chủ nhân còn nói: "Không, quúi gì những vật mọn ấy! Kho tàng của tôi chính ở trong mấy phònh kia".
Nhưng tôi chưa thể nói nhiều về Bích Khê. Tôi đã đọc không biết mấy chục lần bài "Duy tân". Tôi thấy trong đó những câu thật đẹp. Nhưng tôi không dám chắc bài thơ đã nói hết cùng tôi những nỗi niềm riêng của nó. Hình như vẫn còn gì nữa...
Còn các bài khác hoặc chưa xem hoặc mới đọc có đôi ba lần. Mà thơ Bích Khê, đọc đôi ba lần thì cũng như chưa đọc.
Novembre 1941

Duy tân
Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới
Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu trong.
Hạt châu trong ngời nhỏ giọt vô lòng
Tràn âm hưởng như chiều thu sóng nắng.
Trong vòm xanh. Màu cưới màu, bình lặng,
Gây phương phi: chiếu sáng ngả sang mờ
Vì hình dung những sắc mát, non, tơ,
Như mặt trời mọc qua khóm liễu, một
Hoàng hôn. Ôi đàn môi, chim báu tới:
Chữ biến hình ảnh mới, lúc trong ngâm
Chữ điêu khắc, tỉa nghệ thuật sầu câm,
Đầy thẩm mỹ như một pho thần tượng.
Lúc trong ngâm, giữa kho vàng mộng tưởng,
Múa song song khiêu vũ dưới đêm hồng
(Những con cừu tim trẻ mướt như lông
Nên da thịt lên làn sa lụa mỏng,
Mỗi con cừu bốc lên men hy vọng...)
Thơ nhịp nhàng ý nhị nhịp theo thơ.
Tôi cắn vào trái bổ vỏ xanh mơ
Tìm chất quý thơm tinh mùi khoái lạc
Bằng hơi mộng, trong hàm răng, tản mác
Mộng?
Thiên tài ?
Trên hỗn độn khỏa thân
Đẹp tỷ mỷ, hỡi rung động truyền thần
Ròng âm nhạc của lòng trai ấp mái
Người họa điệu với thiên nhiên, ân ái
Buồn, và xanh trờị (Tôi trôi với bờ
êm biếc -- khóc với thu: lời úa ngô
Vàng... khi cách biệt -- giữa hồn xây mộ --
Tình hôm qua -- dài hôm nay thương nhớ,
Im lặng nhìn bông ý, lặng lờ lên
Những dáng hình thanh khí...) Giữa mông mênh,
Đường nhiếp ảnh, sắc khua màu -- Tiếng thở
Hỡi hội họa, đến muôn đời nức nở.
Ta nhịp nhàng ý nhị nhịp theo Ta
Lời nối lời bố thí lộc tinh hoa
Của âm điệu, mơ màng run lẩy bẩy
Một hỗn hợp đẹp xô bồ say dậy
Bằng cảm tình, bằng hình ảnh yêu thương
Và mới mẻ -- trên viễn cổ Đông phương !
(Ai có nghe sức tiềm tàng bí mật ?)
Thơ lõa thể ! -- Giai nhân tuần trăng mật,
Nữ thần ơi ! Ta nô lệ bên người !
(Người mới)
Xuân tượng trưng
Hỡi lời ca man dại
Ðiệu nhạc thở hơi rừng
- Ðêm nay xuân đã lại
Thuần tuý là tượng trưng -
Nâng lên núm vú đồi
Sữa trăng nhi nhỉ giọt
Bay qua cụm liễu khơi
Những cườm tay điểm hột
Sương phất phơ lau lách
Khẽ uốn mình giai nhân
Ðường non kheo điêu khắc
Những dáng hình khoả thân
Lụa mây nẩy vàng chạm
Tía ngọc bén màu ngân...
Chủ xuân đang triển lãm
Lời ca như hạc theo
Gió lên tình múa reo
Những điệu vàng châu báu
Dường có con chim báu
Rỉa cánh trên ngai lòng
Lòe xòe màu lông công
Vườn thơm khua sắc mát
Rồng uốn vóc từng cong
Áo bạch mai khoát khoát
Môi đào chờ khoái lạc...
Hồn tôi như đỉnh hương
Bốc lên mình thánh giá!
Ý xuân mát đến xương
Ngậm tuyết phun lã chã!
(Người mới)
Đoàn Văn Cừ

Những hình ảnh cuộc đời Việt Nam xưa còn lưu lại trong thời này chẳng bao lâu nữa sẽ mất hết. Nếu ta không gấp gấp ghi chép lấy thì còn biết tìm kiếm vào đâu. Gần đây đã có một ít nhà văn viết tiểu thuyết truyện đồng quê, nơi nương náu cuối cùng của dĩ vãng. Nhưng đời sống ở đồng quê có một nhịp nhàng riêng, thể văn tiểu thuyết không diễn ra được. Phải có thơ. Trong các nhà thơ đồng quê, không ai có ngòi bút dồi dào mà rực rỡ như Đoàn Văn Cừ.
Những bức tranh trong thơ Đoàn Văn Cừ không phải chỉ đơn sơ vài nét như các bức tranh xưa của Á Đông. Bức tranh nào cũng đầy dẫy sự sống và rộn rịp những hình sắc tươi vui. Mỗi bức tranh là một thế giới linh hoạt. Người xem tranh hoa mắt vì những nét những màu hình như rối rít cả lại; nhưng nhìn kỹ thì màu nào nét nào cũng ngộ nghĩnh vui vui.
Đây, trong chợ Tết, bên cạnh thầy khoá đương gò lưng viết:
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ.
Kia, giữa đám hội nhà quê:
Chiếc ô đen lẳng lặng tiến ra cầu,
Tìm đến chiếc san màu bay trước gió.
Đoàn Văn Cừ đã biết nhận xẻt rất tinh lại sẵn hồn thơ phong phú, hai điều thường ít đi với nhau. Phải có hồn thơ mới thấy được dưới ánh bình minh.
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa.
Thỉnh thoảng giữa những câu chặt chẽ, chen vào một câu bất ngờ, vụt ngời lên như một luồng sáng giữa bức tranh: 
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.
Và bao giờ cuối bài thơ cũng có một vài câu khêu gợi. Cuối bài "Chợ tết":
- Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê,
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.
Cuối bài thơ: "Đám cưới mùa xuân":
Chỉ nghe văng vẳng tiếng chim xuân
Ca ánh ỏi trên cành xanh tắm nắng.
Những câu ấy đều khép lại một thế giới và mở rộng ra một thế giới: khép một thế giới thực, mở một thế giới mộng. Cảnh trước mắt vừa tan thì tình trong lòng cũng vừa nhóm. Mắt ta không thấy gì nữa nhưng lòng ta bâng khuâng.

Đoàn Văn Cừ trước sau đăng báo chỉ có sáu bảy bài thơ. Bài nào cũng hay. Cũng có bài đăng "Ngày nay" số thường, nhưng nghĩ đến Đoàn Văn Cừ là tôi lại nghĩ đến cái Tết. Cái tên Đoàn Văn Cừ trong trí tôi đã lẫn với màu bánh trưng, mùi thuốc pháo, vị mứt gừng. Cứ mỗi lúc xuân về người lại gửi trên báo một chuỗi cười ngũ sắc. Tiếng cười ta còn nghe văng vẳng thì người đã biến đâu rồi và ta đành chờ mùa xuân khác. Thế rồi báo chết, tăm tích người cũng mất. Cho đến hôm nay, viết mấy lời giới thiệu thơ Đoàn Văn Cừ, tôi vẫn chưa biết gì thêm về con người ấy.
Octobre 1941

Chợ tết
Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh,
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh,
Người các ấp tưng bừng ra chợ tết.
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc;
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon,
Vài cụ già chống gậy bước lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ.
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ,
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu,
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.
Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa,
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh,
Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh.
Người mua bán ra vào đầy cổng chợ.
Con trâu đứng vờ rim hai mắt ngủ,
Để lắng nghe người khách nói bô bô.
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ,
Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán.
Một thầy khóa gò lưng trên cánh phản,
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân.
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ.
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.
Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu,
Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu.
Áo cụ lý bị người chen sấn kéo,
Khăn trên đầu đang chít cũng bung ra.
Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà,
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi.
Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi,
Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa.
Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha.
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết,
Con gà trống mào thâm như cục tiết,
Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.
Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm,
Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh,
Trên con đường đi các làng hẻo lánh,
Những người quê lũ lượt trở ra về.
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê,
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.
(Ngày nay)
Đám cưới mùa xuân
Ngày ửng hồng sau màn sương gấm mỏng,
Nắng dát vàng trên bãi cỏ non xanh.
Dịp cầu xa lồng bóng nước long lanh,
Đàn cò trắng giăng hàng bay phấp phới.
Trên cành cây, bỗng một con chim gọi
Lũ người đi lí nhí một hàng đen
Trên con đường cát trắng cỏ lam viền
Họ thong thả tiến theo chiều gió thổi,
Dưới bầu trời trong veo không mảy bụi,
Giữa cánh đồng phơn phớt tựa màu nhung.
Một cụ già râu tóc trắng như bông,
Mặc áo đỏ, cầm hương đi trước đám.
Dăm sáu cụ áo mền bông đỏ sẫm,
Quần nâu hồng, chống gậy bước theo sau.
Hàng ô đen thong thả tiến lên sau.
Kế những chiếc mâm đồng che lụa đỏ.
Bọn trai tơ mặt mày coi hớn hở,
Quần lụa chùng, nón dứa áo sa huê.
Một vài bà thanh lịch kiểu nhà quê,
Đầu nón nghệ, tay cầm khăn mặt đỏ.
Bà lão cúi lom khom bên cháu nhỏ,
Túi đựng trầu chăm chăm giữ trong tay.
Thằng bé em mẹ ẵm, má hây hây,
Đầu cạo nhẵn, áo vàng, quần nâu sẫm.
Cô bé để cút chè người xẫm mẫm,
Đi theo bà váylĩnh, dép quai cong.
Một chị sen đầu đội chiếc khăn hồng,
Đặt trên cái hòm da đen bóng lộng.
Người cô dâu hôm nay coi choáng lộn.
Vành khuyên vàng, áo mớ, nón quai thao.
Các cô bạn bằng tuổi cũng xinh sao,
Hai má thắm, ngây thơ nhìn trời biếc.
Dăm bảy cô phủ mình trong những chiếc
Áo đồng lầm, yếm đỏ, thắt lưng xanh.
Một lúc sau đi tới chỗ vòng quanh,
Nếp chùa trắng in hình trên trời thắm,
Thì cả bọn dần đần cùng khuất lẩn
Sau trái đồi lấp lánh ánh sương ngân.
Chỉ còn nghe văng vẳng tiếng chim xuân
Ca ánh ỏi trên cành xanh tắm nắng.(Ngày nay)
Đám hội
Mùa xuân ấy, ông tôi lên tận tỉnh
Đón tôi về xem hội ở làng bên.
Suốt ngày đêm chuông trống đánh vang rền
Người lớn bé, mê man về hát bội.
Những thằng cu tha hồ khoe áo mới
Và tha hồ nô nức kéo đi xem.
Các cụ già uống rượu mãi gần đêm,
Tổ tôm điếm chơi đều không biết chán.
Những con bé áo xanh đòi chị ẵm
Để đi theo đám rước lượt quanh làng.
Các bà đồng khăn đỏ chạy loăng quăng.
Đón các khách thập phương về dự hội,
Một chiếc kiệu đương đi dừng bước lại,
Rồi thình lình quay tít mãi như bay.
Một bà già kính cẩn chắp hai tay,
Đứng vái mãi theo đám người bí mật.
Trên bãi cỏ dưới trời xuân bát ngát,
Một chị đương đu ngửa tít trên không.
Cụ lý già đứng lại ngửng đầu trông,
Mắt hấp háy nhìn qua đôi mục kỉnh.
Mấy cô gái nép gần hai chú lính.
Má đỏ nhừ bẽn lẽn đứng ôm nhau.
Chiếc ô đen lẳng lặng tiến ra cầu
Tìm đến chiếc san màu bay trước gió,
Bác nhà quê kiễng chân nhìn ngấp ngó,
Rồi leo lên cho ai nấy cùng trông
Đoàn trải dài vùn vụt giữa dòng sông
Người lố nhố chèo trên làn nước lạnh.
Bọn đô vật trước đình thi sức mạnh
Mình cởi trần gân cốt nổi như lươn;
Tiếng reo hò khuyến khích dậy từng cơn
Lẫn tiếng trông bên đường khua rộn rã.
Bên mấy chiếc khăn vuông hình mỏ quạ,
Đứng chen vào chiếc mũ trắng nghênh ngang.
Bọn trai quê bá cổ cạnh cô hàng
Vờ mua bán để tìm câu chuyện gẫu.
Một chú xẩm dạo đàn bên chiếc chậu,
Mắt lờ mờ nghe ngóng tiếng gieo tiền.
Thằng bé em đòi mẹ bế lên đền
Xem các cụ trong làng ra cử tế;
Tiếng chiêng trống chen từng hồi lặng lẽ,
Những bóng người trịnh trọng khẽ đi lên;
Những cánh tay áo thụng vái mơ huyền,
Đang diễn lại cả một thời quá khứ
Mà đất nước non sông cùng cây cỏ
Còn thuộc quyền sở hữu của Linh thiêng.
Khi tế xong một cụ đứng trên thềm,
Giơ bánh pháo cho người kia lại đốt.
Bọn trai gái đứng xem đều chạy rạt,
Một thằng cu sợ hãi khóc bi be.
Người đi xem nhiều bọn đã ra về
Trên đường vắng lá đề rơi lác đác,
Ốc xa rúc từng hồi trong xóm mạc,
Trời đỏ hồng sau những trái đồi xanh,
Đàn chim hôm nhớn nhác gọi trên cành
Vệt tháp trắng in dài trên đồng vắng,
Tiếng chuông tối nhạt khoang trong yên lặng.
Lẫn trống chèo văng vẳng phía làng xa.
Của đám dân nô nức dưới trăng tà...
(Ngày nay)
Trăng hè
Tiếng võng trong nhà kẽo kẹt đưa,
Đầu thềm con chó ngủ lơ mơ,
Bóng cây lơi lả bên hàng dậu,
Đêm văng, người im, cảnh lặng tờ.
Ông lão nằm chơi ở giữa sân,
Tàu cau lấp loáng ánh trăng ngân.
Thằng cu đứng vịn bên thành chõng,
Ngắm bóng con mèo quyện dưới chân.
Bên giếng, dăm cô gái xứ quê
Từng đàn vui vẻ rủ nhau về,
Trên vai nặng trĩu đôi thùng nước,
Kĩu kịt đi vào lối cổng tre.
Trong xóm giờ lâu quá nửa đêm,
Tiếng chày giã gạo đã ngừng im.
Trăng tà hạ xuống ngang đầu núi,
Đom đóm bay qua dải nước đen.
Tiếng ốc trên chòi rúc thiết tha,
Gió lay cót két rặng tre già.
Sao trời từng chiếc rơi thành lệ,
Sương khói bên đồng ủ bóng mơ.
(Ngày nay)
Bàng Bá Lân
Sinh năm 1913 (tháng chạp năm Nhân tí) ở phố Tân Ninh, Phủ Lạng Thương (Bắc Giang). Chánh quán: làng Đôn Thư, phủ Bình Lục (Hà Nam). Học trường Vôi (Bắc Giang), trường Phủ Lý, trường Phủ Lạng Thương, trường Bảo Hộ Hà Nội. Có bằng thành chung.

Đã xuất bản:Tiếng thông reo (1934). Xưa (hợp tác với Anh Thơ, 1941)
Đồng quê xứ Bắc đã gây cảm hứng cho nhiều nhà thơ. Nhưng mỗi nhà thơ xúc cảm một cách riêng. Nguyễn Bính nhà quê hơn cả nên chỉ ưa sống trong tình quê mà ít để ý đến cảnh quê. Anh Thơ không nhà quê tí nào, Anh Thơ là một người thành thị đi du ngoạn nên chỉ thấy cảnh quê. Bàng Bá Lân gần Anh Thơ hơn gần Nguyễn Bính. Nhưng người hiểu cảnh quê hơn Anh Thơ; hiểu hơn vì mến hơn. Thơ Bàng Bá Lân và "Bức tranh quê" đều là những bông hoa khả ái từ xa mới về, nhưng bông hoa Bàng Bá Lân ra chiều thuộc thuỷ thổ hơn. Cho nên sắc hương của nó cũng khác.
Bàng Bá Lân hông có cái tỉ mỉ của Anh Thơ, không nhìn đủ hình dáng đời quê như Anh Thơ. Anh Thơ có khi nhìn cảnh không mến cảnh, Bàng Bá Lân có khi lại mến cảnh quên nhìn, nhưng đã lưu ý đến cảnh nào, Bàng Bá Lân thường lưu luyến cấnh ấy. Như khi người ta tả một buổi sáng:
Cổng làng rộng mở. Ồn ào
Nông phu lững thững đi vào nắng mai.

Ta thấy rõ người mến cảnh ấy lắm: lòng người cùng rộng mở với cổng làng và cùng vui với nông phu trong nắng sớm.
Bởi thế có lúc người đã cảm được hồn quê vẫn bàng bạc sau cảnh vật. Tôi không biết làm thế nào nói cho ra điều này. Âu là cứ trích ít câu thơ của Bàng Bá Lân:
Quán cũ nằm lười trong song nắng,
Bà hàng thưa khách ngả thiu thiu,
Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm...
Đứng lặng lẽ trong mây một cánh diều.
Cả cái hồn lặng lẽ ngây ngất của đông quê dưới nắng trưa như ngưng lại trong mấy câu ấy.

Một lần khác, tả cảnh trưa hè trong một gian nhà tranh tịch mịch, người viết:
Bụi nằm lâu chán xà nhà

Nhẹ nhàng rơi phủ bàn thờ buồn thiu.
Mười bốn chữ, chữ nào cũng mang nặng một chút hòn! Thiết tưởng người ta không thể đi sâu vào cảnh vật xứ quê hơn nữa.
Ấy cũng vì Bàng Bá Lân sau khi đã hấp thụ ở thành thị một nền học khá, liền về ở nhà quê luôn. Người sống cuộc đời thong dong một ông chủ trại, thì giờ để làm ruộng ít hơn là để làm thơ. Chuyện mộng của nhiều người, với Bàng Bá Lân đã thành chuyện thực. Có nhiều người thanh niên làm gì thì làm vẫn ước ao thú điền viên, cái thú thân yêu của nhà nho ngày trước. Họ không đủ can đảm sống lam lũ như những dân quê thực. Nhưng thành thị thì họ chán ghét lắm rồi. Họ tức tối mỗi lần nghĩ đã đưa giọt máu trong sạch và cường tráng của ông cha đến nơi hẹn hò của bệnh tật, của tội lỗi...
Octobre 1941

Trưa hè
Dưới gốc đa già, trong vũng bóng,
Nằm mát, đàn trâu ngẫm nghĩ nhai.
Ve ve rung cánh, ruồi say nắng;
Gà gáy trong thôn những tiếng dài.
Trời lơ cao vút không buông gió;
Đồng cỏ cào phô cánh lượt hồng,
Êm đềm sóng lụa trôi trên lúa;
Nhạc ngựa đường xa rắc tiếng đồng.
Quán cũ nằm lười trong sóng nắng,
Bà hàng thưa khách ngủ thiu thiu
Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm...
Đứng lặng trong mây một cánh diều.
Cành thưa, nắng tưới, chim không đứng;
Quả chín bâng khuâng rụng trước hè.
Vài cô về chợ buông quang thúng
Sửa lại vành khăn dưới bóng tre.
Thời gian dừng bước trên đồng vắng;
Lá ngập ngừng sa nhẹ lướt ao.
Như mơ đường khói lên trời nắng;
Trường học làng kia tiếng trống vào.
(Tiếng sáo diều)
Cổng làng
Chiều hôm đón mát cổng làng,
Gió hiu hiu đẩy mây vàng êm trôi
Đồng quê vờn lợn chân trời
Đường quê quanh quất bao người về thôn
Sáng hồng lơ lửng mây son
Mặt trời thức giấc, véo von chim chào
Cổng làng rộng mở. Ồn ào
Nông phu lững thững đi vào nắng mai
Trưa hè bóng lặng nắng oi
Mái gà cục cục tìm mồi dắt con.
Cổng làng vài chị gái non,
Dừng chân uể oải chờ cơn gió nồm
Những khi gió lạnh mưa buồn
Cổng làng im ỉm bên đường lội trơn
Những khi trăng sáng chập chờn,
Kìa bao nhiêu bóng trên đường thướt tha
Ngày mùa lúa chín thơm đưa
Rồi Đông gầy chết, Xuân chưa vội vàng
Mừng Xuân ngày hội cổng làng
Là nơi chen chúc bao nàng ngây thơ
Ngày nay dù ở nơi xa,
Nhưng khi về đến cây đa đầu làng
Thì bao nhiêu cảnh mơ màng
Hiện ra khi thoáng cổng làng trong tre.
(Tiếng sáo diều)
Yến Lan

Chính tên là Lâm Thanh Lang. Sinh năm 1918 ở làng An Ngãi, phủ An Nhơn (Bình Định). Chỉ học quanh mấy trường trong tỉnh.
Đã đăng thơ: Phụ nữ, Tiểu thuyết thứ năm, Nghệ thuật.
Hai bài trích dưới đây rút trong tập Bến My Lăng chưa xuất bản.
Xuân Diệu có hai câu thiệt hay :
Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Chính là hai câu tả cảnh. Nhưng cảnh như muốn theo lời thơ mà tan ra. Nó chỉ mất một tí rõ ràng để được thêm rất nhiều mơ mộng. Yến Lan cũng làm thơ lối ấy, nhưng Yến Lan đi quá xa. Xem thơ Yến Lan tôi mơ màng như đi trong mây mù. Khi đầu thì cũng hay hay, nhưng dần lâu cơ hồ ngạt thở. Chỉ thấy mờ mờ những con đường chảy, êm như những dòng sông và nhất là cái vừng trăng vẫn thường ám ảnh các nhà thơ Bình Định. Ngoài ra chịu không biết sau màn mây mù ấy có gì không.

Dưới đây tôi chỉ trích vài bài mà cả không khí lại lạ nhưng nhẹ nhàng dễ khiến người ta thích.
Octobre 1941

Bến My Lăng
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
Ông không muốn run người ra tiếng địch,
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao.
Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch,
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.
Trôi quanh thuyền những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời, nhưng chỉ rải trăng trăng.
Chiều ngun ngút dài trôi về nẻo quạnh,
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng.
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã,
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách,
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng.
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách
Gọi đò thôi run rẩy cả ngàn trăng.
Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng!
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng.
(Bến My Lăng)
Nhớ
Một buổi trong rừng chim “hít cô”
Dịu dàng buông nhẹ xuống hư vô
Những tràng ngọc tiếng lâng trong gió
Theo những dòng mây chảy lặng lờ
Tôi nhớ bên đường bao vảy lá
Mà thu vàng rụng giữa ngày khô
Ừ sao không nhớ người trai trẻ
Trò chuyện cùng tôi dưới ánh trăng
(Ðêm qua tan hội trong làng cuối
Khi đứng bên cầu buộc dải khăn)
(Bến My Lăng)
Phan Thanh Phước

Dòng dõi Phan Thanh Giản. Chánh quán ở Nam kỳ. Sinh ở Huế năm 1916. Học ở Quản Trị, Faifo, Huế. Có bằng thành chung.
Bài thơ trích sau đây rút trong tập Vương hương chưa xuất bản.
Phan Thanh Phước nói: "Một bài thơ của tôi xong là tôi tự thấy sút kém một tí sức trong sức khoẻ của tôi. Như vậy tức nhiên có một phần sức khoẻ của tôi đã vào trong thơ tôi, tôi tự hỏi thế là trong thơ tôi có cả hồn lẫn xác tôi chăng ?".
Ai đọc hết tập "Vương hương" chắc cũng có cảm giác ấy: trong thơ Phan Thanh Phước quả có cả hồn lẫn xác đã làm tội cái hồn. Một bài thơ hay, dầu nhẹ nhàng vui vẻ, dầ sầu não thương đau, bao giờ cũng là một sự giải thoát. Giải thoát ra khỏi cái u tối của xác thịt để sống cái sáng láng của linh hồn. "Tự giác nhi giác tha", cái tôn chỉ của nhà Phật cũng là tôn chỉ nhà thơ. Phan Thanh Phước ít khi đạt được tôn chỉ ấy. Ta thấy người khổ sở lắm, mỗi bước mỗi ngập ngừng, mỗi bước mỗi vấp vào xác thịt. Tập "Vương hương" với cái tên yêu kiều, đã bày ra một cuộc hỗn chiến gay go, đau dớn giữa xác và hồn.
Kể cũng đáng tiếc. Mỗi lần Phan Thanh Phước thoát ly được ra ngoài cái vương víu của xác thịt, người tỏ ra có bản lĩnh lắm. Tôi vẫn biết người có tính ưa lập dị, nhưng dầu sao cũng là một tâm hồn phong phú hay hay.
Khi người yêu, mối tình của người luôn luôn thắc mắc. Người có ngồi suốt đêm nhìn người yêu hay không, không ai biết được. Nhưng người đã có những cảm giác của một người thức đêm như thế.
Anh đã thức trọn đêm không biết nhọc

Ngồi lặng yên cho mắt ngắm em say;
Đời vắng xa, xa hết những chua cay
Còn em đẹp mềm thơm và chua ngọt.
Song gần nhau lâu rồi cũng có khi chán. Lúc bấy giờ người sẽ sống lại cái vui xưa:
Muốn sống êm ta gợi phút yêu đầu,

Anh bỡ ngỡ say em người xa lạ.
Thiết tưởng ta vẫn có thể để hy vọng vào những tác phẩm sau này của Phan Thanh Phước.
Octobre 1941

Đêm tần
Tặng Vương Xương Linh
Canh trăng sương dẫn phiên về,

Buồn thao thức đọng bốn phương nghiêm lâu;
Sân mê ngậm bóng cây sầu:
Liễu nghiêng tóc rũ trước lầu gió se.
Địch rầu giọng kéo lê thê
- Thơ ai khuya lạnh ngã đề tương tư?
- Nến hao lệ ứa từ từ,
Ngẩn ngơ tựa gối nàng như mất hồn.
(Vương hương)
Lưu Trọng Lư

Sinh năm 1912 ở Cao Lao Hạ, huyện Bố Trạch (Quảng Bình). Học trường Quốc học Huế đến năm thứ ba, ra Hà Nội học tư rồi bỏ đi làm báo, làm sách cho đến nay.
Chủ trương Ngân sơn tùng thư, Huế (1933- 1934).
Đã viết giúp: Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm, Tiến hoá, Hanoi báo, Tân thiếu niên, Tao đàn...
Đã xuất bản: Tiếng thu (1939).
Lư đang nằm trên giường xem quyển "Tiếng thu" bỗng ngồi dậy cười to:
- A ha! Thế mà mấy bữa ni cứ tưởng...
- ?
- Hai câu:
Giật mình ta thấy bồ hôi lạnh,

Mộng đẹp bên chăn đã biến rồi.
mấy bữa ni tôi ngâm luôn mà cứ tưởng là của Thế Lữ..."
Thì ra hai câu ấy của Lư!
Ở đời này, ít người lơ đãng hơn. Thi sĩ đời nay họ khôn lắm, có khi ranh nữa, Và yêu thơ, thường ta chả nên biết người: thiệt thòi cho họ và thiệt thòi ngay cho mình. Nhưng yêu thơ Lư mà quen Lư vô hại, thì đời Lư cũng như một bài thơ. Nếu quả như người ta vẫn nói, thi sĩ là một kẻ ngơ ngơ ngác ngác, chân bước chập chững trên đường đời, thì có lẽ Lư thi sĩ hơn ai hết. Giá một ngày kia Lư có nhảy xuống sông ôm bóng trăng mà chết ta cũng không nên ngạc nhiên tí nào.
Trong thơ Lư, nếu có tả chim kêu hoa nở, ta chớ tin, hay ta hãy tin rằng tiếng kia màu kia chỉ có ở trong mộng. Mộng! Đó mới là quê hương của Lư. Thế giới thực của ta với bao nhiêu thanh sắc huy hoàng Lư không nghe thấy gì đâu. Sống ở thế kỷ hai mươi, ngày ngày nện gót giày xuống các con đường Hà Nội, mà người cứ mơ màng thấy mình gò ngựa ở những chốn xa xăm nào.
Cảnh mộng có khi cũng có màu sắc như chiếc cánh diều lững thững trên sườn núi hay con nai vàng ngơ ngác trong rừng thu. Nhưng thường ta chỉ thấy những cảnh rất mơ hồ, không có ở thời nay mà cũng không có ở thời nào. Hãy đọc bài "Thơ sầu rụng": Bóng người con gái quay tơ trong đó ẩn sau một màn mây mờ. Ta biết có nàng nhưng ta không thấy nàng và ta cũng chớ nên tìm nàng làm chi... Cứ để lòng trôi theo cái âm hưởng đặc biệt của bài thơ, ngân nga, dằng dặc, buồn buồn, đều như tiếng guồng xa... Sau bài thơ bát ngát một trời đất ta không hiểu, thi nhân cũng không hiểu.
Nhưng dầu sao con người mơ mông ấy cũng đã rơi xuống giữa cõi trần, người đã sống một cuộc đời rất thực ở trần gian. Có điều mỗi khi kể lại những chuyện thực trong đời mình, người để xen vào rất nhiều chuyện trong mộng. Nhưng chuyện dầu chuyện mộng, tình bao giờ cũng thực. Và mối tình chan chứa trong bài thơ bắt ta phải bồi hồi.
Đặc sắc của Lư chính là ở chỗ này. Từ những kỷ niệm tươi sáng về người mẹ đã khuất, cho đến bao nhiêu buồn thương , bao nhiêu chán nản, bao nhiêu đâu khổ vì tình yêu, cả cái cảnh đời giá lạnh của đôi vợ chồng lúc "tình đà xế bòng", cùng cái thú ngây ngất của cuộc đời " giang hồ". Lư đều kể cho ta nghe một cách rất cảm động.
Một điều rõ ràng: Đọc thơ người khác ta có thể tìm thấy nhiều bài âm điệu tinh tế hơn, nhiều hình ảnh xinh đẹp hơn, nhưng ít bài cảm động như thơ Lư. Ấy, chỉ vì Lư thành thực hơn. Hãy xem: tuy chẳng phải n của gia đình lư đã không ngần ngại mà nói đến vợ đến con, một điều các thi nhân ta gần đây hình như kiêng lắm.
Tôi bỗng nhớ câu nói của Pascal: "Tưởng kẻ viết là một nhà văn, không ngờ lại được gặp một người ".
Tôi biết có kẻ trách Lư cẩu thả, lười biếng, không biết chọn chữ, không chịu khó gọt dũa câu thơ. Nhưng Lư có làm thơ đâu, Lư chỉ để lòng mình tràn lan trên mặt giấy. Tình đã gửi trong lời thơ, Lư không còn đoái hoài đến nữa. Lư vứt chỗ này một bài, chỗ khác một bài, với cái phóng khoáng cả một kẻ khinh hết thảy những cái gì gọi là quý ở đời này. Sánh với những người yêu thơ Lư, Lư là người thuộc thơ mình ít nhất. Âu cũng là điều bất lợi. Một điều bất lợi nữa là trong khi thơ Việt Nam đương đi tìm nghệ thuật mới lạ, những tình cảm khuất khúc, những hình sắc phiền phức của thiên nhiên, thì Lư cũng chỉ có một ít khúc đàn bình dị, một ít khúc đàn xưa, dầu có đổi xoang đổi điệu cũng vẫn là những khúc đàn xưa.
Nhưng ngoài cái sở thích nhất thời còn những sở thích đời đời không thay đổi.
Bao giờ còn có những cặp vợ chồng nhớ tiếc buổi tân hôn thì những câu như:
Còn đâu ánh trăng vàng

Mơ trên làn tóc rối?......
Đêm ấy xuân vừa sang
Em vừa hai mươi tuổi.
vẫn khiến họ bâng khuâng.
Bao giờ còn có những kẻ say đắm tình yêu và đau khổ vì yêu thì những câu như:
Ta mơ trong đời hay trong mộng?

Vùng cúc bên ngoài động dưới sương.
hay:
Đợi đến luân hồi sẽ gặp nhau

Cùng em nhắc lại chuyện xưa sau.
Chờ anh dưới gốc sim già nhé!
Em hái đưa anh đoá mộng đầu.
vẫn tìm thấy những tiếng dội trong lòng người .
Dầu chưa lăn lóc trong trường tình, đọc thơ Lư người ta cũn phải bồi hồi vì cảnh phong ba ngoài kia, nơi thi nhân đương trôi nổi. Qua khung cửa bài thơ, ngọn gió lạnh ngoài khơi đưa tới, người ta sẽ thấy xao động cho dầu đã khép chặt cõi lòng để sông một cuộc đời êm ấm.
Sao lại có người có thể đọc những câu như thế mà vẫn dửng dưng. Họ bảo những nỗi đau thưong ấy thường quá. Vâng thường, thường lắm thường như hầu hết những nỗi đau thương thành thực của loài ngườị. Tôi không muốn nói nhiều. Trước sự đau thương của người bạn, tôi muốn im lìm kính cẩn. Tôi chỉ biết, dầu có ưa thơ người này hay người khác, mỗi lúc buồn đến, tôi lại trở về với Lưu Trọng Lư . Có những bài thơ cứ vương vấn trong trí tôi hằng tháng, lúc nào cũng như văng vẳng bên tai. Bởi vì Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức của lòng ta.
Mars 1941

Nắng mới
Mỗi lần nắng mới hắt bên song,
Xao xác gà trưa gáy não nùng,
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng,
Chập chờn sống lại những ngày không.
Tôi nhớ me tôi, thuở thiếu thời
Lúc người còn sống tôi lên mười;
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội,
Áo đỏ người đưa trước dậu phơi.
Hình dáng me tôi chửa xóa mờ
Hãy còn mường tượng lúc vào ra:
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè trước dậu thưa.
(Tiếng Thu)
Thơ Sầu Rụng
Vừng trăng từ độ lên ngôi\,
Năm năm bền cũ em ngồi quay tơ.
Để tóc vướng vần thơ sầu rụng,
Mái tóc buồn thơ cũng buồn theo.
Năm năm tiếng luạ xe đều...
Những ngày lạnh rớt, gió vèo trong cây.
Nhẹ bàn tay, nhẹ bàn tay,
Mùi hương hàng xóm bay đầy mái đông.
Nghiêng nghiêng mái tóc hương nồng,
Thời gian lặng rót một dòng buồn tênh.
(Tiếng Thu)
Giang hồ
Mời anh cạn hết chén này,
Trăng vàng ở cuối non tây ngậm buồn.
Tiếng gà đã rộn trong thôn,
Nửa đời phiêu lãng chỉ còn đêm nay.
Để lòng với rượu cùng say.
Chừ đây lời nói chua cay lạ thường!
Chừ đây đêm hãy đầy sương,
Con thuyền còn buộc, trăng buông lạnh lùng!
Chừ đây trăng nước não nùng,
Chừ đây hoa cỏ bên sông rũ buồn.
Tiếng gà lại rộn trong thôn...
Khoan đừng tơ tưởng vợ con chuyện nhà.
Giờ này còn của đôi ta,
Giang hồ rượu ấy còn pha lệ người.
Ồ sao rượu chẳng kề môi.
Lời đâu kiều diễm cho nguôi lòng chàng?
Tay em nâng chén hoàng hoa
Sá gì hớp rượu vì ta bận lòng,
Hãy gượm lắng nghe dòng sông chảy,
Gió đùa trăng trên bãi lạnh lùng.
Sá gì hớp rượu, bận lòng,
Đợi gì môi nhấp rượu nồng mới say?
Hãy nhích lại đưa tay ta nắm,
Rồi trong những phút giây lâu,
Mắt sầu gợn sóng, lòng đau rộn tình.
Phút giây ấy, ta mình ngây ngất,
Bỗng con thuyền buộc chặt, rời cây.
Cho ta khất chén rượu này,
Vì ta em hãy lựa dây đoạn trường.
Khoan để đốt chút hương trầm đã,
Đợi trầm bay rộn rã lời ca...
Nghe xong ta ngắm trời xa,
Dòng sông Ngân đã nhạt mờ từ lâu,
Tiếng gà đã gáy mau trong xóm,
Bình minh đà rạng khóm tre cồn
Trông nàng môi nhạt màu son,
Giật mình ta nhớ vợ con ở nhà,
Từ đấy chẳng bao giờ phiêu lãng,
Niềm thê nhi ngày tháng quen dần,
Đòi phen nhớ cảnh phong trần:
Bóng nàng ẩn hiện xa gần đâu đây.
Tưởng nghe tiếng gọi nơi hồ hải,
Mắt lệ mờ ta mải trông theo,
Trong buồng bỗng tiếng con reo,
Vội vàng khép cửa gió heo lạnh lùng. 
Đêm ấy rượu nàng ta không uống,
Từ sau thề không uống rượu ai.
Đôi phen ngồi ngóng chân trời,
Chẳng bao giờ nghĩ đến đời phiêu lưu.
Ngoan ngoãn như con cừu non dại,
Cỏ quanh vườn cắn mãi còn ngon.
Sau lưng nghe tiếng cười giòn,
Vội vàng ngoảnh lại... thằng con vẫn cười.
Nó đưa ta một chai rượu bé.
Bảo rằng: Đây, rượu mẹ dâng cha"
Giật mình ta mới nhớ ra:
Là ngày sinh nhật vợ ta đó mà!
Ta uống chẳng hoá ra lỗi hẹn,
Mà từ nan đâu vẹn đạo chồng!
Than ôi, trời giá đêm đông,
Máu du tử thực bên lòng hết sôi?
Chén lại chén kề môi thủ thỉ,
Càng vơi càng tuý luý càng đầy!
Lúc tỉnh rượu lặng ngồi bên án,
Trông vào gương, lằn trán có vôi,
Vợ con khúc khích đứng cười,
Còn ta vô ý lệ rơi xuống bàn.
Hết say vẫn bàng hoàng trong mộng,
Xót xa thay cái giống giang hồ!
Ngón đàn thêm một đường tơ,
Mà người sương gió nghìn thu nhọc nhằn.
Thôi rồi ra chốn nước non,
Lòng son lại để sổ con chim trời,
Thú hồ bể quyến mời du tử.
Niềm thê nhi khôn giữ được người
Biết sao trái được tính trời.
Giang hồ cốt ấy chọn đời phiêu linh...
(Tiếng thu)
Tình điên
Hôm ấy trăng thu rụng dưới cầu,
Em cười em nói suốt canh thâu;
Yêu nhau những tưởng yêu nhau mãi,
Tình đến muôn năm chửa bạc đầu...
Ngày tháng trôi xuôi với ái ân...
Bên cầu lá rụng đã bao lần!. . . .
Tình ái hay đâu mộng cuối giời...
Nhầm nhau giây lát hận muôn đời
Kẻ ra: non nước, người thành thị,
Đôi ngả tình đi, người mỗi nơi.
Hôm nay ngồi ngóng ở bên song
Ta được tin ai mới lấy chồng
Cười chửa dứt câu, tình đã vội...
Nàng điên trên "gối mộng" người thương.
Ta mơ trong đời hay trong mộng?
Vùng cúc bên ngoài, động dưới sương.. . .
Ta hát dăm câu vô nghĩa lý:
Lá vàng bay lả vào buồng ta
Ta viết dăm câu vô nghĩa lý
Người điên xem đến hiểu lòng ta.
(Tiếng Thu)
Tiếng thu
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
(Tiếng Thu)
Còn chi nữa
Giờ đây hoa hoang dại
Bên sông rụng tơi bời
Đã qua rồi cơn mộng,
Đừng vỗ nữa, tình ơi!
Lòng anh đã rời rụng
Trên sông ngày tàn rơi.
Tình anh đà xế bóng,
Còn chi nữa, em ơi?
Còn đâu ánh trăng vàng
Mơ trên làn tóc rối?
Chân nâng trên đường sỏi,
Sương lá đổ rộn ràng.
Trăng nội vẫn mơ màng
Trên những vòng tóc rối?
Đêm ấy xuân vừa sang
Em vừa hai mươi tuổi
Còn đâu những giờ nhung lụa:
Mộng trùm trên bông
Tình ấp trong gối
Rượu tân hôn không uống cũng say nồng?
Còn đâu mùi cỏ lạ
Ướp trong mớ tóc mây?
Một chút tình thơ ngây
Không còn trên đôi má.
(Tiếng Thu)
Xuân về
Năm vừa rồi
Chàng cùng tôi
Nơi vùng Giáp Mộ
Trong gian nhà cỏ
Tôi quay tơ,
Chàng ngâm thơ
Vườn sau oanh giục giã,
Nhìn ra hoa đua nở
Dừng tay tôi kêu chàng:
"Này, này! bạn! xuân sang"
Chàng nhìn xuân mặt hớn hở
Tôi nhìn chàng lòng vồn vã...
Rồi ngày lại ngày
Sắc màu: phai
Lá cành: rụng
Ba gian: trống
Xuân đi
Chàng cũng đi.
Năm nay xuân còn trở lại
Người xưa không thấy tới.
(Tiếng Thu)
Một mùa đông
I
Đôi mắt em lặng buồn
Nhìn thôi mà chẳng nói;
Tình đôi ta vời vợi
Có nói cũng không cùng.
Yêu hết một mùa đông
Không một lần đã nói;
Nhìn nhau buồn vời vợi
Có nói cũng không cùng.
Giời hết một mùa đông
Gió bên thềm thổi mãi;
Qua rồi muà ân ái:
Đàn sếu đã sang sông.
Em ngồi trong song cửa
Anh đứng dựa tường hoa;
Nhìn nhau và lệ ứa:
Một ngày một cách xa.
Đây là giải Ngân hà;
Anh là chim Ô thước
Sẽ bắc cầu nguyện ước
Một đêm một lần qua.
Để mặc anh đau khổ
Ái ân, giờ tận số
Khép chặt đôi cánh song!
Khép cả một tấm lòng.
II
Em là gái trong song cửa,
Anh là mây bốn phương trời;
Anh theo cánh gió chơi vơi.
Em vẫn nằm trong nhung lụa.
Em chỉ là người em gái thôi,
Người em sầu mộng cuả muôn đời
Tình em như tuyết dăng đầu núi
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời.
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau khổ?
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ
Cho vương víu nợ thi nhân?
Ai bảo em là giai nhân
Cho lệ tràn đêm xuân?
Cho tì nh tràn trước ngõ,
Cho mộng tràn gối chăn?
III
Ngày hôm tiễn biệt buồn say đắm,
Em vẫn đuà nô uống rượu say.
Em có biết đâu đời vắng lạnh,
Lạnh buồn như ngọn gió heo may.
Môi em đượm sặc mùi nho tươi;
Đôi má hồng em chúm nụ cười;
Đôi mắt em say mầu sáng lạn;
Trán em để lỏng làn tóc lơi.
Tuy môi em uống lòng anh say,
Lời em càng nói, càng chua cay.
Anh muốn van em đừng nói nữa,
Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay.
IV
Hãy xếp lại muôn vàn ân aí,
Đừng trách nhau đừng aí ngại nhau,
Thuyền yêu không ghé bến sầu
Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng.
Hãy như chiếc sao băng băng mãi
Để lòng buồn, buồn mãi không thôi
(Tiếng Thu)
Chiều cổ
Chiều sương, rừng tía, lệ muôn hàng.
San sát ghe đầy bến Trúc lang.
Cây, nước, say theo người tráng sĩ;
Con đò quên cả chuyến sang ngang.
(Tiếng thu)
Điệu huyền
Những điệu huyền bay, lạc khắp thôn
Từng nhà, đây đó hẹn nhau buồn.
Có cô dâu mới nhìn sông nước
Sực nhớ quê nhà giọt lệ tuôn.
(Tiếng Thu)
Thú đau thương
Tình đã len trong màu nắng mới,
Lòng anh buồn vời vợi, em ơi!
Niềm yêu run động đôi môi
Tình đầy khôn lựa được lời thắm tươi.
Đã héo lắm nụ cười trong mộng,
Đã mờ mờ lắm bóng thân yêu,
Đã lam tím cả cảnh chiều,
Trong hồn lặng đã hiu hiu mộng tàn.
Để chăn gối im nằm chỗ cũ,
Hãy lịm người trong thú đau thương!. . .
(Tiếng Thu)
Nguyễn Nhược Pháp

Con nhà văn hào Nguyễn Văn Vĩnh. Sinh ngày 12 Décembre 1914 ở Hà Nội , mất ngày 19 Novembre 1938. Học ở Hà Nội. Có bằng tú tài Tây.
Làm thơ từ năm 1932. Ngoài thơ có viết nhiều truyện ngắn và kịch.
Có viết giúp: Annam nouveau, Hanoi báo, Tinh hoa, Đông Dương tạp chí.
Đã xuất bản: Ngày xưa (1935).
Thơ in ra rất ít mà được người ta mến rất nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp.
Không mến sao được? Với đôi ba nét đơn sơ, Nguyễn Nhược Pháp đã làm sống lại cả một thời xưa. Không phải cái thời tráng lệ hay mơ màng của Huy Thông, mà là một thời xưa gồm những màu sắc tươi vui, những hình dáng ngộ nghĩnh. Thời xưa ở đây đã mất hết cái vẻ rầu rĩ cố hữu và đã biết cười, cái cười của những "thắt lưng dài đỏ hoe", những đôi "dép cong" nho nhỏ. Những cảnh ấy vốn có thực. Nhưng dầu sự thực không có thì nhà thơ sẽ tạo ra, khó gì Mặc cho những nhà khảo cổ cặm cụi tìm nguyên do câu chuyện hai vị thần giành nhau một nàng công chúa, thi nhân cứ cho là có thực và người thấy khi Thuỷ Tinh đã bắt quyết gọi mưa để khoe tài, thì Sơn Tinh chẳng chịu thua, liền:
Vung tay niệm thần chú. Núi từng dải,

Nhà lớn, đồi con lổm cổm bò
Chạy mưa.
Sáng hôm sau, Thuỷ Tinh cưỡi rồng vàng đến xin cưới:
Theo sau cua đỏ và tôm cá,

Chia độ năm mươi hòm ngọc trai,
Khập khễnh bò lê trên đất lạ;
Trước thành tấp tểnh đi hai hàng.
Nhưng chậm mất rồi. Sơn Tinh đã đến trước. Tức quá THuỷ Tinh liền ra lệnh cho bọn đồ đệ dương oai:
Cá voi ngoác mồm to muốn đớp;

Cá mập vẫy đuôi cuồng nhe răng;
Càng cua lởm chởm giơ như mác;
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Ai xem những cảnh ấy mà không buồn cười. Thi nhân cũng chỉ muốn thế: kiếm chuyện cười chơi.
Cũng có khi người cười những nhân vật chính người đã tạo ra, như cái cô bé đi chùa Hương trong thiên ký sự chép những câu thật thà:
Em đi, chàng theo sau.

Em không dám đi mau,
Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giàu.
Có khi chẳng biết người muốn cười ai. Sau khi tả cái đẹp của Mỵ Nương, người thêm một câu:
Mê nàng bao nhiêu người làm thơ,

Người vờ ngớ ngẩn để kiếm cớ giễu mình chơi, hay người muốn giễu những kẻ đứng trước gái đẹp bỗng thấy hồn thơ lai láng?
Lại có khi không giễu mình không giễu người, thi nhân cũng cười: cười vì cảnh ngộ. Như khi Sơn Tinh và Thuỷ Tinh cùng đến hỏi Mỵ Nương, Hùng Vương sung sướng nhìn con
Nhưng có một nàng mà hai rể,

Vua cho rằng thế cũng hơi nhiều.
Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, lúc nào hình như cũng thoáng thấy bóng người đương khúc khích cười. Nhưng cái cười của Nguyễn Nhược Pháp khác xa những lối bông lơn khó chịu của các ông tú, từ Tú Xuất, Tú Xương, đến Tú Mỡ. Nó hiền lành và thanh tao. Nội chừng ấy có lẽ cũng đủ cho nó một địa vị trên thi đàn. Nhưng còn có điều này nữa mới thật đáng quý: với Nguyễn Nhược Pháp nụ cười trên miệng bao giờ cũng kèm theo một ít cảm động trong lòng. Những cảnh, những người đã khiến thi nhân cười cũng là những cảnh, những người thi nhân mến. Người mến cô bé đi chùa Hương và cùng cô bé san sẻ mọi nỗi ước mơ, sung sướng, buồn rầu. Người mến nàng Mỵ Nương. Lúc Mỵ Nương từ biệt cha đi theo chồng, người thấy:
Lầu son nàng ngoái trông lần nữa,

Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
rồi:
Nhìn quanh khói toả buồn man mác,

Nàng kêu: "Phụ vương ôi! Phong Châu!"
Một điều lạ là những câu tình tứ như thế ghép vào bên cạnh những câu buồn cười mà không chút bỡ ngỡ. Cái duyên của Nguyễn Nhược Pháp là ở đó. Chắc Nguyễn Nhược Pháp không chịu ảnh hưởng của A.France, nhưng xem "Ngày xưa" tôi cứ nhớ đến cái duyên của tác giả "Le livre de mon ami". Phải chăng Nguyễn Nhược Pháp cũng hay giễu đời và thương người như ẠFrance? Không? nói giễu đời e không đúng. Nguyễn Nhược Pháp chỉ muốn tìm những cảnh, những tình có thể mua vui. Dầu sao tôi thấy Nguyễn Nhược Pháp già lắm, khác hẳn người bạn chí thân của người là Huy Thông. Người nhìn đời như một ông già nhìn đàn trẻ con rất ngộ ngĩnh và cũng rất dễ yêu, mặc dầu người vẫn còn trẻ lắm. Người mất năm hai mươi bốn tuổi, lòng trong trắng như hồi còn thơ.
Octobre 1941

Tay ngà
Đêm nay chờ trăng mọc,
Ngồi thẩn thơ trong vườn,
Quanh lá hoa róc rách
Như đua bắt làn hương.
Ta ngồi bên tảng đá
Mơ lều chiếu ngày xưa,
Mơ quan Nghè, quan Thám
Đi có cờ lọng đưa.
Rồi bao nàng yểu điệu
Ngấp nghé bay trên lầu;
Vừa leng keng tiếng ngựa,
Lẹ gót tiên gieo cầu.
Tay vơ cầu ngũ sắc,
Má quan Nghè hây hây.
Quân hầu reo chuyển đất,
Tung cán lọng vừa quay.
Trên lầu mấy thị nữ
Cùng nhau rúc rích cười:
"Thưa cô đừng thẹn nữa
Quan Nghè trông lên rồi".
Cúi đầu nàng tha thướt,
Yêu kiều như mây qua.
Mắt xanh nhìn man mát,
Mỉm cười vê cành hoa.
Ta còn đang luyến mộng,
Yêu bóng người vẩn vơ;
Tay ngà ai phủ trán?
- Hiu hắt ánh trăng mờ...
(Ngày Xưa)
Chùa Hương
(Thiên ký sự của một cô bé ngày xưa)
Hôm nay đi Chùa Hương.

Hoa cỏ mờ hơi sương.
Cùng thầy me em dậy.
Em vấn đầu soi gương.
Khăn nhỏ, đuôi gà cao;
Em đeo giải yếm đào;
Quần lĩnh, áo the mới;
Tay cầm nón quai thao.
Me cười: "Thầy nó trông!
Chân đi đôi giép cong,
Con tôi xinh xinh quá!
"Bao giờ cô lấy chồng?"
- Em tuy mới mười lăm
Mà đã lắm người thăm,
Nhờ mối mai đưa tiếng,
Khen tươi như trăng rằm.
Nhưng em chưa lấy ai,
Vì thầy bảo người mai
Rằng em còn bé lắm!
Ý đợi người tài trai -
Em đi cùng với me.
Me em ngồi cáng tre.
Thầy theo sau cưỡi ngựa,
Thắt lưng dài đỏ hoe.
Thầy me ra đi đò.
Thuyền mấp mênh bên bờ.
Em nhìn sông nước chây
Đưa cánh buồm lô nhô.
Mơ xa lại nghĩ gần,
Đời mấy kẻ tri âm?
Thuyền nan vừa lẹ bước,
Em thấy một văn nhân.
Người đâu thanh lạ thường!
Tướng mạo trông phi thường.
Lưng cao dài, trán rộng.
Hỏi ai nhìn không thương?
Chàng ngồi bên me em,
Me hỏi chuyện làm quen:
"Thưa thầy đi chùa ạ?
Thuyền đông trời ôi chen!"
Chàng thưa vâng thuyền đông!
Rồi ngắm trời mênh mông,
Xa xa mờ núi biếc,
Phơn phớt áng mây hồng.
Dòng sông nước đục lờ.
Ngâm nga chàng đọc thơ!
Thầy khen hay hay quá!
Em nghe rồi ngẩn ngơ.
Thuyền đi, bến Đục qua.
Mỗi lúc gặp người ra,
Thẹn thùng em không nói:
"Nam vô A Di Đà!"
Réo rắt suối đưa quanh,
Ven bờ, ngọn núi xanh,
Nhịp cầu xa nho nhỏ:
Cảnh đẹp gần như tranh.
Sau núi Oản, Gà, Xôi,
Bao nhiêu con khỉ ngồi\,
Tới núi con Voi phục,
Có đủ cả đầu đuôi.
Chùa lấp sau rừng cây.
(Thuyền ta đi một ngày)
Lên cửa chùa em thấy
Hơn một trăm ăn mày.
Em đi, chàng theo sau.
Em không dám đi mau,
Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giầu.
Thầy me đến điện thờ.
Trầm hương khói tỏa mờ.
Hương như là sao lạc.
Lớp sóng người lô nhô.
Chen vào thật lắm công.
Thầy me em lễ xong
Quay về nhà ngang bảo:
"Mai mới vào chùa trong."
Chàng hai má đỏ hồng
Kêu với thằng tiểu đồng
Mang túi thơ bầu rượu:
"Mai ta vào chùa trong!"
Đêm hôm ấy em mừng!
Mùi trầm hương bay lừng.
Em nằm nghe tiếng mõ,
Rồi chim kêu trong rừng.
Em mơ, em yêu đời!
Mơ nhiều... Viết thế thôi!
Kẻo ai mà xem thấy
Nhìn em đến nực cườị
Em chưa tỉnh giấc nồng,
Mây núi đã pha hồng.
Thầy me em sắp sửa
Vàng hương vào chùa trong.
Đường mây đá cheo veo,
Hoa đỏ, tím, vàng leo.
Vì thương me quá mệt,
Săn sóc chàng đi theo.
Me bảo: "Đường còn lâu,
Cứ vừa đi ta cầu
Quan Thế Âm Bồ tát
Là tha hồ đi mau!"
Em ư? Em không cầu,
Đường vẫn thấy đi mau\,
Chàng cũng cho như thế.
(Ra ta hợp tâm đầu).
Khi qua chùa Giải-oan,
Trông thấy bức tường ngang,
Chàng đưa tay, lẹ bút
Thảo bài thơ liên hoàn.
Tấm tắc thầy khen hay,
Chữ đẹp như rồng baỵ"
(Bài thơ này em nhớ,
Nên chả chép vào đây).
Ôi! Chùa trong đây rồi!
Động thắm bóng xanh ngời.
Gấm thêu trần thạch nhũ,
Ngọc nhuốm hương trầm rơi.
Me vui mừng hả hê:
"Tặc! Con đường mà ghê!"
Thầy kêu: "Mau lên nhé!
Chiều hôm nay ta về."
Em nghe bỗng rụng rời!
Nhìn ai luống nghẹn lời!
Giờ vui đời có vậy,
Thoảng ngày vui qua rồi!
Làn gió thổi hây hây.
Em nghe tà áo bay,
Em tìm hơi chàng thở!
Chàng ôi, chàng có hay?
Đường đây kia lên trời.
Ta bước tựa vai cười,
Yêu nhau, yêu nhau mãi!
Đi, ta đi, chàng ôi!
Ngun ngút khói hương vàng,
Say trong giấc mơ màng,
Em cầu xin Trời Phật
Sao cho em lấy chàng.
(Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người lấy nhau, vì không lấy được nhau thì cô bé còn viết nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện.)
(Ngày Xưa)
Phan Văn Dật

Sinh ngày 17 Aoút 1909 ở làng Phú Xuân, huyện Hương Trà (Thừa Thiên). Chánh quán: làng Đạo Dầu, phủ Triệu Phong (Quảng Trị). Học trường Quốc học Huế đến đậu thành chung. Hiện làm thư ký ngạch trước bạ Huế.
Viết văn từ 1924, đến 1927 có thơ đăng Nam Phong, Thần Kinh, Rạng Đông, (ký Tiêu Lang và Thường Nga Phố).
Đã xuất bản: Bâng Khuâng (1935).
Hồi Décembre 1935 tôi có viết trên báo "Tràng An" một bài về quyển Bâng Khuâng. Nay xem lại thơ Phan Văn Dật cảm tưởng vẫn không khác xưa. Vậy xin trích mấy đoạn chính trong bài thơ ấy.
Trong làng thơ, Phan Văn Dật thuộc về phái thanh niên. Nhưng có lẽ thanh niên vì tuổi hơn vì thơ. Giữa lúc ấy một luồng không khí mới thúc giục người ta thoát ly gia đình, Phan Văn Dật đã dám ca tụng cái tình cha con, anh em; sách của người, người đề tặng song thân, tưởng ngày nay cũng là một điều ít có.
Những điều người mơ ước cũng giống hệt những điều mơ ước của các cụ ta ngày xưa: một cuộc đời bình dị nơi thôn dã. Tôi thấy ở người cái lòng chán nản, hơn nữa cái lòng căm giận những nơi đô hội. Mối hận dài trong thơ Phan Văn Dật sẽ chẳng là cái hận của Dương Quý Phi bị hy sinh vì lẽ nước, nó là cái hận một người đàn bà bị sức quyến rũ của thành thị cướp mất chồng con. Nguyễn Nhược Pháp với tập "Ngày xưa" đã nhìn vào cảnh vật xưa bằng con mắt một người thời nay, Phan Văn Dật với tập "Bâng khuâng" đã nhìn cảnh vật ngày nay sau bức màn một tâm hồn xưa.
Giữa cuộc đời náo động, người ngoảnh mặt làm ngơ và tự tạo cho mình một thế giới riêng, một thế giới lặng lẽ đầy mơ mộng. Cuộc đời như thế ắt sẽ bằng phẳng vô sự. Nhưng chỉ vô sự đối với những con mắt không tinh. Thực ra trong lòng thi nhân không phải là vô sự: thi nhân không thiết chuyện hằng ngày nhưng vẫn luôn luôn sống với một cuộc đời đã qua rất phong phú:
Tôi không hay hưởng cùng cái hiện tại.

Hững hờ, tôi thường để nó đi qua.
Chuyện ngày nay sau tôi sẽ xót xa,
Tôi chỉ tiếc những giờ không trở lại.
"Những giờ không trở lại" đó, Phan Văn Dật nhắc đến một cách âu yếm. Nào những mối tình xưa, xa hơn nữa, những cảm hoài thời thơ ấu, những khi nô đùa với những trẻ con hàng xóm, những khi anh em dắt tay nhau vơ vẩn trong vườn:
Vào buổi bình minh, năm ấy xưa,

Trong vườn đào lý, phủ sương mờ,
Dắt tay hai trẻ tìm hoa rụng,
Mơ chuyện thần tiên, nghĩ vẩn vơ.
Những cảnh ấy đã qua trong đời mình có khi thi nhân để lẫn với những cảnh đã qua mấy mươi năm đời trước. Nhân biệt một người bạn, Phan Văn Dật đã thay lời người đàn bà xưa tiễn chồng đi lính viết lên những câu nhịp nhàng và cảm động. Nỗi buồn riêng ấy của thi nhân còn khiến người nghĩ liên miên đến những nỗi đau đớn của người xương phụ cùng cái ngao ngán vì mọi cuộc tang thương.
Nói cho đúng, thi nhân chẳng phải hoàn toàn sống trong cảnh xưa cảnh mộng và cái thế giới chung quanh tuyệt không có trong con mắt thi nhân. Người cũng biết say vì cảnh đẹp thoáng qua trước mắt. Có lúc bỗng sực nhớ mình là một trai trẻ đương tuổi yêu, nghệ sĩ nắn mấy vần thơ:
Ca ngợi tình yêu, vẻ đẹp em,

Lời thơ réo rắt tôi săn tìm.
Cậy người mang tặng cho em đọc,
Em để vào ngăn em chẳng xem.
Thì xưa nay vẫn thế!
Thơ Phan Văn Dật không rực rỡ không réo rắt, không hùng tráng, khong làm tha bồi hồi ngây ngất, nhưng vẫn khiến ta ưa đọc: nó là những vần thơ dễ thương. Ta không cảm phục mà ta lưu luyến, cũng như ta lưu luyến đất Kinh đô là nơi quê hương của thi nhân. Người yêu văn sẽ xem thi nhân như bạn nếu không thể xem như thầy.
Chính Phan Văn Dật cũng không muốn làm thầy ai. Người vốn biết:
Sự hoàn toàn tìm kiếm chỉn thêm hoài.

Ngọc lành là chuyện nói mà chơi,
Chớ kể ngọc nào không có vết!
Déccembre 1935

Tiễn đưa
(Lời một người đàn bà xưa đưa chồng đi lính)
Ngày mai chàng lên đường,

Thân gió bụi tuyết sương,
Tối nay con với thiếp,
Xin cạn chén quỳnh tương.
Chàng mặc áo nhung này,
Thiếp vì chàng mới may,
Thiếp dù xa chân ngựa,
Tơ lòng theo chàng bay.
Đừng nghĩ đến ngày mai!
Hôm nay biết hôm nay,
Thiếp đây mà chàng đó,
Chừng ấy là đủ rồi.
Ngày mai chàng ruổi xa,
Mặc kẻ nước mắt sa,
Yên ngựa rong đường thẳng,
Thức dậy lúc canh gà.
Ngày mai khi chàng về,
Dù thiếp chống gậy lê,
Xin vì chàng dâng rượu.
Tình xưa canh chén thề.
Rồi bên chàng có thiếp,
Giấc hoè cùng thiêm thiếp,
Yêu nhau đến trăm năm
Phong trần cho bõ kiếp.
29-10-1927
(Bâng khuâng)
Bỉ xuân nương
(Một người khách qua chơi xóm Bình-khang gặp kẻ cố nhân là Bi Xuân Nương, nhân hỏi vì sao đến đỗi. Bi Xuân Nương rơi luỵ mà tặng cho khách bài này)
Em là gái giang hồ,

Hầu hạ người khách du;
Vì tiền khách bán thịt
Mặc lòng khách giày vò.
Khách bảo gì em vâng,
Dám thương chút bụi trần,
Hôm nay em của khách,
Quì gối, tuỳ lượng xuân,
Em đã bán mình rồi,
Nhị đào người chán chơi.
Mình băng từ bùn nhuộm
Hoa trôi mặc sóng dồi.
Khách nhắc gì chuyện cũ?
Nẫu ruột đứa xương phụ!
Hãy bằng lòng mình em,
Hồn em tha cho nó!
Gặp nhau đừng nhớ nhau,
Em đau mà khách đau.
Đừng trêu nhau nợ cũ,
Dòng châu thả dòng châu.
Muốn hỏi xin đừng hỏi
Biết ra chi thêm tủi.
Cố nhân gì em đây?
Đồ chơi cho trăm mối
Thương nhau còn một quên!
Quên là thương nhau bền.
Khách không hay em đã...
Em còn được khách tin.
Gạt lệ thôi làm lơ,
Khách vui mà em nhờ,
Mấy lời muôn thu giận
Ruột tằm chưa hết tơ.
29-10-1927
(Bâng khuâng)
Nàng con gái họ Dương
Năm xưa ta lại chốn này,
Hồ thu nước mới chau mày với thu.
Nàng Dương mười bốn hái dâu,
Hoa non đâu đã biết sầu vì thu.
Năm sau ta đến chốn này,
Nàng Dương tóc đã đến ngày cài trâm.
Chiều xuân hoen hoẻn trăng rằm,
Con ong lén gửi thơ thầm ngoài hiên
Qua năm ta lại chốn này,
Ngựa xe chen bước dấu dày in sân.
Phòng khuê cửa đóng mấy tầng,
Chim xanh mỏi cánh mấy lần về không.
Rồi năm ta lại chốn này,
Nàng Dương mở cửa suốt ngày đợi tin.
Thềm ba khách vắng rêu in,
Cành hoa năm ngoái ai vin năm này?
Năm nay ta lại chốn này,
Lầu không chim vắng, chim bay đằng nào?
Hỏi người có biết tăm hao,
Láng giềng rằng có cô nào đâu đây!
29-10-1927
(Bâng khuâng)
Hoài Thanh - Hoài Chân - Thi nhân Việt Nam
Theo http://diendan.vtcgame.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...